Luận văn Xử lý nợ xấu tại công ty cho thuê tài chính TNHH MTV Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

pdf 126 trang tranphuong11 28/01/2022 3890
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xử lý nợ xấu tại công ty cho thuê tài chính TNHH MTV Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_xu_ly_no_xau_tai_cong_ty_cho_thue_tai_chinh_tnhh_mt.pdf

Nội dung text: Luận văn Xử lý nợ xấu tại công ty cho thuê tài chính TNHH MTV Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN HẢI XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH TNHH MTV NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN HẢI XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH TNHH MTV NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM Chuyên ngành : Tài chính - ngân hàng Mã số : 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Kim Yến TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của luận văn là do tôi độc lập thực hiện trên cơ sở tham khảo các tài liệu liên quan. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình. HỌC VIÊN NGUYỄN VĂN HẢI
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các hình, biểu đồ LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 1 TỔNG QUAN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1 1.1. Cho thuê tài chính 1 1.1.1. Sự hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê tài chính 1 1.1.2. Định nghĩa cho thuê tài chính 3 1.1.3. Đặc trưng của cho thuê tài chính 3 1.1.4. Các phương thức cho thuê tài chính 5 1.1.5. Các yếu tố cấu thành thị trường cho thuê tài chính 8 1.1.6. Lợi ích và hạn chế của cho thuê tài chính 10 1.1.7. Phân biệt cho thuê tài chính và các hình thức khác 16 1.2. Nợ xấu cho thuê tài chính 20 1.2.1. Khái niệm và phân loại 20 1.2.2. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu 23 1.2.3. Hậu quả của nợ xấu 25 1.3. Công tác xử lý nợ xấu tại các Công ty Cho thuê tài chính 25 1.3.1. Mục đích xử lý nợ xấu 25 1.3.2. Các giải pháp xử lý nợ xấu nói chung 25 1.3.3. Các giải pháp xử lý nợ xấu tại Công ty Cho thuê tài chính 30
  5. CHƯƠNG 2 34 THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ CÔNG TÁC XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN – NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 34 2.1. Giới thiệu chung về BLC 34 2.1.1. Tóm tắt quá trình hình thành và phát triển 34 2.1.2. Hoạt động 35 2.1.3. Cơ cấu tổ chức 37 2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh 38 2.1.5. Tình hình nguồn vốn 41 2.2. Thực trạng nợ xấu và công tác xử lý nợ xấu tại BLC 42 2.2.1. Thực trạng nợ xấu tại BLC 42 2.2.2. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề nợ xấu tại BLC 50 2.2.3. Các giải pháp xử lý nợ xấu BLC đã thực hiện 57 2.2.4. Kết quả xử lý nợ xấu qua các năm 59 2.3. Đánh giá về công tác xử lý nợ xấu tại BLC 60 2.3.1. Những mặt đạt được 60 2.3.2. Những mặt còn tồn tại 62 2.3.3. Nguyên nhân những tồn tại 63 CHƯƠNG 3 66 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN – NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 66 3.1. Định hướng phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại BLC 66 3.1.1. Đa dạng hóa hoạt động và sản phẩm cho thuê tài chính 66 3.1.2. Đa dạng hóa nguồn huy động vốn 68 3.1.3. Chuyển đổi hình thức sở hữu thành Công ty cổ phần 68
  6. 3.1.4. Cải thiện chất lượng dịch vụ cho thuê tài chính 69 3.1.5. Xây dựng chiến lược khách hàng 69 3.1.6. Thiết lập chủng loại tài sản cho thuê thích hợp 70 3.1.7. Tận thu nợ ngoại bảng 71 3.2. Các giải pháp hoàn thiện công tác xử lý nợ xấu tại BLC 71 3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện công tác xử lý nợ xấu 71 3.2.2. Nhóm giải pháp ngăn ngừa nợ xấu phát sinh 75 3.3. Một số đề xuất, kiến nghị 86 3.3.1. Đề xuất với nội bộ BLC 86 3.3.2. Đề xuất với cơ quan chủ quản BIDV 87 3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước 88 3.3.4. Kiến nghị với Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam 89 3.3.5. Kiến nghị với Bộ Tài chính 90 3.3.6. Kiến nghị với Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công An, Bộ Tư pháp 90 3.3.7. Kiến nghị với Chính phủ 91 KẾT LUẬN CHUNG 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Phụ lục 1: Danh sách công ty cho thuê tài chính Phụ lục 2: Quy trình xử lý nợ xấu
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLC Công ty Cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam CTTC Cho thuê tài chính DPRR Dự phòng rủi ro HĐTV Hội đồng thành viên MTV Một thành viên NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại RRTD Rủi ro tín dụng TCTD Tổ chức tín dụng TMCP Thương mại cổ phần TNHH Trách nhiệm hữu hạn XLNX Xử lý nợ xấu
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 1.1 : Phân biệt CTTC và cho thuê vận hành 17 Bảng 1.2 : Phân biệt CTTC và tín dụng ngân hàng 19 Bảng 1.3 : Phân biệt CTTC và mua trả góp 20 Bảng 2.1 : Kết quả kinh doanh 2009-2012 40 Bảng 2.2 : Tình hình nguồn vốn 2009-2012 42 Bảng 2.3 : Chất lượng dư nợ CTTC 42 Cơ cấu nợ xấu theo loại tài sản Bảng 2.4 : 44 đến cuối tháng 12/2012 Cơ cấu nợ xấu theo thành phần kinh tế Bảng 2.5 : 46 đến cuối tháng 12/2012 Cơ cấu nợ xấu theo ngành nghề Bảng 2.6 : 47 đến cuối tháng 12/2012 Cơ cấu nợ xấu theo khu vực địa lý Bảng 2.7 : 48 đến cuối tháng 12/2012 KQKD năm 2012 của các Công ty CTTC Bảng 2.8 : 49 hội viên Hiệp hội CTTC Bảng 2.9: Tình hình XLNX qua các năm 59
  9. DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ Trang Hình 1.1 : Quy trình CTTC ba bên 5 Hình 1.2 : Quy trình CTTC hai bên 6 Hình 2.1 : Mô hình tổ chức BLC 38 Biểu đồ 2.1 : Tình hình biến đông dư nợ, nợ xấu 43 Cơ cấu nợ xấu theo loại tài sản Biểu đồ 2.2 : 45 đến cuối tháng 12/2012 Cơ cấu nợ xấu theo thành phần kinh tế Biểu đồ 2.3 : 46 đến cuối tháng 12/2012 Cơ cấu nợ xấu theo ngành nghề Biểu đồ 2.4 : 47 đến cuối tháng 12/2012 Cơ cấu nợ xấu theo khu vực địa lý Biểu đồ 2.5 : 48 đến cuối tháng 12/2012
  10. LỜI MỞ ĐẦU GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với xu thế hội nhập mạnh mẽ kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, thể hiện rõ nét ở sự tăng trưởng nhanh về mạng lưới, quy mô hoạt động của các TCTD. Hoạt động CTTC cũng đã có những phát triển đáng kể từ khi chính thức xuất hiện năm 1996, với việc thành lập Công ty CTTC đầu tiên là Công ty Cho Thuê Tài Chính Quốc Tế (VILC), sau đó là hàng loạt các công ty CTTC của các NHTM. Hoạt động CTTC đã đem lại những lợi ích nhất định, là một giải pháp cho cơn khát vốn gay gắt của các doanh nghiệp mới thành lập, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp đang ở trong giai đoạn tái cấu trúc, cơ cấu lại dây chuyền sản xuất, đổi mới máy móc thiết bị nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, mà không có lịch sử tín dụng lâu dài hoặc khả năng đáp ứng yêu cầu về tài sản đảm bảo. Sau giai đoạn phát triển nhanh trong thời gian ngắn, một số TCTD bắt đầu bộc lộ yếu kém, bất cập, tỷ lệ nợ xấu tăng cao đột biến. Theo công bố của NHNN, số nợ xấu toàn hệ thống năm 2012 ước khoảng 8,6%; vượt xa so với tiêu chuẩn an toàn. Tình hình nghiêm trọng tới mức, Chính phủ phải thành lập Công ty Quản lý và khai thác tài sản Việt Nam (VAMC) để hỗ trợ xử lý nợ xấu, tránh đổ vỡ toàn hệ thống. Trong đó, tỷ lệ nợ xấu của các công ty CTTC cao hơn trung bình, lên đến 40- 50%. Một số công ty CTTC gần như ngừng hoạt động như Công ty cho thuê tài chính ANZ/V-TRAC, Công ty cho thuê tài chính Kexim. Nhiều công ty CTTC khác cũng rơi vào tình trạng thua lỗ hoặc nợ xấu cao, như Công ty Cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (ALC1), Công ty TNHH MTV Cho thuê tài chính Công nghiệp Tàu thủy (Vinashin Leasing), Công ty Cho thuê tài chính TNHH MTV – Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (sau đây viết tắt là BLC) Đặc biệt đáng chú ý là trường hợp của Công ty Cho thuê tài chính II – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (ALC II)
  11. kinh doanh lỗ 3.000 tỉ đồng (gấp 8,5 lần vốn điều lệ) và có thể chịu một số lỗ tiềm ẩn do khoản đầu tư tài sản cho thuê lên đến gần 4.600 tỉ đồng bị quá hạn, phải gia hạn nhiều lần, trong đó Kiểm toán Nhà nước tạm nêu ra số lỗ tiểm ẩn khoảng 1.266 tỉ đồng Những điều đó đã chỉ ra một thực tế cần thừa nhận là tình hình nợ xấu tại các TCTD nói chung và các công ty CTTC nói riêng vẫn còn chưa được đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và đúng thực chất. Đặc biệt là công tác kiểm soát, ngăn ngừa, và xử lý các khoản nợ xấu nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững vẫn còn là thách thức đang đặt ra cho các TCTD tại Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ thực trạng đó, cũng như qua những trải nghiệm thực tế sau một thời gian công tác của học viên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Xử lý nợ xấu tại Công ty Cho thuê tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên – Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam” như một đóng góp vào công tác giải quyết XLNX đang đặt ra cho BLC nói riêng, cũng như các Công ty CTTC và các TCTD nói chung. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nợ xấu, biện pháp XLNX trong hoạt động tín dụng của các TCTD nói chung, các Công ty CTTC nói riêng. Phân tích, đánh giá thực trạng nợ xấu, biện pháp XLNX tại BLC. Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác XLNX nhằm đạt mục tiêu cải thiện hoạt động kinh doanh, tăng năng lực tài chính của BLC. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động CTTC tại BLC, được giới hạn trong phạm vi các vấn đề liên quan đến nợ xấu để từ đó tìm ra được những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát nợ xấu, giảm dần và đạt mức phù hợp, an toàn cho hoạt động của BLC. Các số liệu sử dụng trong luận văn là những số liệu thực tế được thu thập, thống kê, phân tích tại BLC trong giai đoạn từ 2009 đến 2012.
