Tiểu luận Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tieu_luan_chien_luoc_tham_nhap_cua_cac_cong_ty_da_quoc_gia_v.docx
Nội dung text: Tiểu luận Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư. Giáo viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Lan Nhóm SV thực hiện: Nguyễn Hà Thương 1211510066 118 50% Phạm Thị Hoàng Yến 1211510078 138 50% Hà Nội, 9/2013
- MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU 4 LỜI MỞ ĐẦU 5 NỘI DUNG 6 I. Chiến lược thâm nhập của các công ty vào các nước đang phát triển 6 1. Khái niệm công ty đa quốc gia 6 2.Mục tiêu thâm nhập và hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển 7 II.Khái niệm và dấu hiệu chuyển giá 16 1.Khái niệm của chuyển giá 16 2. Dấu hiệu của chuyển giá 16 III. Động cơ chuyển giá của các công ty đa quốc gia 18 1. Động cơ bên ngoài 18 2. Động cơ bên trong 19 IV. Hình thức chuyển giá và thủ đoạn chuyển giá của công ty đa quốc gia 20 1. Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn 20 2. Chuyển giá bằng cách nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu chuyển giao (tài sản vô hình) 21 3. Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc từ công ty đối tác với giá cao 22 4. Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết giá mua bán hàng hóa 22 5. Nâng chi phí cho các dịch vụ hành chính và quản lý và dịch vụ tư vấn kỹ thuật đặc biệt 23 6. Nâng chi phí bản quyền và các chi phí tài sản vô hình 24 8. Chuyển giá khi khống chế giá ghi trên hóa đơn 24 V. Ảnh hưởng của chuyển giá trong nền kinh tế 25 1. Tác động đối với MNCs 25 2. Đối với các quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư 26 3. Đối với các quốc gia xuất khẩu đầu tư 26 VI. Một số bằng chứng về chuyển giá ở các quốc gia 27
- 1. Các nền kinh tế mới nổi, nền kinh tế chuyển đổi 27 2. Tại Việt Nam 29 VII. Quản lí chống chuyển giá 37 1. Một số biện pháp chống chuyển giá 37 2. Quản lý chống chuyển giá ở Việt Nam 41 LỜI KẾT 47 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 48 PHỤ LỤC 49
- DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU DN Doanh nghiệp MNC Công ty đa quốc gia FDI Vốn đầu tư trực tiếp UBND Ủy ban nhân dân ĐTNN Đầu tư nước ngoài TNDN Thu nhập doanh nghiệp LA Hợp đồng công nghệ APA Phương pháp tính giá
- LỜI MỞ ĐẦU Đối với nền kinh tế thế giới hiện nay, không ai không nhận thấy rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu, đang và đã tạo ra những cơ hội không hề nhỏ cho các nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập. Bên cạnh những lợi ích mà toàn cầu hoá mang lại, chính nó cũng đang đặt ra cho các nước đang phát triển những thách thức và nguy cơ hết sức to lớn. Một trong số đó xuất phát từ hoạt động kinh doanh của các công ty ĐQG trên thế giới. Các công ty đa quốc gia (MNCs) được thành lập nhiều nơi trên thế giới với dòng vốn FDI luân chuyển mạnh. Với việc tự do hóa thương mại, các công ty này đã góp phần tạo ra sự dịch chuyển dòng vốn giữa các quốc gia, giữa các tổ chức trên thế giới, tạo ra sự cân bằng trong nguồn tài chính giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, đồng thời làm tổng sản lượng thế giới tăng lên một lượng đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, hoạt động của các công ty đa quốc gia cũng mang lại không ít những tiêu cực mà nổi bật trong đó là hành vi “chuyển giá” nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với Nhà nước và thâu tóm doanh nghiệp nước sở tại. Có thể nói, tình hình chuyển giá đã và đang là một thực trạng đáng báo động ở các nước đang phát triển hiện nay. Các công ty đa quốc gia tiến hành hoạt động chuyển giá dưới mọi hình thức, gây thiệt hại không nhỏ cho nước tiếp nhận đầu tư và cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước. Với mục đích tìm hiểu về vấn đề mang tính thời sự và nhiều bất cập này, nhóm chúng em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư”. Do lượng kiến thức và thời gian có hạn nên bài tiểu luận của chúng em còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
- NỘI DUNG I. Chiến lược thâm nhập của các công ty vào các nước đang phát triển 1. Khái niệm công ty đa quốc gia Công ty đa quốc gia thường được viết tắt là MNC (Multinational corporration) hoặc MNE (Multinational enterprises) là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt qua ngân sách cuả nhiều quốc gia. Các công ty đa quốc gia có thể ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ quốc tế và các nền kinh tế quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng vai trò lớn trong quá trình toàn cầu hóa. Ban đầu, các công ty đa quốc gia cũng được thành lập tại một quốc gia tức là công ty quốc gia. Công ty quốc gia này mang quốc tịch của một nước và vốn đầu tư vào công ty này thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản nước sở tại. Công ty quốc gia này kinh doanh ngày càng phát triển và hàng hóa, dịch vụ do công ty này sản xuất ra ngày càng nhiều và chất lượng. Vì vậy mà nhu cầu mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm của công ty là tất yếu. Lúc bấy giờ, thị trường các nước lân cận hay các nước có nhu cầu sản phẩm của công ty trở nên thật hấp dẫn. Các công ty này sẽ bắt đầu tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm sang các thị trường này bằng cách xuất khẩu các sản phẩm. Thị trường ngày càng được mở rộng vì vậy mà các công ty bắt đầu nghĩ đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh sang các nước lân cận, các nước mà có nhu cầu sản phẩm của công ty nhiều. Do quá trình phát triển thị trường tiêu thụ, các công ty này tìm được các nguồn nguyên liệu và nhân công có chi phí thấp hơn tại quốc gia mà công ty trú ngụ. Vì vậy mà công ty sẽ tiến hành xây dựng các chi nhánh hay các công ty con tại các quốc gia mà có những lợi thế so sánh về chi phí nguyên vật liệu, nhân công đầu vào nhằm tìm kiếm mức lợi nhuận ngày càng cao. Như vậy do nhu cầu phát triển và mở rộng thị trường của mình mà các công ty này đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn rộng lớn và vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia nên được gọi là công ty đa quốc gia.
- Công ty đa quốc gia bao gồm công ty mẹ ở một nước, và thực hiện các đầu tư FDI ra nước ngoài để hình thành các công ty con. Các công ty mẹ con này ảnh hưởng lẫn nhau và cùng chia sẻ kiến thức, nguồn lực và trách nhiệm lẫn nhau. 2.Mục tiêu thâm nhập và hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển 2.1. Mục tiêu xâm nhập thị trường Xâm nhập thị trường đa quốc gia là hình thức đặc biệt của phát triển, nghĩa là công ty tìm cách gia tăng thị phần của sản phẩm hiện thời trên thị trường quốc gia đó bằng cách đưa ra một chiến lược marketing hỗn hợp tích cực và có hiệu quả hơn. Với mục tiêu tăng số lượng mại vụ đối với khách hàng hiện tại, thu hút khách hàng của các đối thủ cạnh tranh và những khách hàng mới công ty sẽ phải gia tăng nỗ lực marketing như: Đưa ra chiến dịch quảng cáo mới hữu hiệu, nhân rộng số cửa hàng, các điểm bán và mạng lưới tiêu thụ tại quốc gia đó, giảm giá hay bán trả chậm, không ngừng tăng cường chất lượng sản phẩm. Nói chung tất cả các nỗ lực marketing này đều nhằm gia tăng thị phần của công ty trên thị trường quốc gia đó và đó cũng chính là mục tiêu chính của chiến lược xâm nhập thị trường quốc gia. 2.2.Hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc mở rộng thị trường ra nước ngoài là mục tiêu của MNC nhằm khai thác tối ưu các nguồn lực để sản xuất sản phẩm độc quyền mang tính quốc tế; vừa để thu lợi nhuận độc quyền, vừa nỗ lực giảm thiểu các đe doạ cạnh tranh do các đối thủ áp đặt. Đối phó với những thách thức này, MNC liên tục thâm nhập vào các nền kinh tế đặc biệt là các nước đang phát triển để phát triển thị trường dưới nhiều hình thức. 2.2.1. Hình thức xuất khẩu Xuất khẩu hàng hoá là hình thức đầu tiên của quá trình thâm nhập thị trường quốc tế thông qua hoạt động tiêu thụ những hàng hoá được sản xuất trong nước ra thị trường bên
- ngoài. Phần lớn các doanh nghiệp bắt đầu mở rộng thị trường toàn cầu bằng xuất khẩu và sau đó chuyển sang hình thức khác để đáp ứng nhu cầu thị trường của mình. Đặc điểm chung lớn nhất của xuất khẩu là việc di chuyển sản phẩm qua biên giới quốc gia, phạm vi hoạt động mở rộng, chịu tác động phức tạp của nhiều yếu tố môi trường nước ngoài như chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội, địa lý, khí hậu. ● Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hình thức tham gia thị trường quốc tế khá phổ biến với mọi doanh nghiệp trên thế giới, trong đó các doanh nghiệp tiến hành đưa hàng hóa sang thị trường nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia, nhằm nâng cao lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh. Lợi thế đối với doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp: Doanh nghiệp trực tiếp tiếp xúc với thị trường nước ngoài, do vậy có thể nắm bắt được tình hình thị trường, thường xuyên cập nhật những nhu cầu mới và thị hiếu thay đổi của khách hàng để kịp thời cải tiến sản phẩm, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đó. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể chủ động đối phó với những diễn biến trên từng thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp không phải chịu những chi phí xuất khẩu trung gian và lợi nhuận không bị chia sẻ như hình thức xuất khẩu gián tiếp. Điểm bất lợi của hình thức xuất khẩu trực tiếp: Doanh nghiệp phải dàn trải các nguồn lực của mình trên phạm vi thị trường rộng lớn phức tạp hơn, phải chấp nhận môi trường cạnh tranh quốc tế khốc liệt hơn và nhiều rủi ro hơn. Doanh nghiệp mất nhiều thời gian, tốn nhiều nhân lực, sử dụng nhiều nguồn tài lực hơn xuất khẩu gián tiếp. Do đó, để có thể thâm nhập thành công thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp cần phải lựa chọn kỹ thị trường sao cho phù hợp với tiềm lực và khả năng của mình. Hình thức này đòi hỏi chi phí tốn kém, do vậy chỉ thực hiện khi có đủ số lượng hàng lớn. Hơn nữa, các hàng rào thuế quan hoặc chi phí vận chuyển cao cũng có thể làm cho việc xuất khẩu trở nên không kinh tế. Trường hợp áp dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp: Doanh nghiệp đã nghiên cứu thị trường và có đầy đủ những thông tin cần thiết nhằm đảm bảo chắc chắn cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả như dự kiến.
