Khóa luận Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên

pdf 56 trang thiennha21 19/04/2022 4190
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_benh_do_au_trung_cysticercus_cellulosae.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM DƯ CÔNG LONG Tên đề tài: NGHIÊN CỨU BỆNH DO ẤU TRÙNG CYSTICERCUS CELLULOSAE GÂY RA Ở LỢN (BỆNH GẠO LỢN) TẠI HUYỆN NẬM PỒ TỈNH ĐIỆN BIÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi- Thú y Lớp : K47-N02 - CNTY Khoa : Chăn nuôi Thú y Khóa học : 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn:Ths. ĐỖ THỊ LAN PHƯƠNG Bộ môn: Bệnh động vật, khoa Chăn nuôi Thú y Thái Nguyên, năm 2019
  2. i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp, trước hết em xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các thầy cô giáo trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu và bổ ích trong suốt những năm học vừa qua. Em xin trân trọng cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Ths. Đỗ Thị Lan Phương đã rất tận tình và trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài và hoàn thiện Khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y, Chi cục Chăn nuôi và Thú y, Trạm Thú y huyện Nậm Pồ- Tỉnh Điện Biên, đã giúp đỡ em hoàn thành Khóa luận thực tập tốt nghiệp. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình học tập cũng như trong thời gian thực tập tốt nghiệp. Trong quá trình thực tập vì chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế, chỉ dựa vào kiến thức đã học cùng với thời gian hạn hẹp nên Khóa luận không tránh khỏi sai sót. Kính mong được sự góp ý, nhận xét của quý thầy cô để giúp cho em ngày càng hoàn thiện và có nhiều kinh nghiệm quý báu. Em xin trân trọng cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 01 tháng 6 năm 2019 SINH VI ÊN Dư Công Long
  3. ii DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ Trang Bảng 4.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn tại địa phương 27 Bảng 4.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cyrticercus cellulosae ở lợn theo tháng tuổi 29 Bảng 4.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn qua các tháng 30 Bảng 4.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo giống ở lợn 32 Bảng 4.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn theo phương thức chăn nuôi 33 Bảng 4.6. Thực trạng tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của người dân ở địa phương 36 Bảng 4.7. Tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia solium ở người tại địa phương 37 Bảng 4.8. Tỷ lệ người nhiễm bệnh sán dây Taenia solium theo giới tính 39 Bảng 4.9. Tổn thương đại thể của lợn nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn 39 Bảng 4.10. Tổn thương vi thể của lợn nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae 41 Sơ đồ 2.1: Chu kỳ phát triển của sán dây T. solium 10
  4. iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Cs : Cộng sự Cys. Cellulosae : Cysticercus cellulosae Cob : Cytochorome oxidase b Nxb : Nhà xuất bản mm : milimet PCR : Polymerase Chain Reaction TsMP : Taenia soliummetacestode T. solium : Taenia solium Vv : Vân vân
  5. iv MỤC LỤC Trang TRANG BÌA PHỤ LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ ii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1. Đặt vấn đề 1 2. Mục tiêu đề tài 2 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2 4. Những đóng góp mới của đề tài 3 Phần 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 3 2.1. Điều kiện cơ sở thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3 2.1.2. Điều kiện xã hội 4 2.2. Cơ sở khoa học của đề tài 6 2.2.1. Đặc điểm sinh học của sán dây Taenia solium ký sinh ở người và ấu trùng Cysticercus cellulosae 6 2.3. Bệnh sán dây Taenia solium và bệnh Cysticercus cellulosae (bệnh gạo) 11 2.3.1. Đặc điểm dịch tễ học của bệnh gạo lợn 11 2.3.2. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh 12 2.3.3. Chẩn đoán bệnh gạo lợn 14 2.3.4. Phòng và điều trị bệnh gạo cho lợn 15 2.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae và bệnh sán dây ỏ người 18 2.4.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 18
  6. v 2.4.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 20 Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 21 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 21 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 21 3.2. Vật liệu nghiên cứu 21 3.3. Nội dung nghiên cứu 22 3.3.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cystircercus cellulosae gây ra ở lợn tại một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên 22 3.3.2. Nghiên cứu một số đặc điểm của bệnh do ấu trun Cystircercus cellulosae gây ra trên lợn 22 3.4. Phương pháp nghiên cứu 22 3.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra tại một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên 22 3.4.2. Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cystircercus cellulosae trên lợn 26 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 27 Phần 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 27 4.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn tại một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên 27 4.1.1. Tình hình nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn tại một số xã 27 4.1.2. Nghiên cứu các yếu tố nhiễm sán dây Taenia solium ở người tại huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên 36 4.2. Nghiên cứu bệnh ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn 39
  7. vi 4.2.1. Tổn thương đại thể và vi thể của lợn nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở Huyện Nậm Pồ 39 Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 43 5.1. Kết luận 43 5.2. Đề nghị 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO 44 PHỤ LỤC
  8. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Bệnh gạo lợn là một bệnh truyền lây giữa người và động vật. Bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae (Cys. cellulosae) gây ra. Đây là ấu trùng của sán dây Taenia solium (T.solium) ký sinh ở người. Ấu trùng ký sinh ở các cơ của lợn, khi lợn mắc bệnh gạo thì thịt lợn không thể sử dụng làm thực phẩm cho con người, gây tổn thất cho ngành chăn nuôi. Người ăn thịt lợn gạo chưa nấu chín sẽ bị bệnh sán dây. Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2012) [12], lợn ở miền núi mắc bệnh gạo cao hơn ở đồng bằng, vì ở miền núi thường nuôi lợn thả rông, một số vùng có tập quán ăn thịt lợn sống hoặc chưa nấu chín. Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [9], ấu trùng Cys. cellulosae là một bọc màu trắng, bên trong có nước trong suốt, đường kính từ 8 - 10 mm, có khi chỉ 5 mm, giống hình hạt gạo. Trên màng bên trong dính một đầu sán màu trắng, cấu tạo giống đầu sán dây trưởng thành. Hiện nay, bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae gây ra rất khó phát hiện. Ngoài ra, việc chẩn đoán bệnh trên con vật còn sống rất khó khăn do triệu chứng bệnh không điển hình. Đặc biệt, không thể tìm thấy ấu trùng bằng cách xét nghiệm phân do ấu trùng ký sinh trong cơ của lợn. Trong những năm gần đây, lợn được nuôi phổ biến ở nhiều tỉnh thành trong cả nước, trong đó có tỉnh Điện Biên. Tuy nhiên, nhiều hộ gia đình ở vùng sâu, vùng xa của tỉnh Điện Biên vẫn nuôi lợn theo phương thức thả rông và một số hộ gia đình vẫn chưa có điều kiện xây nhà vệ sinh. Chính vì vậy, khi người phóng uế ra môi trường thì trứng sán dây phát tán, lợn nuôi thả rông ăn phải trứng sán hoặc đốt sán dây dễ mắc bệnh gạo.
  9. 2 Những vấn đề nêu trên cho thấy, việc tìm hiểu đặc điểm của ấu trùng Cys. cellulosae gây bệnh gạo ở lợn, không những góp phần hạn chế tỷ lệ nhiễm ấu trùng (gạo) ở lợn, mà còn góp phần phòng chống bệnh sán dây ở người. Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, chúng em tiến hành đề tài "Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên”. 2. Mục tiêu đề tài 2.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu tình hình mắc bệnh gạo ở lợn tại một số xã của huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Tình hình mắc bệnh gạo ở lợn - Tình hình nhiễm sán dây T. solium ở người - Nghiên cứu bệnh gạo ở lợn 3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ bệnh gạo ở lợn tại một số xã của huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên, có một số đóng góp mới cho khoa học. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi lợn hiểu được đặc điểm dịch tễ bệnh ấu trùng Cys. cellulosae và bệnh sán dây T. solium nhằm hạn chế tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh, hạn chế thiệt hại do bệnh gây ra trên lợn và trên người. 4. Những đóng góp mới của đề tài Là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về đặc điểm dịch tễ bệnh gạo ở lợn tại số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên.
  10. 3 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Điều kiện cơ sở thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên - Vị trí địa lý Huyện Nậm Pồ là một huyện miền núi của tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ 140 km. - Phía đông giáp huyện Mường Chà - Phía tây giáp huyện Mường Nhé - Phía nam giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - Phía bắc giáp huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu - Khí hậu thủy văn Khí hậu đặc trưng là khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm hai mùa khá rõ rệt mùa khô và mùa mưa; nhiệt độ trung bình hàng năm là 24oC, độ ẩm trung bình 78 - 93%, lượng mưa bình quân trong năm 1.800 - 2.500 mm. * Địa hình - Thuận lợi Nậm Pồ là huyện miền núi, nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Điện Biên có đặc điểm địa hình, thời tiết, khí hậu, điều kiện xã hội phù hợp cho việc phát triển nhiều ngành nghề kinh tế nói chung và ngành chăn nuôi nói riêng. Nguồn nhân công dồi dào phù hợp cho phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện. Hiện nay, trên địa bàn huyện Nậm Pồ có nhiều chính sách đầu tư và hỗ trợ đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với vùng đặc biệt khó khăn (huyện 30 a), nên có nhiều mô hình kinh tế đang được đầu tư xây dựng và phát triển. Các mô liên kết sản xuất được quan tâm; công tác chăn nuôi- thú y ngày càng
  11. 4 được chú trọng. Điều kiện kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. - Khó khăn Địa hình huyện Nậm Pồ chủ yếu là đồi núi cao, dốc; diện tích đồi trọc khá nhiều; đất đai 1 số xã cằn cỗi, giao thông đi lại khó khăn, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình phát triển chăn nuôi gia súc trong huyện. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao trên 60%; phong tục tập quán của một số xã vùng sâu, xa còn chưa được cải thiện. 2.1.2. Điều kiện xã hội - Dân cư, dân tộc: Huyện có dân số trên 50 nghìn người, gồm 8 dân tộc, dân tộc Mông chiếm đa số 69 %, còn lại là dân tộc Thái, Kinh, Dao, Hoa, Khơ mú Số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 52%, tỷ lệ lao động qua đào tạo 17 %, chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ và cơ quan nhà nước. - Về giáo dục Hiện nay trên toàn bộ khu vực có 2 trường trung học phổ thông, 1 trường dân tộc nội trú, 12 trường trung học cơ sở, 12 trường tiểu học và 15 trường mầm non. Được sự quan tâm của Nhà nước, của tỉnh, hầu hết các trường học của huyện và trung tâm các xã đều được đầu tư xây dựng lại với công trình 1 - 2 tầng khang trang, cơ sở vật chất trang thiết bị của nhà trường đã phần nào đáp ứng được cho công tác giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. Tuy nhiên, bên cạnh đó ở một số xã vùng sâu vùng xa gặp nhiều khó khăn việc xây dựng lớp học và mở các phân trường tại các thôn, bản còn gặp rất nhiều khó khăn, các trường học được xây dựng với quy mô nhà cấp 4 và nhà tạm. Thiếu thốn về cơ sở vật chất và trang thiết bị cho công tác giảng dạy của nhà trường, thiếu giáo viên, một số thôn, bản còn chưa có lớp học.