  12. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, học viên đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phân tích định tính, tổng hợp, so sánh để đánh giá thực trạng; kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, tư duy logic để đưa ra các giải pháp mang tính khoa học, hợp lý và khả thi. 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Mặc dù cùng một mục tiêu chung là phát triển hoạt động CTTC tại Việt Nam, nhưng khác với các đề tài nghiên cứu trước đây hầu hết tập trung vào nghiên cứu nâng cao hiệu quả hoạt động CTTC, luận văn này chỉ tập trung đi sâu về vấn đề nợ xấu trong hoạt động CTTC, cũng như các đặc điểm giống và khác nhau trong công tác XLNX giữa các Công ty CTTC với các TCTD khác, kết hợp với việc đánh giá thực trạng nợ xấu tại BLC, để đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ XLNX, hạ thấp dần nợ xấu hiện tại, ngăn ngừa phát sinh nợ xấu trong tương lai, hướng đến mục tiêu cao nhất là xây dựng BLC phát triển bền vững và ổn định. Bên cạnh đó, điểm nhấn quan trọng của luận văn là hệ thống các giải pháp, đề xuất, kiến nghị đồng bộ nhằm ngăn ngừa và hạn chế nợ xấu ngay từ ban đầu. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài gồm ba chương:  Chương I: Tổng quan về xử lý nợ xấu tại các Công ty Cho thuê tài chính.  Chương II: Thực trạng nợ xấu và công tác xử lý nợ xấu tại Công ty Cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên - Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam.  Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác xử lý nợ xấu tại Công ty Cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên - Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
  13. 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1.1. Cho thuê tài chính 1.1.1. Sự hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê tài chính Theo Aristole (năm 384-322 trước công nguyên), ý nghĩa của từ “tài sản” nói chung là vấn đề sử dụng nó, chứ không phải vấn đề sở hữu nó. Chính việc sử dụng tài sản mới tạo ra của cải. Do đó, từ rất xa xưa, các giao dịch thuê tài sản đã bắt đầu xuất hiện và trở nên phổ biến để phục vụ hoạt động sản xuất, phục vụ nhu cầu con người. Người cho thuê là các thầy tu nắm giữ tư liệu sản xuất và người đi thuê là những người nông dân tự do, thợ thủ công, người làm nghề tự do khác. Tài sản được đem giao dịch bao gồm: các công cụ sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa, ruộng đất và nhiều tài sản khác nữa Đến thế kỷ thứ XX, với những bước tiến nhảy vọt của khoa học kỹ thuật, nền kinh tế hàng hóa đã tạo ra rất nhiều sản phẩm đa dạng, hoạt động cho thuê tài sản truyền thống đã không thỏa mãn được một số đòi hỏi, yêu cầu mới của các chủ thể tham gia giao dịch. Từ đó, CTTC đã ra đời bên cạnh hình thức cho thuê tài sản truyền thống. Khởi xướng và sáng tạo ra hình thức CTTC là Công ty CTTC Hoa Kỳ (United States Leasing Corporation) do Henry Shoeld sáng lập vào tháng 05/1952 để phục vụ cho ngành công nghiệp vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt. Chính Công ty này đã làm cho hoạt động cho thuê tài sản có sự phát triển và thay đổi về chất bằng việc cho ra đời một hình thức cho thuê tài sản mới gọi là CTTC (finance leases), hay còn gọi là cho thuê vốn (capital leases). Hình thức cho thuê này không còn mang tính chất của giao dịch cho thuê tài sản thông thường nữa mà đã mang tính chất của một hoạt động tín dụng. Sau đó, hình thức CTTC lan sang Châu Âu, được ghi vào luật thuê mua của
  14. 2 Pháp năm 1960 với tên gọi “Credit Bail”. Tại Châu Á, Nhật Bản là quốc gia có ngành kinh doanh cho thuê ra đời sớm nhất. Công ty cho thuê đầu tiên của Nhật được thành lập vào năm 1963, đó là Công ty cho thuê Orient (Orient Leasing Corporation). Đầu những năm 70, hoạt động CTTC cũng bắt đầu xuất hiện ở Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia. Đến cuối những năm 70 đầu 80, hoạt động CTTC đã phát triển hầu hết ở các nước Châu Á và Châu Phi. So với các nước Châu Á khác, hoạt độngCTTCthâm nhập vào Việt Nam có phần muộn hơn. CTTC là hình thức cấp tín dụng được pháp luật lần đầu tiên ghi nhận tại Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 với tên gọi là hoạt động thuê mua tài chính. Ngày 27/05/1995, Thống đốc NHNN ra Quyết định số 149/QĐ-NH5về ban hành thể lệ tín dụng thuê mua. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng được thành lập công ty trực thuộc hoặc văn phòng Tín dụng thuê mua để quản lý và giám sát hoạt động tín dụng thuê mua. Tiếp theo đó, ngày 09/10/1995, Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP về Qui chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC tại Việt Nam. Nghị định này đã là cơ sở hướng dẫn và là quyết định cho hàng loạt các Công ty CTTC ra đời. Sau khi Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2010) được ban hành, hoạt động CTTC ngày càng được điều chỉnh một cách chi tiết và hệ thống. Mặc dù hoạt động CTTC cũng đã manh nha ở các ngân hàng thương mại và công ty CTTC đầu tiên chính thức được thành lập ở Việt Nam là vào năm 1996 (Công ty Cho Thuê Tài Chính Quốc Tế VILC, là liên doanh giữa Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Công ty Tài chính Quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương Pháp, Công ty cho thuê công nghiệp Hàn Quốc, Ngân hàng Tín dụng Nhật Bản), nhưng mãi đến khi Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 của Chính Phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTCđược ban hành để cụ thể hoá Luật các TCTDthì hoạt động CTTC ở Việt Nam mới thực sự được hình thành. Mới đây nhất, chính phủ đã ban hành Nghị định số65/2005/NĐ-CP ngày
  15. 3 19/05/2005, số 95/2008/NĐ-CP ngày 25/08/2008 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật này đã tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho hoạt động CTTC ở Việt Nam. Hiện nay, ở Việt Nam có 12 công ty CTTC đang hoạt động (Xem phụ lục 1). Hiệp hội CTTC Việt Nam (một tổ chức phi chính phủ được các công ty CTTC tự nguyện tham gia) được thành lập năm 2007, đến nay có 8 thành viên. Hiệp hội CTTC Việt Nam đã cùng với các công ty CTTC đánh giá tổng kết hoạt động thực tiễn, đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, NHNN những vấn đề để hoàn thiện các cơ chế, tạo điều kiện cho các công ty CTTC hoạt động tốt hơn. Lượng vốn cấp theo hình thức CTTC chiếm tỷ lệ khá nhỏ so với hình thức cấp vốn của ngân hàng, chỉ 3-4% tổng dư nợ. Trong khi đó, ớv i lợi thế của mình, đáng lẽ loại hình CTTC phải được phát triển mạnh ở Việt Nam, nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 95% và cần một lượng vốn lớn cho đầu tư, mở rộng. Dù vậy, cũng phải nhìn nhận hoạt động CTTC đã phần nào giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống NHTM trong việc cung ứng vốn, đặc biệt nguồn vốn trung và dài hạn. 1.1.2. Định nghĩa cho thuê tài chính Tại Việt Nam, định nghĩa chi tiết và đầy đủ về CTTC tại Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP như sau: “CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận”. 1.1.3. Đặc trưng của cho thuê tài chính Thứ nhất, CTTC là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể. Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó, TCTD chuyển giao một khoản tiền, trong hình thức cấp tín dụng CTTC, bên cho thuê tiến hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng (bên thuê) một tài sản cụ thể (máy móc, dây
  16. 4 chuyền sản xuất, phương tiện vận tải hoặc động sản khác) để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo thỏa thuận. Tính chất thanh toán trọn vẹn của giao dịch CTTC cho thấy bản chất tín dụng của hoạt động này. Cũng tương tự như pháp luật một số quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam ghi nhận CTTC là hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, nhằm phù hợp với đặc điểm của đối tượng cho thuê là những động sản có giá trị, thời gian cần thiết để khấu hao thường từ một năm trở lên. Thứ hai, CTTC là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng của chủ sở hữu (bên cho thuê) được chuyển giao cho bên thuê. Khác với các hình thức thuê tài sản thông thường theo quy định của pháp luật dân sự, trong hoạt động CTTC bên cho thuê thường chỉ giữ quyền sở hữu “danh nghĩa” đối với tài sản cho thuê (quyền này cho phép bên cho thuê có thể thu hồi tài sản cho thuê nếu bên thuê vi phạm hợp đồng), còn những quyền năng cụ thể đối với tài sản cho thuê được chuyển giao hầu như hoàn toàn cho bên thuê. Điều này được lý giải bởi bản chất tín dụng của hoạt động CTTC: Bên cho thuê chỉ quan tâm đến khả năng thu hồi cả gốc và lãi của khoản tín dụng, còn việc sử dụng khoản tín dụng được cấp là quyền của bên nhận tín dụng (bên thuê). Cụ thể hoá những đặc trưng của nghiệp vụ CTTC, quy định pháp luật Việt Nam hiện hành ghi nhận CTTC phải có một trong những điều kiện sau đây: Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên; Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại; Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê; Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại Hợp đồng CTTC, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
  17. 5 1.1.4. Các phương thức cho thuê tài chính 1.1.4.1. Phương thức cho thuê tài chính cơ bản 1.1.4.1.1. Cho thuê tài chính ba bên Phương thức tài trợ ba bên là phương thức CTTC phổ biến nhất, được áp dụng nhiều nhất để tài trợ cho các doanh nghiệp, đặc biệt là CTTC đối với máy móc thiết bị. Trên thế giới, 80% hợp đồng CTTC áp dụng theo phương thức này. Hình 1.1: Quy trình CTTC ba bên Nguồn: Tác giả đề tài 1-Bên thuê (bên B) có nhu cầu trang bị tài sản để phục vụ chiến lược kinh doanh, gửi đơn, hồ sơ xin thuê và các đề nghị tài trợ đối với tài sản đã được thỏa thuận với nhà cung cấp (bên C) đến bên cho thuê (bên A) để xin được tài trợ. 2- Bên A tiến hành thẩm định, đàm phán và quyết định ký kết hợp đồng cho thuê tài chính với bên B. 3- Bên A xem xét và ký hợp đồng mua tài sản với bên C. 4- Bên A trả tiền mua tài sản cho bên C theo hợp đồng mua tài sản đã ký kết. Thời điểm bên A trả tiền mua tài sản cho bên C, là thời điểm nhận nợ của bên B. 5- Nhà cung cấp chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên A. 6- Bên C giao tài sản cho bên B tại địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng
  18. 6 thuê tài chính. Việc giao nhận có sự chứng kiển của 3 bên (bên cho thuê, bên thuê và nhà cung cấp). 7- Bên A chuyển quyền sử dụng tài sản cho bên B. 8- Bên B sẽ thanh toán tiền thuê tài chính cho bên A theo hợp đồng thuê tài chính đã kýế k t. 9- Bên C sẽ thực hiện bảo trì và thay thế các linh kiện thiết bị cho tài sản. 10- Các chi phí trong quá trình bảo trì, thay thế thiết bị sẽ do bên B thanh toán. 1.4.1.1.2. Cho thuê tài chính hai bên Bên cho thuê sử dụng tài sản sẵn có của mình để thực hiện nghiệp vụ CTTC. Các định chế tài chính rất ít sử dụng phương thức tài trợnày, trừ trường hợp đối với tài sản đã cho thuê thu hồi về không đem phát mại, mà thường do các công ty kinh doanh bất động sản và các công ty sản xuất máy móc thiết bị thực hiện để đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm của họ. (2) (1) BÊN CHO THUÊ BÊN CHO THUÊ (3) Hình 1.2: Quy trình CTTC hai bên Nguồn: Tác giả đề tài (1) Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng CTTC (2) Bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê sử dụng (3) Theo định kỳ bên thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê 1.1.4.2. Phương thức cho thuê tài chính đặc biệt Từ hai phương thức CTTC cơ bản, CTTC còn có một số phương thức đặc biệt như sau: 1.1.4.2.1.Bán và thuê lại Bán và thuê lại (hoặc mua và cho thuê lại) là một phương thức đặc biệt của CTTC có sự tham gia của hai bên là bên cho thuê và bên thuê, trong đó bên thuê
  19. 7 cũng đồng thời là bên cung cấp. Phương thức này áp dụng trong hai trường hợp chủ yếu như sau: Một là khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh nhưng không thể đi vay được tại các ngân hàng. Trong trường hợp đó, họ có thể bán lại một phần tài sản cố định nào đó cho công ty CTTC và ký hợp đồng thuê tài chính lại chính tài sản đó. Và như vậy, tiền bán tài sản nhận được từ công ty CTTC doanh nghiệp có thể sử dụng để bổ sung vốn lưu động, đồng thời doanh nghiệp vẫn duy trì năng lực sản xuất hiện có. Hai là khi Bên cho thuê áp dụng như một biện pháp để xử lý nợ quá hạn. 1.1.4.2.2. Cho thuê tài chính hợp vốn và Cho thuê tài chính hợp tác (i) Cho thuê tài chính hợp vốn CTTC hợp vốn là phương thức CTTC trong đó có từ hai bên cho thuê trở lên cùng tham gia trong một giao dịch CTTC. Trong số các bên cho thuê sẽ có một bên cho thuê đứng ra làm đầu mối trong mọi giao dịch. Quyền lợi và rủi ro của từng bên cho thuê tham gia trong giao dịch CTTC hợp vốn được phân chia tương ứng với tỷ lệ vốn tham gia. (ii) Cho thuê tài chính hợp tác Đây cũng là một hình thức CTTC khá phổ biến, đặc biệt ở các thị trường phát triển. Trong hình thức này có sự tham gia của 3 bên: bên đi thuê, công ty CTTC và Bên cho vay (Ngân hàng, các định chế tài chính). Ở đây, nghĩa vụ của doanh nghiệp đi thuê không có gì thay đổi, chỉ khác là công ty CTTC đã sử dụng hợp đồng cho thuê để thế chấp cho Bên cho vay nhằm đảm bảo cho một khoản vay nào đó. Cả hai phương thức CTTC hợp vốn và CTTC hợp tác thường được áp dụng trong trường hợp tài sản cho thuê có giá trị lớn mà một công ty CTTC không đủ khả năng về vốn để cho thuê, hoặc không được cho thuê vượt hạn mức (Ở Việt Nam, tổng dư nợ CTTC của một công ty CTTC đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có và đối với một nhóm khách hàng liên quan không được vượt quá 50%, điều 128 Luật các TCTD) hoặc không muốn chấp nhận rủi ro vì tập trung lượng vốn quá lớn vào một khách hàng.
  20. 8 1.1.4.2.3. Cho thuê tài chính giáp lưng Là hình thức CTTC mà bên đi thuê thứ 1 cho bên đi thuê thứ 2 thuê lại tài sản mà bên thuê thứ 1 đã đi thuê tài chính, thông qua sự đồng ý của bên cho thuê bằng văn bản. Hình thức này giúp bên đi thuê tận dụng được khoảng thời gian nhàn rổi của máy móc, thiết bị trong quá trình hoạt động, kinh doanh của mình để cho thuê lại tài sản nhằm tận dụng tối đa công suất sử dụng của máy móc, thiết bị để làm giảm chi phí thuê tài chính. Hoặc trong nhiều trường hợp, người có nhu cầu sử dụng tài sản thực sự muốn đi thuê nhưng không thể giao dịch trực tiếp với các công ty CTTC vì nhiều lý do khác nhau, thì có thể sử dụng phương thức cho thuê giáp lưng. Về thực chất, bên thuê thứ nhất chỉ là bên trung gian giữa bên cho thuê và bên thuê thứ hai và chịu trách nhiệm liên đới về nghĩa vụ nợ của bên thuê thứ hai đối với bên cho thuê. 1.1.5. Các yếu tố cấu thành thị trường cho thuê tài chính 1.1.5.1. Các chủ thể tham gia thị trường Một giao dịch CTTC thông thường có các chủ thể sau tham gia: Bên cho thuê, bên thuê, nhà cung cấp. 1.1.5.1.1. Bên cho thuê (Leasor) Là nhà tài trợ vốn cho bên thuê, là chủ sở hữu tài sản trong một giao dịch CTTC. Bên cho thuê có trách nhiệm thực hiện các thủ tục mua tài sản, thanh toán toàn bộ giá trị của tài sản thuê và chuyển giao tài sản cho bên thuê theo đúng các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng CTTC. Đồng thời, bên cho thuê thông thường cũng là người thực hiện các thủ tục mua bảo hiểm và tiến hành các thủ tục liên quan đến quy định của Pháp luật (như đăng ký Giao dịch đảm bảo). Trên các thị trường phát triển, bên cho thuê có thể là các định chế tài chính, các nhà sản xuất máy móc thiết bị Có thể phân chia ra bốn loại hình công ty CTTC cơ bản sau: NHTM và các công ty liên kết với NHTM: Theo luật, các NHTM được thực hiện nghiệp vụ CTTC.