- Doanh nghiệp phải có đủ nguồn lực để mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp có khả năng quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu hiệu quả. ● Xuất khẩu gián tiếp Đây là hình thức tham gia thị trường nước ngoài không đòi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp giữa người mua nước ngoài và người sản xuất trong nước. Ðể bán được sản phẩm của mình ra nước ngoài, người sản xuất phải thông qua các tổ chức trung gian thông thạo nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Hình thức này có những ưu điểm và nhược điểm sau: Ưu điểm của hình thức xuất khẩu gián tiếp: Giúp cho người sản xuất thâm nhập nhanh chóng vào thị trường nước ngoài. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể sử dụng công ty quản lý xuất khẩu có nhiều kinh nghiệm hoạt động trên thị trường nước ngoài và do đó, giảm bớt được rủi ro gắn liền với việc bán hàng trong môi trường xa lạ. Hơn nữa, doanh nghiệp còn sử dụng được kinh nghiệm, vốn và cơ sở vật chất của chuyên gia, trung gian. Thông qua xuất khẩu gián tiếp, doanh nghiệp có thể tạo dựng được hình ảnh, uy tín của mình trên thị trường quốc tế. Khó khăn của hình thức xuất khẩu gián tiếp: Phải trả chi phí cho người trung gian do đó lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm. Doanh nghiệp không biết được kịp thời nhu cầu biến động của thị trường nước ngoài cũng như tâm lý thị hiếu của khách hàng khi tiêu thụ sản phẩm. Trường hợp áp dụng hình thức xuất khẩu gián tiếp: Doanh nghiệp chưa có đủ thông tin cần thiết về thị trường nước ngoài, như nhu cầu và cầu cụ thể, tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh. Lần đầu tiên doanh nghiệp tham gia vào thị trường nước ngoài. Qui mô kinh doanh của doanh nghiệp còn nhỏ, các nguồn lực có hạn, chưa thể dàn trải các hoạt động ở nước ngoài. Thị trường nước ngoài phức tạp, cạnh tranh gay gắt và có độ rủi ro cao. Doanh nghiệp có thể gặp phải rào cản thương mại từ phía nhà nước. 2.2.2. Hình thức kết hợp giữa hoạt động trong và ngoài nước ● Cấp giấy phép Cấp giấy phép là một hình thức hợp đồng nhượng quyền sử dụng sản phẩm trí tuệ để tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nước ngoài. Thông thường đối tượng
- của hợp đồng mua bán giấy phép hiện nay là: bằng sáng chế phát minh (Patent), quyền tác giả hay tác quyền (Copyrights), nhãn hiệu thương mại (Trademarks), các qui trình công nghệ (Technological Process), bí quyết kỹ thuật (Know how). Thuận lợi của hình thức Licensing: Doanh nghiệp được cấp phép có cơ hội nhanh chóng tiếp cận thị trường nước ngoài, giảm thiểu rủi ro, không phải đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc do chi phí bỏ ra thấp. Do vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng áp dụng chiến lược này trong việc mở rộng kinh doanh quốc tế nhằm duy trì được mục tiêu doanh số và lợi nhuận của mình. Doanh nghiệp cấp phép vẫn có thể thu được một khoản tiền không nhỏ sau thời gian sử dụng sản phẩm trí tuệ của mình với mức lợi nhuận và hiệu quả cao, khai thác triệt để sản phẩm trí tuệ, tăng thêm mức đầu tư phát triển công nghệ mới, tiếp tục nâng cao lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế. Một doanh nghiệp với công nghệ, bí quyết và có trình độ chất xám cao có thể sử dụng các thỏa ước cấp giấy phép và đổi lại có một khoản thu dành cho việc đầu tư vào các danh mục khác. Doanh nghiệp có thể đẩy mạnh việc phổ biến các sản phẩm và công nghệ mới trên thị trường nước ngoài. Hợp đồng cấp phép được thiết lập trong bối cảnh toàn bộ chiến lược của doanh nghiệp có tính đến sự mở rộng và phát triển thị trường thế giới trong thời gian dài. Do đó với doanh nghiệp có kế hoạch thâm nhập thị trường quốc tế, cấp giấy phép là phương thức thích hợp để thâm nhập nhanh vào những thị trường có qui mô nhỏ. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp tập trung nguồn lực, thâm nhập vào những thị trường khác có qui mô lớn hơn. Khó khăn của hình thức Licensing: Doanh nghiệp cấp phép không còn độc quyền về sở hữu trí tuệ ngay sau khi đã cấp phép. Vì vậy, doanh nghiệp được cấp phép sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp cấp phép trên thị trường. Doanh nghiệp cấp phép gặp khó khăn trong việc kiểm soát khối lượng bán của công ty nước ngoài, điều này ảnh hưởng tới lệ phí bản quyền. Doanh nghiệp cấp phép khó có thể kiểm soát được tiêu chuẩn sản phẩm và chất lượng dịch vụ ở thị trường nước ngoài. Điều này có thể làm giảm uy tín, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. ● Xuất khẩu có sự trợ giúp của văn phòng đại diện
- Văn phòng đại diện hoạt động tại thị trường nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp tập trung hơn nữa vào việc nghiên cứu thị trường, tìm ra phương pháp hiệu quả nhất để củng cố vị trí của doanh nghiệp trên thị trường mục tiêu. Thông thường, văn phòng đại diện chỉ có chức năng nghiên cứu, tư vấn. Rõ ràng cấp phép đảm bảo cho các công ty xuyên quốc gia thực hiện các giao dịch hành chính ban đầu chứ không có chức năng kinh doanh. Hình thức này có những thuận lợi và khó khăn sau: Thuận lợi: Đặt văn phòng đại diện tức là doanh nghiệp đã trực tiếp tiếp cận với thị trường, do vậy dễ dàng nắm được tình hình, những diễn biến trên thị trường, từ đó có những phản ứng mang tính chiến lược và hiệu quả hơn. Doanh nghiệp nắm được thông tin về thị trường, khách hàng và đối thủ cạnh tranh, từ đó có những đóng góp cho việc xây dựng chiến lược thâm nhập vào thị trường. Văn phòng đại diện có thể thực hiện các nghiệp vụ marketing trên thị trường nước ngoài phục vụ cho công tác thâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Khó khăn: Do văn phòng đại diện không tiến hành các hoạt động kinh doanh, trong khi đó để đảm bảo cho hoạt động của nó đòi hỏi một chi phí cao so với các chi phí tại chỗ nên bước đầu làm tăng chi phí hành chính của doanh nghiệp. Phạm vi hoạt động bị hạn chế và nhiều khi doanh nghiệp bị lệ thuộc vào sự năng động và tính hiệu quả của văn phòng đại diện. ● Gia công quốc tế Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao (Luật thương mại 2005 - điều 178). Loại hình này có một số đặc trưng khác biệt so với hình thức xuất khẩu là: Quyền sở hữu đối với nguyên vật liệu và hàng hóa không thay đổi, vì vậy không chỉ bên nhận gia công mà bên đặt gia công cũng phải quan tâm đến việc bảo quản hàng hóa, nguyên vật liệu trong suốt quá trình sản xuất và gia công lắp ráp hàng hóa. Thực chất gia công là việc bên đặt gia công mua sức lao động tại nước nhận gia công để nâng cao tỷ suất lợi nhuận của mình. Đó là hình thức khai thác những lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế về giá cả sức lao động. Tuy nhiên, việc mua bán sức lao động lại
- gắn liền với quá trình sản xuất hàng hóa, do vậy trong khi thực hiện hoạt động này đòi hỏi những kĩ năng rộng hơn cả ở lĩnh vực sản xuất và thương mại. Chính vì những đặc trưng trên mà các nhà kinh doanh trên thị trường hàng hóa thế giới đã sử dụng hình thức này như một công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài có hàng rào bảo hộ chặt chẽ. ● Nhượng quyền thương mại (Franchising) Hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới đã có từ lâu. Khi nhắc tới hoạt động nhượng quyền thương mại thành công, người ta thường nghĩ tới hoạt động nhượng quyền của McDonald’s, Kentucky Fried Chicken (KFC), hay khách sạn Hilton Theo luật thương mại Việt Nam năm 2005 (điều 284): Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận nhượng quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: Thứ nhất, việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền qui định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh,biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền. Thứ hai, bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận nhượng quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh. Hình thức này có một số ưu điểm và nhược điểm sau: Ưu điểm: Franchising là hình thức có thể kết hợp tối đa những lợi thế so sánh của cả hai bên để nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ và như vậy tạo khả năng thành công lớn hơn khi thực hiện. Cả hai bên có thể khai thác những lợi thế của nhau để phục vụ cho kết quả kinh doanh kể cả những lợi thế vô hình như uy tín của bên chuyển nhượng, vị trí cửa hàng của bên nhận chuyển nhượng. Hai bên thực hiện việc quản lý và bàn bạc trao đổi những kinh nghiệm, những sáng kiến trong hoạt động marketing nhằm thích ứng các hoạt động kinh doanh của mình với những điều kiện thay đổi của thị trường. Với hình thức thâm nhập này, cùng lúc doanh nghiệp có thể phát triển thương hiệu ở nhiều thị trường, hạn chế rủi ro và tiết kiệm thời gian.
- Lợi thế nổi bật nhất của hình thức Franchising là chi phí. Thứ nhất, về cơ cấu chi phí: Franchising giảm thiểu được hàng loạt các yếu tố chi phí, như phí chuyên chở và bảo quản nguyên liệu do khai thác tại chỗ, các chi phí thuế quan (xuất nhập khẩu), giảm chi phí về tiền lương do chi phí thuê lao động tại chỗ thấp Thứ hai, về tổng giá thành: do sự phát triển nhanh của Franchising gắn liền với việc mở rộng về qui mô kinh doanh quốc tế nên việc mở rộng qui mô cũng đồng nghĩa với quá trình giảm giá thành trên một đơn vị sản phẩm. Khó khăn: Bất lợi lớn nhất của Franchising đó là vấn đề kiểm soát chất lượng. Nền tảng của thỏa thuận Franchising là thương hiệu nổi tiếng của doanh nghiệp chuyển giao, là chuyển thông tin đến người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, bên nhận chuyển giao nước ngoài có thể không quan tâm về chất lượng như bên chuyển giao đề nghị, kết quả là chất lượng sản phẩm kém, doanh thu thấp và làm giảm uy tín của bên chuyển giao trên thị trường nước ngoài. ● Đặt chi nhánh của doanh nghiệp tại nước ngoài Đặt chi nhánh của doanh nghiệp ở nước ngoài là doanh nghiệp bắt đầu chuyển các hoạt động kinh doanh của mình ra nước ngoài, do vậy xác suất rủi ro lớn hơn, cuộc cạnh tranh cũng bắt đầu khốc liệt hơn. Đây là một bước thử thách có tính toàn diện cho hoạt động kinh doanh ở nước ngoài của doanh nghiệp. Thuận lợi: Chi nhánh có thể khai thác những lợi thế so sánh, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Chi nhánh có thể thay mặt doanh nghiệp thực hiện những biện pháp bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài. Khó khăn: Chi phí cho việc thành lập chi nhánh ở nước ngoài lớn, dàn trải và đòi hỏi doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm và đủ sức tin cậy. Hoạt động của chi nhánh chưa được hạch toán một cách độc lập, do vậy không đảm bảo khả năng linh hoạt cho doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.
- 2.2.3. Hình thức đầu tư trực tiếp Đây là hình thức mà các doanh nghiệp đưa vốn đầu tư trực tiếp vào thị trường nước ngoài nhằm khai thác tối đa những lợi thế trên thị trường đó. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài cụ thể là: thành lập công ty liên doanh, công ty con 100% vốn nước ngoài và Công-xoóc-xi-om (Consortium). ● Công ty liên doanh Khi xét thấy thị trường nước ngoài có những lợi thế về kinh tế, xã hội, tự nhiên so với các điều kiện đó của nước mình, lãnh đạo doanh nghiệp quyết định tạo lập cơ sở kinh doanh trên thị trường đó. Tuy nhiên, hình thức tiếp theo là gì nếu doanh nghiệp nhận thấy: Tự mình thì không đủ vốn hoặc tiềm lực để thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường nước ngoài, có nhiều rủi ro kinh doanh trên thị trường nước ngoài hơn vì mình là “người nước ngoài”. Khi ở thị trường đó, luật pháp bắt buộc các công ty nước ngoài muốn kinh doanh trong lĩnh vực đó phải liên doanh với một công ty nước sở tại. Khi đó biện pháp tốt nhất đối với doanh nghiệp là thành lập một liên doanh ở nước ngoài. Dạng phổ biến nhất của liên doanh là sự tham gia góp vốn của hai đối tác. Ví dụ một công ty có thể liên doanh với một công ty nước ngoài. Thông thường công ty nước ngoài cung cấp các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ, nhãn mác sản phẩm, uy tín của mình. Đối tác địa phương cung cấp hệ thống phân phối, kinh nghiệm và sự hiểu biết về thị trường nội địa. Thuận lợi của hình thức liên doanh: Công ty có thể kiểm soát được quá trình sản xuất, các hoạt động marketing ở thị trường nước ngoài. Khai thác được tối đa các khả năng của đối tác địa phương. Công ty có lợi ích từ kiến thức của đối tác địa phương như điều kiện cạnh tranh ở nước sở tại, văn hóa, ngôn ngữ, hệ thống chính trị, hệ thống kinh doanh. Chia sẻ những rủi ro trong quá trình kinh doanh, tạo ra cộng đồng trách nhiệm trong quá trình điều hành hoạt động của công ty với đối tác ở nước sở tại. Khai thác và tận dụng được các ưu đãi của nước chủ nhà để thâm nhập vào thị trường nước sở tại. Tham gia liên doanh, công ty dần dần học hỏi được kinh nghiệm, nắm bắt được nhu cầu của thị trường, phát hiện ra các đối thủ cạnh tranh, thiết lập quan hệ trực tiếp với khách
- hàng ở thị trường nước ngoài, tạo tiền đề để công ty thành lập chi nhánh sở hữu hoàn toàn của mình tại nước ngoài. Khó khăn của hình thức liên doanh: Lợi nhuận bị phân chia do phải chia sẻ với cả đối tác nước ngoài. Những khác biệt trong văn hóa kinh doanh và quản lý giữa các doanh nghiệp thành viên sẽ dẫn đến các bất đồng như khó đi tới hòa nhập thành một chiến lược kinh doanh chung cho toàn công ty, mục tiêu kinh doanh của từng bên có thể trái ngược nhau, từ đó gây ra những rắc rối trong phối hợp và kiểm soát hoạt động của liên doanh. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới những bất đồng tiềm tàng trong nội bộ và nguy cơ hủy bỏ cam kết giữa các thành viên. Bất lợi chủ yếu trong liên doanh là vấn đề liên quan tới tỷ lệ góp vốn. Tỷ lệ góp vốn có thể dẫn tới mâu thuẫn và tranh chấp quyền kiểm soát giữa các doanh nghiệp đầu tư. Nếu đối tác nào chiếm dưới 50% vốn thì phải để cho đối tác chiếm đa số vốn quyền đưa ra quyết định. Nếu hai bên chiếm 50 - 50 vốn trong hội đồng quản trị, sẽ rất khó khăn để đưa ra quyết định một cách nhanh chóng, thậm chí là đưa được ra quyết định. Trong trường hợp liên doanh giữa một bên là đối tác nước ngoài với một bên là đối tác trong nước, khi kiến thức của đối tác nước ngoài về điều kiện thị trường địa phương tăng lên, họ không muốn phụ thuộc vào đối tác trong nước nữa và muốn chấm dứt liên doanh để thành lập doanh nghiệp 100% vốn của mình tại nước sở tại. Như vậy, quyền lực của phía nước ngoài ngày càng gia tăng trong khi đó đối tác trong nước mất dần lợi thế và dễ dẫn tới đổ vỡ liên doanh. ● Thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài Khi thấy các điều kiện chín muồi cho việc khai thác các nguồn lực ở thị trường nước sở tại, đồng thời mong muốn thực hiện mục tiêu củng cố vị trí của mình trên thị trường thế giới, doanh nghiệp sẽ tiến hành thành lập doanh nghiệp độc lập tại thị trường nước ngoài. Việc thành lập công ty con biểu thị sự chiếm lĩnh thị trường nước ngoài một cách vững chắc của các doanh nghiệp. Các công ty con có tư cách pháp nhân đầy đủ, được quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách độc lập nhằm khai thác tối đa những nguồn lực và tăng tối đa lợi nhuận trên thị trường nước ngoài.
