Tiểu luận Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này

doc 50 trang yendo 13771
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctieu_luan_hay_phan_tich_nhung_bat_on_thuong_gap_hien_nay_tro.doc

Nội dung text: Tiểu luận Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ TÊN ĐỀ TÀI: Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này Sinh viên thực hiện Mã sinh viên STT Đào Thị Hằng( Nhóm trưởng) 1211510017 42 Nguyễn Thị Linh 1211510039 76 Trần Thị Hồng Ngọc 1211510050 89 Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan Hà Nội, 30 tháng 9 năm 2013
  2. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ MỤC LỤC A, MỞ ĐẦU 3 1) LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 3 2) MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 3 3) PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 3 4)ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 3 B, PHẦN NỘI DUNG: 4 CHƯƠNG 1): NHỮNG BẤT ỔN THƯỜNG GẶP HIỆN NAY TRONG HỆ THỐNG CÁC NHTM CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 4 I. Rủi ro tín dụng (nợ xấu): 4 1) Khái niệm 4 2) Các hình thức của rủi ro tín dụng: 5 3) Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 5 4) Một số ngân hàng thương mại thế giới và rủi ro tín dụng: 8 II. Rủi ro lãi suất: 10 1) Khái niệm: 10 2) Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất: 10 3) Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động ngân hàng: 11 4) Một số ngân hàng thế giới và rủi ro lãi suất: 11 III. Rủi ro thanh khoản: 13 1) Khái niệm : 13 2) Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản: 14 3) Nhìn lại nguyên nhân rủi ro thanh khoản tại một số nước trên thế giới: 14 IV. Rủi ro tỷ giá hối đoái: 16 1) Khái niệm : 16 2) Nguyên nhân dẫn đến phát sinh rủi ro ngoại hối đối với một ngân hàng:.16 3) Ví dụ về rủi ro tỷ giá hối đoái: 16 V. Rủi ro sở hữu chéo: 17 1) Khái quát về sở hữu chéo 17 VI. Rủi ro nguồn vốn: 20 1) Khái niệm: 20 2) Phân loại 20 VII. Rủi ro đạo đức : 21 1) Khái quát : 21 2) Ví dụ về rủi ro đạo đức: 22 VIII. Một số rủi ro khác: 23 1) Rủi ro thuần túy: 23 2) Rủi ro hệ thống: 23 3) Rủi ro pháp lý: 23 CHƯƠNG 2): NHỮNG ỨNG PHÓ CỦA NHTW CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ĐỐI VỚI NHỮNG BẤT ỔN THƯỜNG GẶP HIỆN NAY TRONG HỆ THỐNG CÁC NHTM CÁC NƯỚC NÀY. 24 Page 1
  3. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ I. Giới thiệu chung về NHTW 24 1) Khái niệm chung về NHTW 24 2) Các chức năng của NHTW trong nền kinh tế hiện đại 24 II. Ứng phó của NHTW đối với những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM của các nước trên thế giới 25 1) Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng của NHTW 26 2) Biện pháp ứng phó của NHTW đối với rủi ro thanh khoản của NHTM 30 3) Ứng phó của NHTW về rủi ro tỉ giá hối đoái của NHTM 31 4) Ứng phó của NHTW về rủi ro lãi suất của NHTM 33 5) Ứng phó của NHTW đối với rủi ro nguồn vốn của NHTM 34 6) Ứng phó của NHTW về rủi ro sở hữu chéo của NHTM 34 7) Ứng phó của NHTW đối với rủi ro thuần túy 35 8) Ứng phó của NHTW đối với rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM 36 III. Tổng kết về vai trò của NHTW trong việc giúp các NHTM giải quyết rủi ro 36 CHƯƠNG 3): NHỮNG BẤT ỔN THƯỜNG GẶP HIỆN NAY TRONG HỆ THỐNG CÁC NHTM Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG ỨNG PHÓ CỦA NHTW VIỆT NAM. 37 I. Rủi ro tín dụng (Nợ xấu) 37 1) Thực trạng nợ xấu ở Việt Nam: 37 2) Một số nguyên nhân khiến nợ xấu tăng nhanh: 40 3) Ứng phó của NHTW ở Việt Nam: 40 4) Bài học kinh nghiệm cho các NHTM ở Việt Nam: 42 II. Rủi ro thanh khoản. 42 1) Thực trạng rủi ro thanh khoản ở Việt Nam: 43 2) Một số ví dụ điển hình: 43 3) Giải pháp ứng phó của NHTW Việt Nam: 44 4) Bài học kinh nghiệm cho các NHTM Việt Nam 44 III. Rủi ro lãi suất 45 1) Thực trạng rủi ro lãi suất ở Việt Nam 46 2) Một số ví dụ điển hình: 46 3) Giải pháp ứng phó của NHTW Việt Nam 46 4) Bài học kinh nghiệm cho các NHTM ở Việt Nam 46 C, KẾT LUẬN: 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO: 49 Page 2
  4. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ A, Mở đầu 1) Lí do chọn đề tài:  Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường mở, hệ thống các ngân hàng thương mại trên khắp thế giới phát triển mạnh mẽ và đa dạng. Sự phát triển của các ngân hang thương mại có tác động rất lớn đến nền kinh tế các nước đó cũng như trên khắp thế giới.  Bên cạnh những thuận lợi có được, các Ngân hàng thương mại (NHTM) cũng gặp không ít các bất ổn khó giải quyết.Nhưng nhờ có sự can thiệp của ngân hàng Trung ương(NHTW), hệ tống ngân hàng các nước trên khắp thế giới đã dần ổn định và phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu. Như vậy hiện nay hệ thống các NHTM cũng như NHTW đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế khu vực cũng như toàn cầu. Trong quá trình tìm hiểu nhận thấy tính thiết thực và quan trọng của việc phân tích bất ổn thường gặp của hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và cách ứng phó của ngân hàng trung ương nên nhóm chúng em quyết định chọn đề tài 1 Tên đề tài: “Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này” 2) Mục đích nghiên cứu:  Nhằm thống kê, chỉ ra những bất ổn hiện nay trong hệ thống các NHTM cũng như các ứng phó của NHTW trước những bất ổn đó. Từ đó giúp mọi người có cái nhìn tổng quan hơn về NHTM và NHTW.  Làm rõ nguyên nhân gây ra rủi ro và đánh giá rủi ro hoạt động trong các ngân hàng thương mại trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.  Chỉ ra một số hoạt động quản trị rủi ro có hiệu quả 3) Phương pháp nghiên cứu:  Phương pháp thu thập thông tin: o Nghiên cứu tài liệu. o Phi thực nghiệm.  Phương pháp ngiên cứu tài liệu  Phương pháp quan sát.  Phương pháp thực nghiệm.  Phương pháp phân tích và hệ thống hóa. 4) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:  Đối tượng nghiên cứu: bất ổn thường gặp trong hệ thống NHTM và cách ứng phó của NHTW trên thế giới.  Phạm vi nghiên cứu: o Phạm vi không gian: Trên thế giới. o Phạm vi thời gian: Từ năm 2000-2013. Page 3
  5. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ B, Phần nội dung: Chương 1) : Những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM của các nước trên thế giới. Không một loại hình doanh nghiệp nào mà không phải đối đầu với nguy cơ rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nhưng với các đặc điểm, đặc thù của ngân hàng thương mại có thể kết luận hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ- tín dụng của ngân hàng gặp phải nguy cơ rủi ro cao hơn cả. Người ta có thể khái quát các loại rủi ro ( vấn đề bất ổn) của các ngân hàng thương mại như sau: I. Rủi ro tín dụng (nợ xấu): 1) Khái niệm Đó là loại rủi ro khi người vay không trả được nợ ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây thiệt hại nhiều nhất cho ngân hàng thương mại. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng đầu tư. Thông thường đối với các ngân hàng trên thế giới nó mang lại 2/3 phần thu nhập, còn ở Việt Nam là 90% thu nhập của ngân hàng thương mại. Tuy mang lại nhiều thu nhập nhưng trong lĩnh vực này nếu gặp rủi ro thì hậu quả sẽ rất lớn, nhiều khi dẫn đến sự phá sản của một ngân hàng. “Các khoản tiền cho vay có xác suất vỡ nợ cao hơn các tài sản khác nên các ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ vào các món cho vay”. Bất cứ một rủi ro nào của người đi vay đều có thể đưa đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa, ngay cả những hoạt động phi sản xuất cũng không thể thiếu sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Chính vì tín dụng ngân hàng tham gia vào mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi lĩnh vực của nền kinh tế, mà mỗi ngành mỗi lĩnh vực kinh doanh lại có tính đặc thù, có sự phức tạp riêng, có những rủi ro riêng nên rủi ro tín dụng của ngân hàng mang tính tổng hợp và khả năng suất hiện là lớn hơn các ngành khác. 2) Các hình thức của rủi ro tín dụng: Page 4
  6. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở 4 trương hợp đối với nợ lãi và nợ gốc. Đó là việc không thu được lãi đúng hạn hoặc không thu đủ lãi, không thu được vốn đúng hạn hoặc không thu đủ vốn. Tùy trường hợp mà ngân hàng hạch toán vào các khoản mục theo dõi khác nhau như lãi treo hoặc nợ quá hạn. Khi không thu được lãi đúng hạn ,nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ đưa vào mục lãi treo phát sinh. N ếu ngân hàng không thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản mục lãi treo đóng băng, trừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lãi đó cho doanh ngiệp. Còn khi không thu được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có khoản nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên, khoản này vẫn chưa thể coi là khoản mất mát hoàn toàn của ngân hàng vì có thể vì lý do nào đó doanh nghiệp chậm trả nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết trong hợp đồng. Nếu như khoản này ngân hàng không thể thu hồi được (do doanh nghiệp bị phá sản chẳng hạn) thì lúc này ngân hàng coi như gặp rủi ro tín dụng ở mức độ cao vì đã phát sinh khoản nợ không có khả năng thu hồi, trừ những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp vay vốn hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về xoá nợ thì ngân hàng có thể xem xét để xoá nợ cho doanh nghiệp. Rủi ro tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức, các hình thức đó luôn chuyển biến cho nhau, mà mức độ cuối cùng là nợ không có khả năng thu hồi. Khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng người ta thường chú trọng vào các nguy cơ xảy ra rủi ro như lãi treo và đặc biệt là nợ phát sinh, còn lãi treo đóng băng và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi được coi là các tình huống rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học. 3) Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 3.1) Nguyên nhân từ phía khách hàng Trong nền kinh tế thị trường ,hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thường xuyên phải đương đầu với cạnh tranh và chịu sự chi phối rất lớn của quy luật cung cầu ,giá cả thị trường nên cũng phải thường xuyên đối mặt với rủi ro từ nhiều phía kể cả các rủi ro thuần tuý như thiên tai ,trộm cắp có khi do giá cả thay đổi ,khả năng quản lý kém ,sự thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước dẫn đến thiệt hại Page 5
  7. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ cho doanh nghiệp làm cho kinh doanh gặp khó khăn thua lỗ,thậm chí phá sản .Đồng thời hoặt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng không thể thoát ly khỏi mối quan hệ với ngân hàng .Chính vì vậy rủi ro của ngân hàng thương mại là cộng hưởng rủi ro của các doanh nghiệp . Nếu đứng trên góc độ tư cách đạo đức của người đi vay thì nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng có thể chia làm hai trường hợp lớn .Khách hàng gian lận hoặc khách hàng không gian lận 3.2) Khách hàng gian lận, cố ý lừa ngân hàng . Điều này được thể hiện qua việc gian lận về số liệu,giấy tờ ,quyền sở hữu tài sản .Doanh nghiệp có thể nộp báo cáo tài chính không chính xác,cố ý đưa ra số liệu sai sự thật ,phản ánh không đúng thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của đơn vị.Những món cho vay trên cơ sở nnhững thông tin giả như vậy dễ đưa đến rủi ro cho ngân hàng .Bên cạnh đó lợi dụng khe hở về giấy tờ sở hữu tài sản ,doanh nghiệp có thể đem thế chấp một tài sản ở nhiều ngân hàng khác nhau.Khi không thu được nợ,các ngân hàng thương mại phát mãi tài sản thì mới biết bị lừa Ngoài ra, khách hàng có thể gian lận ngân hàng thể hiện qua việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án đã nêu nên không trả được nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn nhưng lại dùng để mua sắm tài sản cố định và bất động sản. Việc giá nhà đất đột ngột giảm xuống làm doanh nghiệp kinh doanh nhà đất bị thua lỗ nặng không thể trả được nợ ngân hàng. Ngân hàng có phát mại tài sản thế chấp đi nữa cũng không đủ khoản cho vay vì tài sản thế chấp cũng là nhà đất nên cũng giảm giá trị.Việc khách hàng gian lận gây ra rủi ro cho ngân hàng còn thể hiện qua những hoạt động của người đi vay có tư cách kém như cố tình không trả nợ ngân hàng hoặc lừa đảo ngân hàng rồi bỏ trốn. 3.3) Khách hàng không gian lận Không chỉ khi khách hàng có ý không tốt ngân hàng mới gặp rủi ro mà ngay cả khi khách hàng đi vay có đủ tư cách, không có ý gian lận, ngân hàng vẫn có thể gặp rủi ro tín dụng. Đó là khi khách hàng có trình độ kém, năng lực quản lý yếu, không có đầu óc kinh doanh nên không thể đưa phương án kinh doanh của mình đạt hiệu quả, không thể đưa doanh nghiệp của mình thắng trong cạnh tranh nên việc trả nợ ngân hàng là rất khó khăn.Ngoài ra, nếu doanh nghiệp bị lừa đảo trong kinh doanh hoặc bạn hàng của doanh nghiệp gặp rủi ro thì ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu nợ đúng hạn.Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân rủi ro khách quan như thiên tai, trộm cắp có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp và có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. 3.4) Nguyên nhân từ phía ngân hàng Page 6
