Tiểu luận Phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM của các nước trên thế giới và những ứng phó của NHTW đối với những vấn đề trên

doc 62 trang yendo 4760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM của các nước trên thế giới và những ứng phó của NHTW đối với những vấn đề trên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctieu_luan_phan_tich_nhung_bat_on_thuong_gap_hien_nay_trong_h.doc

Nội dung text: Tiểu luận Phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM của các nước trên thế giới và những ứng phó của NHTW đối với những vấn đề trên

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài: PHÂN TÍCH NHỮNG BẤT ỔN THƯỜNG GẶP HIỆN NAY TRONG HỆ THỐNG CÁC NHTM CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG ỨNG PHÓ CỦA NHTW ĐỐI VỚI NHỮNG VẤN ĐỀ TRÊN Sinh viên thực hiện : Lưu Khánh Linh MSSV: 1211110366 (STT: 63) Nguyễn Thị Tuyết Mai MSSV: 1211110435(STT: 82) Lớp : Tài chính tiền tệ. 4 Khóa : 51 Giáo viên hướng dẫn : GV. Nguyễn Thị Lan Hà Nội, tháng 10 năm 2013 0
  2. LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Hiện nay, thế giới đang bước vào một giai đoạn phát triển mới do sự hội nhập sâu rộng của các nước về tất cả các lĩnh vực cả kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, mà đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Hệ thống ngân hàng thương mại thế giới đang phát triển và hoàn thiện để thực hiện tốt các mục tiêu và vai trò của mình. Nhưng, sự khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng và sự hồi phục nền kinh tế còn chậm của các nước trên thế giới đã tác động rất lớn tới thị trường tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng. Trong thời gian vừa qua, trước những tác động tiêu cực của sự bất ổn định nền kinh tế vĩ mô (lạm phát leo thang) và các chính sách của Nhà nước (kiềm chế lạm phát), hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cá biệt có một số ngân hàng rơi vào tình trạng phá sản. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đếnhoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng mà còn tác động đến thị trường tiền tệ và toàn bộnền kinh tế nói chung. Đứng trước những vấn đề đó, các ngân hàng đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng ngừa những bất ổn trong hoạt động kinh doanh của mình. Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc tìm hiểu cách tiếp cận hiện đại những bất ổn của ngân hàng thương mại và ứng dụng nó để phân tích hoạt động trong hệ thống NHTM thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng làcần thiết, góp phần hoàn thiện một bước quy trình và nâng cao chất lượng các hoạt động trong ngân hàng. Đề tài “Những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống ngân hàng thương mại(NHTM) của các nước trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương(NHTW) đối với những vấn đề này” được lựa chọn nhằm đáp ứng nhu cầu trên. 2. Tình hình nghiên cứu: Liên quan đến bất ổn trong hệ thống NHTM đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, các đề tài, đề án có giá trị cao. Tuy nhiên, trên thực tế các NHTM thường không thực sự chú trọng đầy đủ đến các bất ổn của ngân hàng và thực hiện nó một cách khoa học, hiệu quả (hầu như chỉ thực hiện xử lý sau khi đã xuất hiện rủi ro hoặc quản trị rủi ro trong ngắn hạn). Do đó, khi tiến hành nghiên cứu vấn đề này, chúng ta gặp khó khăn trong việc tiếp cận, khai thác thông tin, số liệu liên quan đến công tác quản trị rủi ro thanh khoản của hệ thống NHTM thế giới nói chung và NHTM Việt Nam nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết cơ bản về những bất ổn của ngân hàngthương mại. - Phân tích thực trạng những bất ổn này của các ngân hàng thương mại trên thế giới. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác ứng phó với những bất ổn của ngân hàng trung ương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1
  3. - Tiểu luận tập trung phân tích những bất ổn của các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương các nước đối với những vấn đề này. - Các số liệu, thông tin chỉ tập trung nghiên cứu cho giai đoạn 2006– 2013 5. Phương pháp nghiên cứu Ngoài phương pháp triết học biện chứng và lịch sử thường được dùng trong nghiên cứu khoa học, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như hệ thống, diễn dịch, phân tích tổng hợp, so sánh và các công cụ như bảng biểu, đồ thị để chứng minh làm sáng tỏ các luận cứđược nêu ra. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Làm rõ thực trạng bất ổn của các ngân hàng thương mại trên thế giới. - Đóng góp cho ngân hàng trung ương những giải pháp để ứng phó với các vấn đề bất ổn của ngân hàng thương mại. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 2 chương: Chương I: Những bất ổn thường gặp trong hệ thống NHTM của các nước trên thế giới hiện nay. Chương II: Các biện pháp ứng phó của Ngân hàng trung ương với những bất cập của ngân hàng thương mại hiện nay. Với, Chương I do bạn Nguyễn Thị Tuyết Mai trình bày và Chương II do bạn Lưu Khánh Linh trình bày. 2
  4. Contents CHƯƠNG I: NHỮNG BẤT ỔN THƯỜNG GẶPTRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY 5 1. Rủi ro ngân hàng 5 1.1. Rủi ro thanh khoản 5 1.2. Rủi ro lãi suất 9 1.3. Rủi ro tín dụng 10 1.4. Rủi ro về tỷ giá hối đoái 15 1.5. Công nghệ và hoạt động tác nghiệp 16 1.6. Rủi ro hoạt động ngoại bảng 19 1.7 Rủi ro quốc gia và rủi ro khác 22 2. Thiếu vốn tự có và hiện tượng đầu tư chéo. 23 a. Thiếu vốn tự có 23 b. Sở hữu chéo và đầu tư chéo 24 3. Sự gia tăng ồ ạt của các ngân hàng và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. 25 a. Số lượng các ngân hàng tăng ồ ạt 25 b. Sự cạnh tranh không lành mạnh của các ngân hàng 25 II – Các biện pháp ứng phó của Ngân hàng trung ương với những bất cập của ngân hàng thương mại hiện nay 31 1. Đối với vấn đề thanh khoản của các NHTM 31 1.1. Quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc 31 1.2. Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) 34 1.3. Hạn chế tài sản được nắm giữ 40 2. Đối với các vấn đề rủi ro khác mà NHTM phải đối mặt 40 2.1. Rủi ro tín dụng 41 2.2. Rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp 43 3
  5. 2.3. Khủng hoảng hệ thống 44 3. Đối với vấn đề thông tin bất cân xứng 47 4. Đối với vấn đề cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại 48 4.1. Hạn chế thành lập ngân hàng 48 4.2. Hạn chế về nghiệp vụ của NHTM 49 4.3. Hạn chế về lãi suất 50 5. Giám sát hệ thống ngân hàng thương mại 52 4
  6. NỘI DUNG CHƯƠNG I: NHỮNG BẤT ỔN THƯỜNG GẶPTRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY Những bất cập chính mà hệ thống NHTM thế giới thường gặp là (i) các rủi ro liên quan đến lãi suất, thanh khoản, tín dụng, tỷ giá, công nghệ và hoạt động tác nghiệp, hoạt động ngoại bảng, rủi ro quốc gia và các rủi ro khác, (ii) thiếu vốn tự có và hiện tượng đầu tư chéo, (iii) sự gia tăng ồ ạt của các ngân hàng và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. 1. Rủi ro ngân hàng 1.1. Rủi ro thanh khoản Rủi ro thanh khoản được phát sinh khi những người gửi tiền đồng loạt có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Nhưng bởi vì tiền mặt trong quỹ không đem lại thu nhập lãi suất, cho nên trong những trường hợp bình thường, ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền nhất định ở mức tối ưu đủ để đáp ứng nhu cầu rút tiền thường xuyên của người gửi tiền mà không gây ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng. Ngân hàng có thể làm được điều này, bởi vì qua kinh nghiệm công tác quỹ ngân hàng có thể dự tính chính xác nhu cầu rút tiền gửi hàng ngày và trong những trường hợp thiếu hụt tạm thời thì ngân hàng chỉ cần đi vay bổ sung một cách thông thường trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Tuy nhiên khi tự do thanh khoản xảy ra, các ngân hàng không dự tính trước được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường. Các ngân hàng buộc phải bán thốc bán tháo tức thời ngay số tài sản của mình với giá rẻ mạt vì không có thời gian tìm đối tác, người mua cũng như điều kiện thương lượng về giá cả.Trong trường hợp rủi ro thanh khoản ngày càng nghiêm trọng, ngân hàng sẽ từ chỗ chỉ đối phó rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với nguy cơ phá sản, có thể làm cả hệ thống ngân hàng sụp đổ. Vậy rủi ro thanh khoản có những nguyên nhân nào dẫn đến? Chúng ta sẽ cùng làm rõ vấn đề này ngay sau đây: a. Những nguyên nhân làm phát sinh rủi ro thanh khoản - Nguyên nhân khách quan: + Thay đổi trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN thông qua các công cụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các loại lãi suất như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất thị trường mở + Thay đổi lựa chọn kênh đầu tư của các nhà đầu tư. 5
  7. + Hiệu ứng dây chuyền trong tâm l ý khách hàng. - Nguyên nhân chủ quan: + Sự mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản Nợ và tài sản Có. + Chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản không phù hợp và kém hiệu quả. b. Tác động của rủi ro thanh khoản đến các NHTM - Tác động của rủi ro thanh khoản đến mỗi NHTM riêng lẻ: + Làm sụt giảm lợi nhuận và uy tín của ngân hàng (do chi phí huy động tăng đồng thời phải cắt giảm nguồn cung tín dụng). + Trong một số trường hợp có thể dẫn đến sự phá sản và sụp đổ của ngân hàng. - Tác động của rủi ro thanh khoản đến hệ thống ngân hàng và nền kinh tế: + Việc phá sản của một ngân hàng sẽ dẫn đến sự hoảng loạn của người gửi tiền, kéo theo sự rút tiền hàng loạt ở các ngân hàng khác và lúc này kéo theo sự sụp đổ của toàn hệ thống chứ không chỉ của một ngân hàng riêng lẻ. + Tăng trưởng của nền kinh tế bị giảm sút. c. Một số trường hợp trên thế giới và Việt Nam về rủi ro thanh khoản Trạng thái thanh khoản luôn ở trạng thái nóng và khó kiểm soát trong khi hệ số an toàn vốn thấp không chỉ xảy ra ở một nước mà còn ở nhiều nước đã, đang và chậm phát triển. 6
  8. Trường hợp Argentinian Banks (2001) Sau sự rút chạy của dòng vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ Argentina đã thông qua một nhóm đạo luật mới được biết tới dưới cái tên Corralito.Theo đó, các tài khoản ngân hàng trong toàn quốc đều bị đóng băng trong vòng 12 tháng.Chủ tài khoản chỉ được phép rút một lượng nhỏ tiền, phục vụ cho chi tiêu cá nhân. Hệ thống ngân hàng bị "bóp nghẹt" khiến nạn thiếu tiền trở nên nghiêm trọng.Các cửa hàng, siêu thị bị người dân cướp sạch trong sự bất lực của nhà cầm quyền.Kinh tế Argentina rơi vào suy thoái nghiêm trọng, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25%.Chỉ trong một năm, Buenos Aires từ đô thị đắt đỏ bậc nhất châu Mỹ Latin đã trở thành thành phố rẻ nhất khu vực. Suy thoái kinh tế kéo theo bất ổn về chính trị, Argentina chỉ trong thời gian ngắn đã qua lần lượt 4 đời Chính phủ khác nhau. 7
  9. Northern Rock (2007) Khách hàng chen chúc rút tiền khỏi Northen Rock. Ảnh: wikipedia.org. Bước ngoặt dẫn tới kết cục buồn của Northern Rock đến vào năm 2006 khi ngân hàng này mở rộng hoạt động sang lĩnh vực cho vay thế chấp bằng bất động sản với đối tác là Lehman Brothers. Khủng hoảng thị trường nhà đất và tín dụng đã đẩy cả hai gã khổng lồ tới bờ vực phá sản. Vài ngày sau khi yêu cầu Bank of England hỗ trợ thanh khoản, vào thứ sáu, ngày 17/9/2007, khoảng 4 tỷ đôla đã bị khách hàng rút khỏi ngân hàng. Northern Rock mất thanh khoản và được Chính phủ Anh tiếp quản vào ngày 22/3/2008. Bear Stearns (2008) Thứ ba, ngày 11/3/2008, từ nhà đầu tư, người cho vay, và khách hàng đều cố rút ra khỏi Bear Stearn, ngân hàng danh tiếng trên phố Wall. Bear Stearn ban đầu không phải là ngân hàng thương mại mà chủ yếu hoạt động thông qua các khoản đầu tư vào việc bán khống trái phiếu sắp đáo hạn, một hình thức kinh doanh đầy rủi ro. Những biến động bất thường của khối tài chính khiến hãng thua lỗ và gặp nhiều khó khăn.Mọi chuyện càng tồi tệ hơn khi Giám đốc tín dụng của một ngân hàng khác cho rằng Bear Stearn sẽ không thể đạt được lợi nhuận như đã công bố trước đó. Hệ quả là, chỉ trong hai ngày, vốn cổ phần của ngân hàng này từ 17 tỷ đôla tiền mặt chỉ còn lại 2 tỷ đôla.Trước tình hình trên, Bear Stearn không có lựa chọn nào khác ngoài tuyên bố phá sản. Trên là 3 trường hợp phá sản của các ngân hàng trên thế giới do rủi ro thanh khoản. ở Việt Nam tuy thị trường tài chính mới phát triển nhưng rủi ro thanh khoản vẫn luôn kề sát với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Và vụ việc của ngân hàng Á Châu (ACB) là một ví dụ điển hình. 8
