Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội

pdf 79 trang yendo 5870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_giai_phap_mo_rong_hoat_dong_tin_dung_tai_tro_xuat_n.pdf

Nội dung text: Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội

  1. Luận văn tốt nghiệp "Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội"
  2. LỜI MỞ ĐẦU Lý luận cũng như thực tiễn phát triển kinh tế thế giới đã cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những lĩnh vực trung tâm quan trọng nhất trong toàn bộ các hoạt động kinh tế của nhiều quốc gia. Hoạt động xuất nhập khẩu đã góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu ngân sách, đặc biệt là thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán giải quyết công ăn việc làm cho người dân, thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của đất nước trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam từ nền kinh tế lạc hậu và kém phát triển chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường thì việc mở rộng buôn bán, quan hệ với nước ngoài là hết sức cần thiết. Sau khi nhận thức được những sai lầm trong đường lối kinh tế, Đảng và Nhà nước ta quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới theo hướng "mở cửa" nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với các nước trên thế giới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy, hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động XNK nói riêng của Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong toàn bộ nền kinh tế. Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh XNK cần phải nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các mặt hàng, muốn vậy phải có sự đầu tư thích đáng cho quá trình sản xuất, kinh doanh như đổi mới công nghệ, máy móc, trang thiết bị. Nhưng trên thực tế, vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trên lĩnh vực này còn ít ỏi, không thể giúp cho các doanh nghiệp tự đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng. Xuất phát từ thực tế này và để đạt được mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra thì cần có sự đầu tư của NHTM, đặc biệt là NHNT với tư cách là trung tâm cung ứng vốn, hỗ trợ đắc lực cho lĩnh vực XNK của nền kinh tế.
  3. Hoạt động tín dụng tài trợ XNK là một hoạt động hết sức phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro. Nó không chỉ chịu tác động của chính sách kinh tế trong nước mà còn chịu sự điều chỉnh của nhiều quy phạm, nguồn luật khác nhau và bị ảnh hưởng mạnh theo sự biến động của thị trường quốc tế. Do đó, hoạt động kinh doanh của NHNT trong việc tài trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp XNK ngày càng trở nên phong phú và đòi hỏi phải được nghiên cứu hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức. Qua một thời gian ngắn đi thực tế tại NHNT Hà Nội một Chi nhánh đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHNT Việt Nam em nhận thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung và biện pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc, tồn tại của công tác tín dụng tài trợ XNK, tiến tới mở rộng và phát triển công tác này cho phù hợp với yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường là vấn đề bức xúc có ý nghĩa thực tiễn đối với quá trình phát triển kinh tế nước nhà. Từ nhận thức đó cùng với kiến thức được trang bị qua 4 năm học ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Phạm Hồng Vân và các thầy cô trong trường cũng như sự chỉ bảo tận tình của anh chị phòng Tín dụng Chi nhánh NHNT Hà Nội, em xin mạnh dạn chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội". Về hình thức, bài viết này được trình bày theo kết cấu sau: Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội Trên cơ sở phân tích hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà Nội trong 3 năm, (2000, 2001, 2002) đề tài tập trung vào tình hình và kinh 2
  4. nghiệm thực tế của hoạt động này để từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động tín dụng XNK tại Chi nhánh. Song do kiến thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong được sự chỉ dạy của thầy cô giáo và góp ý của các bạn để bài viết được hoàn thiện tốt hơn. Nhân đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Phạm Hồng Vân người đã tận tình giúp đỡ em trong việc chọn đề tài, hướng dẫn phương hướng triển khai đề tài và tổng kết các kết quả nghiên cứu một cách có hệ thống. Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị tại NHNT Hà Nội, đặc biệt là phòng Tín dụng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cũng như chỉ bảo hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Hà Nội, tháng 4/2003 Sinh viên Lê Tuấn Anh 3
  5. CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ CHO XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu 1. 1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu. Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu mà mỗi quốc gia có thế mạnh trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định. Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm chất lượng cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm nảy sinh hoạt động thương mại quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế bên ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động XNK là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động thương mại quốc tế. Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ thuật lạc hậu, công nghệ thủ công đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những điều này cho thấy hoạt động XNK đối với nước ta càng quan trọng hơn. 4
  6. Vai trò của XNK đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một số khía cạnh cơ bản sau: * Xuất khẩu - Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. - Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích các ngành, nghề phát triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo trong kinh doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn nhờ nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra. * Nhập khẩu Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể: - Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn định về cung-cầu trong nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô. - Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất. - Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng như góp phần định hướng sản phẩm, định hướng thị trường cho xuất khẩu. 5
  7. Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế. 1. 2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu. Như đã nói trên, trong nền kinh tế mở các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Họ không chỉ phải cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài việc cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước như sự ưu đãi về thuế, sự điều chỉnh tỉ giá hối đoái phù hợp các doanh nghiệp còn cần phải có một tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các hoạt động như đổi mới dây chuyền công nghệ, mua sắm máy móc hiện đại, mua sắm nguyên vật liệu, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành Song trên thực tế do khả năng tài chính có hạn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhu cầu tài trợ cho hoạt động XNK nảy sinh từ những đòi hỏi đó và nó gắn liền với các giai đoạn của hoạt động này. Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng hết sức phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các nước phát triển, thương mại giữa các nước đang phát triển, thương mại giữa các nước phát triển và đang phát triển ) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng như với đề tài nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển. - Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển chủ yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ. Đây là những hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử đến thanh toán tiền hàng. Nhu 6
  8. cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết kế mẫu mã, sản xuất và cung cấp công trình. - Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển chủ yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ chế Và nhu cầu tài trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời. Để có cái nhìn tổng quát về nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động XNK ta sẽ xem xét nhu cầu tài trợ của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu hình thành trong cùng một hoạt động XNK hàng hoá máy móc, thiết bị kĩ thuật, công nghệ. * Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường kéo dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể: +- Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Để hoàn thành tốt giai đoạn này các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp. - Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn thành công trình không đúng như thoả thuận. Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu là người nước ngoài đang gặp khó khăn về tài chính, nhà xuất khẩu có 7
  9. thể đề nghị ngân hàng của mình cung cấp tín dụng tương đương với số tiền đặt cọc và nhà nhập khẩu có nghĩa vụ chi trả cho khoản tín dụng đó - Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như, nhà máy, xí nghiệp việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt cọc. - Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán tiếp theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu cầu tài chính cao về vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản thanh toán giữa chừng. - Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm tuỳ theo điều kiện cung ứng. - Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được giao tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp chạy thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán. - Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán. - Giai đoạn thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán trong nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ có thể chấp nhận được. Trong thời gian chờ được thanh toán nhà xuất khẩu thường có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn cho quá trình tái sản xuất tiếp theo. * Nhu cầu tài trợ nhập khẩu Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu 8
  10. cầu tài trợ để mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt. - Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: Ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp. - Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, nhà nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc, tạm ứng cho nhà xuất khẩu . - Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư. - Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập khẩu. - Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được. - Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ. Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập khẩu sẽ có nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới khi tiêu thụ được các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng. Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho XNK ở trên ta có thể khẳng định rằng hoạt động kinh doanh XNK có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy 9
  11. thì để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho XNK. 10
  12. 1.3. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động XNK là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những nguồn tài trợ thường được sử dụng là: * Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao (thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên, các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng đứng ra chấp nhận hay bảo đảm. * Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có thể là vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần hay vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân. Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên và phần lợi nhuận để lại + khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ lại lợi nhuận cao. * Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ có thể phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn, giảm được nguy cơ phá sản khi gặp khó khăn (vì có thể không phải phân chia lợi tức cổ phần hoặc có thể hoãn trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn chủ sở hữu, giảm hệ số nợ của doanh nghiệp Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp thỏa mãn những điều kiện nhất định mới được sử dụng hình thức này. Với nước 11
