Luận văn Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

doc 90 trang thiennha21 12/04/2022 5490
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_van_hoan_thien_hanh_lang_phap_ly_cho_hoat_dong_tin_dung.doc

Nội dung text: Luận văn Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

  1. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới và chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho dù xây dựng kinh tế thị trường theo mô hình nào trong lịch sử thì Nhà nước cũng phải thực hiện nhiệm vụ có tầm quan trọng bậc nhất là cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường. Trong đó có khung luật pháp cho việc xây dựng và vận hành thị trường các yếu tố sản xuất quan trọng nhất như lao động, vốn, đất đai, tài sản, khoa học công nghệ Về vấn đề này, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết đã đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật nước ta, nguyên nhân, định hướng và các giải pháp thực hiện chiến lược . Tín dụng nói chung và tín dụng NHTM nói riêng là chiếc cầu nối giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế.Tín dụng NHTM có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối với nước ta, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế còn phát triển chủ yếu dựa vào vốn. Tín dụng NHTM là một mối quan hệ kinh tế nên cần phải có một hành lang pháp lý. Hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM là toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia vào mối quan hệ tín dụng NHTM . Tín dụng là mối quan hệ dựa trên sự chuyển giao tài sản, mục đích sử dụng tài sản, thế chấp, cầm cố, xử lý thu hồi nợ. Do đó đòi hỏi phải có một hành lang pháp lý đầy đủ , thống nhất, minh bạch để tín dụng NHTM có thể vận hành một cách thông suốt, mang lại lơi ích cho nền kinh tế. Nhà nước ta trong gần ba mươi năm đổi mới đã đạt nhiều thành công trong việc tạo lập hệ thống pháp luật cho nền kinh tế thị trường vận hành và phát triển. Trong đó hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM cũng từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM ở Việt Nam hiện nay còn thiếu nhiều quy định cần thiết, các quy định còn chưa đồng bộ, chồng chéo, thiếu tính thống nhất, có quy định còn chưa
  2. 2 khả thi, chưa theo kịp thực tiễn như về điều kiện cho vay, thế chấp, cầm cố tài sản, xử lý tài sản để thu hồi nợ . Một khi hành lang pháp lý còn nhiều vấn đề như trên, các NHTM sẽ lúng túng trong áp dụng luật pháp khi thẩm định các khoản tín dụng, việc thu hồi nợ khi có rủi ro xảy ra gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động tín dụng của NHTM. Nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, có nhiều kẽ hở thì sẽ rất khó khăn cho Ngân hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Với những văn bản pháp luật đầy đủ rõ ràng, đồng bộ sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng yên tâm hoạt động kinh doanh, cạnh tranh trong lĩnh vực này. Đây là cơ sở pháp lý để Ngân hàng xử lý các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra. Điều đó giúp Ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay . Do đó nếu chậm được hoàn thiện, hành lang pháp lý sẽ không còn là con đường bằng phẳng mà ngược lại sẽ là rào cản trong việc phát triển tín dụng NHTM, gây ra nhiều vấn đề pháp lý cần phải giải quyết, gây ách tắc trong hoạt động tín dụng NHTM, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của đất nước. Từ những lý do trên đây, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ – chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề tín dụng các NHTM đã được nghiên cứu trong rất nhiều công trình khoa học của các tác giả trong nước. Một số công trình nghiên cứu cơ bản như: - Giải pháp hoàn thiện quan hệ tín dụng giữa NHTM với các doanh nghiệp ở Việt Nam - Lê Thị Thanh Hà. Trường Đại Học Kinh Tế, 2003 . Trong công trình này, tác giả trình bày những lý luận cơ bản, nêu một số thực trạng về hoạt đông tín dụng tại các NHTM tại Việt Nam cũng như đưa ra các giải pháp để hoàn thiện quan hệ tín dụng giữa NHTM với các doanh nghiệp ở Việt Nam - Giải Pháp Mở Rộng và Phát Triển Hình Thức Tín Dụng Ngân Hàng trong Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Lê Minh Vũ. - TP.HCM : Trường Đại Học Kinh Tế, 2001. Với công trình này, ngoài những lý luận cơ bản, một số
  3. 3 thực trạng về hoạt đông tín dụng tại các NHTM tại Việt Nam, tác giả đưa ra các giải pháp mở rộng và phát triển các hình thức tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam. - Nghiên cứu các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam : Luận văn thạc sĩ - Trần Thị Ngọc Hạnh ; người hướng dẫn: TS Nguyễn Thị Loan. - TP.HCM : Trường Đại Học Kinh Tế, 2012. Trong nghiên cứu này tác giả đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cũng như đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam - Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN - PGS, TS Hà Hùng Cường, 2008, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Trong nghiên cứu này, tác giả phân tích thực trạng chung và các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung của nước ta - Thực trạng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam- TS Đinh Văn Ân, 2006, Cổng thông tin Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Một số vấn đề về xây dựng pháp luật cho kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được tác giả phân tích . Tuy nhiên các công trình trên chưa đi sâu phân tích thực trạng cũng như đề ra các giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của các NHTM. Trong luận văn của này, tác giả kế thừa những thành quả của những nghiên cứu trước, đồng thời cố gắng làm rõ những lý luận cơ bản , hệ thống hóa các vấn đề về thực trạng hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM tại Việt Nam cũng như đưa ra các giải pháp hoàn thiện. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là những vấn đề cơ bản thuộc về khung pháp lý mà Nhà nước đã ban hành nhằm điều chỉnh mối quan hệ tín dụng giữa các NHTM và khách hàng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu và giới hạn Luận văn nghiên cứu thực trạng hệ thống các văn bản pháp luật dưới góc độ tín dụng của các NHTM . Tín dụng ngân hàng là hoạt động trung gian tài chính huy động vốn của xã hội để cho vay đối với nền kinh tế . Cấp tín dụng của NHTM bao gồm nhiều
  4. 4 nghiệp vụ như : cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu giấy tờ có giá nhưng thực tiễn khi nói đến tín dụng ngân hàng là nói đến hoạt động cho vay. Do đó luận văn này chỉ nghiên cứu dưới góc độ huy động vốn và cho vay của các NHTM. 4. Mục đích nghiên cứu: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về vai trò của Nhà nước trong việc ban hành khung pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ tín dụng; về hệ thống pháp luật; về tín dụng NHTM, từ đó đề xuất phương hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng các NHTM. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu : - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như vai trò của Nhà nước trong việc ban hành hệ thống pháp luật trong nền kinh tế thị trường ; hành lang pháp lý ở nước ta cho tín dụng NHTM. - Phân tích thực trạng hệ thống văn bản pháp luật ở nước ta điều chỉnh mối quan hệ tín dụng NHTM ở nước ta từ năm 1986 đến nay tức là giai đoạn xây dựng kinh tế thị trường. Trên cơ sở những phân tích về lý luận, thực tiễn có những đề xuất phương hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng các NHTM ở nước ta. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1 Phương pháp luận Luận văn dựa trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nguyên lý của kinh tế chính trị Mác - Lênin 6.2 Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích so sánh và suy luận logic để tổng hợp các dữ liệu, sự kiện nhằm xác định kết quả phù hợp. - Phương pháp tổng hợp các phần nghiên cứu để đưa luận điểm khoa học. - Phương pháp thống kê mô tả 7. Kết cấu của luận văn
  5. 5 Chương 1: Lý luận chung về NHTM và hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM.trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Chương 2: Thực trạng hệ thống hành lang pháp lý điều chỉnh mối quan hệ tín dụng NHTM ở nước ta Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM ở nước ta.
  6. 6 CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HÀNH LANG PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN 1.1 Tổng quan về NHTM : 1.1.1 Khái niệm Ngân hàng là một loại hình trung gian tài chính của nền kinh tế mà hoạt động cốt lõi, mang bản chất ngân hàng là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thanh toán Từ khi ra đời từ thế kỷ thứ 15 cho đến nay, thuật ngữ ngân hàng không cố định mà có sự thay đổi theo thời gian và không gian. Khi mới hình thành khái niệm ngân hàng dùng để chỉ các tổ chức chuyên nhận tiền gửi và sử dụng tiền đó để cho vay. Sự phát triển của nền kinh tế đã cho ra đời nhiều loại hình tổ chức khác nhau có phương thức kinh doanh tiền tệ đa dạng phong phú nên thuật ngữ “Ngân hàng” trở nên hạn hẹp, không bao trùm hết được, vì vậy xu hướng trên thế giới sử dụng thuật ngữ “ Định Chế tài chính” có phạm vi rộng hơn, bao quát hơn Định Chế tài chính được hiểu là một doanh nghiệp mà tài sản chủ yếu của nó là các tài sản tài chính, các hình thức trái quyền như cổ phiếu, trái phiếu các khoản vay Có thể khái quát về ngân hàng thông qua các điểm sau : Thứ nhất : Ngân hàng là một loại hình trung gian tài chính của nền kinh tế (cần phân biệt các khái niệm định chế tài chính-trung gian tài chính) Tuy nhiên là loại trung gian tài chính quan trọng nhất ( so sánh về số lượng cũng như quy mô phát triển) Thứ hai : Hoạt động cốt lõi, mang bản chất ngân hàng là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thanh toán. Đây là hoạt động có tính truyền thống hình thành lâu đời, thể hiện đặc trưng riêng biệt của ngân hàng Theo thời gian , hoạt động của các ngân hàng ngày càng mở rộng hơn so với các hoạt động cốt lõi mang tính truyền thống của nó trở thành loại hình ngân hàng đa năng, cung cấp những sản phẩm đa dạng, từ việc nhận tiền gửi, cung cấp dịch vụ thanh toán, cho vay thương mại, cho vay xuất nhập khẩu cho đến tài trợ các vụ
  7. 7 mua bán, sát nhập công ty , tư vấn đầu tư giám hộ, mua bán kinh doanh chứng khoán (tự doanh), bảo hiểm. Luật về ngân hàng tại Việt nam không sử dụng thuật ngữ Định chế tài chính mà thay thế bằng thuật ngữ Tổ chức tín dụng. Theo đó các loại hình tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân. Trong số đó ngân hàng là loại hình phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ đông đảo nhất. Luật quy định Ngân hàng là tổ chức tín dụng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng bao gồm : ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã 1.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại Với mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa rủi ro, kinh doanh ngân hàng có những đặc trưng cơ bản sau đây : Thứ nhất kinh doanh ngân hàng là kinh doanh có điều kiện So với những hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực khác, có thể nói kinh doanh ngân hàng phải tuân thủ những điều kiện khắt khe về vốn pháp định, về bộ máy tổ chức hoạt động, về phạm vi các nghiệp vụ kinh doanh được phép, không được phép thực hiện Có thể lý giải điều này là vì lĩnh vực tài chính tiền tệ là một lĩnh vực nhạy cảm, có liên quan đến hầu hết các ngành nghề trong nền kinh tế . Ngân hàng được ví như hệ thần kinh của nền kinh tế, bởi bất kỳ một biến động nào của hệ thống ngân hàng cũng có ảnh hưởng theo hai chiều ngược lại đối với toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác hoạt động ngân hàng có tính lan truyền rất cao. Vì vậy những quy định khắt khe trong kinh doanh ngân hàng là cần thiết nhằm tạo ra một môi trường lành mạnh, không chỉ có lợi cho từng tổ chức tín dụng/ ngân hàng mà còn cho sự ổn định chung của hệ thống và nền kinh tế Những điều kiện cơ bản quy định trong kinh doanh ngân hàng gồm có :Quy định về mức vốn pháp định khi thành lập ngân hàng; Quy định về các mức đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng; Quy định về phạm vi hoạt động được phép của ngân hàng Thứ hai: đối tượng kinh doanh của ngân hàng là các tài sản tài chính Thực chất kinh doanh ngân hàng là việc sản xuất, buôn bán, quản lý , lưu thông và sử dụng tiền cùng các tài sản tài chính