  10. Đầu năm 2003, Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu vẫn đang kinh doanh hiệu quả thì đến tháng 10/2003 có tin đồn “ Tổng giám đốc của ACB Phạm Văn Thiệt bỏ trốn” đã gây nên cú sốc trong dư luận của nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là những người gửi tiền vào ACB. Từ ngày 14-15/10/2003 , hàng ngàn người dân đổ xô đi rút tiền ở trụ sở chính và các chi nhánh của ACB. Sau đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Thúy đã đứng ra bác bỏ tin đồn thất thiệt này. Sự việc mới được giải quyết. Đây là lần đầu tiên, ngành ngân hàng và nền kinh tế Việt Nam phải đối phó với một tình huống đặc biệt như vậy. 1.2. Rủi ro lãi suất a. Khái niệm: Rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất trên thị trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất, dẫn đến tổn thất về mặt tài sản hoặc làm giảm thu nhập của các ngân hàng. b. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất. + Khi xuất hiện sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. - Kỳ hạn của tài sản có lớn hơn kỳ hạn của tài sản nợ: Ngân hàng huy động vốn ngắn hạn để cho vay, đầu tư dài hạn. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo tăng lên, trong khi lãi suất cho vay và đầu tư dài hạn không thay đổi. - Kỳ hạn của tài sản có nhỏ hơn kỳ hạn của tài sản nợ: Ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài để cho vay, đầu tư kỳ hạn ngắn. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo không đổi, trong khi lãi suất cho vay và đầu tư giảm xuống. +Do các ngân hàng áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy động vốn và cho vay - Ngân hàng huy động vốn với lãi suất cố định để cho vay và đầu tư với lãi suất biến đổi. Khi lãi suất giảm, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi không đổi trong khi thu nhập lãi giảm làm lợi nhuận của ngân hàng giảm. - Ngân hàng huy động vốn với lãi suất biến đổi để cho vay, đầu tư với lãi suất cố định. Khi lãi suất tăng, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi suất tăng theo lãi suất thị trường, trong khi thu nhập lãi không đổi làm lợi nhuận ngân hàng giảm. +Một số nguyên nhân khác - Do không có sự phù hợp về khối lượng giữa các nguồn huy động với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay. 9
  11. - Do không có sự phù hợp về thời hạn giữa nguồn vốn huy động được với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay. - Do tỷ lệ lạm phát dự kiến không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế làm vốn ngân hàng không đạt được bảo toàn sau khi cho vay c. Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động ngân hàng. Từ những nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất nêu trên, có thể thấy những ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt dộng kinh doanh của ngân hàng như sau: + Rủi ro lãi suất làm giảm thu nhập từ khối tài sản của ngân hàng. + Rủi ro lãi suất làm tăng chi phí nguồn vốn của ngân hàng. + Rủi ro lãi suất làm giảm giá trị thị trường của tài sản có và vốn chủ sở hữu của ngân hàng. d. Trường hợp ngân hàng thương mại gặp rủi ro lãi suất trên thế giới và Việt Nam. Từ năm 2004-2007 thì lãi suất của Ngân hàng liên tục biến động, đặc biệt là trong năm 2007. Cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng cuối năm 2007 đã gây tình trạng vốn chạy lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của hệ thống NHTM. Lãi suất tăng báo hiệu một chu kỳ sút giảm lợi tức của ngành ngân hàng, do GAP (chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay) sẽ bị thu hẹp lại. Lãi suất tăng cũng làm giảm đầu tư của doanh nghiệp, do chi phí lãi suất tăng lên và lợi nhuận giảm xuống. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng GDP. Đó cũng là cái giá phải trả cho ý tưởng dùng lạm phát để kích thích tăng trưởng điều này chỉ có thể đạt được trong ngắn hạn mà thôi. 1.3. Rủi ro tín dụng a. Khái niệm và phân loại + Khái niệm: Rủi ro tín dụng là một rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho NH. Tất cả các hình thức cấp tín dụng của NH bao gồm cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cho thuê tài chính, chiết khấu các chứng từ có giá, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, bao thanh toán và bảo lãnh đều chứa rủi ro tín dụng. + Phân loại: Nếu căn cứ vào các hình thức phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại biểu hiện qua sơ đồ sau: 10
  12. b. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng +Nguyên nhân từ phía khách hàng -Khách hàng gian lận,cố ý lừa ngân hàng . -Khách hàng không gian lận: Đó là khi khách hàng có trình độ kém, năng lực quản lý yếu, không có đầu óc kinh doanh nên không thể đưa phương án kinh doanh của mình đạt hiệu quả, không thể đưa doanh nghiệp của mình thắng trong cạnh tranh nên việc trả nợ ngân hàng là rất khó khăn. Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân rủi ro khách quan như thiên tai, trộm cắp có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp và có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. + Nguyên nhân từ phía ngân hàng. - Do thông tin không đầy đủ. - Tình độ chuyên môn của các cán bộ còn hạn chế. - Ngân hàng quá chú trọng vào lợi tức nên không cân nhắc kĩ trong các khoản vay. - Sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. - Hoạt động kiểm tra kiểm soát còn chưa thường xuyên. + Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh 11
  13. - Môi trường kinh tế: chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ không đúng đắn phù hợp với thực tiễn thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn thậm chí thua lỗ, phá sản. - Môi trường pháp lý:Môi trường cho vay có ảnh hưởng, tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động tín dụng, nó sẽ góp phần làm hạn chế hoặc tăng thêm rủi ro trong các hoạt động tín dụng của các NHTM. - Nguyên nhân từ môi trường xã hội:Những thay đổi về chính trị có thể dẫn đến sự biến động trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động là các ngân hàng thương mại. c. Tác động của rủi ro tín dụng đến các ngân hàng thương mại +Đối với ngân hàng: - Về mặt tài chính: Ngân hàng không có khả năng bảo đảm vốn lưu động, hạn chế cả vai trò phục vụ và khả năng kinh doanh. - Về mặt xã hội: từ rủi ro tín dụng dẫn đến rủi ro thanh khoản làm mất lòng tin của nhân dân gây ảnh hưởng đến tâm lý người gửi tiền. Đối với các cơ quan quản lý cấp trên thì mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng. - Về mặt tâm lý, các cán bộ hoạt động trong ngân hàng chán nản, không tin vào khả năng hoạt động của chính mình dẫn đến khả năng phá sản của ngân hàng. + Đối với nền kinh tế: Hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế, xí nghiệp và dân cư. Như vậy, hệ thống ngân hàng bị rung chuyển sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. Nếu không cứu vãn được hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế. 12
  14. d. Một số trường hợp về rủi ro tín dụng của các ngân hàng trên thế giới và Việt Nam. Nợ xấu ngày càng gia tăng nhanh chóng và ở mức cao không chỉ ở Việt Nam mà còn cả các nước trên thế giới. Một số trường hợp các ngân hàng gặp rủi ro tín dụng: +Lehman Brothers (2008) Định chế tài chính 158 năm tuổi vừa phá sản ngày 15/9 khi mới chỉ 1 năm trước còn là ngân hàng lớn thứ tư nước Mỹ với số nhân viên lên tới hơn 26 nghìn. Thiệt hại mà ngân hàng này phải gánh chịu là kết quả của việc biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản đầy rủi ro cung cấp cho thị trường. Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng khiến việc phát mãi tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh.Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư, trong đó có Lehman Brothers, lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh. 13
  15. Giá trị vốn hóa đỉnh điểm khoảng 45 tỷ vào cuối năm 2007 của Lehman Brothers đã về số 0 chỉ sau gần 10 tháng, tạo nên một trong những vụ sụp đổ ngân hàng chóng vánh nhất. +Washington Mutual (2008) Trước khi phá sản, Washington Mutual là ngân hàng lớn thứ sáu nước Mỹ. Ngân hàng này cũng sở hữu Washington Mutual Saving Bank, tổ chức cho vay và tiết kiệm hàng đầu quốc gia. Tương tự như Lehman Brothers, nguyên nhân đẩy Washington Mutual đến bờ phá sản cũng bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng trăm năm mới có một lần tại thị trường tín dụng và bất động sản. Thiệt hại kéo dài đã khiến hãng phải đóng nhiều chi nhánh và cắt giảm nhân công. Giá cổ phiếu của Washington Mutual từ đó đi xuống thê thảm, từ 30 đôla, vào tháng 9/2007, thậm chí 45 đôla trong năm 2006, xuống chỉ còn 2 đôla vào tháng 2/2008. Sau nhiều nỗ lực cải tổ bằng cách sa thải ban giám đốc hoặc tìm đối tác mua lại cổ phần nhưng không thành công, ngân hàng trên lại bị giáng một đòn nặng khi chỉ trong 10 ngày các khách hàng đã đua nhau rút ra một khoản tiền kỷ lục lên tới 16,7 tỷ đôla. Vào ngày 26/9, Washington Mutual Bank đệ đơn xin phá sản.Đây là vụ sụp đổ ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với số tài sản "bốc hơi" lên tới 307 tỷ đôla. Ở Việt Nam, rủi ro tín dụng cũng đang là một vấn đề nhức nhối đối với các ngân hàng thương mại trong nước. Biểu đồ sau sẽ cho thấy rõ điều này: Hầu hết các ngân hàng đều có tỷ lệ nợ xấu tăng lên chỉ có trường hợp ngân hàng Vietcombank và Bản Việt là có tỷ lệ nợ xấu giảm.Trong khi có nhiều ngân hàng năm 2010, có tỷ lệ nợ xấu rất thấp thì đến năm 2011 thì tỷ lệ tăng cao: NHTM Bảo Việt (gần 5 %), Habubank(gần 3%), Nhưng cũng có nhiều ngân hàng đã giữ nguyên được tỷ lệ nợ xấu như Vietinbank, Sacombank, Đông Á, 14
  16. 1.4. Rủi ro về tỷ giá hối đoái a. Khái niệm: Rủi ro tỷ giá hối đoái là rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay ngoại tệ hoặc quá trình kinh doanh ngoại tệ khi tỷ giá biến động theo chiều hướng bất lợi cho khách hàng. b. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tỷ giá. Có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro ngoại hối đối với một ngân hàng: + Rủi ro hối đoái trong kinh doanh ngoại tệ bao gồm 2 hoạt động sau: - Mua bán ngoại tệ cho khách hàng hoặc cho chính ngân hàng, nhằm cân bằng trạng thái ngoại hối để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. - Mua bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá biến động. + Sự không cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ. Hay nói cách khác là việc các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ.Giả sử, khi một ngân hàng Việt Nam cấp tín dụng bằng USD cho khách hàng của mình. Khi đồng USD giảm giá so với VNĐ thì gốc và lãi của khoản vay bằng USD thu về sẽ bị giảm khi quy thành VNĐ. Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại tệ ròng.Nếu tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng lớn, chính vì vậy, người ta thường coi rủi ro ngoại hối là rủi ro tỷ giá. c. Tác động của rủi ro tỷ giá đối với ngân hàng thương mại trên thế giới và Việt Nam - Rủi ro tỷ giá làm giảm thu nhập từ khối tài sản của ngân hàng. - Rủi ro tỷ giá làm tăng chi phí nguồn vốn của ngân hàng. - Rủi ro tỷ giá làm giảm giá trị thị trường của tài sản có và vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Các trường hợp trên thế giới và Việt Nam: + Trên thế giới: Điển hình là ngân hàng Bank of England (1992) Bank of England đóng vai trò là người cho vay cuối, cứu giúp các định chế tài chính.Thế nhưng, ngân hàng từng được quốc hữu hóa này đã phải trải qua thua lỗ và không tự cứu nổi mình. Sau khi thất bại trong việc neo giữ tỷ giá đồng bảng với các ngoại tệ lớn tại châu Âu do lạm phát tại Anh ở mức cao, giới đầu cơ đã bán mạnh nội tệ với hy vọng mua lại sau khi Bank of England điều chỉnh lại chính sách. Tuy nhiên, thay vì làm như vậy, ngân hàng này lại chống lại nhà đầu cơ bằng cách mua đồng bảng và tăng mạnh lãi suất.Kế hoạch thất bại và vào ngày thứ tư đen tối 16/9/1992, giới đầu cơ trong đó có cả George Soros danh tiếng đã bán khống lượng bảng Anh có giá trị khoảng 10 tỷ đôla.Hệ quả là Bank of England buộc phải rút khỏi cơ chế một tỷ giá của hệ thống tiền tệ châu Âu và tiến hành phá giá đồng bảng. Soros và "bạn bè" đã kiếm được 15