  8. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ - Do thông tin tín dụng không đầy đủ. Ngân hàng có một cái nhìn không toàn diện về bản thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó dẫn đến sự sai lệch trong việc đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả của khách hàng. - Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng nói chung và của cán bộ tín dụng nói riêng còn hạn chế. Hiện nay nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng thiếu năng lực xử lý các thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát khoản vay. Cán bộ tín dụng không có khả năng phân tích thẩm định dự án; kiến thức thị trường, kiến thức xã hội cũng bị hạn chế nên nhều khi cho vay mà không đánh giá được liệu dự án hay phương án đó có khả thi không. - Ngân hàng quá trú trọng về lợi tức, đặt mong muốn về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh, do vậy rủi ro của khoản vay càng cao. - Sự cạnh tranh không lành mạnh với các ngân hàng khác để mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu rằng ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo khách hàng. - Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên. Nhân viên tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như môi trường tín dụng của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động sai sót, không nắm bắt kịp thời các khoản cho vay có vấn đề. 3.5) Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh a) Môi trường kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng của các ngân hàng thương mại nói riêng. Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ bao gồm các chính sách về kinh tế, tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại Chỉ cần chính phủ thay đổi một trong các chính sách trên, lập tức sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động trực tiếp là các ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của ngân hàng khác nhau luôn gắn bó mật thiết với hoạt động của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nếu chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ đúng đằn phù hợp với thực tiễn thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, nhưng ngược lại cũng sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn thậm chí thua lỗ, phá sản. Page 7
  9. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ b) Môi trường pháp lý: Trong hoạt động kinh doanh, song song với hoạt động mang tính kĩ thuật nghiệp vụ và các hoạt động mang tính pháp lý như kí kết hợp đồng kinh tế, đầu tư tài chính tín dụng Tính pháp lý thể hiện ở các hoạt động kinh doanh luôn tiến hành dựa trên các quy định pháp luật, hay ní cách khác bị giới hạn trong khuôn khổ pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các yếu tố pháp lý là điều kiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh thiếu đồng bộ cũng sẽ gây khó khăn, bất lợi cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời tạo nên môi trường cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi trường cho vay có ảnh hưởng, tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động tín dụng, nó sẽ góp phần làm hạn chế hoặc tăng thêm rủi ro trong các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. c) Nguyên nhân từ môi trường xã hội: Những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới luôn có ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của các ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá, chính trị giữa các nước đời sống kinh tế thế giới cũng có nhiều biến đổi. Muốn phát triển kinh tế một cách toàn diện cần thực hiện mở cửa nền kinh tế để tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật hiệi đại của những nước phát triển, trao đổi, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, đầu tư hoặc vay tiền của nước ngoài Tất cảc các hoạt động đó tạo nên mối quan hệ kinh tế đối ngoại của mối quốc gia. Những thay đổi về chính trị rết có thể dẫn đến sự biíen động cán cân thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái giá các đồng tiền làm biến động thị trường trong nước như giá cả nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ, mức lãi suất thị trường, mức cầu tiền tệ trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động là các ngân hàng thương mại. 4) Một số ngân hàng thương mại thế giới và rủi ro tín dụng: 4.1) Ngân hàng Lehman Brothers: 15/9 vừa qua đánh dấu tròn 5 năm ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ, cũng là sự mở đầu cho trận sóng thần tài chính thế giới lớn nhất gần một thế kỷ qua. Kể từ đó, nhiều biện pháp đã được đưa ra nhằm khắc phục hậu quả. Các nước cũng ra sức tìm kiếm mô hình kinh tế bền vững nhằm tránh một cơn sóng thần mới trong tương lai. Nhưng cho đến nay, nỗ lực đó vẫn chỉ là giải pháp ngắn hạn, và dường người ta vẫn chưa rút ra được bài học nào từ lịch sử. Nguyên nhân chính dẫn tới sự ra đi của Lehman Brothers 5 năm trước là sự liều lĩnh của chính họ cũng như các ngân hàng đầu tư khác khi theo đuổi lợi nhuận bằng cách Page 8
  10. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ khai thác công cụ tài chính mới, bất chấp mọi rủi ro. Các định chế tài chính, dẫn đầu là LB, còn tham gia nhiệt tình vào thị trường cho vay cầm cố bất động sản đang bùng nổ, do cơ chế lãi suất thấp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Các ngân hàng cho vay mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Sau đó, những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu. 4.2) Cùng với khủng hoảng nợ công khu vực đồng euro (eurozone), nợ công trong hệ thống ngân hàng châu Âu tăng mạnh những tháng cuối năm 2012: Theo một khảo sát của hãng kiểm toán PricewaterhouseCoopers (PwC), kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008, nợ xấu của ngân hàng châu Âu tăng gấp đôi. Tổng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng châu Âu hiện là 1,05 nghìn tỷ euro (1,85 nghìn tỷ USD), tăng 10% so với cuối năm 2011. Trong đó, tình trạng nợ xấu đặc biệt tồi tệ ở các nước eurozone vốn bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi bong bóng bất động sản và khủng hoảng nợ khu vực. Chỉ tính riêng Hy Lạp, nợ xấu ngân hàng tăng gần 50% so với năm ngoái lên 40 tỷ euro, Tây Ban Nha tăng 23% lên 136 tỷ euro, Italia tăng 37% lên 107 tỷ euro. Đức, Anh và Pháp là các nước hiếm hoi mà nợ xấu ngân hàng không tăng kể từ năm 2010. Do các nhà đầu tư không sẵn sàng tái cấp vốn và các chính phủ không thể bơm thêm tiền nên các ngân hàng chỉ còn cách bán tài sản và giảm quy mô hoạt động để bù đắp nợ xấu. 4.3) Nợ xấu” không phải là vấn đề mới trên thế giới, nhưng hiện Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn do thiếu kinh nghiệm xử lý. Hai cường quốc kinh tế Hoa Kỳ, Trung Quốc đã từng “gánh” khoản nợ xấu cao ngất ngưởng. Hệ thống tài chính ngân hàng rơi vào tình trạng báo động cao nhất và rất nhiều ngân hàng đã phải “trả giá”. Cho “vay dưới chuẩn”: Lòng tham giống nhau. Theo ngân hàng Phát triển Châu Á – ADB, năm 2003, Trung Quốc có bốn ngân hàng Thương mại (NHTM) quốc doanh lớn nhất với tổng tài sản khoảng 15.200 tỷ nhân dân tệ (NDT), chiếm khoảng 55% tổng tài sản của hệ thống tài chính. Các “đại gia” làng tài chính đã cho vay tới 90% dư nợ của các công ty nhà nước và tỏ ra khá thoải mái trong các khoản vay đầu tư bất động sản, chứng khoán. Điều này không mấy khác so với tình trạng cho “vay dưới chuẩn” (vay với mức độ rủi ro cao) của các ngân hàng ở Hoa Kỳ giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế tài chính 2008. Page 9
  11. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Việc các ngân hàng Trung Quốc phải gánh nhiều khoản vay khó đòi xuất phát từ các xí nghiệp quốc doanh liên tục làm ăn cthua lỗ. Có tới 70% xí nghiệp quốc hữu trong tình trạng thâm vốn nặng, và đến 98% xí nghiệp phải sống vật vờ nhờ các khoản vay ngân hàng. Trong khi đó, Hoa Kỳ năm 2007 phải gánh con số dư nợ là 1.300 tỷ (trong khi năm 2001 là 160 tỷ USD). Hậu quả là hàng loạt ngân hàng lão làng như Bear Stearns, Lehman Brothers, Washington Mutual tuyên bố phá sản. Tính cạnh tranh trong thị trường tài chính và tham vọng kiếm lợi từ việc cho vay thế chấp khiến nhiều ngân hàng mờ mắt và không dự đoán trước các rủi ro có thể xảy ra. Việc “chạy đua cho vay” bởi miếng mồi ngon đang nóng từ thị trường chứng khoán và bất động sản đã vô tình dẫn các NHTM vào thế khó mang khi “bong bóng” nhà đất, chứng khoán vỡ tung do được “bơm tiền” quá mức. Khi thị trường tài chính ngân hàng sụp đổ, cả thực tế và lý thuyết vĩ mô đều chứng minh, hiệu ứng Domino sẽ xảy ra nhanh chóng trên các thị trường tín dụng, chứng khoán, bất động sản, thương mại * Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, đặc biệt giai đoạn từ cuối 2007 đến đầu năm 2013, hàng loạt ngân hàng trên thế giới công bố thua lỗ về kết quả hoạt động kinh doanh, mất khả năng thanh toán, nợ xấu vượt mức cho phép dẫn đến tình trạng các hàng loạt các ngân hàng bị mua lại và phá sản. II. Rủi ro lãi suất: 1) Khái niệm: Rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất trên thị trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất, dẫn đến tổn thất về mặt tài sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng. 2) Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất: + Khi xuất hiện sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản Có và tài sản Nợ. ▪ Trường hợp 1: Kỳ hạn của tài sản có lớn hơn kỳ hạn của tài sản nợ: Ngân hàng huy động vốn ngắn hạn để cho vay, đầu tư dài hạn. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo tăng lên, trong khi lãi suất cho vay và đầu tư dài hạn không đổi. ▪ Trường hợp 2: Kỳ hạn của tài sản có nhỏ hơn kỳ hạn của tài sản nợ: Ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài để cho vay, đầu tư kỳ ngắn hạn. Rủi ro sẽ trở thành sự Page 10
  12. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ thật nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo không đổi, trong khi lãi suất cho vay và đầu tư giảm xuống. + Do các ngân hàng áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy động vốn và cho vay: ▪ Trường hợp 1: Ngân hàng huy động vốn với lãi suất cố định để cho vay, đầu tư với lãi suất biến đổi. Khi lãi suất giảm, rủi ro lãi suất sẽ thực hiện vì chi phí lãi không đổi trong khi thu nhập lại giảm, do đó lợi nhuận của ngân hàng giảm. ▪ Trường hợp 2: Ngân hàng huy động vốn với lãi suất biến đổi để cho vay, đầu tư với lãi suất cố định. Khi lãi suất tăng, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi tăng theo lãi suất thị trường, trong khi thu nhập lãi không đổi, do đó lợi nhuận của ngân hàng giảm. + Do không có sự phù hợp về khối lượng giữa nguồn huy động với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay. + Do không có sự phù hợp về thời hạn giữa nguồn vốn huy động được với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay. + Do tỷ lệ lạm phát dự kiến không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế, dẫn đến vốn của ngân hàng không được bảo toàn sau khi cho vay. + Ngoài ra, khi lãi suất trên thị trường thay đổi, ngân hàng còn có thể gặp rủi ro giảm giá trị tài sản. 3)Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động ngân hàng: Từ những nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất nêu trên, có thể thấy những ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như sau: Rủi ro lãi suất làm tăng chi phí nguồn vốn của ngân hàng Rủi ro lãi suất làm giảm thu nhập từ tài sản của ngân hàng Rủi ro lãi suất làm giảm giá trị thị trường của tài sản Có và vốn chủ sở hữu của ngân hàng. 4) Một số ngân hàng thế giới và rủi ro lãi suất: 4.1) Rủi ro của các ngân hàng Trung Quốc Người ta lo ngại rằng các ngân hàng Trung Quốc thiếu các kỹ năng quản trị rủi ro cần thiết trong 1 môi trường kinh doanh mới.Con đường tiến tới cải cách tài chính ở Trung Quốc đang trở nên gập ghềnh hơn bao giờ hết.Tuần trước, tại hội nghị thượng đỉnh ở Singapore, lãnh đạo các ngân hàng cho biết bước tiếp theo trên lộ trình cải cách tài chính ở Trung Quốc là tự do hóa lãi suất – điều có thể xảy ra trong 18 tháng Page 11