  21. 9 Công ty CTTC độc lập: hoạt động độc lập với nhà cung ứng. Đa phần hợp đồng CTTC nào đều diễn ra dưới dạng thuê tài chính 3 bên. Công ty thuê mua phụ thuộc: do các nhà cung cấp lập ra để tài trợ cho sản phẩm của họ. Ở những giao dịch này chỉ có 2 bên tham gia. Ta có thể xem đây là một phương thức xúc tiến bán hàng thông qua việc cung cấp cho khách hàng một hình thức tài trợ đặc biệt. Công ty thuê mua môi giới: Công ty thuê mua môi giới không sở hữu tài sản trong giao dịch thuê tài chính mà chỉ giới hạn trong việc kết nối các chủ thể của một giao dịch cho thuê tài chính lại với nhau. Riêng đối với Việt Nam, theo quy định “Luật các tổ chức tín dụng”, chỉ những công ty CTTC mới được thực hiện hoạt động CTTC. Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, sửa đổi bởi nghị định số 95/2008/NĐ-CP: “Công ty CTTC là một TCTD phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam. Công ty CTTCđược thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau: Công ty CTTC TNHH hai thành viên trở lên, Công ty CTTC TNHH một thành viên, Công ty CTTC cổ phần”. Như vậy, tại Việt Nam, các công ty con trực thuộc nhà sản xuất không phải công ty CTTC thì không được phép thực hiện nghiệp vụ này. 1.1.5.1.2. Bên thuê (Leasee) Bên thuê là các tổ chức, các nhân có năng lực pháp lý, dân sự và kinh tế. Theo quy định tại điều 7, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP thì:“Bên thuê là các tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài sản thuê cho mục đích hoạt động của mình”. Chịu sự quản lý của Luật các TCTD, do đó bên thuê tài chính cũng sẽ bị hạn chế khi rơi vào các trường hợp chủ thể muốn sử dụng dịch vụ CTTC là các đối tượng thuộc điều 126, điều 127 của Luật các TCTD năm 2010. 1.1.5.1.3. Nhà cung cấp (Supplier) Nhà cung cấp có vai trò cung ứng thiết bị, tài sản theo Hợp đồng mua bán đã ký với bên cho thuê (hoặc trong một số trường hợp là Hợp đồng mua bán ba bên). Nhận tiền thanh toán từ bên cho thuê, chuyển giao tài sản và có thể nhận thực hiện
  22. 10 các dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng tài sản cho bên thuê. Nhà cung cấp có thể chính là các đơn vị trực tiếp sản xuất ra thiết bị, tài sản hoặc là các trung gian thương mại thực hiện việc bán các tài sản này. Trong trường hợp bán và thuê lại thì nhà cung cấp tài sản cũng chính là bên thuê. Như vậy, trong trường hợp này, một giao dịch CTTC sẽ chỉ bao gồm hai chủ thể: (1): Bên thuê đồng thời là nhà cung cấp và (2): Bên cho thuê. 1.1.5.2. Hàng hóa trên thị trường cho thuê tài chính Tại phần lớn các nước, hàng hóa CTTC là tất cả các loại động sản và bất động sản phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng đều có thể tham gia trên thị trường CTTC. Trong đó phổ biến nhất có thể kể đến các nhóm hàng hóa sau: Nhóm hàng hóa là phương tiện vận tải: xe ôtô, gắn máy, đầu kéo, rơmooc, xe đông lạnh, xe bồn ; Nhóm hàng hóa là phương tiện phục vụ khai thác: khai thác cảng biển như xe nâng hạ container, Forkfift, cần cẩu, container, ; Khai thác tài nguyên khoáng sản tại các công trường như: xe cẩu, xe đào, xe xúc, xe lu ; Các loại máy móc, dây chuyền công nghệ, thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh trong các ngành dịch vụ và sản xuất ; Nhóm hàng hóa là thiết bị văn phòng: máy fax, máy in, máy vi tính ; Nhóm hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày: tivi, tủ lạnh và các phương tiện sinh hoạt gia đình khác ; Nhóm hàng hóa bất động sản: đất đai, nhà cửa, nhà xưởng, văn phòng ; Tuy nhiên, tùy quy định của từng quốc gia khác nhau mà các loại hàng hóa trên thị trường CTTC của các quốc gia khác nhau có thể khác nhau. Hiện tại, trên thị trường CTTC Việt Nam, bất động sản không được xem là hàng hóa trên thị trường CTTC và do đó, các Công ty CTTC không được phép thực hiện CTTC đối với các tài sản là bất động sản. Ngoài ra, tỷ lệ cho thuê nhóm hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày và thiết bị văn phòng rất ít, thậm chí không có. Như vậy, so với các quốc gia khác, chủng loại hàng hóa trên thị trường CTTC của Việt Nam có phạm vi nhỏ hơn.
  23. 11 1.1.6. Lợi ích và hạn chế của cho thuê tài chính 1.1.6.1. Lợi ích của cho thuê tài chính 1.1.6.1.1. Đối với bên đi thuê (i) Không cần tài sản đảm bảo Thường thì Bên đi thuê dễ dàng tiếp cận nguồn tài trợ từ cho thuê tài chính màkhông cần phải có tài sản đảm bảo hoặc sự bảo lãnh của bên thứ 3. Điều này xuất phát từ việc công ty CTTC nắm quyền sở hữu tài sản trong suốt thời gian cho thuê, trong trường hợp xảy ra rủi ro, công ty CTTC có thể thu hồi tài sản ngay lập tức. Nói cách khác, tài sản CTTC có vai trò như là tài sản đảm bảo trong giao dịch CTTC. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, công ty CTTC có quyền yêu cầu bên thuê đặt tiền ký cược hoặc có người bảo lãnh thực hiện hợp đồng CTTC nếu thấy cần thiết. Như vậy, việc các doanh nghiệp có thể thuê tài chính mà không cần có tài sản đảm bảo thực sự là một lợi thế của CTTC. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp mới thành lập, không đủ tài sản đảm bảo và cũng chưa có ựs tín nhiệm của ngân hàng. Việc không đòi hỏi tài sản đảm bảo còn giúp thủ tục CTTC được thực hiện nhanh chóng, đơn giản. (ii) Tỷ lệ tài trợ cao Bên cạnh việc cho vay không cần tài sản đảm bảo thì tỷ lệ tài trợ cao là một lợi thế cơ bản nhất của nghiệp vụ CTTC. Trong một giao dịch tài trợ tín dụng thông thường đối với máy móc thiết bị, mức độ tài trợ của các NHTM thông thường chỉ dừng lại ở 60-70%/ giá trị máy móc thiết bị. Riêng CTTC, mức độ tài trợ luôn cao hơn, thậm chí đối với một số dự án tốt, tỷ lệ tài trợ có thể lên đến 95%. Như vậy, sử dụng CTTC, cơ hội để đưa dự án vào thực hiện của doanh nghiệp sẽ cao hơn. Trong thực tế, việc quyết định tỷ lệ tài trợ ở mức độ nào cho một dự án sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên, đặc trưng của nghiệp vụ CTTC là tính chất sở hữu thuộc về bên cho vay, do đó công ty CTTC luôn mạnh dạn hơn trong việc quyết định tỷ lệ tài trợ. Vì vậy, ưu thế này thường được các Công ty CTTC sử dụng
  24. 12 trong các biểu mẫu, tờ rơi quảng cáo cho nghiệp vụ của mình. (iii) Giúp doanh nghiệp thực hiện việc tái cơ cấu lại nguồn vốn và bổ sung vốn lưu động (trong trường hợp mua và cho thuê lại tài sản) Với phương thức mua và cho thuê lại (hoặc bán và thuê lại), CTTC đem lại cho doanh nghiệp một giải pháp hết sức hiệu quả trong việc giải quyết nhu cầu vốn lưu động trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Về thực chất, với việc thực hiện bán và thuê lại, doanh nghiệp chỉ tạm thời chuyển quyền sở hữu tài sản sang cho công ty CTTC mà vẫn giữ được quyền sử dụng tài sản. (iv) Cho thuê tài chính giúp các doanh nghiệp sử dụng linh hoạt đồng vốn hơn thay vì mua tài sản cố định Thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp tiếp cận được với rất nhiều loại thiết bị, từ những thiết bị văn phòng đơn giản như máy photocopy, máy tính, xe tải, xe ô tô cho tới các dây chuyền sản xuất hiện đại. Mặc dù thuê tài chính không trực tiếp chuyển vốn cho doanh nghiệp, tuy nhiên hình thức này hoàn toàn có thể giúp doanh nghiệp giảm bớt lượng tiền cần để khởi sự hoặc mở rộng kinh doanh. Hơn nữa, do không phải bỏ ngay ra một khoản tiền để lớn để mua tài sản nên doanh nghiệp không bị đọng vốn, có thể sử dụng số tiền đó để phục vụ cho những hoạt động khác nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. (v) Đội ngũ nhân viên tư vấn về tài sản, công nghệ và mối quan hệ tốt giữa công ty Cho thuê tài chính với các nhà cung cấp Để thực hiện nghiệp vụ CTTC cũng như góp phần gia tăng lợi thế cạnh tranh, các công ty CTTC thường phát triển một đội ngũ chuyên viên chuyên làm nhiệm vụ tư vấn về tài sản, công nghệ. Đây là một lợi thế rất lớn trong điều kiện khách hàng ngày càng quan tâm nhiều đến chất lượng dịch vụ. Do trực tiếp mua tài sản nên công ty CTTC thường có một kho dữ liệu lớn về các loại tài sản thuê và các nhà cung cấp. Hơn nữa, giữa công ty CTTC và nhà cung cấp luôn có mối quan hệ hợp tác khá chặt chẽ. Do vậy, khi sử dụng dịch vụ thuê tài chính, khách hàng thường có được thông tin chính xác và đa dạng về tài sản từ công ty CTTC, nhờ đó tiết kiệm nhiều thời gian và chi phí
  25. 13 trong quá trình tìm kiếm, lựa chọn tài sản. Hơn thế nữa, thông qua công ty CTTC, các chế độ giảm giá, khuyến mãi, thanh toán sẽ được nhà cung cấp ưu đãi hơn. Vì vậy đem lại những lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp. (vi) Cho thuê tài chính giúp doanh nghiệp hiện đại hóa sản xuất, bắt kịp tôc độ phát triển của khoa học công nghệ, qua đó nâng cao năng lực sản xuất Để tăng cường khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn phải chú ý đến việc đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất nhằm tăng năng suất hoạt động, tạo ra những sản phẩm tiên tiến, hạ giá thành sản phẩm. CTTC là một kênh đáp ứng nhu cầu đó của khách hàng. Lợi ích này đặc biệt quan trọng nếu ngành kinh doanh của doanh nghiệp phải dựa nhiều vào các công nghệ tân tiến như thế hệ máy tính mới nhất, các công cụ truyền thông, dây chuyền công nghệ mới hoặc các thiết bị khác. (vii) Cho thuê tài chính giúp doanh nghiệp hưởng lợi ích từ lá chắn thuế Bên đi thuê được khấu hao tài sản, phải trả phí thuê, những chi phí này được khấu trừ trước thuế nên cũng làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Tại hầu hết các nước phát triển, doanh nghiệp sử dụng tài sản thuê tài chính sẽ có được lợi thế trong việc thực hiện khấu hao nhanh tài sản thuê theo thời hạn thuê trong hợp đồng CTTC. Như vậy, việc này sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm sớm một khoản thuế do chính sách khấu hao nhanh mang lại. Tuy nhiên, tại Việt nam, hiện cơ quan thuế vẫn chưa cho phép doanh nghiệp thực hiện việc khấu hao nhanh để ghi nhận vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ mà vẫn phải thực hiện chế độ khấu hao theo khung quy định của Bộ Tài chính. (viii) Không ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng của doanh nghiệp Hạn mức tín dụng xác định dựa trên giá trị tài sản đảm bảo hoặc mức tín chấp. Các khoản cho thuê thường không đảm bảo bằng tài sản khác của Bên thuê nên không ảnh hưởng đến tổng giá trị tài sản đảm bảo của Bên thuê, do đó không ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng của Bên thuê. (ix) Thủ tục thuê đơn giản, thuận tiện Về cơ bản, CTTC cũng là một hình thức để khách hàng sử dụng nguồn tài trợ
  26. 14 tín dụng trung, dài hạn. Tuy nhiên, so với thủ tục đi vay, khách hàng khi thuê tài chính sẽ được hưởng một kênh dịch vụ đơn giản, thuận tiện hơn. Các doanh nghiệp không phải bỏ ra thời gian để thực hiện các thủ tục ký kết hợp đồng mua tài sản với nhà cung ứng, mở L/C, thanh toán vì các công ty CTTC sẽ đứng ra mua tài sản. (x) Thanh toán tiền thuê linh hoạt Tuỳ theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và điều kiện lưu chuyển tiền tệ của mình, các doanh nghiệp đi thuê có thể lựa chọn phương thức trả tiền phù hợp nhất như trả tăng dần, giảm dần hay trả theo mức cố định 1.1.6.1.2. Đối với bên cho thuê Bên cho thuê với tư cách là sở hữu chủ về mặt pháp lý, vì vậy họ được quyền quản lý và kiểm soát tài sản theo các điều khoản của hợp đồng thuê, đảm bảo tài sản được sử dụng đúng ụm c đích. Mục đích sử dụng vốn đảm bảo tạo tiền đề để hoàn trả tiền thuê đúng hạn. Trong trường hợp bên đi thuê không thanh toán tiền thuê đúng hạn thì bên cho thuê được thu hồi tài sản, đồng thời buộc bên đi thuê phải bồi thường các thiệt hại. Trong trường hợp bên đi thuê bị phá sản thì tài CTTC không bị phát mãi, bên cho thuê thu hồi lại được. CTTC giúp bên cho thuê linh hoạt trong kinh doanh. Trong thời gian thuê, vốn được thu hồi dần cho phép bên cho thuê tái đầu tư vào các hoạt động kinh doanh sinh lời và giữ vững nhịp độ hoạt động. 1.1.6.1.3 Đối với nhà cung cấp Hoạt động CTTC giúp nhà cung cấp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Đối với loại hình CTTC có sự tham gia của ba bên, dù người sử dụng sản phẩm chưa có điều kiện để thanh toán, nhà cung cấp vẫn được nhận tiền ngay mà không phải sử dụng đến những biện pháp như cho mua trả góp, vay trả chậm để bán được hàng. 1.1.6.1.4. Đối với nền kinh tế CTTC là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế: cũng như các hoạt động tín dụng khác, các công ty CTTC thu hút vốn từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế và