  17. khoảng 1,1 tỷ đôla nhờ sự kiện này. Cũng từ đó, cái tên Soros còn được nhắc đến như kẻ đã phá hoại Bank of England. + Ở Việt Nam: Yếu tố tỷ giá trong thời gian gần đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng. Chỉ trong vòng năm 2010, ngân hàng Nhà nước đã 2 lần điều chỉnh tỷ giá VNĐ/USD liên ngân hàng lần lượt ở mức tăng 3% và 2,1% và trong quý I năm 2011đã điều chỉnh tăng thêm 9,3%. Sau những lần điều chỉnh tỷ giá, cộng thêm tình hình nhập siêu, lạm phát ở mức hai con số, giá vàng có xu hướng tăng, làm thị trường ngoại hối có dấu hiệu căng thẳng. Chênh lệch giữa tỷ giá thị trường tự do và niêm yết có lúc lên đến 2000 VNĐ/USD gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng. 1.5. Công nghệ và hoạt động tác nghiệp Đổi mới công nghệ ngân hàng đã trở thành một vấn đề được ngân hàng quan tâm hơn bao giờ hết trong những năm gần đây. Trong những năm 80 và 90, các ngân hàng đã tập trung đầu tư khổng lồ vào các lĩnh vực như máy tính, thông tin và cơ sở hạ tầng công nghệ. Có thể kể đến như công ty dịch vụ tài chính toàn cầu như Citicorp có mạng lưới hoạt động trên 80 quốc gia và đều được nối mạng trực tuyến với nhau bằng hệ thống vệ tinh độc quyền. Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động. Tính không hiệu quả trongđầu tư công nghệ của ngân hàng phát sinh trong trường hợp như dung lượng đầu tư quá lớn dẫn đến công nghệ không sử dụng đến và hậu quả là tổ chức bộ máy trở nên quan liêu kém hiệu quả hoặc là quy mô hoạt động không được mở rộng, mặc dù đã đầu tư công nghệ mới.Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống đáng kể và là nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân hàng trong tương lai. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo ra các tiềm năng phát triển to lớn đối với lĩnh vực tài chính – ngân hàng trên hai góc độ. Thứ nhất, là vấn đề kết nối, truyền thông, giải quyết các nhu cầu sản phẩm, dịch vụ mọi nơi, mọi lúc theo yêu cầu của khách hàng. Thứ hai là vấn đề tái cấu trúc các quá trình kinh doanh, quá trình quản trị, điều hành của ngân hàng. Công nghệ thông tin cho phép phát triển sản phẩm, dịch vụ tinh vi, phức tạp; cho phép thu thập, xử lý thông tin, phân tích thị trường với qui mô dữ liệu lớn, phức tạp trong thời gian ngắn và cho phép thực hiện việc kiểm soát rủi ro trong bối cảnh mở rộng địa bàn, qui mô hoạt động kinh doanh Công nghệ thông tin cũng cho phép tiết kiệm chi phí liên quan tới việc in ấn, vận chuyển chứng từ; chi phí thiết lập các chi nhánh cố định (được thay bằng các kênh phân phối điện tử); chi phí nhân sự trong việc thực hiện thủ công các công việc đã được tự động hóa Vì vậy, NHTM nào cập nhật được các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, có khả năng ứng dụng một cách kịp thời 16
  18. và có đội ngũ nguồn nhân lực vận hành một cách hiệu quả, thì NHTM đó sẽ có các lợi thế trong cạnh tranh, thu hút khách hàng. Do đó công nghệ thông tin chính là chìa khóa để NHTM tăng cường năng lực cạnh tranh. Thực tế trong thời gian qua, nhiều NHTM đã ưu tiên tài chính cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh, quản trị, điều hành. Các NHTM cũng đã ứng dụng công nghệ tin học để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại như internet banking, mobile banking, ví điện tử, các dịch vụ thanh toán hóa đơn . đáp ứng được nhu cầu về thuận tiện, mọi lúc, mọi nơi. Về quy trình nghiệp vụ, các NHTM cũng đã và đang triển khai hàng loạt các dự án tự động hóa các nghiệp vụ lõi như phê duyệt tín dụng, phát hành và thanh toán LC, chuyển tiền, nghiệp vụ kiều hối Việc ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa sẽ rút ngắn thời gian giao dịch của khách hàng, nâng cao năng suất lao động và giảm thiểu rủi ro họat động. Một số NHTM đã xây dựng các hệ thống Call Center để giải quyết nhanh chóng mọi thắc mắc của khách hàng vào mọi thời điểm (hoạt động 24/7), tư vấn và cung cấp thông tin sản phẩm kịp thời tới mọi đối tượng khách hàng. Ở qui mô lớn hơn, phức tạp hơn, một số NHTM đã đầu tư, ứng dụng kiến trúc hệ thống công nghệ tiên tiến, có hiệu năng và độ mở rộng cao, bảo mật thông tin, hỗ trợ tích cực cho chiến lược mở rộng nhanh chóng hoạt động của mỗi NHTM. Một số NHTM đã có hệ thống quản lý quan hệ khách hàng (CRM), thiết kế hệ thống 360 độ view để giúp các nhân viên có thể chăm sóc khách hàng một cách hiệu quả nhất; Ứng dung công nghệ thông tin nâng cao hiệu quả công tác quản trị rủi ro Quá trình này đã và đang tạo ra các lợi ích to lớn không chỉ đối với ngân hàng, mà còn tạo giá trị gia tăng cho khách hàng. Bên trên là đầu tư vào công nghệ có hiệu quả, nó giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh.Nhưng không phải lúc nào cũng đem lại sự hiệu quả, các ngân hàng vẫn xảy ra rủi ro công nghệ với xác suất khá cao.Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động.Ví dụ, trong giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, ngân hàng có thể là người cho vay hoặc người đi vay.Việc thanh toán giữa các ngân hàng diễn ra hàng ngày. Thông thường, hệ thống máy tính của ngân hàng hoạt động hiệu quả nhưng đôi khi cũng xảy ra trục trặc và do đó rủi ro có thể phát sinh. Rủi ro có thể xảy ra khi hệ thống máy tính đã xử lí sai các khoản vay của ngân hàng ở mức quá cao, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng và buộc ngân hàng này phải lập tức vay tiền từ Ngân hàng Trung Ương để đảm bảo khả năng thanh toán. Không chỉ ở hệ thống công nghệ mà hiện nay, vấn đề đạo đức của các nhân viên ngân hàng đang được chú trọng. Có rất nhiều các cán bộ ngân hàng không tuân theo các quy định, quy trình của các NHTM, thực hiện các nghiệp vụ không được ủy quyền hay có hành vi lừa đảo hoặc phạm tội cấu kết với các đối tượng bên ngoài gây thiệt hại cho ngân 17
  19. hàng. Các vấn đề này tác động không nhỏ tới các ngân hàng mà có thể kể đến vụ phá sản ngân hàng Barings Bank (1995) Trước khi giải thể vào năm 1995, Baring Bank là ngân hàng thương mại lâu đời, thành lập vào năm 1762, và có uy tín nhất London.Đây cũng là ngân hàng cá nhân của Nữ Hoàng và đã từng tài trợ cho cuộc chiến của Napoleon vào thế kỷ 19. Căn nguyên của mọi chuyện bắt nguồn từ việc một trong những nhân viên của ngân hàng tại chi nhánh Singapore, Nick Leeson, 28 tuổi, gây nên khoản lỗ tới 827 triệu bảng, tương đương 1,4 tỷ Câu chuyện sai lầm của Nick Leeson đôla, do đầu cơ vào các hợp đồng tương lai. đã được dựng thành phim vào năm 2005. Ảnh: soxfirst.com. Thay vì công khai sai lầm của mình, Leeson che giấu mọi thứ bằng một serie các bản báo cáo kế toán phức tạp, với hy vọng kéo dài thời gian chờ thị trường hồi phục nhưng mọi việc đi theo hướng ngược lại. Tuy nhiên, tới tận tháng 3/1995, mọi chuyện mới được đưa ra ánh sáng. Thông tin được công bố, đã đặt dấu chấm hết cho ngân hàng thương mại lâu đời và uy tín nhất London. Baring Bank bị bán cho ING, Tập đoàn Tài chính có trụ sở tại Hà Lan, với giá 1 bảng. Nếu ngân hàng Baring Bank là do đạo đức của nhân viên thì ngân hàng Continental Illinois National Bank and Trust Company (1984) do đạo đức của người điều hành ngân hàng. Đã từng là ngân hàng lớn thứ 7 nước Mỹ xét trên lượng ký quỹ, Continental Illinois National Bank và Trust Company tan rã vào năm 1984 sau khi dư luận phát hiện ra cuộc sát nhập của ngân hàng này với Penn Square Bank là vô giá trị. John Lytle, Giám đốc Điều hành mảng cho vay đầu tư vào dầu mỏ, đã nhận 585 nghìn đôla tiền hối lộ. Đổi lại Lytle đã bỏ qua các khoản nợ khó đòi và ủng hộ việc sáp nhập giữa hai ngân hàng. Hậu quả là Continental Illinois National Bank and Trust Company vỡ nợ do nợ xấu, cho các nhà sản xuất dầu vay trong thời kỳ bùng nổ dầu mỏ những năm 1980 và 1990 tại Texas, của Penn Square Bank. Các chủ tài khoản khi biết thông tin trên đã rút tới hơn 10 tỷ đôla khỏi ngân hàng này chỉ trong vài ngày đầu tháng 5/1984. Continental Illinois National Bank and Trust Company do vậy bị mất thanh khoản và sụp đổ hoàn toàn. 18
  20. Vậy, chúng ta có thể thấy được tác động rất lớn của rủi ro hoạt động nghiệp vụ ngân hàng.Nó có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản và dẫn đến sự phá sản của ngân hàng thương mại. 1.6. Rủi ro hoạt động ngoại bảng Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của một ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng.Theo định nghĩa, hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản (nội bảng), bởi vì các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp. Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có thể ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng bởi vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản Có và tài sản Nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng. Do đó những nhà kế toán ghi chép các hoạt động ngoại bảng ở phía dưới bản cân đối tài sản nội bảng. Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty phát hành. Trong thực tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã trở thành nguyên nhân chính khiến cho ngân hàng có thể phá sản. Ngày nay, hoạt động ngoại bảng rất phong phú và đa dạng. Trong khi một số hoạt động ngoại bảng được sử dụng tích cực vào việc phòng ngừa rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối và rủi ro tín dụng thì nếu việc quản trị điều hành không hiệu quả hoặc không đánh giá đúng được tác dụng của các nghiệp vụ ngoại bảng có thể dẫn đến những tổn thất to lớn. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007 đã cho chúng ta một bài học về quản trị rủi ro trong ngân hàng. Theo tính toán của James Gohary – nhà quản trị hoạt động khu vực Trung Đông và Bắc Phi của IFC – vào tháng 12 năm 2006 tỷ lệ rủi ro ngoại bảng trên rủi ro nội bảng là: - Phần lớn các ngân hàng ở Mỹ rủi ro ngoại bảng cao hơn 2.5 lần so với nội bảng. - Phần lớn ngân hàng Anh là 2.3 lần so với nội bảng. - Phần lớn ngân hàng Đức là 2.2 lần so với nội bảng. 19
  21. - Phần lớn ngân hàng Thụy Sĩ là 1.7 lần so với nội bảng. Với mức rủi ro cao như thế này, khi khủng hoảng xảy ra đã làm cho các ngân hàng thua lỗ rất nhiều thậm chí phá sản. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm sau cuộc khủng hoảng này là việc nhận dạng được rủi ro và khả năng kiểm soát, hạn chế hay phòng ngừa rủi ro được các ngân hàng thực hiện như thế nào, đặc biệt là các rủi ro liên quan đến hoạt động ngoại bảng. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã xây dựng Hiệp ước vốn Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên nguyên tắc thị trường. Ủy ban Basel đưa ra những nguyên tắc tốt nhất cho việc giám sát các loại rủi ro cho cả hoạt động ngoại bảng và nội bảng. Tuy nhiên, Basel II được đánh giá là chưa theo kịp với tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao, điều này ám chỉ cho sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động ngoại bảng, cụ thể là hình thức hợp đồng Hoán đổi rủi ro tín dụng - CDS. Hiệp ước Basel III được đưa ra để giải quyết những thiếu sót bộc lộ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua. Trong Basel III có đưa ra các tiêu chuẩn đo lường rủi ro thanh khoản nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng trong đó bao gồm không ít các yêu cầu về hoạt động ngoại bảng. Hoạt động ngoại bảng là một trong những hoạt động của ngân hàng với các loại rủi ro liên quan cũng nằm trong những rủi ro đã được nhận định của ngân hàng, cho nên quản trị các rủi ro liên quan đến hoạt động ngoại bảng sẽ được lồng ghép vào trong các quy trình quản trị từng loại rủi ro của ngân hàng. Việc xây dựng quy trình quản trị rủi ro như thế nào là tùy thuộc vào mỗi ngân hàng, tùy thuộc vào quy mô, chiến lược, phương châm hoạt động, thế mạnh của từng ngân hàng trong phân khúc thị trường hoạt động. Tuy nhiên, dựa theo nguyên tắc nền tảng về quản trị rủi ro của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, quy trình quản trị rủi ro liên quan đến 4 hoạt động chính: Nhận dạng, đo lường, kiểm soát và giám sát. 20