  12. 5 - Về y tế Trên địa bàn huyện chưa có bệnh viện đa khoa, mới có Trung tâm y tế huyện. Bên cạnh đó, mỗi xã đều có các Trạm y tế với tổng số 31 bác sỹ, 215 y tá, y sỹ và hộ lý. Mặc dù số lượng, chất lượng trang thiết bị cũng như đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu thốn gây ảnh hưởng tới công tác y tế, chăm sóc sức khỏe của cộng đồng người dân trong khu vực. Nhưng với sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh và sự nỗ lực cố gắng của cán bộ Trung tâm y tế huyện nên nhìn chung người dân đã được tiếp cận tới các dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe. - Văn hóa thể thao Các dân tộc trên địa bàn huyện có truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, bản sắc riêng của các dân tộc miền núi Tây Bắc. Trong số đó văn hóa đặc sắc của dân tộc Thái (điệu hát then, múa xòe, múa sạp, ném còn, dệt vải, ). Hiện nay, các xã đều đã xây dựng được bưu điện văn hóa xã, một số xã đã có nhà văn hóa với các phương tiện để nghe thông tin như: Đài, tivi đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho người dân có thể nắm bắt, trao đổi các thông tin, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như của địa phương đề ra. Tuy nhiên, vẫn còn một số thôn, bản vùng sâu cách xa trung tâm xã và huyện, điều kiện văn hóa còn gặp nhiều khó khăn làm ảnh hưởng phần nào tới công tác tuyên truyền động viên nhân dân tham gia các hoạt động văn hoá nói chung cũng như công tác chăn nuôi - thú y nói riêng, bởi lẽ người dân nơi đây họ chưa nhận biết được nhiều về tầm quan trọng của công tác chăn nuôi - thú y. Đây là trở ngại lớn nhất trong khi thực hiện trên địa bàn huyện. Mặt khác, Nậm Pồ là một huyện vùng sâu, vùng xa nên trình độ dân trí còn nhiều hạn chế, kém hiểu biết về công tác chăn nuôi - thú y, việc tiêm phòng cho gia súc, gia cầm chưa được triệt để và vẫn còn dịch bệnh xảy ra rải
  13. 6 rác trên địa bàn, dễ lây thành dịch nếu công tác phòng, trị không được kịp thời. Một số hộ dân sự hiểu biết, nắm bắt thông tin về khoa học kỹ thuật còn chậm, do đó việc áp dụng khoa học tiên tiến vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. - Giao thông thủy lợi Hệ thống thủy lợi cũng được huyện chú trọng đầu tư, đã bê tông hóa được đa phần các mương ở các xã gần trung tâm huyện. Đảm bảo nước sử dụng trong chăn nuôi và tưới tiêu cho bà con nhân dân trong huyện, cung ứng nước sinh hoạt cho bà con nhân dân.Tuy nhiên ở một số thôn bản vùng cao vẫn còn khan hiếm nguồn nước vào mùa khô gây khó khăn cho sinh hoạt và phát triển kinh tế. 2.2. Cơ sở khoa học của đề tài 2.2.1. Một số ặcđ điểm của sán dây T. solium và ấu trùng Cys. cellulosae 2.2.1.1. Vị trí của sán dây T. solium trong hệ thống phân loại động vật học Theo Phan Thế Việt và cs. (1977) [ 32 ], (Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) [19]) cho biết, sán dây T. solium có vị trí trong hệ thống phân loại như sau: Lớp sán dây Cestoda Rudolphi, 1808 Phân lớp Cestoda Carus, 1863 Bộ Cyclophyllidae Beneden in Braun, 1900 Phân bộ Taeniata Skrjabin et Schulz, 1973 Họ Taeniidae Ludwig, 1886 Giống Taenia Liunaeus, 1758 Loài Taenia solium Liunaeus, 1758 2.2.1.2. Đặc điểm của của sán dây T.solium * Đặc điểm chung: Phan Thế Việt (1977), Nguyễn Thị Kỳ (1994) cho biết:
  14. 7 Cơ thể có hình dải băng màu trắng hoặc trắng ngà, dẹt theo hướng lưng bụng, chia thành ba phần: đầu, cổ, thân. Đầu sán thường có dạng hình cầu. Cổ là những đốt sán nối tiếp sau đầu. Đốt cổ của sán dây là đốt sinh trưởng, từ các đốt cổ sinh ra các đốt thân, cơ quan sinh sản ở các đốt cổ chưa hình thành rõ. Thân sán dây gồm nhiều đốt. Các đốt ở phần thân sán dây chia làm 3 loại: đốt chưa thành thục, đốt thành thục và đốt già. Hệ tuần hoàn và hệ hô hấp của sán dây đã tiêu giảm. Sán dây hô hấp theo kiểu yếm khí. Hệ bài tiết của sán dây cấu tạo theo kiểu nguyên đơn thận, gồm 2 ống chính từ đầu sán đi về cuối thân và thông với lỗ bài tiết. Ngoài ra, ở mỗi đốt sán còn có những ống ngang nối liền với 2 ống chính. Hệ sinh dục đực gồm tinh hoàn, ống dẫn tinh và các tuyến sinh dục. Sán dây sinh sản lưỡng tính, sự thụ tinh có thể xảy ra trong cùng một đốt sán (tự thụ tinh) hoặc giữa hai đốt khác nhau trong cùng một con hoặc giữa hai con (thụ tinh chéo). Sán tiêu hóa bằng cách, chất dinh dưỡng đi qua vỏ để thẩm thấu vào thân sán. Dịch tiêu hóa không thể thẩm thấu vào thân sán khi sán còn sống, nhờ đó mà sán không bị tiêu diệt khi sống trong đường tiêu hóa của ký chủ. 2.2.1.3. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của sán dây T. solium Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về sán dây T. solium đều cho rằng sán dây có đặc điểm, hình thái, cấu tạo như sau: Sán dây dài, dẹp theo hướng lưng - bụng, màu trắng hoặc vàng. Cơ thể bao gồm: đầu, cổ và các đốt. Số lượng các đốt dao động từ 3 đốt đến vài trăm đốt. Các đốt phía trước là đốt non và bé, càng về sau các đốt càng lớn và già, đốt già nhất ở cuối cơ thể. Theo Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [9], Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001) [14],: Sán trưởng thành T.solium ký sinh ở ruột non
  15. 8 người, dài 2 - 7 m. Đốt đầu hình cầu, có 4 giác bám, có đỉnh đầu và hai hàng móc đỉnh gồm 22 - 32 móc xếp thành 2 hàng. Đốt sán ngắn, hẹp. Sán có 700 - 1000 đốt. Đốt chưa thành thục có chiều dài lớn hơn chiều rộng. Đốt già, hình chữ nhật, tử cung phân 7 - 12 nhánh. - Hình thái trứng sán dây: Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001) [14], Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [9]: trứng sán dây T. solium có dây hình tròn hoặc hình bầu dục, đường kính từ 31- 43µm. - Sức đề kháng của sán dây: Trong tự nhiên, trứng sán dây có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh và các hóa chất thông thường. Ở ngoại cảnh sau 1,5 tháng trứng sán mất khả năng sống. Trong dung dịch formol, cresyl 5 %, sau 2 giờ mới diệt được trứng sán dây. Nguyễn Phước Tương (2002) [31] cho rằng: Trứng sán dây sống được ở môi trường bên ngoài khoảng vài tháng. * Đặc điểm hình thái, cấu tạo của ấu trùng Cysticercus. cellulosae - Đặc điểm hình thái: Ấu trùng Cys. cellulosae là một hạt nước hình cầu hay hình bầu dục, dài 6 - 10 mm, rộng 5 - 10 mm, chứa đầy nước. Trên có mặt một điểm trắng đục, bằng hạt gạo, đó chính là đầu sán tụt vào. Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2001) [14] : Ấu trùng Cys. cellulosae ký sinh ở não, mắt, cơ lưỡi, cơ mông, cơ liên sườn, cơ tim của lợn và người. Ấu trùng có cấu tạo dạng bọc mầu trắng, giống hạt gạo nếp, đường kính từ 8 - 10 mm, bên ngoài là tổ chức liên kết dầy, bên trong chứa dịch thể trong suốt và một đầu sán màu trắng. Cấu tạo như đầu sán dây trưởng thành. Do ấu trùng Cys. cellulosae ký sinh ở cơ, não, tim của lợn. Sán dây trưởng thành là T. solium ký sinh ở ruột non người. Ngoài lợn còn thấy gạo
  16. 9 (ấu trùng) ở người. Lợn là ký chủ trung gian. Người vừa là vật chủ trung gian vừa là vật chủ cuối cùng vì ấu trùng ký sinh ở các cơ và não của người. Theo Chu Thị Thơm và cs, 2006 [29]. - Sức đề kháng của ấu trùng: Ấu trùng sán dây lợn do có vỏ bọc nên có sức tồn tại cao. Ở thịt lợn chưa nấu chín, có vắt chanh, ấu trùng vẫn tồn tại nguyên vẹn. Những biện pháp điều trị nhằm làm vôi hóa ấu trùng nói chung đều không có tác dụng (Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, (1976) [27]). Những hóa chất có tác dụng diệt khuẩn, nếu được dùng với nồng độ cao có tác dụng diệt ấu trùng sán lợn tốt. Phạm Hoàng Thế đã thí nghiệm tiêm các dung dịch ancol hoặc iod vào bọc ấu trùng thấy có tác dụng diệt ấu trùng nhanh. Ấu trùng có sức đề kháng cao ở nhiệt độ thấp và có sức đề kháng yếu ở nhiệt độ cao. Ở nhiệt độ 50 - 600C, ấu trùng sán dây chết sau 1giờ. Theo Zirintunda G., Ekou J. (2015) [43], ấu trùng sán dây lợn có thể sống hơn 70 ngày ở nhiệt độ từ 1 - 40C, nhưng lại bị diệt trong 5 ngày ở nhiệt độ từ - 50C đến - 80C (thịt ướp lạnh có thể diệt được gạo). 2.2.1.4. Chu kỳ sinh học của sán dây T. solium Sán dây T. solium trưởng thành ký sinh ở ruột non người. Đốt sán già theo phân ra ngoài, vỡ ra giải phóng ra trứng sán. Nếu ký chủ trung gian (lợn, lợn rừng, chó, mèo, người) nuốt phải trứng, ở ruột non ấu trùng được giải phóng. Sau 24 - 72 giờ, ấu trùng vào mạch máu, ống lâm ba ruột và theo hệ tuần hoàn về các cơ, lúc đầu hình thành bọc nước, sau 60 ngày trong bọc hình thành đầy đủ các móc và giác hình thành trưởng thành gọi là sán gạo lợn Gạo có thể sống nhiều năm ở lợn và người, Số lượng gạo ở lợn có khi tới hàng nghìn, do lợn nuốt phải đốt sán có nhiều trứng. Khi người ăn phải gạo lợn vào đường tiêu hóa đầu sán nhô ra và cắm vào niêm mạc ruột non, tiếp tục phát triển sau 2 - 3 tháng hình thành sán trưởng thành T.solium và lại