  27. 15 thông qua hoạt động CTTC của mình, chuyển vốn đến tay những đối tượng đang cần vốn dưới dạng tài sản. CTTC là một hình thức tài trợ bổ sung, giúp đa dạng hóa loại hình dịch vụ,hoàn thiện hệ thống tài chính của nền kinh tế: nhu cầu tài trợ vốn trung và dài hạn là rất cao, nhưng khả năng đáp ứng của ngân hàng đối với nguồn vốn này là có hạn. Điều này là do nguồn vốn huy động được của các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn là nguồn ngắn hạn, mà việc chuyển đổi từ nguồn ngắn hạn sang tài trợ dài hạn mang lại nhiều rủi ro. CTTC góp phần thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công nghệ thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, năng suất của doanh nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế. 1.1.6.2. Hạn chế của cho thuê tài chính (i) Lãi suất cho thuê tài chính thường cao hơn so với tín dụng ngân hàng thương mại Chi phí thuê tài chính thường cao hơn chi phí sử dụng vốn vay ngân hàng. Điều này xuất phát từ nhiều lý do. Trước hết, do lợi nhuận từ lãi vay của hoạt động CTTC gần như là nguồn thu duy nhất của công ty, trong khi đó, các ngân hàng với hàng loạt các dịch vụ cung cấp cho các khách hàng có thể hy sinh một phần lãi suất nhưng bù lại họ thu được nhiều hơn từ các khoản phí dịch vụ. Thứ hai, nguồn vốn huy động của công ty CTTC rất hạn chế, chỉ được phép huy động trung, dài hạn với lãi suất cao hơn. Chính vì những lý do này, lãi suất CTTC thường cao hơn so với tín dụng ngân hàng. Khi thực hiện dự án, bên vay luôn tính toán chi phí tối thiểu – lợi nhuận tối đa. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các TCTD, đây là hạn chế lớn của hình thức này, làm giảm hấp dẫn đối với khách hàng, đặc biệt là khách hàng có nhu cầu đầu tư vốn lớn, thời gian thực hiện dự án dài. (ii) Hạn chế tiếp cận với dự án lớn Vốn điều lệ của các Công ty CTTC thường rất nhỏ so với vốn ngân hàng. Quy định về hạn mức cho vay đối với một khách hàng, một nhóm khách hàng khiến
  28. 16 công ty CTTC khó không thể tiếp cận với các dự án có nhu cầu vốn lớn. Đa số khách hàng thuê tài chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với những hạn chế về vốn, quản trị, uy tín không có nhiều dự án lớn thuê tài chính. (iii) Hạn chế về tài sản cho thuê Không phải tất cả tài sản đều thuộc đối tượng cho thuê do quy định hạn chế ở một số quốc gia, ví dụ như ở Việt Nam hiện nay thì không được CTTC đối với bất động sản. (iv) Hạn chế về quyền đối với tài sản của bên thuê Bên thuê không chủ động trong việc sử dụng các tài sản thuê. Bởi theo quy định bên thuê không có quyền thay đổi vị trí lắp đặt máy móc, không được thay đổi kết cấu, hình dạng máy cho phù hợp với dây chuyền sản xuất hiện có, trừ khi được các công ty CTTC chấp thuận. Hạn chế về quyền sở hữu tài sản trong suốt thời hạn thuê:Doanh nghiệp đi thuê không là chủ sở hữu tài sản, nên không được sử dụng nó để thế chấp cho các chủ nợ. Ngay cả khi đã thanh toán phần lớn giá trị tài sản thì doanh nghiệp vẫn chưa được sử dụng tài sản vào mục đích khác. (v) Hạn chế trong trường hợp muốn chấm dứt hợp đồng trước hạn Về nguyên tắc, hợp đồng CTTC là hợp đồng không hủy ngang. Do đó, trong trường hợp bên thuê có nguồn vốn nhàn rỗi và muốn kết thúc trước hạn Hợp đồng CTTC, ở một số công ty CTTC, khách hàng buộc phải chịu một khoản phí thanh lý trước hạn theo một tỷ lệ nhất định tính trên tổng giá trị tài sản thuê. Trong một số trường hợp nhất định, công ty CTTC chỉ giải quyết thanh lý khi thời hạn thuê đã thực hiện được trên 13 tháng. Điều này là khá hợp lý vì việc yêu cầu thanh lý hợp đồng trước hạn sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch điều hành nguồn vốn của bên cho thuê. Tuy nhiên, nếu so sánh với tín dụng thì rõ ràng đây là một điểm bất lợi cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ CTTC. 1.1.7. Phân biệt cho thuê tàichính và các hình thức khác 1.1.7.1. Phân biệt giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành Cho thuê có hai loại chính là CTTC (financial leases) và cho thuê vận hành
  29. 17 (operating leases) hay còn gọi là cho thuê hoạt động. CTTC là loại cho thuê trung, dài hạn và nội dung hợp đồng thuê có thể hiện sự chuyển giao phần lớn rủi ro, lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Cho thuê vận hành là loại cho thuê ngắn hạn và nội dung hợp đồng thuê không thể hiện sự chuyển giao phần lớn rủi ro, lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Hai hình thức này có những điểm giống nhau cơ bản sau: Quyền sở hữu: Tách biệt quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu kinh tế. Về thuế: Người cho thuê hưởng và khấu trừ vào tiền thuê. Bồi thường bảo hiểm: Người cho thuê được hưởng. Tuy nhiên, CTTC và cho thuê vận hành có những điểm khác nhau cơ bản sau: Bảng 1.1: Phân biệt CTTC và cho thuê vận hành TIÊU CHÍ CHO THUÊ STT CTTC SO SÁNH VẬN HÀNH 1 QSH được chuyển giao khi Có chuyển giao Không chuyển giao kết thúc hợp đồng thuê 2 Thời hạn thuê Trung và dài hạn Ngắn hạn 3 Quyền hủy ngang hợp Không được quyền hủy Được quyền hủy ngang đồng ngang hợp đồng hợp đồng 4 Rủi ro Người thuê chịu mọi rủi Người cho thuê chịu mọi ro,thiệt hại, kể cả rủi ro rủi ro, thiệt hại,chỉ trừ khách quan rủi ro do bên đi thuê gây ra 5 Cung ứng Tài sản cho thuê thường Tài sản thuê mướn tài sản thuê do người thuê đặt hàng, thường do người cho nhận và sử dụng thuê cung cấp 6 Tiền bán tài sản Được chuyển cho người Toàn bộ tiền thu được do thuê hưởng, khấu trừ vào bán tài sản thuê thuộc tiền thuê người cho thuê
  30. 18 7 Tài sản thuê Bất động sản, xe lửa, tàu Máy photocopy, máy vi điện, máy bay tính, Nguồn: Tác giả đề tài 1.1.7.2. Phân biệt giữa cho thuê tài chính và tín dụng ngân hàng Trong thời gian thuê tài chính, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nhưng vai trò thực sự của bên cho thuê chỉ là cung cấp nguồn tài chính trung,dài hạn cho bên thuê. CTTC tài trợ vốn dưới hình thức tài sản nên CTTC không phải là phương pháp thay thế tín dụng trung, dài hạn mà chỉ là hình thức tín dụng trung, dài hạn đặc biệt, làm đa dạng hóa các nghiệp vụ tín dụng. CTTC cũng chứa đựng đầy đủ các tính chất cơ bản của tín dụng trung, dài hạn như tính hoàn trả, tính thời hạn và lãi suất. Tính hoàn trả: bên thuê phải thanh toán tiền thuê định kỳ cho bên cho thuê. Bên thuê được quyền sử dụng tài sản tức là đã sử dụng vốn của bên cho thuê dưới hình thức sử dụng tài sản. Trong CTTC, vốn gốc thường được hoàn trả lại phần lớn bằng tiền và một phần có thể bằng tài sản. Điều này có nghĩa là trong thời gian hiệu lực của hợp đồng CTTC (tức thời gian sử dụng tài sản), vốn gốc được hoàn trả bằng tiền và khi kết thúc hợp đồng thì bên thuê có thể lựa chọn hoàn trả toàn bộ bằng tiền (mua lại tài sản) hoặc hoàn trả một phần bằng tài sản (trả lại tài sản thuê). Đây là điểm khác biệt với trong tín dụng trung và dài hạn, vốn gốc được hoàn trả toàn bộ bằng tiền vì đó là hình thức tài trợ vốn dưới hình thức tiền tệ. Tính thời hạn: thời hạn quy định trong hợp đồng CTTC tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa bên cho thuê và bên thuê dựa trên thời gian hữu dụng của tài sản, hiệu quả sử dụng và khả năng tài chính của bên đi thuê. Thời gian thuê thông thường là trung, dài hạn. Lãi suất: Lãi suất cho thuê thường dựa trên lãi suất cho vay trung, dài hạn trên thị trường, cộng thêm tỷ lệ phần trăm nhất định tùy thuộc vào mức độ rủi ro của từng dự án cho thuê và tình hình vốn đầu vào của bên cho thuê. Tuy nhiên,CTTC vẫn có thể phân biệt với tín dụng trung, dài hạn thông thường của ngân hàng qua một số điểm sau:
  31. 19 Bảng 1.2: Phân biệt CTTC và tín dụng ngân hàng TIÊU CHÍ TÍN DỤNG STT CTTC SO SÁNH NGÂN HÀNG 1 Trung, dài hạn (trên 1 Thời hạn Hợp đồng Ngắn hạn/trung, dài hạn năm) 2 Quyền sở hữu tài sản Công ty CTTC Bên vay 3 Biện pháp bảo đảm Không thế chấp Thế chấp, cầm cố 4 Đảm bảo sử dụng đúng mục đích vốn vay hơn, do Ngân hàng tài trợ vốn Bên cho thuê tài trợ cho bằng tiền cho khách hàng Đảm bảo mục đích khách hàng trực tiếp bằng dùng số tiền đó mua tài sử dụng vốn các tài sản máy móc thiết sản phục vụ cho sản xuất bị mà khách hàng đang kinh doanh. cần dùng. 5 Tỷ lệ tài trợ cao từ 70% - Tỷ lệ cho vay /giá trị Tỷ lệ tài trợ 80% tổng trị giá tài sản máy móc thiết bị < 60% 6 Thuế VAT được khấu trừ Thuế VAT được khấu trừ Khấu trừ thuế VAT trong suốt thời hạn CTTC 1 lần khi mua tài sản 7 Cao hơn, lãi suất cho vay trung,dài hạn cộng với một Lãi suất Thấp hơn tỷ lệ nhất định các chi phí quản lý tài sản cho thuê 8 Sự tham gia của Bên Có thể có sự tham gia Thường là nhà cung cấp thứ ba của người bảo lãnh Nguồn: Tác giả đề tài 1.1.7.3. Phân biệt giữa cho thuê tài chính và mua trả góp CTTC và mua trả góp không có sự khác biệt lớn. Điểm phân biệt rõ rệt nhất là quyền sở hữu tài sản: Trong CTTC, tài sản thuộc sở hữu công ty CTTC còn trong hình thức mua trả góp thì tài sản thuộc sở hữu của bên mua. Người ta xem mua trả góp là hình thức tín dụng thương mại. Do đó, mua trả góp thông thường chỉ được thực hiện phục vụ cho mục đích tiêu dùng cá nhân nhỏ lẻ.
  32. 20 Bảng 1.3: Phân biệt CTTC và mua trả góp TIÊU CHÍ STT CTTC MUA TRẢ GÓP SO SÁNH 1 Bên tài trợ Công ty CTTC Nhà SX/trung gian thương mại 2 Thời hạn Trung và dài hạn Tùy thỏa thuận 3 Loại tài sản Phục vụ sản xuất, tiêu dùng Phục vụ tiêu dùng 4 Quyền sở hữu Thuộc về bên cho thuê Thuộc về bên mua Nguồn: Tác giả đề tài 1.2. Nợ xấu cho thuê tài chính 1.2.1. Khái niệm và phân loại Theo định nghĩa về nợ xấu của Phòng Thống kê Liên hợp quốc “về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận, hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”. Như vậy, nợ xấu về cơ bản được xác định dựa trên hai yếu tố: (i) thời gian quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng thu hồi nợ không chắc chắn. Đây được coi là định nghĩa theo chuẩn mực kế toán quốc tế đang được áp dụng phổ biến hiện nay. Cùng với sự phát triển và hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam, quan niệm về nợ xấu cũng đã có sự thay đổi về cơ bản qua nhiều giai đoạn khác nhau và ngày càng tiệm cận với thông lệ quốc tế. Theo quy định về phân loại nợ xấu tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNNvà Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN, các TCTD tại Việt Nam thực hiện phân loại nợ thành 5 nhóm dựa trên phương pháp phân loại nợ định lượng hoặc định tính. Căn cứ trên kết quả phân loại nhóm nợ, nợ xấu được quy định là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn), theo các tiêu chí cụ thể như sau:
  33. 21 i) Phân loại nợ theo phương pháp định lượng Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:  Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;  Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu được phân loại vào nhóm 2 nêu trên;  Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;  Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 do nguyên nhân khác (*). Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:  Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;  Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;  Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;  Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 do nguyên nhân khác (*). Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:  Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;  Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;  Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;  Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn;  Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;  Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 do nguyên nhân khác (*). Trong đó, khoản nợ được phân loại vào các nhóm do nguyên nhân khác (*) như nêu trên là khi TCTD phải chuyển khoản nợ vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn trong các trường hợp cụ thể sau:  Đối với khách hàng có từ hai khoản nợ trở lên tại TCTD thì tất cả các khoản nợ đều phải được phân loại vào cùng nhóm nợ có mức độ rủi ro cao nhất;
  34. 22  Trường hợp khách hàng vay hợp vốn thì các khoản nợ (bao gồm cả khoản nợ vay hợp vốn và không hợp vốn) đều phải được phân loại vào cùng nhóm nợ có mức rủi ro cao nhất theo kết quả phân loại nợ tại một trong các TCTD tham gia cho vay hợp vốn;  TCTD chủ động phân loại khoản nợ vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn theo đánh giá của TCTD khi khoản nợ hoặc khách hàng vay có biểu hiện bất lợi ảnh hưởng đến khả năng thu hồi khoản nợ. Ngoài các quy định về phân loại nhóm nợ nêu trên, Quyết định 18/2007/QĐ- NHNN còn quy định về thời gian thử thách đối với các khoản nợ đã bị phân loại từ nhóm 2 trở lên khi muốn chuyển về nhóm nợ có rủi ro thấp hơn cụ thể như sau: Đối với các khoản nợ quá hạn, thời gian thử thách là tối thiểu sáu tháng đối với khoản nợ trung, dài hạn và ba tháng đối với khoản nợ ngắn hạn kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn. Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thời gian thử thách là tối thiểu sáu tháng đối với các khoản nợ trung, dài hạn và ba tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn được cơ cấu lại. Kết thúc thời gian thử thách, nếu TCTD có đủ cơ sở (có tài liệu, hồ sơ chứng minh) về khả năng hồi phục hoặc trả nợ đúng hạn của khách hàng, TCTD có thể phân loại khoản nợ vào nhóm nợ có mức độ rủi ro thấp hơn, kể cả nhóm 1. ii) Phân loại nợ theo phương pháp định tính NHNN cũng đã mở ra hướng đi cho các TCTD có đủ khả năng và điều kiện thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính, phân tích, đánh giá khoản nợ dựa trên cơ sở khả năng trả nợ của khách hàng một cách toàn diện, cụ thể là: Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): bao gồm các khoản nợ đánh giá là khả năng tổn thất cao.