  13. ta, do thị trường tài chính còn chưa phát triển nên hình thức tài trợ này còn ít được sử dụng hoặc nếu có sử dụng thì hiệu quả chưa cao. * Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu. Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp. Sử dụng phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể huy động vốn cho hoạt động kinh doanh mà không dẫn đến phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi sử dụng cổ phiếu thường. Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó. * Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm bảo để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư dự án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ Tuỳ vào từng doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao cho thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn. * Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp XNK còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ Hiện nay các nguồn này thường cũng được sử dụng thông qua các Ngân hàng. Như vậy, nguồn tài trợ cho XNK rất đa dạng nhưng trong đó nguồn tín dụng ngân hàng nhờ có những ưu thế riêng nên vẫn nắm giữ một vị trí 12
  14. đặ c biệt đối với sự phát triễn của đất nước nói chung vá hoạt động XNK nói riêng 13
  15. 2. Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. 2.1. Khái niệm, Vai trò của tín dụng ngân hàng 2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng. Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật. Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà nước và các tầng lớp dân cư ”. Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có hoạt động XNK, nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt động XNK của các quốc gia. Sự tham gia hỗ trợ của các ngân hàng cho hoạt động XNK có tác động tích cực không chỉ về mặt tài chính mà còn về cả việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. 2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK được thể hiện qua các mặt sau: - Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp XNK để thu mua dự trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất của doanh nghiệp. 14
  16. - Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Kinh doanh có hiệu quả là yêu cầu của hạch toán kinh tế đồng thời cũng là một trong những điều kiện cung cấp tín dụng của ngân hàng. Do đó, tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức doanh lợi. Bên cạnh đó, với khả năng linh hoạt về thời hạn và lãi suất của tín dụng ngân hàng sẽ khuyến khích sự chủ động và sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn sao cho phù hợp với nhu cầu về vốn trong mỗi thời kỳ khác nhau. - Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng XNK diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn. - Thứ tư, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK cao và do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự có mặt của ngân hàng sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro không thanh toán khi ngân hàng đứng ra đảm bảo cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại nhờ nguồn tín dụng của ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan trọng trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được. - Thứ năm, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của nước ngoài cho hoạt động XNK. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được thực hiện qua các ngân hàng nước sở tại. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK càng có ý nghĩa hơn khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó có chính sách hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ cung cấp cho các nhà XNK những khoản tín dụng lớn với lãi xuất ưu đãi mà nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. 15
  17. 2.2. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại. Thương mại quốc tế bao gồm những mối quan hệ rất đa dạng, phức tạp. Với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho hoạt động XNK diễn ra liên tục nhanh chóng, thuận lợi cho cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Dựa trên các tiêu chí ta có thể chia tín dụng XNK ra thành các hình thức như sau: 2.2.1. Cho vay trong khuôn khổ thanh toán bằng L/C Thư tín dụng (L/C) là một văn bản pháp lý trong đó một ngân hàng cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với quy định đề ra trong thư tín dụng. * Đối với L/C trong thanh toán hàng nhập khẩu - Cho vay ký quỹ L/C Ký quỹ là một quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng xin được bảo lãnh, khách sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại ngân hàng mà họ xin được bảo lãnh và khoản tiền đó se được phong toả cho đến khi nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng chấm dứt. Thông thường khoản tiền này được tính tỷ lệ với giá trị hợp đồng mà khách hàng xin được bảo lãnh. Trong trường hợp thiếu sự tin cậy hoặc thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ 100% giá trị hợp đồng. Đối với những khách hàng đáng tin cậy hoặc có quan hệ thường xuyên thì ngân hàng có thể chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn so với giá trị họp đồng. Thông thường mức ký quỹ L/C phụ thuộc vào các yếu tố sau. + Khả năng thanh toán của khách hàng. 17
  18. + Đối tượng khách hàng + Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thấp, loại L/C trả ngay thì bắt buộc mức ký quỹ cao hơn. + Loại hàng hoá nhập khẩu, khả năng tiêu thụ. Trên cơ sở các yếu tố trên, ngân hàng sẽ quyết định mức ký quỹ, nếu như khách hàng không có đủ số dư trên tài khoản thì phải tiến hành làm đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ L/C. - Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu hoặc tài trợ thanh toán toàn bộ chứng từ giao hàng. Theo hình thức này khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh mang tính khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất kinh doanh. Đồng thời khách hàng phải lên kế hoách tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán khi đến thời điểm thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt với ngân hàng tài trợ. Trên cơ sở xem xét và phân tích kế hoạch và phản ánh của khách hàng, ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và xác định mức ngân hàng chấp nhận tài trợ. * Đối với L/C trong thanh toán hàng xuất khẩu - Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở trên cơ sở L/C đã được chấp nhận do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Ngân hàng có thể cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu để tiêu thụ sản phẩm và có thể thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. - Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước tiền hàng xuất khẩu: Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền cho mình trước khi bộ chứng từ được thanh toán. 18
  19. 2.2.2. Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ - Nhờ thu đi trong thanh toán hàng xuất khẩu: Ngân hàng cho vay thu mua, sản xuất hàng xuất khẩu, chiết khấu hoặc ứng trước bộ chứng từ hàng xuất khẩu. - Nhờ thu đến trong thanh toán hàng nhập khẩu: Ngân hàng tiếp nhận chứng từ từ ngân hàng nước ngoài, xuất trình hối phiếu đòi tiền nhà nhập khẩu. Nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán, thì cần phải có sự tài trợ của ngân hàng cho vay thanh toán hàng nhập khẩu. 2.2.3. Cho vay trên cơ sở hối phiếu Trong kinh doanh ngoại thương hối phiếu đóng vai trò rất quan trọng, trên cơ sở hối phiếu ngân hàng có các hình thức cho vay sau: * Chiết khấu hối phiếu Chiết khấu hối phiếu là một loại tín dụng ngân hàng cung cấp cho khách hàng dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi nó đến hạn thanh toán, tức là ngân hàng mua lại khoản nợ phải đòi. Chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu nhận được tiền sớm hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng mà anh ta cấp cho nhà nhập khẩu. Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng. Các ngân hàng sẽ xác định khối lượng tín dụng cấp ra(giá trị chiết khấu) theo công thức sau: Tck = M(1-Lck * t/3600) - P Trong đó: Tck: Giá trị chiết khấu M: Mệnh giá hối phiếu 19
  20. Lck: Lãi suất chiết khấu t: Thời hạn chiết khấu(ngày) P: lệ phí Có 2 hình thức chiết khấu: - Chiết khấu miễn truy đòi Ngân hàng mua lại bộ chứng từ của người xuất khẩu, giá mua sẽ thấp hơn giá trị bộ chứng từ, do ngân hàng tính trừ lại chi phí chiết khấu và thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền nhà nhạap khẩu nước ngoài. Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là người xuất khẩu bán hãn bộ chứng từ cho ngân hàng, nhạn tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm thu tiền và quyền sữ dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân hàng. ở Việt Nam các ngân hàng ít sữ dụng hình thức chiết khấu này vì nó tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng. - Chiết khấu được phép truy đòi Cũng tương tự như hình thức trên nhưng trách nhiệm thanh toán hối phiếu vẩn còn đối với người chiết khấu hối phiếu(nhà xuất khẩu ) và giá trị chiết khấu cao hơn. - Chấp nhận hối phiếu: Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu và khoản vay chỉ là một hình thức, một sự đảm bảo về tài chính. Thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền thực sự cho người vay. Tuy nhiên khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì người cho vay (ngân hàng) - người đứng ra chấp nhận hối phiếu phải trả nợ thay. Tín dụng chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của bên mua. Họ có thể đề nghị bên mua yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do bên bán ký phát. 20
  21. Nếu ngân hàng đồng ý, điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận một khoản tín dụng cho bên mua để họ thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn. Đối với ngân hàng, kể từ khi ký chấp nhận trả tiền hối phiếu cũng chính là thời điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro nếu như bên mua không có tiền thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Đương nhiên nếu đến hạn thanh toán hối phiếu, bên mua có đủ tiền thì ngân hàng thực sự không phải ứng tiền ra. Như vậy, khoản tín dụng này chỉ là hình thức, là một sự đảm bảo về tài chính. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ chỉ nhận được một khoản phí chấp nhận, khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh chịu rủi ro tín dụng mà thôi. 2.2.4. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu khác * Bao thanh toán toàn phần và bao thanh toán từng phần - Bao thanh toán toàn phần (factoring): là một hình thức tài trợ chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt động mua bán những khoản thanh toán chưa tới hạn và ngắn hạn từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá dịch vụ. Khác với hoạt động mua bán lại chứng từ thanh toán ở phần trên, hoạt động factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong cùng một thời điểm. Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng những điều kiện sau mới được phép mua bán: + Những khoản mua bán phải tồn tại một cách hợp pháp, phải có đủ tư cách pháp lý độc lập với quyền một người thứ ba. + Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những khoản thanh toán này. + Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày. 21