- II.Khái niệm và dấu hiệu chuyển giá 1.Khái niệm của chuyển giá - Theo nghĩa rộng: Chuyển giá là toàn bộ hoạt động định giá cho các giao dịch giữa các công ty con của một công ty xuyên quốc gia khi các giao dịch nội bộ ngày càng phát triển - Theo nghĩa hẹp: Chuyển giá là việc các công ty lợi dụng việc định giá cao hơn hay thấp hơn nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình mà không nghĩ đến quyền lợi của nhà nước. Nhìn chung, chuyển giá là hoạt động chủ quan, cố ý của các tập đoàn, với mục đích tối thiểu hóa số thuế phải nộp, tăng cường khả năng cạnh trạnh, chiếm lĩnh thị trường, loại bỏ đối thủ cạnh tranh nhờ việc xác định các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ không đúng với giá thị trường. - Điểm khác biệt, giữa “chuyển giá” và “định giá chuyển giao”: Định giá chuyển giao là việc tính toán giá chuyển giao giữa các bộ phận, hành vi tích cực của một chính sách toàn cầu của tập đoàn nhằm phát triển, tăng cường quản lý hoạt động đối với từng thành viên, định giá chuyển giao là khoa học quản lý tài chính kế toán của những tập đoàn xuyên quốc gia. - Các MNC có thể áp dụng nhiều kỹ thuật chuyển giá, trong đó có những kỹ thuật hết sức tinh vi nhằm tránh thuế phải nộp. Về cơ bản, có hai hình thức chuyển giá là chuyển giá trực tiếp và chuyển giá gián tiếp Chuyển giá trực tiếp: thực hiện các đơn vị trực thuộc trong công ty, giữa công ty mẹ và công ty con. + Chuyển giá gián tiếp: thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh thứ 3 đặt tại nơi có thuế suất thuế TNDN thấp (thiên đường thuế – tax havens). 2. Dấu hiệu của chuyển giá Các đối tác nước ngoài khi đầu tư vào một nước, thường đưa vào công ty liên doanh những tài sản góp vốn là các sản phẩm cũ, lạc hậu, không đồng bộ, những công nghệ cũ. Mục tiêu của các công ty đa quốc gia muốn đầu tư vào một thị trường mới, thực chất là muốn tái tạo thêm vòng đời cho sản phẩm, vì vậy, họ chuyển giao toàn bộ những sản phẩm cũ ở công ty mẹ sang những công ty con, hoặc công ty liên doanh, một mặt tiếm kiệm chi
- phí đầu vào trong quá trình đầu tư ở nước tiếp nhận, mặt khác có thể thay thế công nghệ cũ thành công nghệ mới, hiện đại ở công ty mẹ. Lợi dụng quá trình chuyển giao công nghệ trong quá trinh đầu tư, các công ty đa quốc gia tiến hành động cơ chuyển giá, đưa những sản phẩm cũ, công nghệ cũ trong quá trình đầu tư nhưng lại kê khai cao hơn giá thực tế. Các FDI với sự hậu thuẫn của công ty mẹ nước ngoài thường hạch toán các nguyên liệu vượt quá tiêu chuẩn dựa vào hóa đơn bán hàng do công ty mẹ cấp Vì vậy, làm tăng vị thế quan trọng, tăng chi phí khấu hao tài sản cố định một cách giả tạo để công ty mẹ có thể thu một khoản lãi tại chính quốc, trốn thuế thu nhập tại nước tiếp nhận Định giá yếu tố đầu vào thấp hơn giá thị trường Một số FDI khi xuất hàng ra khỏi lãnh thổ nước sỏ tại thường xuất về công ty mẹ hoặc công ty con khác tại các nước có thuế suất, thuế thu nhập công ty thấp, với hóa đơn xuất bán thấp hơn nhiều với giá thành hoặc một số dịch vụ thu tiền nước ngoài không được phản ánh đúng doanh thu để giảm số thuế phải nộp tại nước này. Vì vậy giảm lợi tức phải kê khai tại nước sở tại, trong khi số lợi tức này trên sổ sách của đơn vị được hiểu ngầm rằng đã được bù trừ bởi số lãi đầu vào thu được từ việc khai khống. Vậy vì sao doanh nghiệp có thể tồn tại yếu tố đầu vào kê khai cao, yếu tố đầu ra tiêu thụ với giá thành thấp? Trong ngắn hạn, mục tiêu của các công ty đa quốc gia không phải lợi nhuân mà giành phần thắng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, xây dựng thương hiệu, loại bỏ đối thủ cạnh tranh, họ có thể chấp nhận khoản lỗ trước mắt. Các khoản lỗ do công ty con gánh chịu hoàn toàn có thể bù đắp bằng các khoản lãi mà nghiệp vụ định giá chuyển giao mang lại cho công ty mẹ.
- III. Động cơ chuyển giá của các công ty đa quốc gia 1. Động cơ bên ngoài 1.1. Tối đa hóa lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh Nếu như trong ngắn hạn các công ty đa quốc gia theo đuổi mục tiêu giành phần thắng trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, xây dựng thương hiệu, loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trước mắt, chèn ép các doanh nghiệp trong nước tiếp nhận đầu tư, chấp nhận chịu những khoản lỗ trước mắt, thì mục tiêu dài hạn của các công ty đa quốc gia đó chính là lợi nhuận. trong tất cả các giai đoạn, ngắn hạn hay dài hạn, họ đều sẵn sàng thực hiện hành vi “ chuyển giá” để tối thiểu hóa số thuế phải nộp, tăng cường khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, và sau đó là thu lại lợi nhuận tối ưu nhất. Lợi nhuận thu được ở những công ty con, đều được chuyển về công ty mẹ, để được hưởng mức thuế ưu đãi, tránh đánh thuế thu nhập ở công ty con, vì vậy công ty mẹ thấu tóm những công ty con, khiến những công ty con ngày càng phụ thuộc tài chính vào công ty mẹ, đó chính là động cơ dành quyền kiểm soát và loại bỏ đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Các công ty đa quốc gia thành lập nhiều chi nhánh ở nước tiếp nhận, vì vậy có hiện tượng chuyển giá diễn ra trong nội bộ các chi nhánh, do lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước, thành lập một số công ty con hoạt động trong những lĩnh vực địa bàn khác nhau, trong đó có những lĩnh vực, địa bàn được ưu đãi thuế TNDN, từ đó tìm cách chuyển lợi nhuận trước thuế từ DN không được ưu đãi thuế sang DN liên kết được ưu đãi thuế, hoặc chuyển lợi nhuận trước thuế từ DN có lãi sang DN bị lỗ thông qua giá chuyển giao sản phẩm và cung cấp dịch vụ giữa các bên để giảm thiểu nghĩa vụ thuế tổng hợp của cả tập đoàn. Hành vi chuyển giá của DN liên kết không chỉ đơn thuần là việc điều chuyển lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp hơn để tránh thuế mà nó còn bao gồm cả chiều ngược lại. Nguyên nhân chính là do công ty mẹ muốn thu hồi vốn nhanh hoặc việc chuyển lợi nhuận để thực hiện chiến lược kinh doanh đã được công ty mẹ xây dựng. 1.2.Tối đa hóa lợi nhuận từ hoạt động tài chính Các công ty đa quốc gia hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần, công ty mẹ thành lập nhiều chi nhánh ở nước nhận đầu tư. Năm đầu nhóm sẽ “hy sinh” một doanh nghiệp bằng cách mua cổ phiếu của doanh nghiệp sắp lên sàn rồi bán ra rẻ hơn giá mua vào và
- luân phiên 3-4 năm sau những doanh nghiệp khác cũng sẽ mua đắt bán rẻ như vậy cuối cùng báo cáo tài chính của doanh nghiệp chuẩn bị lên sàn có đường biểu diễn lợi nhuận tăng liên tục, nhà doanh nghiệp nhỏ lẻ thấy lợi nhuận doanh nghiệp đó tăng đều thì đổ vào mua, đẩy giá cổ phiếu lên cao so với giá gốc. Sau một thời gian giao dịch bằng giá trị ảo, cổ phiếu trở về giá trị thật thì doanh nghiệp gom được một khoản tiền không nhỏ từ nhà đầu tư. 2. Động cơ bên trong 2.1. Để tạo ra một bức tranh tài chính tươi sáng hơn cho công ty khi đứng trước các cổ đông và các bên hữu quan khác . Khi các hoạt động sản xuất kinh doanh của MNC tại chính quốc hay tại các công ty thành viên trên các quốc gia khác bị thua lỗ. Lý do dẫn đến sự thua lỗ có thể là do sai lầm trong kế hoạch kinh doanh, sai lầm trong việc nghiên cứu và đưa sản phẩm mới vào thị trường, các chi phí quản lý hay chi phí quảng cáo, quảng bá sản phẩm quá cao dẫn đến kết quả kinh doanh bị thua lỗ. Chuyển giá giúp cho các MNC san sẻ thua lỗ giữa các thành viên với nhau từ đó làm giảm các khoản thuế phải nộp và tạo nên bức tranh kết quả kinh doanh giả tạo vi phạm pháp luật của các quốc gia. 2.2.Chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh thị phần nhằm xây dựng nền móng ban đầu cho hoạt động kinh doanh sau này. Các MNC trong giai đoạn này sẽ tăng cường các hoạt động quảng cáo, quảng bá sản phẩm làm cho giai đoạn này MNC sẽ bị lỗ nặng và kéo dài. Trong các mối liên kết kinh doanh hay hợp tác kinh doanh thì các MNC sẽ dựa vào tiềm lực tài chính hùng hậu của mình mà thực hiện các hành vi chuyển giá bất hợp pháp để làm cho hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài và chiếm lấy quyền quản lý và kiểm soát công ty. Tồi tệ hơn là đẩy các đối tác ra khỏi hoạt động kinh doanh và chiếm toàn bộ quyền kiểm soát và chuyển quyền sở hữu công ty. Tình trạng này thường xảy ra phổ biến tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi mà trình độ quản lý còn yếu kém. Sau khi đánh bật các các đối thủ và những bên liên kết kinh doanh ra khỏi thị trường thì MNC sẽ chiếm lĩnh thị trường và nâng giá sản phẩm để bù lại phần chi phí trước đây đã bỏ ra.
- Do được hưởng các đặc quyền, đặc lợi trong quá trình kêu gọi đầu tư của nước chủ nhà và nắm trong tay các quyền về kinh tế chính trị và xã hội mà MNC xemcông ty con đặt trên quốc gia này như là trung tâm lợi nhuận của cả MNC và thực hiện hành vi chuyển giá để lại hậu quả đáng kể cho nước tiếp nhận đầu tư. 2.3. Giảm các rủi ro khi giao dịch Do việc chuyển giao các sản phẩm và dịch vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và tính bảo mật cao như trong các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, y dược IV. Hình thức chuyển giá và thủ đoạn chuyển giá của công ty đa quốc gia 1. Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn 1.1. Đầu tư dưới dạng liên doanh Việc nâng giá trị tài sản đóng góp sẽ làm cho phần vốn góp của bên phía có ý nâng giá trị góp vốn tăng, nhờ đó, sự chi phối trong các quyết định liên quan đến hoạt dộng của dự án liên doanh sẽ gia tăng và mức lời được chia sẽ tăng. Ngoài ra, khi dự án kết thúc hoạt động thì tỷ lệ trị giá tài sản được chia cao hơn. Thậm chí một số MNC góp vốn bằng các tài sản, máy móc, thiết bị, trong đó có rất nhiều loại tài sản cũ, đã qua sử dụng, không hiệu quả, thậm chí bị cấm sử dụng ở nước ngoài nhưng vẫn đưa vào thành lập doanh nghiệp với mức giá khai báo rất cao mà cơ quan quản lý trong nước không thể xác định được. Việc góp vốn bằng thương hiệu là một hiện tượng đã và đang diễn ra, nhưng đến nay vẫn chưa có quy định nào hướng dẫn cụ thể việc định giá và ghi nhận giá trị này. Thương hiệu mà các MNC đã xây dựng ở nước công ty mẹ sẽ được đem đễn nươc nhận đầu tư, giá trị thương hiệu của công ty mẹ “áp” cho công ty con khá lớn, chứ không dừng lại ở vài trăm triệu đồng hay một vài tỷ đồng. Có lẽ vì thế mà các MNC ngày càng sử dụng chiêu bài này để nâng cao giá trị tài sản vốn góp. 1.2. Đối với các công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài Việc nâng tài sản góp vào sẽ tăng tăng mứckhấu hao tài sản cố định, do đó sẽ giúp chủ đầu tư:
- • Nhanh hoàn vốn đầu tư cố định, nhờ đó giảm thiểu rủi ro đầu tư. • Giảm mức thuế TNDN phải đóng cho nước tiếp nhận đầu tư. 2. Chuyển giá bằng cách nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu chuyển giao (tài sản vô hình) . Chuyển giao công nghệ được thực hiện qua nhiều kênh. Hai kênh chính là hợp đồng công nghệ (licensing arrangement, LA) và đầu tư trực tiếp (foreign direct investment, FDI). Trong kênh LA, thông thường chỉ có công nghệ sản xuất hay công nghệ cứng được chuyển giao và chỉ chuyển giao một lần. FDI thì bao gồm cả công nghệ sản xuất và tri thức quản lý, kinh doanh, MNCs thực hiện FDI là chuyển giao trọn gói tất cả các loại công nghệ và tư bản, và được gọi chung là chuyển giao các nguồn lực kinh doanh (managerial resources). FDI có thể thực hiện bằng việc lập công ty liên doanh giữa MNCs với công ty tại bản xứ hoặc lập công ty 100% vốn nước ngoài. Công nghệ được chuyển giao qua FDI do đó là hình thức chuyển giao trong nội bộ MNCs (từ công ty mẹ sang công ty con). . Công nghệ là một hàng hoá có đặc tính là thông tin không đối xứng, nghĩa là người bán và người mua không có cùng một thông tin, một sự hiểu biết về giá trị của công nghệ nên thị trường về công nghệ khó thành lập hoặc được thành lập với phí tổn giao dịch cao đối với công ty cung cấp công nghệ. Do đó, MNCs có khuynh hướng chọn hình thái FDI hơn là LA để tránh phí tổn giao dịch. Đặc biệt trong trường hợp công nghệ thuộc loại tối tân, MNCs có khuynh hướng chọn FDI để tránh trường hợp bí quyết lọt ra bên ngoài. Tuy nhiên, đối với công nghệ đã được tiêu chuẩn hoá và do đó dễ mô phỏng, phí tổn giao dịch thấp, MNCs cũng có khuynh hướng chọn hình thái LA. Thêm nữa, khi đối tác là những công ty tại các nước đương có nhiều rủi ro (về xã hội, chính trị), MNCs chọn LA hơn là FDI. . MNCs thâm chí còn kê khai giá thành của công nghệ chuyển giao đó cao hơn rất nhiều lần so với giá trị thực của nó. . Việc định giá chính xác được tài sản vô hình của các nhà đầu tư hết sức khó, lợi dụng việc này mà các MNC chủ ý thổi phồng phần góp vốn bằng thương hiệu, công thức pha chế, chuyển giao công nghệ nhằm tăng phần góp vốn của mình lên.