  35. 23 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): bao gồm các khoản nợ đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. 1.2.2. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu Nợ xấu có thể phát sinh từ các nguyên nhân bên trong hoặc nguyên nhân bên ngoài, hoặc cũng có thể là do sự kết hợp của cả hai nguyên nhân này. 1.2.2.1. Nguyên nhân bên trong Vì CTTC là một quan hệ giao dịch đa chiều, do đó các nguyên nhân bên trong của cả phía bên cho thuê, bên thuê thậm chí là bên cung cấp tài sản đều có thể ảnh hưởng đến chất lượng của khoản CTTC. Về phía bên cho thuê, các nguyên nhân bên trong thường xuất phát từ bốn yếu tố cơ bản bao gồm: triết lý cho thuê, chính sách cho thuê, quy trình cho thuê và con người. Một công ty CTTC với một triết lý và chính sách cho thuê nóng vội, quy trình cho thuê lỏng lẻo và đội ngũ nhân sự kém cỏi, thiếu trung thực thì có thể tìm thấy câu trả lời cho các khoản nợ xấu ngay trong chính công ty CTTC đó. Hơn nữa, ngay cả khi công ty CTTC có một hệ thống phòng ngừa rủi ro tốt thì vẫn có thể phát sinh các sự cố liên quan đến rủi ro liên quan đến yếu tố con người. Về phía bên thuê, nguyên nhân bên trong quyết định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như ý thức và hành vi của một doanh nghiệp đó là hệ thống quản lý. Bất cứ một sự yếu kém nào trong quản lý cũng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán các khoản nợ thuê tài chính. Ngoài ra, cũng không loại trừ các nguyên nhân xuất phát từ chủ ý của bên đi thuê liên quan đến rủi ro móc ngoặc, lừa đảo Về phía bên cung cấp tài sản, sự yếu kém về năng lực sản xuất hoặc chất lượng dịch vụ, hậu mãi có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng của tài sản thuê, từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của khách hàng thuê tài chính. Ngoài ra, rủi ro nhà cung cấp cố tình móc ngoặt với bên thuê tài chính để nâng giá tài sản, giả mạo hồ sơ để lừa đảo, có thể dẫn đến tổn thất lớn đối với bên cho thuê. 1.2.2.2. Nguyên nhân bên ngoài Ngoài các nguyên nhân xuất phát từ nội tại của từng chủ thể tham gia trong
  36. 24 giao dịch CTTC, thì các nguyên nhân bên ngoài cũng có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng các khoản cho thuê. Những biến động về tình hình kinh tế vĩ mô của một số ngành nghề hoặc của cả nền kinh tế: Những biến động vĩ mô này nếu theo hướng bất lợi thường sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi nhuận, dòng tiền của các doanh nghiệp trong nền kinh tế theo các mức độ khác nhau và tất yếu sẽ dẫn đến suy giảm khả năng chi trả các khoản nợ của doanh nghiệp. Ngoài ra, ngaycả khi môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi và trong giai đoạn nền kinh tế hưng thịnh nhất thì vẫn có một số ngành nghề có thể bị suy giảm và có những doanh nghiệp bị đào thải do thiếu tính cạnh tranh trên thị trường. Do đó, trong bất kỳ hoàn cảnh nào của nền kinh tế thì các công ty CTTC vẫn phải đối đầu với nguy cơ nợ xấu nếu không có định hướng cho thuê đúng đắn và không chọn lọc tốt khách hàng để cho thuê. Sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật chung: Nền kinh tế của mọi quốc gia luôn chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của môi trường pháp lý cũng như chính sách phát triển kinh tế của quốc gia đó. Riêng đối với lĩnh vực tín dụng nói chung và CTTC nói riêng, RRTD có thể phát sinh ngay từ những bất cập trong môi trường pháp lý như sự chồng chéo trong các quy định pháp luật; sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương; sự điều hành, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN; hệ thống thông tin quản lý còn nghèo nàn và kém minh bạch Sự tác động từ thị trường thế giới: Bên cạnh những lợi ích to lớn có được do hội nhập thì nền kinh tế của từng quốc gia cũng sẽ nhạy cảm hơn với những biến động của thị trường thế giới. Ví dụ như những ảnh hưởng của giá xăng dầu thế giới luôn có tác động đến nền kinh tế tại mọi quốc gia vì đây là mặt hàng thiết yếu mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có nhu cầu nhập khẩu. Một ví dụ khác là cuộc khủng hoảng và đổ vỡ mang tính dây chuyền của các tổ chức tài chính tại Mỹ đã làm ảnh hưởng đến nhiều quốc gia tại khu vực Châu Âu và một số nước Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc Ngoài ra, một số nguyên nhân bên ngoài khác có thể đến tình trạng nợ xấu như: thiên tai, sự thay đổi công nghệ; sự thay đổi xu hướng tiêu dùng của xã hội;
  37. 25 1.2.3. Hậu quả của nợ xấu 1.2.3.1. Đối với Bên thuê Nợ xấu là gánh nặng buộc bên thuê phải giải quyết trong tình trạng tài chính không tốt, tạo áp lực trả nợ cho bên thuê, do đó có thể dẫn đến việc ra quyết định kinh doanh sai lầm. Bên thuê bị thu hồi tài sản, giảm khả năng trả nợ, thua lỗ, thậm chí phá sản. Uy tín bên thuê giảm, ảnh hưởng đến việc tìm nguồn vốn tài trợ sau này. Tất cả những điều này khiến cho bên thuê không trả được nợ thuê đầy đủ. 1.2.3.2. Đối với Công ty Cho thuê tài chính Do không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các loại phí) làm cho nguồn vốn của công ty CTTC bị thất thoát, trong khi công ty CTTC vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm lợi nhuận giảm sút, thậm chí nếu trầm trọng hơn thì có thể bị lỗ, mất vốn, phá sản. 1.2.3.3. Đối với Hệ thống tài chính – ngân hàng Hoạt động của một công ty CTTC trong một quốc gia có liên quan đến hệ thống tài chính – ngân hàng và các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân trong nền kinh tế. Do vậy nếu một công ty CTTC có kết quả hoạt động xấu, thậm chí dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá sản thì sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng xấu các TCTD và các bộ phận kinh tế khác. Mức độ nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến làm cho nền kinh tế bị rối loạn, hoạt động kinh tế bị mất ổn định và ngưng trệ, mất bình ổn về quan hệ cung cầu, lạm phát, thất nghiệp làm ảnh hưởng đến vị thế và hình ảnh của hệ thống tài chính - ngân hàng quốc gia cũng như toàn bộ nền kinh tế của quốc gia đó. 1.3. Công tác xử lý nợ xấu tại các Công ty Cho thuê tài chính 1.3.1. Mục đích xử lý nợ xấu XLNX là những hoạt động được triển khai khi nợ xấu đã phát sinh nhằm giảm thiểu những tổn thất do nợ xấu gây ra. 1.3.2. Các giải pháp xử lý nợ xấu nói chung Khi phải đối mặt với việc xử lý các khoản nợ xấu, TCTD thường sẽ có hai
  38. 26 chiến lược để lựa chọn là “duy trì” hoặc “rút lui”. Chiến lược “duy trì” áp dụng khi TCTD xác định sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng với khách hàng, đồng thời tiến hành thương thảo và thực hiện các biện pháp cần thiết để có thể thu hồi một phần hay toàn bộ khoản nợ mà không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc người đi vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Chiến lược “rút lui” áp dụng đối với các khoản vay mà TCTD xác định là khách hàng không còn khả năng hoàn trả nếu không thực hiện việc xử lý tài sản đảm bảo. Với chiến lược này, TCTD có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau kể cả biện pháp pháp lý để ép buộc người đi vay thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của TCTD trong việc lựa chọn chiến lược xử lý khoản nợ xấu, tuy nhiên các giải pháp cơ bản để tiến hành xử lý các khoản nợ xấu bao gồm: tái cơ cấu; xử lý TSBĐ, đòi nợ bên bảo lãnh; bán khoản nợ; chứng khoán hoá khoản nợ; sử dụng biện pháp pháp lý và xử lý bằng DPRR. (i) Tái cơ cấu doanh nghiệp và/hoặc khoản nợ Đối với các khoản nợ xấu của khách hàng là doanh nghiệp, sau khi phân tích thực trạng tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá khách hàng còn có khả năng thanh toán các khoản nợ xấu thì TCTD sẽ áp dụng biện pháp tái cơ cấu doanh nghiệp, đồng thời có thể kết hợp với việc cơ cấu lại khoản nợ cho phù hợp với lộ trình và kế hoạch tái cơ cấu của doanh nghiệp đó. Tái cơ cấu doanh nghiệp là quá trình cải tổ, sắp xếp lại hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các nguồn lực của doanh nghiệp nhằm tháo gỡ những khó khăn. Việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp trong trường hợp này vẫn do doanh nghiệp thực hiện nhưng đặt dưới sự kiểm soát và tư vấn của chủ nợ (các TCTD), các cổ đông hoặc nhà đầu tư khác với mục đích cao nhất là khôi phục và gia tăng lợi nhuận cũng như giá trị của doanh nghiệp. Song song với việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp, các khoản nợ xấu thông thường cũng sẽ được các TCTD xem xét cơ cấu lại như điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ. Thông thường giải pháp này chỉ được áp dụng đối với các khoản nợ xấu nhóm 3, nhóm 4 và khách hàng có thiện chí, có khả năng trả nợ để khắc phục tình
  39. 27 trạng nợ xấu. Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ là việc TCTD chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ trong phạm vi thời hạn cho vay đã thoả thuận trước đó trong hợp đồng cho vay, mà kỳ hạn trả nợ cuối cùng không thay đổi. Gia hạn nợ là việc TCTD chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ vượt quá thời hạn cho vay đã thoả thuận trước đó trong hợp đồng cho vay. (ii) Xử lý TSBĐ, đòi nợ bên bảo lãnh Đối với những khoản nợ xấu không thể cơ cấu lại, khách hàng không có khả năng hồi phục hoặc có thái độ chây ỳ trong việc trả nợ, các TCTD thường lựa chọn giải pháp xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Việc xử lý bán tài sản đảm bảo có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như tự tổ chức bán công khai hoặc bán qua trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản. Riêng đối với các khoản cho vay có sự bảo lãnh của bên thứ 3, TCTD sẽ tiến hành yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay. Nếu bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay, các TCTD có thể tiến hành xử lý tài sản bảo lãnh (nếu có) tương tự như tài sản thế chấp, cầm cố của bên vay. Mặc dù đây là biện pháp không mong muốn vì việc xử lý tài sản đảm bảo hoặc đòi nợ bên thứ ba thông thường rất phức tạp và tốn nhiều thời gian (đặc biệt là bất dộng sản), khả năng thu hồi đầy đủ khoản nợ cũng không chắc chắn, tuy nhiên các TCTD vẫn buộc phải thực hiện để thu hồi vốn. Cho đến nay, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vẫn được các TCTD sử dụng chủ yếu, vì xử lý tài sản đảm bảo vẫn là một trong số các biện pháp thu hồi vốn có hiệu quả nhất nếu TCTD đánh giá chính xác giá trị và tính thanh khoản của tài sản lúc nhận cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh. Ngoài ra, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh còn giúp giảm tâm lý ỷ lại của người đi vay. (iii) Bán các khoản nợ Biện pháp này thường được TCTD sử dụng đối với các khoản nợ không có tài sản đảm bảo hoặc TCTD không muốn mất thêm nhiều thời gian để truy đòi cho khoản nợ tồn đọng. Trong trường hợp này, TCTD sẽ chuyển quyền đòi nợ cho một
  40. 28 tổ chức khác có chức năng theo luật định. Khi bán các khoản nợ xấu, TCTD sẽ phải chấp nhận bán thấp hơn mệnh giá để thu hồi vốn nhanh và tránh ảnh hưởng đến những khoản nợ còn lại, hoặc ảnh hưởng đến tình hình chung của TCTD. Các TCTD cũng thường chọn giải pháp này để làm trong sạch bảng tổng kết tài sản của mình. Các Công ty quản lý và khai thác tài sản sẽ tiếp nhận các khoản nợ và thực hiện xử lý hoặc tiếp tục mua bán các khoản nợ như nghiệp vụ kinh doanh chính. Mô hình Công ty quản lý và khai thác tài sản cũng đã được nhiều quốc gia lựa chọn như một giải pháp hiệu quả để xử lý các khoản nợ tồn đọng, mang tính chất dây dưa kéo dài. (iv) Chứng khoán hoá các khoản nợ Hiện nay, một kỹ thuật mới trong công tác XLNX đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới, đặc biệt là tại những quốc gia có thị trường tài chính phát triển mạnh, đó là chứng khoán hóa các khoản nợ. Chứng khoán hóa nợ xấu là một kỹ thuật chuyển hóa các khoản nợ xấu thành các loại trái phiếu hoặc cổ phiếu khác nhau và các chứng khoán thành này có thể được bảo đảm bằng những tài sản thế chấp hoặc một định chế tài chính uy tín hoặc cơ quan nào đó của Chính phủ, được đóng gói và bán đấu giá trên thị trường. Phương thức thứ nhất là tập hợp và tái cấu trúc các tài sản thiếu tính thanh khoản nhưng lại có thu nhập cao trong tương lai như các khoản phải thu, các khoản nợ rồi chuyển đổi chúng thành trái phiếu và đưa ra giao dịch trên thị trường tài chính. Phương thức này được gọi là trái phiếu hóa. Thông thường kỹ thuật trái phiếu hóa được thực hiện trên hai nhóm tài sản chủ yếu là các khoản nợ vay được thế chấp bằng bất động sản và các tài sản tài chínhkhông được thế chấp bằng bất động sản. Tương ứng với hai loại tài sản này thì sau khi được chứng khoán hóa sẽ hình thành hai loại chứng khoán là các chứng khoán dựa trên thế chấp bất động sản (Mortgage backed securities) và các chứng khoán tài sản tài chính (Asset backed securities - ABS). ABS đơn giản là các trái phiếu hoặc giấy tờ có giá (gọi chung là chứng khoán được hình thành từ các tài sản tài chính ví dụ như các khoản phải thu từ thẻ tín dụng, khoản vay mua ô tô, khoản