  8. 8 Tài sản tài chính là các loại tài sản không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất hàng hóa dịch vụ, như tiền, chứng khoán và các giấy tờ có giá Các loại tài sản này chỉ là những chứng chỉ bằng giấy hoặc có thể là những dữ liệu trong máy tính sổ sách. Cụ thể hơn, tài sản tài chính là những tài sản có giá trị không dựa vào nội dung vật chất của nó (giống như bất động sản gồm nhà cửa, đất đai) mà dựa vào các quan hệ trên thị trường, chẳng hạn như cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác Thứ ba : Hoạt động kinh doanh ngân hàng mang tính chất trung gian Tính chất trung gian (intermediaries) trong hoạt động ngân hàng xuất phát từ việc ngân hàng làm trung gian giữa người gửi tiền (Depositor) và người vay tiền (Borrowers) . Có thể phân tích tính chất này trên nhiều khía cạnh khác nhau cụ thể, Đó là : Trung gian về mệnh giá : ngân hàng là tổ chức tín dụng thu thập nhiều khoản tiền tiết kiệm nhỏ lẻ của nhiều tầng lớp, chủ thể trong nền kinh tế , hình thành nên quỹ cho vay và có thể cung cấp những khoản tín dụng quy mô lớn cho các chủ thể như công ty, chính quyền Trung gian về kỳ hạn : quỹ cho vay của ngân hàng được hình thành từ những khoản tiền gửi có các loại kỳ hạn khác nhau, thậm chí không có kỳ hạn, đã được ngân hàng chuyển thành những khoản cho vay ra với các kỳ hạn khác nhau thỏa mãn nhu cầu người sử dụng, đặc biệt là những khoản vay trung dài hạn mà thời hạn có thể lên tới vài chục năm. Điều này dĩ nhiên tiềm ẩn nhiều rủi ro ngân hàng.Tuy nhiên bằng nhiều kỹ thuật quản trị hiện đại, các ngân hàng có hóa giải được mâu thuẫn này để thực hiện vai trò trung gian kỳ hạn của mình. Với tính chất này, ngân hàng đã hóa giải được mâu thuẫn tồn tại tất yếu từ hai phía khách hàng: người gửi tiền thì hầu hết muốn gửi tiền có kỳ hạn ngắn, trong khi người vay tiền thì muốn sử dụng trong thời gian dài. Trung gian lãi suất:Ngân hàng được xem là các tổ chức kinh doanh chênh lệch lãi suất. Lãi suất ngân hàng trả cho người gửi tiền là lãi suất đầu vào còn lãi suất ngân hàng là lãi suất đầu ra.Những chi phí hoạt động ngân hàng bỏ ra, phí bù đắp cho rủi ro khi cho vay và lợi nhuận của ngân hàng nằm trong khoản chênh lệch
  9. 9 giữa lãi suất ngân hàng thu được và lãi suất ngân hàng phải trả cho người gửi tiền. Trung gian thanh khoản: thanh khoản là yêu cầu của con người đối với hầu hết các loại tài sản đang nắm giữ.Tuy nhiên nhu cầu thanh khoản của mọi người lại không giống nhau. Với người gửi tiền, có thể thỏa thuận gửi tiền theo kỳ hạn, nhưng có thể thay đổi theo thời gian bởi các biến cố không dự kiến được từ nền kinh tế, từ xã hội họ vẫn muốn rút ra bất kỳ lúc nào, thậm chí chấp nhận chịu phạt hoặc không được hưởng lãi. Người đi vay do đầu tư vào các dự án, phương án kinh doanh nên chỉ muốn hoàn trả khi dự án, phương án kinh doanh kết thúc và có lợi nhuận, thậm chí nhiều khi muốn tiếp tục xoay vòng vốn, trì hoãn việc trả nợ Ngoài các nội dung trên, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động trung gian thông tin, trung gian rủi ro Thứ tư : Hoạt động ngân hàng chịu sự chi phối mạnh mẽ của môi trường Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm vi một nước mà liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho hoạt động kinh tế đối ngoại; do vậy kinh doanh trong hệ thống ngân hàng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước như : môi trường pháp luật, môi trường kinh tế đặc biệt là chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó có công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Mặt khác , xu thế hội nhập quốc tế buộc các ngân hàng phải hiểu rõ về tập quán kinh doanh của các nước, thông lệ quốc tế, trong đó các quy định của ủy ban Basel (Ủy ban giám sát hoạt động ngân hàng) là không thể thiếu được Thứ năm: hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh đặc biệt có rủi ro hệ thống cao Mặc dù ngân hàng là một doanh nghiệp , nên mục đích sau cùng là hướng tới lợi nhuận, tuy nhiên hoạt động của ngân hàng có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế , đặc biệt, hoạt động cấp tín dụng không chỉ đơn thuần vì túi tiền của riêng ngân hàng mà quan trọng hơn nó được xem là đòn bẩy phát triển kinh tế, chính vì thế chịu sự chi phối rất mạnh mẽ của pháp luật
  10. 10 So với các ngành kinh doanh khác, kinh doanh ngân hàng có mức độ tập trung rất cao.Đặc trưng này thể hiện tất cả các quốc gia trên thế giới, không loại trừ Việt nam. Mỗi một ngân hàng thường có một tổ chức rộng rãi với hội sở và mạng lưới nhiều chi nhánh lan tỏa khắp nơi. Điều này vừa tạo thuận lợi vừa gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình quản trị mạng lưới hoạt động của mình sao cho hiệu quả nhất Như mọi ngành dịch vụ khác, sản phẩm của ngân hàng là sản phẩm vô hình, khách hàng không thể cân đọng đo đếm mà chỉ “cảm nhận” được chất lượng của nó. Vì vậy, sự thành công trong kinh doanh ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào long tin dân chúng. Do tài chính, tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bới rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý truyền thống văn hóa vì vậy , sự thay đổi dù nhỏ nhất của bất kỳ một nhân tố nào cũng đều ảnh hưởng rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung của ngân hàng, gây đổ vỡ luôn chính ngân hàng này do tác động dây chuyền 1.1.3 Chức năng của NHTM trong nền kinh tế thị trường : 1.1.3.1 Chức năng trung gian tín dụng Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của NHTM. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay 1.1.3.2 Chức năng trung gian thanh toán Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo
  11. 11 thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. 1.1.3.3 Chức năng tạo tiền Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. NHTM tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn. 1.1.4 Các nghiệp vụ NHTM Nghiệp vụ nội bảng là những nghiệp vụ trực tiếp tác động đến hai phía (nợ và có) trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Bất kỳ một nghiệp vụ nào trong số các nghiệp vụ này xuất hiện đều làm cho cân đối kế toán của ngân hàng thay đổi. Hầu hết các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng nằm trong số này Nghiệp vụ ngoại bảng thông thường bao gồm các hoạt động không dung đến nguồn vốn, vì vậy khi những nghiệp vụ thuộc dạng này phát sinh, chúng không ảnh hưởng đến bảng cân đối của ngân hàng nhưng vẫn có thể mang lại những nguồn thu nhập cho ngân hàng, như các dịch vụ thu hoa hồng phí, tư vấn kinh doanh ngoại tệ, bảo quản vật có giá, bảo lãnh, chấp nhận . Phần dưới đây chúng ta sẽ đi sâu vào cách phân loại phổ biến nhất, đó là phân loại theo cách hạch toán trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng
  12. 12 1.1.4.1 Nghiệp vụ nội bảng Bảng 1 : Bảng cân đối kế toán (tóm lược) của một NHTM Tài sản Tài sản nợ và vốn 1.Dự trữ tiền 1. Tiền gửi khách hàng Tiền mặt Tiền gửi giao dịch Tiền gửi tại ngân hàng trung ương Tiền gửi phi giao dịch Tiền gửi tại các TCTD 2. Vay thị trường tài chính 2. Cho vay khách hàng 3.Vốn chủ sở hữu 3. Đầu tư Vốn điều lệ 4. Tài sản cố định Quĩ và lãi không chia 5. Tài sản khác 4. Tài sản nợ khác Tổng tài sản Tổng tài sản nợ và vốn 1.1.4.2 Nghiệp vụ tài sản có 1.1.4.2.1 Dự trữ bằng tiền : Vai trò của dự trữ bằng tiền là đảm bảo khả năng thanh toán. Đặc điểm của nghiệp vụ này là không hoặc ít sinh lời, nên các ngân hàng luôn tìm cách duy trì chúng ở mức tối thiểu. Dự trữ của ngân hàng thường được lưu giũ dưới dạng tiền mặt tại quỹ hoặc tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các tổ chức tài chính khác. Qui mô nguồn vốn, tính chất các nguồn, tính chất khách hàng và qui định về đảm bảo thanh khoản là những yếu tố ảnh hưởng đến qui mô và tỷ trọng của loại tài sản này 1.1.4.2.2 Tín dụng Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các ngân hàng nên chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghiệp vụ về sử dụng nguồn vốn . Về phương diện quản trị, khoản mục
  13. 13 tín dụng được xem là những tài sản có rủi ro sinh lời của NHTM , nhất là các ngân hàng qui mô nhỏ, tỷ trọng tài sản được lưu giữ dưới khoản mục tín dụng vẫn còn khá cao. Tuy nhiên xu hướng của các ngân hàng hiện đại là sẽ giảm dần tỷ trọng của khoản mục này, nhằm hạn chế những hậu quả xấu bởi các rủi ro tất yếu do tín dụng mang lại. các yếu tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ này là: đặc điểm thị trường, nguồn vốn, qui định của Nhà nước về hạot động tín dụng ngân hàng, vị thế cạnh tranh và lãi suất mà ngân hàng áp dụng Ở đây cần dành ít thời gian để làm rõ khái niệm Tín dụng và Tín dụng ngân hàng . Tín dụng trong tiếng Anh là Credit. Theo nhiều cuốn Từ điển tiếng Việt thì hầu hết được giải thích là việc cho vay và mượn tiền. Theo trang vi.wikipedia.org thì ”Tín dụng là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất”. Theo Nguyễn Minh Kiều (2012) thì : ”Về mặt tài chính, tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng trong một thời hạn nhất định với một chi phí nhất định ” và ” Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa ngân hàng và khách hàng, theo đó có thể là quan hệ cho vay của ngân hàng đối với hoặc quan hệ gởi tiền của khách hàng vào ngân hàng ”. Một số sách chỉ cho rằng tín dụng ngân hàng tập trung vào quan hệ cho vay của ngân hàng đối với khách hàng. Còn theo Luật các TCTD 2010 thì không có giải thích từ tín dụng mà chỉ giải thích cụm từ cấp tín dụng: ” Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.” Thông thường trong các giáo trình , các nhà soạn sách thường đồng nhât tín dụng với cho vay, còn các nghiệp vụ chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng sẽ được giảng ở các phần khác không thuộc phần tín dụng.
  14. 14 Tín dụng có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội, được thể hiện trên các phưong diện: -Tín dụng ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất, đồng thời đầu tư phát triển kinh tế. Do quá trình tái sản xuất xã hội là thưòng xuyên và liên tục nên nhu cầu về vốn thường xuyên ở mức độ cao. Trong khi đó lại có tổ chức, cá nhân có nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời trong một thời gian nhất định. Bên cần vốn thì có thể vay được vốn với chi phí thấp và kịp thời để hoàn thành công việc của mình, bên có vốn thì thu được khoản lợi trong thời gian mình không dùng tới khoản vốn đó. Hoạt động tín dụng ra đời biến các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thành những nguồn vốn đưa vào hoạt động kinh doanh có hiệu quả cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng như phục vụ cho mọi tầng lớp dân cư khi cần vốn. Thông qua tín dụng ngân hàng các nguồn vốn được tập trung và các nguồn vốn đó được đưa vào quá trính sản xuất kinh doanh. Điều này khiến đầu tư cho nền kinh tế được mở rộng góp phần thúc đẩy, kích thích tăng trưởng kinh tế. -Tín dụng ngân hàng là công cụ thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Tín dụng ngân hàng là hoạt động đi vay để cho vay, làm nhiệm vụ đưa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho ngân hàng đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong quá trình đầu tư, tín dụng ngân hàng không chia đều cho mọi chủ thể có nhu cầu mà việc đầu tư được thực hiện một cách tập trung chủ yếu vào những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư tập trung là quá trình tất yếu vừa đảm bảo tránh rủi ro, vừa thúc đẩy được quá trình tăng trưởng kinh tế.