  22. + Không có quyền cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của người nhập khẩu hoặc nước nhập khẩu. - Bao thanh toán từng phần (forfaiting): cũng là nghiệp vụ mua bán những khoản thanh toán chưa tới thời hạn như factaring nhưng khác ở một số điểm sau: + Forfaiting chỉ bao những khoản thanh toán cụ thể riêng lẻ trong toàn bộ quá trình XNK dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu riêng. + Thời hạn thanh toán của factoring tối đa là 6 tháng trong khi thời hạn đối với forfaiting là 6 tháng đến 10 năm. Forfaiting được coi là hình thức tín dụng trung và dài hạn. + Factaring phục vụ cho những hoạt động XNK không sử dụng tới tín dụng chứng từ còn forfaiting lại dựa vào chúng và sự bảo đảm của ngân hàng. * Tín dụng thuê mua Thuê mua là hình thức tài trợ vốn, ra đời ở Mỹ vào năm 1952, sau đó nhanh chóng thâm nhập vào Châu Âu đầu những năm 1960 và dần dần hiện nay đang được các nước trên thế giới áp dụng. Thuê mua là hình thức thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng. Người thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và khi kết thúc thời hạn họ có thể được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê hay là được quyền thuê tiếp. Điều này tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên khi ký hợp đồng thuê. Có hai loại hình thức thuê mua. Đó là: cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. - Cho thuê tai chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên đi thuê được chuyển quyền sở hữu hoặc tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê. - Cho thuê vận hành: bên đi thuê thuê máy móc, thiết bị trong thời gian ngắn để sử dụng vào mục đích tạm thời. Mọi rủi ro và lợi ích đem lại đối với quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê. 22
  23. So với hình thức cho vay truyền thống, hình thức thuê mua này có những ưu điểm sau: + Các doanh nghiệp sẽ không phải bỏ tiền mua thiết bị ngay lập tức mà trả tiền thuê thiết bị theo định kỳ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn về vốn để tập trung cho sản xuất. Hình thức này có ý nghĩa nhất đối với doanh nghiệp không đủ vốn nhưng vẫn có thể đi thuê thiết bị thiết bị để sản xuất và dùng một phần lợi thu được từ sản xuất để trả tiền thuê định kỳ. + So với đi vay ngân hàng, việc thế chấp để được thuê máy móc thiết bị đơn giản hơn nhiều do thiết bị thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê trong suốt thừoi gian thuê, nên khi bên thuê không trả được nợ, bên cho thuê có thể lấy lại toàn bộ tài sản cho thuê. Ngày nay các ngân hàng thường lập công ty tài chính riêng để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp và làm phong phú thêm hoạt động của mình. * Tài trợ bảo lãnh và tái bảo lãnh Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng). Từ đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro. Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm chắc được khả năng tài chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu. Do vậy, nhà xuất khẩu sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Ngân hàng nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay vốn nước ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài chính. Trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đủ nghiệp vụ nào đó với nước bên ngoài. 23
  24. Bảo lãnh cũng có nhiều hình thức khác nhau: + Mở thư tín dụng trả chậm + Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận trên các hối phiếu + Phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài + Lập giấy cam kết trả nợ với nước ngoài . Các lợi thế của các bên liên quan trong nghiệp vụ này - Đối với nhà nhập khẩu (bên được bảo lãnh): được hưởng một khoản vốn của bên xuất khẩu mà không phải trả lãi (thực chất có thể giá bán đã tính lãi rồi) chi trả một khoản phí cho người bảo lãnh. - Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm rằng đến hạn sẽ được thanh toán nợ. Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu cũng có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại một ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu vốn của mình. - Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất kì ngân hàng nào, khi tiến hành bảo lãnh, nghĩa là được sự tín nhiệm, được sự tin tưởng về phía bên xuất khẩu, bên nhập khẩu. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chỉ cho vay trừu tượng nghĩa là ngân hàng không bỏ ra một khoản vốn nào cả, mà chỉ lấy uy tín, danh dự của ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở cho vay. Thủ tục bảo lãnh cho vay ngắn hạn theo phương thức cho vay thông thường nghĩa là khi bảo lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin vay, có khả năng thanh toán và có tài sản thế chấp. Khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu không có đủ khả năng thanh toán, thì cần phải làm thủ tục xin vay tại ngân hàng. Như vậy, mục đích bảo lãnh đã được thực hiện, nghĩa là ngân hàng bảo lãnh muốn khách hàng của mình vay nhằm thu thêm được một khoản lãi, có khách hàng mới về mặt tín dụng và chi phí bảo lãnh. 3. Rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng thương mại Rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK là một dạng rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Đó là những biến cố bất thường, không mong đợi xảy ra, dẫn đến tổn thất cho ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường 24
  25. với xu hướng toàn cầu hoá ngày càng rõ rệt và quan hệ thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng thì đồng thời hoạt động XNK cũng đồng thời cũng phát triển với quy mô ngày càng lớn. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy lợi thế của các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối ngoại với các quốc gia khác. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng của hoạt động XNK thì vai trò của ngân hàng trong việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động XNK ngày càng lớn, và cũng do vậy những rủi ro với các ngân hàng cũng ngày càng lớn hơn. những rủi ro tín dụng tài trợ XNK là rất đa dạng và khó quản lý. Bởi vì khác với hoat động tín dụng thông thường, hoạt động tín dụng tài trợ XNK chịu tác động của nhiều yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ khó nắm bắt như: tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, các cuộc khủng hoảng kinh tế chính trị ảnh hưởng rất lớn đến các quan hệ kinh tế đối ngoại, tác động trực tiếp đến tâm lý, nhu cầu cũng như nguồn cùn cấp các mặt hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các yếu tố liên quan đến tỷ giá, yếu tố thời vụ cũng ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá XNK, qua đó tác động xấu đến hoạt động của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến lợi ích của ngân hàng, dẫn tới tổn thất cho ngân hàng và nền kinh tế. Như chúng ta đã biết,trong quan hệ XNk thường luôn có một phía đối tác nước ngoài, và như vậy, các doanh nghiệp kinh doanh XNK trong nước cũng như ngân hàng tài trợ rất khó nắm bát được tất cả các thông tin cần thiết về đối tác một cách chính xác. Do đó, khả năng xảy ra rủi ro đã xảy ra thì tổn thất không thể tránh khỏi đối với doanh nghiệp cũng như ngân hàng. Mặc dù, về nguyên tắc trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và đơn vị được tài trợ luôn có những điều khoản quy định roc ràng quyền hạn của ngân hàng cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp, các điều khoản này nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp và sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả. Đông thời đơn vị được tài trợ cũng luôn phải có tài sản thế chấp đảm bảo khoản vay. Tuy nhiên, những tài sản thế chấp này lại chính là lô hàng đó. Thậm chí ngay cả khi hợp đồng XNK hàng hoá của doanh nghiệp là hoàn hảo 25
  26. và doanh nghiệp thực hiện hợp đồng một cách suôn sẻ thì rủi ro vẫn có thể xảy ra do sự vi phạn các điều khoản trong hợp đồng tín dụng, ngay cả khi các đơn vị được tài trợ hoàn toàn có khả năng thực hiện các cam kết đó. Xét một cách tổng thể, ta có thể thấy rằng, rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK cũng giống ngư của tín dụng ngân hàng nói chung nó luôn là một yếu tố bất lợi, tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, với hậu quả không thể lường trước được. Vị vậy, đòi hỏi các ngân hàng phải tìm ra biện pháp phòng ngừa, hạn chế tối đa rủi ro và thiệt hại có thể xảy ra. Muốn vậy các ngân hàng phải têưjc hiện có hiệu quả trong việc tìm hiểu thông tin về đối tác, về thị trường, về dự báo và đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Các biện pháp phải được thiết lập một cách đồng bộ và phải được thưc hiện một cách nghiêm túc và có sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng chuyên trách. Có như vậy mới có thể thực hiện tốt được công tác phòng ngừa ruỉ ro, hạn chế tối đa tổn thất, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động XNK nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, đổi mới công nghệ, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ đến cả ngân hàng và khách hàng mà nó phục vụ, các chính sách cho vay phải được phác hoạ một cách cẩn thận sau khi đã xem xét nhiều yếu tố. Sau đây là một số yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tín dụng tài trợ XNK của NHTM. 4.1. Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước Các hoạt động kinh tế nói chung và XNK nói riêng chịu tác động rất lớn bởi chính sách chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước. - Về mặt tích cực: chính sách vĩ mô của Nhà nước có thể tạo điều kiện cho vay XNK của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà nước dùng chính sách tiền tệ mở rộng thì NHTM được cấp thêm vốn dự 26
  27. trữ, khả năng cho vay của ngân hàng sẽ gia tăng. Các ngân hàng có thể có chính sách cho vay tự do hơn. Chính sách lãi suất linh hoạt, lãi suất thực dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng tài trợ XNK chủ yếu diễn ra theo hình thức cho vay bằng ngoại tệ. Vì vậy nếu Nhà nước cho phép tập trung ngoại tệ vào ngân hàng, quản lý ngoại tệ một cách chặt chẽ thì ngân hàng sẽ có nhiều nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập máy móc, thiết bị, nguyên liệu của nhà nhập khẩu. - Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thể gây ra nhiều rủi ro cho hoạt động tín dụng XNK của ngân hàng. Nếu Nhà nước không có chiến lược hướng về xuất khẩu thì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp XNK rất hạn chế. Từ đó dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ ít đi lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm xuống. Khi Nhà nước áp đặt một hàng rào thuế quan, phi thuế quan thì nó sẽ dẫn đến tăng giá của một số loại hàng nhập khẩu, lượng hàng nhập khẩu giảm dẫn đến nhu cầu vay vốn giảm. Ngoài ra, việc thay đổi nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái cũng tác động không ít đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của Ngân hàng. Môi trường pháp không ổn định, cơ chế chính sách hay thay đổi làm ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Đây chính là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho các NHTM. 4.2. Môi trường kinh tế chính trị, xã hội trong và ngoài nước Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hoặc luôn luôn bị chao đảo, biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng bị thu hẹp. Ngược lại, nếu kinh tế ổn định sẽ dẫn đến chính sách cho vay tự do hơn. Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực Đông Nam Á đã chứng minh điều đó. Tất cả hoạt động của các ngành các lĩnh vực của các quốc gia trong khu vực, đặc biệt hoạt động của hệ thống ngân hàng đã bị ảnh hưởng sâu sắc. Hàng 27