  13. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ tới và chắc chắn điều này sẽ khiến cho giới ngân hàng cũng như các khách hàng phải đau đầu.Tuy nhiên đây là một bước đi hợp logic. Với việc tự do hóa lãi suất, nhà chức trách Trung Quốc hy vọng sẽ ngăn chặn được sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm – chủ yếu nhờ vào việc nhiều người có tiền dư thừa muốn có lãi suất cao hơn trong khi người đi vay không thể tiếp cận các khoản vay có lãi suất thấp giả tạo sẵn sàng trả thêm các khoản phí không chính thức để có thể có tiền.Tự do hóa lãi suất cũng là một tiền đề cần thiết để xóa bỏ các kiểm soát về dòng vốn. Chừng nào lãi suất còn bị giữ ở mức thấp giả tạo cũng như các công cụ đầu tư còn thiếu hụt ở Trung Quốc, các quỹ đầu tư còn có động lực để rời bỏ thị trừng này và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở các thị trường nước ngoài.Trước đó, Trung Quốc đã bỏ sàn lãi suất cho vay, khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước được vay với lãi suất thấp hơn. Với bước đi tiếp theo này, lãi suất trần sẽ được dỡ bỏ và người gửi tiền sẽ được quyền yêu cầu các ngân hàng trả lãi cao hơn và khiến cho các ngân hàng khát tiền hơn. Mặc dù các ngân hàng đã được cảnh báo trước về điều này, người ta vẫn quan ngại rằng liệu các ngân hàng đã trang bị đủ các kỹ năng quản trị rủi ro cần thiết cho một “thế giới mới” này hay chưa. Ngân hàng tại các thị trường phát triển hơn đã không cưỡng lại nổi xu thế đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn nhằm làm tăng tỷ lệ lợi nhuận và đã gánh chịu các hậu quả nghiêm trọng. 4.2) Cái giá của tự do hóa lãi suất Các ngân hàng nhóm 2 (các ngân hàng đứng sau nhóm 4 ngân hàng nhà nước và Bank of Communications cũng như Citic Bank) sẽ phải đối mặt với thách thức thực sự. Các ngân hàng quốc tế và khu vực cũng đã cắt giảm tín dụng đối với các ngân hàng này do sợ rằng mình không được bảo đảm an toàn bởi mạng an toàn nhà nước. Trong khi đó, cổ đông lớn của các ngân hàng nhà nước lớn cũng quan ngại rằng sẽ bị yêu cầu tiếp nhận các ngân hàng yếu kém hơn như trường hợp của Nhật Bản.Một hậu quả khác của việc tự do hóa lãi suất sẽ là chi phí cho vay tăng cao đối với hầu hết người đi vay. Về dài hạn, điều này là có lợi vì khi chi phí vay vố nđắt hơn, vốn sẽ được phân bổ cẩn thận hơn.Tuy nhiên không may cho Trung Quốc là việc tăng lãi suất lần này đến đúng lúc mà tình trạng tài chính của các công ty Trung Quốc đang xấu đi. Theo phân tích của hang Forensic Asia thì rất nhiều công ty – trong đó có cả các công ty niêm yết đang phải oằn mình gánh các khoản nợ do dòng tiền hoạt động suy giảm trong khi các khoản phải thu cũng ngày một tăng lên. Vấn đề nợ chồng chéo giữa các công ty đang có nguy cơ xuất hiện trở lại.Bản thân các ngân hàng cũng đã chuẩn bị đối phó với vấn đề nợ xấu. Tính tới thời điểm hiện tại, tỷ lệ nợ xấu (đã dự phòng rủi ro) là 1%. Tuy nhiên, tỷ lệ 1% này khó mà phản ánh hết tình hình thực tế. Nhưng có các nhóm lợi ích quyền lực khác, ở vị trí cao hơn các ngân hàng và phải chịu trách nhiệm cho vấn đề này. Nguồn thu chủ yếu của Bộ Tài chính là từ các khoản thuế của ngân hàng và bất kỳ sự xóa nợ nào sẽ làm giảm nguồn thu thuế. Central Huijin thuộc Tổng Công ty đầu tư Trung Quốc – tổ chức nắm giữ cổ phần của Chính phủ trong các ngân hàng – cần có cổ tức mà các ngân hàng chi trả. III. Rủi ro thanh khoản: 1) Khái niệm : Page 12
  14. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung ứng đủ nhưng với chi phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy, thì ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Trong cơ cấu tài sản có thì thì tiền mặt có độ thanh khoản cao nhất, do đó trước hết ngân hàng sử dụng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng.Bởi vì tiền mặt tại quỹ không mang lại thu nhập lãi suất, cho nên trong những trường hợp bình thường ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt ở mức độ tối ưu để có thể đáp ứng các nhu cầu rút tiền thường xuyên của người gửi tiền mà không gây ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng. Ngân hàng có thể làm được điều này, bởi vì qua kinh nghiệm công tác ngân quỹ hằng ngày ngân hàng có thể dự tính chính xác nhu cầu rút tiền gửi hằng ngày và trong trường hợp thiếu hụt tiền mặt tạm thời thì ngân hàng chỉ cần đi vay bổ sung một cách thông thường trên thị trường tài chính lien ngân hàng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản, ví dụ như trong trường hợp dân chũng mất long tin vào ngân hàng, hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường. Trong bối cảnh đó, hầu hết các ngân hàng đều đang phải đối phó với trường hợp tương tự , thì chi phí để huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán 1 số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và ngân hàng buộc phải bán thốc, bán tháo tức thời ngay cả số tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ mạt vì ngân hàng không có thời gian để tìm người mua cũng như điều kiện thương lượng về giá cả. Do bán khẩn cấp 1 số tài sản với giá thấp khiến cho khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe dọa. Trong số tài sản có độ thanh khoản thấp bao gồm các khoản tín dụng cấp cho các công ty nhỏ. Trong trường hợp rủi ro thanh khoản càng ngày càng nghiêm trọng , nếu tất cả những người gửi trên đồng loạt yêu cầu ngân hàng chi trả toàn bộ tiền gửi cho họ thì dẫn đến ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá sản. 2) Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản: + Ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn từ các cá nhân và định chế tài chính khác nhau, sau đó, chuyển hóa chúng thành những tài sản đầu tư dài hạn.Do đó, đã xảy ra tình trạng mất cân xứng giữa ngày đáo hạn của các khoản sử dụng vốn và ngày đáo hạn của các nguồn vốn huy động , mà thường gặp nhất là dòng tiền thu hồi từ các tài sản đầu tư nhỏ hơn dòng tiền phải chi ra để chi trả tiền gửi đến hạn. Page 13
  15. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ + Do ngân hàng nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất đầu tư, nhất là các khoản tiền gửi. Khi lãi suất đầu tư tăng, một số người gửi tiền rút vốn của họ ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có tỉ suất lợi nhuận cao hơn , còn các khách hàng vay tiền sẽ tích cực tiếp cận các khoản tín dụng vì có lãi suất thấp hơn. Như vậy, sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng đến cả khách hàng gửi tiền và vay tiền, kế đó tác động đến tình trạng thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa, xu hướng về sự thay đổi của lãi suất còn ảnh hưởn đến giá trị thị trường của các tài sản, mà ngân hàng có thể đem bán để tăng them nguồn cung cấp thanh khoản, và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên thị trường tiền tệ. + Do ngân hàng có chiến lược quản trị thanh khoản không phù hợp và kém hiệu quả : các chứng khoán ngân hàng đang sở hữu có tính thanh khoản thấp, dự trữ của ngân hàng không đủ chi cho nhu cầu chi trả. + Ngoài ra trong một số trường hợp ngân hàng gặp phải các rủi ro như bị tội phạm công nghệ tấn cống, làm cho người cho vay thấy thiếu an toàn về số tiền của mình và đồng loạt đến rút tiền khỏi ngân hàng cũng gây ra rủi ro thanh khoản ở ngân hàng đó. 3) Nhìn lại nguyên nhân rủi ro thanh khoản tại một số nước trên thế giới: 3.1) Rủi ro thanh khoản ở Anh- Thảm hoạ Northern Rock Bank. Bước ngoặt dẫn tới kết cục buồn của Northern Rock đến vào năm 2006 khi ngân hàng này mở rộng hoạt động sang lĩnh vực cho vay thế chấp bằng bất động sản với đối tác là Lehman Brothers. Khủng hoảng thị trường nhà đất và tín dụng đã đẩy cả hai gã khổng lồ tới bờ vực phá sản. - Năm 2007, Northern Rock đưa ra dự báo lợi nhuận trước thuế sẽ giảm so với dự kiến ban đầu. - Báo Anh đưa ra nhiều thông tin giật gân: Northern Rock đang khan hiếm tiền mặt, Northern Rock đang gánh hậu quả do cho vay thế chấp tràn lan, - Trong 3 ngày 14,15 và17/9/2007khoảng 3tỷ Bảng Anh đã được rút ra. - Do được Ngân hàng Anh (BOE) hỗ trợ nên Northern Rock không thiếu tiền mặt song số người rút tiền vẫn chưa giảm. - NHTW Anh đã phải ra tay cứu giúp bằng cách “bơm” một lượng tiền mặt không nhỏ cho Northern Rock. - Chính phủ Anh có thể sẽ mua lại Northern Rock để rồi sẽ có phương án xủ lý thích hợp khi tình hình trở lại bình thường. Nguyên nhân: Khủng hoảng tín dụng cho vay thế chấp nhà với đối tượng thu nhập thấp, tìm hiểu nguyên nhân thì cho thấy khi cho vay thế chấp bằng nhà đất, ngân hàng Northern Rock đã cho vay nhiều gấp 125% giá trị nhà đất của người vay đưa đi cầm cố, bất chấp những lời cảnh báo về sự không ổn định của nền kinh tế cũng như các dự báo về giá bất động sản tụt dốc, việc cho vay thế chấp sai lầm nói trên đã khiến cho tài sản bong bóng xà phòng của ngân hàng Northern Rock tồn tại Page 14
  16. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ trong một thời gian dài và liên tục được thổi căng phồng lên ; Công tác PR của Northern Rock Bank quá yếu; Thiếu kinh nghiệm trong việc xử lý khủng hoảng; Sự “thổi phồng” thông tin của báo giới, 3.2) Rủi ro thanh khoản ở các NHTM Nga năm 2004. Vào tháng 7/2004, các ngân hàng của Nga đứng trước nguy cơ rủi ro thanh khoản rất lớn. - Ngày 9/7/2004: Một đại gia trong ngành Ngân hàng Nga- Guta bank- thông báo tạm khóa các tài khoản tiền gửi trên toàn quốc do chi trả trong tháng 6 vượt 10 tỷ rúp (tương đương 345 triệu USD). Ngân hàng đã đóng cửa 76 chi nhánh và ngừng hoạt động hơn 400 máy ATM. Ngày 10/7/2004: Ngay sau khi Guta khóa các tài khoản tiền gửi, người dân đổ xô đi rút tiền ở ngân hàng khác để đề phòng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Ngày 16/7/2004: Các Ngân hàng Nga đã từ chối cung cấp tín dụng cho nhau, lãi suất tiền gửi tăng song khách hàng vẫn ồ ạt xếp hàng rồng rắn bên ngoài các tòa nhà ngân hàng để chờ đến lượt rút tiền. Ngày 17/7/2004: Ngân hàng Alfa, đại gia thứ 4 trong ngành tài chính Quyết định áp dụng biện pháp cấp bách là phạt 10% số tiền nếu khách hàng rút trước thời hạn. Cùng lúc, báo chí trích lời một cơ quan quản lý tài chính Nga tuyên bố 10 ngân hàng nữa có thể sẽ bị đóng cửa trong nay mai. Tuy nhiên, một số phương tiện thông tin đại chúng lại tiết lộ họ có trong tay danh sách đen 27 ngân hàng đang bên bờ vực phá sản. Ngày 18/7/2004: Thống đốc NH trung ương Sergei Ignatiev và tổng thống Putin tuyên bố không hề có danh sách đen và khủng hoảng như vậy nhất thời là do tâm lý. Ông Sergei Ignatiev Quyết định giảm các tỷ lệ dự trữ tiền mặt của các ngân hàng từ 7% xuống 3,5% nhằm tăng khả năng thanh khoản, đồng thời áp dụng hàng loạt biện pháp cứu Guta. Ngày 20/7/2004: Nhiều ngân hàng đã sụp đổ, người gửi tiền tràn đến các nhà băng để rút tiền vì lo ngại cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998 tái diễn và họ sẽ mất những khoản tiền tiết kiệm dành dụm cả đời. Phản ứng của chính phủ trong giai đoạn này là lên kế hoạch để Vneshtorgbank của nhà nước mua lại Ngân hàng Guta. Ngày 27/7/2004: Phó chủ tịch Ủy ban tài chính Duma Pavel Medvedv tuyên bố trong tuần, các ngân hàng sẽ thoát khỏi tình trạng tồi tệ hiện nay. Vậy nguyên nhân của tình trạng mất khả năng thanh khoản của các ngân hàng Nga là do đâu? Theo các chuyên gia, khủng hoảng rất dễ xảy ra bởi Nga hiện có quá nhiều ngân hàng, trong đó phần lớn là tổ chức tài chính nhỏ tồn tại bằng các hoạt động bất hợp pháp; Các ngân hàng có vốn sở hữu quá nhỏ bé, 90% ngân hàng ở đây có số vốn dưới 10 triệu USD; Ngoài biện pháp giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt các cơ quan quản lý tài chính của Nga chưa đưa ra được biện pháp có hiệu quả nào để giải quyết vấn đề. 3.3) Một số vấn đề về tội phạm công nghệ: a) Nga thiệt hại hơn 600 triệu USD do tội phạm mạng Trong năm 2012, tội phạm mạng đã gây thiệt hại 615 triệu USD cho người dân Nga. Đây là số liệu do công ty Group-IB, hoạt động trong lĩnh vực ngăn chặn và điều tra tội phạm mạng và các vụ lừa đảo sử dụng công nghệ cao, công bố ngày 10/9. Theo Group-IB, trong năm ngoái, hệ thống ngân hàng điện tử của Nga đã chịu Page 15