- .Một số trường hợp phía góp vốn bằn tài sản vô hình có xuất trình gấy chứng nhận của công ty kiểm toán nhưng độ tin cậy, trung thực của các giấy chứng nhận này rất khó kiểm định. 3. Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc từ công ty đối tác với giá cao. Đây là hình thức chuyển một phần lợi nhuận ra nước ngoài thông qua việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu các hàng hóa đầu vào được MNC nhập từ công ty mẹ với lý do “hàng hóa chuyển giao nội bộ với công nghệ, kĩ thuật cao, chất lượng đảm bảo, nhằm tạo mối liên kết trong hệ thống” . Chính vì thế khi ký kết các hợp đồng kinh doanh với đói tác tại nước nhận đầu tư ( đôí với doanh nghiệp FDI) hay khi làm các thủ tục với Chính phủ khi đầu tư mới, các MNC thường đòi hỏi mức nhập khẩu hàng hóa từ công ty mẹ rất cao. Không những thế các MNC còn thực hiện chiến lược “ giao dịch toàn cầu hóa” để hình thành trên nhiều quốc gia một mạng lưới hoạt động trực thuộc công ty mẹ. Các công ty này sẽ được phân tán các lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra giá trị vị trí tối ưu của nó trên thế giới. Như vậy một bộ phận của sản phẩm có thể dược thiết kế tại một quốc gia, một số thành phần khác của nó lại được sản xuất ở quốc gia thứ hai, các thành phần khác lại được sản xuất ở quốc gia thứ ba, tất cả được lắp ráp tại một quốc gia thứ tư, thứ 5 và sau đó được bán trên toàn thế giới. Khối lượng hàng hóa giao dịch như vậy là rất lớn. Vấn đề đặt ra ở đây là: hàng hóa và dịch vụ chuyển giao như giữa các công ty con trong nội MNC nên có giá la bao nhiêu( giá chuyển nhượng)? Lợi dụng vào việc khó đặt giá cũng như kiểm định, các MNC thường kê khai giá chuyển nhượng rất cao so với giá thực tế hàng hóa đó. Từ đó việc mua hàng nhập khẩu với giá đắt làm chi phí sản xuất tăng, dẫn tới lợi nhuận chịu thuế TNDN giảm. Các MNC đã rất khôn khéo chuyển lợi nhuận thông qua hình thức nhập khẩu hàng hóa. 4. Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết giá mua bán hàng hóa Khi thuế nhập khẩu cao thì công ty mẹ bán nguyên liệu, hàng hóa với giá thấp nhằm tránh nộp thuế nhập khẩu nhiều. Trong trương hợp này, công ty mẹ sẽ tăng cường hoạt
- động tư vấn, huấn luyện, hỗ trợ tiếp thị với giá cao để bù đắp lại hoạc mua lại sản phẩm với giá thấp. Đối với hàng hooas nhập khẩu mà thuế suất thấp thì công ty ký hợp đồng nhập khẩu với giá cao nhằm nâng cao chi phí đánh thuế. Thực tế là nhiều công ty con sinh ra để hố trợ cho công ty mẹ bằng nhiều hình thức, thủ đoạn đa dạng. Mối quan hệ mẹ - con có xu hướng bị phân cấp. Công ty con phụ thuộc phần lớn vào công ty mẹ. Công ty mẹ thường có quyền quyết định và thương lượng áp đảm công ty con. Chính vì thế nó kéo theo một điều: công ty con có xu hướng hy sinh lợi nhuận của họ cho các công ty mẹ. Lợi dụng vào điều đó các MNC sẽ thực hiện điều tiết giá cả mua bán hàng hóa sao cho lợi nhuận thu về đạt cao nhất. 5. Nâng chi phí cho các dịch vụ hành chính và quản lý và dịch vụ tư vấn kỹ thuật đặc biệt. Các công ty đa quốc gia khi đầu tư vào nước sở tại, bên cạnh việc họ chuyển giao công nghệ, dây chuyền kỹ thuật sản xuất sang nước nhận đầu tư, đồng thời nước nhận đầu tư buộc phải thuê những chuyên gia tư vấn ở bên công ty mẹ với giá rất cao. Các chuyên gia tư vấn này thường là các công ty thành viên hay những công ty có mối liên hệ với công ty mẹ. Có những trường hợp công ty liên doanh còn bị ép nhận chuyên gia với chi phí cao mà không hiệu quả, do chuyên gia này là chuyên gia lâu năm do một tập đoàn và bị dôi ra ở công ty mẹ, vì lý do nào đó được chuyển sang nước nhận đầu tư làm chuyên gia, và nước nhận đầu tư phải chịu chi phí này. Dịch vụ tư vấn kỹ thuật thường áp dụng trong nước tiếp nhận đầu tư cao như trong ngành dầu khí, các ngành khác đòi hỏi kỹ thuật cao, lợi dụng điểm yếu này của nước tiếp nhận, công ty mẹ nâng giá các loại chi phí đó, và công ty con buộc phải chấp nhận. Một thủ đoạn chuyển giá khá phổ biến của các công ty đa quốc gia đó là: như đã biết sản phẩm của các công ty đa quốc gia là sản phẩm cuối cùng, là mặt hàng dùng ngay được, nhưng để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng đó, cần phải trải qua nhiều dây chuyền sản xuất, nhiều khâu trung gian. Mỗi mắt xích dây chuyền sản xuất là một công việc kinh doanh riêng biệt, vì vậy tồn tại những “khe hở” trong dây chuyền sản xuất chính là cơ hội chuyển giá giữa các công ty có quan hệ với nhau.
- 6. Nâng chi phí bản quyền và các chi phí tài sản vô hình Lợi thế cạnh tranh của một công ty đa quốc gia khi tiến hành đầu tư vào nước tiếp nhận đầu tư, so với các tập đoàn trong nước tiếp nhận đó là: bản quyền, bí quyết công nghệ, bằng phát minh, sáng chế, được chính phủ nước tiếp nhận bảo vệ độc quyền Lợi dụng điều đó các công ty mẹ nâng khống giá, nhằm thu lại lợi nhuận từ những tài sản vô hình đó Ngoài ra, các chi phí quảng cáo thường rất lớn, nhưng thường là những công ty liên doanh hay các công ty con phải chi ra, nhưng sản phẩm quảng cáo lại là của công ty mẹ. Vì vậy, công ty liên doanh cứ lỗ dần đi trong khi thương hiệu của công ty mẹ vẫn tồn tại và phát triển. Đó là một trong những thủ đoạn thâu tóm các công ty liên doanh, khiến các công ty liên doanh ngày càng phụ thuộc tài chính vào công ty mẹ, đồng thời công ty mẹ đã loại bỏ được nhiều cổ đông lớn, dần dần nắm bắt quyền sở hữu tối đa (100% công ty có vốn đầu tư nước ngoài). 7. Chuyển giá qua nguồn tài trợ bằng vốn vay từ công ty mẹ Chuyển giá thông qua tài trợ các nghiệp vụ như: cho doanh nghiệp FDI ở nước tiếp nhận đầu tư vay vốn từ một công ty liên kết (một công ty con khác hoặc vay từ công ty mẹ) với mức lãi suất cao hơn lãi suất bình thường, bằng cách tạo ra cơ cấu và nguồn vốn bất hợp lý, đẩy chi phí hoạt động tài chính lên cao, bên cạnh đó chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi vay cao và chuyển một phần lợi nhuận dưới lãi vay về nước, để tránh thuế thu nhập doanh nghiệp và lỗ do chênh lệch tỷ giá về sau Ngay khi cả doanh nghiệp vay của một ngân hàng nước ngoài do công ty mẹ bảo lãnh vẫn có thể xảy ra hiện tượng chuyển giá. Vì một số giao dịch giữa công ty mẹ và ngân hàng nước ngoài sẽ được tính giá rất thấp và bù đắp bằng cách nâng lãi suất cho vay cao hơn bình thường, phần này sẽ được gửi vào phần lãi vay thu từ hoạt động cho vay của ngân hàng nước ngoài với công ty trong nước. 8. Chuyển giá khi khống chế giá ghi trên hóa đơn Hiện tượng này xảy ra thường xuyên, khá phổ biến, nhưng vẫn chưa có cách quản lý và thắt chặt cụ thể của các cơ quan thuế. Vì tính chất định tính của hóa đơn
- Hiện tượng viết hóa đơn liên 1 khác liên 2, đối với các khu vức doanh nghiệp không còn phổ biến như trước, do rất dễ bị phát hiện do việc xác minh hóa đơn. Tuy nhiên, một số hành vi khác phát sinh cũng rất khó kiểm soát. Cụ thể, các công ty này không kê khai hàng hóa dịch vụ mua vào, đồng thời cũng không kê khai doanh thu. Hành vi này rất khó phát hiện, vì ngay cả thông qua xác minh hóa đơn, xác suất phát hiện cũng rất thấp, nhiều đối tượng bán hành trực tiếp cho người tiêu dùng không lấy hóa đơn, hoặc có ghi hóa đơn nhưng qua xác minh không xác định được người mua. Hoặc trường hợp xác định được người mua thì lại không lưu giữ hóa đơn, với nhiều lý do. Vì vậy, doanh thu phản ánh trên sổ sách hóa đơn chắc chắn không phù hợp với thực tế kinh doanh. Hành vi này cũng rất khó kiểm soát, do cơ quan thuế không thể hàng ngày dám sát việc bán hàng của doanh nghiệp, và cũng do chưa có cơ chế quản lý giá, đặc biệt là các công ty hoạt động trong lĩnh vực: du lịch, dịch vụ, vận tải, khách sạn. V. Ảnh hưởng của chuyển giá trong nền kinh tế 1. Tác động đối với MNCs Tác động tích cực: Được hưởng lợi từ chính sách ưu đãi đầu tư (như lãi suất thuế, lĩnh vực đầu tư ) tạo điều kiện cho các MNC dễ dàng trong việc thực hiện giảm thiểu trách nhiệm ở quốc gia MNC đang đầu tư Thực hiện chuyển giá, các MNC sẽ bảo toàn được nguồn vốn đầu tư, nhanh chóng có được dòng ngân lưu cho các cơ hội đầu tư khác Thực hiện chuyển giá sẽ giúp các MNC nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường ở các nước đang đầu tư, thâu tóm được các đối thủ cạnh tranh, và nhanh chóng dành vị trí độc quyền trong công ty liên doanh Tác động tiêu cực Nếu bị các quốc gia phát hiện và thực hiện chế tài thì các MNC phải chịu một khoản phạt rất lớn, bị rút giấy phép kinh doanh tại quốc gia đó hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng trên thương trường quốc tế dẫn tới sự chú ý nhiều và chặt chẽ hơn các cơ quan thuế ở hững nước MNC đi đầu tư sau đó.
- 2. Đối với các quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư Tác động tích cực Khi có các hoạt động chuyển giá ngược, do nước thu hút đầu tư có mức thuế thu nhập thấp làm tăng thu nhập cho nước tiếp nhận vốn Tác động tiêu cực Cơ cấu vốn của nền kinh tế ở quốc gia tiếp nhận vốn sẽ bị đột ngột thay đổi do việc thực hiện hành vi chuyển giá của các MNC làm các luồng vốn chảy vào nhanh mạnh, sau đó lại bị có xu hướng chảy ra trong thời gian ngắn. Hậu quả là tạo ra một bức tranh kinh tế bị sai lệch ở các quốc gia trong thời kỳ khác nhau. Đối với các quốc gia được coi là thiên đường về thuế, họ là người được hưởng lợi từ hoạt động chuyển giá trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn, họ phía đương đầu với các khó khăn tài chính khi các MNC thoái vốn do các thu nhập không bền vững trước đây của ngắn hạn không phản ánh chính xác sức mạnh của nền kinh tế. Với việc thực hiện hành vi chuyển giá và thao túng thị trường, chính phủ các nước tiếp nhận đầu tư sẽ khó khăn trong việc thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước phát triển. Hoạt động chuyển giá sẽ phá vỡ các cân thanh toán quốc tế và các kế hoạch kinh tế của các quốc gia tiếp nhận đầu tư, chính vì thế nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ dấn tới lệ thuộc vào nền kinh tế cuả chính quốc, lâu dài có thể dẫn tới lệ thuộc về chính trị. Gây thất thu thuế ở nước tiếp nhận, đồng thời chèn ép các doanh nghiệp kinh doanh cùng một ngành, sản phẩm. 3. Đối với các quốc gia xuất khẩu đầu tư Tác động tích cực Nước xuất khẩu vốn thu được ngoại tệ nhiều hơn nhờ đó góp phần cải thiện cán cân thanh toán thương mại, các cân thanh toán quốc tế. Sự hoạt động của các công ty mẹ tốt hơn về hình thức thì cũng tác động tốt hơn đến hiệu quả kinh tế xã hội: đóng góp nhiều thuế cho nhà nước, tác động tốt tới các tăng trưởng GNP của nước xuất khẩu vốn đầu tư. Tác động tiêu cực Nếu thuế suất ở các quốc gia tiếp nhận đầu tư thấp hơn thuế suất ở chính quốc, sẽ làm cho các nước xuất khẩu đầu tư bị mất cân đối trong kế hoạch thuế của nước này do việc thất thu một khoản thu nhập từ thuế.