  17. 10 tiếp tục thải đốt già theo phân ra ngoài. Sán dây T. solium có thể tồn tại 25 năm ở người (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996 [9], Chu Thị Thơm, và cs. 2006 [29]). Hình 2.1: Chu kỳ phát triển của sán dây T. solium 2.3. Bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn 2.3.1. Đặc điểm dịch tễ học của bệnh gạo lợn Lợn ở miền núi mắc bệnh gạo cao hơn ở đồng bằng, vì ở miền núi vẫn còn nuôi lợn thả rông, một số vùng có tập quán ăn thịt sống hoặc thịt tái, tiết canh, không có hố xí hai ngăn hoặc hố xí tự hoại. Ở Miền Nam, vùng đồng bằng rất hiếm gặp tập quán ăn thịt lợn sống, tái nên tỷ lệ nhiễm bệnh sán dây ở lợn không đáng kể. Theo điều tra của Nguyễn Hữu Thọ, Đỗ Nguyên Thanh, 1968 [28]: Ở vùng núi, lợn nuôi thả rông còn phổ biến, lợn dễ nhiễm ấu trùng sán dây (thường gọi là lợn gạo). Lợn khi mắc bệnh thường là nhiễm nặng, với số lượng ấu trùng gạo nhiều. Ở vùng đồng bằng, nếu lợn nhiễm ấu trùng sán dây
  18. 11 thì thường là những trường hợp nhiễm nhẹ đôi khi khó phát hiện. Một số địa phương ở các tỉnh miền núi còn phổ biến tập quán ăn thịt lợn sống hoặc chưa nấu chín. Ở số nơi còn ăn thịt lợn dưới hình thức lạp sống, gỏi hoặc ăn thịt lợn sống có vắt chanh , tiết canh vv Những địa phương vừa có tập quán nuôi lợn thả rông vừa có tâp quán ăn thịt lợn sống có tỷ lệ nhiễm sán dây khá cao và đây là nguyên nhân làm cho lợn mắc bệnh gạo. Ở một số vùng rừng núi thuộc khu tự trị Việt Bắc, tỷ lệ nhiễm bệnh sán dây lợn từ 6 % đến 8 %. Bệnh sán dây và ấu trùng sán dây lợn phân bố rải rác nhiều nước trên thế giới, với khoảng 100 triệu người nhiễm bệnh. Riêng bệnh ấu trùng sán dây lợn và tổn thương neurocysticercosis lưu hành tại châu Mỹ La Tinh, Châu Á, Châu Phi và đặc biệt ở Mỹ thì bệnh bắt đầu tăng mạnh vào những năm 1980. Một số quốc gia ở Châu Âu có số ca mắc cao là Tây Ban Nha, Mexico. Trong đó, Mexico tỷ lệ dương tính trên xét nghiệm huyết thanh học là 3,6% người trưởng thành và qua giải phẩu tử thi có tỷ lệ nhiễm là 1,9%. -Tỷ lệ nhiễm bệnh Ấu trùng sán dây lợn do đặc điểm của phương thức nhiễm bệnh nên tỷ lệ phân tán và có tính chất phân bố theo vùng rõ rệt. Những người bệnh mắc bệnh có ấu trùng sán dây lợn thuộc nhiều địa phương khác nhau, thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau và có nghề nghiệp khác nhau. Ở Miền Bắc đã phát hiện bệnh gạo lợn ở các tỉnh miền núi, trung du như: Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Hà Nội, Hoà Bình. Tỷ lệ nhiễm dao động 0,524 - 3,98 % (Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1976)[27]). - Đường lây truyền Theo Lê Thị Xuân (2013) [34]: Đường truyền bệnh thông qua thức ăn, nước uống. Trên thế giới có khoảng 2,5 triệu người mắc bệnh sán dây, bệnh gặp khắp nơi trên thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào thói quen ăn nhất là ở những nơi có tập tục ăn thịt lợn sống, chưa nấu chín. Việc quản lý phân thải
  19. 12 chưa tốt như sử dụng các loại hố xí không hợp vệ sinh, nuôi lợn thả rông. Ngoài ra, chưa có chế độ quy định về kiểm tra an toàn thực phẩm chặt chẽ cũng làm bệnh có thể lưu hành. Ở Châu Mỹ La tinh tỷ lệ người nhiễm sán dây từ 0,2 - 2,7 %; Châu Á từ 3,9 - 38 %, Châu Phi từ 0,13 - 8,6 %, các nước theo đạo Hồi ở vùng Bắc Phi không nhiễm bệnh. Theo Paredes A . và cs. (2016) [41] thì: Sán dây T. solium gây ra (u nang), là nguyên nhân thường gặp nhất của bệnh động kinh của người lớn, khởi phát ở các nước đang phát triển. Bệnh sán dây T. solium khá phổ biến ở Châu Phi, Châu Á, Nam Mỹ và Nam Âu. Bệnh sán dây hiếm gặp ở các nước Hồi giáo có người dân ở đó không tiêu thụ thịt lợn mắc bệnh sán dây Theo Zhang Y và cs (2016) [42]. Sán dây T. solium, là một ký sinh trong cơ thể người và lợn. Đây là nguyên nhân hàng đầu của bệnh động kinh trên người đã được ngăn chặn ở các nước đang phát triển trên thế giới . Trứng T. solium trứng được giải phóng vào môi trường qua phân của người nhiễm sán dây. Khi lợn ăn phải trứng sán dây trong phân người sẽ mắc bệnh gạo và người ăn phải ấu trùng gạo lợn sẽ mắc bệnh sán dây. - Tác hại của bệnh: Bệnh gây tác hại cho cả người và lợn. + Người nhiễm sán trưởng thành, gạo rất nguy hiểm như gạo kí sinh ở mắt, não, cơ. + Lợn nhiễm gạo chậm lớn, chậm xuất chuồng chỉ đạt 25 - 30 kg. Khi mổ thịt phải tiêu huỷ gây tổn thất kinh tế. 2.3.2. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh - Bệnh lý: Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2001) [14]: Khi lợn mắc bệnh gạo có triệu chứng không điển hình, khi mổ khám mới thấy những tổn thương bệnh lý. Nếu gạo ở não thì con vật bị co giật, sùi bọt mép giống như cơn động ở người.
  20. 13 Mổ khám lợn bị bệnh thường thấy ấu trùng ký sinh ở tổ chức cơ vân, chèn ép các mao mạch gây trở ngại tuần hoàn, chèn ép thần kinh gây bại liệt. Ấu trùng cũng gây ra các ổ viêm xơ hóa ở các tổ chức nội quan của vật chủ. Ấu trùng “gạo lợn” tạo ra các kén trong cơ, gây tắc mao mạch, chèn ép vào thần kinh vận động, làm liệt từng bộ phận của cơ thể, đặc biệt khi ấu trùng ký sinh ở não vật chủ làm con vật có triệu chứng thần kinh. Ấu trùng có thể có ở nhiều vị trí khác nhau trong cơ thể, nhưng nhiều nhất là ở bắp thịt, cơ lưỡi, cổ, vai, mông, cơ liên sườn, cơ tim, cơ hoành cách mô. - Lâm sàng: Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (1999) [13], Phạm Sỹ Lăng và cs. (2001) [14] : Lợn bị bệnh có triệu chứng không rõ rệt và thay đổi theo chỗ ký sinh của gạo, nếu ở lưỡi có thể thấy liệt lưỡi và hàm dưới, nếu ở cơ chân thì thấy con vật đi lại khó khăn, nếu ở não thì thấy triệu chứng thần kinh, nếu nhiễm nhiều và toàn thân thì có triệu chứng viêm ruột và viêm gan, sau đó viêm hệ cơ toàn thân. Lúc này con vật lờ đờ, thở dốc, không ăn, đi ỉa, gầy rạc dần rồi chết. Triệu chứng bệnh phụ thuộc rất nhiều vào số lượng ấu trùng và vị trí chúng ký sinh trong cơ thể lợn: - Số lượng ấu trùng ít: Lợn bệnh có triệu chứng không rõ, không điển hình. Người chăn nuôi chỉ thấy lợn xù lông, chậm lớn, đôi khi hay nghiến răng, lợn vẫn ăn uống bình thường. - Số lượng ấu trùng nhiều: Bệnh phát triển ngay từ những ngày đầu nhiễm ấu trùng sán với các triệu chứng như: Giảm ăn, tính mẫn cảm tăng, dễ bị kích thích, sốt 41 - 41,70C, niêm mạc mắt, miệng đỏ tấy. Một số lợn ỉa lỏng trong 7 - 10 ngày, các biểu hiện trên dần dần mất đi nhưng lợn ăn kém. Sau 1 tháng, do xuất hiện các ổ viêm
  21. 14 trong cơ vân và trong các cơ quan nội tạng nên lợn đứng lên, nằm xuống khó khăn và rất ngại đi lại. Các dấu hiệu khác như thở khó, nhai khó, nuốt khó bắt đầu xuất hiện và ngày một nặng dần khiến lợn thường xuyên rên rỉ. Nếu ấu trùng Cysticercus cellulosae ký sinh trong não, trong mắt, còn thấy lợn đi lại mất thăng bằng, có những cơn động kinh, co giật, mờ mắt hoặc mù mắt. Bệnh kéo dài 1 - 2 tháng, phần lớn lợn bị còi cọc, gầy yếu hoặc chết vì suy nhược và rối loạn chức năng các cơ quan. + Triệu chứng lâm sàng ở người: Theo Bùi Huy Quý (2006) [7]: Bệnh ấu trùng sán dây (gạo) ở người có triệu chứng rõ rệt, kéo dài từ vài tuần đến vài năm sau khi bị nhiễm sán. Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [12] cho biết: Nếu ấu trùng ở não người thì chèn ép não, cản trở tuần hoàn máu, gây tụ máu, nếu ở mắt thì mờ mắt, chảy nước mắt, có khi bị mù. Triệu chứng thường thấy là: Đau đầu dữ dội, bại liệt, co giật, nôn mửa, rối loạn thị giác, suy nhược toàn thân. Nếu ấu trùng ở cơ thì bệnh nhân bị mỏi và đau cơ, nếu gạo ở dưới da gây đau nhức rất khó chịu. 2.3.3. Chẩn đoán bệnh gạo lợn Chẩn đoán bệnh gạo ở lợn không thể căn cứ vào triệu chứng lâm sàng, vì triệu chứng của bệnh không điển hình, không thể chẩn đoán bệnh chính xác khi con vật còn sống, kể cả lúc con vật đã mắc bệnh ở giai đoạn rất nặng. Muốn chẩn đoán chính xác bệnh gạo ở lợn, cần mổ khám tìm ấu trùng ký sinh ở các cơ của lợn, hoặc chẩn đoán bằng phương pháp huyết thanh học. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13], Phạm Sỹ Lăng và cs. (2009) [16], Phạm Sỹ Lăng (2006) [15], Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [12], cho biết: Khi con vật còn sống, có thể tìm gạo ở lưỡi, mắt. Nếu không thấy gạo ở những nơi đó thì khó chẩn đoán. Có thể chẩn đoán bằng phương pháp miễn dịch học: Lấy các đốt sán dây T.solium để chế kháng nguyên, tiêm nội bì 0,2
  22. 15 ml. Sau khi tiêm 15 - 45 phút, nếu nơi tiêm sưng và đỏ thì dương tính. Tuy nhiên, phương pháp này có độ chính xác thấp vì có thể gây ra phản ứng dương tính chéo với một số ấu trùng sán dây khác như Cys. tenuicollis Có thể ứng dụng kỹ thuật ELISA phát hiện lợn bị gạo. Đối với con vật chết: mổ khám, tìm gạo ở cơ đùi, cơ lưỡi và cơ tim. 2.3.4. Phòng và điều trị bệnh gạo cho lợn * Phòng bệnh Vargas-Calla A1. và cs. (2015) [44]. Tất cả lợn được điều trị bằng oxfendazole chỉ có u nang thoái hóa trong xác chết của họ. Ngược lại, TCBZ có rất ít ảnh hưởng đối với các u nang ký sinh. U nang từ lợn ở nhóm TCBZ nhìn dường như bình thường sau khi điều trị. Tuy nhiên, đánh giá mô học cho thấy một mức độ nhẹ đến mức độ vừa phải của viêm. Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [9], Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001) [14],] Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [12]: bệnh sán dây T. solium là bệnh chung của người và gia súc, do đó phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành thú y và ngành y tế, áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp như sau: - Xây dựng, củng cố và thực hiện nghiêm ngặt quy định kiểm nghiệm thịt Để bảo vệ sức khỏe cho người, phòng cho người không bị nhiễm sán dây T. solium thì cần kiểm nghiệm thịt nghiêm ngặt trong các nhà máy chế biến thịt, các lò mổ ở các tỉnh, huyện. Nếu thấy gạo thì tùy mức độ nặng, nhẹ mà xử lý. Nếu trên 40 cm2 / lát cắt thịt có nhiều hơn 3 hạt gạo thì phải hủy bỏ hoặc chế biến chín làm thức ăn cho gia súc; nếu trên 40 cm2 lát cắt thịt có dưới 3 hạt gạo thì xử lý bằng một trong ba biện pháp sau:
  23. 16 + Luộc chín: Cắt thành miếng 1 - 2 kg, dày 5 - 6 cm, luộc trong 45 phút đến 1 giờ (ấu trùng chết ở 60 - 700C hoặc -10 - 150C, nếu thịt cắt to và dày quá thì nhiệt độ bên trong không đủ để diệt ấu trùng). + Ướp muối: ngâm thịt trong nước muối đặc, sau 3 tuần thì gạo chết. + Ướp lạnh ở nhiệt độ -100C đến - 150C từ 10 - 15 ngày. Sau đó phải thử sức sống của gạo trước khi dùng thịt này làm thực phẩm. Cách làm: bóc một số hạt gạo ở thịt đã ướp lạnh, cho vào đĩa lồng chứa dịch mật bò (80 %) pha với nước sinh lý (20%), để ở tủ ấm 39 - 400C khoảng 15 phút. Kết quả: màng ngoài của gạo bị phân hủy giải phóng đầu sán dây, nếu thấy đầu sán dây không chuyển động thì gạo đã chết. Ngoài ra, cần kiểm tra thịt chặt chẽ thịt ở các lò mổ và các nhà máy chế biến thực phẩm; cán bộ thú y cần kiểm tra thịt bán ở các chợ hoặc các cơ sở giết mổ tư nhân. - Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh cho người và gia súc + Xây dựng hố xí hai ngăn hoặc hố xí tự hoại để ngăn ngừa không cho lợn ăn phải đốt hoặc trứng sán dây trong phân người. + Nâng cao ý thức vệ sinh của nhân dân, tuyên truyền giáo dục cho mọi người hiểu những kiến thức cơ bản và tác hại của bệnh, chỉ ăn thức ăn đã được rửa sạch, nấu chín, không ăn thịt lợn nghi là lợn gạo. Trước khi ăn và sau khi đại tiện phải rửa tay bằng xà phòng. - Chẩn đoán bệnh cho nhân dân ở vùng có dịch bằng cách hỏi bệnh, kết hợp với xét nghiệm phân tìm đốt sán, sau đó tẩy sán cho những bệnh nhân có sán ký sinh. Theo Chu Thị Thơm và cs. (2006) [29]; Phan Lục và cs (2006) [20]: Vì chưa có thuốc điều trị bệnh gạo lợn có hiệu quả nên vấn đề phòng bệnh là quan trọng, cần kiểm tra thịt lợn gạo ở các lò mổ, xử lý thịt nhiễm gạo (tiêu
  24. 17 hủy hoặc luộc chín), điều trị triệt để người nhiễm sán dây, quản lý phân và ủ phân người để diệt trứng sán dây. Theo Zirintunda G. và Ekou J. (2015) [43]: Xử lý tốt chất thải của con người bằng cách xây dựng nhà vệ sinh đạt yêu cầu, nuôi lợn trong chuồng, chuồng nuôi phải cách xa khu nhà ở là các biện pháp phòng bệnh gạo cho lợn. * Điều trị bệnh: - Điều trị bệnh ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn Trước đây, khi lợn mắc bệnh ấu trùng Cys. cellulosae, quá trình điều trị bệnh gặp nhiều khó khăn do ấu trùng ký sinh sâu trong các cơ của lợn. Hiện nay, theo một số tác giả, bệnh gạo lợn có thể điều trị được bằng thuốc chống sán dây với liều cao và lặp lại. Phạm Sỹ Lăng và cs. (2012), [18] cho biết: thuốc praziquantel, liều 8 mg/kg TT, dùng 1 liều trước khi ăn 1 giờ, hòa thuốc với nước cho lợn uống. Có thể dùng thuốc fenbendazol, liều 5 mg/kg TT, liên tục trong 5 ngày. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) [9]. Nếu phát hiện lợn mắc bệnh sớm thì dùng thuốc praziquante với liều 50 - 100mg/ kg TT Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [12]: Để điều trị bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn và bệnh sán dây ở người thực hiện theo phác đồ sau: - Đối với người: Diệt ấu trùng sán dây (gạo) ở người bằng một trong hai phác đồ sau: + Praziquantel: Liều 30 mg/kg TT/ngày x 15 ngày, chia thành 2 - 3 đợt (mỗi đợt cách nhau 10 - 20 ngày). + Praziquantel: Liều 15 - 20 mg/kg TT ngày đầu, những ngày sau dùng albendazole 15mg/kg TT/ngày x 30 ngày, chia thành 2 - 3 đợt (mỗi đợt cách nhau 20 ngày).
  25. 18 Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [9], Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001) [15], Tẩy sán dây cho người bằng một trong hai loại thuốc: praziquantel, liều 15 - 20 mg/kg thể trọng (liều duy nhất); hoặc niclosamide, liều 2 gam/ người lớn (liều duy nhất). Có thể lặp lại liều này sau 7 ngày nếu thấy cần thiết. Nên tiến hành điều trị bệnh sán dây cho người ở các cơ sở y tế, có phương tiện tốt, có bác sỹ theo dõi trong quá trình điều trị. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) [9]. Có nhiều loại thuốc tẩy sán dây, nhưng có thể dùng bài thuốc nam sau: - Hạt bí ngô (bỏ vỏ) : 50 g - Hạt cau : 70 - 100 g - MgSO4 : 20 - 30 g Sáng sớm còn đói cho ăn hạt bí, sau 1- 2 giờ cho uống nước sắc hạt cau (hạt cau nghiền thành bột cho uống thêm 500ml nước, đun sôi 1h, nước cạn còn khoảng 100 ml gạn qua vải màn lại sắc lại 2 lần nữa, cuối cùng lấy lại 300ml nước sác đun lại, còn 100 ml lọc và uống) sau nửa giờ thì uống thuốc tẩy MgSO4. Sau khi uống thuốc 40 phút đến 4h, đầu sán và các đốt thân sẽ ra. - Đối với lợn: Cũng có thể áp dụng các phác đồ trên để điều trị bệnh gạo. Tuy nhiên, nếu đã chẩn đoán chính xác lợn bị bệnh gạo thì nên loại thải và xử lý theo đúng quy định kiểm tra vệ sinh thú y. 2.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae và bệnh sán dây T.solimm ở người 2.4.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước - Tình hình nghiên cứu về bệnh gạo ở lợn Ở Việt Nam, bệnh ấu trùng sán dây có ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc.
  26. 19 Tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae bình quân ở miền Bắc là 1,0 - 7,2% và ở miền Nam của nước ta là 4,3% (De N.V., 2004 [Error! Reference source not found.]). Tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán dây trên lợn ở các tỉnh miền núi phía Bắc tuy không cao, nhưng chỉ cần một lợn nhiễm bệnh thì có thể phát tán và gây nhiễm sán dây T. solium cho nhiều người (Lê Ngọc Mỹ và cs., 2004 [20]). Tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lò mổ ở các tỉnh như sau: tỉnh Lạng Sơn, tỷ lệ nhiễm 3,89%; tỉnh Thái Nguyên (1,49%); tỉnh Hòa Bình (0,524%); thành phố Hà Nội (0,187%); tỉnh Hà Nam không có lợn nhiễm sán dây tại thời điểm điều tra (dẫn theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục, (1996) [9]). Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13], (2012) [12]: Lợn ở miền núi mắc bệnh gạo cao hơn ở đồng bằng vì ở miền núi thường nuôi lợn thả rông, đồng thời người dân hay ăn thịt sống hoặc tái, không có hố xí hai ngăn. Phạm Văn Khuê và cs (1996) [9] cho biết: lợn ở Việt Nam nhiễm gạo với tỷ lệ 0,3 %, tỷ lệ lợn nhiễm gạo phân bố ở vùng miền núi cao hơn vùng đồng bằng. - Tình hình nghiên cứu về bệnh sán dây T.solium ở người Nguyễn Văn Đề và cs (2001) [4] cho biết: điều tra tình hình nhiễm sán dây T. solium ở người tại Bắc Ninh tỉ lệ nhiễm sán dây từ 1- 12,6 %, tỷ lệ nhiễm ấu trùng gạo lợn là 2,2 - 7,2 %. Kiểm tra ấu trùng Cys. Cellulosae trên lợn ở Bắc Ninh và Bắc Kạn bằng phương pháp ELISA, tỷ lệ nhiễm là 9,91 %, biến động từ 6,06 - 15,49%. Điều tra tình hình nhiễm sán dây T. sollium ở người tại Bắc Ninh tỷ lệ nhiễm sán dây là 1- 12,6 %, tỷ lệ nhiễm ấu trùng là 2,2 - 7,2 %. Theo Phan Anh Tuấn (2013) [31]: Tại Việt Nam, theo điều tra của Viện sốt rét, tỷ lệ nhiễm sán dây lợn vùng đồng bằng từ 0,5 – 2 %, vùng trung du và miền núi là 3,8 – 6 %. Bệnh sán dây và ấu trùng sán dây lợn phân bố ở
  27. 20 nhiều nơi liên quan đến tập quán ăn uống thịt lợn hoặc thịt trâu, bò chưa nấu chín. Trên vùng đồng bằng, tỷ lệ nhiễm sán dây từ 0.5 – 2 %; trong khi đó, ở trung du và miền núi thì tỷ lệ nhiễm sán dây 2 – 6 %. 2.4.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Theo Khaing T.A. và cs. (2015) [41]: Để điều tra tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng sán dây T. solium, tác giả đã tiến hành kiểm tra 300 lợn ở 3 cơ sở giết mổ và 364 lợn ở 203 hộ gia đình từ 3 thị trấn trong khu vực Nay Pry Taw của Myanma, kết quả cho thấy; tỷ lệ nhiễm giun sán ở lợn là 26,67 % (71 / 300 mẫu kiểm tra); tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán dây T. solium là 15,93 % (58 / 364 lợn kiểm tra). Đã thống kê 450 trường hợp người bị mắc bệnh gạo thì có 21,6 % có sán dây T. solium trưởng thành ký sinh cho biết kiểm tra 164 người bị sán trưởng thành ký sinh thì có 16,4 % bị gạo. Như vậy, người bị sán dây trưởng thành ký sinh cần được tẩy sớm để tránh bị bệnh gạo lợn Aung A.K., Spelman D.W. (2016) [36] cho biết, các triệu chứng ban đầu của bệnh sán dây và ấu trùng sán dây không thể phát hiện được, do tiềm ẩn trong khoảng thời gian dài là các nốt sần dưới da, hoặc phát hiện khi chụp X quang. Các nang của ấu trùng Cys. cellulosae không thể nhận biết khi chụp X quang ở thời gian dưới 5 năm kể từ khi xâm nhập vào cơ thể người. Theo Hiroyuki Miura, MD . và cs (2000) [39], ở Singapore, kiểm tra rất cẩn thận thịt lợn khi mổ khám để cung cấp cho người tiêu dùng. Trong 4 năm đã kiểm tra 894,316 lợn mổ khám, có 3,630 lợn mắc bệnh ấu trùng cys. cellulosae. Khám và xét nghiệm cho 118,723 bệnh nhân nhập viện Tan Tock Seng trong 9 năm, có 6 bệnh nhân nhiễm sán dây T. solium.