  17. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ tổn thất 446 triệu USD. Ngoài ra, việc bọn tội phạm đánh cắp và sử dụng dữ liệu cá nhân của chủ tài khoản gây thiệt hại 57 triệu USD, việc lấy cắp tiền qua mạng gây thiệt hại 23 triệu USD, trong khi dịch vụ "rửa" tiền từ các khoản thu nhập bất hợp pháp "ngốn" mất 89 triệu USD. Theo kết quả điều tra năm 2012 của Group-IB cũng như việc theo dõi hoạt động của tội phạm mạng, trên lãnh thổ Nga có 12 nhóm tội phạm có tổ chức, trong đó 8 nhóm chuyên lấy cắp tiền từ tài khoản ngân hàng của các pháp nhân, và 4 nhóm thực hiện hành động phạm tội tương tự đối với các thể nhân. Tính trung bình mỗi ngày xảy ra 44 vụ lấy cắp tiền từ các hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử tại Nga. IV. Rủi ro tỷ giá hối đoái: 1) Khái niệm : Rủi ro tỉ giá hối đoái là rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay ngoại tệ hoặc quá trình kinh doanh ngoại tệ khi tỉ giá biến động theo chiều hướng bất lợi cho khách hàng. 2) Nguyên nhân dẫn đến phát sinh rủi ro ngoại hối đối với một ngân hàng: + Rủi ro hối đoái trong kinh doanh ngoại tệ, gồm 2 hoạt động sau: Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng hoặc cho chính ngân hàng, nhằm cân bằng trạng thái ngoại hội để phòng ngừa rủi ro tỉ giá. Mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ kiếm lãi khi tỉ giá biến động. + Sự không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ. Hay nói cách khác là việc các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ. Giả sử, khi một ngân hàng Việt Nam cấp tín dụng bằng USD cho khách hàng của mình . Khi đồng USD giảm giá so với VND, thì gốc và lãi của khoản vay bằng USD thu về sẽ bị giảm khi quy thành VND. 3) Ví dụ về rủi ro tỷ giá hối đoái: Chẳng hạn, hiện nay Ngân hàng Dự Trữ Liên Bang Mỹ đã hạ lãi suất xuống mức thấp nhất chỉ còn 1,25%/năm. Đây là cơ hội hiếm có cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể vay vốn ngoại tệ với chi phí rẽ. Tuy nhiên, nếu vay USD trong thời gian tương đối dài với số lượng lớn, doanh nghiệp cần lưu ý tác động của yếu tố rủi ro tỷ giá. Ví dụ công ty Giadimex đang thương lượng xin vay vốn tài trợ xuất khẩu của HSBC số tiền 3 triệu USD để thu mua và chế biến hàng xuất khẩu. Hiện tại do lãi suất USD trên thị trường giảm nên HSBC đồng ý cho Giadimex vay với lãi suất 3%/năm trong thời hạn 6 tháng. Hiện tại tỷ giá USD/VND = 15.381. Sáu tháng sau khi nợ đáo hạn, tỷ giá USD/VND là bao nhiêu công ty chưa biết, do đó, công ty đối mặt với rủi ro tỷ Page 16
  18. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ giá nếu ký kết hợp đồng vay vốn này. Công ty ước tính, sáu tháng sau phải trả nợ cả gốc và lãi là 3(1+ 0,03 x 6/12) = 3,045 triệu USD. Với tỷ giá hiện tại công ty phải bỏ ra 3,045 x 15.381 = 46.835,145 triệu VND trả nợ và lãi. Nhưng nếu sáu tháng sau tỷ giá USD/VND = 15.481 thì cứ mỗi USD phải trả công ty phải bỏ thêm 100VND, tổng chi phí trả nợ và lãi sẽ lên đến 3,045 x 15481 = 47.139,645 triệu VND, tăng 47.139,645 – 46.835,145 = 304,5 triệu VND so với ước tính. V. Rủi ro sở hữu chéo: 1) Khái quát về sở hữu chéo 1.1) Thâu tóm ngân hàng, nợ xấu và tăng vốn ảo là 3 rủi ro lớn xuất phát từ sở hữu chéo trong hoạt động ngân hàng. Có 3 rủi ro lớn xuất phát từ sở hữu chéo trong hoạt động ngân hàng đã được Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, nêu ra. Đó là thâu tóm ngân hàng, nợ xấu và tăng vốn ảo, từ đó dẫn đến rủi ro mang tính hệ thống. Sở hữu chéo xuất hiện khi một công ty A hay nhà đầu tư A đầu tư vào công ty B, sau đó công ty B đầu tư lại vào công ty A hoặc cả công ty A lẫn B đầu tư vào công ty C. Sau đó công ty C đầu tư ngược trở lại vào công ty A và công ty B. Có thể hiểu đơn giản như vậy. Trên thực tế, có thể chu trình của sở hữu chéo còn phức tạp hơn thế nữa.Theo quy định, một cá nhân không được sở hữu quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng, nhưng thông qua sở hữu chéo, họ vẫn thâu tóm hoặc gây ảnh hưởng đến ngân hàngHọ có thể lách luật, thâu tóm ngân hàng bằng cách sử dụng hình thức ủy quyền. Tức cá nhân A chỉ được sở hữu không quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng, nhưng trên thực tế cá nhân này chỉ nắm 2%, còn lại ủy quyền vốn cho nhiều cá nhân hoặc tổ chức khác không họ hàng gì với cá nhân A để cùng đầu tư vào một ngân hàng. Vì thế, sở hữu chéo là vấn đề Việt Nam còn rất ít kinh nghiệm và rất khó kiểm soát. Điều này cần phải truy lại từ thời kỳ đầu những năm 1990, khi các ngân hàng thương mại nhà nước đầu tư vào ngân hàng nhỏ để tái cấu trúc các ngân hàng này.Lúc đó, chỉ đơn thuần là ngân hàng lớn đầu tư vào ngân hàng nhỏ chứ chưa lằng nhằng như sau này, khi các doanh nghiệp phi tài chính đầu tư vào ngân hàng, trở thành những ông chủ ngân hàng hay chiếm vị trí chi phối trong ngân hàng. Sau đó họ lại đầu tư vào các ngân hàng khác. Các ngân hàng khác lại có chu trình đầu tư rất phức tạp, đan chéo nhau như sở hữu chéo đã nói ban đầu. Do đó, mức độ rủi ro cao hơn trong khi khả năng giám sát của chúng ta lại không theo kịp tình hình thị trường. Có một đặc điểm chung khi nói đến rủi ro của thị trường tài chính ngân hàng. Đó là rủi ro mang tính hệ thống, dù rủi ro ấy ban đầu chỉ xuất phát từ một vài tổ chức riêng lẻ. Vì đó là quan hệ giữa dòng tiền với nền sản xuất thực, nên sự đổ vỡ của một vài tổ chức sẽ không chỉ lan tỏa trong hệ thống ngân hàng (do mối quan hệ lằng Page 17
  19. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ nhằng giữa các ngân hàng), mà còn ra cả hệ thống sản xuất kinh doanh ngoài ngân hàng. Nợ xấu là hệ lụy của câu chuyện vừa nêu. Nếu giám sát không chặt chẽ, dòng tiền có thể chuyển sang cho vay các dự án sân sau của chính những người chi phối hoặc làm chủ ngân hàng. Việc nguồn lực phân bổ không được đánh giá, giám sát đầy đủ sẽ dễ gây ra nợ xấu. Khi đã xuất hiện nợ xấu, việc xử lý sẽ khó khăn hơn nhiều, do mối quan hệ lằng nhằng của sở hữu chéo.Các ngân hàng cũng có thể đầu tư chéo vào nhau, nắm cổ phần của nhau, qua đó giúp nhau nâng vốn điều lệ một cách nhanh chóng. Điều này có thể đã xảy ra ở Việt Nam nếu quan sát 2 điểm. Thứ nhất là những vụ việc gần đây và dòng tiền đầu tư của các ngân hàng thương mại. Thứ hai là trong thời gian quá ngắn, họ lại có được số vốn rất lớn để tăng vốn điều lệ. Đây là vốn sở hữu của ngân hàng. Điều đó cho thấy vốn ảo là có thực trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Điều này nguy hiểm ở chỗ, sở hữu chéo làm sai lệch việc đánh giá rủi ro của hệ thống ngân hàng, vì có rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn sở hữu mà ngân hàng đang nắm, trong khi vốn đó là vốn ảo. Các chỉ số không chính xác sẽ dẫn đến những sai lệch, cả về quản trị ngân hàng lẫn giám sát hệ thống tài chính.Chắc chắn là có rủi ro, vì sở hữu chéo giảm tính minh bạch, giảm khả năng giám sát và tăng khả năng đổ vỡ của một định chế tài chính. Khi đó người gửi tiền sẽ chịu thiệt hại. Kinh nghiệm của các nước vào những thời điểm khủng hoảng, cần cải tổ hệ thống tài chính cho thấy, họ đều nâng mạnh số tiền bảo hiểm, thậm chí bảo hiểm 100% giá trị khoản tiền gửi. Điều này là để có được sự ổn định trong quá trình tái cấu trúc hay cải cách để làm lành mạnh hệ thống ngân hàng. Ở nhiều nước trong giai đoạn khủng hoảng 2008-2009, bảo hiểm tiền gửi đã giúp tránh được tình trạng người dân quá lo lắng, ồ ạt đến ngân hàng rút tiền. Như vậy, trong điều kiện bình thường, cần phải có một tỉ lệ bảo hiểm tiền gửi nhất định, nhưng vẫn phải đảm bảo rằng, nếu một ngân hàng làm ăn kém thì ngân hàng đó phải chấp nhận phá sản. Còn trong khủng hoảng mà cần tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, có thể buộc phải chấp nhận mức bảo hiểm tiền gửi rất cao, thậm chí là 100% giá trị khoản tiền gửi. Nếu sở hữu chéo nằm trong hoạt động sản xuất kinh doanh thực, hoạt động phi tài chính, trong một chừng mực nhất định nào đó, nếu năng lực tài chính và quản trị của doanh nghiệp tốt thì sở hữu chéo có thể tạo ra những lợi thế nhất định trong kinh doanh. Ví dụ như lợi thế quy mô, lợi thế kiểm soát chuỗi giá trị. Thế nhưng, nếu sở hữu chéo gắn với khu vực tài chính - ngân hàng thì rủi ro sẽ rất cao. Nói chung, các nhà kinh tế đều rất e ngại với chuyện không tạo ra một bức tường lửa giữa ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại. Bởi lẽ, bản chất sở hữu Page 18
  20. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ chéo là các dòng vốn đầu tư lẫn nhau mà lại chịu sự chi phối của một người hay một nhóm người nhất định. 1.2) Sở hữu chéo tại các Chaebol Hàn Quốc Sở hữu chéo đơn giản là việc 2 tổ chức sở hữu cổ phần lẫn nhau, chẳng hạn như công ty (Cty) A đầu tư vào Cty B, sau đó B lại đầu tư vào A. Ở Hàn Quốc, sở hữu chéo được coi là đặc trưng nổi bật của các tập đoàn kinh doanh quy mô lớn (Chaebol). Mối quan hệ sở hữu chéo không chỉ giữa các Cty thành viên trong nội bộ Chaebol mà còn giữa các Chaebol với nhau. Luật Thương mại của Hàn Quốc quy định rõ giới hạn cho phép đối với vấn đề này, theo đó, các Cty con không được phép nắm giữ cổ phiếu của Cty mẹ và Cty mẹ cũng không được phép nắm giữ quá 40% cổ phần của Cty con. Tuy việc nắm giữ cổ phần chéo không được phép nhưng một Cty vẫn có thể đầu tư vốn vào một Cty khác và sau đó chuyển vốn cổ phần sang cho bên thứ 3. Hình thức này là hình thức đầu tư nội bộ, được gọi là “mô hình kim tự tháp”. Mô hình này cho thấy, với số vốn đầu tư không quá lớn (chỉ cần đảm bảo mức khống chế ở một số Cty chủ chốt và một lượng vốn nhỏ ở các Cty con) nhưng phạm vi ảnh hưởng của Cty mẹ hay các gia đình sáng lập thực sự rất lớn. Cty mẹ chỉ cần duy trì tỷ lệ cổ phần khống chế tại Cty A và Cty B nhưng vẫn có ảnh hưởng rất lớn tới các Cty con của A và B. Tuy nhiên, chính sự tập trung này cộng thêm với các chính sách bảo hộ quá lớn của Chính phủ là những nguyên nhân căn bản gây nên rất nhiều vấn đề bất cập ở Hàn Quốc: Thứ nhất, những bất cập liên quan tới quản trị doanh nghiệp (DN): Tình trạng quản lý không rõ ràng, kém hiệu quả trong quản lý do những mối quan hệ qua lại đan xen trong mô hình sở hữu chéo khá phổ biến. Các Cty niêm yết trực thuộc các chaebol luôn có quan niệm mang tính mặc định là những người lãnh đạo sẽ không bao giờ bị thay thế. Vị trí của những người này sẽ vẫn được duy trì đến chừng nào những người ủng hộ họ vẫn còn nắm giữ các vị trí quản lý tại các Cty con, vì thế họ đương nhiên sẽ trúng cử trong đại hội cổ đông. Thêm nữa là tình trạng không phân định rõ ràng chức năng quản trị của Hội đồng quản trị (HĐQT) với chức năng quản lý của Ban điều hành và thiếu tính minh bạch trong quản lý DN. Cho đến năm 1997, HĐQT của tất cả các Cty niêm yết chỉ bao gồm những “người trong cuộc” và họ có quyền chỉ định kiểm toán viên bên ngoài. Vì thế, tính độc lập của các kiểm toán viên bên ngoài luôn là một vấn đề gây nhiều nghi vấn. Sau cuộc khủng hoảng 1997, Sở Giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc đã buộc các Cty muốn niêm yết phải có tối thiểu là 1/4 thành viên của HĐQT là các thành viên độc lập từ bên ngoài. Đồng thời, phải thành lập một uỷ ban bao gồm cả kiểm toán viên nội bộ, thành viên độc lập từ bên ngoài và các chủ nợ để lựa chọn (hoặc gợi ý lựa chọn) kiểm toán viên bên ngoài nhằm tăng thêm tính minh bạch cho hoạt động kiểm toán. Page 19
  21. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Thứ hai, sự thiếu lành mạnh trong cơ cấu vốn của các chaebol: Chính tình trạng sở hữu chéo cộng với sự quản lý trực tiếp từ gia đình sáng lập gần như không tạo ra một cơ chế điều hành hiệu quả. Các Cty hoạt động kinh doanh hiệu quả sẽ phải trợ cấp cho các Cty hoạt động không hiệu quả trong nội bộ chaebol thông qua hoạt động đầu tư và bảo lãnh chéo. Vấn đề “giải quyết nội bộ” như vậy khiến cho các Cty mạnh bị yếu đi và trên bình diện chung gây nên tình trạng thiếu lành mạnh về cơ cấu vốn, thậm chí tạo nên dòng “vốn ảo”. Khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 đã cho thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ xấu là việc các Cty gia đình này nắm quyền kiểm soát ở các NHTM và sử dụng những NHTM này tài trợ cho các dự án của mình và các Cty có liên quan. Vì thế, sau khủng hoảng, Hàn Quốc đã cấm ngay các tập đoàn không được đầu tư vào các lĩnh vực khác. VI. Rủi ro nguồn vốn: 1) Khái niệm: Rủi ro về nguồn vốn thường xẩy ra dưới hai hình thức: rủi ro thiếu vốn và rủi ro thừa vốn. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rõ về khái niệm thừa và thiếu vốn trong kinh doanh ngân hàng. Thừa vốn là tình trạng vốn tồn đọng ở quỹ nghiệp vụ, bao gồm cả quỹ thanh toán tiền gửi ở ngân hàng Nhà Nước, quỹ tiền mặt, quỹ dự trữ của ngân hàng. Thiếu vốn là tình trạng xuất hiện trong các bộ phận thanh toán của ngân hàng. 2) Phân loại 2.1) Rủi ro do thừa vốn Ngân hàng Thương mại thông qua hình thức “đi vay để cho vay” nhằm kiếm lợi nhuận, còn nguồn vốn tự có ”chỉ là cái đệm chống đỡ sự sụt giá của các tài sản Có”. Khi nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ đọng có nghĩa là ngân hàng không cho vay ra được hoặc không sử dụng hết, trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền, chi các chi phí nghiệp vụ, các chi phí quản lý. Nếu không khắc phục tình trạng này thì đến một chừng mực nào đó, mức độ thua lỗ lớn sẽ dẫn đến việc đóng cửa ngân hàng. 2.2) Rủi ro do thiếu vốn Thừa vốn đã gây khó khăn cho ngân hàng thì việc thiếu vốn còn tệ hại hơn nhiều. Rủi ro thiếu vốn không thể lường hết mức độ của nó gây ra vì vốn của ngân hàng phần lớn là vốn huy động (vốn đi vay) của xã hội để cho vay ra. Nếu thiếu vốn trong thanh toán ngân hàng không thể thanh toán cho khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền. Nếu với các ngành kinh tế khác thì việc thanh toán chỉ là một phần vốn của đơn vị và có thể sẽ không khó khăn trong việc khất nợ với khách hàng (tất nhiên việc Page 20