  28. loạt ngân hàng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia bị tàn phá do không thu lại được các khoản nợ, không cho vay được để bù đắp chi phí khi nhu cầu tín dụng của khu vực giảm. Tình hình chính trị xã hội chiến tranh cũng như thiên tia, dịch hoạ cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng đối với các khoản cho vay của Ngân hàng. 4.3. Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp XNK Nhu cầu tín dụng của ngân hàng là yếu tố quyết định đến hoạt động tín dụng ngân hàng được mở rộng hay thu hẹp. Song nếu có nhu cầu vay vốn để nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng khả năng hoàn trả của doanh nghiệp không cao thì ngân hàng cũng sẽ không cho vay. Mặt khác, khi ngân hàng cấp vốn cho vay các doanh nghiệp XNK, nhưng vì một nguyên nhân nào đó các ngân hàng này gặp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh (bị huỷ bỏ hợp đồng, hàng bị mất cắp giảm giá trị ) làm cho họ không thu hồi đủ vốn để trả lại các khoản vay cho ngân hàng. Đối với ngân hàng khi mà có quá nhiều khách hàng đến hạn trả mà khôn có khả năng thanh toán hoặc cố ý chây ỳ thiếu ý thức tôn trọng các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán của mình thậm chí ngân hàng còn rơi vào tình trạng phá sản. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của doanh nghiệp hoạt động XNK nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng. 4.4. Năng lực cho vay của ngân hàng Khả năng huy động vốn của năng lực cho vay phụ thuộc vào vốn tự có của ngân hàng. Do đó nếu doanh nghiệp kinh doanh XNK có nhu cầu vốn lớn, trong khi nguồn vốn của ngân hàng nhỏ thì sẽ không thoả mãn yêu 28
  29. cầu của doanh nghiệp. Tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nguồn vốn ngoại tệ. Do đó làm thế nào để huy động đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp nhập khẩu đang là vấn đề lớn đối với nhiều NHTM. 4.5. Các nhân tố khác Trình độ quản lý kinh doanh, quản lý vốn cũng như trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên tín dụng không phải là không có ý nghĩa đối với hoạt động cho vay XNK của ngân hàng. Với một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ trong thẩm định dự án, xem xét đơn vay vốn của khách hàng thì chất lượng tín dụng sẽ cao và ngược lại. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHTM cũng luôn phải đối mặt với rủi ro lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, sự biến động này có thể diễn ra hàng ngày. Nếu tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ khuyến khích cả nhập khẩu và xuất khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng sẽ phát triển. Hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Có nhân tố tác động tích cực khuyến khích mở rộng hoạt động cho vay. Song cũng có không ít những nhân tố kìm hãm, gây rủi ro cho hoạt động này của ngân hàng. Các ngân hàng khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp XNK phải lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động ngoại thương để từ đó có những quyết định đúng đắn, kịp thời, đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. 29
  30. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI. 1. Khái quát về NHNT Hà Nội 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNT Hà Nội Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh TP Hà Nội (gọi tắt là NHNT Hà Nội) được thành lập theo quyết định số 177/QĐ/NH ngày 22 tháng 12 năm 1984 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), chính thức đi vào hoạt động từ 01/ 03/1985 theo sự quản lý và phân công của NHNT Việt Nam. NHNT Hà Nội là một tổ chức tài chính có tư cách pháp nhân, thực hiện hạch toán kế toán và kinh tế thống nhất trong hệ thống NHNT Việt Nam, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, đảm bảo và phát triển vốn, tự bù đắp chi phí và tự chịu rủi ro. NHNT Hà Nội là ngân hàng trực thuộc và là Chi nhánh cấp I trong hệ thống NHNT Việt Nam, cùng với NHNT TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa- Vũng Tàu được xếp loại doanh nghiệp hạng I 1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội Cơ cấu tổ chức của NHNT hà nội được trình bày theo sơ đồ sau 30
  31. Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức NHNT Hà Nội: Ban Giám Đốc Phòng Tín Dụng Phòng Kế Toán -Tài Tổng Hợp Chính Phòng Thanh Toán Phòng Ngân quỹ Quốc Tế Phòng Tin Học Phòng Dịch Vụ Khách Hàng Phòng Hành Chính Tổ Kiểm Tra Nội Nhân Sự Bộ Tổ Quan Hệ Khách Hàng 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNT Hà Nội. Trong những năm vừa qua, cùng với hệ thống NHNT Việt Nam nói chung, NHNT Hà Nội đã có nhiều thành công tích cực trong hoạt động kinh doanh, tiếp tục khẳng định vị trí của mình trong quá trình phát huy các nguồn nội lực, thu hút nguồn ngoại lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Thủ đô Hà Nội. Đây là kết quả được duy trì trong những năm vừa qua, được thực hiện cụ thể trên các mặt nghiệp vụ: 2.1. Về huy động vốn. - Nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế luôn là yêu cầu bức thiết, nhất là đối với địa bàn Hà Nội. Hiện nay, NHNT Hà Nội thực hiện huy động vốn bằng VND và các ngoại tệ mạnh thông qua các hình thức như: Tiết kiệm (có kỳ hạn và không kỳ hạn), phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, mở tài khoản 31
  32. - Về ngoại tệ, NHNT Hà Nội thực hiện huy động và thu đổi 11 loại ngoại tệ, chủ yếu là các loại ngoai tệ mạnh và các ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu XNK của nền kinh tế. Trong năm 2002 vừa qua, với vị trí và uy tín được tạo dựng trong nhiều năm, NHNT Hà Nội đã hoàn thành tốt công tác huy động vốn theo kế hoạch, đóng góp lớn vào thành tích huy động vốn chung của toàn hệ thống NHNT. Kết quả như sau: Tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh trong năm 2002 là 3996 tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ 2001. Trong đó: + Huy động từ dân cư đạt 3.254 tỷ đồng, tăng 24% và chiếm 81% tổng số vốn huy động + Huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 740 tỷ đồng, tăng 13% và chiếm 18% trong tổng nguồn vốn huy động. Nhờ vậy, tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh trong năm 2002 là 4.242 tỷ đồng. Trong đó: + Vốn điều lệ : 13 tỷ VND + Vốn và các quỹ khác: 107 tỷ VND (do tích lũy qua các năm). + Vốn huy động: 4.122 tỷ VND 2.2. Về công tác sử dụng vốn. NHNT Hà Nội sử dụng vốn theo nguyên tắc: An toàn và Hiệu quả. Ngân Hàng chủ yếu cho vay các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và một số tỉnh lân cận. Hiện nay NHNT Hà Nội cho vay 1 khách hàng tối đa là 80 tỷ đồng, và cho vay trung – dài hạn tối đa một dự án là 35 tỷ đồng. Ngân hàng tập trung cho vay phục vụ XNK, đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng các nhà máy lớn trên địa bàn Hà Nội, cho vay các dự án phục vụ công nghiệp, giao thông công cộng, y tế, xây dựng cơ bản Phương thức cho 32
  33. vay của Ngân hàng là khá phong phú, tuy vậy hai phương thức cho vay chủ yếu của NHNT Hà Nội là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng. Với kết quả sử dụng vốn sinh lời của Chi nhánh trong năm 2002 đạt 99% tổng nguồn vốn huy động, tăng 62% so với năm 2001. Chi nhánh đã chủ động mở rộng hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng vốn có hiệu quả cho nền kinh tế và tăng cường nguồn vốn cho NHNT Việt Nam, thông qua 2 kênh sử dụng vốn chính là đầu tư tín dụng trực tiếp và điều chuyển vốn nội bộ. Công tác tín dụng của Chi nhánh trong năm 2002 đã thực sự khởi sắc: Doanh số cho vay đạt 3. 625 tỷ đồng, tăng 64%. Doanh số thu nợ đạt 3. 255 tỷ đồng, tăng 62%, dư nợ tín dụng đạt 985 tỷ đồng, tăng 60% so với năm 2001. Trong đó: - Dư nợ tín dụng ngắn hạn đạt 793 tỷ đồng, tăng 74%. Chi nhánh đã đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho các khách hàng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt được thời cơ kinh doanh. Đặc biệt, Chi nhánh đã thực hiện cho vay USD để thu mua và làm hàng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của thành phố với doanh số cho vay đạt 4 triệu USD. - Dư nợ tín dụng trung và dài hạn đạt 192 tỷ đồng, tăng 107%. Chi nhánh đã chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế xã hội ở Thủ đô. Hiệu quả tín dụng của Chi nhánh là rõ rệt, mặc dù mở rộng và tăng nhanh cả về doanh số và số dư cho vay nhưng vẫn đảm bảo an toàn và có chất lượng, dư nợ quá hạn chỉ chiếm 0,6% tổng dư nợ, đặc biệt trong năm 2002 không phát sinh một khoản nợ quá hạn nào. 2.3. Về công tác thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ. 33
  34. Phát huy thế mạnh và uy tín đã tạo dựng được trên trường quốc tế của toàn hệ thống, NHNT Hà Nội đã thực sự trở thành địa chỉ tin cậy cho các doanh nghiệp hoạt động XNK trên địa bàn. Công tác thanh toán quốc tế năm 2002 có chất lượng tốt với tổng doanh số thanh toán XNK cả năm đạt 374 triệu USD, tăng 18% so với năm 2001 (Chủ yếu là thông qua L/C, D/P, D/A, TTR). Trong đó doanh số thanh toán nhập khẩu tăng 30%, riêng doanh số thanh toán xuất khẩu bằng 78% so với doanh số thanh toán xuất năm 2001 do khó khăn hoạt động xuất khẩu chung của cả nước. Bảng 1: Doanh số thanh toán XNK qua các năm (Đơn vị: Nghìn USD) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Nhập khẩu 210. 144 239. 589 292. 196 Xuất khẩu 83. 434 87. 721 68. 863 (Nguồn: Báo cáo tín dụng của NHNT Hà Nội qua các năm) Đi đôi với hoạt động thanh toán XNK, công tác kinh doanh ngoại tệ cung được chú trọng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu về ngoại tệ trong thanh toán XNK. Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2002 tăng mạnh, đạt 131 triệu USD, tăng 13% so với năm 2001. Chi nhánh đã tự chủ động cân đối các nguồn ngoại tệ để cung ứng cho nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu ding của các doanh nghiệp và khách hàng có quan hệ. 2. 4. Về công tác Kế toán, Thanh toán Ngân hàng Hiện nay NHNT Hà Nội đã tích cực chủ động tham gia cùng với NHNT Việt Nam và Ngân Hàng Nhà nước ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại vào công tác thanh toán của ngân hàng đảm bảo thanh toán nhanh, chính xác và tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn của các doanh nghiệp qua Ngân hàng. 34
  35. Có thể nói, hiên nay NHNT Việt Nam nói chung và NHNT Hà Nội nói riêng có công nghệ thanh toán hiện đại nhất trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. NHNT Hà Nội là đơn vị đầu tiên trong toàn hệ thống ứng dụng chương trình “Tầm nhìn 2010 – Hệ thống VCB Vision 2010”, đây là dự án của Ngân Hàng Thế Giới do Vietcombank triển khai dựa trên nền tảng công nghệ hiên đại nhất của Mỹ. Các ứng dụng nổi bật của chương trình này là: - Là hệ thống xử lý trực tuyến và các dịch vụ hỗ trợ. - Có hệ thống định hướng khách hàng. - Giao dịch một cửa - Gửi một nơi, rút nhiều nơi (điều này các Ngân hàng khác chưa làm được). - Thanh toán tự động. Nhờ đó, năm 2002 lượng khách hàng đến mở tài khoản tăng 46% so với năm 2001, số lượng khách hàng có tài khoản đến 31/12/2002 là 31.982, trong đó có 570 đơn vị và 4106 cá nhân mở tài khoản giao dịch tại Chi nhánh. Bảng 2: Số lượng tài khoản giao dịch qua các năm: (Đơn vị: tỷ đồng) Năm 2002 2001 2000 Số lượng 16. 248 21. 215 31. 982 ( nguồn: báo cáo của NHNT Hà nội) Doanh số thanh toán trong hệ thống Ngân Hàng Ngoại Thương đạt 34.509 tỷ đồng, tăng 45%; Thanh toán bù trừ đạt 5.045 tỷ đồng, tăng 16%; Thanh toán qua NHNN đạt 2.294 tỷ đồng, tăng 47% so với năm 2001; Thanh toán liên Ngân hàng áp dụng từ tháng 5 - 2002 đạt 656 tỷ đồng. 2.5. Về dịch vụ kiều hối, thẻ và bảo lãnh Ngân Hàng 35
  36. Với chính sách đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, công tác dịch vụ Ngân hàng của Chi nhánh trong năm 2002 tăng mạnh. Chất lượng thanh toán và trình độ phục vụ ngày càng được nâng cao, công tác thanh toán chi trả kiều hối của Chi nhánh trong năm 2002 đạt doanh số 15,546 triệu USD. Tuy còn nhỏ so với hơn 2 tỷ USD kiều hối được chuyển về trong năm qua nhưng cũng đã tăng tới 94% so với năm 2001. NHNT Hà Nội đã mở rộng và phát triển các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng hiện đại vào cuộc sống. Ngoài các chương trình dịch vụ mới như VCB-Online, Home-banking, E-banking, Ci-tad Ngân hàng đã chú trọng tạo điều kiện cho khách hàng giao dịch, tiếp cận với các dịch vụ thanh toán mới nhất của ngân hàng. Công tác phát hành thẻ lần đầu tiên được Chi nhánh triển khai đã có hiệu quả tốt: - Thẻ rút tiền mặt tự động ATM số lượng phát hành đạt 3.086 thẻ, doanh số thanh toán là 35 tỷ đồng, - Thẻ Visa, Master số lượng thẻ mới phát hành đã đạt 162 thẻ, doanh số thanh toán thẻ tín dụng là 128 ngàn USD, tăng 44% so với năm 2001. Hiện nay ngoài Visa và Master, NHNT Hà Nội còn phát hành và thanh toán các loại thẻ tín dụng khác như Amex, Diner Club, và thẻ ghi nợ VCB-ATM. Năm 2002 cũng là năm mà dịch vụ bảo lãnh ngân hàng tăng mạnh về cả số lượng và loại hình bảo lãnh. Nhiều hình thức bảo lãnh được thực hiện với các mức ký quỹ phù hợp, tạo điều kiện cho khách hàng có thể sử dụng dịch vụ bảo lãnh ngân hàng mà không bị ứ đọng vốn (các loại hình bảo lãnh hiện nay ngân hàng đang áp dụng bao gồm: Bảo lãnh Thanh toán, bảo lãnh Dự thầu, và bảo lãnh Thực hiện hợp đồng). Tổng doanh thu bảo lãnh cả năm đạt 72.135 triệu đồng, tăng 366% so với năm 2001. Năm vừa qua không có khoản bảo lãnh nào bị quá hạn. 36