- Mục tiêu quản lý nền kinh tế vĩ mô ở các quốc gia này sẽ gặp một số khó khăn nhất định do việc các dòng vốn đầu tư dịch chuyển theo ý muốn quản lý của chính phủ. VI. Một số bằng chứng về chuyển giá ở các quốc gia 1. Các nền kinh tế mới nổi, nền kinh tế chuyển đổi Tại Trung quốc Trung quốc được coi như một siêu cường kinh tế mới nổi, tăng trưởng kinh tế trên 10% mỗi năm. Chính phủ Trung Quốc tích cực thu hút vôn đầu tư nước ngoài bằng các ưu đãi: Chan and Chow, 1997; Moser, 1999; Sun 1999; Ho and Lau, 2002 Bao gồm miễn thuế 2 năm đầu tiên thu lợi nhuận, giảm 50% thuế trong 3 năm tiếp Sự bùng nổ kinh tế và ưu đãi thuế đã tạo ra lợi nhuận kinh doanh cho các doanh nghiệp. Năm 1980 vốn FDI đầu tư chỉ là 57 triệu đô, đến năm 1995 là 35,8 tỉ đô(UNCTAD, 2003). Vào cuối năm 1990 có đến 140.000 doanh nghiệp FDI hoạt động ở Trung Quốc. Tuy nhiên trong những năm 1993, 1994, 1995 các doanh nghiệp báo lỗ tương ứng là 54%, 63% và 70%, tổng lên đến 7,1 tỉ đô la cho các cơ quan có thẩm quyền. Đến năm 2005 55% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuyên bố thua lỗ( Global Times số 16 ). Trang web chính thức chủa chính phủ Trung Quốc tuyên bố trốn thuế thông qua chuyển giá chiếm 60% tổng trốn thuế các công ty đa quốc gia. Một nghiên cứu ước tính rằng xuất khẩu của các tập đoàn đa quốc gia được định giá thấp hơn 17%, nhập khẩu cao hơn 9%(Sun, 1999). Mặc dù kiểm soát chặt chẽ, nhưng Trung Quốc ước tính mất khoảng 100 tỉ đô mỗi năm vì định giá sai nhập khẩu và xuất khẩu. Tại Nga Nga- một nền kinh tế mới nổi cũng cung cấp bằng chứng về tác động chuyển giá. Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, nền kinh tế Nga suy giảm nghiêm trọng, GDP tăng trưởng -14% năm 1992. Chính phủ tìm mọi cách phục hồi nền kinh tế, 89 khu vực được trao quyền tự chủ cũng cấp cấp thuế, ưu đãi Dầu mỏ chính là ngành được đầu tư, đóng góp vào GDP nhiều nhất. Tuy nhiên năm 2004 Ngân hàng thế giới cho rằng xuất khẩu dầu chiếm 25% GDP cả nước chứ không phải là 9% nhứ báo cáo chính
- thức. Lý do chính cho sự khác biệt đó là các công ty khai thác đã lợi dụng sơ hở thuế tạo lợi nhuận chuyển giá. Họ xuất khẩu với giá thấp cho các công ty con, sau đó các công ti con bán lại với giá cao, thu chênh lệch giá, các công ty này thường có đăng kí ở vùng hẻo lánh. Bên cạnh đó, nhiều quan chức Nga cũng hưởng lợi từ việc này( theo RUEHL và Schaffer 2004). Ví dụ, dầu mỏ của Nga giá trong nước là 10 USD/tấn, các công ty bán cho các công ty con ở nước ngoài 10USD/tấn, sau đó bán lại theo giá thị trường 120 USD/tấn. Khi đó lợi nhuận lưu giữ ở bên ngoài, không phải chịu thuế. Theo 1 thống kê từ năm 1990-1995 khoảng 400.000.000.000 USD được đưa khỏi Nga, Mỹ, Thụy Sĩ, Hà Lan, Đan Mạch. Thu nhập từ thuế bị mất, kèm theo vốn là cơ sở pháp lý cho vịêc truy tố các công ty năng lượng lớn nhất của Nga, Yukos(thuộc sở hữu tập đoàn Menatep) bị cáo buộc thực hiện hành vi chuyển giá. Năm 1988, Khodorkovsky thành lập ngânhàng Menatep rất phát triển dưới sự đỡ đầu của các doanh nhân và chính trị gia Nga.Để thực hiện việc gian lận của mình, ông sử dụng các công ty vỏ bọc (shell company)ở nước ngoài. Những công ty giả tạo này được thành lập ở những “thiên đường thuế” đểcung cấp sự bảo mật cho doanh nghiệp và ngân hàng. Trong số khoảng 70 “thiên đườngthuế” trên thế giới, Khodorkovsky thường chọn Thụy Sĩ, Gibraltar, Panama, và Isle of Man.Trong năm 1994, Khodorkovsky và bạn bè đã mua 20% cổ phần của Apatit, một côngty nhà nước của Nga, trị giá 1,4 tỷ USD vào lúc đó, với số tiền 225.000 USD và một lờihứa đầu tư 283 triệu USD. Khi công ty được đưa ra bán đấu giá, Khodorkovsky bố trí cho bốn công ty vỏ bọc của mình đủ điều kiện để mua nó. Nhưng sau khi trúng thầu, chủ đầu tư không bơm tiền vào công ty và cũng phớt lờ lệnh trả lại cổ phần của tòa án. Thay vàođó, họ đã bán cổ phần cho Menatep, và Menatep chuyển giao nó cho các công ty vỏ bọcnước ngoài. Những nhà quản trị công ty thiết lập một chương trình chuyển giá, bán sản phẩm của Apatit với giá thấp cho các công ty vỏ bọc của họ, và bán chúng trên thị trường thế giới với giá cao hơn
- 2. Tại Việt Nam 2.1. Thực trạng chung Chuyển giá đã và đang được các tập đoàn đa quốc gia sử dụng như một công cụ hữu hiệu để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và là một trong các cách tăng lợi nhuận chung của tập đoàn trên toàn cầu với chi phí ít tốn kém nhất. Trong những năm qua, với chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, các dự án đầu tư đã không ngừng tăng lên cả về số lượng và quy mô, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, một điều đáng lo ngại là càng ngày các cơ quan thuế phải đối mặt với tình hình kê khai thua lỗ ngày càng gia tăng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), chiếm khoảng trên 50% tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên cả nước, trong đó nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ nhiều năm liên tục cho đến nay nhưng lại vẫn tiếp tục duy trì sản xuất và tiếp tục đầu tư tại Việt Nam. Điển hình như ở một số địa phương như: Bình Dương, số doanh nghiệp FDI kê khai lỗ năm 2010 là 754/1.490, chiếm tỷ trọng 50,6%; tại TP. Hồ Chí Minh và Đồng Nai, tỷ lệ số doanh nghiệp FDI kê khai lỗ lần lượt là 60% và 52,2%. Hiện tượng chuyển giá đang gây ra tình trạng nhức nhối trên nhiều địa phương ở Việt Nam. Tại Hội nghị Tổng kết 25 thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đào Quang Thu cũng thẳng thắn thừa nhận rằng, có một số doanh nghiệp FDI đã áp dụng các thủ thuật chuyển giá như nâng khống giá trị góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản quyền ), giá trị mua bán nguyên vật liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành phẩm, dịch vụ, phí quản lý, tiền bản quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương, đào tạo, quảng cáo, nhà thầu, chuyển nhượng vốn tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách, làm cho đa số bên Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, doanh nghiệp trở thành 100% vốn nước ngoài. Thậm chí, theo đại diện của Bộ Tài chính, hiện tượng các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ là khá phổ biến, chiếm tới 50% tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động, trong đó có nhiều trường hợp kê khai lỗ đến 3 năm liên tiếp. Hành vi chuyển giá đã diễn ra không chỉ tại các doanh nghiệp liên kết có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà còn diễn ngay trong các công ty nội địa Việt Nam. Sở dĩ có hiện
- tượng này là do Việt Nam vẫn đang thực hiện chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) theo ngành nghề kinh doanh và địa bàn đầu tư. Nhờ chính sách này mà các doanh nghiệp trong nước thành lập một số công ty con hoạt động trong những lĩnh vực và địa bàn được ưu đãi thuế TNDN và tìm cách chuyển lợi nhuận trước thuế sang công ty con để được hưởng ưu đãi thuế hoặc chuyển lợi nhuận trước thuế từ doanh nghiệp có lãi sang doanh nghiệp bị lỗ để tránh thuế TNDN. Kết quả của việc này không chỉ là ngân sách nhà nước bị sụt giảm nghiêm trọng mà hàng năm chúng ta còn phải dành một khoản thuế không nhỏ cho việc nhập về những nguyên liệu, máy móc cao hơn giá trị thực của nó. Hơn nữa là tình trạng thua lỗ ảo kéo dài, cổ đông của Việt Nam trong liên doanh có thể không chịu nổi và phải nhanh chóng rút vốn, nhường sân cho đối tác. Thực tế cho thấy, không ít các doanh nghiệp liên doanh đã bị các công ty mẹ ở nước ngoài thôn tính kiểu này và phải ra về trắng tay mặc dù đã có những đóng góp không nhỏ. Trong nhiều năm qua, mặc dù các cơ quan chức năng biết khá rõ thủ thuật lách thuế của các doanh nghiệp FDI, nhưng chứng minh được điều này thì không phải việc dễ dàng đối với ngành thuế. Cho đến nay, việc kiểm soát giá nội bộ để chống gian lận qua chuyển giá là một thách thức lớn đối với các cơ quan quản lí ở Việt Nam. 2.2.Một số trường hợp điển hình về chuyển giá của các công ty đa quốc gia ở Việt Nam 2.2.1. P&G - thủ đoạn chuyển giá với mục đích chiếm lĩnh thị trường P&G Việt Nam là một công ty liên doanh giữa Công ty Proter & Gamble Far Earst với Công ty Phương Đông, được thành lập vào ngày 23 tháng 11 năm 1994. Tổng số vốn đầu tư ban đầu của liên doanh này là 14,3 triệu USD và đến năm 1996 tăng lên là 367 triệu USD. Trong đó Việt Nam góp 30% và phía đối tác chiếm 70% (tương đương 28 triệu USD). Có thể thấy rằng công ty P&G là một trường hợp tiêu biểu thực hiện quá trình chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn, mà cụ thể là qua đầu tư dưới dạng liên doanh với Việt Nam. Sau hai năm hoạt động (năm 1995 và 1996) liên doanh này đã báo lỗ với một con số khổng lồ là 311 tỷ VND. Số tiền lỗ này tương đương với 3/4 giá trị vốn góp của cả liên
- doanh. Trong con số thua lỗ 311 tỷ này thì năm 1995 lỗ 123,7 tỷ VND và năm 1996 lỗ 187,5 tỷ VND. Nguyên nhân dẫn đến số tiền lỗ này: Nâng chi phí quảng cáo Năm 1995 và 1996 là giai đoạn mới vào Việt Nam nên P&G muốn xây dựng thương hiệu tại Việt Nam và muốn các sản phẩm của mình đều được người tiêu dùng biết đến và sử dụng. Với mục đích chiếm lĩnh thị trường, trong hai năm 1995 và 1996, P&G đã chi cho quảng cáo một số tiền rất lớn lên đến 65,8 tỷ đồng. Đây là một con số quá lớn đối với quảng cáo tại Việt Nam vào thời điểm đó. Lúc này hầu như các kênh truyền hình. đài phát thanh và báo chí đều có sự xuất hiện quảng cáo của các sản phẩm của công ty P&G như Lux, Pantene, Head & Shouder, Rejoice Vào thời điểm này, mọi người đều nghe các khẩu hiệu quảng cáo như “Rejoice tạo mái tóc mượt và không có gàu”, “Pantene giúp tóc bạn khỏe hơn”, “Header & Shoulder khám phá bí quyết trị gàu”,“bột giặt Tide thách thức mọi vết bẩn” Tổng các chi phí quảng cáo này chiếm đến 35% doanh thu thuần của công ty và đã vượt xa mức cho phép của luật thuế là không quá 5% trên tổng chi phí và nó cũng đã gấp 7 lần so với chi phí trong luận chứng kinh tế ban đầu. Nâng giá nhân công Quỹ lương năm đầu tiên xây dựng trong luận chứng kinh tế là 1 triệu USD nhưng thực tế đã chi đến 3,4 triệu USD, tức là gấp 3,4 lần. Nguyên nhân chủ yếu là do P&G đã sử dụng đến 16 chuyên gia là người nước ngoài trong khi trong luận chứng kinh tế chỉ đưa ra từ 5 đến 6 người. Ngoài hai chi phí trên thì các chi phí khác cũng phát sinh lớn hơn nhiều so với luận chứng kinh tế ban đầu như chi phí cho chuyên gia xây dựng cơ bản ban đầu là 7 tỷ VND, chi phí tư vấn pháp lý hết 7,6 tỷ VND và chi phí thanh lý hết 20 tỷ VND Thêm vào đó, một nguyên nhân khác dẫn đến việc thua lỗ nặng nề trong năm đầu tiên là do doanh số thực tế năm chỉ đạt 54% kế hoạch và phải gánh chịu chi phí tăng cao, dẫn đến kết quả là năm đầu tiên hoạt động thua lỗ 123,7 tỷ VND. Năm thứ hai lại tiếp diễn thực trạng trên nên tiếp tục thua lỗ thêm 187,5 tỷ VND với con số thua lỗ hai năm đến 311,2 tỷ VND; chiếm 3/4 tổng số vốn của liên doanh. Đến
- tháng 7 năm 1997 thì tổng giám đốc của P&G đã đầu tư quá giấy phép là 6 triệu USD, công ty phải vay tiền mặt để trả tiền lương cho nhân viên. Đứng trước tình thế thua lỗ nặng nề và để tiếp tục kinh doanh thì bên phía đối tác nước ngoài đề nghị tăng vốn thêm 60 triệu USD. Như vậy phía Việt Nam cần phải tăng theo tỷ lệ vốn góp 30% (18 triệu USD). Do không có đủ tiềm lực tài chính nên cuối cùng phía Việt Nam đã phải bán lại toàn bộ số cổ phần của mình cho đối tác nước ngoài. Kết quả, Công ty P&G Việt Nam từ hình thức là công ty liên doanh đã trở thành công ty 100% vốn nước ngoài. Mặt khác, dù khai báo lỗ trầm trọng, P&G vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất của mình tại Việt Nam. Sau 10 năm, P&G đã đầu tư khoảng 82 triệu USD với ba nhà máy ở khu công nghiệp Đồng An – Bình Dương, đã cho ra đời các sản phẩm được sử dụng rộng rãi, phổ biến tại Việt Nam như dầu ội Pantene, Rejoice, Head & Shoulders, bột giặt Tide, nước xả Downy Công ty liên tục có tốc độ tăng trưởng 30%/năm. Doanh số trong 10 năm qua của cồng ty đã đạt khoảng 5.000 tỷ đồng, nộp ngân sách 450 tỷ đồng, thu hút 500 lao động trực tiếp và 2.000 lao động gián tiếp. Điều này chứng tỏ bước đi ngày càng khôn ngoan của các nhà lãnh đạo P&G trong kế hoạch chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Ngày nay, đi đến đâu bạn cũng có thể dễ dàng nhận ra hàng hóa của P&G tràn ngập thị trường với vô vàn mẫu mã đa dạng, chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh. Có thể nói công ty đa quốc gia và cơn lốc “Việt Nam hóa” sản phẩm đang là mối lo ngại cấp bách đối với các doanh nghiệp trong nước. Mạng lưới phân phối và bán hàng của công ty được nhiều doanh nghiệp đối tác đánh giá cao, bởi mạng lưới bán lẻ có hầu hết tại các thôn xã, thị trấn và thành phố thông qua gần 180 nhà phân phối trong cả nước và sự hợp tác kinh doanh với tất cả các chuỗi kênh phân phối hiện đại đang phát triển nhanh chóng tại Việt Nam, sản phẩm đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu, thu nhập khác nhau của người tiêu dùng Việt Nam. Và điều này ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến nền sản xuất hàng hóa nội địa. Doanh nghiệp nội địa phải thực hiện nghĩa vụ thuế nghiêm túc hơn nên ít nhiều sẽ thua thiệt so với các công ty liên
- doanh, mà đặc biệt là khi công ty này đã trở thành công ty 100% vốn nước ngoài như P&G Việt Nam. Hơn nữa, trong ngắn hạn, người tiêu dùng được hưởng lợi khi mua hàng giá rẻ do công ty P&G sản xuất do để thu hút số lượng lớn người tiêu dùng, tuy nhiên, về lâu dài, khi P&G đã thành công và chiếm lĩnh thị trường và thị phần, người tiêu dùng sẽ buộc phải tuân theo luật chơi, mà chính xác hơn là sẽ phụ thuộc vào sản phẩm, vào giá cả mà công ty này đưa ra. Như vậy, có thể thấy rất rõ rằng, chỉ qua 10 năm thâm nhập thị trường tiêu dùng Việt Nam, công ty P&G đã thực hiện quá trình chuyển giá “thành công” sau khi đã thâu tóm toàn bộ thị phần khi còn là công ty liên doanh với Công ty Phương Đông để trở thành công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài và áp đảo các doanh nghiệp Việt Nam trong việc sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu hằng ngày như dầu gội, xà phòng, bột giặt, Qua đó, cho thấy những thủ đoạn và bước đi khôn ngoan của những nhà lãnh đạo của công ty này nhằm chiếm lĩnh một thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam. 2.2.2. Coca Cola – nghi vấn chuyển giá trốn thuế Coca Cola, (còn được gọi tắt là Coke) , là nhãn hiệu nước ngọt được đăng ký năm 1893 tại Mỹ. Từ khi được thành lập và đặt trụ sở chính tại Atlanta, bang Georgia, tập đoàn Coca cola hiện đang hoạt động trên 200 nước khắp thế giới. Coca Cola chiếm 3.1% tổng lượng sản phẩm thức uống trên toàn thế giới. Trong 33 nhãn hiệu nước giải khát không cồn nổi tiếng trên thế giới, Coca Cola sở hữu tới 15 nhãn hiệu. Mỗi ngày Coca Cola bán được hơn 1 tỷ loại nước uống, mỗi giây lại có hơn 10.000 người dùng sản phẩm của Coca Cola. Trung bình một người Mỹ uống sản phẩm của công ty Coca Cola 4 ngày 1 lần. Coca Cola hiện đã có mặt tại tất cả các châu lục trên thế giới và có thể được nhận ra bởi phần lớn dân số thế giới. Thống lĩnh thị phần đồ uống tại Việt Nam, doanh số tăng theo đường thẳng đứng, nhưng từ khi đầu tư tại thị trường VN (tháng 2-1994) đến nay Coca Cola đã có rất nhiều dấu hiệu thực hiện các chiêu trò chuyển giá nhằm mục đích trốn thuế với rất nhiều biểu hiện được phát hiện trong những năm gần đây. Điều này làm dấy lên phong trào tẩy chay Coca Cola mạnh mẽ của người tiêu dung đối với một doanh nghiệp trốn tránh nghĩa vụ thuế.