  22. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ làm này không thể kéo dài và thường xuyên), nhưng với hoạt động của ngân hàng, khi một khách hàng bị khất nợ sẽ kéo theo hàng loạt khách hàng sẽ đến ngân hàng để rút tiền. Điều xảy ra khi đó sẽ là hoạt động của ngân hàng bị xáo trộn, mà khả năng cao nhất có thể xảy ra đó là tuyên bố mất khả năng thanh toán và phá sản. Như vậy, loại rủi ro này rất nguy hiểm, khó lường hết được hậu quả, thậm chí nó còn nguy hiểm hơn cả loại rủi ro bất khả kháng do thiên tai, địch hoạ gây ra bởi lẽ với các loại rủi ro đó ngân hàng vẫn còn khả năng phục hồi với các loại rủi ro thiếu vốn thì khả năng xấu nhất của một doanh nghiệp có thể xảy ra. VII. Rủi ro đạo đức : 1) Khái quát : Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt, nhạy cảm, gắn chặt với tiền, và luôn đối mặt với nhiều rủi ro. Trong các vấn đề rủi ro, dường như rủi ro đạo đức đang là nguy cơ ngày càng lớn đối với ngân hàng Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ một loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái. Rủi ro đạo đức là một kiểu thất bại thị trường nảy sinh trong môi trường thông tin phi đối xứng. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, theo nhà kinh tế học Paul Krugman, rủi ro đạo đức được hiểu là “trường hợp khi một bên đưa ra các quyết định liên quan tới mức độ chấp nhận rủi ro, trong khi bên kia phải chịu tổn thất nếu các quyết định đó thất bại” (Paul, 2009). Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi đối xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro đạo đức nảy sinh từ chính hoạt động kinh doanh của ngân hàng và khách hàng sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại (NHTM). Hậu quả của rủi ro đạo đức do hai chủ thể này gây nên lại do người gửi tiền vào ngân hàng và chính ngân hàng đó gánh chịu. Khi nhắc tới rủi ro đạo đức trong nghành ngân hàng, tín dụng là bộ phận hay được nhắc tới nhất. Đây là những cán bộ trực tiếp làm việc với khách hàng, thẩm định hồ sơ, ra phán quyết tín dụng. Điều này có thể chứng minh khi những thông tin khởi tố các cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng các ngân hàng liên tục trên các mặt báo vì những hành vi sai phạm của mình. Các hành vi phổ biến như thiếu trách nhiệm trong thẩm định, cấu kết với khách hàng, ăn chia hoa hồng trên số tiền vay được, liên kết với nhau để vay mượn lòng vòng, thậm chí là vay ké của khách hàng 2) Ví dụ về rủi ro đạo đức: Sau một loạt vụ scandal liên quan đến các ngân hàng gần đây, có 1 điều mà công chúng nhận thấy rõ ràng: đạo đức của ngành ngân hàng đang bị đổ vỡ. Page 21
  23. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Barclays, một trong những ngân hàng lớn nhất thế giới, đang dính vào vụ scandal thâu tóm lãi suất Libor. Trong khi đó, HSBC, ngân hàng lớn nhất châu Âu, cũng vừa bị buộc tội có dính líu đến hoạt động rửa tiền ở Mexico. Cách đây không lâu, JP Morgan đã khiến giới tài chính sửng sốt khi công bố lỗ hơn 5 tỷ USD do chiến lược giao dịch sai lầm. Ngoài những thiệt hại liên quan đến danh tiếng của ngân hàng cũng như những thiệt hại tài chính mà các cổ đông phải gánh chịu, có 1 điều mà công chúng nhận thấy rõ ràng: đạo đức của ngành ngân hàng đang bị đổ vỡ. Giờ đây, “Làm thế nào để sửa chữa lỗ hổng này?” chính là câu hỏi cần được trả lời. Điều gì khiến các nhân viên của Barclays cho rằng không có gì là sai trái khi làm giả lãi suất Libor? Tại sao các nhân viên của ngân hàng HSBC tại Mexico không kiểm soát chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo chắc chắn rằng họ không hề dính dáng đến hoạt động buôn bán ma túy bất hợp pháp? Một trong những vấn đề chủ chốt ở đây chính là qui mô quá lớn của các ngân hàng. Rõ ràng là, khi một ngân hàng có hàng trăm nghìn nhân viên, người ta không thể đảm bảo chắc chắn rằng tất cả các nhân viên này luôn luôn hành động đúng mực. Những thương vụ mua bán và sáp nhập diễn ra chóng vánh, đặc biệt là khi các bộ phận không thể hoàn toàn hòa nhập vào tập đoàn mẹ, cũng là “thủ phạm.” Hầu hết những vấn đề mà HSBC đang gặp phải hiện nay đều bắt nguồn từ những vụ M&A được quản lý một cách yếu kém. Thêm vào đó, hội đồng quản trị của các ngân hàng lớn cũng phải được tăng cường sức mạnh. Họ cần phải sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách, biết rõ về hoạt động kinh doanh của không chỉ ngân hàng đó mà còn của toàn ngành. Trong trường hợp thiếu hụt thông tin, họ cần tham khảo ý kiến từ những chuyên gia tin cậy để nắm bắt thông tin chính xác và kịp thời. Thiếu hụt những yếu tố trên, các ngân hàng lớn đã phải trả giá. Cấu trúc tiền lương “mở đường” cho tính thiếu trung thực. Trong những năm ngành ngân hàng bùng nổ, thù lao của các nhân viên ngân hàng tăng vọt do doanh thu tăng trưởng mạnh và cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các ông lớn và những kẻ "sinh sau đẻ muộn" đầy tham vọng. Tốc độ tăng trưởng thần kỳ của Barclays sau khi mua lại một phần Lehman Brothers là một trường hợp điển hình. Động thái hối thúc các ngân hàng cắt giảm thưởng cho nhân viên của các nhà làm luật là rất đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, các qui định này cần được mở rộng áp dụng với cả những nhân viên ở cấp thấp hơn – bộ phận có nguy cơ phạm tội cao nhất. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính ngày càng trầm trọng, các ngân hàng đang tự rút ra bài học từ chính những lỗi lầm trong quá khứ. Lấy HSBC là một ví dụ, ngân Page 22
  24. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ hàng này đã thay đổi hoàn toàn chiến lược kinh doanh trên toàn cầu với các tiêu chuẩn áp dụng chặt chẽ hơn. Đã có nhiều ý kiến cho rằng các ngân hàng nên quay về với mô hình ban đầu, khi lương thưởng của nhân viên phải gắn với những rủi ro mà họ gặp phải chứ không phải chỉ dựa vào các hợp đồng mà họ kí được như hiện nay. Ngược lại, không ít người cho rằng mô hình này sẽ là một bước lùi và khiến tăng trưởng kinh tế bị xói mòn. Tuy nhiên, sự bền vững trong tương lai mới là điều quan trọng nhất. VIII. Một số rủi ro khác: 1) Rủi ro thuần túy: Đó là loại rủi ro do thiên tai gây ra như bão lụt, động đất, hoả hoạn, hoặc các rủi ro do bị trộm cắp, lừa đảo, tệ nạn tham nhũng dẫn đến thiệt hại nặng nề về tài sản cho ngân hàng. Tuy nhiên bằng các biện pháp bảo hiểm và bảo vệ sẽ phần nào hạn chế được những thiệt hại khi rủi ro này xảy ra. 2) Rủi ro hệ thống: Là rủi ro có thể xảy ra như nhập dữ liệu sai, kiểm soát thay đổi kém, kiểm soát dự án kém, lỗi lập trình, lỗi dịch vụ, an ninh hệ thống, sự không phù hợp của hệ thống . Ví dụ: Trường hợp của 1 chủ thẻ do rút tiền tại ATM của 3 ngân hàng khách với ngân hàng phát hành, số tiền thực tế rút là 2 triệu VND nhưng do lỗi hệ thống tài khoản đã bị trừ mất 9 triệu VND, hay như trường hợp của 1 chủ thẻ khác rút 2 triệu nhưng tiền không ra trong khi đó tài khoản vẫn bị trừ mất 2 triệu. 3) Rủi ro pháp lý: Là rủi ro từ sự không rõ ràng của các hoạt động pháp lý hoặc không rõ ràng trong việc áp dụng và hiểu các hợp đồng, luật hay quy chế. Ở một số nước, rủi ro pháp lý bắt nguồn từ sự không rõ ràng của quan điểm pháp lý. Chương 2) : Những ứng phó của NHTW các nước trên thế giới đối với những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM các nước này. I. Giới thiệu chung về NHTW 1) Khái niệm chung về NHTW Để tìm hiểu về những ứng phó của NHTW đối với bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống NHTM của các nước trên thế giới thì trước hết ta cần hiểu NHTW là gì? NHTW là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước , được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng Page 23
  25. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ và ngân hang, với mục tiêu cơ bản là ổn định và an toàn trong hoạt động hệ thống ngân hang. NHTW thực hiện chức năng quản lý không chỉ đơn thuần bằng các luật lệ , các biện pháp hành chính, mà còn thong qua các nghiệp vụ mang tính chất hoạt động kinh doanh sinh lời. NHTW có các khoản thu nhập từ tài sản của mình như : chứng khoán chính phủ, cho vay chiết khấu, kinh doanh trên thị trường ngoại hối . Hai mặt quản lý và kinh doanh gắn chặt chẽ với nhau, hoạt động kinh doanh chỉ là phương tiện để quản lý, tự nó không phải là mục đích của NHTW, sau khi trừ các chi phí hoạt động đều phải nộp vào NSNN. 2) Các chức năng của NHTW trong nền kinh tế hiện đại 2.1) Chức năng độc quyền phát hành tiền Đi liền với sự ra đời của NHTW thì toàn bộ việc phát hành tiền được tập trung vào NHTW theo chế độ nhà nước độc hành phát hành tiền của cả nước. Giấy bạc ngân hàng do NHTW phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp , làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Để cho giá trị đồng tiền được ổn định, nó đòi hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt. Các nguyên tắc đó là : Phát hành tiền dựa vào dựa trữ vàng đảm bảo Phát hành tiền có đảm bảo bằng hàng hóa 2.2) Chức năng ngân hàng của các ngân hàng Là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW thực hiện một số nghiệp vụ sau đây : Mở tài khoản và nhận tiền gửi của các NHTM : + tiền gửi dự trữ bắt buộc + tiền gửi thanh toán Cho vay đối với các NHTM : + bổ sung vốn khả dụng cho NHTM + Cứu nguy cho các NHTM ( cho người vay vốn cuối cùng) Tổ chức thanh toán bù trừ giữa các NHTM 2.3) Chức năng NHTW là ngân hàng của nhà nước Nói chung NHTW đa số là ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước, được thành lập và hoạt động theo pháp luật. Ở đây, NHTW thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu sau : Nhận tiền gửi của kho bạc Bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ Cho chính phủ vay khi cần thiết 2.4) Chức năng QLNN về lĩnh vực tiền tệ và tín dụng Đó là các chức năng sau : Quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và tín dụng + xây dựng thực thi CSTT + phê duyệt , cấp phép và quy định quy chế hoạt động của các NHTM Page 24
  26. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ + đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng +thanh tra kiểm tra hoạt động của hệ thống ngân hàng Tư vấn và làm đại lý , đại diện cho chính phủ + cố vấn cho chính phủ về CSTT + đại diện cho chính phủ trong các mối quan hệ đối ngoại về tiền Có thể thấy NHTW là chủ thể quan trọng trên thị trường tiền tệ, NHTW có nhiệm vụ cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế. NHTW giám sát hoạt động của các ngân hàng, điều hành vĩ mô thị trường tiền tệ thông qua các công cụ chủ yếu là nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, kiểm soát hạn mức tín dụng, quản lý lãi suất của các NHTM làm cho CSTT luôn được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó. Tại tất cả các nước, NHTW được sử dụng như một công cụ quan trọng trong điều chỉnh nền kinh tế của nhà nước vì NHTW nắm trong tay các mối quan hệ kinh tế quan trọng nhất. Dưới đây là một trong những chính sách, biện pháp của NHTW đưa ra để quản lý những rủi ro trong hoạt động tài chính – tiền tệ của các NHTM II.Ứng phó của NHTW đối với những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM của các nước trên thế giới Hoạt động của các NHTM luôn phải đối mặt nhiều rủi ro trong suốt quá trình hoạt động, ở tất cả các khâu, các lĩnh vực. Kinh nghiệm cho thấy khó có thể né tránh rủi ro mà quan trọng hơn là việc chấp nhân nó và có biện pháp phòng ngừa chúng để đạt được hiệu quả tốt trong quá trình hoạt động dựa trên cơ sở quản lý rủi ro. Để quản lý rủi ro, người ta phân rủi ro thành các loại cơ bản : rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro nguồn vốn, rủi ro lãi suất, rủi ro tỉ giá hối đoái, rủi ro thuần túy, rủi ro sở hữu chéo, rủi ro trong hoạt động kinh doanh Trong đó rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản là hai rủi ro dễ gặp nhất và thường là lớn, vì đây là hoạt động cơ bản của NHTM và hoạt động này ngày càng tăng trưởng nhanh theo thời gian. Mặt khác, năng lực quản tri rủi ro còn nhiều bất cập trong khi môi trường kinh doanh và pháp luật chưa ổn định . Do vậy, rủi ro về tín dụng luôn là mối đe dọa đến sự an toàn và phát triển bền vững của các NHTM của các quốc gia trên thế giới. Dưới giác độ quản lý nhà nước thì mục tiêu hoạt động an toàn, lành mạnh của các NHTM là cực kì quan trọng được coi là ưu tiên hang đầu, trước hết là vì sự an toàn của hệ thống tài chính, sau đó là góp phần vào sự tang trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy NHTW cần quản lý chặt chẽ mọi hoạt động của các NHTM nhằm ngăn chặn và giảm thiếu tối đa rủi ro có thể xảy ra. Một số hoạt động trong quản lý nhà nước của NHTW là: 1) Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng của NHTW Thống đốc NHTW có chỉ thị yêu cầu các tổ chức tín dụng triển khai ngay những biện pháp nhằm tăng cường phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh Page 25