  41. 29 vay tiêu dùng, Như vậy, điểm khác biệt lớn nhất giữa ABS và các loại trái phiếu khác là mức độ tín nhiệm của các nguồn thu, khả năng thanh toán của các tài sản tài chính. Ở Châu Âu, trái phiếu hóa đã cứu các tập đoàn viễn thông khỏi nguy cơ phá sản khi họ thực hiện chuyển các khoản doanh thu tương lai của các thuê bao cố định thành các ABS. Nhờ vậy mà các công ty này có một khoản tiền đáng kể để trang trải cho các món nợ khổng lồ, hậu quả của cuộc chạy đua tranh giành quyền cung cấp dịch vụ điện thoại di động thế hệ 3G. Đặc biệt là ở Hàn Quốc và Trung Quốc, trái phiếu hóa đã giúp Chính Phủ các quốc gia này vừa giải quyết tốt các khoản nợ xấu và vừa bổ sung hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Phương thức thứ hai là chuyển hóa các khoản nợ thành cổ phần. Khi món nợ đã được chuyển thành cổ phần, thì vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn, cổ đông nắm đa số cổ phần hoặc có thể tìm nhà đầu tư, đối tác mua lại nợ với một tỉ lệ sở hữu, chi phối để các nhà đầu tư, đối tác mới có thể tiếp cận và tái cơ cấu doanh nghiệp, quản lý luôn doanh nghiệpnếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. (v) Sử dụng biện pháp pháp lý Biện pháp xử lý các khoản nợ xấu bằng con đường pháp lý thông qua trọng tài kinh tế hoặc toà án thường được TCTD lựa chọn khi các biện pháp tái cơ cấu, xử lý tài sản, bán hoặc chứng khoán hoá khoản nợ không khả thi. Trong trường hợp này, TCTD sẽ yêu cầu trọng tài kinh tế hoặc toà án can thiệp để buộc bên đi vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ và/hoặc chuyển giao tài sản đảm bảo để phát mại. Ngoài ra, trong trường hợp TCTD cho vay là chủ nợ chính của bên đi vay thì TCTD có thể lựa chọn phương án yêu cầu toà án tuyên phá sản đối với doanh nghiệp đi vay. Nhưng về cơ bản, kể từ ngày toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản, các khoản nợ chưa tới hạn sẽ được coi là tới hạn và các chủ nợ phải ngừng không được tính lãi cho các khoản nợ. Điều này thường không có lợi cho phía TCTD vì thời gian giải quyết phá sản doanh nghiệp có thể kéo dài. Chính vì vậy mà biện pháp pháp lý thường là lựa chọn cuối cùng của TCTD
  42. 30 để truy đòi khoản nợ từ bên đi vay vì trình tự thủ tục thực hiện thường phức tạp, thời gian xử lý kéo dài, tốn kém nhiều chi phí trong khi khả năng hoàn trả của bên đi vay là không cao. (vi) Xử lý bằng dự phòng rủi ro DPRR là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. DPRR được tính và hạch toán vào chi phí hoạt động của TCTD. Những trường hợp đuợc xử lý từ quỹ DPRR thông thường là khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh là những tổ chức bị giải thể, phá sản hoặc cá nhân bị chết, mất tích hoặc không thực hiện được các nghĩa vụ nợ do bất khả kháng và những khoản nợ thuộc nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Do tính chủ động cao nên biện pháp này thường được các TCTD vận dụng tối đa nhằm XLNX nhanh chóng. Thực chất của biện pháp này là TCTD sử dụng nội lực của mình để khắc phục gánh nặng nợ xấu nên tất yếu sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của TCTD. Việc quá lạm dụng giải pháp này sẽ làm giảm thu nhập của TCTD và thất thoát vốn cho vay. Vì vậy, các TCTD nên chú trọng hơn vào các biện pháp thu hồi nợ có tính truy đòi triệt để hơn trừ những trường hợp mang tính bất khả kháng. 1.3.3. Các giải pháp xử lý nợ xấu tại Công ty Cho thuê tài chính Về cơ bản, mọi giải pháp XLNX như đã nêu ở phần 1.3.2 đều có thể áp dụng đối với nợ xấu CTTC. Tuy nhiên, căn cứ vào tính khả thi, điểm ưu việt của từng phương pháp cũng như thực tế hoạt động của các công ty CTTC cho thấy việc XLNX CTTC chỉ tập trung vào bốn nhóm giải pháp chính là tái cơ cấu, xử lý tài sản, sử dụng biện pháp pháp lý và xử lý bằng DPRR vì các lý do sau: Một là do tính không khả thi của một số giải pháp như bán khoản nợ hoặc chứng khoán hóa khoản nợ.  Về nghiệp vụ mua bán nợ chủ yếu được thực hiện thông qua mô hình các Công ty quản lý và khai thác tài sản và thường nghiêng về phục vụ cho mục tiêu xử lý nợ tồn đọng gắn với một chính sách kinh tế chứ không theo mục đích kinh
  43. 31 doanh vì lợi nhuận. Do đó, việc bán các khoản nợ xấu CTTC thường khó có thể thực hiện như một giải pháp xử lý nợ mang tính thương mại.  Về nghiệp vụ chứng khoán hóa, để có thể thực sự triển khai thì thị trường chứng khoán cần đạt đến một trình độ phát triển nhất định với đầy đủ các thị trường phụ trợ như thị trường mua lại (repo), thị trường các sản phẩm phái sinh (derivaties). Hơn nữa, CTTC hiện nay đa phần là cho thuê tài sản là động sản nên khả năng chứng khoán hóa chỉ có thể thực hiện dưới dạng chứng khoán tài sản tài chính (ABS) là các khoản nợ cho thuê. Tuy nhiên đa số các khoản nợ cho thuê đã chuyển thành nợ xấu đều có dấu hiệu suy giảm hoặc mất khả năng thu hồi, dòng tiền thu nhập trong tương lai từ các khoản nợ này không đảm bảo nên khả năng áp dụng kỹ thuật chứng khoán hóa cho các khoản nợ xấu CTTC theo từng món là không khả thi. Hai là do điểm đặc thù của CTTC là tài sản cho thuê thuộc sở hữu của bên cho thuê nên giải pháp xử lý tài sản đảm bảo, tức tài sản cho thuê, có nhiều điểm thuận lợi hơn so với tài sản đảm bảo trong cho vay. Chính vì vậy, giải pháp thu hồi và xử lý tài sản cho thuê gần như là giải pháp chung phổ biến cho hầu hết các khoản nợ xấu CTTC trừ những trường hợp việc thu hồi tài sản gặp trở ngại. Và thông thường để XLNX hiệu quả thì các công ty CTTC sẽ phải áp dụng kết hợp một cách linh hoạt nhiều giải pháp nhằm tối đa hóa khả năng thu hồi khoản nợ. Tùy theo mức độ nghiêm trọng và phức tạp của khoản nợ xấu, các giải pháp có thể được lựa chọn lần lượt như sau: (i) Tái cơ cấu khoản nợ Việc cơ cấu nợ tại các công ty CTTC về cơ bản tương tự như cơ cấu nợ vay của các TCTD ngân hàng. Theo đó, cơ cấu nợ bao gồm hai trường hợp là điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ. Trên thực tế, đây là giải pháp rất phổ biến được áp dụng ở hầu hết các TCTD nói chung và các công ty CTTC nói riêng khi khách hàng được đánh giá là có thiện chí, còn khả năng hồi phục và khoản nợ còn có khả năng thu hồi đầy đủ.
  44. 32 (ii) Xử lý tài sản cho thuê Tùy vào ý thức, tình trạng hoạt động của khách hàng thuê cũng như mức độ của khoản nợ xấu, các Công ty CTTC có thể quyết định xử lý tài sản cho thuê để thu hồi nợ mà không cần áp dụng giải pháp tái cơ cấu. Về khía cạnh pháp lý, việc thu hồi tài sản cho thuê của các Công ty CTTC thuận lợi hơn rất nhiều so với việc xiết tài sản đảm bảo nợ vay. Cũng chính do có quyền sở hữu tài sản mà Công ty CTTC có thể có nhiều phương án lựa chọn hơn đối với việc xử lý tài sản sau khi thu hồi, đó là: Trực tiếp tổ chức bán tài sản hoặc bán thông qua tổ chức bán đấu giá. Cho thuê tiếp: chuyển nợ, tài sản cho bên thuê khác có khả năng, thiện chí trả nợ. Gán, xiết nợ: biện pháp tình thế xử lýsớm khoản nợ, theo đó Công ty CTTC tiến hành định giá tài sản cho thuê, thỏa thuận với Bên Thuê để xác định giá trị thu nợ, hạch toán ngaygiảm nợ xấu của khách hàng tương ứng với giá trị tài sản xiết nợ, sau đó BLC mới bán hoặc cho thuê tiếp, nếu có chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị thu nợ, khoản chênh lệch đó được BLC hạch toán như một khoản lỗ hoặc lãi. Tuy nhiên, việc xử lý tài sản cho thuê trong một số trường hợp vẫn không phải lựa chọn tối ưu do tính thanh khoản của tài sản cho thuê không cao hoặc giá trị thu hồi không đủ bù đắp khoản nợ. Chính vì vậy, cho dù có những thuận lợi nhất định về pháp lý nhưng đây không phải là giải pháp luôn luôn có hiệu quả trong việc XLNX CTTC. (iii) Sử dụng biện pháp pháp lý Thông thường trước khi đi đến quyết định lựa chọn giải pháp XLNX bằng con đường pháp lý, các Công ty CTTC đều đã phải tính đến phương án xử lý tài sản. Nhưng có những trường hợp và do nhiều nguyên nhân khác nhau mà tài sản thuê bị mất mát hoặc có tranh chấp dẫn đến Công ty CTTC không thể thực hiện việc thu hồi để xử lý thì giải pháp pháp lý có thể là một lựa chọn hợp lý. Tuy nhiên thực tế cho thấy giải pháp này rất ít được sử dụng do tính chất phức tạp, tốn kém nhiều thời
  45. 33 gian và hiệu quả không cao. Mặc khác, văn hóa giải quyết tranh chấp thông qua tòa án hoặc trọng tài kinh tế vẫn còn chưa phổ biến với nhiều nước đang phát triển. (iv) Xử lý bằng dự phòng rủi ro Đây có có thể được xem là giải pháp cuối cùng để XLNX CTTC. Tuy nhiên, việc sử dụng DPRR thường chỉ được áp dụng trong các trường hợp khách hàng giải thể phá sản (đối với tổ chức) hoặc chết, mất tích (đối với các nhân) và các khoản nợ được đánh giá hết khả năng thu hồi. Ngoài ra, vì toàn bộ nợ thuê tài chính đều có tài sản đảm bảo chính tài sản cho thuê, nên việc sử dụng dự phòng để xử lý thường chỉ thực hiện được sau khi thu hồi, bán phát mãi tài sản mà công ty CTTC vẫn không thu hồi đủ khoản nợ. Chính vì vậy, việc sử dụng DPRR mặc dù là giải pháp xử lý nợ bằng chính nội lực của các Công ty CTTC nhưng vẫn phải tuân thủ các quy định và được kiểm soát chặt chẽ nhằm hạn chế tối đa việc thất thoát vốn cũng như ngăn ngừa tâm lý ỷ lại và tính chủ quan trong khâu ra quyết định cho thuê. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Sự xuất hiện hoạt động CTTC đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một kênh cung cấp vốn mới phù hợp. Tín dụng mà đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn luôn luôn chứa đựng nhiều rủi ro nên nợ xấu là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, việc nhìn nhận đúng về nợ xấu và có những giải pháp để XLNX có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mọi TCTD, bao gồm cả các Công ty CTTC. Phần cơ sở lý luận trình bày tại Chương 1 là nền tảng cho việc nhìn nhận thực trạng cũng như đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác XLNX tại BLC hiện nay và trong tương lai.
  46. 34 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ CÔNG TÁC XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN – NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1. Giới thiệu chung về BLC 2.1.1. Tóm tắt quá trình hình thành và phát triển Ngày 27/5/1995, NHNN ra Quyết định số 149/QĐ-NH5 về việc ban hành thể lệ Tín dụng thuê mua. Theo đó, Công ty Tín dụng thuê mua trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã chính thức được thành lập theo Quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 128/QĐ-NH5 ngày 26/4/1995. Tháng 09/1998, sau 3 năm hoạt động cho thuê một cách dè dặt như một chi nhánh trực thuộc của ngân hàng, Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tiền thân là Công ty tín dụng thuê mua, đã chính thức được thành lập theo Quyết định số 305/1998/QĐ-NHNN5 của Thống đốc NHNN. Năm 2001, Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mở chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh nhằm mở rộng hơn nữa phạm vi hoạt động trên cả nước. Kể từ ngày 01/01/2005, theo quyết định số 11/GP-NHNN ngày 17/12/2004 của NHNN, chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động với tư cách độc lập và là thành viên của BIDV, tên là Công ty Cho Thuê Tài Chính II – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BLC II). Năm 2009, Công ty Cho Thuê Tài Chính II – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mở chi nhánh tại Đà Nẵng. Tháng 07/2011, theo quyết định số 1659/QĐ-NHNN và quyết định số 1660/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN, Công ty Cho Thuê Tài Chính – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Công ty Cho Thuê Tài Chính II – Ngân
  47. 35 hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam sáp nhập, gọi là Công ty Cho Thuê Tài Chính – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BLC sau sáp nhập), trụ sở đặt tại Hà Nội. BLC sau sáp nhập có trách nhiệm tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của hai công ty trước sáp nhập. Việc sáp nhập hai công ty giúp Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam quản lý hoạt động CTTC tập trung tại một đầu mối, thống nhất định hướng hoạt động kinh doanh. Tháng 07/2012, đổi tên thành Công ty Cho Thuê Tài Chính TNHH Một thành viên – Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam sau khi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cổ phần hóa. Đăng ký kinh doanh mới nhất số 0100777569do Sở Kế hoạch Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 11/10/2012: Tên gọi đầy đủ của công ty bằng tiếng Việt: Công ty cho thuê tài chính TNHH MTV -Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Tên tiếng Anh: BIDV Financial Leasing Company.,Ltd. Tên viết tắt: BLC Vốn điều lệ: 447.813.276.365 đồng Trụ sở: 472-472A-472C Nguyễn Thị Minh Khai, P.2, Quận 3, TPHCM. 2.1.2. Hoạt động Loại hình doanh nghiệp: BLC là doanh nghiệp hạch toán kinh doanh độc lập, trực thuộc BIDV. Sau khi BIDV cổ phần hóa, nhưng chưa tiến hành cổ phần hóa các công ty con, BLC được chuyển đổi loại hình doanh nghiệp thành Công ty TNHH một thành viên. Mạng lưới hoạt động: BLC hiện hoạt động trên phạm vi cả nước với hội sở chính đặt tại TPHCM và hai chi nhánh, một chi nhánh đặt tại Hà Nội và một chi nhánh đặt tại Đà Nẵng. Vùng đầu tư cũng được phân định rõ theo khu vực địa lý với khu vực từ Huế trở ra hết phía Bắc do chi nhánh Hà Nội phụ trách, khu vực Đà Nẵng và một số tỉnh lân cận do chi nhánh Đà Nẵng phụ trách, hội sở chính tại thành phố Hồ Chí Minh phụ trách khu vực còn lại. Lĩnh vực hoạt động: hiện nay BLC hoạt động trong các lĩnh vực bao gồm:
  48. 36 Cho thuê tài chính Cho thuê hợp vốn Mua và cho thuê lại Cho thuê vận hành với điều kiện tổng giá trị tài sản cho thuê vận hành không vượt quá 30% tổng tài sản có của Công ty. Hoạt động ngân hàng: nhận tiền gửi của tổ chức, phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn, vay vốn, vay Ngân Hàng Nhà Nước, cho vay bổ sung vốn lưu động đối với bên thuê tài chính, thực hiện các hình thức cấp tín dụng khác khi được Ngân Hàng Nhà Nước chấp thuận. Hoạt động ngoại hối Đấu thầu tín phiếu kho bạc Mua bán trái phiếu chính phủ Các dịch cụ ủy thác Các dịch vụ quản lý tài sản liên quan cho thuê tài chính Các dịch vụ bảo lãnh Làm đại lý kinh doanh bảo hiểm Dịch vụ tư vấn cho Bên thuê tài chính Đầu tư, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp tài sản thế chấp, cầm cố đã chuyển thành tài sản do công ty quản lý để sử dụng hoặc kinh doanh Bán các khoản phải thu từ hợp đồng cho thuê tài chính Bao thanh toán đối với Bên thuê, các hính thức cấp tín dụng khác Đến 31/12/2012, tổng tài sản của BLC đạt 2.673 tỷ đồng, dư nợ cho thuê tài chính đạt 2.554 tỷ đồng, chiếm 16,4% dư nợ các Công ty cho thuê tài chính thuộc Hiệp hội cho thuê tài chính và đứng thứ 3 trong số này, nguồn vốn đạt 2.349 tỷ đồng. Thời điểm hiện tại, BLC có hơn 600 khách hàng trên toàn quốc với gần 2000 Hợp đồng cho thuê tài chính. Với việc sáp nhập, khả năng cấp tín dụng cho một khách hàng lên đến 112 tỷ đồng so với 60 tỷ đồng trước đây. Nhờ đó, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ bị thiếu vốn sẽ được hỗ trợ vốn nhiều hơn.