- Nâng giá nguyên phụ liệu Cục Thuế TPHCM cho biết từ khi thành lập (tháng 2/1994) đến nay chưa năm nào Công ty Coca Cola Việt Nam khai có lãi dù doanh thu tăng liên tục qua mỗi năm. Năm 2004 doanh thu 728 tỷ đồng, số lỗ là 110 tỷ đồng. Năm 2006 doanh thu vọt lên 1.026 tỷ đồng thì số lỗ lên đến 253 tỷ đồng. Mới nhất năm 2010, doanh thu của Coca Cola Việt Nam lên đến 2.529 tỷ đồng nhưng chi phí lại lên đến 2.717 tỷ đồng, dẫn đến số lỗ 188 tỷ đồng. Lũy kế đến nay công ty này đã lỗ tổng cộng 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950 tỷ đồng. Ông Lê Duy Minh, trưởng phòng kiểm tra thuế số 1 Cục Thuế TPHCM, cho biết để doanh nghiệp này có thể liên tục kê khai lỗ nằm ở chi phí nguyên phụ liệu, trong đó chủ yếu là hương liệu được nhập trực tiếp từ công ty mẹ với giá rất cao. Trung bình chi phí nguyên phụ liệu chiếm trên 70% giá vốn, cá biệt năm 2006-2007 chi phí nguyên phụ liệu lên đến 80-85% giá vốn. Như năm 2010 chi phí do nhập nguyên vật liệu từ công ty mẹ lên đến 1.671 tỷ đồng trên doanh thu 2.329 tỷ đồng. Năm 2009 chi phí này là 1.065 tỷ đồng. Biểu đồ thể hiện doanh thu và số lỗ của Cocacola 2004-2010 theo giaoduc.net.vn Nhiều lần Cục Thuế TPHCM cũng đã làm việc với doanh nghiệp này nhưng đại diện
- Công ty Coca Cola Việt Nam vẫn trả lời là đã kê khai đầy đủ, chấp hành đúng luật pháp Việt Nam, còn nguyên nhân lỗ là do thu không đủ bù chi. Công ty cũng không thể bán giá cao hơn vì muốn mở rộng thị trường. Công ty này cũng giải thích giá nguyên phụ liệu cao do đây là sáng chế lâu đời, bao gồm cả chi phí chất xám. Để biện hộ cho hành vi bị nghi ngờ là chuyển giá của minh, Coca Cola cho rằng sự xuất hiện của các đối thủ khiến Coca Cola Việt Nam bị mất đi một số thị phần đáng kể, công ty phải bỏ ra một khoản chi phí khá lớn cho việc tiếp thị nhằm quảng bá và bảo vệ thương hiệu. Giá nguyên nhiên liệu, giá điện và giá đường tăng, trong đó việc mua nguyên vật liệu từ thị trường nước ngoài khá đắt đỏ đã làm đội giá thành sản phẩm. Công ty cũng tăng lương cho nhân viên ít nhất 11% mỗi năm để đối phó với lạm phát. Ngoài ra, Coca Cola Việt Nam cho biết DN phải vay vốn, chịu gánh nặng chi phí lãi suất cao cũng như những rủi ro tỉ giá với các khoản vay bằng USD. Các khoản chi đầu tư vào dây chuyền sản xuất đã làm gia tăng chi phí về lãi suất, khấu hao và chi phí chênh lệch tỉ giá. "Đã 6-7 năm nay Cục Thuế TPHCM liệt Công ty Coca Cola Việt Nam vào vị trí số 1 trong danh sách doanh nghiệp nghi vấn có dấu hiệu chuyển giá. Báo cáo tài chính của công ty này cũng được săm soi rất kỹ nhưng việc chứng minh doanh nghiệp này có chuyển giá phức tạp hơn các doanh nghiệp khác rất nhiều do không có cơ sở so sánh, đối chiếu giá nguyên liệu với các doanh nghiệp khác cùng ngành nghề vì nguyên liệu là do công ty mẹ của Coca Cola Việt Nam độc quyền cung cấp. Cũng không thể lấy chi phí nguyên phụ liệu của doanh nghiệp Việt Nam cùng ngành nghề để so sánh vì đây là doanh nghiệp đặc thù" ông Minh nói. “Cơ quan thuế chưa tiến hành thanh tra chứ không không phải bó tay với dấu hiệu tại các đơn vị này”, ông Nguyễn Quang Tiến - Vụ trưởng, Phó trưởng ban cải cách Tổng cục thuế khẳng định. Ông cũng cho biết nhiều doanh nghiệp như Coca Cola, Pepsi hay Metro đều đang nằm trong tầm ngắm của cơ quan thuế. Nói như vậy nhưng theo thừa nhận của bản thân ông Tiến cũng như những chuyên gia trong lĩnh vực quản lý thuế, việc chứng minh được hành vi chuyển giá tại khu vực FDI, nhất là các tập đoàn đa quốc gia là một quá trình hết sức phức tạp và đòi hỏi nhiều thời gian.
- Cái khó lớn nhất được nhiều chuyên gia nhắc tới là việc các tập đoàn đa quốc gia thường sử dụng “chiêu bài” độc quyền về nguyên liệu hoặc công nghệ, khiến cơ quan quản lý rất khó xác định chi phí đầu vào thực tế mà doanh nghiệp Việt Nam phải bỏ ra. Đơn cử trong trường hợp của Coca Cola, theo số liệu của cơ quan thuế, chi phí hương liệu nhập từ công ty mẹ thường chiếm khoảng 70 - 85% giá vốn của nhà máy tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo Vụ trưởng Nguyễn Quang Tiến, bản thân những số liệu này chưa nói lên nhiều điều bởi cơ quan quản lý không hề biết tỷ lệ dụng hương phụ liệu từ công ty mẹ tại Coca Cola Việt Nam là bao nhiêu, so sánh với các thị trường khác như thế nào để đưa ra kết luận. “Muốn có được thì phải mua thông tin từ các công ty phân tích dữ liệu nhưng vấn đề kinh phí cũng rất khó khăn", ông Tiến nói. Kinh doanh bằng vốn của công ty mẹ Cũng theo đại diện Cục Thuế TPHCM, điểm bất thường khác là những doanh nghiệp khác tỉ lệ lãi trên vốn luôn là số dương nhưng riêng Công ty Coca Cola Việt Nam tỉ lệ này luôn âm với một con số rất lớn. Qua nhiều năm thua lỗ đến nay, Coca Cola Việt Nam đã "âm" vốn chủ sở hữu đến 818 tỷ đồng. Vì thua lỗ nên sau hàng chục năm đầu tư vào Việt Nam, Coca Cola Việt Nam chỉ nộp thuế giá trị gia tăng (thực chất là do người tiêu dùng nộp), thuế môn bài, còn thuế thu nhập doanh nghiệp đến nay chưa thu được đồng nào. Nhưng nghịch lý ở chỗ dù thua lỗ, công ty này vẫn liên tục mở rộng sản xuất. Thậm chí cuối tháng 10/2012, chủ tịch kiêm tổng giám đốc điều hành Coca Cola, ông Muhtar Kent, đã tới Việt Nam và tuyên bố Coca Cola sẽ rót thêm 300 triệu USD vào Việt Nam trong ba năm tới. Vậy đâu là động lực để doanh nghiệp này tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam khi liên tục thua lỗ như vậy? Đại diện Coca Cola đã trả lời rằng: Việt Nam là một thị trường tăng trưởng quan trọng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong quá trình chúng tôi nhắm tới mục tiêu của Tầm nhìn 2020. Đầu tư tài chính mới này không chỉ mang ý nghĩa đầu tư mở rộng kinh doanh của Coca Cola để xây dựng vị trí dẫn đầu tại Việt Nam mà còn là một minh chứng cho sự tin tưởng của chúng tôi vào triển vọng phát triển lâu dài của Việt Nam.
- Ông Lê Duy Minh cho biết so sánh với doanh nghiệp nước giải khát rất nhỏ cùng ngành nghề của Việt Nam là Chương Dương năm 2011, dù chỉ còn thị phần ở hai sản phẩm là soda chai và nước xá xị, doanh thu chỉ có 422 tỷ đồng nhưng lợi nhuận lên đến 30 tỷ đồng với số thuế nộp cho ngân sách lên đến 7,5 tỷ đồng. Như vậy có thể thấy ẩn đằng sau con số lỗ của Coca Cola có thể là khoản lãi rất lớn hằng năm chảy về cho công ty mẹ dưới dạng tiền trả nguyên phụ liệu. "Cục Thuế TPHCM đã có văn bản báo cáo UBND thành phố và Sở Kế hoạch - đầu tư thành phố về tình trạng thua lỗ liên tục của Coca Cola Việt Nam, trong đó nêu rõ quan điểm rằng nếu một doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam mà lỗ mất vốn đầu tư ban đầu có còn cơ sở pháp lý để tồn tại ở Việt Nam hay không nhưng vẫn chưa nhận được văn bản nào trả lời về vấn đề này" - ông Minh nói. Do liên tục thua lỗ qua nhiều năm, đến nay Coca Cola Việt Nam hoạt động chủ yếu bằng vốn đi vay. Trong đó vay nợ ngắn hạn từ công ty mẹ là 2.020 tỷ đồng, số nợ khác chỉ có 343 tỷ đồng. "Như vậy Coca Cola Việt Nam nợ mà thực chất là không nợ vì chủ yếu là vốn từ công ty mẹ rót vào cho công ty con trích từ một phần lãi hằng năm chuyển về ẩn dưới dạng thanh toán tiền mua hương liệu" - ông Minh cho biết. Cũng theo Cục Thuế TPHCM, tình trạng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố thua lỗ liên tục qua nhiều năm, thậm chí số lỗ vượt quá vốn chủ sở hữu nhưng vẫn mở rộng sản xuất là dấu hiệu không bình thường nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế. Cách làm này của các doanh nghiệp không chỉ gây thất thoát nguồn thu thuế trong nước mà còn tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, thậm chí thôn tính đối tác kinh doanh. VII. Quản lí chống chuyển giá 1. Một số biện pháp chống chuyển giá Để chống chuyển giá thì phải xác định được định giá chuyển giao : - Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập: dựa vào đơn giá sản phẩm được vận dụng trong trường hợp giao dịch độc lập có điều kiện tương đương với giao dịch liên kết.