  27. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Trong đó, NHTW yêu cầu các tổ chức tín dụng phân tích, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong từng quy trình nghiệp vụ để triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro đồng thời rà soát, lựa chọn cán bộ có năng lực, trình độ , phẩm chất đạo đức để thực hiện các hoạt đông nghiệp vụ. Và NHTW các quốc gia đã có các biện pháp cụ thể để hạn chế rủi ro tín dụng như sau : 1.1) Quản lý,giám sát, thanh tra chặt chẽ các NHTM Nhằm đảm bảo các NHTM khi được cấp phép có khả năng hoạt động an toàn. NHTW quy định các điều kiện tiêu chuẩn như : năng lực quản trị, hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ, hệ thống công nghệ thông tin, một số chức danh lãnh đạo, tổ chức bộ máy, vốn pháp định Ví dụ như : Ở Việt Nam một NHTM muốn thành lập thì phải có vốn pháp định tối thiểu là 3000 tỉ đồng Các quy định này nhằm loại những ngân hang không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn và bảo vệ khách hang. Do đó, đây là khâu đầu tiên trong hoạt động quản lý, tiếp đó là các công tác thanh tra, giám sát . Page 26
  28. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Mục tiêu giám sát : Duy trì sự ổn định và sự tin cậy của hệ thống tài chính, giảm thiểu rủi roc ho khách hang cũng như rủi ro về tín dụng. Duy trì trật tự và kỉ luật thị trường bằng cách khuyến khích tính minh bạch rõ rang của các chủ thể hoạt động trên thị trường, trên cơ sở thúc đẩy sự phát triển và tính hiệu quả của các thị trường tài chính. Đảm bảo rằng các NHTM sau khi ra đời có đủ nguồn lực thích hợp để trang trải cho những rủi ro trong kinh doanh như rủi ro tín dụng, bao gồm tỉ lệ an toàn vốn và những tỉ lệ khác, tăng vốn điều lệ khi cần thiết. Đảm bảo rằng các NHTM có đủ trình độ và năng lực quản lý, có hệ thống hoạch toán kế toán theo chuẩn mực, minh bạch và chính xác và một hệ thống kiểm soát hữu hiệu Việc được NHTW cấp giấy phép thành lập và hoạt động đã khẳng định các NHTM có đủ điều kiện ban đầu để hoạt động : đã phân loại được từng loại hình ngân hàng để xác định phương thức quản lý phù hợp; duy trì sự hợp lý của cung- cầu về hoạt động ngân hàng giữa các địa phương trong cả quốc gia và hơn nữa là bước đầu hạn chế rủi ro tín dụng và nhiều rủi ro khác và vì sự phát triển ổn định của các NHTM dưới sự kiểm soát của NHTW . Nhằm thực hiện vai trò quản lý nhà nước, NHTW thực hiện vai trò thanh tra giám sát đối với các tổ chức tín dụng. Trong việc này, NHTW sử dụng 2 phương pháp cơ bản là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ a)Phương pháp giám sát từ xa ( thanh tra gián tiếp ) Phương pháp giám sát từ xa là quá trình cơ quan thanh tra, giám sát thu thập xử lý số liệu của NHTM, tiến hành phân tích và ra các văn bản khuyến cáo với các NHTM với mục tiêu : đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của NHTM, cảnh báo sớm, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Hoạt động giám sát từ xa là định hướng cho hoạt động thanh tra tại chỗ. Phương thức giám sát cần một số điều kiện như khuôn khổ luật pháp, quy chế an toàn, hạ tầng công nghệ, nhân lực, hệ thống kiểm toán, Page 27
  29. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ chế độ hoạch toán và kỉ luật thông tin báo cáo. Đặc điểm chung của phương thức này là: Việc giám sát do cơ quan thanh tra, giám sát thực hiện tập trung thống nhất đối với NHTM trên cơ sở hợp nhất Dựa vào nguồn thông tin trên cơ sở báo cáo của các NHTM, từ số liệu lịch sử và các nguồn thông tin khác Xử lý thông tin, phân tích đưa ra nhận xét về thực trạng của các NHTM Việc giám sát thực hiện lien tục theo định kì Các chỉ số phân tích, xếp loại NHTM dựa theo tiêu chuẩn CAMELS  Hạn chế của phương thức giám sát từ xa là : Không kiểm chứng được đầy đủ và trung thực của thong tin Cần có thông tin bổ sung từ bên ngoài không thiết phải thể hiện qua báo cáo như trao đổi trực tiếp với các NHTM hay qua công ty kiểm toán b) Phương thức thanh tra tại chỗ ( thanh tra trực tiếp ) Phương thức thanh tra tại chỗ là việc NHTW tổ chức đoàn thanh tra đến tại nơi làm việc của NHTM để trực tiếp xem xét, kiểm tra hồ sơ, tài liệu chứng từ gốc có liên quan đến nội dung cần thanh tra, từ đó đánh giá về từng mặt hoặc toàn bộ hoạt động của NHTM. Mục tiêu của thanh tra tại chỗ là : Đánh giá mức độ tin cậy của những thông tin, tài liệu kế toán, tài chính mà NHTM cung cấp cho cơ quan thanh tra, giám sát Đánh giá tình hình chấp hành chính sách, pháp luật, các quy trình , chế độ của NHTW, phát hiện những vi phạm, sai sót và kiến nghị những biện pháp chấn chỉnh, xử lý Đánh giá đo lường mức độ rủi ro và khả năng chống đỡ rủi ro của NHTM Phát hiện những quy trình , quy định chưa hợp lý để kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Đặc điểm của thanh tra tại chỗ là: Thực hiện tại trủ sở của NHTM. Thanh tra viên được tiếp cận trực tiếp với hồ sơ, tài liệu và con người. Thực hiện quy trình có sẵn. Hạn chế của phương thức thanh tra tại chỗ: Bị giới hạn về thời gian và chủ yếu kiểm tra, đánh giá xu hướng rủi ro tại thời điểm nhất định. Việc phân tích thông tin theo mục tiêu, phạm vi của cuộc thanh tra quyết định Phương thức giám sát từ xa hay thanh tra tại chỗ đều nhằm mục đích là giám sát các NHTM và phòng ngừa , ngăn chặn các rủi ro nhất là rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM. Việc kết hợp chặt chẽ giữa hai phương thức thanh tra này là rất quan Page 28
  30. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ trọng, chúng bổ trợ làm tăng hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước về hoạt động ngân hàng. THTW luôn có những biện pháp nhằm giám sát, quản lý, thanh tra các NHTM chặt chẽ nhằm phòng ngừa những rủi ro tín dụng, nó phù hợp với bối cảnh thị trường tài chính của từng quốc gia. Các biện pháp này có hiệu quá rất lớn trong việc phòng ngừa rủi ro tín dụng, được đa số NHTW các quốc gia áp dụng để có một thị trường tài chính ổn định, phát triển. 1.2) Các biện pháp của NHTW áp dụng khi xảy ra rủi ro tín dụng Khi xảy ra rủi ro tín dụng trong thị trường tài chính của quốc gia, NHTW phải đưa ra nhiều giải pháp nhằm giảm bớt nợ xấu, giúp đỡ các NHTM và các tổ chức tín dụng khác. Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo ba phương pháp sau : Phương pháp thứ nhất : Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển. Phương pháp thứ hai : Chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Theo tổ chức tài chính thế giới, đây là cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ thế giới. Đối với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công, không những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ phá sản mà còn bảo tồn được nguồn vốn của các ngân hàng. Phương pháp thứ ba : Để các điều kiện cơ bản tiến trình chứng khoán hóa được thành công, trong vai trò đồng chủ nợ các ngân hàng cần tích cực nâng cao tính công đồng hơn nữa, phối hợp với doanh nghiệp để giải quyết nợ xấu. Đồng thời, các ngân hàng nên sử dụng các công ty con của mình như công ty quản lý buôn Page 29
  31. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ bán nợ, công ty chứng khoán hay công ty quản lý để tham gia chủ động vào tiến trình chứng khoán hóa. Không những thế, Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những nhà bang yếu kém.Những ngân hàng yếu kém là những ngân hàng có quản trị kinh doanh kém và có tỉ lệ nợ xấu rất cao.NHTW cần khuyến khích các ngân hàng thật sự mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém.Tuy nhiên việc mua lại này cần sự hỗ trợ tài chính từ NHTW. Mặt khác, NHTW cũng miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp ) cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ. Các tổ chức tài chính cho rằng, việc miễn thuế này làm giảm tổn thất về nợ xấu, thúc đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ. Đồng thời thực hiện biện pháp này sẽ không làm tốn kém NSNN. Nhà nước cần miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính cho rằng, điều này làm giảm lãi suất huy động, giúp hệ thống NHTM có điều kiện huy động vốn dài hạn thay vì ngắn hạn và đồng thời thúc đẩy tiến trình chứng khoán hóa các khoản nợ. Như vậy, NHTW có vai trò rất quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng cũng như có những biện pháp tuyệt vời giúp giảm bớt hậu quả của rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM của mỗi quốc gia. 2) Biện pháp ứng phó của NHTW đối với rủi ro thanh khoản của NHTM Rủi ro thanh khoản là một trong những rủi ro thường gặp và gây ra những hậu quả khôn lường đến ngành ngân hàng cũng như kinh tế của từng nước.Khi các NHTM gặp rủi ro về thanh khoản thì NHTW cần hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM này thông qua các công cụ điều hành CSTT.Đối với các NHTM lớn, có nhiều giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn thì việc hỗ trợ thanh khoản sẽ thông qua nghiệp vụ thị trường mở tại NHTW.Đối với các NHTM nhỏ không có đủ giấy tờ có giá hoặc không có khả năng cạnh tranh trên thị trường mở thì NHTW hỗ trợ thông qua công cụ tái cấp vốn. 2.1) Ứng phó của NHTW với rủi ro thanh khoản qua nghiệp vụ thị trường mở Để hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM lớn, NHTW đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, nhằm giải quyết những vẫn đề khó khăn mà ngành ngân hàng đang phải đối mặt. Nghiệp vụ thị trường mở có vai trò quan trọng, đây là biện pháp đạt hiệu quả cao : Khi thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, THTW đã chủ động diều chỉnh chính sách tiền tệ thông qua mức cung tiền. Khi NHTW mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ. Đó là nguồn góc gây nên sự biến động trong cung ứng tiền tệ. Biện pháp này đã tạo sự sôi động cho thị trường tài chính, phát triển thị trường tiền tệ, đồng bộ thị trường chứng khoán. NHTW đã mở ra một kênh truyền vốn cho các TCTD, giúp các NHTM có nguồn vốn giải quyết vấn đề thanh khoản. Page 30
  32. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ NHTW sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để điều chỉnh vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Khi NHTW mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng, làm tăng lượng tiền dự trữ của hệ thống NHTM. Ngược lại, khi NHTW bán chứng khoán, làm thu hẹp cơ số tiền tệ , làm giảm lượng cung ứng tiền, qua đó làm giảm dự trữ của hệ thống NHTM. 2.2) Ứng phó của NHTW với rủi ro thanh khoản qua công cụ tái cấp vốn Có ba hình thức tái cấp vốn của NHTW để ứng phó với rủi ro thanh khoản của những NHTM vừa và nhỏ là : Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng : Đây là hình thức tái cấp vốn của NHTW đối với các NHTM, dựa trên cơ sở các hồ sơ tín dụng mà NHTM đã cho vay đối với khách hàng. Theo nghiệp vụ này, NHTM phải xuất trình cho NHTW hồ sơ tín dụng đã được thẩm định và chấp nhận cho khách hàng vay mà chưa tìm được nguồn vốn cần thiết. Căn cứ vào nhu cầu điều hòa khối cung tiền tệ cũng như nhu cầu vay vốn của NHTM, NHTW thẩm định hồ sơ để chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ khác của NHTM: NHTW cho phép các NHTM vay vốn bằng hình thức chiết khấu và tái chiết khấu. Khi có nhu cầu vay vốn thì NHTM đến các sở giao dịch và làm theo các thủ tục được quy định rõ ràng. Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác : là hình thức cho vay của NHTW dành cho các TCTD là ngân hàng xin vay trên cơ sở cầm cố các giấy tờ có giá thuộc sở hữu của các ngân hàng này như : tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, công trái, tín phiếu NHTW . Tái cấp vốn là nghiệp vụ quan trọng của NHTW là một trong những công cụ điều hành CSTT quốc gia, nguồn vốn vay từ nghiệp vụ tái cấp vốn là nguồn vốn không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM, có vai trò cực kì quan trọng khi NHTM gặp rủi ro về thanh khoản và các rủi ro khác. 3) Ứng phó của NHTW về rủi ro tỉ giá hối đoái của NHTM Rủi ro tỉ giá hối đoái cũng xảy ra thường xuyên trong hoạt động ngân hàng, để ứng phó với loại rủi ro này, NHTW đã thực hiện một số biện pháp sau : 3.1) Chính sách chiết khấu Đây là chính sách mà NHTW bằng cách thay đổi lãi suất cho vay chiết khấu của mình để điều chỉnh tỉ giá hối đoái trên thị trường. Khi muốn tỉ giá hối đoái giảm xuống, NHTW nâng cao lãi suất chiết khấu, làm cho lãi suất thị trường tăng lên, kết quả là làm cho các nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường quốc tế chạy vào trong nước để thu lợi tức cao. Lượng vốn nước ngoài chạy vào sẽ góp phần làm dịu sự căng thẳng của cầu vượt cung ngoại hối, do đó làm cho tỉ giá giảm xuống. Ngược lại, muốn cho tỉ giá hối đoái tăng lên thì NHTW Page 31