  22. Quy trình quản trị rủi ro của ngân hàng phải đảm bảo quản lý được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, cả rủi ro nội bảng lẫn rủi ro ngoại bảng.Đặc biệt là các hoạt động ngoại bảng cần được chú ý của các nhà quản trị hơn sau cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua. Các bước trong quy trình sẽ chịu tác động của mức chấp nhận rủi ro do ban lãnh đạo ngân hàng đề ra, phù hợp với khả năng chịu đựng của ngân hàng cũng như đảm bảo sự cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro. Hiện nay, quản trị rủi ro của các NHTM VN vẫn đang trong quá trình xây dựng cho nên vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, cho nên quy trình quản trị rủi ro hoạt động kinh doanh ngân hàng vẫn chưa hoàn thiện cũng như chưa đủ để có thể quản lý được các rủi ro hiện tại – chủ yếu là hoạt động nội bảng, chứ chưa kể đến khi hoạt động ngoại bảng được phép phát triển ở VN. +Thứ nhất, chưa có một bộ phận chuyên trách về rủi ro độc lập, hầu hết các NHTM coi mảng quản trị rủi ro chỉ là hoạt động hỗ trợ. Thói quen của các cán bộ làm công tác quản trị rủi ro hay các cán bộ liên quan thường coi quản trị rủi ro là công việc thường nhật, mang tính chất thủ tục, báo cáo nhiều hơn. Ví dụ, khi có khách hàng đến xin vay thì sẽ có một danh sách những điều kiện cần kiểm tra theo các tiêu chí có sẵn Trên thực tế, công tác quản trị rủi ro không đơn giản như vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động kinh doanh rủi ro, do đó phải coi quản trị rủi ro là một bộ phận của ngân hàng, có quy mô và tổ chức. + Thứ hai, hạn chế trong công tác phối hợp quản trị rủi ro tại ngân hàng. Ở hệ thống NHTM VN, việc quản trị rủi ro tín dụng do Hội đồng tín dụng quản lý còn rủi ro thị trường do Hội đồng ALCO quản lý. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, khi xảy ra rủi ro về lãi suất sẽ làm ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản của ngân hàng và ngược lại, nhưng hiện nay công 21
  23. tác phối hợp để quản lý rủi ro còn nhiều hạn chế, các quyết định quản trị rủi ro độc lập có thể làm ảnh hưởng xấu tới việc quản lý các rủi ro khác. + Thứ ba, hạn chế về công nghệ và nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực không đủ cho công tác quản trị rủi ro, vừa ít vừa đảm nhận khối lượng công việc lớn. Bên cạnh đó, chất lượng chuyên môn của đội ngũ quản trị rủi ro cũng là điều đáng bàn. Hệ thống công nghệ thông tin hiện nay còn hạn chế, các phần mềm sử dụng trong ngân hàng như Core banking còn chưa phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý dữ liệu, làm ảnh hưởng đến việc theo dõi và dự báo được các loại rủi ro tại từng thời điểm. Hơn nữa các phương pháp đo lường rủi ro, kỹ thuật tính toán hoàn toàn chưa đáp ứng được với nhu cầu giám sát, kiểm soát diễn biến của các khoản rủi ro trên thị trường và đưa ra các biện pháp phòng hộ thích hợp. + Thứ tư, về hoạt động định hướng, dự báo rủi ro hoạt động ngoại bảng. Hai hoạt động chưa được tách biệt thành giai đoạn độc lập trong quy trình quản trị rủi ro, trong khi đây là một trong những quy trình có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định của nhà quản trị. + Thứ năm, về hoạt động đo lường rủi ro hoạt động ngoại bảng. Trong hoạt động đo lường rủi ro trong hoạt động ngân hàng, hầu hết các ngân hàng chỉ chú ý đến việc làm theo quy định, chỉ đạo của NHNN mà không xây dựng thêm cho riêng mình các công cụ đo lường khác. + Thứ sáu, hoạt động kiểm soát, giám sát. Hệ thống kiểm toán nội bộ tham gia vào quy trình quản trị rủi ro mà chưa thực sự hoạt động độc lập đúng như vai trò kiểm soát viên như các nghiệp vụ khác của ngân hàng. Chính vì những lý do trên mà hiện nay rủi ro ngoại bảng rất khó kiểm soát và dễ gây khó khăn đến hoạt động của ngân hàng. 1.7 Rủi ro quốc gia và rủi ro khác Ngoài các rủi ro đã nêu ở trên, ngân hàng hiện nay còn phải đối mặt với một số rủi ro khác như sau: a. Rủi ro quốc gia Trong trường hợp ngân hàng đầu tư bằng bản tệ cho các công ty nước ngoài có trụ sở nước ngoài cũng có thể chịu rủi ro đầu tư nước ngoài đó là rủi ro quốc gia. Đôi khi, rủi ro quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp rủi ro tín dụng mà các ngân hàng gặp phải khi đầu tư vào các công ty nội địa (Khi công ty nội địa phá sản, ngân hàng cũng thu hồi được một phần hoặc toàn bộ phần vốn vay). Ngay cả trong trường hợp công ty có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vốn vay, nhưng cũng có thê không thực hiện được, bởi vì chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán nước ngoài do dự trữ ngoại hối hạn chế hoặc vì lý do chính trị. Trong những năm gần đây, chính phủ các nước Argentina, Peru và Brazil đã hạn chế việc các công ty hoặc các cơ quan của chính phủ thanh toán nợ bằng ngoại tệ mạnh cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp này, ngân hàng như là chủ nợ có rất ít hoặc không có cơ hội khiếu nại lên tòa án địa phương hay tòa án quốc tế. Một đảm bảo cho việc thu hồi vốn 22
  24. gốc và lãi đầu tư ở nước ngoài là việc phải kiểm soát và dự tính được trạng thái cung cầu vốn và tín dụng trong tương lai của quốc gia mà ngân hàng có ý định đầu tư. a. Các rủi ro bắt nguồn từ yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát gia tăng, sự biến động vô lối của giá cả hàng hóa, thất nghiệp đều ảnh hưởng đến sự biến động lãi suất, bộc lộ rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản. b. Các rủi ro khác bao gồm sự thay đổi thuế đột ngột, ảnh hưởng của chiến tranh làm các điều kiện trên thị trường tài chính có sự thay đổi đột biến không dự tính trước được, sự sụp đổ đột ngột của thị trường chứng khoán, rủi ro trộm cắp, lừa đảo, Trong những năm Đại khủng hoảng 1923-1933, các ngân hàng tại Mỹ trải qua một trong những cơn ác mộng kéo dài và tồi tệ nhất trong lịch sử. Khi mà người tiêu dùng không còn tiền để chi tiêu và gửi tiết kiệm, các ngân hàng bắt đầu sụp đổ với tốc độ chóng mặt.Trong thập niêm 1920, có trung bình 70 ngân hàng phá sản một năm. Mọi chuyện còn tồi tệ hơn trong thập niên kế tiếp khi chỉ trong 10 tháng đầu năm 1920, 744 ngân hàng phá sản, bằng cả 10 năm trước đó cộng lại. Con số kinh hoàng, 9.000 ngân hàng bị xóa tên, trong thập niên 1930 đã cho thấy mức độ tàn phá ghê gớm của cuộc Đại khủng hoảng. Tổng số tiền bị cuốn theo vòng xoáy sụp đổ nhà băng lên tới 140 tỷ đôla. 2. Thiếu vốn tự có và hiện tượng đầu tư chéo. a. Thiếu vốn tự có Các ngân hàng thương mại đang đối mặt với những khó khăn trong huy động và cho vay, dẫn đến khó đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và dẫn đến những hạn chế nội tại.VNBA cho biết, về huy động vốn, với trên 90% tỷ trọng vốn của ngân hàng hiện nay là nguồn vốn ngắn hạn, gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc quản trị nguồn vốn, khó bảo đảm cân đối kỳ hạn. Kỳ hạn huy động vốn bình quân có xu hướng rút ngắn trong khi kỳ hạn cho vay bình quân dài, tạo nguy cơ rủi ro kỳ hạn và lãi suất.Thị trường huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế sụt giảm so với các năm trước.Đối với toàn bộ thị trường, lượng tiền gửi huy động đã suy giảm nhanh chóng. Theo NHNN, số dư tiền gửi của khách hàng tại các NHTM tháng 10/2011 giảm 0,74% so với tháng 9, còn tháng 9 giảm 1,07% so với tháng 8 và giảm mạnh nhất là tiền gửi VND. Đến cuối tháng 10/2011, huy động thị trường I đạt 2.819,6 nghìn tỷ đồng, chỉ tăng 8,4% so cuối năm 2010 (bình quân tháng tăng 0,84%; trong khi mức bình quân tháng của năm 2010 là 3,1%). Tính từ thời điểm tháng 3/2011 khi Thông tư 07 được ban hành, số dư tiền gửi của khu vực ngân hàng giảm trong 2 tháng kế tiếp đó (tháng 3 và 4/2011). Sau đó, tỷ lệ này tăng trở lại với biên độ không ổn định.Đáng chú ý là tổng tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại NHTM đã giảm mạnh trong năm 2011, dẫn đến giảm tốc độ luân chuyển tiền tệ của toàn nền kinh tế. Thêm vào đó, chính sách trần lãi suất huy động VND ở mức 14% đã 23
  25. gây ra sự suy giảm nguồn vốn huy động tiền gửi từ dân cư, đồng thời khuyến khích sự tích lũy “đóng băng” dưới các dạng tài sản khác (chủ yếu là vàng, ngoại tệ, bất động sản ) của dân chúng. Điều này làm trầm trọng hóa vấn đề vàng hóa và đô la hóa, vốn tồn tại cố hữu trong nền kinh tế Việt Nam từ lâu. Thị trường vàng cũng đã chứng kiến nhiều biến động trong tháng 9 khi nhu cầu tích trữ của người dân tăng mạnh khiến NHNN phải cho phép nhập vàng nhằm bình ổn thị trường. b. Sở hữu chéo và đầu tư chéo Vấn đề sở hữu chéo và đầu tư chéo trong hệ thống tổ chức tín dụng thế giới mà đặc biệt là Việt Nam đang trở thành vấn nạn. Chúng ta cần nhìn nhận sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng là một thuộc tính khách quan và đã tồn tại từ lâu ở nhiều nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt ở các quốc gia mà hệ thống tài chính phát triển dựa trên hoạt động ngân hàng (bank-based), điển hình là Đức và Nhật. Bằng chứngcủa Đức và Nhật đã cho thấy sở hữu chéo giữa ngân hàng và doanh nghiệp là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thành công của quá trình công nghiệp hóa ở cả 2 quốc gia này. Trong khi đó, mối quan hệ sởhữu chéo giữa ngân hàng và doanh nghiệp lại không phổ biến nhiều ở Anh hay Mỹ, do những quốc gia này có nền tài chính phát triển định hướng theo thị trường từ lâu đời (huy động vốn dựa vào thịtrường – market-based). Sở hữu chéo giữa ngân hàng và doanh nghiệp có mặt tích cực là góp phần làm tăng hiểu biết giữa ngân hàng với doanh nghiệp, đồng thời hình thành nên một cơ cấu sở hữu, cơ chếtài trợ và quản trị ổn định giữa các bên. Bên cạnh đó, trong nội bộ hệ thống tài chính cũng có nhiềutrường hợp sở hữu chéo như các ngân hàng lớn sở hữu cổ phiếu ở các ngân hàng nhỏ, và ngược lại.Mặt tích cực trong mối quan hệ này là khi ngân hàng nhỏ gặp vấn đề thì sẽ nhận được những hỗ trợ từ phía các ngân hàng lớn về vốn, kinh nghiệm quản trị cũng như về nhân sự điều hành.Ở Việt Nam, hiện tượng này đang có xu hướng tăng trong thời gian qua.Đối với hình thức sở hữu chéo giữa các ngân hàng với nhau, Vietcombank hiện là TCTD sở hữunhiều nhất cổ phần của những ngân hàng khác. Sau khi thoái vốn khỏi NHTMCP Gia Định (tên mới làBản Việt), Vietcombank đang còn là cổ đông của SaigonBank, Eximbank, Quân đội, Phương Đông vàOceanbank với các tỷ lệ nắm giữ khác nhau. Tác động đến hệ thống ngân hàng thương mại. Hiện tượng này đã đem đến rất nhiều các tác động trực tiếp tới tính ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng.Vậy các tác động của hiện tượng này là gì? 24
  26. + Nguồn lực và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng không được đánh giáđúng mức.Các chỉ số không chính xác lại dẫn đến sai lệch cả về quản trị ngân hàng cũng như việcgiámsát đối với hệ thống tài chính. Điều này là đặc biệt nguy hiểm vì những rủi ro tronglĩnh vựcngân hàng tài chính khi bùng phát thì có sức lan tỏa rất rộng và hậu quả nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế. + Sở hữu chéo có thể làm gia tăng việc cho vay thiếu kiểm soát. Đối vớicác doanh nghiệp(hay ngân hàng) là cổ đông lớn của ngân hàng, sở hữu chéo cho phép mộtdoanh nghiệp(hay ngân hàng) có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM có thể gây áp lực (mộtcách hợppháp như qua bỏ phiếu trong hội đồng quản trị với vị thế cổ đông chiến lược) đểngânhàng này cấp vốn đầu tư vào những dự án không đủ tiêu chuẩn của ngân hàng mình + Các quy định về giới hạn tín dụng, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủiro của NHNNcó thể bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo.Khi khách hàng doanhnghiệp không trảđược nợ cho ngân hàng, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu và trích dựphòng rủi ro theoquy định, ngân hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách không khai báo nợxấu mà nhờngân hàng B (ngân hàng A có sở hữu) cho vay để đảo nợ. Đây cũng là một trong những lý do khiến NHTW khó nắm được chính xác số nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng. 3. Sự gia tăng ồ ạt của các ngân hàng và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. a. Số lượng các ngân hàng tăng ồ ạt. Hiện nay, Việt Nam có hơn 100 NHTM với đa số là ngân hàng nhỏ có dịch vụ tương tự như nhau, chưa kể đến các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các quỹ tín dụng Dễ thấy, đây là con số quá lớn so với quy mô và tính chất của nền kinh tế Việt Nam nếu nhìn sang các nền kinh tế khác trong khu vực. Hàn Quốc, nền kinh tế lớn thứ 12 trên thế giới chỉ có khoảng 20 ngân hàng. Thái Lan, có nền kinh tế lớn hơn Việt Nam có không quá 20 ngân hàng và Malaysia chỉ có khoảng 10 ngân hàng. Một lượng lớn ngân hàng như vậy trong một nền kinh tế nhỏ bé khiến cho không gian hoạt động trở nên chật trội và việc xuất hiện tình trạng cạnh tranh bất bình thường là không thể tránh khỏi. Áp lực cạnh tranh cùng với kỷ cương pháp luật lỏng lẻo khiến đạo đức kinh doanh bị xem nhẹ và chủ nghĩa cơ hội nổi lên, biểu hiện thành cạnh tranh không lành mạnh với nhiều mánh khoé, hoạt động thiếu minh bạch và công tác quản trị rủi ro ít được chú trọng. b. Sự cạnh tranh không lành mạnh của các ngân hàng Bất cứ trong lĩnh vực nào cũng có sự cạnh tranh để tạo động lực để phát triển và lĩnh cực tài chính ngân hàng cũng không ngoại lệ.Nhưng hiện nay, cạnh tranh lại mang một khía cạnh khác là cạnh tranh thiếu lành mạnh.Đây là một trong số các nguyên nhân gây bất ổn cho hệ thống ngân hàng các nước cũng như Việt Nam. 25