  49. 37 2.1.3. Cơ cấu tổ chức 2.1.3.1. Nguyên tắc tổ chức quản lý và điều hành BLC chịu sự quản lý của của BIDV về vốn, về kế hoạch phát triển kinh doanh, về tổ chức nhân sự và chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về nội dung và phạm vi hoạt động nghiệp vụ. Công ty được quản trị bởi Hội đồng thành viên Công ty, được kiểm soát bởi Ban kiểm soát Công ty và được điều hành hoạt động bởi tổng giám đốc Công ty. 2.1.3.2. Mô hình tổ chức Bộ máy tổ chức của BLC thay đổi qua nhiều thời kỳ khác nhau, cơ cấu các phòng ban đã dần được kiện toàn nhằm đảm bảo cho sự phát triển của Công ty. Với mô hình này, chức năng nhiệm vụ các phòng ban được quy định cụ thể hơn, chuyên môn hóa cao hơn, tạo được sự phối hợp liên kết giữa các bộ phận, phòng ban chức năng với nhau. Các quyết định, chính sách của Công ty đưa ra đều dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá và có sự tham gia của số đông mà không mang tính chất chủ quan của một người quyết định (Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc). Vì vậy, mô hình tổ chức mới mang tính ưu việt, chuyên môn và năng động hơn so với mô hình quản trị cũ.
  50. 38 Hiện nay, cơ cấu tổ chức của BLC được sắp xếp theo mô hình như sau: HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN BAN KIỂM SOÁT BAN TỔNG GIÁM ỐĐ C Bộ phận kiểm soát nội bộ Khối Khối Khối Khối Khối Quan hệ Quản lý Tác nghiệp Quản lý Trực thuộc khách hàng rủi ro nội bộ Phòng quan CN Hà Nội hệkhách Phòng Phòng quản Văn phòng hàng 1 quản lý rủi ro trị tíndụng Phòng quan CN Đà Nẵng Phòng Tổ hệkhách chức nhân sự hàng 2 Phòng tài chính kế toán Phòng Kế hoạch Tổng Tổ thư ký hợp Hình 2.1: Mô hình tổ chức BLC Nguồn: Tác giả đề tài
  51. 39 2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh Theo tiêu chí đối tượng cho thuê cũng như lãi suất cho thuê và mức độ rủi ro, CTTC của BLC được phân thành hai khu vực là cho thuê nội ngành và cho thuê ngoại ngành. CTTC nội ngành: Đối tượng thuê của cho thuê nội ngành là các tài sản mua bán từ các chi nhánh BIDV hoặc tập trung toàn ngành. Tài sản thuê thường là xe ô tô, hệ thống máy văn phòng, hệ thống điều hòa, từ năm 2002 có cả máy rút tiền tự động và trở thành tài sản có tỷ trọng dư nợ cho thuê lớn nhất. CTTC ngoại ngành: Đây là khu vực cho thuê chiếm tỷ trọng lớn hơn trên tất cả các mặt dư nợ, giá trị tài sản Tài sản cho thuê đa dạng, gồm các dây chuyền sản xuất, các sản phẩm công nghiệp, tiêu dùng, thực phẩm, máy móc đơn lẻ; phương tiện thi công cầu, đường, xây dựng; phương tải vận chuyển hàng hóa, hành khách Khách hàng của hoạt động CTTC ngoài hệ thống BIDV bao gồm các pháp nhân như công ty TNHH, công ty CP, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã. Thời gian từ năm 2005 đến 2008 là giai đoạn rất thành công của BLC, tốc độ tăng trưởng quy mô, thị phần, doanh thu, lợi nhuận, cao, thu nhập cán bộ công nhân viên liên tục tăng Bước vào năm 2008, tình hình kinh tế xã hội trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp với mức lạm phát tăng cao và nền kinh tế toàn cầu suy thoái. Theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN thực hành chính sách thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát, kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng và tăng lãi suất cơ bản. Giai đoạn từ năm 2009-2012, nền kinh tế trải qua những giai đoạn thăng trầm đầy khó khăn, thử thách và biến đổi theo hướng khó lường không thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế trong đó có cả hoạt động CTTC. Dư nợ cho thuê năm sau giảm hơn năm trước, năm 2012 dư nợ giảm hơn 700 tỷ đồng so với năm 2009. Kết quả kinh doanh của Công ty sa sút, lợi nhuận thấp, tình trạng thua lỗ đã xuất hiện mật độ dày. Nợ xấu tăng cao chưa từng có.
  52. 40 Bảng 2.1: Kết quả kinh doanh 2009-2012 Đơn vị: tỷ đồng Mức Năm tăng 2009 2010 2011 2012 giảm bình Các chỉ tiêu quân Tổng tài sản 3.143 3.186 3.293 2.673 -5% Tổng dư nợ 3.276 3.267 3.001 2.554 -8% Dư nợ cho thuê nội ngành 398 437 424 301 -7% Dư nợ cho thuê ngoại ngành 2.878 2.830 2.577 2.253 -8% Nợ xấu nội bảng 378 713 398 274 4% Thu nợ ngoại bảng 9 14 37 17 55% Tổng doanh thu 315 334 389 264 -3% Tổng chi phí trước trích dự phòng 240 272 287 251 2% Chênh lệch thu chi trước trích DPRR 75 62 102 13 -13% Trích DPRR 97 57 115 71 7% Lợi nhuận trước thuế (đã bao gồm thu nợ ngoại bảng) -22 5 -13 -58 -46% Nguồn: Tổng hợp số liệu do BLC cung cấp tháng 07/2013 So với năm 2009, các chỉ tiêu năm 2012 như tổng tài sản, tổng dư nợ, lợi nhuậnđều biến động theo chiều hướng xấu, thể hiện tình hình kinh doanh ngày càng thu hẹp của BLC. Tổng tài sản giảm bình quân 5%/năm trong đó giai đoạn 2009-2010 tổng tài sản tăng bình quân 2,36%/năm. Năm 2012, môi trường kinh doanh không thuận lợi, khách hàng thuê gặp nhiều khó khăn, BLC tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm sau sáp nhập là ổn định tổ chức, XLNX, hạn chế cho thuê ngoại ngành nên quy mô hoạt động của BLC thu hẹp dần. Tính đến 31/12/2012, tổng tài sản đạt 2.673 tỷ đồng, giảm gần 19% so với năm 2011. So với giai đoạn 2006-2008, quy mô kinh doanh của BLC giảm mạnh (mức tăng bình quân tổng tài sản năm 2006-2008 là 46%/năm). Quy mô kinh doanh thu hẹp thể hiện dư nợ giảm bình quân 8%/năm, chất
  53. 41 lượng kinh doanh giảm đáng kể, nợ xấu tăng về giá trị 4%/năm nhưng do giá trị tài sản giảm mạnh dẫn đến chi phí trích dự phòng tăng bình quân 7%/năm kéo theo chênh lệch thu chi giảm 13%/năm. Tính đến 31/12/2012: dư nợ cho thuê của BLC đạt 2.554 tỷ đồng, giảm 22% so với cuối năm 2009. Dư nợ cho thuê giảm phản ánh đúng nhu cầu khách quan của thị trường cũng như định hướng hoạt động kinh doanh của BLC thu hẹp dần quy mô hoạt động. Lợi nhuận không được cải thiện mà còn có xu hướng ngày càng giảm. Năm 2012, Công ty lỗ ở mức kỷ lục 58 tỷ đồng. 2.1.5. Tình hình nguồn vốn Vốn kinh doanh của BLC gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động (chủ yếu là vay của Ngân hàng mẹ), cụ thể như sau: Bảng 2.2: Tình hình nguồn vốn 2009-2012 Đơn vị: tỷđồng Năm 2009 2010 2011 2012 Mức Số dư Tỷ Số dư Tỷ Số Tỷ Số dư Tỷ tăng trọng trọng dư trọng trọng giảm bình Cơ cấu quân nguồn vốn Vốn chủ sở 448 15% 449 14% 435 14% 377 14% -5% hữu Vốn vay 2.331 78% 2.480 78% 2.483 79% 2.201 81% -2% BIDV Tiền gửi của 29 1% 21 1% 11 0% 11 0% -25% khách hàng Ký cược của 195 6% 219 7% 201 6% 137 5% -9% Bên thuê Tổng cộng 3.003 100% 3.169 100% 3.130 100% 2.726 100% Nguồn: Tổng hợp số liệu do BLC cung cấp tháng 07/2013 Tính tự chủ trong công tác nguồn vốn của BLC thấp, nguồn vốn hoạt động chủ
  54. 42 yếu là vốn vay BIDV, luốn chiếm trên tỷ trọng hơn 78%/tổng nguồn vốn. Trong giai đoạn này, theo quy định của pháp luật, BLC chỉ được nhận tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở lên của các tổ chức kinh tế và dân cư. Tuy nhiên, do BLC chưa có thương hiệu trên thị trường, chưa có phòng giao dịch, hình thức huy động đơn điệu, lãi suất huy động không hẫp dẫn như hệ thống các NHTM nên việc thực hiện huy động tiền gửi 12 tháng trở lên của Tổ chức kinh tế, dân cư rất khó thực hiện. Hơn nữa, sau khi có sự đổ vỡ của Công ty CTTC – Ngân hàng Nông nghiệp thì các Tổ chức kinh tế, Công ty tài chính không thực hiện giao dịch với các Công ty CTTC nên BLC không thể tiếp tục huy động được từ nguồn này. Việc duy trì đảm bảo tỷ lệ tối đa 30% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn là khó thực hiện và luôn ở trạng thái vượt giới hạn. Nguyên nhân kỳ hạn để xác định nguồn vốn trên cơ sở kỳ hạn thực (kỳ hạn còn lại). Việc huy động vốn từ các tổ chức và dân cư chỉ tập trung kỳ hạn 12 tháng và số dư huy động rất thấp, không đáng kể. Như vậy, khi BLC huy động vốn kỳ hạn 12 tháng thì sau 01 ngày kể từ ngày nhận được tiền, nguồn vốn này xem như là nguồn vốn ngắn hạn, do đó việc vi phạm tỷ lệ trên xảy ra thường xuyên. Do không huy động được vốn từ bên ngoài, vốn tự có thấp, BLC phải vay vốn BIDV bằng lãi suất bán vốn FTP trung, dài hạn nên lãi suất đầu vào rất cao, chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra thấp nên chênh lệch thu chi không cao. 2.2. Thực trạng nợ xấu và công tác xử lý nợ xấu tại BLC 2.2.1. Thực trạng nợ xấu tại BLC Nợ xấu của BLC có chiều hướng ngày càng tăng cả về số tuyệt đối, số tương đối cũng như mức độ rủi ro của các khoản nợ. Đây cũng là nguyên nhân chính làm kết quả kinh doanh của BLC giảm sút mạnh vào cuối năm 2011 và 2012. Bảng 2.3: Chất lượng dư nợ CTTC Đơn vị: tỷ đồng Năm 2009 2010 2011 2012 Mức Số dư Tỷ Số dư Tỷ Số dư Tỷ Số dư Tỷ tăng trọng trọng trọng trọng giảm BQ Các chỉ tiêu
  55. 43 Tổng dư nợ 3.277 3.267 3.001 2.554 -8% Nợ nội ngành 398 12% 438 13% 424 14% 301 9% -7% Nợ ngoại 2.879 88% 2.829 87% 2.577 86% 2.253 69% -8% ngành Nợ đủ tiêu 1.999 61% 1.723 53% 1.573 52% 1.346 41% -12% chuẩn (N1) Nợ cần chú ý 900 27% 831 25% 1.031 34% 633 19% -7% (N2) Nợ dưới tiêu 190 6% 493 15% 274 9% 203 6% 30% chuẩn (N3) Nợ nghi ngờ 49 1% 64 2% 14 1% 28 1% 17% (N4) Nợ có khả 139 4% 156 5% 109 4% 43 1% -26% năng mất vốn (N5) Số dư nợ xấu 378 713 397 274 4% % nợ xấu/dư 13% 25% 15% 12% 11% nợ ngoại ngành % nợ xấu/tổng 12% 22% 13% 11% 10% dư nợ % nợ nhóm 37% 22% 27% 16% -19% 5/nợ xấu Nguồn: Tổng hợp số liệu do BLC cung cấp tháng 07/2013 Tình hình biến động nợ xấu 4,000 3,277 3,267 3,001 3,000 2,879 2,829 2,554 2,577 2,253 2,000 1,000 713 378 398 274 0 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Tổng dư nợ Nợ ngoại ngành Nợ xấu Tổng dư nợ 2 Nợ ngoại ngành 2 Nợ xấu 2 Biểu đồ 2.1: Tình hình biến động dư nợ, nợ xấu Nguồn: tác giả đề tài
  56. 44 Tỷ lệ nợ xấu ở mức cao, luôn trên 10%,vượt xa các tỷ lệ trung bình của toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng như các doanh nghiệp cùng ngành. Năm 2010, tỷ lệ nợ xấu tăng vọt gần gấp đôi cả về số tuyệt đối và tương đối. Cụ thể tăng từ 378 tỷ đồng (13%) lên 713 tỷ đồng (25%). Một tỷ lệ rất lớn nợ nhóm 1 bị chuyển thành nhóm nợ xấu, cho thấy nợ xấu đã tiềm ẩn và lỗ hổng trong phân loại nợ của BLC. Đây là con số báo động đối với chất lượng tín dụng của BLC. Từ năm 2011, nợ xấu đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. Năm 2012, dư nợ giảm mạnh, nhiều khách hàng thanh lý hợp đồng nên tỷ lệ nợ nhóm 5/tổng nợ xấu giảm. 2.2.1.1. Cơ cấu nợ xấu theo loại tài sản, thành phần kinh tế, ngành nghề và khu vực địa lý Đi sâu vào phân tích cơ cấu nợ xấu tại BLC thời điểm cuối năm 2012 có thể thấy mức độ tập trung khá cao của nợ xấu cả về loại tài sản, khu vực địa lý, thành phần kinh tế và ngành nghề hoạt động. Bảng 2.4: Cơ cấu nợ xấu theo loại tài sản đến cuối tháng 12/2012 Đơn vị: tỷ đồng Nhóm nợ 3 4 5 Tổng Tỷ trọng Loại tài sản Phương tiện vận tải đường bộ 17 3 6 26 9% Phương tiện vận tải đường thủy 99 14 14 127 46% Thiết bị thi công xây lắp 50 9 12 71 26% Dây chuyền sản xuất 37 2 10 49 18% Tài sản khác 0 0 1 1 0% Tổng cộng 203 28 43 274 100% Nguồn: Tổng hợp số liệu do BLC cung cấp tháng 07/2013
  57. 45 Nợ xấu theo loại tài sản Tài sản khác, 0% Dây chuyền sản xuất, Phương tiện vận tải Phương tiện vận tải đường bộ 19% đường bộ, 9% Phương tiện vận tải đường thủy Thiết bị thi công xây lắp Thiết bị thi công xây Phương tiện vận tải đường thủy, 46% lắp, 26% Dây chuyền sản xuất Tài sản khác Biểu đồ 2.2: Cơ cấu nợ xấutheo loại tài sản Nguồn: tác giả đề tài Nhóm các phương tiện vận tải đường thủy chiếm gần 50% nợ xấu theo loại tài sản. Trước những biến động về môi trường, chính sách kinh doanh do khủng hoảng kinh tế như giảm đầu tư công, cấm khai thác cát ở đồng bằng sông Cửu Long và Campuchia, lãi suất tăng cao nhu cầu vận tải biển giảm, khan hiếm nguồn hàng, hợp đồng vận chuyển ít trong khi việc đầu tư quá nhiều của giai đoạn trước dẫn đến số lượng tàu tăng nhanh (hoàn thiện và đưa vào khai thác) nên giá cước vận tải giảm. Thêm vào đó, chi phí tại Doanh nghiệp tăng (lãi vay cao, giá nhiên liệu tăng ), nguồn thu không đủ bù chi phí, hiệu quả kinh doanh thấp, suy giảm khả năng trả nợ. Tương tự là các thiết bị thi công xây lắp. Thị trường bất động sản rơi tự do, phần lớn thiết bị không hoạt động, nằm chờ. Đối với những dây chuyền sản xuất, sức tiêu thụ thị trường giảm nênhoạt động không đủ công suất. Các phương tiện vận tải đường bộ có tỷ lệ nợ xấu thấp, do nhu cầu đi lại giảm không đáng kể, các đơn vị vẫn kinh doanh có lãi.