  28. 21 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu - Lợn các lứa tuổi nuôi ở hộ gia đình tại một số xã thuộc huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên. - Bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae gây ra ở lợn. 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài được thực hiện ở một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên. - Địa điểm xét nghiệm mẫu: Phòng thí nghiệm Bộ môn Bệnh động vật - Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên. 3.2. Vật liệu nghiên cứu * Động vật thí nghiệm: - Lợn các lứa tuổi nuôi ở hộ gia đình tại một số xã thuộc huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên (mổ khám xác định tỷ lệ nhiễm Cys.cellulosae ở lợn). * Bệnh phẩm: - Mẫu cơ, não, lưỡi, thận, ruột, gan, phổi, thận, lá lách, tim của lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae. * Dụng cụ, thiết bị và hóa chất - Máy cắt tế bào Microtom. - Kính lúp. - Kính HV quang học. - Thùng bảo ôn để bảo quản bệnh phẩm. - Hộp bảo quản ấu trùng Cys. cellulosae. - Bộ hóa chất làm tiêu bản xác định bệnh tích vi thể.
  29. 22 - Thuốc nhuộm Hematoxilin- Eosin. - Formol 10%. 3.3. Nội dung nghiên cứu 3.3.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae gây ra ở lợn tại một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên - Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn tại một số xã trong huyện. - Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo tuổi lợn - Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo tháng - Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo giống lợn - Tỷ lệ ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo phương thức chăn nuôi. 3.3.2 Tình hình nhiễm sán dây T. solium ở người - Điều tra tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của người dân ở vùng núi huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên. - Tỷ lệ người nhiễm sán dây ở một số xã. - Tỷ lệ người nhiễm sán dây theo giới tính. 3.3.2. Nghiên cứu bệnh gạo ở lợn - Tổn thương đại thể của lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae. - Tổn thương vi thể của lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae. 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn tại một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên 3.4.1.1. Phương pháp nghiên cứu tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn * Nghiên cứu tình hình nhiễm ấu trùng Cys.cellulosae ở lợn theo phương pháp nghiên cứu dịch tễ học mô tả, dịch tễ học phân tích Bố trí thu thập mẫu theo phương pháp lấy mẫu chùm nhiều bậc.
  30. 23 Bố trí điều tra tình hình nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn. - Mổ khám lợn tại 5 xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên: Xã Nà Hỳ mổ khám: 112 con lợn; xã Si Pa Phìn mổ khám: 98 con lợn; xã Nậm Chua mổ khám 102 con lợn; xã Chà Cang mổ khám: 94 con lợn; xã Pa Tần mổ khám 95 con lợn. - Để xác định được tình hình nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn, tiến hành mổ khám lợn. Theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn năm 2016, về Quy trình kiểm soát giết mổ động vật (số 09/2016/TT- BNNPTNT ngày 01/06/2016), kiểm tra cơ và tất cả các khí quan của lợn, thu thập ấu trùng Cys. cellulosae. * Một số quy trình trong nghiên cứu dịch tễ bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae gây ra. - Dự kiến lợn mổ khám theo các chỉ tiêu trong nghiên cứu dịch tễ học như sau: +Tuổi lợn: Lợn được phân ra 4 lứa tuổi 2-6 tháng tuổi > 6 -12 tháng tuổi > 12 tháng tuổi - Giống lợn: dựa vào tình hình chăn nuôi thực tế của 5 xã, các hộ gia đình chủ yếu nuôi hai giống lợn là lợn lai và lợn địa phương. + Lợn lai (lợn ngoại × lợn móng cái hoặc lợn ngoại × với lợn địa phương). + Lợn địa phương (gồm tất cả những giống lợn nội được nuôi tại địa phương). - Phương thức chăn nuôi: theo dõi mổ khám lợn theo ba phương thức là:
  31. 24 + Nuôi nhốt hoàn toàn. + Nuôi bán chăn thả. + Nuôi thả rông. * Phương pháp thu thập ấu trùng Cys. cellulosae và đánh giá tỷ lệ mắc bệnh gạo lợn -Việc mổ khám lợn và thu thập ấu trùng Cys. cellulosae được tiến hành tại các hộ gia đình và các cơ sở giết mổ. Ấu trùng thu thập được để trong lọ nhựa có nắp, có dán nhãn ghi các thông tin: giống lợn, tuổi, địa điểm mổ khám, ngày mổ khám, biểu hiện lâm sàng của lợn (nếu có). * Phương pháp đánh giá tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. celluosae ở lợn Những lợn có ấu trùng Cys. cellulosae ký sinh ở trong cơ thể thì đánh giá là nhiễm bệnh, ngược lại là không nhiễm bệnh. Cường độ nhiễm ấu trùng được xác định theo thông tư 09/2016 của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn. - Xác định lợn mổ khám nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae bằng cách quan sát, phát hiện ấu trùng ký sinh ở cơ, tim, não, thận Cường độ nhiễm ấu trùng được xác định bằng số lượng ấu trùng ký sinh/ 40 cm2 lát cắt cơ của lợn. Quy định theo thông tư số 09 /2016/TT-BNNPTNT ngày 01/6/2016 như sau: Trên 40 cm2 lát cắt cơ có ≤ 2 ấu trùng: nhiễm cường độ nhẹ (+). Trên 40 cm2 lát cắt cơ có 3 - 6 ấu trùng: nhiễm cường độ trung bình (++). Trên 40 cm2 lát cắt cơ có > 6 ấu trùng: nhiễm cường độ nặng (+++). - Ở tim, não, thận: là số ấu trùng Cys. cellulosaetrên toàn bộ não, tim, thận của mỗi lợn. 3.4.1.2. Nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ nhiễm sán dây T. solium ở người và
  32. 25 nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn Bước 1. Phát phiếu điều tra cho các hộ dân trên địa bàn nghiên cứu, trong phiếu điều tra có các thông tin cần thu thập. Bước 2. Kết hợp với các cơ sở y tế địa phương để xác định người bị nhiễm sán dây T. solium. Bước 3. Tổng hợp qua phiếu điều tra và kết quả từ cơ sở y tế địa phương tập trung vào 2 nội dung: Một là, các yếu tố nguy cơ nhiễm sán dây T. solium ở người; Hai là, tỷ lệ người đã bị nhiễm sán dây T. solium trong tổng số người điều tra tại một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên 3.4.2. Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae trên lợn *Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của lợn mắc bệnh gạo Theo dõi biểu hiện lâm sàng của lợn ở các địa phương, kiểm tra tổn thương đại thể và vi thể của lợn mắc bệnh nhằm xác định những đặc điểm chủ yếu của bệnh gạo, từ đó có những khuyến cáo hợp lý đối với cán bộ thú y và người chăn nuôi trong công tác chẩn đoán, phát hiện lợn mắc bệnh gạo. * Phương pháp xác định biểu hiện lâm sàng, tổn thương đại thể và vi thể ở lợn - Triệu chứng lâm sàng được xác định bằng cách quan sát những biểu hiện của lợn (thể trạng, ăn uống, da và niêm mạc, vận động, trạng thái phân, thân nhiệt ). Nội dung này được thực hiện trên những lợn có kết quả xét nghiệm mẫu huyết thanh bằng các bộ Kit ELISA T. solium dương tính (đã mắc bệnh). Theo dõi những lợn này trước khi sử dụng thuốc điều trị thử nghiệm. Ghi lại các biểu hiện của mỗi lợn, sau đó tổng hợp và mô tả triệu chứng lâm sàng của lợn. - Tổn thương đại thể: mổ khám lợn, tìm ấu trùng Cys. cellulosae ký sinh ở cơ, não, tim và các cơ quan khác trong cơ thể. Đồng thời quan sát những tổn thương ở các khí quan của lợn bằng mắt thường và kính lúp, chụp ảnh vùng có tổn thương điển hình. Nội dung này được tiến hành trên những lợn mổ khám thấy bị mắc bệnh gạo ở các địa phương trên địa bàn tỉnh. - Tổn thương vi thể: Nghiên cứu tổn thương vi thể ở các khí quan của lợn mắc bệnh gạo bằng phương pháp làm tiêu bản tổ chức học theo quy trình
  33. 26 tẩm đúc parafin, nhuộm Hematoxilin - Eosin, đọc kết quả dưới kính hiển vi quang học và chụp ảnh. Nội dung này cũng được tiến hành trên những lợn mổ khám thấy bị mắc bệnh gạo ở các địa phương, thu thập mẫu bệnh phẩm (cơ, não, tim, gan, phổi, lách, thận) của lợn bệnh để làm tiêu bản vi thể. 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu thu được được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh học (theo tài liệu của Nguyễn Văn Thiện, 2008, trên phần mềm Excel 2010 và phần mềm Minitab 16.0.