  27. Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp bao gồm: - Khuyến mại bất hợp pháp; - Thông tin sai sự thật làm tổn hại lợi ích của tổ chức tín dụng khác và của khách hàng; - Đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ; - Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác. Tính đặc thù trong cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM): Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, chỉ xuất hiện trong điều kiện của kinh tế thị trường. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh là môi trường tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các tổ chức, là nhân tố quan trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi tổ chức.Vì vậy, các tổ chức đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược phù hợp để chiến thắng trong cạnh tranh. Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các NHTM trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ các NHTM khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng đang cùng hoạt động kinh doanh trên thương trường với mục tiêu là để giành giật khách hàng, tăng thị phần tín dụng cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy vậy, so với sự cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa các NHTM có những đặc thù nhất định. Cụ thể: - Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn: Chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một NHTM hoạt động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn Chính vì vậy, trong kinh doanh, các NHTM vừa phải cạnh tranh để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các NHTM khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính NHTM này do tác động dây chuyền. - Hoạt động kinh doanh của các NHTM có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị – xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm, 26
  28. cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác; đồng thời, trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Chính vì vậy, nếu như một NHTM bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các NHTM khác, không những thế, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị “vạ lây”. Đây quả là điều mà các NHTM không bao giờ mong muốn. Chính vì vậy, các NHTM trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống. - Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế – xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các NHTM mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà NHTW thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính – tiền tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, nên sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn nhau như các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế. - Hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại; do vậy, kinh doanh trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc tế đặc biệt là, nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các khách hàng này. Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM trước hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của các nước, sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một NHTM mở ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là đã phải chấp nhận cạnh tranh với các NHTM khác đang hoạt động trong cùng lĩnh vực, tuy nhiên, muốn lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải đáp ứng tối thiểu về điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì không thể hoạt động được. Rõ ràng là, sự cạnh tranh của các NHTM loại hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ loại hình kinh doanh nào khác. Các nhân tố tác động đến cạnh tranh của các NHTM: 27
  29. - Nhóm nhân tố khách quan: Có 4 lực lượng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của một NHTM. * Tác nhân từ phía NHTM mới tham gia thị trường. Các NHTM mới tham gia thị trường với những lợi thế quan trọng như: Mở ra những tiềm năng mới; có động cơ và ước vọng giành được thị phần; đã tham khảo kinh nghiệm từ những NHTM đang hoạt động; có được những thống kê đầy đủ và dự báo về thị trường Như vậy, bất kể thực lực của NHTM mới là thế nào, thì các NHTM hiện tại đã thấy một mối đe dọa về khả năng thị phần bị chia sẻ; ngoài ra, các NHTM mới có những kế sách và sức mạnh mà các NHTM hiện tại chưa thể có thông tin và chiến lược ứng phó. * Tác nhân là các đối thủ NHTM hiện tại. Đây là những mối lo thường trực của các NHTM trong kinh doanh.Đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng đến chiến lược hoạt động kinh doanh của NHTM trong tương lai.Ngoài ra, sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh thúc đẩy ngân hàng phải thường xuyên quan tâm đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các dịch vụ cung ứng để chiến thắng trong cạnh tranh. * Sức ép từ phía khách hàng: Một trong những đặc điểm quan trọng của ngành ngân hàng là tất cả các cá nhân, tổ chức kinh doanh sản xuất hay tiêu dùng, thậm chí là các ngân hàng khác cũng đều có thể vừa là người mua các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, vừa là người bán sản phẩm dịch vụ cho ngân hàng. Những người bán sản phẩm thông qua các hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch hay cho vay đều có mong muốn là nhận được một lãi suất cao hơn; trong khi đó, những người mua sản phẩm (vay vốn) lại muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn nhỏ hơn thực tế. Như vậy, ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi nhuận có hiệu quả và giữ chân được khách hàng cũng như có được nguồn vốn thu hút rẻ nhất có thể. Điều này đặt ra cho ngân hàng nhiều khó khăn trong định hướng cũng như phương thức hoạt động trong tương lai. * Sự xuất hiện các dịch vụ mới: Sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài chính trung gian đe dọa lợi thế của các NHTM khi cung cấp các dịch vụ tài chính mới cũng như các dịch vụ truyền thống vốn vẫn do các NHTM đảm nhiệm. Các trung gian này cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính khác biệt và tạo cho người mua sản phẩm có cơ hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trường ngân hàng mở rộng hơn.Điều này tất yếu sẽ tác động làm giảm đi tốc độ phát triển của các NHTM, thị phần suy giảm.Ngày nay, người ta cho rằng, khi các NHTM mạnh lên nhờ sự rèn luyện trong cạnh tranh, thì hệ thống NHTM sẽ mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt hơn sau các cú sốc của nền kinh tế. 28
  30. - Nhóm nhân tố chủ quan. Bên cạnh các nhân tố khách quan tác động đến năng lực cạnh tranh của các NHTM, trên thực tế, nhóm các nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống NHTM cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng này. Chúng bao gồm: Năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng; Quy mô vốn và tình hình tài chính của NHTM; Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng; Chất lượng nhân viên ngân hàng; Cấu trúc tổ chức; Danh tiếng và uy tín của NHTM. Chính sách phi điều tiết tài chính, cho phép càng ngày càng có nhiều ngân hàng hơn đã làm cho kinh doanh ngân hàng trở nên rất cạnh tranh.Các ngân hàng cạnh tranh với nhau cả về lãi suất tiền gửi lẫn lãi suất cho vay.Chênh lệch lãi suất giữa cho vay và huy động là khoản tiền để bù đắp cho chi phí dịch vụ ngân hàng.Khi khoản chênh lệch này vượt chi phí, thì ngân hàng sẽ có lãi.Lợi nhuận là tín hiệu để cho các ngân hàng mới gia nhập thị trường, và điều này làm cho chênh lệch giảm đi.Với cạnh tranh quyết liệt hơn, thì lãi suất cho vay sẽ giảm và lãi suất huy động sẽ tăng. Trạng thái cân bằng trong ngành ngân hàng xuất hiện khi việc thu hút thêm tiền gửi để cho vay nhiều hơn không còn giá trị nữa. Chi phí biên của vốn, lãi suất tiền gửi , cộng với chi phí biên của hoạt động ngân hàng, cộng với khoản lợi nhuận cân bằng đúng bằng doanh thu biên thu được khi cho vay các khoản mới (bao gồm cả khoản bù đắp rủi ro khi người vay không trả). Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, việc tham gia vào thị trường kinh doanh ngân hàng một cách tự do sẽ làm biến mất tất cả các khoản siêu lợi nhuận. Mặc dù hiện nay ngành ngân hàng bị điều tiết ít hơn trước đây, nhưng sự điều tiết vẫn chưa được dỡ bỏ hoàn toàn và việc cấp giấy phép cho ngân hàng mới vẫn rất thận trọng.Hơn nữa, trong kinh doanh ngân hàng tính kinh tế nhờ quy mô là rất lớn. Vì hai nguyên nhân này cho nên cạnh tranh trong ngành ngân hàng là không hoàn hảo và lợi nhuận ở trạng thái cân bằng vẫn là dương. Tuy vậy, một khi chúng ta đã biết được chính xác cơ cấu thị trường, chúng ta sẽ có một ý tưởng đúng đắn về mối quan hệ giữa lãi suất huy động và cho vay.Khi tất cả các điều kiện khác là không thay đổi, việc tiếp tục phi điều tiết sẽ làm giảm hơn nữa chênh lệch lãi suất. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và ảnh hưởng của điều tiết tác động đến lượng tiền tối ưu mà các ngân hàng tối đa hóa lợi nhuận cần huy động khi tham gia vào thị trường kinh doanh ngân hàng.Hai tác nhân này cũng ảnh hưởng đến lượng tiền mặt dự trữ tối ưu mà các ngân hàng cần phải giữ.Các ngân hàng thường cạnh tranh bằng lãi suất.Ở Việt Nam đỉnh điểm là giai đoạn 2008.Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước gắn liền với sự căng thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại.Lãi suất huy động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới nay.Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân 29
  31. hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới 19%/ năm có ngân hàng còn lên đến 20%/ năm. Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều ngân hàng thương mại cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng; cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%). Khi Nhà nước đưa ra các chính sách làm giảm thiểu sự cạnh tranh lãi suất này như lãi trần, lãi sàn, thì hình thức cạnh tranh bằng lãi suất lại được biến hóa đi rất nhiều.Nhiều ngân hàng hiện vẫn tung ra các chương trình khuyến mãi, như tặng tiền, tặng quà, bốc thăm, quay số trúng thưởng để thu hút khách gửi tiền.Thậm chí, với những khách hàng lớn (gửi tiền từ 10 tỷ đồng trở lên), lãi suất ưu đãi “đặc biệt” vẫn được áp dụng. Đấy là áp dụng cho việc thu hút vốn trong dân cư, doanh nghiệp còn đối với cho vay, các ngân hàng dùng các khoản phí thêm trong các khoản hợp đồng mà thực chất là việc tăng lãi suất ngầm. Nguyên nhân của sự cạnh tranh giữa các ngân hàng là: + Nguyên nhân khách quan: - Bản chất và đặc điểm kinh tế vốn có của hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. - Hành lang pháp lý chưa đồng bộ và hoàn thiện, tính pháp lý chưa cao, chưa kiên quyết trong thực thi pháp luật - Hệ thống giám sát tài chính còn yếu, hoạt động thụ động, hệ thống cảnh báo kém. - Thị trường tài chính chưa phát triển, các nhu cầu về dịch vụ tài chính trong nền kinh tế tập trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng. - Hạ tầng kỹ thuật công nghệ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam nhìn chung còn khá lạc hậu, gây khó khăn trong việc triển khai các loại hình dịch vụ mới. - Mức độ tập trung quá mức các định chế tài chính trên một thị trường tài chính còn kém phát triển và tập trung chủ yếu cung cấp một số loại hình dịch vụ giống nhau. + Nguyên nhân chủ quan: - Các NHTM Việt Nam khó khăn trong việc triển khai các loại hình dịch vụ mới. - Ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao ở một số NHTM. - Chất lượng nguồn nhân lực còn bất cập. 30