  33. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ sẽ giảm lãi suất chiết khấu xuống làm cho lãi suất thị trường cũng giảm theo và qua nhiều mặt tác động sẽ làm cho tỉ giá hối đoái giảm. 3.2) Chính sách hối đoái Đây là chính sách mà NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách mua bán ngoại hối trên thị trường. Cụ thể là : Khi tỉ giá lên cao, NHTW tăng cường bán ngoại hối ra thị trường làm cung ngoại hối trên thị trường tăng lên do đó làm giảm bớt căng thẳng về cung cầu ngoại hối trên thị trường và kéo tỉ giá tụt xuống. Còn khi tỉ giá giảm xuống, NHTW sẽ mua vào ngoại hối, tăng nhu cầu ngoại hối trên thị trường và làm giảm bớt căng thẳng trong quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường dẫn đến tỉ giá hối đoái từ rừ tăng lên. Một hình thức khác của chính sách hối đoái đó là việc thành lập quỹ bình ổn hối đoái. Nhà nước sẽ thành lập quỹ này dưới hình thức bằng ngoại tệ, vàng hoặc phát hành các loại trái phiếu ngắn hạn, chủ động mua vào bán ra ngoại tệ để kịp thời can thiệp làm thay đổi quan hệ cung cầu về ngoại hối trên thị trường, nhằm mục đích điều chỉnh tỉ giá. Song để thực hiện tốt biện pháp này thì vấn đề quan trọng ở đây là NHTW phải có dự trữ ngoại hối lớn, nếu cán cân thanh toán của một nước bị thiếu hụt thường xuyên thì khó có đủ số ngoại hối để thực hiện phương pháp này. 3.3) Phá giá tiền tệ Đây là sự nâng cao một cách chính thức tỉ giá hối đoái hay nói cách khác đi đó là việc Nhà nước và NHTW chính thức hạ thấp sức mua đồng tiền nước mình so với ngoại tệ. Phá giá tiền tệ có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và hạn chế nhập khẩu hàng hóa, do vậy nó đã góp phần cải thiện cán cân thương mại, làm cho tỉ giá hối đoái bớt căng thẳng. 3.4) Nâng giá tiền tệ Đây là việc Nhà nước và NHTW chính thức nâng giá đơn vị tiền tệ của nước mình so với ngoại tệ, làm cho tỉ giá hối đoái giảm xuống. Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương của một nước hoàn toàn ngược lại với phá giá tiền tệ, nghĩa là, nó có tác dụng hạn chế xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu do đó nó góp phần duy trì ổn định của tỉ giá đảm bảo tí giá không tụt xuống. Trong cuộc chiến tranh thương mại nhằm chiếm lĩnh thị trường bên ngoài, những quốc gia có nền kinh tế phát triển quá “nóng” muốn làm “lạnh” nền kinh tế đi thì có thể dung biện pháp nâng giá tiền tệ để giảm đầu tư vào trong nước và tăng cường chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Ta có thể xem xét ví dụ trường hợp của Trung Quốc – là một trường hợp đáng để nghiên cứu. Sau khi nhận ra sự yếu kém của cơ chế quản lý kinh tế theo kế hoạch, Trung Quốc đã thực hiện cải cách kinh tế từ năm 1979. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, Trung Quốc cũng tiến hành cải cách chính sách tỉ giá. Page 32
  34. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Năm 1994 Bank of China phá giá 50% đồng NDT điều chỉnh mạnh từ 5,8NDT/USD xuống 8,7NDT/USD đồng thời cũng thực hiện chính sách kết hối, bắt buộc các doanh nghiệp và tổ chức xã hội bán nguồn thu ngoại tệ cho các ngân hàng được ủy quyền và không cho phép các tổ chức kinh tế và cá nhân mở tài khoản để lưu giữ ngoại tể. Chỉ đến cuối năm 1997, khi dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 139,89 tỉ USD, BoC mới nới lỏng chính sách kết hối ngoại tệ. Sau 13 năm Trung Quốc đã xóa bỏ chính sách kết hối. Ngày nay, Trung Quốc đang thực hiện thí điểm cho phép một số doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu được gửi ngoại tệ từ nước ngoài. Về quyền quyết định can thiệp thị trường ngoại hối thì một nghiên cứu của BIS cho thấy phần lớn các NHTW dành quyền quyết định những điều chỉnh lớn cho Thống đốc và một số nhỏ NHTW ủy quyền cho các hội đồng như hội đồng điều hành hay hội đồng chính sách tiền tệ. 4) Ứng phó của NHTW về rủi ro lãi suất của NHTM NHTW có thể quy định cung lãi suất tiền gửi và cho vay buộc các ngân hàng kinh doanh phải thi hành. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm tăng nguồn vốn cho vay. Ngược lại, khi lãi suất tiền gửi thấp thì làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng.Song biện pháp này sẽ làm cho NHTM mất tính chủ động linh hoạt trong kinh doanh. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTW giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn khi cần hạn chế đầu tư, NHTW ấn định mức lãi suất cao. Chính những chính sách điều tiết lãi suất này của NHTW đã giúp NHTW kiểm soát các mức lãi suất trên thị trường tài chính, không cho các NHTM tự ý thay đổi lãi suất vì mục tiêu kinh doanh lợi nhuận, quan trọng là nó đã hạn chế rủi ro lãi suất nhằm ổn định hoạt động trong hệ thống NHTM cũng như là ổn định và phát triển kinh tế. Tuy nhiên , ở mỗi nước, NHTW căn cứ vào luật định, điều kiện và bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội, thị trường tài chính – tiền tệ của mỗi nước, cũng như địa vị pháp lý của NHTW, mục tiêu của CSTT ( lạm pháp hoặc đa mục tiêu ) để áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp cho từng thời kì nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ. Tạo điều kiện thuận lợi cho tầng ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. NHTW yêu cầu các NHTM quản trị rủi ro lãi suất cần thực hiện một cách tập trung, thống nhất , tách bạch, chứ không chỉ thực hiện xen kẽ trong quản trị huy động vốn và cho vay. Đây là một công việc phức tạp, nên Ban lãnh đạo cần phân công trách nhiệm rõ rang, đảm bảo công việc được thực hiện bởi những nhân viên có năng lực, có kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm. Ban lãnh đạo cần phải không ngừng học hỏi và ngày càng hoàn thiện các kĩ năng của mình, từ đó chủ động đưa ra những chiếc lược quản trị rủi ro đúng đắn, kịp thời, hạn chế tới mức tối đa rủi ro Page 33
  35. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ lãi suất cho ngân hàng mình. Mặt khác, NHTW luôn giám sát, thanh tra NHTM tránh tình trạng NHTM lợi dụng rủi ro lãi suất để trục lợi. 5) Ứng phó của NHTW đối với rủi ro nguồn vốn của NHTM Trong nền kinh tế thị trường, để kiểm soát và điều tiết tiền tệ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tiền tệ cũng như phòng ngừa, hạn chế khắc phục các rủi ro về nguồn vốn của các NHTM thì NHTW thường sử dụng các công cụ như dự trữ bắt buộc, cho NHTM vay vốn, giám sát chặt chẽ các hoạt động của các ngân hàng : Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro về nguồn vốn thì NHTW quy định NHTM phải có dự trữ bắt buộc (DTBB) . DTBB là một phần số dư tiền gửi mà NHTM phải dự trữ dưới dạn tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTW. Trong hoạt động kinh doanh, các NHTM sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho vay, nhưng một khi khoản cho vay này trở thành nợ xấu mà lúc đó khách hàng gửi tiền lại có nhu cầu rút tiền rủi ro thanh khoản là rất cao. Vì thế DTBB này chính là kho dự trữ lỏng để trợ giúp cho các ngân hàng trong thời kì khủng hoảng về vốn. Cho các NHTM vay vốn khi NHTM thiếu hụt lượng tiền, điều này giúp cho NHTM giải quyết vấn đề rủi ro về nguồn vốn của mình, tránh ảnh hưởng xấu đến hoạt động thị trường tiền tệ. 6) Ứng phó của NHTW về rủi ro sở hữu chéo của NHTM Nguy cơ rủi ro sở hữu chéo của các NHTM trên thế giới là rất lớn, vì thế NHTW của mỗi nước đều có những biện pháp khắc phục hoặc phòng ngừa rủi ro sở hữu chéo bao gồm : NHTW cho phép một ngân hàng mua cổ phiếu ngân hàng khác,các cổ đông được sở hữu cổ phiếu nhiều ngân hàng khác là cần thiết nhưng cũng cần bổ sung những điều kiện quy định nghiêm ngặt như : kiên quyết chấm dứt tình trạng tồn tại một, hai cổ đông chi phối. Vì vậy, NHTW quy định hiện hành về một cổ đông cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một TCTD, một cổ đông là tổ Page 34
  36. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một TCTD, trừ một số trường hợp đặc biệt. Cổ đông và những người lien quan đến cổ đông không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ. Đặc biệt, nghiêm cấm các công ty và tập đoàn sở hữu ngân hàng rồi dùng ngân hàng đó để đầu tư vốn. Luận hóa vấn đề sở hữu chéo, đồng thời tăng cường vai trò và kết hợp chặt chẽ hoạt động của các cơ quan giám sát ngân hàng – bảo hiểm – chứng khoán về một mối, đồng bộ, thông suốt là rất cần thiết để làm rõ “bức tranh” phức tạp đã hình thành và tìm cách ngăn chặn sự lặp lại sở hữu chéo trong tương lai. Bên cạnh việc NHTW giám sát chặt chẽ các quy định hạn chế tỉ lệ sở hữu giữa các ngân hàng với nhau, cũng như yêu cầu các tập đoàn phải thoái vốn khỏi các tổ chức tài chính. Chính phủ các nước cũng đã sớm nghiên cứu và thành lập them những định chế tổ chức, những bộ phận độc lập để cảnh báo, kiểm soát và điều tra những vấn đề liên quan đến ngành ngân hàng, tách biệt và kiểm soát chặt chẽ giữa chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng đầu tư và NHTM nhằm chỉ đạo kịp thời, chính xác việc giảm thiểu sở hữu chéo không cần thiết. 7) Ứng phó của NHTW đối với rủi ro thuần túy Những biến động bất khả kháng xảy ra trong môi trường tự nhiên như : thiên tai, hạn hán , lũ lụt .rồi hỏa hoạn làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, làm doanh nghiệp gặp khó khăn từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động của NHTM . Đối mặt với những vấn đề rủi ro thuần túy này, tùy vào hoàn cảnh mà NHTW sẽ có những biện pháp khác nhau cho từng đối tượng khác nhau như : Hỗ trợ cho các khách hàng, doanh nghiệp chịu thiệt hại của rủi ro thuần túy như vay vốn với lãi suất ưu đãi, điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng khác để doanh nghiệp chịu mức lãi thấp Page 35
  37. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Hỗ trợ nguồn vốn cho các NHTM và dùng CSTT để điều tiết lãi suất, tín dụng, thanh khoản của NHTM nhằm mục tiêu là giúp ngân hàng lẫn khách hàng của ngân hàng vượt qua khó khăn Những rủi ro thuần túy là không thể tránh khỏi đối với mỗi quốc gia, vì thiên nhiên luôn phức tạp và biến đổi khó lường, không một ai có thể biết trước mà phòng tránh. NHTW có vai trò là đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ cho cả doanh nghiệp lẫn NHTM khi họ là nạn nhân của những rủi ro này, việc này có ý nghĩa rất quan trọng trong ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung, tránh những cuộc khủng hoảng về tài chính, lạm phát, suy thoái . Ví dụ như ở Nhật Bản xảy ra vụ song thần kinh hoàng cho toàn dân vào 11/03/2011 đã làm cho nước Nhật Bản khốn đốn và ngành ngân hàng cũng không là ngoại lệ.ước tính của các chuyên gia thế giới thì tổng thiệt hại của nước này qua lên tới 235 tỉ USD chiếm gần 4% GDP của cả nước, và các ngân hàng cũng nằm trong nạn nhân của thảm họa thiên tai này. Trước tình hình đó, Chính phủ Nhật Bản đã phải sử dụng tới nguồn ngân sách từ NHTW để trợ giúp vốn cho các ngân hàng, để từ đó, ngân hàng bơm vốn cho các doanh nghiệp và người dân giúp họ vượt qua khó khăn về tài chính. 8) Ứng phó của NHTW đối với rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM Hoạt động kinh doanh của các NHTM bao gồm :hoạt động huy động vốn (như nhận tiền gửi của các cá nhân , tổ chức kinh tế xã hội,thậm chí cả nguồn tiền gửi của các ngân hàng khác ) ; hoạt động sử dụng vốn; ngân hàng thực hiện các dịch vụ trung gian Khi hoạt động kinh doanh thì các ngân hàng thương mại thường xuyên gặp phải những rủi ro như : rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro sở hữu chéo, rủi ro nguồn vốn. rủi ro thuần túy, rủi ro thanh khoản và rủi ro tỉ giá hối đoái. Để giúp các NHTM phòng tránh, giải quyết những rủi ro trên thì NHTW đã đưa ra những CSTT phù hợp với từng loại rủi ro và từng hoàn cảnh.Về những chính sách cụ thể cho từng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng của NHTW thì ta đã phân tích rõ ở trên.Qua những CSTT của NHTW đưa ra thì đã thể hiện được quyền điều tiết tài chính của mình, giúp thị trường tài chính hoạt động ổn định, phồn thịnh và phát triển. III. Tổng kết về vai trò của NHTW trong việc giúp các NHTM giải quyết rủi ro Trong hoạt động của các NHTM thì luôn luôn phải đối diện với rất nhiều rủi ro, một mình họ sẽ không thể giải quyết được hậu quả do các rủi ro đấy mang đến. Do đó, NHTW phải cùng các ngân hàng phối hợp cùng nhau để đưa ra những biện pháp tốt nhất, phù hợp nhất, hiệu quả nhất cho nền tài chính – kinh tế. Đồng thời, NHTW cũng củng cố quyền lực của mình trong việc điều hành trong hệ thống các ngân hàng, không cho phép bất cứ một NHTM nào làm nũng loạn tài chính, gây thiệt hại cho nền kinh tế của đất nước. Page 36