  15. 15 -Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá, tiền tệ, điều tiết trong lưu thông và kiểm soát lạm phát. Tín dụng ngân hàng sẽ làm cho hàng hóa , dịch vụ được tiêu thụ nhanh hơn, nhiều hơn. Qua đó thúc đẩy luân chuyển hàng hóa , tiền tệ. Việc điều hoà vốn tín dụng trong nền kinh tế không chỉ là giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt và hạn chế việc sử dụng tiền mặt, từ đó tiết kiệm được chi phí lưu thông cho xã hội, góp phần vào việc điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ, đồng thời kiểm soát được lạm phát. -Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài. Quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước đều gắn liền với thị trường thế giới. Tín dụng ngân hàng được mở rộng sẽ kéo theo quan hệ đầu tư trong nền kinh tế tăng khiến cho các quan hệ thương mại khác cũng tăng theo. Thông qua quá trình nhận và cho vay, tài trợ, xuất nhập khẩu của các nước cấp tín dụng cũng như các tổ chức tín dụng khác cũng tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế. Đồng thời tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và làm mối quan hệ giữa các nước trở nên tốt đẹp. 1.1.4.2.3 Đầu tư Đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau tín dụng bởi nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể của ngân hàng. Tuy nhiên cũng như tín dụng, đầu tư là nghiệp vụ sinh lời nhưng hoạt động bị giới hạn do có độ rủi ro tiềm tàng cao. Các ngân hàng có thể tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng khác, kể cả việc góp vốn vào các công ty con, công ty liên kết, quỹ đầu tư hoặc mua các loại chứng khoán vốn, chứng khoán nợ trên thị trường như mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty, cổ phiếu, các loại tín phiếu, của các tổ chức tài chính khác . 1.1.4.3 Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn
  16. 16 1.1.4.3.1 Tiền gởi Đây là các khoản tiền của các tổ chức, của dân cư gửi vào ngân hàng với những mục tiêu an toàn, hưởng lãi, hoặc hưởng các tiện ích của dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Nguồn tiền gửi được xem là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng nhất là NHTM nên tính ổn định của nguồn tiền gửi có ý nghĩa hết sức quan trọng với các NH. 1.1.4.3.2 Vay trên thị trường tài chính và liên ngân hàng Đây là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng trong thị trường liên ngân hàng, thông qua các hoạt động như tái chiết khấu, vay qua đêm, với mục tiêu chủ yếu là tăng khả năng thanh toán cho các ngân hàng.Trên thực tế một số ngân hàng nhỏ do thiếu khả năng huy động nguồn tiền gửi có thể dung vốn vay để sử dụng vào hoạt động tín dụng. Trong khi các ngân hàng qui mô lớn, có thương hiệu lâu đời dùng nguồn huy động của mình để cho vay lại các ngân hàng nhỏ. Đây là một hạn chế trong hoạt động đi vay và cho vay của các ngân hàng cần được quản lý. 1.1.4.3.3 Vốn tự có Vốn tự có của ngân hàng là yếu tố tài chính quan trọng bậc nhất vừa cho thấy qui mô của ngân hàng vừa phản ánh khả năng đảo bảo các khoản nợ của ngân hàng đối với khách hàng. Mặc dù chiếm tỉ trọng tương đối nhỏ trong tổng số hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhưng vốn tự có là một bộ phận không thể thiếu của NHTM để xây dựng trụ sở, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của NH, bảo đảm thanh toán cho người ký gửi khi vỡ nợ, góp phần duy trì chức năng trả nợ, là căn cứ để cơ quan quản lý xem xét để cấp giấy phép hoạt động, thiết lập các chi nhánh, giới hạn tín dụng đầu tư 1.1.4.4 Nghiệp vụ ngoại bảng Các nghiệp vụ này không thể hiện trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Phổ biến nhất trong số nghiệp vụ ngoại bảng là những cam kết của ngân hàng đối với khách hàng
  17. 17 Một số nghiếp vụ ngoại bảng phổ biến sau : -Nghiệp vụ thanh toán và quản lý ngân quỹ -Nghiệp vụ môi giới, trung gian chứng khoán, ngoại hối -Nghiệp vụ bảo lãnh, cam kết -Nghiệp vụ ủy thác -Nghiệp vụ tư vấn -Nghiệp vụ két sắt, bảo quản vật có giá Trong số các nghiệp vụ nêu trên, có một số nghiệp vụ ngân hàng chỉ được phép thực hiện khi thành lập các công ty con, công ty liên kết như nghiệp vụ môi giới chứng khoán, bảo hiểm, quản lý danh mục đầu tư, mua bán cổ phiếu Quy định này tùy thuộc vào luật ngân hàng của mỗi quốc gia Hệ thống NHTM Việt Nam : Hệ thống NHTM Việt Nam được thành lập từ sau nghị định 53 của hội đồng bộ trưởng ngày 26/3/1988, Trải qua hơn 35 năm hoạt động, các NHTM ngày càng trưởng thành và phát triển. Hiện nay có các loại hình NHTM nhà nước , cổ phần , vốn nước ngoài và liên doanh. Nhìn chung các NHTM của Việt Nam có hệ thống quản trị rủi ro còn chưa đáp ứng được yêu cầu thể hiện qua tình trạng nợ xấu trầm trọng hiện nay trong nền kinh tế. Các NHTM chưa phát huy vai trò trung tâm thanh toán vì tình trạng thanh toán không dùng tiền mặt vẫn chưa phát triển. Các NHTM chưa phát huy tốt vai trò điều phối, cung ứng vốn cho nền kinh tế thể hiện qua hiện tượng lúc thiếu vốn ( cách đây vài năm ) lúc thừa vốn ( hiện nay ). Theo trang vi.wikipedia.org ngày 15/3/2014 thì danh sách các NHTM Việt Nam ( Bao gồm cả các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, chi nhánh NH Liên doanh ) như tại Phụ lục 1 1.2 Hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM trong nền kinh tế thị trường : 1.2.1 Khái niệm hành lang pháp lý : Hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM là toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia vào mối quan hệ tín dụng của các NHTM 1.2.2 Khái niệm ,đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
  18. 18 1.2.2.1 Khái niệm : Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự chặt chẽ , trong đó chứa đựng các quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là hình thức pháp luật được sử dụng phổ biến nhất hiẹn nay trên thế giới. 1.2.2.2 Đặc điểm : Từ khái niệm này ta thấy văn bản quy phạm pháp luật có các đặc điểm sau : - Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. Điều này có nghĩa là các cơ quan nhà nước có thể ban hành hoặc phối hợp ban hành nhiều văn bản khác nhau, nhưng không phải văn bản nào cũng được xem là văn bản pháp quy mà chỉ có những văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành với những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, tên gọi, ngôn ngữ , thẩm quyền được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 hoặc Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 mới được gọi là văn bản quy phạm pháp luật. - Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung đối với mọi chủ thể pháp luật mà nó điều chỉnh. Các quy phạm pháp luật chứa trong các văn bản này có giá trị điều chỉnh chung đối với các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản đó, Điều này cũng có nghĩa là văn bản quy phạm pháp luật không có giá trị áp dụng cá biệt cho một cá nhân , tổ chức nào cụ thể mà được áp dụng cho bất kỳ cá nhân tổ chức nào được pháp luật quy định - Văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện trên thực tiễn : Pháp luật là do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự và định hướng của Nhà nước.Vì thế , khi ban hành ra văn bản quy phạm pháp luật , Nhà nước dùng các công cụ cưỡng chế của mình để đảm bảo cho các văn bản đó được thực hiện đúng như Nhà nước đã mong muốn khi ban hành. 1.2.3 Một số vấn đề khi áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
  19. 19 1.2.3.1 Thời gian hiệu lực : Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị thi hành của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định. Hiệu lực này được xác định bằng từ ngày có hiệu lực đến ngày kết thúc hiệu lực của văn bản. Theo quy định tại điều 78 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành. Trường hợp trong tình trạng khẩn cấp thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đưang ngay trên trang điện tử của cơ quan ban hành, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chậm nhất sau 2 ngày làm việc kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành . Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành trừ trương hợp văn bản thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp trong tình trạng khẩn cấp. Theo quy định tại điều 51 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004 thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có hiệu lực sau 10 ngày và phải được đăng trên công báo cấp tỉnh chậm nhất là 5 ngày; cấp huyện có hiệu lực sau 7 ngày và phải được niêm yết chậm nhất là 3 ngày; cấp xã có hiệu lực sau 5 ngày và phải được niêm yết chậm nhất là 2 ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn. Các trường hợp văn bản hết hiệu lực được quy định tại điều 81 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Về mặt nguyên tắc, văn bản quy phạm pháp luật chỉ có giá trị pháp lý từ thời điểm có hiệu lực trở đi đến tương lai theo đúng quy luật thời gian. Tuy nhiên, vì một số lý do nhất định, một văn bản có thể có giá trị tác động đối với những hành vi, những vụ việc xảy ra trước ngày văn bản đó có hiệu lực . Đó gọi là hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật hay gọi cách khác là hiệu lực hồi tố. Điều này được quy định tại điều 79 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Còn theo điều 51
  20. 20 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004 thì không quy định hiệu lực hồi tố đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân . Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 1.2.3.2 Phạm vi, đối tượng áp dụng Văn bản chỉ có giá trị áp dụng trong phạm vi và đối tượng áp dụng của mình, đa số tất cả văn bản đều có quy định về nội dung này tại phần đầu văn bản. Do đó, trước khi áp dụng bất kỳ quy định nào trong văn bản, nên xem lại thật kỹ phần phạm vi và đối tượng áp dụng, để tránh được các rủi ro đáng tiếc. Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước trung ương ban hành thì có hiệu lực trong phạm vi cả nước được áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức mà văn bản đó quy định. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi nhất định đơn vị hành chính địa phương đó, áp dụng cho các cá nhân, tổ chức tham gia các quan hệ xã hội được văn bản đó điều chỉnh. 1.2.3.3 Nguyên tắc lựa chọn áp dụng Pháp luật Việt Nam còn chưa được hoàn thiện, nhiều nội dung chồng chéo lên nhau là thực tế mà không chuyên gia nào trong lĩnh vực pháp luật phủ nhận. Do đó, đương nhiên có những trường hợp có nhiều văn bản cùng điều chỉnh một vấn đề, lúc đó phải có sự cân nhắc phù hợp đề tìm ra luật áp dụng: - Áp dụng văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. - Áp dụng văn bản mới hơn. - Trường hợp văn bản có giá trị pháp lý như nhau thì luật riêng ưu tiên hơn luật chung; luật nào sát với lĩnh vực của vấn đề thì ưu tiên hơn các lĩnh vực khác. 1.2.4 Hệ thống văn bản quy phạm pháp tại Việt Nam : Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay bao gồm : 1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. 2. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. 3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. 4. Nghị định của Chính phủ.