  32. II – Các biện pháp ứng phó của Ngân hàng trung ương với những bất cập của ngân hàng thương mại hiện nay 1. Đối với vấn đề thanh khoản của các NHTM Ngân hàng trung ương (NHTW) đã thực hiện các biện pháp: quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền gửi, và hạn chế tài sản được nắm giữ 1.1. Quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc Để có thể thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng thông qua việc cung ứng tiền và điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) các nước có thể sử dụng các công cụ khác nhau: lãi suất, chính sách chiết khấu, thị trường mở Trong đó, dự trữ bắt buộc là công cụ nhận được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách. Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của NHTW về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản.Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này.Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ NHTW để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc.Đây là một trong những công cụ của NHTW nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.Nói cách khác, dự trữ bắt buộc làm tăng khả năng kiểm soát của NHTƯ đối với quá trình cung ứng tiền. Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ có thể tác động vào nguồn dự trữ, thay đổi vốn khả dụng của các ngân hàng để làm thay đổi tiềm năng tín dụng của các ngân hàng - nhưng NHTƯ không phải là người quyết định việc sử dụng các tiềm năng ấy. NHTƯ các nước thường sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong vai trò là công cụ điều hành chính sách tiền tệ, giúp NHTƯ kiểm soát hệ số nhân tiền và trên cơ sở đó kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, do đó, tùy vào mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau. Điều này được chứng minh rất rõ ở nước ta trong thời gian từ tháng 01/2008- 01/2011, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh giảm, việc điều chỉnh này của NHNN, một mặt, nhằm đưa ra tín hiệu nới lỏng tiền tệ; mặt khác, thông qua việc nâng cao hệ số nhân tiền chính thức mở rộng khả năng cho vay, kích thích các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tích cực cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ngày nay, khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc, nghĩa là, NHTƯ đang muốn điều chỉnh hệ số nhân tiền, mặc dù vậy nhưng mục tiêu đảm bảo khả năng thanh khoản cho ngân hàng của dự trữ bắt buộc vẫn không bị mất đi ý nghĩa của nó, không những thế, nó còn là cơ sở để xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Những căn cứ cụ thể sau thường được sử dụng để đưa ra yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc: 31
  33. - Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi - tùy vào tính chất kỳ hạn của tiền gửi mà nghĩa vụ dự trữ bắt buộc khác nhau; thông thường kỳ hạn càng dài thì mức độ ổn định càng cao và độ rủi ro thanh khoản càng thấp và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi này thường thấp hơn so với loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn. - Mức độ của các khoản nợ - quy mô của các nguồn tiền gửi. Thông thường quy mô của các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tỷ lệ thuận với quy mô nguồn tiền gửi. Về điều này, ta có thể tham khảo yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc của FED. - Loại tiền gửi khác nhau cũng chứa đựng khả năng an toàn thanh khoản khác nhau nên NHTƯ có thể quy định tỷ lệ khác nhau cho tiền gửi của các đồng tiền khác nhau. Ngoài ra, tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn có thể quy định tùy theo quy mô và mức độ an toàn chung của mỗi ngân hàng Trường hợp Trung Quốc Khi quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ Trung Quốc cũng căn cứ vào quy mô của ngân hàng, NHTM lớn chịu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn NHTM có quy mô nhỏ. Ngày 27/11/2010, để kiềm chế lạm phát, NHTƯ Trung Quốc đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 17,5% áp dụng cho ngân hàng lớn lên 18%; và từ 15,5% lên 16% áp dụng cho ngân hàng nhỏ. Đồng thời với tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ Trung Quốc cũng tăng lãi suất cơ bản từ 5.56% lên 5.81%. Nếu quan sát diễn biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ của Trung Quốc sẽ thấy được mức độ quan tâm của NHTƯ Trung Quốc đối với công cụ này trong việc kiềm chế lạm phát. Chỉ riêng năm 2010, Trung Quốc đã điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tới 6 lần, lần gần nhất trong năm này được điều chỉnh vào ngày 20/12/2010, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh tăng lên 0,5% đạt mức 18,5% đối với những ngân hàng có quy mô lớn. Tháng 01/2011, lần đầu tiên trong năm tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nâng thêm 0,5% (vào ngày 15/01/2011); ngày 18/2/2011, tỷ lệ dự trữ bắt buộc lại một lần nữa được nâng 0,5% để đối phó với lạm phát hiện đang là 4,9%, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 19,5%. Ở Việt Nam, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính chất kỳ hạn, loại tiền gửi và thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ phải duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa các ngân hàng cũng được quan tâm. Theo quy định tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ) thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định như sau: Để khuyến khích một số NHTM cho vay nông nghiệp và nông thôn ngày 08/12/2010, NHNN đã ban hành các thông báo số 457; 458; 459; 460; 461 về việc áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp và nông thôn cao theo Thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010 của NHNN. Theo đó, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/20 so với tỷ lệ dự 32
  34. trữ bắt buộc thông thường; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, NHTM cổ phần Quốc Tế Việt Nam, NHTM cổ phần Kiên Long, NHTM cổ phần Mê Kông được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/5 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường. (www.sbv.gov.vn). Với quy định này NHNN đã bổ sung thêm một cơ sở mới cho việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn tùy thuộc vào đối tượng đầu tư của các NHTM. Ở nước ta, để ngăn ngừa sự tăng trưởng tín dụng quá nóng nhằm kiểm soát lạm phát, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh khá mạnh vào năm 2007 (từ 5% lên 10%) và năm 2008 - khi tình hình dần bình ổn trở lại, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều giảm dần một cách linh hoạt. Tuy nhiên, gần như suốt năm 2009 và 2010, kể cả những tháng đầu năm 2011 - lạm phát không còn là nỗi lo mà là thực tế đang phải đối mặt thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với VND vẫn không thay đổi. Sáng 9.4.2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 750/QĐ-NHNN điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng (TCTD). NHNN cũng có văn bản quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng USD của tổ chức, cá nhân tại TCTD. Theo đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng bằng ngoại tệ áp dụng đối với các ngân hàng thương mại nhà nước (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Agribank), ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 6% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Riêng Agribank, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng ngoại tệ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng với các ngân hàng thương mại nhà nước (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam), ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 4% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Riêng Agribank, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác là 3% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 5 năm 2011 và thay thế Quyết định số 74/QĐ-NHNN ngày 18.1.2010 của Thống đốc NHNN. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng ban hành Thông tư số 09/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng đôla Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng (TCTD) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài (gọi chung là TCTD). Theo đó, TCTD ấn định lãi suất huy động vốn đối với lãi suất huy động tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức 33
  35. (trừ TCTD) là 1.0%/năm. Đối với lãi suất huy động vốn tối đa bằng đô la Mỹ của cá nhân là 3.0%/năm. 1.2. Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) BHTG là một chính sách để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, mà bảo vệ lớn nhất cho người gửi tiền đó là an toàn hệ thống. Chính vì vậy, nghiên cứu loại tiền gửi được bảo hiểm và nâng cao hạn mức chi trả cho người gửi tiền là để củng cố và duy trì niềm tin của dân chúng, người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, góp phần duy trì và ổn định hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia. Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là một bộ phận quan trọng của mạng an toàn tài chính quốc gia và ngày càng khẳng định được vai trò trong hệ thống tài chính. Nếu như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chứng kiến sự thay đổi mạnh chính sách BHTG ở nhiều nước tại châu Mỹ, châu Âu và một số nước châu Á thì giai đoạn hiện nay đang diễn ra sự chuyển mình trong chính sách BHTG tại khu vực châu Phi với một số quốc gia khu vực Đông Phi và ngay cả Trung Quốc đã nhận thấy sự cần thiết tồn tại một cơ chế BHTG công khai. Các quốc gia này đang xây dựng kế hoạch cho việc thành lập và chuẩn bị khung pháp lý cho hoạt động BHTG. Trung Quốc nỗ lực thành lập hệ thống BHTG Cơ chế BHTG đã được ban lãnh đạo mới của Trung Quốc khẳng định sẽ có vai trò là một trụ cột trong mạng an toàn tài chính. Thành lập hệ thống BHTG là một bước đi quan trọng trong kế hoạch cải tổ ngành ngân hàng. Sự ra đời của một hệ thống bảo hiểm tiền gửi công khai sẽ góp phần vào tiến trình tự do hóa tài chính hơn nữa ở nước này. Mặc dù chưa chính thức được thành lập, theo ý kiến của nhiều chuyên gia Trung Quốc, khi đi vào hoạt động, hệ thống BHTG Trung Quốc nên áp dụng mức phí theo mức độ rủi ro. Cộng đồng Đông Phi hướng tới kế hoạch xây dựng hệ thống BHTG hiệu quả Tính cấp thiết phải xây dựng một hệ thống BHTG hiệu quả tại châu Phi đã trở thành chủ đề “nóng” trong các hội nghị, diễn đàn quốc gia và quốc tế. Sau khủng hoảng, các quốc gia nhận thấy rằng việc quan tâm cũng như áp dụng không đúng mức hệ thống BHTG khu vực châu Phi ảnh hưởng bất lợi ra sao đến sự ổn định và khả năng phục hồi hệ thống tài chính ngân hàng của khu vực này. Tại châu Phi, chỉ có 9 nước trong tổng số 54 quốc gia có hệ thống BHTG. Đây là động lực chính thúc đẩy cộng đồng Đông Phi thành lập hệ thống BHTG. Trước tình hình đó, các ngân hàng trung ương (NHTW) thuộc Cộng đồng các nước Đông Phi (EAC) đang lên kế hoạch xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả vào năm 34