  58. 46 Bảng 2.5: Cơ cấu nợ xấu theo thành phần kinh tế đến cuối tháng 12/2012 Đơn vị: tỷ đồng Nhóm nợ 3 4 5 Tổng Tỷ trọng Loại doanh nghiệp Công ty cổ phần 54 3 23 80 29% Công ty TNHH 118 24 14 156 57% Doanh nghiệp tư nhân 25 0 4 29 11% Hộ kinh doanh, cá nhân 5 0 1 6 2% Hợp tác xã 1 1 1 3 1% Tổng cộng 203 28 43 274 100% Nguồn: Tổng hợp số liệu do BLC cung cấp tháng 07/2013 Hộ kinh doanh, Nợ xấu theo thành phần kinh tế cá nhân, 2% Hợp tác xã, 1% Công ty cổ phần Doanh nghiệp Công ty TNHH tư nhân, 11% Công ty cổ phần, 29% Doanh nghiệp tư nhân Công ty Hộ kinh doanh, cá TNHH, 57% nhân Hợp tác xã Biểu đồ 2.3: Cơ cấu nợ xấu theo thành phần kinh tế Nguồn: tác giả đề tài 86% nợ xấu tại BLC tập trung vào đối tượng Công ty cổ phần và Công ty TNHH. Đây là thành phần kinh tế có sự phát triển khá mạnh mẽ cả về số lượng, quy mô hoạt động và là động lực cho sự phát triển kinh tế của cả nước. Mặc dù vậy, đây cũng là thành phần kinh tế khó kiểm soát nhất vì số lượng doanh nghiệp lớn, hoạt động đa ngành với quy mô rất khác nhau và rất dễ bị tổn thương trước những biến động bất lợi.
  59. 47 Bảng 2.6: Cơ cấu nợ xấu theo ngành nghề đến cuối tháng 12/2012 Đơn vị: tỷ đồng Nhóm nợ 3 4 5 Tổng Tỷ trọng Loại ngành nghề Công nghiệp chế biến, chế tạo 40 0 2 42 15% Vận tải kho bãi 87 25 20 132 48% Xây dựng 57 3 1 61 22% Hoạt động dịch vụ khác 19 0 20 39 15% Tổng cộng 203 28 43 274 100% Nguồn: Tổng hợp số liệu do BLC cung cấp tháng 07/2013 Nợ xấu theo ngành nghề Hoạt động dịch Công nghiệp vụ khác, 15% Công nghiệp chế biến, chế biến, chế chế tạo tạo, 15% Vận tải kho bãi Xây dựng, 22% Vận tải kho Xây dựng bãi, 48% Hoạt động dịch vụ khác Biểu đồ 2.4: Cơ cấu nợ xấu theo ngành nghề Nguồn: tác giả đề tài Ngành nghề có tỷ lệ nợ xấu cao nhất tại BLC là vận tải kho bãi, chiếm khoảng 48% nợ xấu, tương ứng với tỷ lệ nợ xấu của phương tiện vận tải đường thủy. Ngành sản xuất công nghiệp và xây dựng chiếm tổng cộng hơn 37% tổng nợ xấu. Rất nhiều khách hàng ngành xây dựng quy mô nhỏ, không trực tiếp ký hợp đồng với các chủ đầu tư và hợp đồng thi công thường là nhận lại hợp đồng của các Bên thi công chính nên khi Chính Phủ cắt giảm đầu tư công, các công trình chậm thanh toán, ngân hàng hạn chế cho vay dẫn đến tình trạng nợ nần, chiếm dụng vốn lẫn nhau làm ảnh hưởng đến nguồn thu và khả năng trả nợ của khách hàng. Tài
  60. 48 sản cho thuê đối với các ngành này thường mang tính đặc thù cao, khấu hao hữu hình và vô hình lớn, tính thanh khoản kém. Trong khi về cơ bản mức lợi nhuận thường không cao và dễ bị biến động do các yếu tố bên ngoài, vậy nên việc nợ xấu tập trung cao ở các ngành này cũng là điều dễ lý giải. Bảng 2.7: Cơ cấu nợ xấu theo khu vực địa lý đến cuối tháng 12/2012 Đơn vị: tỷ đồng Nhóm nợ 3 4 5 Tổng Tỷ trọng Khu vực Miền Bắc 44 23 1 68 25% Miền Trung 3 0 1 4 1% Miền Nam 156 5 41 202 74% Tổng cộng 203 28 43 274 100% Nguồn: Tổng hợp số liệu do BLC cung cấp tháng 07/2013 Nợ xấu theo khu vực địa lý Miền Bắc Miền Bắc, 25% Miền Trung, Miền Trung Miền Nam, 1% 74% Miền Nam Biểu đồ 2.5: Cơ cấu nợ xấu theo khu vực địa lý Nguồn: tác giả đề tài Khu vực miền Trung thuê tài chính tại BLC ít hơn rất nhiều so với khu vực kinh tế ở hai đầu đất nước nên tỷ lệ nợ xấu thấp hơn. Gần 3/4 nợ xấu tập trung ở các đơn vị hoạt động tại miền Nam. Hầu hết các đơn vị thuê sà lan tại khu vực phía Nam là những đơn vị cá thể, kinh doanh nhỏ, đơn lẻ không đủ năng lực xoay xở hoặc có nghề kinh doanh khác hỗ trợ để đối phó với những thay đổi đột ngột. Vì vậy, việc CTTC đối với các doanh nghiệp tại khu vực phía Nam tiềm ẩn mức rủi ro cao hơn.
  61. 49 2.2.1.2. So sánh với các doanh nghiệp cùng ngành Nợ xấu tăng có thể do tác động từ nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, các ếy u tố mang tính vĩ mô bên ngoài thường sẽ có ảnh hưởng chung toàn ngành chứ không riêng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Vì vậy việc so sánh với các doanh nghiệp cùng ngành là cần thiết để nhìn nhận chính xác hơn hiệu quả hoạt động cũng như thực trạng của một doanh nghiệp. Ngoại trừ Công ty CTTC của Ngân Hàng Nông nghiệp và Công ty CTTC Công Nghiệp Tàu Thủy (Vinashin Leasing) nợ xấu quá cao, khi so sánh với các công ty CTTC khác còn lại thuộc Hiệp hội CTTC Việt Nam cho thấy tại thời điểm cuối năm 2012, BLC là đơn vị thuộc nhóm có tỷ lệ nợ xấu cao. Bảng 2.8: KQKD năm 2012 của các Công ty CTTC hội viên Hiệp hội CTTC Đơn vị: tỷ đồng STT Đơn vị Vốn Dư nợ Lãi Tỷ lệ Tỷ lệ điều trước nợ xấu nợ lệ thuế nhóm 5 1 Cty CTTC NH Đầu Tư 447 2.554 -58 11% 16% 2 Cty CTTC I NH Nông Nghiệp 200 1.148 8 68% 55% 3 Cty CTTC II NH Nông Nghiệp 350 6.826 -880 95% 95% 4 Cty CTTC NH Công Thương 800 1.437 101 3% 1% 5 Cty CTTC NH Ngoại Thương 500 1.346 63 5% 3% 6 Cty CTTC NH Sài Gòn Thương Tín 300 964 81 1% 1% 7 Cty CTTC NH Á Châu 200 925 70 0% 0% 8 Cty CTTC Công Nghiệp Tàu Thủy 300 330 -917 98% 98% Tổng 3.097 15.530 Nguồn: Tổng hợp số liệu do BLC cung cấp tháng 07/2013 Về lợi nhuận, BLC là đơn vị có mức lãi trước thuế âm trong khi nhiều đơn vị khác vẫn có lãi, như Công ty CTTC Ngân hàng Công Thương lãi hơn 100 tỷ đồng, Công ty CTTC Ngân hàng Ngoại Thương lãi 63 tỷ đồng Tỷ lệ nợ xấu cao so với các công ty CTTC khác cho thấy ngoài các yếu tố ảnh
  62. 50 hưởng chung toàn ngành, thì những yếu tố từ nội tại mới là nguyên nhân chính của vấn đề nợ xấu đang có chiều hướng ngày càng gia tăng tại BLC. Một tình trạng nữa đáng lưu ý là trong cơ cấu nợ xấu của BLC, nợ nhóm 5 chiếm tỷ trọng rất lớn và vượt xa các đơn vị cùng ngành. Điều này cho thấy các khoản nợ xấu chủ yếu là những khoản nợ cho thuê từ nhiều năm về trước và đã kéo dài một thời gian dài mà vẫn chưa xử lý được. 2.2.2. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề nợ xấu tại BLC Để đưa ra được các giải pháp sát thực và hiệu quả nhằm giải quyết tình trạng nợ xấu, trước hết cần nhìn nhận một các tổng quan các nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu tại BLC. 2.2.2.1. Nguyên nhân bên trong (i) Việc định hướng hoạt động cho thuê trong giai đoạn trước còn thiếu thận trọng, chạy theo mục tiêu tăng dư nợ, mà thiếu quan tâm đến các yếu tố rủi ro tổng thể trong khi CTTC là loại hình tín dụng trung và dài hạn, đòi hỏi phải có những nghiên cứu để định hướng danh mục đầu tư hiệu quả, đảm bảo phân tán rủi ro. Chiến lược kinh doanh giai đoạn 2008-2012 đưa ra mục tiêu tăng trưởng nhanh, phấn đấu tăng trưởng dư nợ bình quân 40%/năm, mong muốn củng cố thương hiệu và mở rộng thị phần trong khi năng lực quản trị điều hành, chất lượng nguồn nhân lực cũng như các công cụ hỗ trợ cho công tác kinh doanh, quản lý tài sản thuê chưa thay đổi tương xứng dẫn đến vượt khả năng kiểm soát.Đối tượng đầu tư chưa rõ ràng, công tác phân tích dự báo thị trường tình hình kinh tế xã hội, ngành nghề hạn chế đã tập trung đầu tư vào một số khách hàng và cùng một loại tài sản (Phương tiện vận tải thuỷ, nợ xấu chiếm từ 52% trở lên). (ii) Quy trình CTTC trong giai đoạn trước còn thiếu chặt chẽ, thiếu các quy định và chính sách về CTTC là nguyên nhân chính của các khoản cho thuê kém chất lượng. Một số trường hợp việc ra quyết định cho thuê hoàn toàn chủ quan, không được thực hiện theo đúng quy trình ra quyết định cho thuê. Một số trường hợp cho thuê trước và hoàn thiện hồ sơ nội bộ sau để đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng, không tuân theo quy trình, làm tăng rủi ro.
  63. 51 (iii) Công tác thẩm định trước khi cho thuê còn kém chất lượng, sơ sài, mang tính hình thức và việc thực hiện quy trình cho thuê còn nhiều thiếu sót mang tính chủ quan. Chưa có quy trình thẩm định đặc thù cho từng loại khách hàng và từng ngành nghề, quy trình thẩm định dự án được sử dụng chung với tất cả các đối tượng khách hàng nên mang tính chung chung, không phản ánh hết mức độ rủi ro và các tình huống xảy ra riêng biệt của từng lĩnh vực. Chưa đánh giá được thực chất tình hình tài chính của khách hàng, chỉ phân tích dựa trên các số liệu do khách hàng cung cấp mà không đánh giá tính hợp lý của các số liệu và thông tin được cung cấp. Chưa đánh giá khách quan và toàn diện phương án kinh doanh, dự án đầu tư của khách hàng thuê tài chính cũng như đánh giá những rủi ro có liên quan trước khi ra quyết định cho thuê. Do vậy, việc xác định điều kiện cho thuê đối với khách hàng thường không dựa trên các phân tích về tính hiệu quả của phương án/dự án thuê cũng như mức độ rủi ro mà chủ yếu dựa trên đề nghị của khách hàng hoặc mang tính ước chừng. (iv) Một số khoản cho thuê được quyết định dựa trên các mối quan hệ cá nhân của những người có thẩm quyền trong việc ra quyết định cho thuê. Thông thường đối với các trường hợp này, công tác thẩm định chỉ mang tính hình thức và việc cho thuê tiềm ẩn rủi ro khá cao. (v) Công tác kiểm tra, giám sát sau cho thuê còn bị buông lỏng. Việc nhắc nợ hàng kỳ đối với khách hàng không được theo dõi sát sao, đặc biệt là những khách hàng chuyển qua nhiều cán bộ quản lý, không có những giải pháp kịp thời và kiên quyết khi khách hàng bắt đầu có dấu hiệu chậm thanh toán đã làm cho các khoản nợ có xu hướng trầm trọng hơn và khách hàng có tâm lý chây ỳ. Công tác kiểm tra, giám sát tài sản và tình hình hoạt động của khách hàng sau cho thuê không thường xuyên và còn mang tính hình thức, trường hợp khách hàng không hợp tác sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí bất lực, thiếu các biện pháp quản lý tài sản hiện đại như trang bị hệ thống định vị để giám sát hành trình và vị trí tài sản. Chưa thường xuyên cập nhật hồ sơ, phân tích các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của khách hàng, đặc biệt là những khách hàng có nợ quá hạn và nợ xấu.