  21. 21 5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. 6. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. 7. Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 8. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. 9. Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước. 10. Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. 11. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. 12. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. 1.2.5 Sự cần thiết và vai trò của hành lang pháp lý trong sự phát triển của tín dụng NHTM Tín dụng NHTM là mối quan hệ dựa trên sự chuyển giao tài sản, mục đích sử dụng tài sản, thế chấp, cầm cố, xử lý thu hồi nợ Với những văn bản pháp luật đầy đủ rõ ràng, đồng bộ sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng yên tâm hoạt động kinh doanh, cạnh tranh trong lĩnh vực này. Đây là cơ sở pháp lý để Ngân hàng xử lý các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra. Điều đó giúp Ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay .Do đó đòi hỏi phải có một hành lang pháp lý đầy đủ , thống nhất, minh bạch để tín dụng NHTM có thể vận hành một cách thông suốt, mang lại lơi ích cho nền kinh tế. Do đó hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM có vai trò rất quan trọng. - Là một trong những công cụ để cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế quản lý hoạt động tín dụng NH thương mại. NHTM cũng là một doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tín dụng NHTM cũng là một hoạt động kinh tế, chưa kể đó là một hoạt động kinh doanh rất quan trọng trong nền kinh tế. Do đó, NHTM và hoạt động tín dụng NHTM phải được quản lý . Cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ , tín dụng và ngân hàng ở nước ta là NHNN Việt Nam . Vị thế của NHNN được xác bằng pháp luật và
  22. 22 đến lượt nó, NHNN phải ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra hoặc xử lý các NHTM trong lĩnh vực tín dụng NHTM. - Là công cụ điều chỉnh mối quan hệ tín dụng giữa NHTM và các khách hàng Tín dụng NHTM là một hoạt động kinh doanh. Mối quan hệ trong tín dụng này là giữa bên cho vay và bên vay. Hành lang pháp lý sẽ quy định, tư cách pháp lý, điều kiện, quyền và trách nhiệm của mỗi bên, cách xử lý khi có các trường hợp phát sinh xảy ra, các thủ tục khi tiến hành mối quan hệ. Tín dụng còn là mối quan hệ lồng ghép mối quan hệ khác như bảo đảm tài sản, bảo lãnh nên càng phải có một hành lang pháp lý đầy đủ để điều chỉnh các mối quan hệ này. Hơn nữa tiền của NHTM là tiền của công chúng nên các bên tham gia tín dụng NHTM phải tuân thủ các quy tắc xử sự nhất định để tránh thất thoát, lãng phí của cải của xã hội - Là công cụ điều chỉnh mối quan hệ kinh tế, quan hệ tiêu dùng tạo nên nhu cầu cần sử dụng vốn trong tín dụng giữa NHTM và các khách hàng . Việc cho vay là đưa tiền ra lưu thông nhằm thỏa mãn nhu cầu dùng tiền của bên vay vốn. Các nhu cầu này phải là nhu cầu sử dụng vốn hợp pháp. Nghe ra thật đơn giản nhưng muốn thực hiện được yêu cầu này cần phải có những văn bản quy phạm pháp luật cần thiết để đối chiếu. Đồng thời sau khi giải ngân xong một thời gian, các NHTM phải kiểm tra sử dụng vốn vay, khách hàng sẽ phải căn cứ các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các hơp đồng kinh tế hoặc việc mua sắm và sẽ lưu lại các bằng chứng để chứng minh việc sử dụng vốn của mình là hợp pháp, đúng mục đích lúc đề nghị vay, các nhu cầu vay của mình không bị pháp luật cấm. - Là công cụ Nhà nước xây dựng chính sách tín dụng NHTM về cơ cấu tín dụng, ngành nghề cần khuyến khích đầu tư Muốn thực hiện việc can thiệp vào thị trường hoặc định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế, nhà nước cần thiết phải khuyến khích xã hội đưa thêm vào hoặc rút bớt vốn ở một lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó . Tín dụng NHTM là một kênh quan trọng để xã hội đầu tư vốn vào nền kinh tế. Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật , Nhà nước có thể khuyến khích tín dụng đầu tư vào lĩnh vực cần ưu tiên phát triển, có thể do ưu tiên tăng trưởng kinh tế, có thể do ưu
  23. 23 tiên chăm lo đời sống nhân dân hoặc có thể do các ưu tiên ngắn hạn như chống lạm phát, chống tăng trưởng nóng, chống lại sự mất cân đối trong sự phát triển giữa các ngành nghề, giữa các vùng, các khu vực kinh tế. 1.2.6 Các yêu cầu của hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM Một hành lang pháp lý đủ điều kiện để đáp ứng cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường nói chung và sự phát triển của tín dụng NHTM cần thỏa mãn các yêu cầu sau đây : 1.2.6.1 Tính bao quát, toàn diện : NHTM ở Việt Nam chỉ mới xuất hiện vào đầu những năm 1990, do đó quá trình tạo dựng hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM cũng chỉ được tiến hành từ thời gian đó. Mặt khác, tín dụng NHTM là một thực thể luôn biến đổi, các chủ thể của mối quan hệ này luôn có nhu cầu thực hiện các nghiệp vụ mới . Do đó, phải có đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật để đủ bao quát điều chỉnh . Hành lang pháp lý đầy đủ phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng của mối quan hệ này . Khả năng này là rất khó nhưng đó là mục tiêu của những người làm luật, những người làm chính sách. 1.2.6.2 Tính đồng bộ Bất kỳ một quy phạm hay văn bản quy phạm pháp luật nào cũng được tạo ra và tác động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ mà trong một tổng thể những mối liên hệ và những sự ràng buộc nhất định. Tín dụng NHTM là một mối quan hệ phức tạp đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật phải có đồng thời, không mâu thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật phải có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau và phải có một trung tâm thẩm định trước khi ban hành 1.2.6.3 Tính thống nhất Hành lang pháp lý phải có tính nhất quán, thể hiện ở chỗ các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau đều phải bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể theo một quan điểm xuyên suốt. Tính hệ thống có nghĩa là phải có ranh giới các đối tượng, phạm vi áp dụng, tránh hiện tượng cùng một mối quan hệ nhưng có nhiều văn bản cùng
  24. 24 điều chỉnh. Tính hệ thống cũng có những khía cạnh tương đồng với tính nhất quán. Tuy nhiên, tính nhất quán của pháp luật hàm chứa khía cạnh nội dung và chính sách trong lúc đó tính hệ thống được thể hiện nhiều qua cấu trúc, cách sắp xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của quy phạm pháp luật. 1.2.6.4 Tính khả thi, công khai, minh bạch Tính minh bạch của pháp luật là một đòi hỏi rất quan trọng. Cũng có quan điểm cho rằng tính minh bạch của pháp luật thể hiện ở việc pháp luật được công bố, được phổ biến rộng rãi công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quan niệm này không sai, song chưa toàn diện, chưa đầy đủ. Tính minh bạch của pháp luật còn thể hiện ở sự minh xác, tính hệ thống và nhất quán. Một hệ thống pháp luật cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và chứa đựng những mâu thuẫn nội tại không thể được coi là minh bạch và không thể đáp ứng được tính khả thi. 1.2.6.5 Tính ổn định Mặc dù tín dụng NHTM là một thực thể biến động liên tục nhưng các văn bản pháp luật điều chỉnh phải ổn định một cách tương đối. Đây là yêu cầu cần thiết, bởi không thể thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật liên tục dẫn đến sự không yên tâm của các chủ thể khi tham gia vay , gửi tiền tại các NHTM. Điều này đòi hỏi các nhà làm luật phải có thái độ thận trọng đồng thời phải có khả năng lường trước những tình huống pháp lý trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1.2.6.6 Phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế Hệ thống NHTM Việt Nam đã hội nhập với hệ thống ngân hàng thế giới do đó phải từng bước tuân thủ các chỉ dẫn do Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đề ra. Do đó các văn bản quy phạm pháp luật mà các cơ quan chức năng của nước ta ban hành phải hướng đến các tiêu chuẩn này. Mặt khác, kinh tế nước ta đã hội nhập kinh tế kinh tế thế giới. Các hoạt động đầu tư, xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế đều liên quan đến hoạt động tín dụng của các NHTM nên các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế của nước ta phải phù hợp hoặc có lộ trình phù hợp với các công ước, các hiệp định mà Việt Nam đã
  25. 25 hoặc sẽ tham gia. Đó là các quy định pháp luật về vốn tự có, vốn pháp định, các tỷ lệ an toàn ; phân nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro 1.3 Nhiệm vụ của Nhà nước trong việc xây dựng hành lang pháp lý cho kinh tế thị trường Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề phát triển, ví dụ như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục các hiện tượng này , nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với các tư cách đó, nhà nước thực hiện các nhiệm vụ : 1.3.1Nhiệm vụ của nhà nước trong nền kinh tế thị trường 1.3.1.1 Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển; Nhà nước phải đảm bảo sự ổn định về kinh tế chính trị và xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất và cơ sở hạ tầng xã hội, hệ thống chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Đó là sự ổn định về kinh tế chính trị và xã hội, hệ thống luật pháp, hệ thống chính sách. Đó còn là ổn định về tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả ít biến động, lạm phát thấp, cạnh tranh lành mạnh. giảm thiểu mâu thuẫn xã hội, hạn chế thất nghiệp,đảm bảo đời sống nhân dân, tạo môi trường xã hội thuận lơi, tạo niềm tin của nhân dân.Nhà nước phải xây dựng hệ thống cơ quan hành chính công và hệ thống cơ quan sự nghiệp dịch vụ công cộng (giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao); cung cấp và phát triển các dịch vụ công cộng. Nhà nước phải bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế; đồng thời sử dụng một số biện pháp cần thiết khi thị trường trong nước hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường khu vực và thế giới có biến động lớn. Nhà nước phải bảo đảm tính ổn định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia. Nhà nước định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
  26. 26 Thông qua công tác qui hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Việc xây dựng luật pháp nhằm đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm cho các chủ thể trong nền kinh tế và sẽ là căn cứ xử lý những hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể kinh tế. Hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và hoàn thiện sẽ làm giảm thiểu những vụ phạm pháp và tranh chấp, tạo sự an tâm cho các chủ thể kinh tế. Vì thị trường là luôn biến động nên pháp luật cũng phải được Nhà nước thường xuyên xây dựng,bổ sung và hoàn chỉnh cho phù hợp. Nhà nước còn có vai trò hỗ trợ phát triển như xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, có chính sách khuyến khích sản xuất kinh doanh, phát triển văn hóa xã hội .Cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội được đẩu tư xây dựng tốt thì kinh tế thị trường sẽ phát triển. Nhiệm vụ của nhà nước là phải xây dựng ngày càng nhiều hạ tầng với chất lượng tốt để hỗ trợ cho sự phát triển của kinh tế thị trường. Mặt khác, nhà nước phải đảm nhiệm các nhiệm vụ chung cho cả quốc gia như bảo vệ đất nước, ngoại giao, truyền thông, y tế, giáo dục, phát triển hệ thống đường giao thông và mạng lưới phân phối điện ở nông thôn v.v cho cả quốc gia. Đó là các hàng hóa, dịch vụ công mà không thể giao cho bất kỳ một chủ thể nào khác. 1.3.1.2 Phân phối lại thu nhập quốc dân. Nền kinh tế thị trường chắc chắn dẫn đến mức độ phân hóa thu nhập và tiêu dùng cao không chấp nhận được. Mức độ phân hóa thu nhập vừa là vấn đề do lịch sử để lại vừa là vấn đề phát triển mà quốc gia nào cũng vấp phải. Sự chênh lệch thu nhập quá mức giữa các tầng lớp dân cư tạo ra áp lực đòi hỏi nhà nước phải thực hiện sự phân phối lại thu nhập theo hướng lấy một phần thu nhập của người giàu trợ giúp cho người nghèo có lý do chính đáng. Nhà nước phải làm cho nền kinh tế thị trường càng ngày càng mang tính xã hội, làm dịu các mâu thuẫn xã hội thông qua phân phối lại thu nhập quốc dân. Do đó nhà nước có nhiệm vụ giúp đỡ những người nghèo trong xã hội do thất nghiệp, bất hạnh, không may, tàn tật, neo đơn có điều kiện tham gia vào thị trường bằng nhiều giải pháp. Theo hướng đó, hệ thống thuế của nhà nước là vô cùng quan
  27. 27 trọng.Thuế thu nhập lũy tiến là một công cụ phân phối lại quan trọng được hầu hết các nước áp dụng. Nhà nước cũng thường áp dụng hệ thống trợ cấp để hỗ trợ cho những người thu nhập thấp hoặc đầu tư vào hệ thống trường học công, bệnh viện công cũng tạo cơ hội cho người nghèo có thể tiếp cận 1.3.1.3 Bảo vệ môi trường. Kinh tế thị trường có thể gây ra các nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường do đó nhà nước phải có chính sách sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải; xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; đầu tư bảo vệ môi trường , xây dựng và phát triển ngành công nghiệp môi trường; hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường và các sản phẩm thân thiện với môi trường; kết hợp hài hoà giữa bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành phần môi trường cho phát triển. Trong lý thuyết ”Điều chỉnh nền kinh tế của nhà nước” J.M.Keynes cho rằng nhà nước cần phải can thiệp sâu để điều tiết nền kinh tế. Trong các biện pháp có sử dụng hệ thống tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ. Ông cho rằng phải kích thích niềm tin. Tính lạc quan của các nhà đầu tư , tăng thêm khối lượng tiền lưu thông để giảm lãi suất cho vay, khuyến khích vay vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Đổi lại, nhà nước phải chấp nhận lạm phát có mức độ. Ông cũng khuyến khích việc chi tiêu của nhà nước kể cả bằng cách in tiền để bù đắp sự thiếu hụt ngân sách nhà nước , dùng công cụ thuế để điều tiết kinh tế như giảm thuế cho sản xuất kinh doanh, tăng thuế thu nhập của người lao động để tập trung nguồn vốn cho ngân sách nhà nước để mở rộng đầu tư. Đối với nước ta, Nhà nước có nhiệm vụ rất quan trọng là quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường không làm giảm nhẹ sự quản lý của nhà nước.Vấn đề là phương thức quản lý của nhà nước như thế nào để vừa đảm bảo đầy đủ các quy luật khách quan của bản thân nền kinh tế thị trường vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển, Nhà nước còn phải làm thật tốt các nhiệm vụ phân
  28. 28 phối lại thu nhập quốc dân theo hướng công bằng, dân chủ và làm tốt nhiệm vụ bảo vệ môi trường. 1.3.2 Nhiệm vụ của Nhà nước trong xây dựng hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường Cơ chế nguyên tắc vận hành cơ bản của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do. Không có cạnh tranh tự do, không thể nói đến kinh tế thị trường. Về bản chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Cạnh tranh là một cuộc chơi. Có người chơi, có sân chơi thì phải có luật chơi. Do đó, Nhà nước có một nhiệm vụ là phải cung cấp một hành lang pháp lý đầy đủ rõ ràng cho sự vận hành của cơ chế cạnh tranh. Cho dù xây dựng kinh tế thị trường theo mô hình nào trong lịch sử thì Nhà nước cũng phải thực hiện nhiệm vụ có tầm quan trọng bậc nhất là cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường. Trong đó có khung luật pháp cho việc xây dựng và vận hành thị trường các yếu tố sản xuất quan trọng nhất như lao động, vốn, đất đai, tài sản, khoa học công nghệ. Với chức năng quản lý kinh tế , nhà nước còn dùng khun pháplý này như một công cụ để điều tiết thị trường , phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của của kinh tế thị trường.Việc xây dựng khung pháp lý cho nền kinh tế thị trường là một quá trình lâu dài. Với các nước đã trải qua hàng trăm năm kinh tế thị trường thì luật pháp của họ cũng phải thường xuyên thay đổi với thực tiễn. Ta sẽ thấy rõ điều này khi nghiên cứu về kinh nghiệm của nước Mỹ khi xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động của tín dụng và đầu tư của các NHTM ở phần 4 sau đây. Một hành lang pháp lý cho kinh tế thị trường bao trùm mọi mặt của hoạt động kinh tế có thể khái quát trong các lĩnh vực sau : -Xác định các chủ thể pháp lý, tạo cho họ các quyền ( năng lực pháp lý ) và hành động ( năng lực hành vi, khả năng kinh doanh mang tính thống nhất ) -Quy định các quyền về kinh tế ( quyền sở hữu,quyền sử dụng, quyền chuyển nhượng, quyền thừa kế ) -Về hợp đồng kinh tế, các nguyên tắc cơ bản của Luật hợp dồng dựa trên cơ sở thỏa thuận, trên cơ sở tự nguyện của các bên. Luật hợp đồng quy định quyền của các chủ thể pháp lý , tức là các hành vi pháp lý.