- - Phương pháp giá bán lại: áp dụng trong trường hợp không có giao dịch mua tương đương, thuộc khâu cung ứng hoặc có thêm giai đoạn gia công, chế biến, lắp ráp làm gia tăng giá trị hàng hóa, nên phải sử dụng giá bán lại của sản phẩm do cơ sở kinh doanh bán cho bên độc lập để xác định giá mua vào của giao dịch liên kết. - Phương pháp giá vốn cộng lãi: được lựa chọn khi giao dịch liên kết thuộc khâu sản xuất khép kín để bán cho bên liên kết hoặc cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra cho bên liên kết. Phương pháp này xác định giá dựa vào giá vốn hay giá thành của sản phẩm để xác định giá bán ra của sản phẩm đó cho bên liên kết. - Phương pháp so sánh lợi nhuận: để thực hiện phương pháp này phải dựa trên tỷ suất sinh lời của sản phẩm trong giao dịch độc lập được chọn. Phương pháp này không cho ra kết quả về giá mà tính ra được thu nhập thuần trước thuế là cơ sở tính thuế TNDN. Đây được xem là phương pháp mở rộng của phương pháp giá bán lại và giá vốn cộng lãi, nên có thể áp dụng đối chiếu trong trường hợp có những điều kiện tương tự. - Phương pháp tách lợi nhuận: được áp dụng trong trường hợp nhiều bên liên kết cùng thực hiện một giao dịch liên kết tổng hợp, chẳng hạn như cùng tham gia nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, hoặc sản phẩm là tài sản vô hình độc quyền, kinh doanh chuyển tiếp từ khâu đầu đến khâu cuối gắn với quyền sở hữu trí tuệ. Việc tách lợi nhuận của từng bên liên kết trong giao dịch dựa trên cách mà các bên độc lập thực hiện phân chia lợi nhuận trong các giao dịch độc lập tương đương. Trường hợp do tính đặc thù hoặc duy nhất của giao dịch liên kết mà không có có giao dịch độc lập tương đương để chọn một trong các phương pháp trên so sánh thì có thể sử dụng biện pháp tổng hợp (như mở rộng phạm vi lựa chọn sang phân ngành khác, xác định biên độ giá thị trường thích hợp bằng các phương pháp tổng hợp ) hoặc vận dụng các số liệu giữa kỳ (để tính mức giá sản phẩm, tỷ suất lợi nhuận ). + Mục đích của định giá chuyển giao là tìm sự khác biệt trong việc hình thành nghĩa vụ thuế giữa giá giao dịch liên kết và giao dịch độc lập. Do đó, quá trình so sánh cho phép chủ thể có giao dịch liên kết lựa chọn giá trị phù hợp nhất trong các giá trị tương ứng của biên độ giá thị trường chuẩn để làm căn cứ điều chỉnh giá của giao dịch liên kết. Theo quy định tại đoạn 1.1 điểm 1, Mục 2, phần B, TT117/2005/TT-BTC, trường hợp giá sản phẩm trong giao dịch liên kết không thấp hơn giá trị phù hợp nhất thì chủ thể kinh doanh không cần điều chỉnh
- Áp dụng các biện pháp so sánh giá thị trường được xem là nghĩa vụ bắt buộc của đối tượng nộp thuế TNDN khi thực hiện các giao dịch liên kết. Chủ thể này có nghĩa vụ kê khai các giao dịch liên kết đã thực hiện và phương pháp so sánh giá đã áp dụng khi khai báo thuế TNDN. Tuy vậy cơ chế bảo mật thông tin trong trường hợp này chưa được nhà nước quan tâm điều chỉnh cụ thể, vì thế sẽ không thể biết rằng một khi thông tin nội bộ của họ (như bí mật công nghệ, giải pháp kỹ thuật ) bị rò rỉ gây thiệt hại cho đối tượng nộp thuế thì trách nhiệm của cơ quan quản lý sẽ ra sao, mức bồi thường như thế nào? Câu hỏi này chưa có lời đáp rõ ràng. - Các biện pháp cưỡng chế cũng được áp dụng nhằm đảm bảo tuân thủ kê khai đúng đắn các giao dịch liên kết. Biện pháp định giá chuyển giao theo cách thức điều chỉnh hiện nay chỉ có ý nghĩa trong việc xác định thu nhập chịu thuế, chính xác hơn là xác định đúng nghĩa vụ thuế TNDN. Thế nhưng điều đó cũng có nghĩa là đưa giao dịch liên kết về giao dịch thị trường, nên kết quả này cũng có những ý nghĩa pháp lý nhất định trong việc xác định các nghĩa vụ thuế khác như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt nếu có. Kết quả này là biểu thị giá của giao dịch bán ra hoặc giao dịch mua vào cho nên giá tính thuế của các loại thuế gián thu nếu căn cứ vào đây có thể sẽ khác đi vì được định giá lại. Biện pháp chống chuyển giá mà một số nước trên thế giới thường dùng Ở nước Mỹ : Mỹ quy định cụ thể các nguyên tắc chế tài dành cho hành vi chuyển giá: Phạt chuyển giá trong giao dịch (Transaction penalty): là loại hình chế tài khi có chênh lệch đáng kể trong giá chuyển giao nếu so sánh với căn bản giá thị trường theo quy định IRS Sec 482, mà hậu quả là số thu nhập chịu thuế không phản ánh đúng thực tế của nghiệp vụ phát sinh: Với mức sai phạm trọng yếu đáng kể: mức phạt chuyển giá 20% dành cho trường hợp có sai sót đáng kể do chuyển giá vượt quá 200% (hay dưới 50%) so với mức mà IRS Sec 482 xác định được. Với tổng mức sai phạm trọng yếu: mức phạt chuyển giá 40% dành cho trường hợp có sai sót đáng kể do chuyển giá vượt quá 400% (hay dưới 25%) so với mức mà IRS xác định được. Phạt bổ sung (Net Adjustment Penalty): phạt bổ sung được áp dụng nếu phần thu
- nhập chịu thuế sau khi tính lại theo IRS Sec 482 tăng vượt mức quy định có thể cho trước. Khoản phạt bổ sung 20% trên số thuế truy thu sẽ áp dụng trong trường hợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai mức sau: 5 triệu USD hoặc 10% trên tổng số thuế phải nộp. Phạt bổ sung 40% trên số thuế truy thu sẽ áp dụng trong trường hợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai mức sau – 20 triệu USD hoặc 20% trên tổng số thuế phải nộp. Để đánh giá và phát hiện hành vi chuyển giá, Mỹ sử dụng 6 phương pháp định giá bao gồm : Phương pháp giá tự do có thể so sánh được (Comparable Uncontroller Price – CUP). Phương pháp giá bán lại (Resales Price Method) Phương pháp chi phí cộng thêm vốn(Cost Plus Method) Phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit Split Method) Phương pháp chiết tách lợi nhuận có thể so sánh được (ComparabableProfit Split Method) Phương pháp lợi nhuận có thể so sánh (The Comparable Profit Method) Trong đó, phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất là phương pháp giá bán lại (Resales price method) và phương pháp giá phí cộng thêm (cost plus method) vì những tài liệu cần thiết không quá phức tạp khi thu thập. Thực tế cho thấy, phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit split method) là phương pháp dễ áp dụng và ít tốn kém nhất ở Mỹ. Tuy nhiên do tính chính xác không cao nên đã bị chỉ trích khá nhiều bởi các MNC. Ở Singapore Singapore không có luật riêng để quản lí hoạt động chuyển giá. Các quy định liên quan đến hoạt động chuyển giá nằm trong luật chung về thuế. IRAS (Inland Revenue Authority of Singapore) phát hành hướng dẫn về hoạt động chuyển giá ngày 23/2/2006. (Singapore Pricing Guidelines) Hướng dẫn về chuyển giá của Singapore dựa trên và thống nhất với hướng dẫn của OECD. Những hướng phương pháp định giá được đưa ra bởi OECD được chấp nhận ở Singapore. IRAS hầu như không ưu tiên cho phương pháp nào trong số 5 phương pháp được liệt kê trong hướng dẫn của OECD. Phương pháp xác định giá chuyển giao nào tạo ra kết quả tin cậy nhất sẽ được lựa chọn và áp dụng tùy từng trường hợp cụ thể. Singapore không quy định mức phạt cụ thể dành riêng cho hành vi chuyển giá. Mức phạt chung cho các vi phạm về thuế nằm từ khoảng 100% đến 400%
- khoản thuế phải trả. Một điểm đáng lưu ý trong thực tế là khi một vụ điều tra về chuyển giá được tiến hành, án phạt gần như sẽ được áp dụng nếu đơn vị đóng thuế không có hoặc không đầy đủ các tài liệu liên quan đến việc điều tra chuyển giá. Luật thuế của Singapore cũng như hướng dẫn về vấn đề chuyển giá không đưa ra một yêu cầu về việc phải chuẩn bị xuất trình các tài liệu về chuyển giá. IRAS mong muốn các đơn vị và cá nhân đóng thuế phải tự đánh giá nguy cơ rủi ro bị kết tội chuyển giá và tự chuẩn bị những tài liệu phù hợp với rủi ro đó. Các tài liệu tối thiểu cần có khi kiểm tra về vấn đề chuyển giá bao gồm: Mô tả về các bên liên quan trong các chuyển nhượng, bao gồm giá trị mua bán và các điều khoản kí kết. Một phân tích sâu trong đó mô tả những yếu tố chính liên quan đến quá trình mua bán như chức năng, sự phát triển của tài sản, việc sử dụng tài sản và các rủi ro được dự báo. Bảng đánh giá của đơn vị đóng thuế về những rủi ro về thuế của đơn vị. Ngoài ra, tùy vào mức độ rủi ro bị kết tội chuyển giá cũng như mức độ phức tạp và quy mô của các hoạt động mua bán, chuyển nhượng mà doanh nghiệp có thể cần chuẩn bị những tài liệu chi tiết hơn. Singapore hầu như không quy định thời hạn cho việc xuất trình các tài liệu. Tuy nhiên, khi đơn vị đóng thuế tin rằng mình có khả năng bị kiểm tra chuyển giá, thì việc chuẩn bị các tài liệu liên quan cần được chuẩn bị một cách đồng thời. Không có yêu cầu nộp hoặc thời hạn nộp các tài liệu, tuy nhiên việc xuất trình các tài liệu phải được thực hiện ngay nếu được yêu cầu từ IRAS.Có thể nhận thấy việc ban hành hướng dẫn về chuyển giá của Singapore chủ yếu nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết của doanh nghiệp về vấn đề chuyển giá. 2. Quản lý chống chuyển giá ở Việt Nam 2.1. Một số quy định về chống chuyển giá Hành vi chuyển giá ở Việt Nam xuất hiện cùng với sự gia tăng các doanh nghiệp FDI. Cách đây khoảng 15 năm nó đã đặt ra cho các nhà quản lý một bài toán phải giải quyết. Động thái đầu tiên đánh dấu sự vào cuộc hóa giải vấn đề chuyển giá chính là sự ra đời của Thông tư 74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài, sau đó là Thông tư 89/1999/TT-BTC, Thông tư 13/2001/TT-BTC và Thông tư 117/2005/TT-BTC. Các văn bản nói trên đã thể hiện tinh thần cơ bản xử lý vấn đề chuyển giá là xác định lại giá chuyển giao theo nguyên tắc giá thị trường sòng phẳng.
- Tuy nhiên, các văn bản nói trên chỉ dừng lại ở đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp FDI mà chưa áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước, tức là mới chú trọng vấn đề chống chuyển giá quốc tế, chứ chưa có giải pháp chống chuyển giá nội địa. Với sự ra đời của Thông tư 66/2010/TT-BTC, lần đầu tiên ở Việt Nam một văn bản pháp lý về chống chuyển giá được áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, cả doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp khác. Thêm vào đó, những hạn chế, bất cập của Thông tư 117/2005/TT-BTC đã được khắc phục. Về cơ bản, các quy định và các phương pháp xác định giá thị trường của Thông tư 66/2010/TT-BTC đã phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo Thông tư này, có 5 phương pháp xác định giá thị trường là: Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập; Phương pháp giá bán lại; Phương pháp giá vốn cộng lãi; Phương pháp so sánh lợi nhuận; Phương pháp tách lợi nhuận. Ở một cấp độ pháp lý cao hơn, Điểm e Khoản 1 Điều 37 Luật Quản lý thuế quy định cơ quan thuế có quyền ấn định thuế khi người nộp thuế “Mua, bán, trao đổi và hạch toán giá trị hàng hoá, dịch vụ không theo giá trị giao dịch thông thường trên thị trường”. Quy định này không hoàn toàn xử lý vấn đề chuyển giá, song cũng tạo ra căn cứ pháp lý nhất định để xử lý vấn đề chuyển giá. Như vậy, có thể thấy, nỗ lực đầu tiên đáng ghi nhận của các cơ quan quản lý nhà nước thời gian qua là việc đã thiết lập và dần dần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động chống chuyển giá, tạo những cơ sở nhất định cho hoạt động của ngành Thuế trong đấu tranh chống chuyển giá của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI. Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế đã thành lập nhóm thanh tra chống chuyển giá, trong đó có cơ chế hội thảo, trao đổi kinh nghiệm với các nước, tập hợp lực lượng giám sát các Cục Thuế địa phương một cách độc lập. Trong năm 2013 Bộ Tài chính chỉ đạo làm mạnh chống chuyển giá ở những địa phương lớn, rủi ro quản lý thuế cao như Hà Nội, TP.HCM Trên nền tảng pháp lý đó, trong những năm qua, ngành Thuế đã có nhiều cố gắng trong việc đấu tranh chống chuyển giá, mà trọng tâm là chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp FDI. Một trong những biện pháp quan trọng trong thực tiễn chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp FDI là tập trung thanh tra các doanh nghiệp liên tục kê khai lỗ kéo dài mà vẫn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Qua thanh tra bước đầu đã phát
- hiện những doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá để tiến hành đấu tranh đảm bảo xác định lại giá chuyển giao theo quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, ngành Thuế đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm xác định đúng giá trị giao dịch, chẳng hạn như phối hợp với các cơ quan chức năng như công an, tài chính; phối hợp với cơ quan thuế các nước để nắm bắt thông tin về giao dịch kinh tế của các doanh nghiệp Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2010 của Tổng cục Thuế cho biết: “Trong năm 2010 đã thanh tra, kiểm tra thuế tại các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chè tại Lâm Đồng , truy thu 133,4 tỷ đồng, giảm lỗ hơn 1.400 tỷ đồng” . Tất nhiên, không phải toàn bộ số lỗ được xác định giảm và số thuế truy thu đều là kết quả của hoạt động đấu tranh chống chuyển giá, mà một phần là kết quả của việc phát hiện các hành vi trốn thuế khác, song trong đó, đã có những kết quả bước đầu của hoạt động đấu tranh chống chuyển giá. Điển hình là trường hợp các doanh nghiệp FDI sản xuất, kinh doanh chè ở Lâm Đồng. Báo cáo tham luận của Cục thuế Lâm Đồng tại Hội nghị tổng kết công tác thanh tra, kiểm tra thuế năm 2010 cho biết: Theo báo cáo tài chính và quyết toán thuế đã được kiểm toán của 17 doanh nghiệp FDI sản xuất, kinh doanh chế biến chè thì sản lượng chè xuất khẩu năm 2009 là 1.522 tấn, doanh thu là 105 tỷ đồng với giá bán xuất khẩu từ 2,8 – 4 USD/kg chè thành phẩm dẫn đến số lỗ năm 2009 là 63,68 tỷ đồng; số lỗ lũy kế đến 31/12/2009 là 317 tỷ đồng. Trong đó, nhiều đơn vị đã lỗ gần hết số vốn đầu tư hoặc vượt hơn số vốn đầu tư . Bằng việc thực hiện nghiêm túc quy trình nghiệp về kiểm tra thuế tại cơ quan thuế, Cục thuế Lâm Đồng nhận thấy, với giá chè búp tươi là 35.000 đồng/kg và định mức tiêu hao 5 kg chè tươi được 1 kg chè olong thành phẩm thì giá thành nguyên liệu chính là 175.000 đồng/kg. Trong khi đó, giá xuất khẩu quy ra tiền Việt Nam chỉ là 64.580 đồng/kg. Với nhận định về dấu hiệu chuyển giá ở các doanh nghiệp này, cơ quan thuế đã thực hiện hàng loạt các nghiệp vụ thanh tra theo quy định của pháp luật như: khảo sát thực tế; thu thập thông tin (từ các tổ chức cá nhân là đối tác mua hàng, bán hàng; từ nhân viên đã từng làm việc tại các doanh nghiệp này; từ các cơ quan nhà nước có liên quan như Hải quan, Sở Công thương ); tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá và tiến hành kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp Kết quả kiểm tra tại trụ sở các doanh nghiệp FDI này đã đi đến kết luận về hành vi chuyển giá của doanh nghiệp và xác định các doanh nghiệp này có lãi từ năm 2005 hoặc 2006 và phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
- 2.2. Những bất cập trong vấn đề chống chuyển giá Bên cạnh những thành công bước đầu của ngành thuế, trong quá trình thực hiện quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá cũng vẫn còn nhiều tồn tại cần phải giải quyết, cụ thể: Chưa có quy định về cơ chế thoả thuận trước về phương pháp tính giá (APA) nên việc quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá chưa được áp dụng linh hoạt trong một số trường hợp có tính phức tạp và chưa khắc phục được việc tranh chấp về thuế giữa cơ quan thuế và người nộp thuế; Thời hạn cho 1 cuộc thanh tra chuyển giá tại Việt Nam rất ngắn, dẫn tới không đủ thời gian để thực hiện các công việc cần thiết trong quá trình thanh tra; Chưa có quy định chế tài xử lý đủ mạnh đảm bảo tính răn đe đối với những doanh nghiệp có hành vi chuyển giá; Quyền hạn của cơ quan Thuế còn bị giới hạn, do đó khó khăn trong quá trình xử lý các vụ việc cố tình vi phạm chuyển giá; Chưa có chế tài xử lý đủ mạnh đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu làm ăn thua lỗ, nhằm tránh những hậu quả không tốt đối với nền kinh tế. Trong thời gian qua, công tác tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực cũng còn một số tồn tại như: ngành Thuế chưa có bộ phận chuyên trách quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá, việc quản lý thuế trong lĩnh vực này được thực hiện một cách chưa chuyên nghiệp với các chức năng quản lý thuế khác, điều này đã dẫn tới công tác chỉ đạo và triển khai trong toàn Ngành chưa thống nhất, đồng bộ và tập trung, tính chuyên môn hoá trong công tác quản lý chưa cao. Các cục thuế còn gặp khó khăn trong quá trình xử lý các vụ việc; Năng lực quản lý của cơ quan thuế còn hạn chế, mức độ hiểu biết của công chức thuế về chuyển giá còn sơ sài, kiến thức về kinh tế ngành còn hạn chế nên gặp nhiều khó khăn trong phân tích hồ sơ; kinh nghiệm thực tiễn về quản lý còn hạn chế nên công tác quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá chưa thực sự đạt được kết quả cao. Ngoài ra, chưa tổ chức được nhiều hội nghị, hội thảo, tập huấn chuyên sâu về giá chuyển nhượng; Một số cục thuế vẫn chưa thực sự chủ động trong rà soát, đôn đốc và tích cực kiểm soát chất lượng kê khai thông tin giao dịch liên kết của doanh nghiệp và xử phạt theo quy định đối với các trường hợp chậm kê khai; Công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với hoạt động chuyển giá mới chỉ được thực hiện trên phạm vi hẹp. Đến nay, mới chỉ có một số ít cục thuế thực hiện thanh tra về vấn đề chuyển giá.
- Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở dữ liệu còn chưa hoàn thiện, thiếu các thông tin cho công tác phân tích, so sánh trong thanh tra. Để giải quyết thực trạng này, ngành Thuế cần mua thông tin từ các tổ chức, cá nhân quốc tế chuyên cung cấp thông tin để đưa vào Hệ thống cơ sở dữ liệu của ngành làm nền tảng để phân tích, ấn định thuế đối với doanh nghiệp vi phạm. 2.3. Một số đề xuất Trên cơ sở phân tích những bất cập trong hoạt động chống chuyển giá thời gian qua cho thấy, để nâng cao hiệu quả công tác chống chuyển giá, xin đề xuất một số giải pháp cơ bản sau: Một là, Luật Quản lý thuế cần được bổ sung, mạnh tay hơn để quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá. Cụ thể, bổ sung cho phép cơ quan thuế được thực hiện cơ chế APA đối với doanh nghiệp để đảm bảo kiểm soát được hoạt động chuyển giá mà không tốn nguồn lực cho việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp; quy định thời hạn thanh tra đối với hoạt động chuyển giá dài hơn so với thời hạn thanh tra thông thường để phù hợp theo tính chất phức tạp của hoạt động này; bổ sung quyền điều tra cho cơ quan thuế để đảm bảo việc thu thập thông tin và giá trị của các thông tin khi xử lý đối với các doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật về chuyển giá; bổ sung thêm quy định về ngưỡng kê khai thông tin giao dịch liên kết để đơn giản hoá cho doanh nghiệp trong việc kê khai và giảm bớt sức ép về nguồn nhân lực cho cơ quan thuế; xây dựng chế tài xử phạt đủ mạnh đảm bảo tính răn đe đối với các trường hợp cố tình vi phạm để bảo vệ lợi ích của quốc gia và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính Hai là, thu hẹp các ưu đãi thuế. Chênh lệch thuế thu nhập doanh nghiệp giữa các quốc gia, chênh lệch thuế thu nhập doanh nghiệp trong một quốc gia do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác như miễn, giảm thuế là tiền đề để các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá. Hiển nhiên, vì những mục tiêu nhất định, cần phải thực hiện ưu đãi thuế, tuy nhiên cần cân nhắc các cách thức khác để điều tiết các vấn đề kinh tế, chỉ sử dụng ưu đãi thuế trong những trường hợp có lợi, chẳng hạn như trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng Nên hạn chế tối đa các chính sách xã hội trong ưu đãi thuế.
- Ba là, nghiên cứu giao quyền điều tra cho cơ quan thuế. Trước mắt, có thể chỉ giao quyền điều tra cho cơ quan thuế cấp Tổng cục. Về lâu dài, khi lực lượng công chức thuế đã được đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng đòi hỏi của chức năng điều tra thì có thể mở rộng quyền điều tra cho cơ quan thuế cấp tỉnh. Việc giao quyền điều tra không chỉ giúp cơ quan thuế có điều kiện làm tốt hoạt động chống chuyển giá mà còn tạo điều kiện làm tốt hiệu quả quản lý thuế nói chung. Bốn là, thành lập bộ phận tình báo thuế ở Tổng cục Thuế. Đây chính là cơ quan có chức năng chuyên trách thu thập thông tin phục vụ quản lý thuế ở cả trong nước và quốc tế. Tình báo thuế không chỉ cần thiết cho hoạt động chống chuyển giá, mà còn rất hữu ích cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Năm là, hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người nộp thuế. Có hai việc quan trọng cần làm để hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người nộp thuế là: thứ nhất mở rộng nguồn thu thập thông tin bằng các hoạt động nghiệp vụ của các bộ phận chức năng trong cơ quan thuế mà đặc biệt là của bộ phận tình báo thuế (nếu được thành lập); thứ hai, đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính phủ điện tử, đảm bảo sự kết nối và trao đổi thông tin tự động giữa cơ quan thuế và các cơ quan quản lý nhà nước khác như: công an, kiểm sát, địa chính, kế hoạch – đầu tư Tóm lại, để nâng cao hiệu quả hoạt động chống chuyển giá ở Việt Nam trong thời gian tới, cần quan tâm trước tiên đến việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động chống chuyển giá và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong quản lý thuế nói riêng và quản lý nhà nước nói chung.
- LỜI KẾT Có thể thấy rằng, một vài lợi ích của chuyển giá không bù đắp được những thiệt hại kinh tế tài chính to lớn mà chuyển giá gây ra cho nước nhận FDI. Thành công của hoạt động chống chuyển giá chỉ được đảm bảo khi có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ ở tất cả các khâu với hệ thống công cụ cả ở cấp vĩ mô và vi mô. Tất cả chúng ta cần có một cái nhìn đầy đủ hơn về chuyển giá, về phạm vi tác động của giá thị trường được định ra trong các phương pháp xác định giá để từ đó chuyển các giao dịch liên kết về đúng với bản chất tự nhiên của nó là một giao dịch bình đẳng. Ở đây là một sự bình đẳng theo đúng nghĩa thị trường không vì lợi ích cục bộ của riêng một chủ thể nào. Làm được điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của các nước mà tính đến lợi ích của những chủ thể khác nhằm duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong xã hội có nhiều quan hệ đa chiều như hiện nay. Hiện nay, Việt Nam cũng như các quốc gia đang phát triển khác đang kêu gọi đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế trong nước.Điều này dẫn đến việc có rất nhiều công ty trong nước đầu tư ra nước ngoài và ngược lại có rất nhiều công ty nước ngoài đầu tư vào thị trường các nước đang phát triển. Việc các doanh nghiệp này lựa chọn giá chuyển giao dựa trên cơ sở nào là vấn đề đáng quan tâm vì chúng không những ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của các quốc gia. Ở thời điểm này, rất nhiều biện pháp chống chuyển giá cũng như những bài học về chuyển giá trên thế giới đã được đưa ra cho các nước đang phát triển rút kinh nghiệm và học tập. Tuy nhiên các biện pháp tại nước ta cũng như các nước đang phát triển khác chỉ mới chỉ ngăn ngừa được một phần rất nhỏ hành vi chuyển giá vì hầu hết chúng chỉ mới phát hiện hiện tượng này chứ chưa đưa ra quy chế phạt đúng mức. Do đó, nếu chính phủ các nước này muốn ngăn chăn hiện tượng chuyển giá đang vô cùng nhức nhối hiện nay, họ cần thực hiện chặt chẽ hơn nữa các biện pháp trên, đồng thời cũng có những chế tài mới và phù hợp hơn với tình hình kinh tế của từng quốc gia, đặc điểm văn hóa của từng dân tộc.
- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS, TS Trần Ngọc Thơ “Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, Trường Đại Học Kinh Tế Tp.HCM, 2. GS.TS Nguyễn Văn Tiến(2011) Giáo trình Tài chính tiền tệ, NXB Thống kê 3. Phan thị Thành Dương (2006 ), “Chống chuyển giá ở Việt Nam “, Tạp chí KHPL (2), 33. 4. Các thông tư do Bộ Tài chính ban hành: Thông tư 66/2010/TT-BTC, Thông tư 117/2005/TT-BTC và Thông tư 66/2010/TT-BTC 5. OECD Transfer Pricing Guidelines for Multinational Enterprises and Tax Administrations 6. Các trang web trong nước: Tạp chí tài chính Cổng thông tin điện tử bộ tài chính Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài Báo giáo dục Việt Nam noi-gi/2131578875/92/ 7. Các trang web bằng tiếng Anh: VCI legal pricing-alert-vn PWC
- PHỤ LỤC Top 10 doanh nghiệp Tốp 10 doanh nghiệp lớn nhất thế giới 2012 Thứ Doanh nghiệp Doanh Lợi Tổng Giá trị hạ thu nhuận tài sản thị ng (tỷ (tỷ (tỷ trườn USD) USD) USD) g (tỷ USD) 1 Exxon Mobil 433,3 41,1 331,1 407,4 2 JPMorgan Chase 110,8 19 2265,8 170,1 3 General Electric 147,3 14,2 717,2 213,7 4 Royal Dutch Shell 470,2 30,9 340,5 227,6 5 ICBC 82,6 25,1 2039,1 237,4 6 HSBC Holdings 102 16,2 2550 164,3 7 PetroChina 310,1 20,6 304,7 294,7 8 BerkshireHathaway 143,7 10,3 392,6 202,2 9 Wells Fargo 87,6 15,9 1313,9 178,7 10 Petrobras-Petróleo 145,9 20,1 319,4 180 Brasil *Thuế TNDN trung bình thế giới 2000-2011