  34. 27 Phần 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên 4.1.1. Tình hình nhiễm ấu trùng Cys. cellulosaeở lợn tại một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên 4.1.1.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn tại một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên Để biết được tình hình nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn tại 5 xã của tại huyện Nậm Pồ. Chúng tôi đã tiến hành mổ khám 501 lợn. Kết quả được trình bày ở bảng 4.1. Bảng 4.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn tại địa phương Số lợn Số lợn Tỷ lệ Cường độ nhiễm Địa phương mổ nhiễm nhiễm (Số ấu trùng/40 cm2 (xã) khám (con) (%) cơ ) (con) Chà Cang 93 0 0,0 0 Nà Hỳ 113 3 2,65 11 Nậm Chua 102 2 1,96 8,5 Pa Tần 98 0 0,0 0 Si Pa Phìn 95 2 2,10 7,5 Tính chung 501 7 1,4 5,4
  35. 28 Qua bảng 4.1. chúng tôi thấy: mổ khám 501 lợn ở 5 xã của huyện Nậm Pồ, có 7 con nhiễm bệnh, tỷ lệ nhiễm là 1,4 %, cường độ nhiễm trung bình là 5,4 ấu trùng/ 40 cm2 cơ. Xã Chà Cang, mổ khám 93 lợn, không có con nhiễm bệnh. Xã Nà Hỳ, mổ khám 113 lợn, có 3 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 2,65%; cường độ nhiễm 11 ấu trùng/ 40 cm2 cơ. Xã Nậm Chua, mổ khám 102 lợn, có 2 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 1,96 %; cường độ nhiễm 8,5 ấu trùng/ 40 cm2 cơ. Xã Pa Tần, mổ khám 98 lợn, không có con nhiễm bệnh. Xã Si Pa Phìn, mổ khám 95 lợn, có 2 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 2,1 %; cường độ nhiễm 7,5 ấu trùng/ 40 cm2 cơ. Kết quả mổ khám lợn ở 5 xã cho thấy: xã Nà Hỳ có tỷ lệ lợn nhiễm bệnh gạo cao nhất là 2,65 %; cường độ nhiễm 11 ấu trùng/40 cm2 cơ và xã Chà Cang, xã Pa Tần không có lợn nhiệm bệnh. Nguyên nhân lợn ở xã Nà Hỳ nhiễm bệnh gạo ở mức độ khá cao là do: các hộ gia đình ở đây vẫn chưa quan tâm tới tập quán chăn nuôi, vẫn còn chăn nuôi lợn thả rông, lợn tự tìm kiếm thức ăn ngoài tự nhiên. Mặt khác, đa số hộ gia đình ở đây không có nhà vệ sinh, phân của người được phóng uế ra ngoài môi trường; người dân còn tập tục ăn thịt sống, tái nhiều. Nếu người mắc sán dây, đốt sán già được thải ra ngoài theo phân, lợn ăn phải thức ăn, nước uống có lẫn đốt sán, ở ruột non trứng sán dây nở thành ấu trùng. Sau 24 - 72 giờ, ấu trùng vào mạch máu, ống lâm ba ruột rồi theo tuần hoàn về vị trí ký sinh và phát triển thành một bọc có nước, sau 60 ngày hình thành hạt gạo lợn hoàn chỉnh. Theo Nguyễn Văn Đề và cs. (2001) [4]: Điều tra tình hình ấu trùng gạo lợn ở Bắc Ninh, tỷ lệ nhiễm ấu trùng là 2,2 - 7,2.
  36. 29 Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (1999) [11], (2012) [12]: Lợn ở miền núi mắc bệnh gạo cao hơn ở đồng bằng vì ở miền núi thường nuôi lợn thả rông, đồng thời người dân hay ăn thịt sống hoặc tái, không có hố xí hai ngăn. Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm bệnh gạo của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của các tác giả trên và tương đồng với nhận xét của Nguyễn Thị Kim Lan và cs. 4.1.1.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo tuổi lợn Để biết được tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo tuổi lợn tại 5 xã của huyện huyện Nậm Pồ. Chúng tôi đã tiến hành mổ khám lợn ở các lứa tuổi. Kết quả được trình bày ở bảng 4.2. Bảng 4.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo tháng tuổi Số lợn Số lợn Tuổi lợn Tỷ lệ nhiễm mổ khám nhiễm (tháng) (%) (con) (con) ≤ 2 56 0 0 > 2 - 6 104 0 0 > 6 - 12 198 2 1,01 > 12 143 5 3,49 Tính chung 501 7 1,40 Qua bảng 4.2 chúng tôi thấy: Qua quá trình mổ khám 501 lợn, có 7 con mắc bệnh theo tháng tuổi các độ tuổi từ giai đoạn lợn ≤ 2 tháng tuổi đến 6 tháng tuổi không phát hiện lợn nhiễm bệnh; giai đoạn lợn > 6- 12 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm bệnh là 1,01%; giai đoạn lợn > 12 tháng tuổi cho thấy, tỷ lệ nhiễm bệnh là 3,49 %. Lợn ở giai đoạn ≤ 2 tháng tuổi, mổ khám 56 con lợn, không có con nhiễm bệnh. Lợn ở giai đoạn > 2 – 6 tháng tuổi, mổ khám 104 con lợn, không có con nhiễm bệnh;
  37. 30 Lợn ở giai đoạn > 6- 12 tháng tuổi, mổ khám 198 lợn, có 2 con nhiễm bệnh chiếm tỷ lệ 1,01 %; Lợn ở giai đoạn > 12 tháng tuổi, mổ khám 143 con lợn, có 5 con nhiễm bệnh chiếm 3,49 %; Qua kết quả trên chúng tôi thấy: lợn bị nhiễm bệnh cao nhất vào giai đoạn lợn > 12 tháng tuổi chiếm tỷ lệ 3,49 %; không phát hiện nhiễm bệnh là giai đoạn lợn 2- 6 tháng tuổi. Lợn ở giai đoạn > 6 – 12, và >12 tháng tuổi có tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn ở các lứa tuổi khác, theo chúng tôi có thể do những nguyên nhân sau: Lợn nuôi thời gian dài có nguy cơ cao tiếp xúc với đốt và trứng sán dây nên tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae cao hơn so với lợn nuôi ở giai đoạn ≤ 2 tháng tuổi và 2 - 6 tháng tuổi. 4.1.1.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn qua các tháng theo dõi Để biết được tình hình nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn tại 5 xã của huyện Nậm Pồ, chúng tôi đã tiến hành mổ khám lợn. Kết quả được trình bày ở bảng 4.3. Bảng 4.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn qua các tháng Số lợn Tỷ lệ Số lợn nhiễm Tháng mổ khám nhiễm (con) (con) (%) 6 88 1 1,13 7 90 3 3,33 8 94 2 2,13 9 91 1 1,02 10 93 0 0 11 45 0 0 Tính chung 501 7 1,4 Qua kết quả 4.3 chúng tôi thấy: mổ khám 501 lợn, có 7 con nhiễm bệnh, tỷ lệ nhiễm bệnh là 1,4 %.
  38. 31 Tháng 6, số lợn mổ khám là 88 con, có 1 con nhiễm bệnh chiếm tỷ lệ 1,13 %. Tháng 7, mổ khám 90 con lợn, có 3 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 3,33 %. Tháng 8, mổ khám 94 con lợn, có 2 con nhiễm chiếm tỷ lệ 2,13 %; Tháng 9, mổ khám 91 con lợn, có 1 con nhiễm, chiếm tỷ lệ 1,02 %; Tháng 10, mổ khám 93 lợn, không có lợn nhiễm bệnh. Tháng 11, mổ khám 45 con lợn, không có lợn nhiễm bệnh. Qua kết quả trên chúng tôi thấy: Tỷ lệ nhiễm bệnh gạo cao nhất ở tháng 7 và không phát hiện lợn nhiễm bệnh gạo ở tháng 10, tháng 11. Theo chúng tôi lợn nhiễm bệnh gạo có sự chênh lệch nhiễm giữa các tháng là do: ở tháng 7 thời tiết mưa nhiều, độ ẩm cao, nếu lợn nuôi ở gia đình có người mắc bệnh sán dây, hoặc gia đình xung quanh có người nhiễm bệnh không có nhà vệ sinh, người phóng uế ra ngoài môi trường. Do đó, đây là điều kiện thuận lợi để trứng sán dây phát tán ra ngoài môi trường, tồn tại và phát triển thành trứng có sức gây bệnh. Mặt khác, trong tự nhiên, trứng sán dây có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh và các hóa chất thông thường. Ở ngoại cảnh sau 1,5 tháng, trứng sán không còn khả năng sống. Trong dung dịch formol, cresyl 5 %, sau 2 giờ mới diệt được trứng sán dây. Nguyễn Phước Tương (2002) [31] cho rằng: Trứng sán dây sống được ở môi trường bên ngoài khoảng vài tháng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của tác giả trên. 4.1.1.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo giống Để biết được tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo giống tại 5 xã tại huyện Nậm Pồ. Chúng tôi đã tiến hành mổ khám lợn ở các giống. Kết quả được trình bày ở bảng 4.4
  39. 32 Bảng 4.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae theo giống ở lợn Số lợn Tỷ lệ Địa phương Số lợn nhiễm nhiễm Giống mổ (xã) (con) (%) khám (con) Lợn địa phương 50 0 0,0 Chà Cang Lợn lai 43 0 0,0 Lợn địa phương 92 3 3,26 Nà Hỳ Lợn lai 21 0 0,0 Nậm Chua Lợn địa phương 75 1 1,33 Lợn lai 27 1 3,7 Lợn địa phương 79 0 0,0 Pa Tần Lợn lai 19 0 0,0 Lợn địa phương 77 2 2,6 Si Pa Phìn Lợn lai 18 0 0,0 Lợn địa phương 373 6 1,61 Tính chung Lợn lai 128 1 0,8 Qua kết quả ở bảng 4.4 cho thấy: Qua quá trình mổ khám 373 lợn địa phương, có 6 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ nhiễm bệnh là 1,61 %; mổ khám 128 lợn lai, có 1 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 0,8 %. Xã Pa Tần, Mổ khám 79 lợn địa phương và mổ khám 19 con lợn lai, không có lợn nhiễm ấu trùng.