  37. Hiện nay Chi nhánh đang áp dụng việc tín chấp, giảm mức ký quỹ xuống nhằm thu hút nhiều khách hàng hơn nữa. 3. Thực trạng hoạt động tín dung xuất nhập khẩu tại NHNT Hà nội. Trong toàn bộ chuyên đề này tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD được sử dụng thống nhất như sau: Tỷ giá USSD/VNĐ = 14501 (năm 2000) = 15054 (năm 2001) = 15349 (năm 2002) 3.1. Về công tác huy động vốn Huy động vốn là một khâu quan trọng trong hoạt động ngân hàng nhằm tạo nguồn cho hoạt động tài trợ của ngân hàng. Xét về mặt này NHNT Hà Nội đã thực hiện khá tốt. Bảng3: Cơ cấu nguồn vốn huy động (Đơn vị: triệu đông, nghìn USD) 2000 2001 2002 Chỉ tiêu % so với % so với Số tiền Số tiền Số tiền 2000 2001 1/Tiền gửi TCKT 403. 336 558221 138, 4 739537 132, 48 - Đồng Việt Nam 330338 415000 125, 63 540000 106, 93 72. 998 143221 199537 - Ngoại tệ 195, 91 132, 67 (5034) (9500) (13000) 2/Tiền gửi dân cư 2277654 2651221 116, 84 3237004 122, 09 - Đồng Việt Nam 180592 230000 127, 36 620000 278, 03 2097062 2431221 2617004 - Ngoại tệ 115, 93 110, 00 (144615) (161500) (170500) 37
  38. 3/Các nguồn khác 34082 49701 145, 82 19817 39, 87 - Đồng Việt Nam 9140 23 - 17 74, 91 24942 49678 19800 - Ngoại tệ 199, 17 62, 50 - (3300) (1290) Tổng 2756735 3268935 118, 58 3996342 121, 53 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh hàng năm của NHNT Hà nội) Biểu 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNT Hà Nội tiền gửi dân cư chiếm bộ phận chủ yếu trong tổng nguồn vốn huy động. Mặc dù gặp phải những khó khăn vào cuối năm 2002 do tình hình chính trị trên thế giới có biến động và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, nhưng nhìn chung nguồn vốn của ngân hàng tăng nhanh qua các năm. Để đạt được kết quả huy động vốn như trên, Chi nhánh đã áp dụng nhiều biện pháp, hình thức huy động khác nhau như phát hành kỳ phiếu, cung cấp dịch vụ ATM, ngân hàng trực tuyến, nâng cao chất lượng phục vụ, điều này đã tạo ra thuận lợi cho khách hàng, tạo uy tín cho ngân hàng. Trong năm 2002, tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh đạt 3396342 triệu đồng tăng 21,53% so với năm 2001 38
  39. + Nguồn vốn VND huy động năm 2002 đạt 11600 triệu đồng chiếm 29% tổng nguồn vốn, tăng 59,34% so với năm 2001. Nguyên nhân chủ yếu là lãi suất huy động tăng và đạt mức cao kỷ lục trong vài năm gần đây. + Huy động vốn ngoại tệ đạt 184790 nghìn USD tăng 10,78% so với năm 2001. + Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì huy động vốn ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với huy động băng VND, đạt doanh số 2836342 triệu đồng (Quy VND theo tỷ giá 15349VND/USD), chiếm tỷ trọng 71% tổng nguồn vốn huy động 3.2. Về hoạt động sử dụng vốn tài trợ các hoạt động xuất nhập khẩu Hoạt động tín dụng XNK tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội ngày càng diễn ra sôi nổi và đa dạng. Để đáp ứng nhu cầu vốn trong hoạt động XNK của các doanh nghiệp, Ngân hàng đã tiến hành đa dạng hoá các hình thức tài trợ, áp dụng nhiều hình thức tài trợ mới, đồng thời không ngừng cải tiến các hình thức tài trợ mới. Hiện nay, tại NHNT Hà Nội có áp dụng nhiều hình thức tín dụng tài trợ XNK, bao gồm:  Cho vay phục vụ nhập khẩu, gồm có: - Cho vay Ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, hàng hoá, khuyến khích cho vay đối với những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được. -Cho vay bằng Đồng Việt Nam để mua Ngoại tệ phục vụ nhập khẩu. -Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu, cho vay ký quỹ L/C. -Bảo lãnh.  Cho vay phục vụ xuất khẩu, gồm có: - Cho vay vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết. - Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu. Hiện nay tại NHNT Hà Nội chưa áp dụng các hình thức như tín dụng thuê mua, tín dụng chấp nhận hối phiếu, tín dụng bao thanh toán. 39
  40. Hoạt động tài trợ xuất nhập là hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của NHNT Hà Nội. Thực hiện phương châm mở rộng hoạt động tín dụng đồng thời bảo đảm an toàn vốn, lợi nhuận hợp lý, Chi nhánh đã nổ lực vươn lên đáp ứng yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn Thủ đô. Dựa trên sự phân loại tín dụng tài trợ XNK theo các tiêu chí khác nhau ta đi sâu phân tích tình hình hoạt động tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội: * Theo thời hạn khoản tài trợ Bảng 4: Doanh số cho vay tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội (Đơn vị: 1 triệu đồng, 1000USD) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1/Tín dụng Ngắn hạn 879426 895037 1459253 a-Đồng Việt Nam 380476 497327 739247 b-Ngoại tệ 34408 26419 46909 2/Tín dụng trung dài hạn 47273 40221 43340 a-Đồng Việt Nam 3233 19040 26272 b-Ngoại tệ 3037 1407 1112 Tổng số 926699 935260 1502593 (Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà Nội) Cuối năm 2001, do sự biến động về tình hình chính trị thế giới, nguy cơ khủng bố tăng cao, đặc biệt là sự kiện ngày 11/9, đã làm ảnh hưởng đến hoạt động XNK của Việt Nam, do đó cũng làm ảnh hưởng đến doanh số cho vay của ngân hàng, năm 2001 doanh số cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ chỉ có 26419 nghìn USD giảm 23, 2% so với năm 2000. 40
  41. Đầu năm 2002, ban giám đốc đã đặc biệt chú trọng đến công tác tín dung của Chi nhánh, đề ra nhiều biện pháp thiết thực, kết quả là doanh số cho vay đã tăng mạnh, tổng dư nợ đạt 1502593 triệu đồng, tăng 60,7% so với năm 2001. Đặc biệt tín dụng ngắn hạn đạt 1459253 triệu đồng, tăng 63% so với năm 2001, doanh số cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ tăng mạnh, đạt 46909 nghìn USD, tăng 77,6% so với năm 2001. Tín dụng trung dài hạn cũng có sự tiến bộ đáng kể đạt 43340 triệu đồng, tăng 3119 triệu so với năm 2001. Về cơ cấu cho vay qua biểu 1 ta thấy là tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số cho vay phục xuất nhập khâu. Năm 2002 cho vay ngắn hạn có sự tăng đột biến so với năm 2001 về doanh số cũng như cả 2 loại tiền VND, Ngoại tệ. Biểu 2: Cơ cấu tín dụng theo theo thời hạn từ 2000 - 2002 * Xét hoạt động tài trợ XNK theo mặt hàng xuất khẩu hay nhập khẩu Một nhiệm vụ quan trọng của Chi nhánh NHNT Hà Nội là phục vụ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá XNK. Do đó, Ngân hàng rất chú trọng đến hình thức cho vay theo mặt hàng. Các mặt hàng chủ yếu mà ngân hàng tài trợ là: 41
  42. - Về xuất khẩu: Chi nhánh chú trọng cho vay đối với các ngành có thế mạnh của nền kinh tế như hàng dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ, giầy dép các loại, nông sản -Về nhập khẩu: Chi nhánh quan tâm chú ý đến hoạt động cho vay nhập khẩu máy móc, điện tử và linh kiện, thuốc chữa bệnh, hoá chất các loại 42
  43. Bảng 5: Cho vay tài trợ XNK theo mặt hàng tại NHNT Hà Nội (Đơn vị: 1 triệu đồng, 1000USD) Mặt hàng Dư nợ VND Dư nợ ngoại tệ 2000 2001 2002 2000 2001 2002 I/Hàng nhập khẩu 75502 65645 102194 28332 24710 37729 1. Máy móc 4552 5627 3066 5763 3016 9627 2. Sắt thép 20125 17501 25549 3250 2125 3521 3. Xe máy và linh kiện 7624 6984 5110 2115 6240 5615 4. Điện tử và linh kiện 23221 20153 34746 6410 8115 7428 5. Thuốc chữa bệnh 3294 2626 4088 584 518 921 6. Bông, sợi, vải 6427 10129 20439 1121 1237 2325 7. Hoá chất các loại 3721 1876 3066 610 2310 1015 8. Hàng khác 6538 749 6132 8479 1149 7277 II/Hàng xuất khẩu 258009 310578 520778 1. Cà phê 18515 21156 78117 2. Hàng lâm sản 125645 64520 130195 3. Hàng dệt may 84210 105273 155168 4. Hàng thủ công mỹ 24620 42520 104156 nghệ 5. Hàng khác 5019 77109 53142 III/Cho vay khác 185340 187052 300519 Tổng số 518851 563275 923491 28332 24710 37729 (Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà nội) NHNT Hà Nội không có sự phân biệt rõ ràng nào về nghành hàng được XNK. Tuy nhiên, do nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên các nhu cầu về máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến, hàng hoá vật tư là nhu cầu thiết thực. Vì vậy, theo khuyến cáo của Chính phủ, NHNT Hà Nội hạn chế tài trợ nhập các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc các mặt hàng mà các nhà sản xuất trong nước có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng 43
  44. nội địa. Điều này góp phần bảo vệ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy nền kinh tế đi lên. Chi nhánh cho vay VNĐ đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu, mặt hàng dệt may và thủ công mỹ nghệ có tổng dư nợ cho vay nhiều nhất. Điều này rất phù hợp với cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vì đây là hai trong số 16 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước ta. Dư nợ cho vay xuất khẩu trong năm 2002 tại NHNT Hà Nội đạt 520778 triệu đồng, tăng 66,7%. So với năm 2001, về nhập khẩu, do sự hồi phục của nền kinh tế nên nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị điện tử linh kiện của nền kinh tế tăng mạnh nên dư nợ cho vay bằng VND đạt 102194 triệu đồng, tăng 55,7% so với năm 2001, dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 37729 nghìn USD tăng 52,7% so với năm 2001. Trong đó, máy móc các loại là mặt hàng có dư nợ cho vay nhiều nhất, năm 2002 cho vay ngoại tệ cho vay ngoại tệ để nhập khẩu máy móc đạt 9627 nghìn USD, tăng hơn 2 lần so với năm 2001. Đặc biệt có sự chuyển biến rõ về hình thức nhập khẩu, trong cơ cấu cho vay, cho vay phục vụ nhập khẩu máy móc chiếm vị trí hàng đầu, trong khi đó cho vay phục vụ nhập khẩu hàng tiêu dùng điện tử giảm, chỉ chiếm vị trí thứ 2. * Về cơ cấu cho vay xuất khẩu so với nhập khẩu tại NHNT Hà Nội Bảng 6: Cơ cấu cho vay Xuất khẩu-Nhập khẩu tại NHNT Hà Nội (Đơn vị: Triệu đồng) 2000 2001 2002 Chỉ tiêu Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng 1-Cho vay NK 486344 46,79 437629 52,48 681296 45,34 2-Cho vay XK 258009 31,2 310578 28,84 520778 34,66 3-Cho vay 185340 22 187052 19 300519 20 khác Tổng 926699 935260 1502593 (Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà nội) 44
  45. Trong cơ cấu cho vay tại NHNT Hà Nội, doanh số cho vay nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn nhất (Trung bình trên 45%). Tuy nhiên, trong 3 năm qua tỷ lệ này có xu hướng giảm dần, từ 52,48% vào năm 2000 còn 45,34% vào năm 2002. Trong năm 2001, doanh số cho vay xuất khẩu đã tăng 120,37% so với năm 2000, còn cho vay nhập khẩu giảm 10,12%, thể hiện xu hướng nhập khẩu mạnh của các đơn vị kinh doanh. Trong năm 2002, doanh số cho vay XNK tăng mạnh, trung bình là 160% so với năm 2001. Có được kết quả trên là do chính sách huy động vốn tích cực của Chi nhánh nhằm thu hút được một lượng vốn đáng kể để phục vụ cho hoạt động cho vay đối với nền kinh tế, chính sách khách hàng linh hoạt và đặc biệt là việc thực thi một chính sách lãi suất hấp dẫn so với các Ngân hàng khác. Biểu 3: Cơ cấu cho vay xuất khẩu so với nhập khẩu 3.3. Đánh giá hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội 3. 3. 1 Những mặt tích cực đạt được Trong bối cánh hoạt động tiền tệ của Ngân hàng nói chung và NHNT Hà Nội nói riêng đã gặp nhiều khó khăn, rủi ro vẫn còn tiềm ẩn, tất cả các 45