  38. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Như vậy, NHTW có vai trò rất quan trọng trong việc xử lý các rủi ro của các ngân hàng, luôn đưa ra những giải pháp mang tính chất quyết định cho ngành ngân hàng của quốc gia mình. Chương 3) : Những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM ở Việt Nam và những ứng phó của NHTW Việt Nam. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay có 3 rủi ro mà các NHTM cần phải quan tâm, nhiều nhất là rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất. I. Rủi ro tín dụng (Nợ xấu). Tình hình kinh tế thế giới đang diễn ra hết sức phức tạp và nguy cơ khủng hoảng tín dụng tăng cao. Việt Nam là một nước có nền kinh tế mở nên không tránh khỏi những ảnh hưởng từ nền kinh tế thế giới. Đứng trước các tình trạng đó đòi hỏi các NHTM ở Việt Nam phải nâng cao nghiệp vụ cũng như quản lí tốt các rủi ro tín dụng. Đây là loại rủi ro dễ xảy ra nhất và thường là lớn, vì đây là hoạt động cơ bản của NHTM ở Việt Nam và Hoạt động này cũng tăng trưởng nhanh theo thời gian. Mặt khác năng lực quản trị rủi ro còn nhiều bất cập trong khi môi trường kinh doanh và pháp luật chưa ổn định, Do vậy rủi ro về tín dụng luôn là mối đe dọa ảnh hưởng đến sự an toàn và pát triển bền vững của các NHTM ở Việt Nam. Nợ xấu đã và đang tác động tiêu cực đến việc lưu thong dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. 1) Thực trạng nợ xấu ở Việt Nam: Từ cuối năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nước ta gặp nhiều khó khăn. Năng lực tài chính cua các doanh nghiệp giảm sút, chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Có thể thấy, vấn đề nợ xấu của Page 37
  39. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ ngành ngân hàng đang là chủ đề nóng được các ban, bộ, ngành liên quan tập trung giải quyết. Theo số liệu của Cơ quan thanh tra giám sát NHTW, từ năm 2008 đến nay, nợ xấu của các NHTM tại Việt Nam có xu hướng tăng nhanh rõ rệt. Trung bình giai đoạn 2008-2011, dư nợ xấu bình quân khá cao, khoảng 51%. Đặc biệt, từ năm 2011, tổng cầu của nền kinh tế giảm mạnh, tiêu thụ hàng hóa gặp nhiều khó khăn, hàng tồn kho lớn, thị trường bất động sản đóng băng, năng lực tài chính của doanh nghiệp giảm sút Điều này làm cho tốc độ tăng dư nợ tín dụng năm 2011 chậm lại ddáng kể. Trong 7 tháng đầu năm 2012, dư nợ tín dụng của Việt Nam chỉ tăng 1,02% nhưng nợ xấu tăng tới 45,5%. Nợ xấu lớn đang làm chi phối vốn của các ngân hàng tăng lên cao, khiến cho nhiều NHTM không muốn dãn nợ và điều chỉnh giảm lãi suất do ảnh hưởng đến lợi nhuận. Đây chính là nguyên nhân cốt yếu khiến các NHTm phải dữ lãi suất cho vay cao hơn thị trường 2-3%. Tính đến 31/3/2012, nợ xấu của cácngân hàng thương mại Việt Nam là 200,000 tỉ đồng, tương đương 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng. Trong đó, nợ xấu của nhóm NHTM nhà nước là 125,8 nghìn tỉ đồng, chiếm 10,37% dư nợ tín dụng của mỗi nhóm. Còn theo thống đốc NHTW thì cho rằng tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tại các NHTM khảng 10%. 6 nhóm ngành có tỷ lệ nợ xấu cao nhất Viêt Nam Bên cạnh những con số thu được ở trên, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cũng đưa ra tỉ lệ nợ xấu là 11,8 %, tương đương với khoảng 270.000 nghìn tỷ đồng. Vậy nợ xấu của các NHTm ở Việt Nam là bao nhiêu vẫn còn là ẩn số, tuy vây tất cả đều thừa nhận rằng tỷ lệ nợ xấu ở Việt Nam là một con só không hề nhỏ. Tại sao lại có sự khác nhau giữa những con số “biết nói” về tỷ lệ nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam? Có thể lí giải sự khác nhau này một cách ngắn gọn như sau :  Thứ nhất: Do cách phân loại nợ có sự khác nhau giữa các tổ chức, các NHTM Page 38
  40. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ  Thứ hai: Thông tin về khách hàng vừa thiếu, vừa không chuẩn xác. Điều nay gây ra không ít khó khăn cho ngân hàng trong việc thiết lập các quan hệ tín dụng.ở Việt Nam, trên 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, không ít doanh nghiệp có báo cáo tài chính không chuẩn xác, lại không qua kiểm toán. Ngay cả với các doanh nghiệp lớn được sự kiểm toán thì sự chậm trễ trong công bố báo cáo tài chính cũng như chất lượng kiểm toán cư cao cũng gây ra nhiều khó khăn cho các ngân hàng. Vì thế việc dựa vào một số thong tin đầu vào để cấp tín dụng, đã dẫn đến một số khoản vay vừa ra khỏi ngân hàng đã có khả năng thu hồi.  Thứ ba, hoạt động thâu tóm, mua bán, sát nhập các công ty sân sau, sở hữu chéo trong ngân hàng đã tạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền. Đây cũng chính là những hoạt động tiềm ẩn nhiều nợ xấu nhưng rất khó chỉ ra để xử lí, khi tính minh bạch và giải trình còn hạn chế.  Thứ tư, nợ xấu còn có nguyên nhân sâu xa từ đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân hàng và khách hàng. Do nhiều nguyên nhân mà một số cán bộ ngân hàng đã cấu kết với khách hàng để cố tình che dấu sự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của NHTW, của NHTM. Mặc dù chưa có số liệu thống kê nhưng trong tổng nợ xấu đó, một tỷ lệ không nhỏ nảy sinh từ vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Tóm lại những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề sở hữu chéo, vấn đề đạo đức nghề nghiệp đã làm nảy sinh nợ xấu tại các ngân hàng và có chiều hướng gia tăng. Cho dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại đã và đang tác động tiêu cực đến điều hành chính sách tiền tệ của NHTW, đến việc lưu thong dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Chừng nào chưa xử lý được vấn đề này thì việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ không đạt hiệu quả. Mặc dù các tổ chức tín dụng (TCTD) của Việt Nam, đặc biệt là hẹ thống các NHTM có tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ khá cao, có chiều hướng gia tăng cảnh báo về chất lượng tín dụng và an toàn hoạt động tín dụng hiện nay, nưng nếu so với nhiều nước rong khu vực đã từng đối mặt với vấn đề nợ xấu trong khủng hoảng tài chính giai đoạn 1998-2000, buộc chính phur phải xử li thì của Việt Nam vẫn thấp hơn: Thái Lan là 47%, Hàn Quốc là 17%, Indonesia là hơn 20%. Tuy nhiên theo thống lệ quốc tế, ngưỡng an toàn của tỷ lệ nợ xâu là dưới 3%, tuy là khó đạt được trong nền kinh tế hiện nay, nhưng tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam là một con số đáng kể và nguy hiểm. Một số ví dụ điển hình về nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam: o Theo ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch hội đồng thành viên ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa thừa nhận , tỷ lệ nợ xấu của AGRIBANK tính đến hiện nay đúng là 6,67%, chiếm hơn 10% tổng nợ xấu của toàn hệ thống. Số nợ xấu này chủ yếu nằm đọng ở một bộ phận tín dụng bất động sản tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP HCM, với những dự án đầu tư từ những năm 2008, 2009. Page 39
  41. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Nợ thuộc nông nghiệp nông thôn chỉ chiếm chưa đến 2%. Tuy nhiên, lãnh đạo AGRIBNK cho biết đã trích dự phòng rủi ro để cân đôi, bù đắp gần đủ vào tỷ lệ nợ xấu, đến cuối năm nay đã gần đủ. 2) Một số nguyên nhân khiến nợ xấu tăng nhanh: Năm 2011, tình hình sản xuất kinh doanh của các danh nghiệp gặp nhiều khó khăn và trong 7 tháng đầu năm 2012 tình hình này vẫn chưa được cải thiện nhiều, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Hầu hết các NHTM theo đuổi chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi năng lực quản trị rủi ro còn niều hạn chế và chậm được cải thiện, đặc biệt là các ngân hang thương mại cổ phần. Một số NHTM tập trung đầu tư vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro (như bất động sản đóng băng và giá bất động sản giảm sâu) khả năng trả nợ của các doanh nghiệp kém đi và việc xử lí tài sản đảm bảo để thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các NHTM gặp không ít khó khăn. Công tác thanh tra giám sát ngân hàng trong một thời gian dài chưa phát huy hiệu quả trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời các vi phạm quy đinh hạn chế cấp tín dụng và đấu tư quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. 3) Ứng phó của NHTW ở Việt Nam:  NHTW giải quyết nợ xấu bằng việc ra các thông tư chỉ đạo các NHTM : Thông tư ra ngày 06/09/2013 về việc mua, bán nợ xấu của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam Page 40
  42. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ  Sử dụng DATC như một công cụ quan trong để xử lí nợ xấu hiện nay. Với nguyên tắc kinh doanh có hiệu quả, DATC mua lại các khoản nợ có tài sản đảm bảo, theo cơ chế thị trường. để DATC có thể làm được nhiệm vụ này thì việc nâng cao năng lực (tài chính, tổ chức, kĩ năng ) là việc làm cần thiết, như chính sách giảm thuế thu nhạp doanh nghiệp cho hoạt động mua bán nợ xấu,giảm thuế giá trị gia tăng cho hoạt động bán tài sảnđảm baolr để thu hồi nợ  NHTW đã chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 3 phương pháp. oNếu doanh nghiệp có lịch sử kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ rả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển bền vững. oPhương pháp thứ hai là chuyển nợ xấu quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hang đang là chủ nợ thành các cổ đông lớnnắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Theo lí giải của VAFI, đây là cách thức xử lí khá phổ biến theo thống lệ thế giới. Đối với Việt Nam từ trước tới nay ddã có rất nhiều trường hợp thành công không như gx cứu được các doanh nghiệp khỏi nguy cơ phá sản mà còn bảo toàn nguồn vốn của các ngân hàng, giảm thiểu rõ rệt tình trạng nợ xấu của các NHTM. Để các điều kiện cơ bản để tiến trình chứng khoán hóa được thành công, theo VAFI, trong đó vai trò đồng chủ nợ các ngân hàng cần tích cực nâng cao trình độ công cộng hơn nữa, phối hợp với doanh ngghiệp để xử lí nợ xấu. Đồng thời các ngân hàng nên sử dụng các công ty con của mình như công ty quản lý, mua bán nợ xấu, công ty chứng khoán hay công ty quản ý quỹ để tham gia chủ động vào tiến trình chứng khoán hóa.  NHTW khuyến khích các ngân hàng thực sự mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém với sự hỗ trợ tài chính từ phía NHTW.  NHTW đã ra quy chế đồng tài trợ.  NHTW đã thực hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tái cấu trúc nền kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội bền vững.  NHTW quy định các điều chuẩn tiêu chuẩn như: năng lực quản trị, hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ, hệ thống công nghệ thông tin, một số chức năng lãnh đạo, vốn  NHTW ban hành các quy định an toàn trong hoạt động. Page 41
  43. Trường Đại học Ngoại thương Tiểu luận Tài chính- tiền tệ Kiềm chế lạm phát và tái cấu trúc nền kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội bền vững 4) Bài học kinh nghiệm cho các NHTM ở Việt Nam:  Đối với NHTM, tất cả các cấp từ hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc và tất cả các nhân viên đều phải nhận thức được tầm quan trọng của rủi ro hoạt động. Hoạt động quản trị phải thuê tư vấn xây dựng khung quản trị rủi ro hoạt động phù hợp cho ngân hàng của mình và môi trường kinh doanh.  Xây dựng về quản trị rủi ro hoạt động trong toàn hệ thống, lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên để thành lập các chốt kiểm soát.  Nhanh chóng xây dựng quy trình hướng dẫn để thu thập thêm các thông tin tổn thất.  Hạn chế tối đa các nguyên nhân gây ra các rủi ro hoạt động từ các yếu tố bên trong NHTM như con người, hệ thống, nhân lực,  Hạn chế tối đa các nguyên nhân rủi ro từ bên ngoài, xây dựng các phương án, đưa ra các tình huống để sẵn sang đối phó cũng như khắc phục kịp thời hậu quả do các lỗi truyền thông, thiên tai gây ra các rủi ro hoạt động. II. Rủi ro thanh khoản. Hơn hai thập kỉ qua, kể từ khi hệ thống ngân hàng Việt Nam thực hiện quá trình cải cách các NHTM đã có những bước phát triển mới về cả lượng và chất, nhưng vấn đề rủi ro thanh khoản dường như chưa được quan tâm đúng mức. Một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các nhà quản lý ngân hàng cần thực hiện là đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lí cho ngân hàng. Ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt, hay nói cách khác là ngân hàng không gặp rủi ro thanh khoản khi luôn có được nguồn vốn khả dụng với chi phí hợp lí vào đúng thời điểm mà ngân hàng cần. Điều này có nghĩa nếu ngân hàng không có đủ nguồn vốn cần thiếp để đáp ứng mọi nhu Page 42