  36. 2015 với mục đích đảm bảo người gửi tiền tại tất cả các tổ chức tài chính trong khu vực đều được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra đổ vỡ ngân hàng. Ban hành khung pháp lý cho cơ chế BHTG Trong khi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Trung Quốc và cộng đồng Đông Phi đang rục rịch chuẩn bị cho quá trình thành lập tổ chức BHTG, một số quốc gia tuy nhỏ bé hơn nhiều đã ban hành khung pháp lý cho cơ chế BHTG của mình. Bảng 1: Ban hành khung pháp lý cho cơ chế BHTG Tên Ban hành khung pháp lý cho cơ chế bảo hiểm tiền gửi nước Mông Ngày 10/1/2013, Quốc hội Mông Cổ thông qua Luật bảo hiểm tiền gửi. Cổ Trước đó, Chính phủ Mông Cổ áp dụng cơ chế BHTG toàn bộ theo Luật của Mông Cổ về bảo đảm tiết kiệm ngân hàng do Chính phủ ban hành có hiệu lực từ ngày 25/11/2008 (Luật Bảo đảm tiền gửi) và hết hiệu lực vào 25/12/2012. Phí bảo hiểm sẽ dựa trên mức độ rủi ro, nhưng không quá 0,125% tổng số dư tiền gửi. Hạn mức là 20.000.000 MNT (khoảng 14.400 USD). Palestin Đạo luật trong đó có điều khoản về bảo hiểm tiền gửi nhằm tiến tới đảm bảo ổn định kinh tế hơn nữa cho Bờ Tây và Dải Gaza sẽ có hiệu lực từ ngày 30/6/2013. Quỹ bảo hiểm của Tổng công ty BHTG Palestine đảm bảo khả năng chi trả cho 93% người gửi tiền trong giai đoạn đầu tiên. Tăng cường năng lực tổ chức BHTG Trong khủng hoảng tài chính vừa qua, châu Âu là khu vực kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Từ các nền kinh tế lớn như Ireland, Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp cho đến các quốc gia bé nhỏ như đảo Síp đều lún sâu vào khủng hoảng ngân hàng, tiếp đó là khủng hoảng nợ công trầm trọng kéo dài, khiến các nước này phải kêu gọi cứu trợ nhiều tỷ euro từ các tổ chức quốc tế. Cuộc khủng hoảng tài chính từ châu Âu đã lây lan sang các châu lục khác do tính liên thông cao giữa các châu lục trên thế giới. Trước thực tế đó, các quốc gia đều ý thức được nguy cơ rủi ro đối với hệ thống ngân hàng nước mình nên đã nhanh chóng triển khai các biện pháp nhằm tăng cường năng lực cho tổ chức BHTG cả về mặt pháp lý lẫn tài chính để có thể góp phần giải quyết các vấn đề đối với khu vực tài chính - ngân hàng sau khủng hoảng, đảm bảo ổn định hệ thống. Bảng 2: Tăng cường năng lực của Quỹ BHTG 35
  37. Tên tổ chức Nội dung Tăng cường BHTG Pháp Dự thảo luật cải cách ngân hàng hiện nay cho phép khung pháp lý (FGD) Quỹ BHTG (FGD) tham gia vào việc xử lý ngân về xử lý và hàng, sau quyết định của Cơ quan giám sát và Xử lý quản trị (ACPR). Dự thảo Luật này trao cho các cơ quan khủng hoảng quyền tách riêng các tổ chức đổ vỡ thành các ngân hàng tốt và xấu và thành lập các ngân hàng bắc cầu, và sẽ dần tăng việc cấp vốn trước của FGD từ mức 2 tỷ euro lên 10 tỷ Euro. BHTG Chính phủ Indonesia đang chuẩn bị qui định cho Indonesia phép LPS nhận được vốn nhằm hỗ trợ thanh khoản, (LPS) đặc biệt trong thời gian xảy ra khủng hoảng. Dự kiến qui định này sẽ được hoàn thành trước cuối năm 2013. Chính phủ sẽ sử dụng các tài sản của kho bạc để hỗ trợ cho LPS trong tình trạng khẩn cấp. Tăng quy mô BHTG Hội đồng quản trị của DIFK đã thông qua nghị quỹ mục tiêu Kosovo quyết nâng quy mô quỹ dự trữ mục tiêu lên mức 8- (DIFK) 9% tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm. BHTG Bosnia Những sửa đổi của luật điều chỉnh Cơ quan Bảo Herzegovina hiểm Tiền gửi đã được trình Quốc hội vào giữa tháng 5/2013. Những sửa đổi này nhằm đảm bảo rằng: (i) hạn mức bảo hiểm sẽ được mở rộng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; (ii) tất cả các ngân hàng sẽ là thành viên của cơ chế bảo hiểm tiền gửi; và (iii) cơ chế BHTG phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Ngày 22/4/2013, Ngân hàng Quốc gia Ukraina triển BHTG khai cơ chế hỗ trợ thanh khoản cho Quỹ Bảo hiểm Ukraina tiền gửi (DGF). DGF có thể đảm bảo cho các khoản tiền gửi nhỏ có giá trị lên tới 200.000 UAH (xấp xỉ 25.000 đô la Mỹ). Với cơ chế này, Quỹ này có thể bán trái phiếu cho Ngân hàng Trung ương theo một hợp đồng mua lại, theo đó đẩy nhanh việc thanh toán cho những người gửi tiền được bảo hiểm. Tăng cường BHTG Chương trình tăng cường năng lực của tổng công ty năng lực của Philippines BHTG Philippines vừa được thông qua. Theo đó, dự 36
  38. tổ chức án mô hình tài chính sẽ giúp PDIC tiến hành các BHTG cuộc kiểm tra sức chịu đựng đối với ngân hàng và dự đoán khả năng đổ vỡ. Các bài kiểm tra sẽ mô phỏng ảnh hưởng của viễn cảnh thị trường tồi tệ và kiểm tra khả năng của ngân hàng trong việc đối phó và quản lý rủi ro vốn. BHTG Vào tháng 6, 2013, Chính phủ Kosovo dự kiến sẽ Kosovo giải ngân 6,4 triệu euro để tăng nguồn vốn cho DIFK trước khi tăng hạn mức từ tháng 1 năm 2014. Tăng hạn mức BHTG Chi trả BHTG tăng niềm tin của công chúng với hệ thống ngân hàng, dập tắt sự khủng hoảng cục bộ tại ngân hàng đổ vỡ, không để lây lan ra hệ thống. Hạn mức chi trả được xác định phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của từng quốc gia, có tính đến GDP bình quân đầu người, yếu tố lạm phát, tuân thủ kỷ cương thị trường .Tuy nhiên, nguyên tắc chung được thừa nhận là hạn mức chi trả không quá thấp để khuyến khích người gửi tiền yên tâm gửi tiền vào ngân hàng và không quá cao để kiểm soát rủi ro đạo đức. Sơ đồ : Diễn biến tăng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi trên thế giới 37
  39. Hạn mức chi trả được điều chỉnh linh hoạt theo tình hình ổn định kinh tế - xã hội. Ở một số nước, trong bối cảnh suy thoái kinh tế hay kinh tế bất ổn, khi có dấu hiệu rút tiền ồ ạt, một trong những nguyên nhân gây đổ vỡ ngân hàng, các hệ thống BHTG tăng hạn mức chi trả tiền bảo hiểm. Thực tế cho thấy, sau giai đoạn khủng hoảng tài chính, ngoài việc chuyển từ cơ chế BHTG toàn bộ không công khai sang cơ chế BHTG công khai có hạn mức, một số quốc gia vốn đã một cơ chế BHTG công khai có hạn mức chọn giải pháp nâng hạn mức BHTG để nâng cao niềm tin công chúng vào hệ thống tài chính-ngân hàng. Ví dụ để đối phó với khủng hoảng tài chính xuất hiện từ năm 2008 đến nay, BHTG Liên bang Mỹ ban đầu tăng mức chi trả từ 100.000 USD lên đến 250.000 USD đến hết 31/12/2013, sau đó cam kết mức chi trả 250.000 USD được duy trì lâu dài, cho đến khi có quy định mới [7]; tổ chức BHTG Trung ương Đài Loan đã tăng hạn mức chi trả từ 1,5 triệu Đài tệ lên gấp đôi là 3 triệu Đài tệ khi có dấu hiệu khủng hoảng, và một thời gian ngắn sau đó công bố chính sách bảo đảm toàn bộ đến hết 31/12/2010 nhằm trấn an dân chúng. Hạn mức chi trả của BHTG Đài Loan hiện nay là 3 triệu Đài tệ [8]. Tại khu vực châu Âu, trong năm 2008, 25 trên tổng số 27 quốc gia thuộc cộng đồng châu Âu đã điều chỉnh tăng hạn mức chi trả hoặc chuyển sang chi trả không giới hạn. Hầu hết các quốc gia trong khu vực Ðông - Nam Á, là thành viên Ủy ban khu vực châu Á thuộc Hiệp hội BHTG quốc tế đã tăng hạn mức chi trả BHTG, tại Hồng Kông (Trung Quốc) đã chuyển sang chi trả không giới hạn. Bảng 3: Động thái điều chỉnh hạn mức BHTG Tên tổ Nội dung điều chỉnh chức BHTG Từ tháng 5/2013, hạn mức BHTG tối đa đã được tăng từ 70.000 BRL Brazil (khoảng 34.900 USD) lên 250.000 BRL (khoảng 119.500 USD). Dự (FGC) kiến biện pháp này sẽ giúp các ngân hàng có quy mô nhỏ và vừa bởi vì nó giúp họ mở rộng đối tượng người gửi tiền. BHTG Luật Bảo hiểm tiền gửi được sửa đổi và thông qua vào tháng 12 năm Kosovo 2012 đề xuất lộ trình tăng dần hạn mức bảo hiểm tiền gửi từ nay cho đến năm 2018 từ 2000 euros lên 5000 euros vào năm 2018. BHTG Hạn mức BHTG bắt đầu được tăng từ 150 USD lên mức 500 USD từ Zimbabwe tháng 1/2013 theo cam kết hỗ trợ vốn của Chính phủ. 38
  40. Nhật Bản giảm tỷ lệ phí bảo hiểm tiền gửi Vào ngày 1/4/2013, Tổng Công ty Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản (DICJ) đã giảm tỷ lệ phí bảo hiểm tiền gửi từ 0,084% xuống còn 0,07%, và hoàn lại 120 tỷ Yên (tương đương với khoảng 1,3 tỷ đô la Mỹ) các khoản phí thu là phần chênh lệch giữa số tiền phí cũ và số tiền phí mới mà các ngân hàng Nhật Bản đã nộp trong năm tài khóa 2012. Báo cáo của Moody cho biết đây là một dấu hiệu tích cực cho các ngân hàng Nhật Bản, đặc biệt là các ngân hàng địa phương, do chính sách giảm phí bảo hiểm sẽ góp phần làm giảm chi phí cận biên của hoạt động nhận tiền gửi. Nguyên nhân dẫn đến quyết định giảm tỷ lệ phí bảo hiểm tiền gửi của DICJ là do trong năm tài khóa 2012 không có vụ đổ vỡ ngân hàng nào, khu vực ngân hàng cho thấy dấu hiệu ổn định và quỹ dự trữ gần đây được báo cáo là thặng dư 420,5 tỷ Yên (tương đương với khoảng 4,5 tỷ đô la Mỹ). Tại Việt Nam Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay là 50 triệu VNĐ. Hạn mức này được điều chỉnh từ năm 2006 từ mức 30 triệu khi thành lập hệ thống BHTG tại Việt Nam năm 2000. Hạn mức này được đánh giá là phù hợp với thông lệ quốc tế vào thời điểm xây dựng, tức là tương đương gấp 5,5 lần GDP bình quân đầu người năm 2005 và bảo vệ được toàn bộ tài khoản của khoảng 80% số người gửi tiền nếu ngân hàng bị phá sản, giải thể, trong khi hạn mức chi trả trên thế giới vào khoảng 3-12 lần GDP bình quân. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá tiêu dùng trong 7 năm vừa qua, hạn mức này đã trở nên không phù hợp, không có ý nghĩa do không bảo vệ được đa số người gửi tiền tiết kiệm. Khi xảy ra hiện tượng mất khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng, người gửi tiền chỉ được chi trả tối đa 50 triệu đồng là con số quá ít so với thu nhập bình quân đầu người ở nước ta hiện nay – khoảng 1.200 USD, tương đương 25 triệu đồng. Việt Nam đã có Luật BHTG, theo đó hạn mức chi trả do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng nhà nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, con số này khi xây dựng phải tính đến các yếu tố như thu nhập bình quân đầu người; tỷ lệ người gửi tiền được bảo vệ 39
  41. Biểu đồ: Cơ cấu tiền gửi ở Việt Nam theo số tiền Biểu đồ trên cho thấy số lượng tiền gửi ở mức dưới 50 triệu chỉ chiếm 19% tổng số tiền gửi bảo hiểm, và trên 81% tổng lượng tiền gửi sẽ không được chi trả đủ 100% số tiền gốc và lãi khi ngân hàng bị phá sản, ngừng hoạt động. Với đề xuất áp dụng hạn mức chi trả BHTG gấp 5,5 lần thu nhập quốc nội bình quân, hạn mức chi trả sẽ ở mức: 21.000 đồng x 1.200 USD x 5,5 lần = 138.600.000 đồng (21.000 đồng là tỷ giá tương đối USD/VND tại thời điểm cuối tháng 6/2012). Ở Việt Nam, tỷ giá ngoại tệ có xu hướng tăng. Chúng ta cũng đang phấn đấu tăng thu nhập quốc nội bình quân đầu người. Với tính chất dự báo của chính sách, hạn mức chi trả của BHTGVN được coi là phù hợp nếu tăng lên ở mức 200 triệu đồng. Khi nâng mức chi trả BHTG lên tiếp cận với số tiền được gửi sẽ có ý nghĩa tạo niềm tin ở người gửi tiền. 1.3. Hạn chế tài sản được nắm giữ Ở Việt Nam, ngân hàng trung ương cấm các ngân hàng thương mại dùng tài sản của dân cư để mua trái phiếu, cổ phiếu nhưng cho phép mua tín phiếu kho bạc do nó có độ rủi ro rất thấp. 2. Đối với các vấn đề rủi ro khác mà NHTM phải đối mặt Ngoài vấn đề rủi ro thanh khoản các ngân hàng thương mại còn phải đối mặt với các rủi ro khác, đó là rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp, và khủng hoảng hệ thống. Xét trên phạm vi toàn thế giới, ngân hàng trung ương các nước đã thành lập ủy ban Basel, trong đó ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan 40
  42. giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước.Vấn đề này đã được thực hiện ngày càng toàn diện qua việc cải tổ và sửa đổi và cho ra với các phiên bản Basel I, II, III. 2.1. Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng đã được đề cập đến ở trong Basel I và đã được bổ sung và hoàn thiện hơn trong các Basel II và đặc biệt là Basel III. a. Basel I Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. - Tiêu chuẩn của Basel I: (1) Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro - “Tỉ lệ Cook”: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng. Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc/Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền (RWA) Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%. (2) Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định: Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3 Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill). Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác. Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn (3) Vốn tính theo rủi ro gia quyền: RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân đối kế toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng) Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 4 mức: quốc gia 0%; ngân hàng 20%; doanh nghiệp 100% Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại này. - Những thiếu sót của Basel I: Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các hoạt động kinh doanh chuyên hữu ngày 41