  46. cán bộ làm công tác tín dụng phải chấn chỉnh hoạt động, đi vào kỷ cương tuân thủ chặt chẽ theo quy định cho vay. Với phương châm cho vay an toàn, hiệu qủa và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro phát sinh nhằm từng bước nâng cao chất lượng tín dụng, việc thẩm định, phê duyệt cho vay đã từng bước được cải tiến đáp ứng nhu cầu của khách hàng, trách nhiệm của cán bộ tín dụng dần dần được nâng cao. Do vậy hoạt động tín dụng của Chi nhánh NHNT Hà Nội đã đạt được một số kết quả nhất định góp phần vào kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh, thể hiện ở một số mặt sau: - Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt về cả lãi suất cũng như giành giật khách hàng của các Ngân hàng hoạt động trên địa bàn Thủ đô, Chi nhánh luôn quan tâm đặc biệt tới công tác khách hàng, bên cạnh việc duy trì ưu đãi với khách hàng truyền thống và khách hàng vay có giá trị lớn, Chi nhánh đã quan tâm phát triển sản phẩm mới như ngân hàng trực tuyến, ATM mở rộng thêm khách hàng mới với mục đích an toàn, hiệu quả. Do vậy, tín dụng tăng trưởng mạnh. Đến ngày 31/12/2002 doanh số cho vay phục vụ XNK đạt 1502593 triệu đồng, chiếm 44.57% tổng dư nợ cho vay và tăng 61% so với năm 2001. - Các phương thức tài trợ truyền thống như: Cho vay ngắn, trung- dài hạn có bảo đảm, thanh toán L/C, chiết khấu thương phiếu ngày càng được Chi nhánh hoàn thiện và phát triển. Bên cạnh đó, Chi nhánh không ngừng phát triển thêm các phương thức tài trợ mới để đảm bảo đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho khách hàng như: Cho vay ứng trước từ hàng xuất khẩu, mở tín dụng trả chậm, tín dụng thuê mua - Nguồn thông tin thu thập được trong quá trình cho vay ngày càng phong phú đa dạng. Nếu như trước đây các thông tin về khách hàng dùng để phân tích thường được cung cấp bởi chính khách hàng, thì hiện nay ngoài nguồn thông tin từ khách hàng vay vốn, Chi nhánh còn tiến hành thu thập thông tin từ các tài liệu phân tích thị trường, tài liệu lưu trữ liên ngân hàng, các văn bản luật, thông tin từ Trung tâm phòng ngừa rủi ro, thông tin 46
  47. từ hệ thống thông tin của Ngân hàng Nhà nước, thông tin từ các cơ quan kiểm toán Ngoài ra, trong điều kiện hiện nay, các cán của Chi nhánh còn được trang bị và hỗ trợ khá tốt với những phương tiện cần thiết như máy tính nối mạng, điện thoại, máy fax Điều này một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ Chi nhánh nhanh chóng có được những thông tin cần thiết, thu giảm thời gian thẩm định, mặt khác giúp cho các cán bộ dễ dàng hơn trong qúa trình thu nợ, quản lý tài khoản tiền gửi của khách hàng - Chi nhánh đã bám sát yêu cầu thực tế của các doanh nghiệp để đầu tư kịp thời vào các ngnàh kinh tế then chốt cuả Thủ đô. Trong năm 2002 đã cho vay được 24 dự án, các dự án đều phát huy hết hiệu quả trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn ngoại tệ tăng 7.75% so với năm 2001 - Với phương châm luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt với trang thiết bị hiện đại, giờ đây Chi nhánh đã có khả năng đáp ứng cho khách hàng các loại sản phẩm với chất lượng cao nhất, các dịch vụ của Chi nhánh ngày càng phong phú. Đặc biệt Chi nhánh đã áp dụng dịch vụ trọn gói (từ mở tài khoản, cho vay, mua bán ngoại tệ đến thanh toán XNK ) cho khách hàng lớn của mình, điều này đã được đông đảo khách hàng trong và ngoài nước hoan nghênh. - Các biện pháp đảm bảo tiền vay được cán bộ chi nhánh thẩm định tương đối cẩn thận, hạn chế được tình trạng một tài sản thế chấp được khách hàng thế chấp để vay vốn ở hai nơi. Các phương thức chiết khấu thương phiếu được sử dụng, tính toán một cách linh hoạt đảm bảo thận lợi cho khách hàng trong việc vay vốn. - Chi nhánh rất chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Hiên nay Chi nhánh có một đội ngũ cán bộ trẻ, năng động với trình độ nghiệp vụ vững vàng, đây là cơ sở để phát triển và hoàn thiện các phương thức tín dụng tài trợ XNK hiện Chi nhánh đang áp dụng, có khả năng đáp ứng được các yêu cầu đối với các phương thức tài trợ phức 47
  48. tạp, đồng thời phát triển thêm các hình thức mới nhằm đa dạng hoá các hình thức tài trợ tại chi nhánh. - Hệ thống trang thiết bị thông tin ngày càng hiện đại với số lượng ngày càng nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho Cán bộ trong việc cập nhật thông tin, phân tích thông tin, soạn thảo các văn bản cũng như tiếp cận với các phương thức mới, các điều luật mới trong hoạt động thanh toán quốc tế 3.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân 3.3.2.1. Những tồn tại Bên cạnh những thành công đã đạt được thì công tác tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà Nội vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục: * Tồn tại lớn nhất, khó khăn và lâu dài nhất cho hoạt động tín dụng của Chi nhánh đó là nợ tồn đọng (bao gồm nợ khoanh, nợ chờ xử lý) rất lớn mà chưa có biện pháp giải quyết hữu hiệu. Phần lớn các khoản nợ khoanh đều bị giảm, xoá, không có nguồn hỗ trợ bù đắp, ngoài việc bán tài sản thế chấp. Quá trình hoàn thiện thủ tục đưa tài sản thế chấp ra bán đấu giá tại trung tâm bán đấu giá thuộc sở tư pháp Hà Nội vẫn còn nhiều vướng mắc như hồ sơ thế chấp không đầy đủ hoặc giả mạo; con nợ chây ỳ cản trở Ngân hàng bán tài sản, thời hạn khởi kiện đã hết, các tranh chấp dân sự phát sinh cản trở việc phát mại tài sản để thu nợ; thủ tục bán đấu giá còn gây phiền hà cho khách hàng như mức lệ phí đấu giá, tiền đặt cọc, tình trạng buôn ép giá kiếm lời làm ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng không muốn đưa tài sản thế chấp ra bán tại các trung tâm. Bên cạnh đó, phần lớn các DNNN chưa được cấp giấy chứng từ nhận chủ truyền tài sản thuộc quản lý của doanh nghiệp. Mặt khác, việc đảm bảo bằng tài sản của các DNNN chỉ mang tính hình thức, nên khi doanh nghiệp không có khả năng hoàn trả được nợ thì việc xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng sẽ rất khó khăn, không để giải quyết nhanh chóng và thời gian kéo dài, dẫn đến ứ đọng vốn trong kinh doanh của Ngân hàng. 48
  49. Bảng 7: Tình hình nợ quá hạn (Quy VND) trong hoạt động tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội (Đơn vị: Triệu đồng) 2000 2001 2002 Chỉ tiêu Tỷ Tỷ Tỷ Số tiền Số tiền Số tiền trọng(%) trọng(%) trọng(%) Tổng dư nợ 357. 652 485. 652 502. 736 Nợ quá hạn 16. 702 4, 67 15. 061 3, 1 17. 356 3, 45 Nợ khoanh 28. 752 - 29. 201 - 23. 562 - (Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà nội) Nhìn vào bảng (Bảng 5) chúng ta thấy rằng: tỷ lệ nợ quá hạn tại NHNT Hà Nội là thấp, có xu hướng giảm trong 2 năm gần đây so với mức 4,67% vào năm 2000. Hầu hết các khoản nợ quá hạn trên đây đều là nợ ngắn hạn và tập trung vào một số doanh nghiệp nhà nước, và các khoản nợ này là từ những năm trước còn tồn đọng lại, khiến cho tình hình tài chính của Chi nhánh không được lành mạnh. Qua các con số trên cho ta thấy rủi ro trong hoạt động của Chi nhánh là có thể xảy ra, do đó đòi hỏi Chi nhánh cần phải có biện pháp phù hợp kịp thời nhằm phòng tránh các rủi ro có thể xảy ra, đồng thời phải giải quyết triệt để số lượng nợ quá hạn còn tồn đọng, tránh dẩn đến nợ khó đòi, gây tổn thất cho Chi nhánh. Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn 3,45% vào năm 2002 là không lớn, song con số hơn 17 tỷ đồng nợ quá hạn thì không nhỏ, và nếu để chúng biến thành nợ khó đòi dẩn đến tổn thất nguồn vốn thì sẽ gây ra thiệt hại lớn cho Chi nhánh. 49
  50. * Doanh số cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn nhỏ, có thể thấy trong doanh số cho vay cả ngắn hạn, trung và dài hạn thì doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ lớn (trung bình trên 90% tổng doanh số cho vay). Đành rằng rủi ro cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất cao, việc định hướng chiến lược cho vay XNK đối với DNNN là khá hợp lý vì nó đảm bảo mục tiêu an toàn và lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, số lượng DNNN có nợ quá hạn tại Ngân hàng cũng khá lớn. Bên cạnh đó, số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh rất đông đảo và không phải doanh nghiệp nào cũng có tình hình tài chính không lành mạnh. Một số doanh nghiệp làm ăn rất có hiệu quả như các doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài là nhóm khách hàng mà Ngân hàng chưa có đủ tin tưởng để lôi cuốn và chiếm lĩnh được. Chính vì vậy, tiềm năng của loại khách hàng này khá lớn, Ngân hàng cần phải tìm ra nhiều giải pháp để khai thác triệt để các doanh nghiệp kinh tế ngoài quốc doanh. * Các hình thức cho vay tài trợ XNK còn quá đơn điệu chủ yếu là tổ chức cổ điển, chưa áp dụng hình thức cho vay mới như bao thanh toán, cho thuê tài chính làm giảm tính hấp dẫn đối với khách hàng. Hơn nữa, trong khi cho vay lại quá tập trung vào khâu lưu thông vì vậy rủi ro rất lớn. * Chi nhánh vẫn chưa có cơ sở bảo quản hàng hoá, chưa nắm được các lô hàng thế chấp một cách chắc chắn. Do vậy, khi khách hàng cố tình không hoàn trả nợ thì Chi nhánh đành chịu. * Công tác đào tạo cán bộ còn chưa kịp với yêu cầu và nhiệm vụ mới, các cán bộ xử lý nghiệp vụ còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm như cho vay vượt quá quyền hạn giải quyết, cho vay không thẩm định kỹ (không có tài sản thế chấp hoặc nếu có lại không tự quản lý mà để khách hàng quản lý, thậm chí mở L/C không đưa hết các điều kiện hợp đồng ), nắm bắt thông tin chưa nhanh nhạy theo kịp biến động của thị trường dẫn đến tình trạng Chi nhánh luôn phải đối phó với sự lừa đảo khi thực hiện hợp đồng 50
  51. tín dụng tài trợ XNK. Đây là một trng những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, những vụ việc đổ vỡ gây ảnh hưởng đến uy tín của Chi nhánh. * Bên cạnh đó, phương thức quản lý các món vay XNK ở Ngân hàng chưa hợp lý. Quyết định và quản lý các món vay ở NHNT Hà Nội là phân công đều cho các cán bộ tín dụng. Điều này có lợi là mở rộng tầm hiểu biết cho các cán bộ tín dụng sang lĩnh vực XNK. Nhưng như thế sẽ gây cản trở lớn cho các món vay được thực hiện có hiệu quả vì để thực hiện một khoản vay tín dụng XNK đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có hiểu biết sâu về thị trường, luật pháp quốc tế của các nước về hoạt động XNK. Ngoài ra, Chi nhánh vẫn chưa hạch toán độc lập kết quả tín dụng XNK với hoạt động tín dụng khác mặc dù hoạt động tín dụng tài trợ XNK là nhiệm vụ chính của Ngân hàng. Điều này cũng ảnh hưởng phần nào đến việc đánh giá kết quả kinh doanh và vạch ra phương hướng của hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại Ngân hàng trong thời gian tới. 3.3.2.2. Nguyên nhân * Nguyên nhân chủ quan - Thứ nhất: Năng lực cho vay của Ngân hàng Do NHNT Hà Nội là Chi nhánh trực thuộc NHNT Việt Nam nên phần lớn những dự án cho vay tài trợ XNK của Ngân hàng đều phải thông qua NHNT Việt Nam xem xét và quyết định. Đồng thời theo quy định, NHNT Hà Nội chỉ được cho vay đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Thủ đô. Nhưng phần lớn những doanh nghiệp này lại là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên cũng rất hạn chế quy mô cho vay của Ngân hàng. - Thứ hai: Trình độ bất cập của cán bộ Ngân hàng Nhận thức về bản chất tín dụng không đầy đủ dẫn đến đơn giản, sơ sài trong chấp hành quy định. Cán bộ tín dụng thiếu trình độ hiểu biết về pháp luật, thể lệ tập bán thương mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại ngữ không đáp ứng được nhu cầu nghiệp vụ. Một cán bộ quản lý tín dụng XNK nếu tính theo dư nợ thì bằng hàng chục cán bộ quản lý cho vay hộ sản 51
  52. xuất (năm 2000, dư nợ cho vay XNK tại Chi nhánh chiếm 71% tổng dư nợ), điều đó thể hiện hiệu quả đầu tư XNK nhưng trái lại cũng thể hiện khả năng rủi ro lớn nếu như cán bộ tín dụng đó không được trang bị đầy đủ kiến thức tổng hợp và kinh nghiệm đạo đức kinh doanh. Ngân hàng chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi về lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ mới nên lúng túng trong việc thẩm định các dự án lớn, nhất là các dự án năng suất có vốn đầu tư và nhập khẩu thiết bị nước ngoài. Thực trạng đội ngũ cán bộ tín dụng NHNT Hà Nội hiện nay là vấn đề đáng được lưu tâm, số cán bộ có thâm niên trên 10 năm thì chưa được đào tạo lại để có đủ kiến thức kinh doanh theo cơ chế thị trường, số cán bộ mới vào thì còn thiếu kinh nghiệm và tri thức thực tế trong thị trường chằng chịt những mối quan hệ phức tạp. - Thứ ba: Chấp hành thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ Những trường hợp rủi ro trong tín dụng có nguyên nhân quan trọng là việc chấp hành không nghiêm chỉnh thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ của cán bộ Ngân hàng. Thể hiện trong việc thẩm định và lập hồ sơ vay vốn. Có trường hợp cán bộ lập hồ sơ giải khai tăng tài sản thế chấp để rút vốn Ngân hàng và vay ké, là kết quả của hai nguyên nhân sâu xa sau đây: + Việc xác định giá trị tài sản thế chấp do cán bộ Ngân hàng t hực hiện mang tính chủ quan. + Việc lập hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách độc lập với chức năng tín dụng. Quản lý nợ vay còn thể hiện và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách độc lập với chức năng tín dụng. Quản ý nợ vay còn thể hiện thiếu trách nhiệm, gia h ạn nợ, chuyển nợ quá hạn không đúng quy trình nghiệp vụ, đảo nợ nội tệ với ngoại tệ (vay đồng tiền này để trả nợ đồng tiền khác), dẫn đến tình trạng nợ xấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất vốn Ngân hàng ngày càng lớn. - Thứ tư: Cơ sở vật chất và giờ làm việc 52