  29. 29 -Về sự bảo đảm của nhà nước đối với các điều kiện chung của nền kinh tế có các Luật bảo hộ lao động, Luật môi trường, Luật cạnh tranh và chống độc quyền, các quy định về mặt xã hội có Luật bảo hiểm xã hội -Về Luật kinh tế đối ngoại. 1.4 Kinh nghiệm các nước 1.4.1Kinh nghiệm của Mỹ Nước Mỹ là một nước có hệ thống NHTM phát triển bậc nhất trên thế giới . Lịch sử phát triển của NHTM Mỹ đã trải qua hàng trăm năm. Ngân hàng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng phản ánh lưu chuyển tiền tệ của cuộc sống, do đó luôn nảy sinh các tình huống pháp lý đòi hỏi Quốc hội và Chính phủ Mỹ phải tạo lập một hành lang pháp lý đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và thường xuyên được tu chính để có thể theo kịp cuộc sống năng động của kinh tế thị trường.Từ những năm 1930, các nhà lãnh đạo Mỹ đã đưa ra các hoạt động điều tiết với mục đích thừa nhận vị trí đặc biệt mà ngân hàng nắm giữ. Thứ nhất, bảo hiểm tiền gửi của chính phủ nhằm bảo vệ người gửi tiền và giúp duy trì ổn định hệ thống ngân hàng bằng cách giảm nguy cơ người gửi tiền ồ ạt rút tiền khỏi ngân hàng. Trong thời kỳ Đại khủng hoảng, rất nhiều người gửi tiền lo sợ ngân hàng nơi mình gửi tiền tiết kiệm đổ vỡ nên đã tìm cách rút tất cả tiền gửi vào cùng một lúc. . Nhiều ngân hàng, kể cả những ngân hàng hoạt động rất thận trọng, đã sụp đổ bởi vì họ không thể kịp chuyển tài sản của mình đủ nhanh ra tiền mặt để thỏa mãn ý định rút tiền của người gửi. Bảo hiểm tiền gửi được xây dựng nhằm ngăn ngừa trường hợp đổ dồn tới ngân hàng như vậy. Chính phủ tuyên bố bảo hiểm cho những khoản tiền gửi tới một mức nhất định - hiện nay là 100.000 USD. Bây giờ, nếu ngân hàng gặp khó khăn về tài chính thì người gửi không có gì phải lo lắng. Cơ quan bảo hiểm ngân hàng của chính phủ, còn gọi là Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang, sẽ thanh toán hết cho người gửi bằng quỹ bảo hiểm được hình thành từ tiền đóng bảo hiểm của chính các ngân hàng. Thứ hai, kinh nghiệm trong việc kiểm soát lãi suất : Sau chiến tranh, chính phủ chú trọng tới việc tăng cường quyền sở hữu nhà ở, do vậy đã góp phần tạo ra một lĩnh vực hoạt động ngân hàng mới - “tiết kiệm và cho vay” (S&L) - để
  30. 30 tập trung vào các khoản vay thế chấp nhà cửa dài hạn, còn gọi là các khoản vay thế chấp. Hoạt động tiết kiệm và cho vay đối mặt với một vấn đề cơ bản: các khoản vay thế chấp thường kéo dài 30 năm với lãi suất cố định, trong khi đó hầu hết các khoản tiền gửi có thời hạn ngắn hơn nhiều. Khi lãi suất tiền gửi ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn của các khoản vay thế chấp, hoạt động tiết kiệm và cho vay có thể sẽ bị lỗ. Để bảo vệ các tổ chức tín dụng tiết kiệm và cho vay và ngân hàng tránh khỏi sự cố này, các nhà điều tiết quyết định kiểm soát lãi suất tiền gửi. Trong một khoảng thời gian, hệ thống này vận hành rất tốt. Vào các thập kỷ 1960 và 1970, hầu hết người Mỹ sử dụng hình thức tài chính S&L để mua nhà ở. Tỷ lệ lãi suất trả cho tiền gửi tại các tổ chức tín dụng S&L được giữ ở mức thấp, nhưng hàng triệu người Mỹ vẫn gửi tiền của mình vào đây bởi vì bảo hiểm tiền gửi đã làm cho các tổ chức này trở thành một nơi đầu tư cực kỳ an toàn. Tuy nhiên, đầu thập kỷ 1960, các mức tỷ lệ lãi suất chung bắt đầu tăng cùng với lạm phát. Vào thập kỷ 1980, nhiều người gửi tìm cách nâng cao thu nhập bằng việc chuyển tiền tiết kiệm của mình vào những quỹ thị trường tiền tệ và những tài sản không thuộc ngân hàng khác. Điều này đã đặt ngân hàng và các quỹ tiết kiệm và cho vay vào tình trạng kiệt quệ về tài chính, không có khả năng thu hút các khoản tiền gửi mới để trang trải cho danh mục đầu tư lớn của mình với những món nợ dài hạn. Để giải quyết các vấn đề của họ, vào thập kỷ 1980 chính phủ bắt đầu rút bỏ dần trần lãi suất đối với tiền gửi ngân hàng và các tổ chức tín dụng S&L. Thứ ba, chính phủ không nên điều khiển trực tiếp những khoản đầu tư nào mà ngân hàng thấy nên tiến hành; tốt hơn hết các khoản đầu tư nên được xác định dựa trên cơ sở các lực lượng thị trường và giá trị kinh tế. Như trên đã nói, mặc dù việc bỏ trần lãi suất tiền gởi giúp các tổ chức tín dụng thu hút tiền gửi trở lại, nhưng nó lại tạo ra những thua lỗ lớn và rộng khắp cho các danh mục đầu tư dựa vào vay thế chấp của các tổ chức S&L. Để giải quyết điều đó, Quốc hội nới lỏng các điều kiện cho vay để các tổ chức tín dụng S&L có thể tiến hành những hoạt động đầu tư với thu nhập cao hơn. Cụ thể, Quốc hội cho phép các tổ chức S&L thực hiện các khoản tín dụng phục vụ cho tiêu dùng, kinh doanh
  31. 31 và bất động sản thương mại. Họ cũng được giải phóng khỏi một số thủ tục điều tiết quy định mức vốn mà các tổ chức tín dụng S&L phải duy trì. Do lo sợ bị thu hẹp nên các tổ chức tín dụng S&L đã mở rộng sang các hoạt động có rủi ro cao như đầu cơ bất động sản. Trong rất nhiều trường hợp, những hoạt động kinh doanh như vậy đã chứng tỏ không có lãi, đặc biệt khi các điều kiện kinh tế trở nên bất lợi. Thực vậy, một số tổ chức S&L đã bị những người không trung thực tiếp quản, họ là những kẻ chiếm đoạt. Nhiều tổ chức S&L bị thua lỗ lớn. Chính phủ đã chậm phát hiện ra cuộc khủng hoảng này do sự khan hiếm ngân sách cùng với các áp lực chính trị làm chùn bước bộ máy điều tiết. Thứ tư, việc ngân hàng cho vay đối với những người trong ngân hàng hoặc các công ty liên kết với người trong ngân hàng cần phải được hạn chế và giám sát chặt chẽ. Trước cuộc Đại khủng hoảng, nhiều ngân hàng gặp rắc rối vì họ tham gia quá mạo hiểm vào thị trường chứng khoán hoặc cung cấp các khoản vay cho các doanh nghiệp công nghiệp mà trong đó các giám đốc hoặc cán bộ ngân hàng cũng đầu tư với tính chất cá nhân. Kiên quyết tránh điều đó lặp lại, các nhà chính trị thời kỳ Đại khủng hoảng đã thông qua Đạo luật Glass-Steagall cấm pha trộn hoạt động ngân hàng với kinh doanh bảo hiểm và chứng khoán. Tuy nhiên, chính sách điều tiết này đã gây tranh cãi vào thập kỷ 1970, khi các ngân hàng than phiền rằng họ sẽ bị mất khách hàng vào tay các công ty tài chính khác nếu họ không đa dạng hóa các dịch vụ tài chính. Chính phủ đáp ứng lại bằng cách cho phép ngân hàng có quyền tự do hơn trong việc đưa ra các hình thức dịch vụ tài chính mới cho khách hàng. Sau đó, vào cuối năm 1999, Quốc hội thông qua Đạo luật đạo luật Gramm-Leach- Bliley, hiện đại hóa dịch vụ tài chính năm 1999 thay thế Đạo luật Glass- Steagall. Luật mới này mở rộng đáng kể quyền tự do mà các ngân hàng đang được hưởng để cho phép chúng đưa ra mọi dịch vụ từ vay gửi của khách hàng cho đến bao tiêu phát hành chứng khoán. Nó cho phép ngân hàng, các công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm hình thành những tập đoàn có đủ khả năng cung cấp cho thị trường nhiều sản phẩm tài chính bao gồm quỹ tín dụng, cổ phiếu và hối phiếu, bảo hiểm và các khoản vay nợ của ngành sản xuất ô tô. 1.4.2 Kinh nghiệm một số nước Đông Nam Á :
  32. 32 Ở khu vực Đông nam Á, có một số nước tương đồng với Việt Nam về trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế và các nước này cũng đã trải qua các giai đoạn phát triển kinh tế thị trường khác nhau. Do đó việc tham khảo chính sách của chính phủ các nước này sẽ cho nhiều bài học bổ ích cho kinh tế Việt Nam Thái Lan :Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống. Bắt đầu từ năm 1960 Thái Lan bắt đầu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội . Trong thập niên 1970 Thái Lan thực hiện chính sách "hướng xuất khẩu", ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, Âu Châu là thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan. Ngành công nghiệp và dịch vụ đã dần dần đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và vai trò của nông nghiệp giảm dần. Hiện nay, Thái Lan là một nước công nghiệp mới. Tuy nhiên, nền tảng kinh tế vĩ mô không vững chắc, việc điều hành nền kinh tế có nhiều bất cập, sự phụ thuộc quá lớn vào các dòng vốn ngoại đã dẫn đến khủng hoảng tài chính năm 1997 tại Thái Lan. Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi. Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. ( Theo Wikipedia) Khủng hoảng tài chính đã để lại nhiều hậu quả đối với nền kinh tế Thái Lan. Chính phủ và Ngân hàng trung ương Thái Lan đã tiến hành nhiều chính sách để cải tổ mạnh mẽ hệ thống tài chính ngân hàng của nước này ,
  33. 33 chấn chỉnh và cải cách hệ thống ngân hàng,chính phủ đã đóng cửa, giải thể, chu yển nhượng hoặc sáp nhập 58 tổ chức tài chính yếu ,điều chỉnh cơ cấu nợ, chuyển các khoản nợ khó đòi sang các công ty quản lý tài sản, triển khai các mô hình xử lý nợ phù hợp; cơ cấu lại các doanh nghiệp thông qua sáp nhập, giải thể, bán cho chủ nợ; thiết lập hành lang pháp lý để cải tổ chức năng của ngân hàng trung ương , nâng cao khả năng giám sát việc thực hiện các quy định; cấp vốn và tái cấp vốn cho các ngân hàng thiếu vốn; xử lý tài sản của các định chế tài chính bị đóng cửa, giải thể. Các chính sách này của Thái Lan đã thu được kết quả tích cực và được cộng đồng đầu tưquốc tế đánh giá cao. Malaixia : Malaixia là một quốc gia quân chủ lập hiến liên bang tại Đông Nam Á bao gồm 13 bang và ba lãnh thổ liên bang. Kể từ khi độc lập năm 1957, Malaysia trở thành một trong những nước có tăng trưởng kinh tế tốt nhất tại châu Á, GDP tăng trung bình 6,5% trong gần 50 năm. Ngày nay, Malaysia có một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới, có GDP danh nghĩa xếp thứ ba tại Đông Nam Á và xếp thứ 29 trên thế giới. Trong thập niên 1970, nền kinh tế dựa chủ yếu vào khai mỏ và nông nghiệp của Malaysia bắt đầu chuyển đổi hướng đến một nền kinh tế đa lĩnh vực hơn. Từ thập niên 1980, lĩnh vực công nghiệp, với đầu tư ở mức cao, dẫn dắt tăng trưởng của quốc gia bên cạnh thương mại và du lịch. Khủng hoảng tài chính châu Á 1997 cũng ảnh hưởng đến nước này. Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997. Để khắc phục hậu quả của khủng hoảng tài chính, Malaixia đã thực hiện các chính sách can thiệp tương đối độc lập , không chịu sự lệ thuộc vào nguồn tài chính và các giải pháp do IMF đề ra như : Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng một cách chặt chẽ bằng cách sáp nhập, tránh việc đóng cửa các tổ chức này; thành lập công ty quản lý tài sản để xử lý các khoản nợ xấu; thành lập công ty cấp vốn để bơm vốn cho các định chế tài
  34. 34 chính để tăng hệ số an toàn. Nhờ đó kinh tế Malaysia phục hồi sớm hơn các quốc gia láng giềng, và kể từ đó phục hồi mức của thời kỳ tiền khủng hoảng với GDP bình quân đầu người là 14.800 đô la.( Theo Wikipedia) 1.4.3 Bài học cho Việt Nam : Từ các kinh nghiệm ở các nước nói trên , Việt Nam có thể rút ra cho mình các bài học sau đây : - Điều chỉnh chính sách kinh tế và cơ cấu đầu tư : Chính sách kinh tế của mỗi nước phụ thuộc vào tình hình của mỗi nước và từng thời kỳ nhất định, không thể rập khuôn vào bất kỳ một khuôn mẫu nào cho dù khuôn mẫu đó có thành công đến đâu. Những khuyến nghị của các tổ chức tài chính quốc tế là điều cần thiết, mỗi nước đều nên tham khảo nhưng quyết định thực hiện chính sách nào đều phải tùy tình hình mỗi nước. Như việc áp dụng lãi suất, Mỹ rút bỏ dần trần lãi suất đối với tiền gửi ngân hàng nhưng ở nước ta vẫn có thể áp trần lãi suất trong giai đoạn hiện nay do việc cơ cấu lại các TCTD vẫn còn chưa xử lý xong, thanh khoản của các NHTM vẫn còn chưa vững chắc. Cuộc khủng hoảng 2007 ở Mỹ là do việc cho vay dễ dãi, dưới chuẩn, việc cho vay bị lợi dụng, buông lỏng kiểm soát rủi ro, cơ cấu cho vay không hợp lý, các sản phẩm tài chính phái sinh cho nên Việt Nam cần thận trọng trong việc đề ra các chính sách tăng trưởng tín dụng. Cơ cấu đầu tư do thị trường quyết định, vốn của xã hội sẽ được bơm vào lĩnh vực có tỷ trọng sinh lợi cao, chắc chắn thu hồi được vốn. Tuy nhiên, nếu để thị trường tự phát không có sự kiểm soát thông qua quy hoạch, dự báo sẽ dẫn đến lĩnh vực đầu tư nào đó sẽ quá nóng, dẫn đến hiện tượng bong bóng kinh tế như các hiện tượng bong bóng bất động sản, chứng khoán đã diễn ra trong thời gian qua - Kiểm soát đầu tư và hạn chế lợi ích nhóm trong đầu tư của NHTM : NHNN cần phải có chính sách để kiểm soát việc đầu tư của các NHTM thông qua biện pháp như buộc các NHTM không tập trung cho vay hay đầu tư quá tỷ lệ an toàn nào đó với từng lĩnh vực cụ thể. NHNN phải có sự theo dõi sát sao tình hình đầu tư, cho vay của cả nền kinh tế, có những điều tra, dự báo để có chính sách định hướng đầu tư phù hợp.