  43. càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến năm 1996, Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn đối với rủi ro thị trường. Mặc dù vậy, Basel I vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành). Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: không phân biệt theo loại rủi ro, không có lợi ích từ việc đa dạng hóa b. Basel 2 Sửa đổi thành Basel 2, vấn đề rủi ro tín dụng có một số thay đổi. Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Nếu Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo thì Basel II thừa nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting). c. Basel 3 Theo quan điểm của Basel chất lượng vốn tốt hơn vẫn chưa đủ. Rút kinh nghiệm từ bài học của cuộc khủng hoảng tài chính, Ủy ban Basel cho rằng khu vực ngân hàng cần nhiều vốn hơn nữa. Do đó, những tiêu chuẩn về hạn mức tối thiểu về vốn của các ngân hàng sẽ tăng mạnh trong những năm tới. Theo quy định này, các ngân hàng phải duy trì mức vốn phù hợp trên mức vốn tối thiểu tùy vào mức độ rủi ro, mô hình kinh doanh, điều kiện kinh tế. Khả năng đưa ra các quy định chặt chẽ về vốn của cơ quan giám sát quốc gia sẽ là yếu tố quan trọng trong các nguyên tắc của Basel III. Theo Basel III, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8%, nhưng tỷ lệ của loại vốn có chất lượng cao được nâng lên, cụ thể: Tỷ lệ Vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Base II lên 6% trong Basel III, đồng thời tỷ lệ Vốn của cổ đông thường (common equity) cũng được tăng từ 2% lên 4,5%. Bên cạnh đó, những tài sản “Có” với chất lượng có vấn đề cũng sẽ được loại trừ dần khỏi vốn cấp 1 và vốn cấp 2, như các khoản đầu tư vượt quá giới hạn 15% vào các tổ chức tài chính. Đặc biệt, Basel III yêu cầu áp dụng bổ sung tỷ lệ đòn bẩy tối thiểu thử nghiệm ở mức 3%. Đây là tỷ lệ của vốn cấp 1 so với tổng tài sản có cộng với các khoản mục ngoại bảng. Việc áp dụng thử nghiệm tỷ lệ này cho phép Ủy ban Baseltheo dõi biến động tỷ lệ đòn bẩy thực của các ngân hàng theo chu kỳ kinh tế và mối quan hệ giữa các yêu cầu về vốn với tỷ lệ đòn bẩy. Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. 42
  44. 2.2. Rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp Vấn đề này được đề cập đến từ Basel II và hoàn thiện hơn trong Basel III. Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”: (1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng. (2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk). (3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này. Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro. Ưu điểm của Basel II so với Basel I: - Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc gia được tăng lên bởi họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến đặc điểm rủi ro cụ thể của nó. - Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa. - Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro. - Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 - 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation and 43
  45. Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài. - Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting). Thực tiễn áp dụng Basel II tại Châu Á: Hầu hết các nhà quản lý ở Châu Á đều ủng hộ các mục tiêu chung của Basel II và tin tưởng rằng khuôn khổ này sẽ đưa ra những khích lệ hơn nữa để cải thiện công tác quản lý rủi ro, cũng như các thay đổi khác nhằm bổ sung cho các mục tiêu giám sát của họ. Việc thực thi Basel II ở một số nước Châu Á cụ thể như sau: Quốc gia Các cách tiếp cận rủi ro tín dụng Các cách tiếp cận rủi ro hoạt động SA IRBF IRBA BIA SA AMA Trung Không áp Dự kiến Không áp Không áp Dự kiến Không áp Quốc dụng 2010 dụng dụng 2010 dụng Hồng 1/1/2007 1/1/2008 1/1/2007 Không áp Kong dụng Ấn Độ 31/3/2007 Không áp dụng 01/4/2007 Không áp dụng Nhật Bản 1/4/2007 1/4/2008 1/4/2007 1/4/2008 Hàn Quốc 1/1/2008 1/1/2008 Philipin 1/1/2007 Dự kiến 2010 1/1/2007 Dự kiến 2010 Singapore 1/1/2008 1/1/2008 Đài Loan 1/1/2007 1/1/2008 1/1/2007 1/1/2008 Thái Lan 31/12/2008 31/12/2009 31/12/2008 31/12/2009 Nguồn: JICA (SA là cách tiếp cận chuẩn hóa; IRBF là cách tiếp cận cơ bản dựa trên xếp hạng nội bộ; IRBA là cách tiếp cận nâng cao dựa trên xếp hạng nội bộ; BIA là cách tiếp cận chỉ số cơ bản; AMA là cách tiếp cận đo lường tiên tiến) 2.3. Khủng hoảng hệ thống Vấn đề khủng hoảng hệ thống đã được đề cập đến trong Basel III. Trong đó việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm được thực hiện cho các ngân hàng thương mại, từ đó nhà nước quản lí phù hợp hơn. 44
  46. Quá trình thực hiện Basel tại các nước khu vực Đông Nam Á Singapore Singapore cho biết sẽ đặt ra tỷ lệ vốn áp dụng với các ngân hàng tại quốc đảo này cao hơn so với mức tối thiểu của toàn cầu để củng cố uy tín cho vị thế trung tâm tài chính. Cơ quan quản tiền tệ Singapore (MAS) tuyên bố: “Mỗi ngân hàng tại Singapore đều mang tầm quan trọng đối với hệ thống. Tỷ lệ vốn cao hơn sẽ giúp họ hoạt động vững vàng hơn trong các điều kiện căng thẳng”. Ngày 28/12/2011, MAS đã ra thông cáo sửa đổi Thông tư số 637 của MAS về yêu cầu vốn rủi ro đối với các ngân hàng tại Singapore để thực hiện Basel III. Tỷ lệ an toàn vốn cổ phần thường (common equity tier 1- CET1) tối thiểu phải đạt 6,5% năm 2019, cao hơn 2% so với tỷ lệ CET1 của BCBS. MAS cũng yêu cầu các ngân hàng Singapore đáp ứng yêu cầu an toàn vốn tối thiểu theo thông ệ quốc tế từ ngày 01/01/2013, sớm hơn 2 năm so với yêu cầu của BCBS. Cách tiếp cận tăng tốc như vậy cũng có nghĩa là từ ngày 01/01/2013, các ngân hàng Singapore sẽ đáp ứng một tỷ lệ an toàn vốn cổ phần thường tối thiểu là 4,5%, tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 tối thiểu là 6,0%, và tỷ lệ an toàn vốn CAR tối thiểu là 8,0%. Phù hợp với các yêu cầu của BCBS, MAS cũng sẽ đưa ra một tấm đệm bảo toàn vốn l à 2,5% trên các yêu cầu an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ đòn bẩy à 3,0%, cũng như một số điều chỉnh và các khoản khấu trừ khác: Lợi thế thương mại (goodwill) và các tài sản vô hình khác cũng như tài sản thuế thu nhập hoãn lại (deferred tax assets- DTA) được khấu trừ khỏi CET1 thay vì vốn cấp 1. Do đó, 2,0% sẽ được tính vào tổng hệ số CAR, nâng tỷ lệ này lên thành 10,0% để có thể chống đỡ cho các rủi ro hệ thống. Dần dần tấm đệm bảo tồn vốn sẽ nâng tỷ lệ này lên đến 12,5% vào năm 2019. Philippines Bangko Sentral of Philipinas (BSP)- NHTW và là cơ quan điều tiết của ngành công nghiệp dịch vụ tài chính Philippines, đã ban hành một dự thảo về các yêu cầu của Base III đối với các ngân hàng thương mại, bao gồm các công ty con trong tháng 01/2012. Theo BSP, tỷ lệ CET1 tối thiểu sẽ được thiết lập 6,0%, tổng vốn cấp 1 sẽ là 7,5%, và tổng hệ số CAR là 10%. Bảo tồn vốn đệm 2,5% sẽ được áp dụng, sẽ đưa tổng số CAR lên 12,5%. Có hai điểm đặc biệt của giai đoạn hiện tại trong việc thực hiện Basel III ở Philippines: (1) Định nghĩa vốn cấp 2; và (2) một khấu trừ cụ thể của các khoản đầu tư vốn cổ phần trong các tổ chức phi tài chính. Trong khi xác định vốn cấp 2, BSP đã chọn và quy định rõ cổ phiếu ưu đãi là loại công cụ duy nhất, cho phép thuộc thể loại này. Đây là định nghĩa hẹp hơn so với định nghĩa được đề xuất trong các yêu cầu của BCBS. 45
  47. BSP cũng yêu cầu các ngân hàng xem xét các khoản đầu tư vốn cổ phần đặc biệt trong “các tổ chức phi tài chính iên kết và không l iên kết” và khấu trừ chúng hoàn toàn ra khỏi tỷ lệ an toàn vốn cổ phần thường. Và do chính cho việc tiếp cận nghiêm ngặt như vậy là vì các ngân hàng lớn này của Philippines liên kết với một số công ty cổ phần mẹ lớn nhất của nước này. Điều này không phải là không phổ biến cho các ngân hàng như vậy để có các khoản đầu tư khác (phi tài chính) vào các công ty cổ phần. Các khoản đầu tư này có thể là nguồn gốc của rủi ro hệ thống. Tại thời điểm này, BSP đã chọn để tập trung vào định nghĩa vốn và các khoản giảm trừ, tuy nhiên, các khía cạnh khác của việc thực hiện Basel III, chẳng hạn như là đòn bẩy, tính thanh khoản và tấm đệm ngược chu kỳ, cũng sẽ được đề cập trong những văn bản riêng có khả năng sẽ được công bố vào cuối năm nay. Malaysia Ngân hàng Negara Malaysia (BNM) hỗ trợ đầy đủ việc thực hiện Basel III để tăng cường các tiêu chuẩn về vốn và tính thanh khoản cho các tổ chức ngân hàng trong nước. Cơ quan quản đã chọn để thực hiện gói cải cách phù hợp với thông lệ quốc tế theo đúng lộ trình thực hiện, với từng giai đoạn bắt đầu từng bước từ năm 2015 cho đến năm 2019. Các hướng dẫn về việc thực hiện Basel III, được ban hành trong tháng 12/2011, đã đưa ra những định nghĩa chặt chẽ hơn về vốn và tăng cường chất lượng của nó, cũng như thực hiện các tỷ lệ đòn bẩy và thanh khoản. Tỷ lệ CET1 tối thiểu sẽ đạt 4,5%, trong khi tổng vốn cấp 1 sẽ được cố định ở mức 6,0%, và tổng số CAR ở mức 8% vào năm 2015. Như vậy, dần dần bộ đệm bảo toàn vốn sẽ mang lại tổng hệ số CAR mục tiêu cho các ngân hàng Ma aysia à 10,5% vào năm 2019. Trên cơ sở xem xét các thông tin phản hồi, BNM lên kế hoạch sẽ ban hành các văn bản dự thảo các quy tắc và cơ chế để thực hiện tấm đệm vốn mới (ngược chu kỳ và bảo toàn vốn) vào năm 2014. Cơ quan quản cũng sẽ àm rõ các quy trình giám sát và các yêu cầu quản rủi ro hiện tại trước khi các yêu cầu mới được thực hiện. Việt Nam tiếp cận Basel Tại Việt Nam, văn bản đầu tiên có quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu à Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Tại quy định này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định là 8% nhưng phương pháp tính đơn giản và chưa phản ánh chính xác tinh thần Basel I. Đến năm 2005, NHNN đã ban hành Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng phương pháp tính toán đã tiếp cận tương đối toàn diện Base I. Năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13/TT-NHNN thay thế Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II, 46
  48. chính thức có hiệu lực từ 01/10/2010. Cũng theo Thông tư 13, các khoản để tính vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia, thặng dư cổ phần được tính vào vốn theo quy định của pháp uật trừ đi phần dùng để mua cổ phiếu quỹ (nếu có). Trong khi các khoản để tính vốn cấp 2 được xác định là 50% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật, 40% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo quy định của pháp luật, quỹ dự phòng tài chính, trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng phát hành thỏa mãn các điều kiện đưa ra (như kỳ hạn ban đầu tối thiểu là 5 năm ), các công cụ nợ thỏa mãn các điều kiện đưa ra (như có kỳ hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm ).Theo nhận định của TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, vốn cấp 2 của các ngân hàng Việt Nam hiện còn hạn chế, ví dụ vốn vay mượn dài hạn để tính vào vốn tự có là hạn chế, mặt khác, việc đánh giá lại tài sản cố định của các ngân hàng Việt Nam hàng năm để tính lại vốn tự có chưa thực hiện. Về phía các tổ chức tín dụng Việt Nam, Basel II đã có ảnh hưởng lớn trong việc nâng cao năng lực quản trị điều hành, nhất là năng lực quản lý rủi ro. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các TCTD cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của Basel II.Tại Hội nghị Ổn định tài chính khu vực Đông Á tại Hà Nội cuối tháng 11 vừa qua, các báo cáo cho thấy một số nước như Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan đang tiếp cận một cách tích cực chuẩn Basel III. Các nước này đáp ứng được khoảng 12 trong số 14 tiêu chí về vốn và thanh khoản, trong khi đó, Việt Nam và một số nước khác nhưLào,Campuchia mới chỉ thực hiện một phần của Basel II. Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Vũ Viết Ngoạn cho biết, Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của việc thực hiện Basel II trong khi thế giới đã phấn đấu thực hiện Basel III, do đó, các ngân hàng Việt Nam sẽ phải tiếp cận chuẩn an toàn này theo cách của riêng mình mà không nhất thiết phải đi theo trình tự Basel I, II, III. 3. Đối với vấn đề thông tin bất cân xứng Về vấn đề này, ngân hàng trung ương có các biện pháp yêu cầu công bố thông tin của các ngân hàng thương mại. Trong hoạt động NH, không phải mọi thông tin đều có thể công khai công bố, nhưng càng minh bạch thông tin, đảm bảo tính cập nhật, độ chuẩn xác, sẽ càng củng cố được niềm tin của đông đảo dân chúng. Thực tế do thiếu thông tin, hoặc thông tin không đầy đủ, đã có chỗ để tin đồn tồn tại, làm đảo lộn thị trường. Vì vậy, cần qui định cơ chế cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch, chính xác, kịp thời với hệ thống dữ liệu đầy đủ, cập nhật, điều này không chỉ phục vụ cho công tác phân tích và dự báo, 47