  53. Chi nhánh NHNT Hà Nội xây dựng trụ sở năm 1992. Sang năm 2001, trụ sở đã trở nên chật chội. Điều này trước tiên sẽ ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng. Khách hàngđến với Ngân hàng sẽ tin cậy hơn nếu Ngân hàng có cơ sở vật chất tốt. Song ở đây phòng tín dụng không đủ diện tích để kê bàn tiếp khách. Hơn nữa, cơ sở vật chất như vậy sẽ ảnh hưởng đến điều kiện làm việc của Ngân hàng. Bên cạnh đó, giờ làm việc của Chi nhánh sẽ không cạnh tranh được với Ngân hàng nước ngoài. Vì vậy Ngân hàng đóng cửa vào lúc 16 giờ trong khi giờ đóng cửa của hàng nước ngoài là 18 giờ. * Nguyên nhân khách quan Hệ thống NHNT ra đời tư cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, cơ chế thị trường đang hình thành với nhiều thử thách và phức tạp. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế xã hội, sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng năm 1989 đã để lại trong xã hội một tư tưởng nặng nề về tâm lý. Lưu thông hàng hoá tiền tệ chậm, một loạt doanh nghiệp phá sản. Các chính sách Nhà nước thiếu đồng bộ, môi trường pháp lý không đảm bảo an toàn kinh doanh. Từ sau đổi mới, bên cạnh các nhân tố tích cực, hàng loạt các yếu tố tiêu cực xuất hiện cùng với sự bung ra của sản xuất xã hội, nhiều công ty, xí nghiệp hữu danh vô thực ra đời tìm mọi thủ đoạn chiếm đoạt tài sản Ngân hàng. - Thứ nhất: Môi trường pháp lý. + Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ nên đã gây ra những khó khăn vướng mắc cho Chi nhánh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các NHNT hiện nay hoạt động dưới sự điều chỉnh của luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hệ thống luật và dưới luật của chính phủ. Một số quy định trong luật còn xa rời với thực tiễn như: + Thể lệ tín dụng của các Ngân hàng còn nhiều vướng mắc. Thứ nhất, không cho phép doanh nghiệp có nợ quá hạn vay. Đối với các 53
  54. doanh nghiệp khi gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì vốn là vấn đề giải quyết mọi ách tắc lại không được đáp ứng. Ngân hàng cho vay để cứu doanh nghiệp nếu thành công thì có thành tích, còn nếu rủi ro thì bị truy tội cố ý làm trái hoặc ít nhất cũng là thiếu tinh thần trách nhiệm. Thứ hai, theo quy định, nếu NHNT nào thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C mà phát sinh nợ quá hạn thì sẽ không được thực hiện nghiệp vụ này cho đến khi giải quyết song số nợ quá hạn đó. Chính vì vậy, trong năm 1991, NHNT Hà Nội có nợ quá hạn phát sinh từ nghiệp vụ này nên đến nay Ngân hàng vẫn chưa được thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C trả chậm do chưa thu hồi được nợ. + Quy chế chính sách của Nhà nước trong việc xử lý tài sản thế chấp còn nhiều bất cập như Ngân hàng không thể tự đứng ra bán tài sản thế chấp để thu nợ mà phải được sự đồng ý và có giấy uỷ quyền của tài sản. Trên thực tế, khi gặp con nợ chây ỳ không hợp tác thì Ngân hàng chỉ còn cách khởi kiện tại toà án. Việc xử lý sẽ kéo dài thậm chí đi đến chỗ bế tắc nếu con nợ liên quan đến vụ án hình sự hoặc bỏ trốn. Theo quy định thì Ngân hàng chỉ được giải chấp tài sản nếu người vay trả hết nợ hoặc có tài sản thế chấp bổ sung cho khoản nợ còn thiếu. Tuy nhiên, đại đa số khách hàng yêu cầu Ngân hàng giải chấp để họ tự bán tài sản trả nự Ngân hàng, trong khi trị giá bán tài sản trả nợ Ngân hàng, trong khi trị giá bán tài sản thế chấp thấp hơn nhiều so với nợ vay và nguồn vay không có tài sản nào khác để thế chấp cho Ngân hàng, hoặc họ đã ngừng sản xuất kinh doanh chuẩn bị phá sản. + Quy chế lập quỹ dự phòng rủi ro không phù hợp. Quỹ dự phòng rủi ro được hình thành từ lợi nhuận ròng, tổ chức tín dụng trong khi lợi nhuận của Ngân hàng còn thấp chưa kể một số Ngân hàng bị thua lỗ. Tỷ lệ này là 10% thì quá tháp không hể đủ bù đắp rủi ro tín dụng và sự mất mát của các tài sản có của Ngân hàng. Mặt khác, theo quy định, quỹ rủi ro chỉ được bù đắp cho các nguyên nhân khách quan, trong khicác kết hợp khoản 54
  55. rủi ro do nguyên nhân khách quan thì phần lớn không thu hồi đủ vốn sau khi truy cứu trách nhiệm bồi thường dẫn đến mất vốn của Ngân hàng mà thực chất là tiền gửi khách hàng và khả năng thanh toán của Ngân hàng. + Hoạt động tín dụng tài trợ XNK liên quan đến nhiều ban ngành trong nước như Bộ Thương mại, Tổng cục hải quan, Bộ công nghiệp Việt Nam Vì vậy, nó chịu sự điều chỉnh của nhiều luật mà các luật ở nước ta còn có sự đan chéo, gây nhiều khó khăn cho các quyết định của trọng tài quốc tế trong nước và vụ kiện. + Chính sách ngoại thương của Nhà nước chưa thực sự nhất quán. Nhiều hình thức cấp bách ban hành chưa lâu đã thay đổi, lúc thì khuyến khích nhập khẩu mặt hàng này, lúc thì cấp hạn ngạch thuế cao để hạn chế nó. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó dẫn đến những rủi ro cho hoạt động Ngân hàng như ứ đọng vốn, không thu hồi được vốn về. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang có xu hướng chuyển dịch các nghiệp vụ tài trợ XNK sang các Ngân hàng nước ngoài, các Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng cổ phần thương mại. Do vậy, Chi nhánh phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt. Nhiều dự án có hiệu quả trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê, hải sản đã rơi vào Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. Điều dó đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà Nội. - Thứ hai: Chính sách lãi suất và tỷ giá Lãi suất cho vay vẫn là vấn đề bức xúc khiến hệ thống Ngân hàng ta phải tập trung giải quyết. Mặc dù đã tổ chức được nhiều cuộc thảo luận xoay quanh vấn đề này song cho đến nay lãi suất cho vay của hệ thóng Ngân hàng nước ta vẫn còn cao so với chi phí lạm phát và lãi suất trên thị trường khu vực. Trong điều kiện tỷ giá ổn định nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận nợ quá hạn ngoại tệ để sử dụng ngoại tệ ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng. Doanh nghiệp lợi dụng điều này để kinh doanh trên lưng Ngân hàng với hình thức tinh vi như cho doanh nghiệp khác vay thậm chí là cho chính 55
  56. Ngân hàng vay lại một nội tệ với lãi suất cao để hưởng chênh lệch. Tất cả điều này đều tạo ra rủi ro tiền mặt cho nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng, kết quả là ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. - Thứ ba: Môi trường kinh doanh Hiện nay, điều kiện Việt Nam chưa cho phép mở rộng các hình thức tín dụng XNK: + Thương phiếu là công cụ cổ điển được sử dụng lâu đời trong quan hệ thương mại ở các nước phát triển, nhưng đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa được sử dụng. + Thị trường hối đoái chưa phát triển, các nghiệp vụ mà các Ngân hàng, nhà xuất khẩu có thể tham gia để phòng tránh rủi ro như forward, options, future chưa hình thành. + Nhà nước chưa có chính sách, chiến lược đủ mạnh ủng hộ hoạt động XNK như cung cấp thông tin, phát triển mạng lưới tin học, viễn thông tạo tiền đề cho hoạt động XNK. + Bên cạnh đó, trong năm 2002, hoạt động kinh tế của cả nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng tiếp tục chịu ảnh hưởng của những khó khăn của kinh tế thế giới. Thị trường trong nước có sức mua giảm sút, hàng hoá chậm luân chuyển tạo ra nguy cơ giảm phát trong nền kinh tế. Kinh tế đôi ngoại có một số khó khăn mới: thị trường XNK giá cả giảm sút, đầu tư nước ngoài bị thu hẹp đã tác động lớn đến hoạt động Ngân hàng. Đặc biệt đối với NHNT Hà Nội, điều này còn khó khăn hơn nhiều vì hầu hết các doanh nghiệp đều là kinh tế địa phương với quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, khả năng hấp thụ vốn thấp + Tỷ giá một đồng ngoại tệ thay đổi thất thường, đặc biệt tỷ giá đồng đô la tăng nhanh ảnh hưởng đến nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước. Mặt khác một số mặt hàng nông sản xuống giá liên tục cũng ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu và kết quả kinh doanh của các đơn vị xuất khẩu gặp khó khăn. 56
  57. - Thứ tư: Thiên tai lũ lụt Thiên tai lũ lụt hạn hán cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng cho doanh nghiệp, nó đem lại thiệt hại về kinh tế và e ngại về tâm lý cho các tổ chức kinh doanh và cá nhân. Những thiệt hại này khiến cho các doanh nghiệp vốn đã làm ăn không hiệu quả để trả gốc lẫn lãi cho khoản vay khi đến lại càng gặp khó khăn nghiêm trọng hơn. Do vậy tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng tăng lên làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. - Thứ năm: Về phía doanh nghiệp XNK + Vốn tự có của doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ: phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tồn tại và hoạt động dựa vào nguồn vón Ngân hàng là chính. Vì vậy, khi được Ngân hàng cho vay thì lợi nhuận sinh lời không đủ trả lãi cho Ngân hàng. Ngoài ra còn vì nhiều doanh nghiệp có vốn tự có thấp nhưng Ngân hàng bắt buộc phải cho vay để thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Và khi các doanh nghiệp này làm ăn không có hiệu qủa thì Ngân hàng phải tự ganh chịu rủi ro. + Phương án kinh doanh của nhiều doanh nghiệp không hợp lý: Sự bất hợp lý thể hiện qua việc nghiên cứu thị trường, dự đoán mức tiêu thụ không chính xác, đán giá lại công suất, máy móc không khớp với nguyên liệu đầu vào dẫn đến không hoàn thành lịch trả nợ cho Ngân hàng. Các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị bằng trả chậm còn nhiều vốn xây dựng cơ bản do ngân sách Nhà nước cấp. Song do nguồn vốn này được cấp không đúng hạn hoặc bị cắt giảm nên không đảm bảo đúng tiến độ thi công, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ đúng han của doanh nghiệp. + Do mới chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, kiến thức của doanh nghiệp về hoạt động tín dụng, về hợp đồng thương mại còn hạn chế gây bất lợi cho Ngân hàng (doaNgân hàng nghiệp bị ép mua với giá cao, chất lượng không đảm bảo, công nghệ lạc hậu thiếu đồng bộ, quy định phương án trả nợ không hợp lý dẫn đến nguồn thu không được bù đắp 57
  58. và trả nợ Ngân hàng). Ngoài một số doanh nghiệp còn không thực hiện đúng cam kết khi vay vốn như không mua bảo hiểm tài sản, sử dụng vốn sai mục đích. Trong thời gian tới, nếu Chi nhánh NHNT Hà Nội khắc phục được những tồn tại sau đây thì Chi nhánh sẽ luôn là người bạn tin cậy của khách hàng trong lĩnh vực tài trợ XNK nói riêng và lĩnh vực kinh doanh nói chung 58
  59. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ MỞ RỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NHNT HÀ NỘI 1 Định hướng hoạt động năm 2003 của NHNT Hà nội 1.1. Định hướng chung Để có được kết quả kinh doanh tốt hơn trong năm 2003, Chi nhánh sẽ tiếp tục đổi mới và phát triển theo các định hướng sau: * Tiếp tục bám sát định hướng phát triển của NHNT Việt Nam cũng như định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn thông qua nhiều hình thức: Đa dạng hoá sản phẩm với chất lượng cao, mở rộng phát triển màng lưới, duy trì việc đánh giá phân loại khách hàng tiền gửi để có những biện pháp thu hút khách hàng, khuyếch trương và quảng bá các sản phẩm mới. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động tăng 15% so với năm 2002, đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ. * Đẩy mạnh công tác sử dụng vốn của Chi nhánh. Mở rộng tín dụng để đổi mới nâng cao chất lượng đầu tư tín dụng nhiều biện pháp và luôn đảm bảo phương châm “an toàn, hiệu quả”. Tập chung xử lý nợ quá hạn, hạn chế tối đa rủi ro trong kinh doanh, giải quyết tốt mua bán ngoại tệ, đáp ứng cơ bản nhu cầu của khách hàng theo đúng hướng hoạt động và sản xuất kinh doanh trong nước. Phấn đấu mức dư nợ tới năm 2002 tăng 26% so với năm 2000. Tiếp tục bám sát các đơn vị có nợ quá hạn và các cấp chủ quan của đơn vị để cùng xử lý thu hồi nợ. Mục tiêu của năm 2001 là mức dư nợ quá hạn xuống dưới 2, 5%. * ổn định tổ chức và vận hành theo mô hình mới - Ngân hàng bán lẻ. Tiếp tục quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ kết hợp với việc nghiên cứu khoa học. Bổ sung thêm cán bộ mới tuyển dụng vào các phòng nghiệp vụ và thực hiện tốt các giao dịch trong chương trình mới. 59
  60. Tạo điều kiện cho cán bộ học thêm kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ và trình độ để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh. * Triển khai đầu tư xây dựng mới: Xúc tiến việc cải tạo sửa chữa nhà 344 Bà triệu, để chuyển hoạt động của Chi nhánh về đây và triển khai dự án xây dựng mới lại trụ sở chính 78 Nguyễn Du, đáp ứng nhu cầu phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thiên niên kỷ mới. 1.2. Phương hướng trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu Một Ngân hàng muốn thành công trong hoạt động kinh doanh thì mọi hoạt động của Ngân hàng phải nỗ lực, chung sức góp phần tạo uy tín cho Ngân hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ có nhiều khách hàng quen. Các khách hàng này sử dụng dịch vụ của Ngân hàng từ đó sẽ mang lại lợi ích cho từng lĩnh vực mà Ngân hàng kinh doanh. Tại NHNT Hà Nội cũng vậy, một định hướng chung như thế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng tài trợ XNK. Để hoàn thiện hoạt động này Chi nhánh đề ra định hướng: Đẩy mạnh đầu tư cho nhóm khách hàng chiến lược, mở rộng tìm kiếm các dự án có hiệu quả, phục vụ kinh doanh XNK và kinh tế đối ngoại của Thủ đô để đầu tư. Tiến tới đa dạng hoá các loại hình tính dụng tài trợ XNK nhằm khai thác tối ưu nguồn vốn hiện có. 2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội Qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng XNK của Chi nhánh NHNT Hà Nội trong vài năm gần đây, chúng ta thấy rằng bên cạnh những hoạt động đạt được hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ XNK nói riêng vẫn tồn tại những vướng mắc cần giải quyết. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, dựa vào phương hướng nhiệm vụ hoạt động trong những năm tới của Chi nhánh và từ thực tiễn hoạt động của NHNT Hà Nội, em xin mạnh dạn nêu ra một số giải pháp và đề xuất sau. 60
  61. 2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành 2.1.1 Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn Định hướng tín dụng XNK của Chi nhánh phải phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và nằm trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng. Điều kiện kiên quyết đảm bảo tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng nguồn vốn. Có huy động vốn được nhiều thì Ngân hàng mới có thể cho vay hoặc đa dạng hoá hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng và ngược lại, việc sử dụng vốn khuyến khích Ngân hàng đẩy mạnh đa dạng các hình thức huy động. Chính vì vậy, Chi nhánh phải tiếp tục mở rộng khai thác các nguồn vốn theo các hướng: - Xây dựng đề án phát hành kỳ phiếu ra nước ngoài trên thị trường vốn quốc tế: NHNTHà Nội đã có uy tín trong hệ thống Ngân hàng quốc tế và thị trường trong và ngoài nước. Đây là cơ sở quan trọng nhất để huy động vốn bằng kỳ phiếu và kinh doanh trên thị trường chứng khoán quốc tế. Vấn đề quyết định thành công trong nghiệp vụ này là đội ngũ nhân viên có đủ trình độ kinh nghiệm nghề nghiệp. Trước hết nên phát hành kỳ phiếu trung gian với các Ngân hàng đại lý có uy tín. Mặc dù thực hiện mua mỗi giới hiệu quả chưa cao nhưng nghiệp vụ đảm bảo an toàn và làm tiền đề cho chiến lược kinh doanh lâu dài. Sau khi thâm nhập vào thị trường tiền tệ, lựa chọn và thử nghiệm, Ngân hàng sẽ từng bước thành lập văn phòng đại diện và Chi nhánh tại các thị trường này để nhanh chóng hoàn hập với cộng đồng Ngân hàng quốc tế. - Tiếp tục khuyến khích dân cư gửi tiền vào Chi nhánh bằng các chính sách tăng lãi xuất tiền gửi cả VNĐ lẫn ngoại tệ, cả ngắn hạn lẫn trung và dài hạn. Đối với khách hàng truyền thống, Ngân hàng nên có các phần thưởng xứng đáng, có chính sách ưu đãi riêng. - Chi nhánh cần sử dụng thế mạnh uy tín của mình để tranh thủ nguồn vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước dành cho các ngành kinh tế mũi 61
  62. nhọn, các hoạt động kinh doanh XNK. . và thông qua mối quan hệ đối ngoại của hệ thống NHNT, Chi nhánh nên đẩy mạnh vốn vay dài hạn ở các tổ chức quốc tế. 2.1.2. Định hướng chiến lược tài trợ Chuyển hướng tài trợ từ cho vay thương vụ có tính chất riêng lẻ thụ đọng sang cho vay theo dự án khép kín chu trình lưu thông hàng hoá từ sản xuất đến tiêu thụ. Việc lựa chọn và thẩm định dự án đầu tư trở thành nhân tố có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự thành công của Ngân hàng. Một dự án mặc dù đá được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt, nhưng trước khi quyết định cho vay, Ngân hàng cần phải thẩm định xem xét lại: - Tính pháp lý của bộ hồ sơ bao gồm hồ sơ dự án và hồ sơ xây dựng theo điều kiện xây dựng của Nhà nước, hồ sơ mua sắm thiết bị theo quy chế đấu thầu và quy định của bộ thương mại (nếu có thiết bị nhập khẩu), hồ sơ tín dụng theo quy định của Ngân hàng. - Phương án vay và trả nợ của dự án tính toán các nguồn vốn và nguồn tài trợ, dự kiến biến động của các thông số ảnh hưởng đến nguồn trả nợ. - Thẩm định nhóm chi tiêu hiệu quả: thời gian hoàn vốn, hiệu quả ròng (NPV), thể lệ hoàn vốn nội bộ, tỷ suất lợi nhuận Đối với dự án có giá trị lớn vượt giới hạn tỷ lệ vốn có của doanh nghiệp và Ngân hàng, nên sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ thay bằng việc cho vay doanh nghiệp có dư nợ tại Ngân hàng hiện nay. 2.2. nhóm giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK 2.2.1. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án XNK Cũng như đối với các loại tín dụng khác, quy trình tín dụng XNK được chia thành 3 giai đoạn theo thời gian và tính chất khoản vay. * Giai đoạn thẩm định trước khi cho vay 62
  63. Đây là giai đoạn khởi đầu và quan trọng nhất thể hiện khả năng tiếp cận dự án và khách hàng của ngân hàng. Đối với những doanh nghiệp truyền thống có quan hệ uy tín được cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi thì chỉ cần tập trung thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng. Dù là phương án cho vay vốn lưu động hay cố định thì những nội dung cơ bản cần xem xét là: - Khẳng định thị trường tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trong phương án kinh doanh với các yếu tố khu vực thị trường tiêu thụ, giá cả, chất lượng cạnh tranh, quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường, các đối tác bán hàng và mua hàng, thu thập thông tin của các ngân hàng và các doanh nghiệp khác, sử dụng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro bằng phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp và đánh giá sản phẩm trong mối quan hệ với chính sách Nhà nước có so sánh trên thị trường quốc tế. - Thẩm định lại toàn bộ số liệu, dữ liệu và các chỉ tiêu của dự án kinh doanh theo hệ thống các phương pháp và công thức có sẵn hoặc nạp dữ liệu cho máy tính theo chương trình được cài đặt sãn. * Giai đoạn phê duyệt và giải ngân Mặc dù hồ sơ vay được cácn bộ tín dụng thẩm định đầy đủ, nhưng khâu xem xét phê duyệt là không thể thiếu. Vì thực tế, không thể có một cán bộ tín dụng lý tưởng lại sự hiểu biết toàn diện được cả nghiệp vụ ngân hàng và kiến thức tổng hợp về thị trường, khoa học kỹ thuật, luật pháp nên khả năng đánh giá của họ không thể đầy đủ và hoàn toàn đúng. Kế toán là người kiểm soát cuối cùng trước khi giải ngân kiêm tra và lưu trữ tài sản thế chấp, cầm cố, hợp đồng tín dụng và khê ước vay tiền, trước khi phát tiền vay hoặc chuyển tiền thanh toán và lưu hồ sơ giải ngân như các loại chứng từ có giá. * Giai đoạn kiểm tra sau Đây là giai đoạn kiểm nghiệm tính chính xác, khách quan của phương án kinh doanh đã được ngân hàng thẩm định: 63
  64. - Kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay: về nguyên tắc, vốn vay chỉ được sử dụng đúng mục đích trong phương án kinh doanh. Việc phát triển tiền vay bằng tiền mặt, ngân phiếu, sec, sẽ gây khó khăn cho khả năng kiểm soát của ngân hàng. Giải pháp tốt nhất là giải pháp vốn vay qua tài khoản cho khách hàng vay là bắt buộc đối với doanh nghiệp và khuyến khích cá nhân hộ sản xuất. - Thu hồi và xử lý nợ Đối với nợ quá hạn, số tiền thu nợ từ khách hàng bao gồm trị giá của phần vốn gốc và phần lãi. Nếu hạch toán thu gốc toàn bộ tiền thu thì ngân hàng sẽ giảm được dư nợ quá hạn nhưng không có thu nhập, còn nếu hạch toán thu lãi trước thì sẽ mất vốn. Bởi vậy, theo nguyên tắc bảo toàn vốn thì ngân hàng cần thu gốc trước, đơn vị ngân hàng nào còn có nợ quá hạn thì không có thu nhập. Hiện nay, một số ngân hàng hạch toán thu nợ quá hạn cả gốc và lãi theo tỷ lệ 50/50 là không hợp lý. 2.2.2. Quản lý tài sản thế chấp cầm cố - Xây dựng hệ thống kho tàng đủ tiêu chuẩn quản lý vật tự, hàng hoá dùng làm tài sản thế chấp. Hoạt động kinh doanh kho bãi được thực hiện theo các chế độ khoán tài chính của công ty thu mua. Về nguyên tắc, tài sản thế chấp cầm cố cho khoản vay phải là những tài sản được hình thành trước và độc lập với vốn vay. Nhưng nếu ngân hàng có kho bãi đầy đủ điều kiện an toàn, có thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay để làm hàng hoá vật tư đảm bảo việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người vay. - Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn tài sản do ngân hàng quản lý cần được bảo hiểm. Ngân hàng có thể thực hiện bằng hợp đồng thoả thuận với các tổ chức bảo hiểm trong nước và ngoài nước buộc người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá thế chấp cầm cố với ngân hàng. 64
  65. - Thành lập các công ty mua bán, khai thác tài sản thế chấp tồn đọng của các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào thực trạng giá trị của tài sản tồn đọng và khả năng của công ty, tổ chức tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty dưới hình thức uỷ thác hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thoả thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng có hiệu quả. Việc xử lý cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế thủ tục pháp lý: có cơ chế cho phép ngân hàng được để lại tài sản thế chấp cho doanh nghiệp tiếp tục khai thác theo phương án sản xuất kinh doanh mới, giúp doanh nghiệp có nguồn trả nợ; ngân hàng được quyền trực tiếp ký hợp đồng uỷ quyền bán tài sản với trung tâm bán đấu giá, không qua các trung gian những tài sản thuộc diện xử lý của toà án. 2.2.3. Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK Ngoài những nhân tố rủi ro khách quan và chủ quan trong tín dụng thông thường, tín dụng tài trợ XNK còn chịu ảnh hưởng lớn của hai nhân tố lãi suất và tỷ giá của các đồng tiền giao dịch. Sự biến động thường xuyên của hai nhân tố, nếu tạo thêm thuận lợi cho ngân hàng trong nghiệp vụ tín dụng thì sẽ gây thiệt hại cho khách hàng và ngược lại. Để quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài áp dụng các giải pháp nghiệp vụ kinh doanh hối đoái trên thị trường tiền tệ với các công cụ chủ yếu sau: - Hợp đồng mua bán kỳ hạn - Nghiệp vụ SWAP về lãi suất - Hợp đồng quyền chọn về lãi suất và tỷ giá Với các điều kiện về con người và cơ sở vật chất, thông tin và các quan hệ uy tín trên thị trường quốc tế hiện nay. NHNT Hà Nội có thể áp dụng các hình thức kinh doanh này nhằm tăng thu nhập về dịch vụ, đồng thời quản lý được các rủi ro về biến động của thị trường tiền tệ. Để triển khai được các nghiệp vụ này, ngân hàng cần có đủ các điều kiện chủ quan sau: 65