  35. 35 Mặt khác, việc vay vốn trong những nền kinh tế còn thiếu vốn như ở Việt Nam vẫn còn một số khó khăn. Việc hình thành các nhóm lợi ích chi phối việc cho vay tại một ngân hàng, chi nhánh NH nào đó là việc rất dễ xảy ra. Việc có những quy định về việc cấm, hạn chế cho vay những đối tượng khách hàng nào đó hoặc phải kiểm soát nhóm khách hàng có liên quan là điều cần thiết. - Triệt để xử lý nợ xấu, bảo vệ người gởi tiền vào NH, có biện pháp phù hợp trong xử lý các TCTD yếu kém : Việc nhanh chóng xử lý các khoản nợ xấu vừa tái tạo nguồn vốn cho các NHTM tiếp tục cho vay vừa làm lành mạnh nề kinh tế. Do đó cần phải có chính sách xử lý nợ xấu nhanh, quyết liệt, mạnh mẽ. Trong tình hình pháp luật của chúng ta hiện nay còn chưa tạo điều kiện cho các NHTM xử lý nợ xấu nhanh thì bài học này càng có ý nghĩa . Điều này đòi hỏi các nhà làm luật cần phải có những bước đột phá về luật và các văn bản dưới luật để từng NHTM, chi nhánh NHTM tự xử lý nợ xấu dựa vào thị trường chứ không phải chờ đến lúc Công ty quản lý tài sản ra đời để mua lại nợ xấu của các NHTM . Việc bảo vệ người gởi tiền không chỉ trông mong vào các định chế bảo hiểm tiền gởi mà cái quan trọng hơn là phải cải thiện năng lực tài chính của các NHTM. Thái Lan đã rất mạnh tay trong việc xử lý các TCTD yếu kém. Mỹ cũng đã chi rất nhiều tiền để xử lý các định chế tài chính thua lỗ, Malaixia cũng có các biện pháp sáp nhập các TCTD . Ở các nước trên đều giống nhau ở mục tiêu là phải cải tổ hệ thống tài chính ngân hàng nhưng khác nhau ở giải pháp thực hiện. - Phát huy yếu tố nội lực, xem trọng thị trường trong nước, tranh thủ nhưng không quá phụ thuộc vào thị trường quốc tế : Bảo đảm độc lập, tự chủ trong điều hành kinh tế vĩ mô, cần thiết tham khảo các khuyến nghị của các tổ chức tài chính quốc tế nhưng quyết định chính sách là phụ huộc vào tình hình đất nước vào từng thời điểm cụ thể. Chiến lược kinh tế hướng ngoại quá mạnh sẽ không vững chắc trong tình hình quốc tế thường xuyên biến động như hiện nay. Thị trường trong nước với 90 triệu dân cần phải được xem trọng đúng mức, nhất là vùng nông thôn. Cần phải có chiến lược chiếm lĩnh thị trường nội địa, không để hàng rẻ tiền, chất lượng thấp của
  36. 36 các nước xung quanh chiếm lĩnh còn hàng hóa Việt Nam thì lại phải tìm kiếm thị trường ở nước khác. Mà tình hình của ngành chăn nuôi trong thời gian qua là một ví dụ cụ thể. Trên lĩnh vực đầu tư, tranh thủ nguồn vốn FDI cũng như các nguồn vốn ngoại đầu tư gián tiếp nhưng không quá phụ thuộc vào nguồn vốn này mà cần có chiến lược quốc gia để tập trung vốn nhằm tự chủ trong đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
  37. 37 CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HÀNH LANG PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA 2.1 Khái quát thực trạng hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta 2.1.1 Các thành tựu đạt được : Ngay từ khi công cuộc cải cách kinh tế mới bắt đầu, Việt Nam đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật dưới dạng Bộ luật, Luật và Pháp lệnh liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế thị trường và khuyến khích kinh doanh. Tính từ 1986 đến nay đã có hàng trăm luật và Pháp lệnh (kể cả Luật và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung) đã được ban hành và đưa vào áp dụng Công tác soạn thảo, thẩm định và ban hành các văn bản pháp luật đã bước đầu đi vào nền nếp, theo một quy trình thống nhất do luật định. ”Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại ” ( trích Nghị quyết 48- NQ/TW) Để làm rõ hơn về công tác xây dựng luật pháp ta sẽ khảo sát toàn bộ số lượng luật và pháp lệnh mà Quốc hội các khóa đã thông qua từ sau năm 1986, là năm đánh dấu cột mốc bắt đầu sự đổi mới trong kinh tế nước ta, từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường :
  38. 38 Bảng 2 Luật và Còn hiệu lực Liên quan đến Pháp lệnh Tổng số dân sự, kinh tế(*) Ghi chú Quốc hội Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ các khóa lượng (%) lượng (%) B thông qua Khóa 8 73 2 2,74 38 52,05 Khóa 9 80 13 16,25 36 45 Khóa 10 70 21 30 28 40 Khóa 11 118 92 77,97 51 43,22 Khóa 12 81 77 95,06 39 48,15 Khóa 13 8 8 100 4 50 ( ) Tổng số 430 213 49,53 196 45,58 Bảng số lượng luật và pháp lệnh quốc hội thông qua từ năm 1987 đến nay ( Số liệu từ trang na.gov.vn của Quốc hội Việt Nam) (*) Theo thống kê của tác giả ( )Quốc hội Khóa 13 còn đang trong nhiệm kỳ, chưa được trang web của quốc hội cập nhật đầy đủ.
  39. 39 140 120 100 80 Luật và pháp lệnh 60 40 20 0 Khóa 8 Khóa 9 Khóa 10 Khóa 11 Khóa 12 Khóa 13 Biểu 1 : Số lượng Luật và Pháp lệnh thông qua của Quốc hội các khóa 150 100 50 0 Khóa 8 Khóa 9 Khóa 10 Khóa 11 Khóa 12 Khóa 13 Luật và pháp lệnh 73 80 70 118 81 8 Luật và PL còn hiệu lực 2 13 21 92 77 8 Biểu 2 : Số lượng Luật và pháp lệnh của Quốc hội các khóa còn hiệu lực 60 50 40 30 Tỷ lệ % 20 10 0 Khóa 8 Khóa 9 Khóa 10 Khóa 11 Khóa 12 Khóa 13 Biểu 3 : Tỷ lệ Luật và pháp lệnh liên quan đến dân sự và kinh tế trong tổng số Luật và pháp lệnh Quốc hội các khóa thông Qua bảng và các biểu đồ trên ta thấy : Số lượng Luật và Pháp lệnh Quốc hội mỗi khóa thông qua là tương đối lớn , có khóa lên hơn một trăm Luật và Pháp lệnh như khóa 11. Theo Nghị quyết của Quốc hội Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013 sẽ gồm 32 dự án luật, 4 dự án pháp lệnh trong Chương trình chính thức và 18 dự án luật trong Chương trình chuẩn bị (Nghị quyết của Quốc hội ngày 23/2012/QH13 ngày 12/6/2012) . Điều này chứng tỏ yêu cầu về các văn
  40. 40 bản quy phạm pháp luật ở nước ta còn rất lớn vì kinh tế nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường, nền chính trị ngày càng đổi mới để phù hơp với xu thế của thời đại và đặc biệt là Nhà nước ta đang hướng đến một Nhà nước pháp quyền. Song qua gần 30 năm đổi mới. Ta thấy chất lượng xây dựng pháp luật còn chưa cao. Số lượng Luật và pháp lệnh qua mỗi khóa còn hiệu lực đã rơi rụng đi nhiều. Càng về trước thì số luật còn hiệu lực càng giảm dần. Khóa 12 : 95,06% , khóa 11 : 77,97%, khóa 10 : 30%, khóa 9 : 16,25.% Thậm chí số Luật và pháp lệnh của khóa 8 ( 1987-1993) còn hiệu lực chỉ là 2 chiếm 2,74 %. Nguyên nhân một mặt là do tình hình kinh tế xã hội biến chuyển , đòi hỏi luật pháp phải thay đổi để phù hợp thực tiễn mặt khác những người làm luật vẫn chưa lường trước được các thay đổi của thực tiễn cuộc sống. Thậm chí có gần 5% luật và pháp lệnh Quốc hội khóa 12 thông qua đã không còn hiệu lực, tức chưa sống qua hết 2 nhiệm kỳ Quốc hội. Về tỷ lệ văn bản luật điều chỉnh các quan hệ mang tính dân sự và kinh tế , Quốc hội đã dành một nửa thời gian, công sức để thông qua các văn bản này. Tỷ lệ này qua các khóa là xấp xỉ 50%. Trong gần 30 năm xây dựng pháp luật cho sự vận hành của cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước Việt Nam đã đạt được một số thành tựu như sau : Một là, tạo dựng khung pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội: Với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987), Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990), Nhà nước Việt nam đã chính thức thừa nhận sự tồn tại hợp pháp của các thành phần kinh tế phi Nhà nước. Tiếp theo đó, Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995) và Luật Hợp tác xã (1996) cũng đã được ban hành, tạo khung khổ pháp luật cơ bản cho các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần, hạn chế từng bước sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, với Luật Phá sản (ban hành 1993, sửa đổi 2004), khung pháp lý cho quá trình rút khỏi thị trường cũng đã được xây dựng, tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện chức năng đào thải, chọn lọc của cơ chế cạnh tranh, góp phần thúc đẩy quá trình phân bổ lại nguồn lực theo hướng có hiệu quả hơn.