  40. 33 Xã Chà Cang, Mổ khám 50 lợn địa phương và mổ khám 43 con lợn lai, không có lợn nhiễm ấu trùng. Xã Nà Hỳ, mổ khám 92 lợn địa phương, có 3 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 3,26 %; lợn lai mổ khám 21 con lợn, không có lợn lai nào nhiễm ấu trùng. Xã Nậm Chua: Mổ khám 75 con lợn địa phương, có 1con nhiễm, chiếm tỷ lệ 1,33 %; mổ khám 27 lợn lai, có 1 con nhiễm bệnh chiếm tỷ lệ 3,7 %. Xã Si Pa Phìn: Mổ khám 77 lợn địa phương, có 2 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 2,6 %; mổ khám 18 lợn lai, không có lợn lai nhiễm bệnh. Qua quá trình mổ khám cho thấy; tỷ lệ nhiễm bệnh cao ở giống lợn địa phương và nhiễm bệnh thấp ở giống lợn lai. Giống lợn địa phương có tỷ lệ nhiễm bệnh cao theo chúng tôi có thể giải thích như sau: Giống lợn địa phương thường được nuôi ở các xã miền núi, vùng xa của huyện Nậm Pồ, do chúng có đặc tính phù hợp với địa hình và thời tiết khắc nghiệt và chúng thường được người dân chăn thả tự do hoặc bán chăn thả,vì vậy lợn địa phương có nguy cơ nhiễm ấu trùng sán dây cao hơn lợn lai. 4.1.1.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo phương thức chăn nuôi Để biết được tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo phương thức chăn nuôi tại 5 xã tại huyện Nậm Pồ. Chúng tôi đã tiến hành mổ khám lợn theo các phương thức chăn nuôi. Kết quả được trình bày ở bảng 4.5 Bảng 4.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo phương thức chăn nuôi
  41. 34 Số lợn Số lợn mổ Tỷ lệ nhiễm Phương thức chăn nuôi nhiễm khám (con) (%) (con) Nuôi nhốt hoàn toàn 86 0 0 Nuôi bán chăn thả 156 1 0,64 Nuôi thả rông 259 6 2,31 Tính chung 501 7 1,40 Kết luận bảng 4.5 cho thấy: Qua quá trình mổ khám 501 lợn, có 7 con nhiễm bệnh, theo phương thức chăn nuôi, tỷ lệ mắc bệnh là 1,4 %. Phương thức nuôi nhốt hoàn toàn, mổ khám 86 con lợn, không có lợn nhiễm bệnh; Ở phương thức nuôi bán chăn thả, mổ khám 156 con lợn, có 1 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 0,64 %. Ở phương thức nuôi thả rông, mổ khám 259 con lợn, có 6 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 2,31 %. Trong quá trình mổ khám cho thấy: Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn theo phương thức chăn nuôi thả rông nhiễm cao nhất, chiếm tỷ lệ 2,31 % ; lợn nuôi nhốt hoàn toàn không phát hiện nhiễm. Theo chúng tôi lợn thả rông nhiễm bệnh cao nhất, tiếp đó là lợn nuôi bán chăn thả, lợn nuôi nhốt không nhiễm bệnh do những nguyên nhân sau: Nhiều gia đình ở huyện, hộ nông dân không có điều kiện xây chuồng trại kiên cố để chăn nuôi lợn. Chuồng trại thường được làm tạm bợ, tận dụng và cải tạo một vị trí nào đó trong vườn để thuận tiện cho việc làm chuồng nuôi lợn tạm thời. Ở vùng sâu, vùng xa, do điều kiện khó khăn nên lợn thường được thả rông và không có chuồng trại. Lợn tự kiếm thức ăn trong khu vực xung quanh của gia đình và các hộ dân lân cận. Chính vì vậy, nên lợn nuôi bán chăn thả và lợn thả rông đều có nguy cơ
  42. 35 tiếp xúc với đốt sán và trứng sán dây của người mắc bệnh sán dây thải phân ra ngoài môi trường. Do đó, lợn nuôi bán chăn thả và lợn thả rông thường mắc bệnh gạo cao hơn lợn nuôi nhốt. Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [11], (2012) [12]: Lợn ở miền núi mắc bệnh gạo cao hơn ở đồng bằng vì ở miền núi thường nuôi lợn thả rông, đồng thời người dân hay ăn thịt sống hoặc tái, không có hố xí hai ngăn. Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm bệnh gạo của chúng tôi phù hợp với nhận xét của Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (1999) [11]. 4.1.2. Nghiên cứu các yếu tố nhiễm sán dây T. solium ở người tại huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên 3.1.2.1 Thực trạng chăn nuôi lợn và sinh hoạt của người dân ở huyên Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên Để biết được thực trạng chăn nuôi và sinh hoạt có liên quan đến tỷ lệ lợn nhiễm bệnh gạo ở lợn. Chúng tôi đã điều tra 244 hộ gia đình, kết quả về tỷ lệ nhiễm bệnh gạo ở lợn và bệnh sán dây ở người được trình bày ở bảng 4.6. Bảng 4.6. Thực trạng tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của người dân ở địa phương Số hộ Số hộ Tỷ lệ Tập quán chăn nuôi và sinh hoạt điều tra áp dụng (%) Nuôi lợn thả rông 107 43,85 Nuôi lợn bán chăn thả 71 29,1 244 Không nhà vệ sinh cho người 140 57,4 Người ăn thịt sống, tái 138 56,6 Người không được xét nghiệm và tẩy sán dây 244 100 Kết quả bảng 4.6 cho thấy qua điều tra 244 hộ về tập quán chăn nuôi sinh hoạt của người dân ở địa phương, có 107 hộ nuôi lợn thả rông, chiếm tỷ lệ 43,85 %. Số hộ áp dụng phương thức nuôi lợn bán chăn thả là 71 hộ, chiếm tỷ lệ 29,1%.
  43. 36 Trong đó, số hộ gia đình không có nhà vệ sinh cho người là 140 hộ, chiếm tỷ lệ 57,4 %. Trong 244 hộ điều tra, có 138 hộ ăn thịt tái, sống chiếm tỷ lệ là 56,6 %. Số hộ có người không được xét nghiệm và tẩy sán dây là 244 hộ, chiếm tỷ lệ là 100 %. Qua kết quả trên chúng tôi thấy: Nhiều hộ gia đình ở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên chưa quan tâm và đầu tư cho chăn nuôi cũng như quan tâm đến sinh hoạt của gia đình. Phần lớn các hộ gia đình vẫn còn nuôi lợn thả rông, nhà vệ sinh chưa được đầu tư chú trọng. Do kinh tế khó khăn, đất rộng, thói quen chăn nuôi, đặc biệt là các xã vùng núi nên các hộ gia đình không có điều kiện xây dựng chuồng trại, lợn thường được thả rông, không được nuôi nhốt. Do phong tục, tập quán từ lâu đời nên người dân có thói quen ăn thịt sống, tái. Trong hộ gia đình có người mắc bệnh sán dây cũng không có điều kiện đi xét nghiệm và tẩy sán dây do điều kiện kinh tế khó khăn, xa các trung tâm y tế. Một phần, ngại khi biết bản thân nhiễm bệnh và không biết được hết tác hại của bệnh do sán dây gây ra. 4.1.2.2. Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người tại địa phương Để biết được tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người. Chúng tôi đã điều tra 244 hộ gia đình, kết quả về tỷ lệ số hộ nhiễm sán và số người nhiễm sán dây được trình bày ở bảng 4.7 Bảng 4.7. Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ởngười tại địa phương Số hộ có Số người Số hộ Số người người Tỷ lệ nhiễm Tỷ lệ Địa phương điều tra điều tra nhiễm sán (%) sán (%) (xã) (hộ) (người) dây (hộ) (người) Chà Cang 51 0 0 202 0 0 Nà Hỳ 52 2 3,8 287 4 1,4
  44. 37 Nậm Chua 47 2 4,3 287 4 1,4 Pa Tần 45 0 0 234 0 0 Si Pa Phìn 49 2 4,1 219 3 1,4 Tính chung 244 6 2,5 1.229 11 0,9 Qua bảng 4.7 chúng tôi thấy: điều tra 244 hộ của 5 xã về tỷ lệ người mắc sán dây T. solium, có 6 hộ có người nhiễm sán dây, chiếm tỷ lệ 2,5 %; Trong đó điều tra 1.229 người, số người nhiễm sán dây là 11, chiếm tỷ lệ 0,9 %. Qua kết quả ở bảng trên chúng tôi thấy, ở xã Nậm Chua có số hộ gia đình nhiễm sán dây lợn cao nhất chiếm tỷ lệ 4,3 % và có số người nhiễm cao nhất là xã: Nà Hỳ, Nậm Chua, Si Pa Phìn chiếm tỉ lệ 1,4 %. Xã không có hộ gia đình và người nhiễm sán dây là xã Chà Cang và xã Pa Tần. Theo chúng tôi ở xã Chà Cang và xã Pa Tần không có hộ gia đình và người nhiễm bệnh, vì đây là xã vùng thấp, trình độ dân trí cao, giao thông thuận lợi. Người dân ít ăn thịt sống, tái. Xã Nà Hỳ, Nậm Chua, Si Pa Phìn có hộ gia đình và người nhiễm bệnh sán dây cao là do những nguyên nhân sau: Đây là xã vùng xa, điều kiện kinh tế, giao thông khó khăn, xa cơ sở y tế. Do phong tục tập quán cũng như trình độ dân trí còn thấp, khi thịt lợn nhiễm bệnh gạo người dân cũng không nhận biết được mức độ nguy hiểm của bệnh, nếu có biết thì cũng không nhận thức để báo cán bộ thú y đến tiêu hủy mà chia cho các hộ làm ăn cùng chế biến làm thức ăn cho người. Người dân thường xuyên ăn thịt sống, tái do phong tục, tập quán từ lâu đời khó có thể thay đổi. Khi người dân biết bản thân nhiễm bệnh sán dây cũng không có điều kiện đi xét nghiệm và tẩy sán dây. Nguyễn Văn Đề và cs (2001) [4] cho biết: Điều tra tình hình nhiễm sán dây T. solium ở người tại Bắc Ninh tỉ lệ nhiễm sán dây từ 1- 12,6 %
  45. 38 Ở vùng núi và cao nguyên, tỷ lệ người mắc bệnh sán lợn cao từ 3,8 – 4 % có nơi lên đến 6 %; tỷ lệ nhiễm của người các tỉnh đồng bằng thấp hơn 0,5 -2 % . Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ nhiễm thấp hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đề và cs (2001) [4], và tỷ lệ nhiễm sán dây ở người cao hơn kết quả điều tra của (Việt Sốt rét, Ký sinh trùng năm 1993) ở vùng đồng bằng. 4.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người theo giới tính ở một số xã của huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên Để biết được tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người theo giới tính ở 5 xã của huyện Nậm Pồ, chúng tôi tiến hành điều tra người dân theo giới tính. Kết quả được trình bày ở bảng 4.8. Bảng 4.8. Tỷ lệ người nhiễm bệnh sán dây T. solium theo giới tính Tỷ lệ nhiễm Giới tính Số người điều tra Số người nhiễm (%) Nam 741 8 1,1 Nữ 488 3 0,6 Tính chung 1.229 11 0,9 Qua bảng 4.8 chúng tôi thấy; điều tra 1229 người, trong đó điều tra 741 nam giới, số người nhiễm là 8, chiếm tỷ lệ nhiễm 1,1 % và điều tra 488 nữ giới, số người nhiễm là 3, chiếm tỷ lệ nhiễm 0,6 %. Kết quả cho thấy nam giới có tỷ lệ nhiếm sán dây cao hơn nữ giới do thói quen ăn thịt tái, thịt sống chưa qua chế biến. 4.2. Nghiên cứu bệnh ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn 4.2.1. Tổn thương đại thể và vi thể của lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở Huyện Nậm Pồ * Tổn thương đại thể
  46. 39 Bảng 4.9. Tổn thương đại thể của lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn Số lợn mổ Số lợn Tỷ lệ có Các bệnh tích đại thể chủ yếu khám có bệnh bệnh tích Số lợn Tỷ lệ Những bệnh tích chủ yếu (con) tích(con) (%) (con) (%) Não xung huyết, xuất huyết, 6 86,0 có gạo kí sinh Gan xuất huyết, thoái hóa, xơ 2 29,0 gan Lách xung huyết 3 42,85 501 7 1,4 Phổi xung huyết, xuất huyết 3 42,85 Thận xung huyết 3 42,85 Cơ có gạo kí sinh 7 100 Tim xung huyết, giãn cơ tim 3 42,85 Ruột xung huyết, xuất huyết 3 42,85 501 7 1,4 Qua bảng 4.9 chúng tôi thấy: Mổ khám 501 lợn, có 7 lợn có biểu hiện bệnh tích đại thể, tỷ lệ lợn có bệnh tích chiếm 1,4 %. Trong đó: Có 7/7 lợn mổ khám có gạo ký sinh trong cơ. Có 2/7 lợn có bệnh tích ở gan với biểu hiện: xuất huyết, gan thoái hóa. Có 6/7 lợn có bệnh tích ở não: xung huyết, xuất huyết, có gạo ký sinh. Có 3/7 lợn có gạo ký sinh ở trong và ngoài cơ tim, cơ tim xung huyết. Có 3/7 lợn, niêm mạc ruột non xung huyết. Có 2/7 lợn có bệnh tích thận.