  41. 41 Bước ngoặt lớn nhất của quá trình cải cách trong những năm gần đây là việc ban hành và thực thi Luật Doanh nghiệp (2005). Sự ra đời của Luật này là kết quả của cam kết chính trị về tạo lập môi trường thuận lợi, bình đẳng và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường Hai là, khung pháp lý về thị trường hàng hoá, dịch vụ đã và đang tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận hành có hiệu quả: Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế đã sớm được ban hành năm (1989), tạo khung khổ pháp lý cho các hành vi giao dịch kinh tế trên thị trường. Bộ luật dân sự (1995) và Luật thương mại (1997) cũng đã được đưa vào thực hiện, tạo giúp cho các giao dịch trên thị trường ngày càng trở nên sống động. Đối với xuất – nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, Việt Nam đã có những bước đổi mới ngay từ giai đoạn đầu cải cách với việc xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương. Từ 1988 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được phép hoạt động xuất nhập khẩu, tiếp theo các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân cũng được kinh doanh xuất nhập khẩu (theo Luật Công ty). Thủ tục xin giấy phép xuất nhập khẩu cũng được đơn giản hoá từng bước. Hình thành khung luật pháp cho việc xây dựng và vận hành thị trường các yếu tố sản xuất quan trọng nhất: Đối với thị trường lao động: bộ Luật Lao động đã (năm 1994) đã tạo thành nền tảng pháp lý đầu tiên cho thị trường lao động bằng việc công nhận quyền tự do tìm việc làm và quyền lựa chọn người lao động – hai yếu tố cơ bản tạo ra quan hệ cung – cầu cho thị trường lao động. Đối với thị trường bất động sản, thời gian vừa qua, bên cạnh việc ban hành Luật Đất đai (năm 1988, sửa đổi vào năm 1993 và 2003), Luật Xây dựng (năm 2004), Nhà nước còn ban hành và bổ sung hệ thống các văn bản pháp lý, đề ra các chính sách sách liên quan đến việc điều chỉnh từng vấn đề cụ thể như: thị trường đất đai, thị trường nhà ở, v.v. Khung pháp lý cho thị trường vốn cũng dần được hoàn thiện: những năm đầu của cải cách, kinh tế Việt nam đã phải đương đầu với nạn lạm phát phi mã, hệ thống NHNN vừa có chức năng phát hành vừa có chức năng cung ứng nguồn tín dụng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, việc chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng
  42. 42 một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp là một bước đi cực kỳ quan trọng để kiềm chế lạm phát, đồng thời tạo cơ sở cho việc thực hiện chính sách tiền tệ tương ứng với cơ chế thị trường. Năm 1990, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh NHNN Việt nam và Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và các công ty tài chính. Đối với thị trường khoa học công nghệ (KHCN), lần đầu tiên, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghệ được đưa vào thành các quy định trong Bộ luật dân sự (1995). Ba là, tạo dựng và làm hài hòa hệ thống luật pháp nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành, để thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tiến tới hài hòa luật pháp của Việt Nam với khung luật pháp quốc tế, Luật đầu tư nước ngoài đã được điều chỉnh, bổ sung và sửa đổi .Ngoài Luật đầu tư nước ngoài, Việt Nam cũng đã tiếp tục bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện nhiều luật quan trọng khác như: Luật đất đai, Luật Lao động, Luật cạnh tranh, theo hướng hỗ trợ hội nhập kinh tế quốc tế. Theo Đinh Văn Ân (2006) Từ sự bắt đầu bằng các bộ luật nêu trên, đến nay , các nhà làm luật đã nhiều lần chỉnh sửa , bổ sung và ban hành mới để khung pháp lý cho nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện. 2.1.2 Các hạn chế Mặc dù đã có những cố gắng và nỗ lực như đã nói ở trên, nhưng nhìn chung hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam vẫn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập và vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. ” Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. ” (trích Nghị quyết 48-NQ/TW). Điều này thể hiện rõ nhất qua các thực tiễn như: Thứ nhất, mặc dù rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống pháp luật vẫn còn chưa bao quát hết các
  43. 43 mối quan hệ trong xã hội , chưa đồng bộ . Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng và, vì thế, kém hiệu lực. Nhiều nội dung quan trọng liên quan tới vấn đề đổi mới kinh tế, xã hội chậm được thể chế hoá như: vấn đề quản lý nhà nước đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước; cạnh tranh trung thực; kiểm soát độc quyền; v.v; Thứ hai, pháp luật thường xuyên thay đổi, một số văn bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi chưa cao. Ví dụ, Luật phá sản doanh nghiệp đã ban hành năm 1993 đến năm 2004 lại ban hành mới nhưng đến nay cũng chỉ công nhận 83 doanh nghiệp phá sản ; Luật Cạnh tranh, tuy được ban hành từ năm 2004, song hiệu lực thực thi còn thấp Thứ ba, tính cụ thể, minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp: Nhiều khái niệm pháp lý chưa được làm rõ khi ban hành văn bản luật. Những sai phạm về hình thức văn bản vẫn xảy ra. Việc công bố, đăng tải, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật chưa được các cơ quan nhà nước chấp hành kịp thời và nghiêm chỉnh; Việc chậm ban hành nghị định, thông tư, các văn bản hướng dẫn luật vẫn còn diễn ra thường xuyên.Các cơ quan thẩm quyền nợ các văn bản pháp luật. Có khi mất vài năm mới có văn bản hướng dẫn thi hành luật, nhiều hoạt động xã hội bị nghẽn, bị chậm lại. Thứ tư, tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế. Các văn bản luật, các văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Các luật còn chồng chéo thậm chí chứa đựng những quy định mâu thuẫn nhau. Đơn cử như trường hợp có một điều luật, hai cách hiểu như sau : Bộ luật Dân sự năm 2005 không hạn chế hoặc cấm cá nhân nhận thế chấp nhà ở. Điều 113, 114 Luật Đất đai năm 2003 cũng cho phép cá nhân được quyền thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho cá nhân. Thế nhưng theo Điều 114 Luật Nhà ở năm 2005 thì “chủ sở hữu nhà ở được thế chấp nhà ở để đảm bảo thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ nếu giá trị nhà ở đó lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ nhưng chỉ được thế chấp ở tại một tổ chức tín dụng”. Đầu năm 2013, cớ sự phát sinh khi có hai văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận từ chối đăng ký
  44. 44 giao dịch bảo đảm đối với loại hợp đồng cá nhân thế chấp nhà cho cá nhân . Bởi theo họ với điều luật trên thì có nghĩa là cá nhân chỉ được thế chấp nhà cho một tổ chức tín dụng chứ không được thế chấp cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Cách hiểu này không được các cơ quan công chứng đồng ý vì “trái với Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai và làm ảnh hưởng đến quyền lựa chọn nơi thế chấp nhà ở của người dân”. Theo các công chứng viên, việc chỉ được thế chấp cho một tổ chức tín dụng chỉ áp dụng trong trường hợp một người thế chấp nhà để đảm bảo cho nhiều khoản vay, nếu chỉ có một khoản vay thì người dân có quyền thế chấp cho cá nhân khác theo ý muốn. Ngày 9-1-2013, Sở Tư pháp TPHCM đã gửi công văn hỏi ý kiến Bộ Tư pháp về vấn đề này. Mãi đến ngày 12-9-2013, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm mới có công văn trả lời không công nhận hợp đồng thế chấp nhà giữa cá nhân với cá nhân, căn cứ Luật Nhà ở 2005. Thứ năm, Quy trình xây dựng pháp luật còn thiếu tính dân chủ, tính đại chúng: còn nhiều cứng nhắc và nhiều bất cập, cách phân công và thực hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương; chưa thật sự vì lợi ích chung và vì sự thuận lợi của người dân Cuối cùng, trên nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật và, do đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội. Nhiều điều luật đến nay vẫn còn là điều bàn cãi nếu không nói là đã làm trò cười cho quần chúng vì không thể đi vào cuộc sống như : Thịt heo không được bán quá 8 tiếng, cấm nghe điện thoại tại trạm xăng, cấm hút thuốc nơi công cộng, Bà Mẹ Anh Hùng đi thi đại học được cộng điểm ưu tiên 2.2 Thực trạng hành lang pháp lý điều chỉnh mối quan hệ tín dụng NHTM ở nước ta 2.2.1 Các kết quả đã đạt được : Ngay sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới 1986, Nhà nước Việt Nam đã cố gắng xác lập một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ, về cơ bản, từng bước đáp ứng được đòi hỏi của mối quan hệ tín dụng giữa các NHTM và khách hàng. Bộ luật dân sự 1995 lần đầu được ban hành tại Việt Nam kể từ sau Cách mạng
  45. 45 tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu một bước tiến lớn của Việt nam trên con đường tiến đến một Nhà nước pháp quyền. Lần đầu tiên các nguyên lý cơ bản của đời sống dân sự được đề cập đến và thể chế hóa . Hiện nay, Bộ luật dân sự 2005 đã thay thế Bộ luật dân sự 1995.Trong đó có các quy định cụ thể về các giao dịch cho vay, bảo lãnh , bảo đảm tài sản (quy định về bảo đảm tài sản từ điều 318 đến điều 325, quy định về cầm cố, thế chấp từ điều 326 đến điều 357 ; quy định về bảo lãnh điều 361 đến điều 371 , quy định về hợp đồng vay tài sản từ điều 471 đến điều 479. Và dĩ nhiên quan hệ tín dụng NHTM cũng phải chịu sự điều chỉnh của các điều luật này. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), Luật doanh nghiệp tư nhân (1990) và Luật công ty (1990) là những đạo luật quan trọng thể chế hóa đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Lần đầu tiên các luật này thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quyền thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân. Như vậy địa vị của các thành phần kinh tế đã được xác lập, từng bước thể hiện sự bình đẳng trước pháp luật trong đó có quyền vay vốn tại các NHTM. Hiện nay, Luật doanh nghiệp 2005 đã kế thừa và thay thế các luật doanh nghiệp trước đây đã thể chế hóa cơ cấu tổ chức, quản lý và vận hành của các doanh nghiệp trong kinh doanh, trong đó có việc vay vốn tại các NHTM. Ngoài ra Luật các tổ chức tín dụng 2010 cũng có các quy định tương đối đầy đủ và chặt chẽ về hoạt động tín dụng của các NHTM Về huy động vốn : Tín dụng NHTM vay để cho vay do đó cần phải có nguồn vốn . NHTM huy động vốn dưới nhiều hình thức, mỗi hình thức đều có các văn bản pháp luật tương ứng để điều chỉnh.Các NHTM khi huy động vốn ngoài việc tuân thủ Luật các TCTD 2010 còn phải tuân thủ các văn bản chính yếu liệt kê theo bảng sau :
  46. 46 Bảng 3 : Số Số văn bản Ngày ban hành Cơ quan ban hành TT 1 QĐ1284/2002/QĐ-NHNN 21/11/2002 NHNN 2 QĐ1160/2004/QĐ-NHNN 13/9/2004 NHNN 3 TT 04/2012/TT-NHNN 8/3/2012 NHNN 4 TT 21/2012/TT-NHNN 18/6/2012 NHNN 5 TT 34/2013/TT-NHNN 31/12/2013 NHNN 6 Pháp lệnh ngoại hối 13/12/2005 UBTVQH 7 NĐ 160/2006/NĐ-CP 28/12/2006 Chính phủ 8 NĐ 90/2011/NĐ-CP 14/10/2011 Chính phủ 9 TT 211/2012/TT-BTC 5/12/2012 Bộ tài chính 10 NĐ 219/2013/NĐ-CP 26/12/2013 Chính phủ 11 TT 01/2012/TT-NHNN 16/02/2012 NHNN 11 Luật Thương mại 10/5/1997 Quốc hội 12 NĐ 32/1999/NĐ-CP 05/5/1999 Chính phủ Văn bản đánh số dưới đây theo số thứ tự trong bảng trên quy định về : 1.Quy định mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại NHNN và Tổ chức tín dụng. 2.Quy chế tiền gửi tiết kiệm 3.Nghiệp vụ nhận ủy thác và ủy thác của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài 4.Quy định về hoạt động cho vay, đi vay; mua, bán có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài 5.Về phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu trong nước của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