  47. 40 Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2001) [14]: Khi lợn mắc bệnh gạo có triệu chứng không điển hình, khi mổ khám mới thấy những tổn thương bệnh lý. Mổ khám lợn bị bệnh thường thấy ấu trùng ký sinh ở tổ chức cơ vân, chèn ép các mao mạch gây trở ngại tuần hoàn, chèn ép thần kinh gây bại liệt. Ấu trùng cũng gây ra các ổ viêm xơ hóa ở các tổ chức nội quan của vật chủ. Ấu trùng có thể có ở nhiều vị trí khác nhau trong cơ thể, nhưng nhiều nhất là ở bắp thịt, cơ lưỡi, cổ, vai, mông, cơ liên sườn, cơ tim, cơ hoành cách. Kết quả mổ khám lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae của chúng tôi cũng phù hợp với vị trí mô tả của Phạm Sỹ Lăng và cs. (2001) [14]. * Tổn thương vi thể Để biết được tổn thương vi thể của lợn nhiễm ấu trùng, chúng tôi đã lấy bệnh tích điển hình của 7 lợn mổ khám để làm tiêu bản vi thể. Kết quả về tổn thương vi thể được thể hiện ở bảng 4.10 Bảng 4.10. Tổn thương vi thể của lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae Số tiêu bản Số tiêu bản có Tỷ lệ Loại mẫu nghiên cứu tổn thương vi thể (%) Não 3 2 66,66 Mắt 3 1 33,33 Cơ 7 7 100 Tim 3 2 66,66 Gan 3 1 33,33 Phổi 3 1 33,33 Thận 3 1 33,33 Lách 3 1 33,33 Ruột 3 2 66,66 Qua bảng 4.10. chúng tôi thấy: có 7/7 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích ở cơ. Có 2/3 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích ở não. Có 1/3 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích thận.
  48. 41 Có 2/3 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích ở tim. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2012) [18]: ấu trùng phát triển, chèn ép làm cho các mô bị teo, hoại tử và thoái hóa, mô bào và các cơ bị tổn thương, bên trong có bạch cầu ái toan, bạch cầu trung tính và các tổ chức xơ. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2001) [14] Ấu trùng “gạo lợn” tạo ra các kén trong cơ, gây tắc mao mạch, chèn ép vào thần kinh vận động, làm liệt từng bộ phận của cơ thể, đặc biệt khi ấu trùng ký sinh ở não vật chủ làm con vật có triệu chứng thần kinh. Nghiên cứu về tổn thương vi thể trên lợn nhiễm bệnh gạo của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Phạm Sỹ Lăng và cs, năm 2001[14] và năm 2012[18].
  49. 42 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1 Kết luận Sau thời gian thực hiện đề tài tốt nghiệp từ tháng 06/2018 đến tháng 11/2018 tại huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên, em thu được kết quả như sau: - Tỷ lệ nhiễm bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae cao nhất là xã Nà Hỳ có tỷ lệ lợn nhiễm bệnh gạo là 2,65 %; cường độ nhiễm 11 ấu trùng/40 cm2 cơ và xã Chà Cang, xã Pa Tần không có lợn nhiệm bệnh. - Tỷ lệ nhiễm bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae cao ở lợn cao nhất ở giai đoạn > 12 tháng tuổi, chiếm tỷ lệ 3,49 %; không phát hiện nhiễm bệnh ở giai đoạn lợn 2- 6 tháng tuổi. - Tỷ lệ nhiễm bệnh gạo lợn cao nhất là tháng 7 và không phát hiện lợn nhiễm bệnh gạo ở tháng 10, tháng 11. - Tỷ lệ nhiễm bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae cao nhất là lợn địa phương là 1,61 % và nhiễm bệnh thấp ở giống lợn lai là 0,8%; - Tỷ lệ nhiễm bệnh do ấu trùng Cys. cellulosae ở lợn cao theo phương thức chăn nuôi thả rông, chiếm 2,31 % và nhiễm thấp ở phương thức nuôi bán chăn thả chiếm 0,64 %; nuôi nhốt hoàn toàn không phát hiện. - Thực trạng tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của người dân ở địa phương chưa được quan tâm, lợn vẫn được nuôi thả rông, phần lớn không có nhà vệ sinh cho người. - Tỷ lệ hộ nhiễm bệnh sán dây T. solium ở các xã trong huyện vùng núi, chiếm tỷ lệ là 2,5 %, trong đó có 11 người nhiễm sán dây, chiếm tỷ lệ 0,9 %. Lợn nhiễm bệnh gạo mổ khám ở các xã trong huyện đều biểu hiện bệnh tích từ 29 % - 100 %.
  50. 43 Có 7/7 tiêu bản lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae có bệnh tích là 100 %. 5.2. Đề nghị - Tăng cường công tác tuyên truyền về phương thức chăn nuôi là nuôi nhốt, không nuôi lợn thả rông; tuyên truyền tới người dân về việc làm nhà vệ sinh tự hoại nhằm nâng cao ý thức phòng bệnh cho người chăn nuôi cũng như các biện pháp kiểm dịch nhằm kiểm soát và ngăn ngừa bệnh xảy ra ở địa phương. - Tuyên truyền tốt để người dân biết về bệnh gạo ở lợn và bệnh sán dây ở người; điều trị kịp thời khi phát hiện người bị bệnh sán dây. - Không ăn thịt lợn, chưa nấu chín, nem, thính, nem chua, thịt lợn tái, không ăn rau sống; Phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra chặt chẽ các điểm giết mổ lợn, để loại bỏ lợn mang ấu trùng sán dây.
  51. 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Sổ tay cán bộ thú y cơ sở, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 116. 2. Phạm Đức Chương, Cao Văn, Từ Quang Hiển, Nguyễn Thị Kim Lan (2003), Giáo trình dược lý học thú y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 235 - 237. 3. Nguyễn Văn Đề, Kiều Tùng Lâm, Lê Văn Châu, Lê Đình Công, Đặng Thanh Sơn, Hà Viết Viên, Nguyễn Thị Tân (1998), “Nghiên cứu bệnh sán lá, sán dây”, Thông tin phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 2; trang 29 - 32. 4. Nguyễn Văn Đề, Lê Thanh Hoà, Nguyễn Quốc Doanh, Nguyễn Bích Nga và Lê Đình Công (2001), “Thông báo loài sán dây mới ký sinh ở người tại Hà Nội, Việt Nam, Tạp chí phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng”, số 3, trang 80 - 86. 5. Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp (1997), Dược lý học thú y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 347 - 348. 6. Phạm Khắc Hiếu (2009), Giáo trình dược lý học thú y, Nxb giáo dục Việt Nam, tr. 141 - 144. 7. Bùi Quý Huy (2006), Phòng chống các bệnh ký sinh trùng từ động vật lây sang người, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 78 - 81. 8. Hoàng Tính Huyền, Đào Văn Phan (1998), Dược lý học thú y, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 347 - 348. 9. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 81 - 83; 98 - 101. 10. Nguyễn Thị Kỳ (2003), Động vật chí Việt Nam, tập 13, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
  52. 45 11. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999), Giáo trình ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 72 - 76, 83 - 85. 12. Nguyễn Thị Kim Lan (2012), Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y (dùng cho đào tạo bậc Đại học), Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, tr. 115 - 120. 13. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999), Giáo trình ký sinh trùng Thú y, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, tr. 115 - 120. 14. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2001), Bệnh ký sinh trùng ở gia súc và biện pháp phòng trị, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội. 15. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Lan (2006), Các bệnh ký sinh trùng và bệnh nội sản khoa thường gặp ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 74 - 78. 16. Phạm Sỹ Lăng, Phạm Ngọc Đình, Nguyễn Bá Hiển, Phạm Quang Thái, Văn Đăng Kỳ (2009), 8 bệnh chung quan trọng truyền lây giữa người và động vật, tr. 91 - 98. 17. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Ngọc Mỹ, Nguyễn Thị Kim Thành, Nguyễn Văn Thọ, Chu Đình Tới (2009), Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng ở vật nuôi, Nxb giáo dục Việt Nam, tr. 221 - 227. 18. Phạm Sỹ Lăng, Hoàng Văn Năm (2012), Bệnh truyền lây từ động vật sang người, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, tr. 254 - 256. 19. Nguyễn Thị Lê, Phan Văn Lực, Hà Duy Ngọ, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Thị Minh (1996), Giun sán ký sinh ở gia súc Việt Nam, Nxb Khoa học Kỹ Thuật Hà Nội. 20. Phan Lục (2006), Giáo trình bệnh ký sinh trùng thú y, , Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 79 - 81. 21. Lê Ngọc Mỹ, Nguyễn Quốc Doanh, Nguyễn Anh Dũng, Đỗ Thu Thúy, Đoàn Hữu Hoàn, Bùi Khánh Linh (2004), “Điều tra thực trạng một số
  53. 46 bệnh ký sinh trùng truyền lây giữa người và gia súc trong những năm gần đây”, Báo cáo khoa học Chăn nuôi Thú y (Phần thú y), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 230 - 237. 22. Quy trình kiểm soát giết mổ động vật (QĐ số 87/2005/QĐ - BNN ngày 26/12/2005). 23. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam, tập 1, Giun sán ở người, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tr. 206 - 210. 24. Nguyễn Văn Thiện (2008), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 25. Trịnh Văn Thịnh (1963), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông thôn, Hà Nội. 26. Trịnh Văn Thịnh, Đỗ Dương Thái (1975), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 60. 27. Trịnh Văn Thịnh, Phan Trọng Cung, Phạm Văn Khuê, Phan Địch Lân, Bùi Lập, Dương Công Thuận (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam, tập II, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 93, 65, 73, 80 - 82. 28. Trịnh Văn Thịnh, Đỗ Dương Thái (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt nam, tập 2, Nxb Khoa học kỹ thuật, tr. 58 - 61. 29. Nguyễn Hữu Thọ và Đỗ Nguyên Thanh (1968)“ Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam”. II. Tài liệu tiếng Anh 30. Aung A.K., Spelman D.W. (2016), “Taenia solium Taeniasis and Cysticercosis in Southeast Asia”, Am. J. Trop. Med. Hyq: 15 - 068. 31. De N.V. (2004), Taenia and cysticercosis in Vietnam. Joint international Medicine Meeting. 29 November - 1 December; Bangkok Thailand.
  54. 47 32. De N.V. and Le T.H. (2010), Taenia/cysticercosis and molecular application 33. Hiroyuki Miura, MD, Yuka Itoh, MD, and Takehito Kozuka, MD, PhDa Osaka, Japan “A case of subcutaneous cysticercosis (Cysticercus cellulosaecutis) J AM CAD DERMATOL SEPTEMBER 2000 : 138 – 540. 34. Johasen M.V., Trevisan C., Gabriel S., Magnussen P., Braae U.C. (2016), “Are we ready for Teania solium cysticercosis elimination in sub - Saharan Africa”, Parasitologo: 1 - 6. 35. Khaing T.A., Bawm S, Wai S.S, Htut Y, Htun L.L. (2015), “Epidemiological Survey on Porcine Cysticercosis in Nay Pyi Taw Area, Myanmar”, J. Vet. Med., 2015: 340828. 36. Nkouawa A., Sako Y., Okamoto M., Ito A. (2016), “Simple Identification of Human Taenia Species by Multiplex Loop - Mediated Isothermal Amplification in Combination with Dot Enzyme - Linked Immunosorbent Assay”, Am. J. Trop. Medp: 15 - 0829. 37. P.C., Chung W.C. (1998), “Taenia saginata asiatica: epidemiology, infection, immunological and molecular studies” J. Microbiol. Immunol. Infect., 31(2): 84 - 89. 38. Paredes A1, Sáenz P1, Marzal MW1, Orrego MA1, Castillo Y2, Rivera A1, Mahanty S3, Guerra-Giraldez C4, García HH5, Nash TE3 (2016) “Cysticercosis Working Group in Peru” (166) : 37-43
  55. PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA ĐỀ TÀI Ảnh 1: Mẫu lợn bệnh gạo Ảnh 2: Lợn thả rông