  47. 47 6. Các vấn đề về ngoại hối. 7. Chi tiết pháp lệnh ngoại hối 8. Về phát hành trái phiếu doanh nghiệp 9. Hướng dẫn thi hành NĐ 90/2011/NĐ-CP 10. Quản lý vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh 11. Việc chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 12. Các vấn đề trên lĩnh vực thương mại.(Nếu khi huy động vốn, các NHTM áp dụng các hình thức quảng cáo , khuyến mại) 13 .Khuyến mại, quảng cáo thương mại, triển lãm thương mại Để bảo vệ quyền lợi của người gởi tiền, các NH còn phải tuân thủ các quy định về bảo hiểm tiền gởi như Luật Bảo hiểm tiền gởi số 06/2012/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012. Như vậy so với các quy định về huy động vốn tại Luật các TCTD 2010 ( khoản 1,2 , 4 điều 98 về nhận tiền gởi, phát hành các giấy tờ có giá , mở tài khoản; điều 99 về vay vốn của NHNN; điều 100 về vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài ; điều 104 về việc tham gia thị trường tiền tệ; điều 106 về nghiệp vụ ủy thác và đại lý) thì hiện nay Chính phủ , NHNN và các bộ ngành có chức năng đã ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp quy để điều chỉnh các hành vi trong các hoạt động huy động vốn của các NHTM được quy định tại Luật các TCTD 2010. Các văn bản này cơ bản đã làm rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của các NHTM trong việc huy động vốn , những việc được phép và những việc không được phép. Ví dụ : trong NĐ 219/2013/NĐ- CP tại điều 13 quy định quyền của bên vay, điều 14 quy định trách nhiệm của bên đi vay, trong đó nhấn mạnh tính tự chịu trách nhiệm của bên vay : Tự vay, tự trả, tự chịu rủi ro, tự chịu trách nhiệm về năng lực pháp lý , khả năng của bên cho vay Điều này, khẳng định trách nhiệm của bên vay. Nhà nước không bảo lãnh vay vốn thì nhà nước không có trách nhiệm trong việc trả nợ của bên vay nước ngoài. Ngoài ra còn đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, các NHTM phải tham gia vào Bảo hiểm tiền gởi ngân hàng theo Luật Bảo hiểm tiền gởi. Có một số văn bản
  48. 48 hướng dẫn luật các TCTD 2010 được ban hành chậm như TT 04/2012/TT-NHNN ngày 8/3/2012 của NHNN quy định về việc nghiệp vụ nhận ủy thác và ủy thác của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài, nhưng dù sao việc ban hành cũng đã khắc phục được hiện tượng tự phát thực hiện của các NHTM, từng gây ra một số thất thoát tài sản và ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ và NHNN. Việc có được một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ và ổn định đã giúp cho các NHTM xác định được ranh giới của những việc được phép và không được phép thực hiện trong hoạt động huy động vốn, chấm dứt hiện tượng huy động vốn lách luật như thời kỳ trước tháng 3/2012, gây căng thẳng thị trường vốn, cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM trong huy động vốn và NHNN phải tốn nhiều công sức mới lập lại được trật tự trong huy động vốn như hiện nay. Về cho vay, NHNN Việt Nam đã tiến hành ban hành các thể lệ cho vay, quy chế cho vay để làm hành lang pháp lý điều chỉnh mối quan hệ tín dụng giữa các NH và khách hàng vay vốn. Đây là văn bản trung tâm mang tính chất quyết định đến việc cho vay của các NHTM trong từng thời kỳ. Đó là các văn bản liệt kê theo bảng sau :
  49. 49 Bảng 4: Số TT Tên, số văn bản Ngày ban hành 1 QĐ 284/2000/QĐ-NHNN 25/8/2000 2 QĐ 324/1998/QĐ-NHNN 30/9/1998 3 QĐ 198/QĐ-NH1 16/9/1994 4 QĐ 199/QĐ-NH1 28/6/1997 5 QĐ 367/QĐ-NH1 21/12/1995 6 QĐ200/QĐ-NH1 28/06/1997 7 QĐ 18/QĐ-NH5 16/02/1994 8 QĐ 77-NH/QĐ 13/6/1991 9 QĐ 270-QĐ/NH1 25/9/1995 10 QĐ 185/QĐ-NH5 06/9/1994 11 QĐ QĐ 04/NH 8/1/1991 12 QĐ 19/NH-QĐ 27/4/1988 Văn bản đánh số dưới đây theo số thứ tự trong bảng trên quy định về việc : 1. Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng 2. Ban hành quy chế cho vay tổ chức tín dụng đối với khách hàng 3. Ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn tổ chức tín dụng đối với khách hàng 4. Sửa đổi, bổ sung một số điều của thể lệ tín dụng ngắn hạn ban hành kèm theo Quyết định số 198/QĐ-NH1 ngày 16/9/1994 5. Ban hành thể lệ tín dụng trung hạn, dài hạn; 6. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thể lệ tín dụng trung hạn, dài hạn ban hành kèm theo Quyết định số 367/QĐ-NH1 ngày 21/12/1995
  50. 50 7. Ban hành thể lệ cho vay vốn phát triển kinh tế gia đình và cho vay tiêu dùng; 8. Ban hành thể lệ tín dụng đầu tư xây cơ bản kế hoạch nhà nước 9. Ban hành thể lệ cho vay vốn ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất 10.Ban hành quy chế dịch vụ cầm cố 11. Ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn 12. Ban hành thể lệ tín dụng Hiện nay Quy chế cho vay ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN( sau đây gọi là Quy chế 1627) . Vậy nội dung của Quy chế 1627 bao gồm những gì và có gì khác biệt so với các văn bản tương tự trước đó? Nếu so sánh với các văn bản tương tự trước đây thì Quy chế 1627 có nhiều điểm rất tiến bộ. Ví dụ như về nhu cầu vay vốn : Từ các văn bản tương tự trước đó cho đến Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 284/2000/QĐ- NHNN1, cụm từ “đối tượng cho vay” luôn xuất hiện. Nhưng đến Quy chế 1627 cụm từ này đã biến mất. Thay vào đó là cụm từ “nhu cầu vốn” ( điều 9 ). Thực ra, đây là biểu hiện rõ rệt của quá trình chuyển biến tích cực về nhận thức trong lý luận tín dụng của NHNN Việt nam khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế bao cấp kế hoach hóa sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo dõi các Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành bởi NHNN Việt nam trong nhiều năm qua , ta thấy các vấn đề được xem như những điều cấm kỵ hoặc hạn chế thì dần được NHNN Việt Nam gỡ bỏ như : -Tiền vay phải trả thẳng cho người được hưởng. -Tiền vay không được chuyển vào tài khoản tiền gởi. -Không nhập lãi vào gốc. -Hạn chế cho vay tiền mặt, chỉ cho vay tiền mặt để chi lương và các nhu cầu thiết yếu -Cho vay trả lãi, cho vay trả nợ, cho vay trả lại nguồn vốn tự có Còn về đối tượng cho vay, các Quy chế cho vay đã không ngừng thay đổi theo hướng vừa tạo điều kiện cho khách hàng dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng nhưng cố giữ quy định về đối tượng cho vay để các ngân hàng chỉ
  51. 51 được cho vay trong một giới hạn nào đó. Khi ban hành Quy chế 1627, tiếp thu ý kiến của dư luận, NHNN đã không quy định các đối tượng các TCTD được phép cho vay nữa mà quy định những nhu cầu vốn không được cho vay tại điều 9. Cách quy định như thế này là hợp lý vì đã theo đúng tinh thần những nhu cầu vốn nào pháp luật không cấm thì TCTD được phép cho vay. Như vậy,Quy chế 1627 dù không phải là hoàn hảo nhưng ít ra cũng đã bỏ đi một khái niệm từng gây ra nhiều tranh cãi và không ít phiền toái cho cả những người làm công tác tín dụng và cả khách hàng vay. Về việc không phân biệt các thành phần kinh tế trong cung ứng tín dụng cho nền kinh tế thì đến Thể lệ tín dụng ban hành kèm theo QĐ Số: 04-NH/QĐ mới xuất hiện tại điều 1 : “Các NHTM, ngân hàng đầu tư và phát triển, HTX tín dụng và Công ty Tài chính (gọi tắt là tổ chức tín dụng-TCTD) thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, dùng các nguồn vốn tín dụng để cho các tổ chức kinh tế quốc doanh, hợp doanh, tập thể và tư doanh vay (gọi tắt là các tổ chức kinh tế-TCKT) nhằm mục đích bổ sung vốn lưu động phục vụ các nhu cầu sản xuất- kinh doanh.” . Trước đó, thể lệ tín dụng số 19/NH-QĐ chỉ quy định cho vay các Xí nghiệp và các hợp tác xã thuộc các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể. Việc cho vay đối với phát triển kinh tế các hộ gia đình và cho vay tiêu dùng cũng lần đầu quy định tại Quyết định số 18/QĐ-NH5 ban hành thể lệ cho vay vốn phát triển kinh tế gia đình và cho vay tiêu dùng Việc tích hợp các quy định về cho vay giữa NH và khách hàng nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau lần đầu tiên được tiến hành ở Quy chế cho vay ban hành kèm theo QĐ số 324/1998/QĐ-NHNN . Và sau 2 lần thay thế, đến nay là Quy chế 1627. Quy chế 1627 đã quy định tất cả các nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật thường có như : Phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; điều kiện vay vốn; các điều cấm và hạn chế về nhu cầu vay, giới hạn vay vốn, khách hàng vay; quyền và nghĩa vụ của khách hàng và các TCTD và một số vấn đề khác . Điều 5 của quy chế 1627 khẳng định quyền tự chủ của các TCTD trong cho vay. Trong thực tế , tại các địa phương, Đảng bộ và Chính quyền địa phương với danh nghĩa phát triển kinh tế tỉnh, huyện nhà luôn tìm cách gây sức ép để các CN NH địa
  52. 52 phương cho vay các DN trong địa phương đó , bất chấp tính hiệu quả của dự án , phương án vay vốn. Với quy định này các CN NH địa phương đã có một tấm khiên để chống lại sức ép đó : “Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của tổ chức tín dụng”. Một trong những quy định quan trọng nhất là điều kiện vay vốn. Muốn được vay vốn , khách hàng phải thỏa mãn đủ các điều kiện được quy định tại điều 7 của quy chế 1627 . Khách hàng phải có đủ các điều kiện sau: -Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật -Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. -Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. -Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật. -Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam. Về điều kiện thứ nhất : khách hàng phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Khi thẩm định về điều kiện này, các ngân hàng phải căn cứ vào các quy định tại các điều từ điều 14 đến điều 23 đối với cá nhân, từ điều 84 đến điều 105 đối với pháp nhân, từ điều 106 đến điều 120 Bộ luật dân sự 2005 (số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005) . Ngoài ra , đối với các doanh nghiệp, NH còn phải căn cứ Luật doanh nghiệp (Số 60/2005/QH11, ngày 29 tháng 11 năm 2005) và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. Dĩ nhiên không phải toàn bộ các điều trên đều cần thiết trong một tình huống cụ thể mà tùy vào từng trường hợp, ngân hàng sẽ đối chiếu và áp dụng điều luật tương ứng phù hợp để thẩm định . Cá nhân vay vốn thì sẽ đến ngân hàng để làm thủ tục vay nhưng đối với pháp nhân (là tài sản của nhiều người, do nhiều người quản lý ) thì ai là người có thẩm quyền đại diện pháp nhân để vay vốn thì ngân hàng cần phải thận trọng, tuân thủ pháp luật trong thẩm định, làm thủ tục cho vay để tránh trường hợp lừa đảo
  53. 53 Về điều kiện thứ hai : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Việc sử dụng vốn vay hợp pháp được hiểu là khách hàng phải sử dụng vốn vay để sản xuất kinh doanh đúng với ngành nghề đã ghi trong đăng ký kinh doanh, để mua hoặc trả cho các chi phí mà pháp luật không cấm hoặc để tiêu dùng cho các nhu cầu phục vụ đời sống mà pháp luật không cấm. Các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này là muôn hình vạn trạng, khi gặp ngành nghề nào hoặc nhu cầu tiêu dùng nào thì NH phải căn cứ vào các quy định pháp luật chuyên ngành đó để thẩm định. Ví dụ khách hàng kinh doanh gỗ thì khách hàng và ngân hàng phải căn cứ vào NĐ số 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, để xác định gỗ cây nào thì không được phép mua bán tức là không được phép trả bằng tiền vay NH, gỗ cây nào thì mua bán hạn chế vì mục đích thương mại , gỗ cây nào không thuộc các nhóm trên .Một ví dụ khác là tín dụng trên lĩnh vực xây dựng cơ bản , khách hàng và NH phải căn cứ các luật và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành theo phụ lục 2. Về điều kiện thứ ba : Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Đây là điều kiện khá chung chung. Việc xác định khả năng tài chính của các khách hàng sẽ được các TCTD hướng dẫn. Các NH thường nhấn mạnh đến nguồn tiền trả nợ mà khách hàng sẽ có trong tương lai. Đối với các cá nhân có thể là nguồn thu nhập hợp pháp như tiền lương, tiền chia từ cổ tức, thu nhập từ tiền cho thuê nhà đất ; đối với các TCKT có thể là doanh thu từ phương án, dự án hoặc có thể là nguồn tiền từ việc sản xuất kinh doanh khác. Ngoài ra, khả năng tài chính của khách hàng còn phụ thuộc vào tình hình tài chính của khách hàng, nhất là các khách hàng TCKT. Do đó NH phải căn cứ vào Luật Kế toán (số 03/2003/QH11 ngày 17/6/2003) và các văn bản hướng dẫn để thẩm định việc phản ảnh lãi lỗ của khách hàng qua các năm có chính xác không, có thể hiện đúng khả năng tài chính của khách hàng không. Ngoài ra, NH còn phải tham khảo thông tin từ Trung tâm thông tin tín dụng ( CIC) thuộc NHNN để có thể biết tình hình vay nợ của khách hàng tại các TCTD khác . Từ đó mới biết rõ hơn về khả năng tài chính của khách hàng. Về điều kiện thứ tư : Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi