Khóa luận Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel

pdf 67 trang thiennha21 14/04/2022 4410
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_danh_gia_hieu_qua_su_dung_dat_nong_nghiep_tai_tran.pdf

Nội dung text: Khóa luận Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TRANG TRẠI TZU, MOSHAV EINYAHAV, ARAVA, ISRAEL KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Quản lý đất đai Khoa : Quản lý tài nguyên Lớp : K46 – QLĐĐ – N01 Khóa học : 2014 – 2018 Giáo viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Đình Thi Thái Nguyên, năm 2019
  2. i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đồ án tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng và nỗ lực của bản thân, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của các tập thể và cá nhân. “Lý thuyết đi đôi với thực tiễn” luôn là phương thức quan trọng giúp học sinh, sinh viên trau dồi kiến thức, củng cố, bổ sung hiểu biết về lý thuyết học trên lớp và trong sách vở nhằm giúp cho sinh viên ngày càng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của chính mình. Xuất phát từ nhu cầu đó, đựợc sự đồng ý của Khoa Quản Lý tài Nguyên Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Trung tâm Đào tạo và phát triển quốc tế Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, em tiến hành thực tập tốt nghiệp tại Farm 90, moshav Einyahav, vùng Arava, Israel. Trong thời gian thực tập cũng như trong thời gian học tập tại trƣờng em đã nhận được sự quan tâm, chỉ bảo tận tình của các thầy cô,bạn bè và các cô, chú, anh, chị tại nơi thực tập. Em xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu Nhà trường, Ban lãnh đạo Trung Tâm Đào tạo và phát triển quốc tế, Ban chủ nhiệm Khoa Quản Lý tài Nguyên, đặc biệt là thầy giáo Th.s Nguyễn Đình Thi - người đã hướng dẫn chu đáo tận tình, chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp và hoàn thành khóa luận. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài báo cáo không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp thầy, cô để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành khóa luận tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Quỳnh Trang
  3. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1:Trung bình tổng sản lượng Ớt chuông ( 1dunam = 1000m2 ) 42 Bảng 4.2: Trung bình tổng sản lượng Chà là (1dunam = 1000m2) 43 Bảng 4.3: Hiệu quả kinh tế của Ớt chuông tại Trang trại Tzu- moshav Einyahav 48 Bảng 4.4: Hiệu quả kinh tế của cây Chà là tại trang trại Tzu 49 Bảng 4.5: Hiệu quả xã hội của Ớt chuông và Chà là tại trang trại Tzu – moshav Einyahav 50 Bảng 4.6: Đánh giá hiệu quả môi trường của cây Ớt chuông và Chà là 51 tại trang trại 51 Bảng 4.7: Hiệu quả sử dụng đất của Ớt chuông và Chà là giai đoạn 2017- 2018. 52 Bảng 4.7: Hiệu quả sử dụng đất của cây Ớt chuông và Chà là 53
  4. iii DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1 Nhà ở Moshav Einyahav 7 Hình 2.2. Mô hình nhà kính được chụp từ đỉnh Moshav Ein Yahav 7 Hình 2.3 Mô hình nhà kính 10 Hình 2.4 Thu hoạch cà chua 12 Hình 2.5 Thu hoạch bí Sukini 12 Hình 2.6 Vườn hoa 13 Hình 2.7. Sinh Viên Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên tham quan hội nghị triển lãm Nông nghiệp Quốc tế 2018 14 Hình 4.1: Hình ảnh trang trại Ớt chuông 39 Hình 4.2: Hình ảnh packing house của trang trại 39 Hình 4.3: Hình ảnh Ớt chuông được phân loại và đóng hộp 40 Hình 4.4: Hình ảnh Packing house Chà là 40 Hình 4.5: Cây Chà là tại trang trại Tzu 41 Hình 4.6: Đóng gói Chà là loại 5 kg 43 Hình4.7: Hình ảnh Ớt được thu hoạch và mang vào packing house 44 Hình 4.8: Biểu đồ tiêu thụ Ớt chuông của trang trại Tzu 45 Hình 4.9: Hình ảnh Ớt chuông sau khi đóng hộp chờ xuất khẩu 45 Hình 4.10 : Biểu đồ tiêu thụ Chà là tại trang trại Tzu 46 Hình 4.11: Hình ảnh Chà là đóng hộp chờ xuất khẩu 47 Hình 4.10 : Biểu đồ tiêu thụ Chà là tại trang trại Tzu .47 Hình 4.11: Hình ảnh Chà là đóng hộp chờ xuất khẩu 48
  5. iv MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC HÌNH iii MỤC LỤC iv PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2 1.3. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4 2.1. Tổng quan của đề tài 4 2.1.1. Tổng quan về đất nước ISRAEL 4 2.1.2. Tổng quan về Moshav Einyahav 7 2.2. Tổng quan về nền nông nghiệp ISRAEL 8 2.3. Cơ sở khoa học của đánh giá hiệu quả sử dụng đất 16 2.3.1. Khái niệm về đất đai và đất nông nghiệp. 16 2.3.2. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong nông nghiệp 17 2.4. Sử dụng đất và những quan điểm sử dụng đất 18 2.4.1. Sử dụng đất và những nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất 18 2.4.2. Quan điểm sử dụng đất bền vững 21 2.4.3. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên Thế giới và Việt Nam 31 2.5. Hiệu quả và tính bền vững trong sử dụng đất 32 2.5.1. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất 32 2.5.2. Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả sử dụng đất 34 2.5.3. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất 35 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
  6. v 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 36 3.2. Nội dung nghiên cứu 36 3.2.1. Khái quát về trang trại 36 3.2.2. Tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ của Ớt chuông và Chà là tại Trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel 36 3.2.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất 36 3.2.4. Thuận lợi, khó khăn, bài học kinh nghiệm và đề xuất 36 3.3. Phương pháp nghiên cứu 36 PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 38 4.1. Khái quát về Ớt chuông và Chà là tại trang trại Tzu. 38 4.2. Tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ Ớt chuông và Chà là 41 4.2.1. Tình hình sản xuất 41 4.2.2. Tình hình chế biến và tiêu thụ 44 4.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất 47 4.3.1. Hiệu quả kinh tế 47 4.3.2. Hiệu quả xã hội 49 4.3.3. Hiệu quả môi trường 50 4.3.4. So sánh hiệu quả sử dụng đất giữa Ớt chuông và Chà là. 52 4.3.5. Tính bền vững và khả năng áp dụng tại Việt Nam của cây Ớt chuông và Chà là 52 4.4. Thuận lợi, khó khăn, giải pháp, bài học kinh nghiệm. 54 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 56 5.1. Kết luận 56 5.2. Kiến nghị 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO 58
  7. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Đất đai được sử dụng hầu hết trong tất cả các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời sống. Theo từng ngành sản xuất, lĩnh vực của đời sống, đất đai được phân thành các loại khác nhau và gọi tên theo ngành và lĩnh vực sử dụng chúng. Trong tiến trình của lịch sử xã hội loài người, con người và đất đai ngày càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành của cải vô tận của loài người, con người dựa vào đó để tạo ra sản phẩm nuôi sống mình. Đất đai luôn là thành phần hàng đầu của cuộc sống. Không có đất đai thì không có bất kỳ ngành sản xuất nào, không có một quá trình lao động nào diễn ra và cũng không có sự tồn tại của loài người. Đối với ngành nông nghiệp thì đất có vai trò đặc biệt quan trọng, đây là nơi sản xuất ra hầu hết các sản phẩm nuôi sống loài người. Hầu hết các nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở nông nghiệp dựa vào khai thác tiềm năng của đất, lấy đó làm bàn đạp cho việc phát triển của ngành khác. Vì vậy tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên đất đai hợp lý, có hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững. Tuy nhiên một thực tế hiện nay đó là diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do chuyển sang các loại hình sử dụng đất khác như đất ở, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp Mặt khác dân số không ngừng tăng, nhu cầu của con người về các sản phẩm từ nông nghiệp ngày càng đòi hỏi cao về cả số lượng và chất lượng. Đây thực sự là một áp lực lớn đối với ngành nông nghiệp. Israel có diện tích rất nhỏ, trên 20.000 km2, tức là chỉ lớn hơn tỉnh Nghệ An của Việt Nam chút ít. Tuy nhiên Israel lại được mệnh danh là “thung lũng Silicon” của thế giới trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ nước. Chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp nhưng mỗi năm Israel xuất khẩu chừng 3 tỷ USD nông sản, là một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Ít ai biết rằng, những sản phẩm rau
  8. 2 quả từ Arava - một trong những nơi khô cằn nhất thế giới - lại chiếm tới trên 60% tổng sản lượng xuất khẩu rau của Israel và 10% tổng sản lượng hoa xuất khẩu. Thung lũng Arava. Địa danh khá lạ tai đối với mọi người, nhưng lại là cái tên rất tự hào của mọi người dân Israel vì tại đây, phép màu đã làm nở hoa giữa sa mạc - những phép màu thực sự của khoa học công nghệ. Là phần khô hạn nhất của hoang mạc Negev, thung lũng Arava trải dài từ phía Nam của Biển Chết đến Vịnh Eliat. Lượng mưa bình quân của khu vực này chỉ từ 20-50 mm mỗi năm. Nhiệt độ mùa hè bình quân lên tới 40 độ C và ban đêm là 25 độ C. Nhiệt độ mùa đông ban ngày là 21 độ và ban đêm chỉ từ 3-8 độ C. Độ ẩm cực thấp và sự chênh lệch nhiệt độ khiến đá cũng phải vỡ vụn mà khắp hoang mạc phủ một lớp đá vụn và cát đặc thù sa mạc. Arava là một trong những vùng đất khô cằn nhất thế giới. Cảm giác đầu tiên khi đặt chân đến vùng đất này, là miền Trung Việt Nam với những dải đất bạc màu và đồi cát, hóa ra vẫn còn là miền đất trù phú. Nhằm xác định các loại hình sử dụng đất phù hợp và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững đồng thời cũng làm thay đổi cơ cấu kinh tế, đời sống của nhân dân cả nước. Mỗi vùng sản xuất nông nghiệp khác nhau thì có một phương thức canh tác khác nhau. Sự khác nhau này phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên của vùng lãnh thổ đó. Điều kiện tự nhiên thuận lợi thì hiệu quả của việc sử dụng đất. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất, được sự đồng ý của ban chủ nhiệm khoa Quản Lý Tài Nguyên - trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đồng thời dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo: Th.S Nguyễn Đình Thi, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại Trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu - Khái quát tình hình cơ bản về Trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel. - Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp.
  9. 3 - Đánh giá tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ Ớt chuông và Chà là tại Tranag trại. - Lựa chọn loại hình sử dụng đất có hiệu quả cao hơn. 1.3. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài  ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học: - Củng cố kiến thức đã được tiếp thu trong nhà trường và những kiến thức thực tế cho sinh viên trong quá trình thực tập tại cơ sở. - Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập số liệu và xử lý thông tin của sinh viên trong quá trình làm đề tài.  ý nghĩa trong thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng nhóm đất nông nghiệp từ đó đề xuất được những giải pháp sử dụng đất đạt hiệu quả cao
  10. 4 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Tổng quan của đề tài 2.1.1. Tổng quan về đất nước ISRAEL - Israel (phiên âm: I-xra-en; tên đầy đủ là Nhà nước Israel, còn được gọi là Nhà nước Do Thái) là một quốc gia theo chế độ cộng hòa ở vùng Trung Đông bên cạnh Địa Trung Hải. - Tên đầy đủ: Quốc gia Israel - Vị trí địa lý: Nằm ở Trung Đông, tiếp giáp biển Địa Trung Hải, nằm giữa Ai cập và Lebanon; - Diện tích Km2: 220,770 - Tài nguyên thiên nhiên: Gỗ xây dựng, mỏ đồng, khí tự nhiên, đá photphat, magie bromua, kali cacbonat, đất sét, cát;; - Dân số (triệu người): 7.473052 - Dân tộc: Người Do Thái, người Ả Rập; - Thủ đô: Jerusalem - Hệ thống pháp luật: Dựa theo hệ thống luật pháp và quy định của Anh; - GDP (tỷ USD): 235.1 - Lực lượng lao động theo lĩnh vực nghề nghiệp: Nông nghiệp: 2% Công nghiệp: 16% Dịch vụ: 82% - Sản phẩm Nông nghiệp: Cam quýt, rau, bông, thịt bò, gia cầm, các sản phẩm từ sữa; - Công nghiệp: Sản phẩm công nghiệp cao ( bao gồm cả hàng không, thông tin liên lạc, sản xuất, sợi quang học), gỗ và sản phẩm giấy, kali cacbonnat và photphat, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, natri hydroxit, xi măng, xây dựng, sản phẩm kim loại, sản phẩm hóa chất, chất dẻo, cắt kim cương, dệt may, giày dép;
  11. 5 - Mặt hàng xuất khẩu: Máy móc và thiết bị, phần mềm, cắt kim cương, sản phẩm nông sản, hóa chất, dệt may và đồ thêu trang trí; - Mặt hàng nhập khẩu: Nguyên liệu, thiết bị quân đội, đầu tư, kim cương thô, nhiên liệu,lương thực, hàng tiêu dùng; * Thể chế nhà nước Theo thể chế Dân chủ nghị viện, chế độ một viện (từ năm 1948) không có Hiến pháp thành văn, chỉ có những điều luật riêng rẽ. 120 thành viên của Quốc hội được bầu bằng tuyển cử phổ thông đầu phiếu theo hệ thống bầu cử đại diện tỷ lệ, nhiệm kỳ 4 năm. Thủ tướng được bầu trực tiếp trong tổng tuyển cử, nhiệm kỳ 4 năm. Các thành Quốc hội bầu, nhiệm kỳ 5 năm (không có quyền hành pháp - quyền hành pháp thuộc về Thủ tướng). * Địa lý Theo nghị quyết 181 (II) của Liên hợp quốc, Nhà nước Israel thành lập ngày 14 tháng Năm năm 1948 trên diện tích 14.100km2. Tuy nhiên, sau các cuộc chiến tranh chấp với các nước Ả-rập, Israel quản lý khoảng 28.000km2. Thuộc Trung cận Đông. Nước Israel, trong khuôn khổ biên giới năm 1949, gồm một đồng bằng hẹp và màu mỡ ven biển Địa Trung Hải, vùng núi trơ trịu Giu-đa ở trung tâm, sa mạc Nê-gếp ở phía nam và một phần của thung lũng Gioóc-đan ở đông bắc. - Sông chính: sông Gioóc-đan, 321km. - Khí hậu: Khí hậu của Israel là Địa Trung Hải ở phía bắc và khô cằn ở phía nam. Vào mùa hè, toàn bộ khu vực bị chi phối bởi một cao cận nhiệt đới mang bầu trời không mây và không có mưa. Vào mùa đông, nửa phía nam của đất nước vẫn còn dưới mức cận nhiệt đới cao, nhưng thời tiết ở nửa phía bắc bị ảnh hưởng bởi áp thấp bão hòa vượt qua Địa Trung Hải, mang lại lượng mưa vừa phải. Lượng mưa ở miền bắc trung bình 700 mm (28 in), giảm chủ yếu từ tháng 10 đến tháng 3. Lượng mưa giảm nhanh về phía nam. * Kinh tế - Công nghiệp chiếm 17%, - Nông nghiệp: 2% - Dịch vụ: 81% GDP.
  12. 6 Những vấn đề kinh tế nghiêm trọng phát sinh do ngân sách quốc phòng lớn và hoàn cảnh chính trị đã cản trở thương mại giữa Israel và các nước láng giềng. Israel là một trong những nước xuất khẩu nhiều nhất hoa quả họ chanh bưởi. Phần lớn diện tích của Israel được canh tác do các tập thể và hợp tác xã. Tài nguyên của Israel nghèo. Gia công kim cương nhập khẩu là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu. Du lịch đến các vùng đất Thánh cũng đóng vai trò quan trọng cho nguồn thu ngân sách; Xuất khẩu đạt 23,5 tỷ USD, nhập khẩu 30,6 tỷ USD; nợ nước ngoài: 18,7 tỷ USD. Nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật và quản lý kinh tế rất tiên tiến. Israel là một trong số những nước có thu nhập đầu người cao trên thế giới; sản xuất thực phẩm, kim cương đã chế tác, hàng dệt, thiết bị điện, giao thông, thiết bị quân sự, hàng điện tử công nghệ cao; sản xuất điện năng đạt 35,4 tỷ kWh, tiêu thụ 31,8 tỷ kWh. * Văn hóa - xã hội Số người biết đọc, biết viết 95% : - Nam: 97%, - Nữ: 93%. Áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc 11 năm miễn phí. Người dân tự do lựa chọn trường dạy qua tiếng Ả-rập hoặc tiếng Hebrew. Hệ thống giáo dục theo các bậc: tiểu học 6 năm, trung học 3 năm và trên trung học 2 năm. Bằng tốt nghiệp xong ba cấp này có giá trị thi vào đại học và kiếm việc làm. Đại học mở, đại học dạy từ xa khá phát triển. Người dân được bảo hiểm y tế do Nhà nước dài thọ. Cho cả y tế tư nhân hoạt động. Thiết bị và chất lượng dịch vụ y tế hiện đại và cao. Những danh thắng dành cho du lịch, nghỉ ngơi và giải trí: Thành phố cổ Jerusalem,biển Chết, vườn địa đàng tại thành phố Haifa, biển Địa trung hải tại Telaviv, biển Đỏ
  13. 7 2.1.2. Tổng quan về Moshav Einyahav Hình 2.1 Nhà ở Moshav Einyahav Moshav Ein Yahav nằm gần biên giới Jordan, có dân số tầm 600 người, hơn 150 hộ gia đình, nơi đây phát triển nhất là nông nghiệp và du lịch, các hộ gia đình cho thuê phòng loại Bungalow kiểu B&B và đưa khách đi tham quan các farm. Bungalow có hầu hết mọi nơi trong moshav, nhìn rất sang chảnh, rất đẹp, nó tạo nên một ngôi làng có nhiều căn nhà gỗ, xen lẫn đó là các công viên cây xanh, các lối đi bộ dành cho trẻ con xuyên suốt từ nhà đến trạm xe buýt. Hoa trồng ven đường thay đổi theo mùa, mùa hè thì trồng hoa chịu nhiệt, mùa đông thì trồng hoa chịu lạnh, nên quanh năm đều có hoa, màu sắc rực rỡ. Ngoài ra họ còn trồng nhiều hương thảo, hoặc các dòng cây có mùi, họ hàng với hương thảo. Tất cả cây cối ở đây đều có hệ thống nhỏ giọt bên dưới, từ cây cổ thụ lâu năm đến cây cỏ bụi ven bờ bởi vì nơi đây không có mưa. Hình 2.2. Mô hình nhà kính được chụp từ đỉnh Moshav Ein Yahav
  14. 8 2.2. Tổng quan về nền nông nghiệp ISRAEL Ngành nông nghiệp Israel phát triển ở trình độ cao. Bất chấp điều kiện địa lý không thích hợp cho nông nghiệp, Israel là một nhà xuất khẩu lớn của thế giới về nông sản và đứng hàng đầu về công nghệ trong nông nghiệp. Hơn một nửa diện tích đất là sa mạc, điều kiện khí hậu khắc nghiệt và thiếu nước hoàn toàn không thích hợp cho nông nghiệp. Tính đến năm 2014, 24,2% diện tích Israel là đất nông nghiệp. Hiện nay, nông nghiệp chiếm 2,5% tổng GDP và 3,6% giá trị xuất khẩu. Mặc dù lao động trong nông nghiệp chỉ chiếm 3,7% tổng lực lượng lao động trong nước, Israel tự sản xuất được 95% nhu cầu thực phẩm, phần còn lại được bổ sung từ việc nhập khẩu ngũ cốc, các loại hạt lấy dầu, thịt, cà phê, ca cao, đường. Israel là nơi khai sinh ra hai loại hình cộng đồng nông nghiệp độc đáo, cộng đồng hợp tác xã Kibbutz và Moshav, hình thành từ những người Do Thái hồi hương từ khắp nơi trên thế giới. Sự phát triển của nền nông nghiệp gắn liền với phong trào phục quốc Do Thái và sự nhập cư của người Do Thái vào Palestine ở cuối thế kỷ 19. Những người nhập cư Do Thái mua những mảnh đất gần như bán sa mạc, chúng đã bị cằn cỗi bởi phá rừng, sói mòn và bỏ hoang. Họ bắt tay vào việc thu dọn đá sỏi, cải tạo đất, chống ngập, trồng rừng, chống xói mòn, rửa đất mặn. Kể từ khi độc lập năm 1948, tổng diện tích đất canh tác đã tăng từ 408.000 mẫu Anh (1.650 km2 ) đến 1.070.000 mẫu Anh (4.300 km2), số cộng đồng nông nghiệp tăng từ 400 lên 725. Sản lượng nông nghiệp tăng 16 lần, nhanh gấp 3 lần tốc độ tăng dân số. Thiếu nước là một vấn đề nghiêm trọng. Lượng mưa trung hằng tháng giữa tháng 9 và tháng 4, với sự khác biệt giữa các vùng miền trong nước, dao động từ 70 cm ở miền bắc cho tới 2 cm ở miền nam. Nguồn nước tái tạo hàng năm vào khoảng 160 triệu mét khối, 75% được dùng cho nông nghiệp. Hầu hết các nguồn nước ngọt của Israel đều được kết nối vào hệ thống thủy lợi quốc gia, bao gồm các trạm bơm, hồ chứa, kênh, ống dẫn đưa nước từ miền bắc đến miền nam.
  15. 9 a. Ngày nay Tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP có xu hướng giảm. Trong năm 1979, nó đóng góp gần 6%, năm 1985 là 5,1 % và ngày nay là 2,5 %. Năm 1995, có 43,000 đơn vị canh tác với diện tích trung bình 13,5 hecta. 19,8% trong số đó có diện tích nhỏ hơn 1 hecta, 75,7% từ 1 đến 9 hecta, 3,3% giữa 10 và 49 hecta, 0,4% giữa 50 và 190 hecta, 0,8% lớn hơn 200 hecta. Trong số 380.000 hecta đất canh tác năm 1995, 20,8% đất được sử dụng toàn thời gian và 79,2% đất được sử dụng bán thời gian. Trong số đất nông nghiệp có 160.000 hecta được sử dụng cho các mục đích khác ngoài mục đích trồng trọt. Vùng trồng trọt chủ yếu ở đồng bằng ven biển phía bắc, vùng đồi nội địa và thung lũng song Jordan. Năm 2006, sản lượng nông nghiệp giảm 0,6% sau khi đã tăng 3,6% năm 2005; chi phí đầu tư năm 2007 tăng 1,2% chưa bao gồm chi phí lao động. Giữa năm 2004 và 2006, các loại rau củ chiếm khoảng 35% tổng sản lượng toàn ngành. Hoa chiếm 20%, trái cây (không bao gồm chi cam chanh) chiếm khoảng 15%, trái cây thuộc chi cam chanh chiếm khoảng 10%, ngũ cốc, cotton và các loại nông sản khác 18%. Cũng trong 2006, 36,7% đầu ra nông nghiệp được tiêu dùng trong nước, 33,9% đầu ra nông nghiệp là đầu vào cho sản xuất các sản phẩm khác trong nước, và 22% dành cho xuất khẩu trực tiếp. Năm 2006, 33% số rau củ, 27% số hoa, 15,5% trái cây (không tính cam chanh), 9% cam chanh, 16% ngũ cốc, cotton và các loại nông sản khác được xuất khẩu. Sản lượng nông nghiệp Israel tăng 26% từ năm 1999 tới năm 2009, trong khi số lượng nông dân giảm từ 23.500 xuống 17.000. Nông dân cũng tạo ra nhiều sản phẩm hơn với lượng nước giảm, giảm 12% lượng nước tiêu thụ trong khi tăng 26% sản lượng. b. Loại hình nông nghiệp Hầu hết ngành nông nghiệp Israel dựa trên các nguyên tắc về hợp tác có từ đầu thế kỷ thứ 20. Hai loại hợp tác độc đáo: Kibbutz, một cộng đồng trong đó sản phẩm làm ra được sở hữu chung và thành quả lao động của cá nhân đem lại lợi ích cho mọi người; Moshav, một dạng làng nông nghiệp trong đó mỗi gia đình sở hữu riêng đất đai trong khi việc mua bán và tiếp thị được thực hiện chung trong sự hợp tác. Cả 2
  16. 10 loại hình cộng đồng đều nhằm giúp hiện thực hóa giấc mơ của những người tiên phong muốn có những cộng đồng công bằng, hợp tác và tương trợ lẫn nhau nhưng cũng đồng thời tạo ra lợi thế về năng suất. Ngày nay, 76% nông sản quốc gia là sản phẩm từ các Kibbutz và Moshav, cũng như rất nhiều thực phẩm đóng hộp. Hình 2.3 Mô hình nhà kính Bởi vì sự đa dạng của các loại hình đất đai và khí hậu, Israel có thể trồng nhiều loại cây khác nhau. Lúa mì, các loại cây thuộc chi lúa và bắp được trồng ở 215,000 hecta, trong đó 156,000 hecta chỉ trồng vào mùa đông. Trái cây và rau củ bao gồm các loại cam chanh, bơ, kiwi, ổi, xoài, nho. Chúng được trồng ở đồng bằng ven biển Địa Trung Hải. Cà chua, dưa leo, tiêu và bí được trồng phổ biến ở mọi miền đất nước; dưa gang được trồng trong mùa đông ở các thung lũng. Các vùng cận nhiệt đới của đất nước trồng chuối và Chà là, vùng đồi núi phía bắc trồng táo, lê, chery. Ngoài ra, các vườn nho được trồng khắp đất nước, ngành chế biến rượu của Israel đang cạnh tranh mạnh với thế giới.
  17. 11 Năm 1997, 107 triệu USD giá trị của sợi bông vải được trồng ở Israel, hầu hết bông vải đều được đặt hàng từ trước khi trồng. Bông vài được trồng trên 28.560 hecta đất, tất cả đều được canh tác bằng lối tưới nước nhỏ giọt. Năng suất bông vải trung bình đối với giống Acala là 5,5 tấn một hecta, giống Pima là 5 tấn một hecta. Đây là năng suất bông vải cao nhất thế giới. c. Chăn nuôi Bò sữa của Israel cho lượng sữa trung bình hàng năm cao nhất thế giới, 10.208 kg (khoảng 10.000 lít) trong năm 2009 (theo số liệu thống kê của cục thống kê Israel xuất bản năm 2011) vượt qua bò sữa Mỹ (9,331 kg mỗi con), Nhật (7.497), châu Âu (6.139) và Úc (5.601). 1.304 triệu lít sữa đã được sản xuất bởi các đàn bò của Israel trong năm 2010. Hầu hết sản lượng sữa của Israel đều xuất phát từ các trang trại nuôi giống bò Israel-Holsteins, một giống cho sản lượng cao và có sức đề kháng tốt. Ngoài ra Israel còn xuất khẩu sữa cừu. d. Nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản Biển Địa Trung Hải là một nguồn cung cấp cá nước mặn; đánh bắt cá nước ngọt được tiến hành ở hồ Kinneret (biển hồ Galilee). Công nghệ tiên tiến được sử dụng để nuôi cá tại các hồ nhân tạo trong sa mạc Negev. Các nhà khoa học ở trung tâm Bengis chuyên về nuôi trồng thủy hải sản trong sa mạc tại đại học Ben-gurion ở Negev khám phá ra rằng nguồn nước lợ tại sa mạc có thể được dùng trong trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và kết hợp cả hai. Điều này dẫn đến việc nuôi cá, tôm và các động vật giáp xác ở Negev. Đánh bắt cá trên biển phía đông Địa Trung Hải đã sụt giảm mạnh vì nguồn cá đã cạn kiệt. Nguồn cung cấp cá nước ngọt phụ thuộc gần như hoàn toàn vào nuôi trồng. Cá từ biển hồ Galilee bao gồm cá mè trắng Hoa Nam, cá trắm cỏ, cá đối đầu dẹt, cá rô phi, ambloplites rupestris, cá chẽm, silver perch. Cá nuôi trong lồng đặt dưới mặt nước biển bao gồm cá tráp đầu vàng (có tên là denis ở Israel), cá chẽm châu âu và một giống cá meager Nam Mỹ. Cá hương và cá hồi được nuôi ở trong
  18. 12 những hồ đặc biệt trông giống như các con kênh với nước từ sông Dan (một nhánh thượng nguồn của sông Jordan) chảy qua các hồ này. e. Trái cây và rau củ Hình 2.4 Thu hoạch cà chua Hình 2.5 Thu hoạch bí Sukini
  19. 13 Israel là một trong những nước đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu trái cây thuộc chi cam chanh, bao gồm cam, bưởi chùm, quýt và pomelit – một giống lai giữa bưởi chùm và bưởi thông thường được phát triển tại Israel. Có hơn 40 loại trái cây khác nhau được trồng ở Israel. Ngoài chi cam chanh ra còn có bơ, chuối, táo, cherry, trái cây thuộc phân chi mận mơ, đào, nho, Chà là, dâu tây, prickly pear, persimmon, nhót tây, lựu. Israel đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu trái nhót tây, sau Nhật Bản. Năm 1973, hai nhà khoa học Israel là Haim Rabinowitch và Nachum Kedar phát triển một giống cà chua với thời gian chín lâu hơn cà chua thông thường trong thời tiết nóng. Nghiên cứu của họ dẫn tới việc phát triển tiên phong giống cà chua thương mại với thời gian trưng bày trên kệ lâu[16]. Khám phá này đã thay đổi ngành nông nghiệp Israel, thúc đẩy việc xuất khẩu giống rau củ và tiến tới nền nông nghiệp công nghệ cao. Nó cũng có một hiệu ứng toàn cầu, tạo cơ sở cho việc sản xuất với quy mô lớn nhờ ngăn chặn việc chín thối. Trước đó, nông dân thường phải hủy bỏ 40% sản phẩm của họ. Ngoài ra Israel còn có giống cà cua Tomaccio được phát triển bởi Hishtil Nurseries, thông qua một chương trình lai tạo giống trong 12 năm, sử dụng giống cà chua dại Peru để tạo một giống mới trái nhỏ ngọt. Tomaccio cho trung bình từ 6 đến 8 kg quả một cây. f. Hoa Hình 2.6 Vườn hoa
  20. 14 Loại hoa phổ biến nhất là Chamelaucium, tiếp đến là hoa hồng với diện tích trồng là 214 hecta. Ngoài ra còn có các loại hoa được phương Tây ưa chuộng như là hoa huệ, tu líp. Israel là đối thủ lớn trên thị trường hoa thế giới, nhất là cung cấp các loại hoa truyền thống châu Âu trong các tháng mùa đông. g. Triển lãm công nghệ nông nghiệp Triển lãm công nghệ nông nghiệp mang tên Agritech Exhibition, được tổ chức 3 năm một lần, là một sự kiện hàng đầu về lĩnh vực nông nghiệp, nơi trình diễn các công nghệ nông nghiệp của Israel và thế giới. Nó thường thu hút nhiều bộ trưởng nông nghiệp, các nhà hoạch định, chuyên gia, nông dân và người huấn luyện trong lĩnh vực nông nghiệp. Đó là cơ hội để cùng một lúc được nhìn thấy những tiến bộ mới nhất trong nông nghiệp và công nghệ nông nghiệp, nhất là trong lĩnh vực tưới tiêu, quản lý nguồn nước, nông nghiệp trong điều kiện thiếu nước, trồng trọt năng suất cao trong nhà kính, các tiến bộ trong giống cây trồng, nông nghiệp hữu cơ và định hướng sinh thái. Hình 2.7. Sinh Viên Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên tham quan hội nghị triển lãm Nông nghiệp Quốc tế 2018
  21. 15 Trong năm 2018 Israel sẽ tổ chức Agritech Exhibition ở Tel Aviv. Trong lần tổ chức Agritech Exhibition năm 2012 có hơn 35 ngàn khách tham quan, 250 gian hàng triển lãm. h. Canh tác hữu cơ Sản phẩm hữu cơ chiếm 1,5% tổng sản phẩm nông nghiệp và 13% sản lượng xuất khẩu. Israel có 70 km2 các cánh đồng canh tác hữu cơ. i. Quản lý nhà nước về nông nghiệp Gần như không còn tình trạng sản xuất thừa ở Israel, mỗi đơn vị được cấp hạn ngạch nông sản và hạn ngạch nước cho mỗi vụ, điều này giúp giá cả luôn ổn định. Hạn ngạch sản xuất áp dụng cho sữa, trứng, gia cầm và khoai tây. Nhà nước Israel cũng thúc đẩy việc giảm chi phí nông nghiệp bằng cách khuyến khích chuyên canh và dừng việc sản xuất các loại nông sản lợi nhuận thấp. Bộ nông nghiệp quản lý các lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc duy trì các tiêu chuẩn về cây trồng và sức khỏe vật nuôi, hoạch định nông nghiệp, nghiên cứu và tiếp thị sản phẩm. Một con số dễ hình dung về năng lực của “cây đũa thần” khoa học. Năm 1950, một nông dân Israel cung cấp thực phẩm đủ cho 17 người, hiện đã là 90 người. Một hecta đất hiện cho 3 triệu bông hồng, hay 500 tấn cà chua/vụ. Một con bò cho tới 11 tấn sữa/năm - mức năng suất mà không một nước nào trên thế giới có được. Tại Israel phần lớn các nhà khoa học nông nghiệp làm cho chính phủ. Có tới hơn 60% các công trình nghiên cứu nông nghiệp là của Cơ quan Nghiên cứu Nông nghiệp hay trung tâm Volcani thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Israel cũng là nước có mức đầu tư cho nghiên cứu thuộc loại lớn nhất thế giới với gần 100 triệu USD mỗi năm, chiếm khoảng 3% tổng sản lượng nông nghiệp quốc gia. Nguồn lực này đến từ ngân sách và cộng động (50 triệu USD/năm), các hợp tác quốc gia song phương (12 triệu USD/năm), các tổ chức nông nghiệp cấp địa phương và quốc gia (6 triệu USD/năm) thông qua nguồn lợi từ thu hoạch cây trồng. Khu vực tư nhân cũng đóng góp khoảng 25 triệu USD hàng năm.
  22. 16 Đặc điểm đáng chú ý của nông nghiệp Israel là khả năng tăng hiệu quả sử dụng nước trong nông nghiệp. Khoảng 90% nguồn nước sạch được nối vào mạng lưới nước duy nhất để tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách quốc gia đồng bộ về sản xuất nước và cung cấp thường xuyên cho các khu vực khác nhau. Để duy trì và bảo vệ các nguồn nước, nhiều biện pháp được thực hiện, như phân bổ hạn ngạch thay đổi theo năm, tính giá nước theo khu vực, tính giá theo thang lũy tiến, tái chế nước thải sử dụng cho nông nghiệp. Israel đã áp dụng các kỹ thuật tiết kiệm nước, nhất là hệ thống tưới nhỏ giọt để đưa nước trực tiếp vào bộ rễ của cây, và mở rộng trồng cây trong nhà kính. Những biện pháp nói trên cho phép đảm bảo nguồn cung nước quí hiếm dùng cho canh tác trên sa mạc, trong khi tăng giá trị và sản lượng của cây trồng. Điển hình như giống cà chua tại sa mạc Negev cho độ ngọt gấp 2 - 3 lần và sản lượng cao hơn 3 - 4 lần so với nơi khác. Nông nghiệp trên sa mạc là một trong những thành công lớn nhất của Israel. Trong khi nhiều nơi trên thế giới đang vật lộn với xu h`ướng sa mạc hóa, diện tích sa mạc chiếm hơn 60% diện tích đất đai tại Israel đã giảm đi trong những thập niên qua nhờ việc phát triển nông nghiệp, biến cát thành những cánh đồng xanh tốt. Thậm chí nằm sâu trong sa mạc là những cánh đồng trù phú giữa các điều kiện khắc nghiệt, khô hạn và đất cát thiếu khoáng chất. 2.3. Cơ sở khoa học của đánh giá hiệu quả sử dụng đất 2.3.1. Khái niệm về đất đai và đất nông nghiệp. 2.3.1.1. Khái niệm về đất đai * Khái niệm chung Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ lục địa mà bên dưới nó là đá và khoáng sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyển. Đất là lớp mặt tươi xốp của lục địa có khả năng sản sinh ra sản phẩm của cây trồng. Đất là lớp phủ thổ nhưỡng là thổ quyển, là một vật thể tự nhiên, mà nguồn gốc của thể tự nhiên đó là do hợp điểm của 4 thể tự nhiên khác của hành tinh là thạch quyển, khí quyển, thủy
  23. 17 quyển và sinh quyển. Sự tác động qua lại của bốn quyển trên và thổ quyển có tính thường xuyên và cơ bản. Theo nguồn gốc phát sinh, tác giả Đôkutraiep coi đất là một vật thể tự nhiên được hình thành do sự tác động tổng hợp của năm yếu tố là: Khí hậu, đá mẹ, địa hình, sinh vật và thời gian. Đất xem như một thể sống nó luôn vận động và phát triển. (Nguyễn Thế Đặng – Nguyễn Thế Hùng,1999, giáo trình đất, Nhà xuất bản Nông nghiệp)[4] Theo C.Mac[1]: “ Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất của sản xuất nông nghiệp, là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhẩu” Theo các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng: “ Đất đai là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được” Như vậy đã có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất nhưng khái niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là khoảng không gian có giới hạn, theo chiều thẳng đứng bao gồm: Khí hậu của bầu khí quyển, lớp phủ thổ nhưỡng, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất; Theo chiều ngang, trên mặt đất là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn, thảm thực vật với các thành phần khác, nó tác động giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống xã hội của loài người. 2.3.1.2. Khái niệm về đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng: Bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất sản xuất nông nghiệp khác(Luật Đất đai, 2003)[20]. 2.3.2. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong nông nghiệp Đất là khoảng không gian lãnh thổ cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Nói về tâm quan trọng của đất C.Mac viết: “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, kho tàng cung cấp
  24. 18 các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể” (C.Mac, 1949) [1]. Đối với nông nghiệp: Đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất là điều kiện vật chất đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu tác động trong quá trình sản xuất như: cày, bừa, xới, xáo ) và công cụ lao động hay phương tiện lao động (Sử dụng để trồng trọt, chăn nuôi ). Quá trình sản xuất luôn có mối quan hệ chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất. Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển xã hội loài người, sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh, các thành tựu khoa học công nghệ đều được xây dựng trên nền tảng cơ bản – Sử dụng đất, Trong nông nghiệp ngoài vai trò là cơ sở không gian đất còn có hai chức năng đặc biệt quan trọng: - “Là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người trong quá trình sản xuất. - Đất tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp cho cây trồng nước, muối khoáng và các chất dinh dưỡng khác cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Như vậy, đất trở thành công cụ sản xuất. Năng suất và chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào độ phì nhiêu của đất. Trong tất cả các loại tư liệu sản xuất dùng trong nông nghiệp chỉ có đất mới có chức năng này” (Lương Văn Hinh và CS, 2003)[21]. Chính vì vậy, có thể nói rằng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt trong nông nghiệp. 2.4. Sử dụng đất và những quan điểm sử dụng đất 2.4.1. Sử dụng đất và những nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất 2.4.1.1. Sử dụng đất là gì? Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ người - đất trong tổ hợp với nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ vào quy luật phát triển kinh tế xã hội cùng với yêu cầu không ngừng ổn đinh và bền vững về mặt sinh thái, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng đất hợp lý nhất là tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái, kinh tế, xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt
  25. 19 động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. “Với vai trò là nhân tố của của sức sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất đai được thể hiện ở các khía cạnh sau: - Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không gian sử dụng đất. - Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất đai được sử dụng, hình thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất. - Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh tế sử dụng đất. - Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành việc sử dụng đất đai một cách kinh tế, tập trung, thâm canh. (Lương Văn Hinh và cs, 2003)[21]. 2.4.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất Phạm vi, cơ cấu và phương thức sử dụng đất vừa bị chi phối bởi các điều kiện và quy luật sinh thái tự nhiên, vừa bị kiềm chế bởi các điều kiện, quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Vì vậy, những điều kiện và nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến việc sử dụng đất là: * Yếu tố điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên có rất nhiều yếu tố như: ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa, thủy văn, không khí .trong các yếu tố đó khí hậu là nhân tố hàng đầu của việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai chủ yếu là địa hình, thổ nhưỡng và các nhân tố khác. - Điều kiện khí hậu: Đây là nhóm yếu tố ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn nhiều hay ít, nhiệt độ cao hay thấp, sự sai khác về nhiệt đô về thời gian và không gian, biên độ tối cao hay tối thấp giữa ngày và đêm trực tiếp ảnh hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Lượng mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ và ẩm độ của đất, cũng như khả năng đảm
  26. 20 bảo khả năng cung cấp nước cho các cây, con sinh trưởng, phát triển (Lương Văn Hinh và Cs, 2003)[21]. - Điều kiện đất đai: Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mực nước biển, độ dốc hướng dốc thường dẫn đến đất đai, khí hậu khác nhau, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất nông nghiệp, là căn cứ cho việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, xây dựng đồng ruộng, thủy lợi canh tác và cơ giới hóa. Mỗi vùng địa lý khác nhau có sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác. Các yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng, công dụng và hiệu quả sử dụng đất. Vì vậy cần tuân theo các quy luật của tự nhiên, tận dụng các lợi thế đó nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường. * Yếu tố về kinh tế – xã hội Bao gồm các yếu tố như: Chế độ xã hội, dân số và lao động, thông tin và quản lý, sức sản xuất trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa, cơ cấu kinh tế và phân bổ sản xuất, các điều kiện về nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ, trình độ quản lý, sử dụng lao động “Yếu tố kinh tế – xã hội thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với việc sử dụng đất đai” (Lương Văn Hinh và cs, 2003)[21]. Thực vậy, phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu cầu xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Điều kiện tự nhiên của đất đai cho phép xác định khả năng thích ứng về phương thức sử dụng đất. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên tới việc sử dụng đất được đánh giá bằng hiệu quả sử dụng đất. Thực trạng sử dụng đất liên quan đến lợi ích kinh tế của người sở hữu, sử dụng và kinh doanh đất. Tuy nhiên nếu có chính sách ưu đãi sẽ tạo điều kiện cải tạo và hạn chế sử dụng đất theo kiểu bóc lột đất đai. Mặt khác, sự quan tâm quá mức đến lợi nhuận tối đa cũng dẫn đến tình trạng đất đai không những bị sử dụng không hợp lý mà còn bị hủy hoại. Như vậy, các nhân tố điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hôi tạo ra nhiều tổ hợp ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai. Tuy nhiên mỗi yếu tố giữ vị trí và
  27. 21 có tác động khác nhau. Vì vậy, cần dựa vào yếu tố tự nhiên và kinh tế – xã hội trong lĩnh vực sử dụng đất đai để từ đó tìm ra những nhân tố thuận lợi và khó khăn để sử dụng đất đai đạt hiệu quả cao. 2.4.2. Quan điểm sử dụng đất bền vững 2.4.2.1 Sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm sinh thái bền vững Trước sự biến đổi sâu sắc của môi trường toàn cầu, mọi quốc gia đang hướng theo sự phát triển bền vững. Phát triển bền vững là phát triển để đáp ứng nhu cầu của đời nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của đời sau. Phát triển bền vững nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của con người trog phạm vi khả năng chịu đựng của các hệ sinh thái, mọi hoạt động sản xuất được coi là bề vững khi đạt được tất cả các mục đích thực tiễn của nó và có thể tiếp tục mãi mãi (Phạm Đình Phê và Cao Thị Lan, (2001)[22]_Sinh Thái học và bảo vệ môi trường, NXB Nông nghiệp,Hà Nội). Hiện nay ở các nước phát tiển đã xuất hiện phong trào “nông nghiệp hữu cơ” đây là nền nông nghiệp cho năng suất thấp hơn kiểu canh tác tiên tiến nhưng sản phẩm “sạch” hơn, giá bán cao hơn nên hiệu quả kinh tế vẫn cao. Tuy nhiên số lượng khách hàng có yêu cầu sản phẩm loại này còn ít nên phong trào không được phổ biến rộng. Do đó đây không phải là con đường phát triển nông nghiệp phổ biến, vì hiện nay sản phẩm nông nghiệp đòi hỏi phải có năng suất cao và sản phẩm rẻ, thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy việc sủ dụng đất nông nghiệp trước mắt và lâu dài phải là nông nghiệp bền vững, vừa thỏa mãn nhu cầu hiện tại và trong tương lai, vừa bảo vệ được môi trường sống, đảm bảo sự bền vững về kinh tế, xã hội còn phải bề vững về sinh thái. Ngày nay nhiều nước cũng đang hướng đến xây dựng một nề nông nghiệp sinh thái, nhưng muốn làm được thì cần phải phát triển khoa học sinh thái nông nghiệp. Nông nghiệp sinh thái không đồng ngĩa với nông nghiệp sinh học hay nông nghiệp hữu cơ. Theo khuynh hướng này, nông nghiệp phải trở lại với các biện pháp cổ truyền như dùng phân hữu cơ, luân canh, không dùng phân hóa học, thuốc phòng chống sâu bệnh và cỏ dại. Nông nghiệp sinh thái không loại trừ phân hóa học, thuốc
  28. 22 bảo vệ thực vật mà sử dụng chúng hợp lý và có hiệu quả cao, tránh làm ô nhiễm môi trường. Vì vậy cần phải giải quyết nền nông nghiệp sinh thái đạt năng suất cao, đảm bảo các yêu cầu bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường hướng tới nền nông nghiệp bền vững. Mục đích là kiến tạo một hệ thống bền vững về mặt sinh thái, có tiềm lực về mặt kinh tế, có khả năng thỏa mãn những nhu cầu của con người mà không làm thoái hóa đất đai, không làm ô nhiễm môi trường (Phạm Chí Thành, 1998)[23] Hệ thống nông nghiệp, Bài giảng hệ cao học, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội); 1. (Nguyễn Xuân Thảo, 2004/[24] Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội) 2. ; (World Bank, 2002/[40] Implementing reform for faster growth and poverty reduction, world bank, Hanoi. Nông nghiệp bền vững là tạo ra một hệ sinh thái nông nghiệp sản xuất lương thực, thực thẩm cho người, thức ăn cho chăn nuôi nhiều hơn so với các hệ thông tự nhiên. Trong đó con người tồn tại và sử dụng những nguồn năng lượng, sử dụng nguồn tài nguyên phong phú của thiên nhiên mà không phá hoại những nguồn tài nguyên đó. Đồng thời không chỉ bảo vệ những hệ sinh thái đã có trong tự nhiên mà còn tìm cách khôi phục những hệ sinh thái đã bị suy thoái. (De Kimpe ER & Warkentin B.P, 1998)_ Soil Functions and Future of Natural Resources, Torwards Sustainable Land Use, Use, ISCO, Volumel 1, p.10, pp.3- 11[41]; (World Bank, 2001)_Rural Development Strategy: Reaching the rural poor. Internet draft, July and August, 2001, Washington, D.C, U.S.A.[42]. Vì vậy, muốn phát triển một nền sản xuất nông nghiệp bền vững cần phải kết hợp hài hòa với thiên nhiên, phải xem xét toàn bộ hệ thống trong sự vận động của nó, không chỉ vì lợi ích của từng bộ phận mà phải xem xét, nhịn nhận đến lợi ích của toàn cục, cần phải thu thập và có đầy đủ các thông tin, không chỉ riêng ác thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hôi có liên quan đến mục đích sử dụng đất mà phải biết đến mục đích sử dụng đất. Việc cấp thiết là lựa chọn, tìm ra giải pháp phù
  29. 23 hợp nhầm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động xấu do quá trình sử dụng đất gây ra. 2.4.2.2 Quản lý và sử dụng đất nông nghiệp bền vững Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các phát minh, sáng kiến, sáng chế đã góp phần làm biến đổi sâu sắc cảnh quan môi trường tự nhiên. Hiện nay quản lý, sử dụng quỹ đát nông nghiệp đang là vấn đề bức xúc của mỗi quốc gia. Việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên đất đai, năng lượng tự nhiên đã làm kiệt quệ các nguồn tài nguyên; Sự bùng nổ về dân số càng làm cho khủng hoảng giữa nhu cầu cần đáp ứng và khả năng có hạn của nguồn năng lượng tự nhiên càng ngày càng tăng (Nguyễn Đình Bồng, 1995)[12]; (Nguyễn Sinh Cúc, 2003)[15]. Từ năm 1980 Hội nghị quốc tế bảo vệ thiên nhiên và Tài nguyên Môi trường (IUCN), Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đã khởi xướng chiến lược toàn cầu (WCS) về bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu duy trì các nguồn gen, bảo vệ sử dụng hợp lý và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo được. Theo Dent F.J, (1992)[43], FAO đã đề ra Hiến chương đất đai trên thế giới và nêu rõ: Sự suy thoái đất ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông, lâm nghiệp, các hoạt động ở khu vục kinh tế khác và môi trường nói chung. Để bảo vệ sự sống loài người phải sử dụng hợp lý đất, nước, thực vật, không để tài nguyên thiên nhiên ấy bị suy thoái và hủy hoại. Các Chính phủ phải có trách nhiệm bảo vệ, bảo tồn và cải thiện một cách bền vững khả năng sử dụng của đất đai. Để thực hiện các mục tiêu chiến lược trên, các nhà khoa học đất trên thế giới và các tổ chức quốc tế đã rất quan tâm nghiên cứu, không ngừng nâng cao sự phát triển của khoa học bao gồm: Khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, chế độ thủy văn, thực vât, động vật, những hoạt động cải thiện và quản lý của con người đối với đất đai như các hệ thống tưới, tiêu nước, quy hoạch xây dựng và cải tạo đồng ruộng, thay đổi hệ thống sử dụng đất Theo Phạm Chí Thành và Đào Châu Thu, (1998)[25]; Nguyễn Khang, (1998)[26] yêu cầu nhằm phát triển các hệ thống nông nghiệp bền vũng trong sử dụng đất cần đạt được 4 nội dung chủ yếu:
  30. 24 - Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế, không gian sử dụng đất. Sử dụng đất hợp lý là một bộ phận quan trọng hợp thành chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững. - Quy mô sử dụng đất có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh tế sử dụng đất. - Phân phối hợp lý cơ cấu đất trên diện tích đất được sử dụng. - Giữ mật dộ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành sử dụng đất một cách kinh tế, hiệu quả và theo hướng tập trung, có sự đầu tư thâm canh hợp lý. a. Các tiêu chuẩn quản lý phát triển nông nghiệp bền vững Các chuyên gia về nông nghiệp đều thống nhất về quy mô quản lý nông nghiệp bền vững phải có những đặc trưng cơ bản như: - Quy mô nhỏ; - Thâm canh; - Đa dạng hóa sản xuất (Đa dạng trong các chủng loại, các chế độ canh tác, đa dạn hóa các chức năng lao động). Áp dụng hệ thống canh tác phong phú, đa dạng sẽ tạo ra hệ thống ổn định và giúp ta dễ dàng chuyển hướng trước những biến động về môi trường và xã hội; - Kết hợp nhiều ngành, nhiều bộ môn: Nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, kết hợp kinh tế học và xã hội học; - Có biện pháp thích hợp để sử dụng các diện tích đất quá xấu, quá hẹp; - Tận dụng các đặc tính tự nhiên vốn có của vật nuôi, cây trồng và mối quan hệ của chúng với đặc điểm cảnh quan thiên nhiên để tạo ra một nền nông nghiệp tự phát triển một cách bền vững và bảo vệ được môi trường; Theo Vũ Việt Linh và Nguyễn Ngọc Bình, (1995)[27] nền nông nghiệp bền vững phải đạt được cả ba mục đích: - Gìn giữ và làm phong phú môi trường; - Đạt hiểu quả kinh tế cao; - Đảm bảo công bằng kinh tế và công bằng xã hội.
  31. 25 Cũng trong phiên họp thứ 8 vào tháng 4-5 năm 2000, Ủy ban về phát triển bền vững cảu Liên Hiệp Quốc đã nêu lên 4 đặc trung của nền nông nghiệp bền vững: - Nuôi dưỡng các nguồn tài nguyên của toàn thế giới phù hợp với địa phương. - Áp dụng ở mõi địa phương có những cách làm nông nghiệp phù hợp với địa phương. - Bảo đảm vai trò chủ động của nông dân (người lao động nông nghiệp và người chủ nông trại) trong mọi khâu của quá tŕnh ra quyết định. - Phân phối quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên và các sản phẩm nông nghiệp công bằng hơn. Do vậy nền nông nghiệp bền vững phải bảo đảm tiêu chuẩn: Năng suất cao hơn so với nông nghiệp hiện tại, không phá hoại môi trường xung quanh, bảo đảm khả năng thực thi, ít lệ thuộc vào những tư liệu sản xuất, vật tư kỹ thuật, hàng hóa tiêu dùng nhập từ ngoài; độ phì của đất không bị cạn kiệt; vì vậy, phải tạo mối quan hệ cân bằng giữa các thành phần nông nghiệp: Cây trồng – vật nuôi – thủy sản – cây rừng b. Các giải pháp quản lý sử dụng đất bền vững Ngày nay thực hiện toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, các nước đều có sự tham gia sâu rộng theo hiệp định Thương mại thế giới (WTO), mỗi một quốc gia đều phải xác định cho được giải pháp để thực hiện nền nông nghiệp phát triển bền vững. Đây là một nhiệm vụ rất trọng yếu trong toàn bộ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiến lên nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Song đây cũng là vấn đề đặt ra đối với những nước đang phát triển, bởi vì theo Lê Đình Thái (1998)[28]; Đào Ngọc Dung và Trung Chính, (2006) [29] Báo Nhân dân số ra ngày 27 và 28 tháng 9 năm 2006 nhiệm vụ quan trọng cần phải thực hiện là: Thứ nhất, đảm bảo an ninh lương thực, phát triển các loại nông sản thế mạnh. Giải quyết thông suốt và thỏa đáng vấn đề tiêu thụ nông sản trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế bằng cách vận dụng những hình thức tổ chức và quản lý tiên tiến, những loại công nghệ cao thích hợp, những chính sách đúng đắn của Nhà
  32. 26 nước, sự chủ động, sáng tạo của quần chúng nông dân và sự hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Thứ hai, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn: Đó là con đường có tính quy luật để hiện đại hóa cơ cấu nông nghiệp, và rộng hơn nữa, hiện đại hóa cơ cấu kinh tế và xã hội nông thôn, nâng cao chất lượng, giá trị và sức cạnh tranh của nông sản 3. Theo Thế Dân, (2001)[30] Một số vấn đề khoa học công nghệ nông nghiệp thời ký công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Số 1/2001, Tr.75-85. 4. ; Vũ Thị Bình, (2004)[31] Tác động của việc chuyển đổi ruộng đất tới công tác quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở một số địa phương vùng đồng bằng sông Hồng”, Kỷ yếu hội thảo khoa học và quản lý đất đai và thị trường bất động sản, TPHCM tháng 3, Tr.48-54. 5. ; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, (2005)[32] Tổng quan về cơ cấu và tình hình sản xuất lúa ở đồng bằng sông Hồng thời gian qua, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, Tr.210-220 để sử dụng toàn bộ quỹ đất cảu một nước, cần phải tính toán phù hợp cho hoạt động của các ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, có thể có 2 giải pháp: - Giải pháp thứ nhất: Giải quyết nhu cầu đất trước hết cho nông nghiệp trong điều kiện một nước đang phát triển. Đối tượng là cây trồng: cây lương thực, thực phẩm, cây rừng, cây thức ăn gia súc , cần sử dụng quỹ đất ưu tiên đặc biệt cho đối tượng này. Ưu tiên cho đất trồng lúa, rồi đến các cây trồng khác phục vụ cho công nghiệp và sản xuất để vừa có hiệu quả kinh tế cao, vừa bảo vệ được đất. Với giải pháp này, sự đi lên của nền kinh tế có những mặt chưa được mạnh mẽ ngoài phần ổn định về lương thực và môi trường, nhưng đó là hướng đi chắc chắn, ổn định sinh kế, giải quyết được những vấn đề an ninh lương thực dể đi lên công nghiệp hóa một cách vững chắc. - Giải pháp thứ hai: Phát triển kinh tế vĩ mô trước hết cần dành quỹ đất thỏa đáng cho những ngành có khả năng tăng trưởng nhanh như công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, du lịch , đương nhiên có cân nhắc hiệu quả sử dụng trên từng đơn vị diện
  33. 27 tích đất đai để đưa đất nước tiến lên theo mô hình phát triển, vận dụng sức mạnh của kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy không dễ dàng chỉ phát triển theo cách thứ hai, bởi lẽ qua kinh nghiệm hàng chục năm nay trên thế giới ngay cả đối vớ những nước công nghiệp phát triển cũng không thể coi nhẹ vấn đề lương thực. Việc dành đất cho công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở mang khu dân cư là yêu cầu bắt buộc, nhưng phải cân nhắc kỹ, không thể lạm dụng vào đất nông nghiệp, nhất là những vùng đồng bằng, đất lúa, đất phù sa màu mỡ. Đối với nước ta, dù sản xuất lúa gạo đã đảm bảo yêu cầu, xong tình trạng khủng hoảng lương thực thế giới năm 2007 cũng là lời cảnh báo. Do đó việc đảm bảo an ninh lương thực vẫn tiếp tục đặt ra trong điều kiện dân số đông, đất canh tác không nhiều, mỗi năm lại có thêm hàng chục nghìn héc ta đất nông nghiệp bị chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp. Đó là chưa kể đến thiên tai, dịch bệnh, tác động cảu biến đổi khí hậu toàn cầu Ngoài ra sự lãng phí đất nông nghiệp còn thể hiện ở khâu quy hoạch: hai tỉnh liền kề nhau đều mở khu công nghiệp trên đất lúa, thu hút các dự án có công nghệ giống nhau nên khó có thể lấp đầy, trong khi các địa phương khác có rất nhiều đất đồi, đất bạc màu bỏ không. Bài học từ Philipin cho thấy, để đổi lấy các khu công nghiệp, nước này đã mất rất nhiều cánh đồng lúa phì nhiêu, dẫn đến “thảm cảnh” mỗi năm phải nhập 1,5 triệu tấn gạo. Chính phủ nước này cũng đã dự định chi 960 triệu USD thực hiện một kế hoạch tổng thể mang tên “Những cánh đồng lúa” để vực dậy ngành nông nghiệp. Việt nam cho đến nay cũng đã mất rất nhiều đất cho công nghiệp, dịch vụ, nếu không có sự điều chỉnh kịp thời, biết đâu đó sẽ là tương lai của chúng ta ( Kinh tế nông thôn 2008/[4] ). Như vậy để thực hiện giải pháp quản lý, sử dụng đất nông nghiệp bền vững; Trước hết cần phải quản lý tốt quỹ đất thông qua việc quy hoạch, kế hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng đất và cải tạo những loại đất có vẫn đề nhằm giũ ổn định diện tích đất nông nghiệp đặc biệt là đất trồng lúa để đảm bảo an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp bền vững. Thứ hai, phải cân đối hợp lý, hài hòa giữa phát triển
  34. 28 nông nghiệp với công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Thứ ba, có chính sách đầu tư thỏa đáng cho lĩnh vực nông nghiệp. Từ khi biết sử dụng đất đai vào mục đích sinh tồn của mình, đất đai đã trở thành cơ sở cần thiết cho sự sống và cho tương lai phát triển của con người. Khi dân số còn ít để đáp ứng nhu cầu về lương thực thực phẩm của mình thì con người đã khai thác từ đất khá dễ dàng và không gây ra những ảnh hưởng lớn đến đất đai. “Nhưng ngày nay, mật độ dân số ngày càng tăng, đặc biệt là ở các nước đang phát triển thì vấn đề đảm bảo lương thực cho sự gia tăng dân số đã trở thành sức ép ngày càng mạnh mẽ lên đất đai. Diện tích đất đai thích hợp cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, con người đã phải mở mang thêm diện tích đất nông nghiệp trên những vùng đất không thích hợp cho sản xuất, hậu quả đã ngây ra quá trình thoái hoá đất diễn ra một cách nghiêm trọng” (Smyth & Julian Dumaski, 1993) [44]. Tác động của con người đã làm cho độ phì nhiêu của đất ngày càng bị suy giảm và dẫn đến thoái hoá đất, lúc đó khó có thể phục hồi lại độ phì nhiêu của đất nếu muốn phục hồi lại thì cần phải chi phí rất lớn. Đất có những chức năng chính là: “Duy trì vòng tuần hoàn sinh hoá học và địa hoá học, phân phối nước, tích trữ và phân phối vật chất, mang tính đệm và phân phối năng lượng” (Dekimpe & Warkentin, 1998) [41], các chức năng trên của đất là những trợ giúp cần thiết cho các hệ sinh thái. Sử dụng đất đai một cách hiệu quả và bền vững luôn là mong muốn cho sự tồn tại và tương lai phát triển của con người. Vì vậy tìm kiếm những biện pháp sử dụng đất thích hợp, bền vững đã được nhiều nhà khoa học và các tổ chức quốc tế quan tâm. Thuật ngữ “sử dụng đất bền vững” (Sustainable land use) đã trở lên thông dụng trên thế giới như hiện nay. Nông nghiệp bền vững không có nghĩa là khước từ những kinh nghiệm truyền thống mà phối hợp, lồng ghép những sáng kiến mới từ các nhà khoa học, từ nông dân hoặc cả hai. Điều trở nên thông thường với những người nông dân, bền vững là việc sử dụng những công nghệ và thiết bị mới vừa được phát kiến, những mô hình canh tác tổng hợp để giảm giá thành đầu vào. Đó là những công nghệ về chăn nuôi động vật, những kiến thức về sinh thái để quản lý sâu hại và thiên địch (Cao Liêm và CTV, 1996) [10].
  35. 29 Theo Lê Văn Khoa, 1993 [8], để phát triển nông nghiệp bền vững cũng loại bỏ những ý nghĩ đơn giản rằng: Nông nghiệp, công nghiệp hoá sẽ đầu tư từ bên ngoài vào. Phạm Chí Thành, 1996 [25] cho rằng có 3 điều kiện để tạo nông nghiệp bền vững đó là công nghệ bảo tồn tài nguyên, những tổ chức từ bên ngoài và những tổ chức về các nhóm địa phương. Tác giả cho rằng xu thế phát triển nông nghiệp bền vững được các nước phát triển khởi xướng và hiện nay đã trở thành đối tượng mà nhiều nước nghiên cứu theo hướng kế thừa, chắt lọc cái tinh tuý của nền nông nghiệp chứ không chạy theo cái hiện đại để bác bỏ những cái thuộc về truyền thống. Trong nông nghiệp bền vững việc chọn cây gì, con gì trong một hệ sinh thái tương ứng không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan mà phải điều tra nghiên cứu để hiểu biết tự nhiên. Không ai hiểu biết hệ sinh thái nông nghiệp ở một vùng bằng chính những người sinh ra và lớn lên ở đó. Vì vậy, xây dựng nông nghiệp bền vững nhất thiết cần phải có sự tham gia của người dân trong vùng nghiên cứu. Phát triển bền vững là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên tự nhiên, định hướng những thay đổi công nghệ thể chế theo một phương thức sao cho đạt đến sự thỏa mãn một cách liên tục nhu cầu của con người, của những thế hệ hôm nay và mai sau (FAO, 1976) [37]. Theo Festry “Sự phát triển nông nghiệp bền vững chính là sự bảo tồn đất, nước, các nguồn động thực vật, không bị suy thoái môi trường, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội” (FAO, 1994) [36]. FAO đã đưa ra được những chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là: - Thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản cho thế hệ về số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác. - Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống tốt cho những người trực tiếp làm nông nghiệp. - Duy trì và có thể tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài nguyên thiên nhiên, khả năng tái sản xuất của các tài nguyên tái tạo được không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở và cân bằng tự nhiên, không phá vỡ
  36. 30 bản sắc văn hóa – xã hội của cộng đồng sống ở nông thôn hoặc không gây ô nhiễm môi trường. - Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng tin cho nông dân. Những nguyên tắc được coi là trụ cột trong sử dụng đất đai bền vững và là những mục tiêu cần đạt được: - Duy trì, nâng cao sản lượng (Hiệu quả sản xuất); - Giảm tối thiểu mức rủi ro trong sản xuất (An toàn); - Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và ngăn chặn sự thoái hóa đất, nước; - Có hiệu quả lâu dài; - Được xã hội chấp nhận. Thực tế nếu diễn ra đồng bộ với những mục tiêu trên thì khả năng bền vững sẽ đạt được, nếu chỉ đạt được một hay vài mục tiêu mà không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận. Vận dụng các nguyên tắc đã nêu ở trên, ở Việt Nam một loại hình được coi là bền vững phải đạt được 3 yêu cầu: - Bền vững về kinh tế: Cây trồng cho năng suất cao, chất lượng tốt, được thị trường chấp nhận. - Bền vững về mặt xã hội: Nâng cao được đời sống nhân dân, thu hút được lao động, phù hợp với phong tục tập quán của người dân. - Bền vững về môi trường: Các loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hóa đất và bảo vệ môi trường sinh thái đất (Nguyễn Ngọc Nông và CS, 2012) [14]. Ba yêu cầu trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất ở thời điểm hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá theo các yêu cầu trên để có những định hướng phát triển nông nghiệp ở từng vùng. Tóm lại: Đối với sản xuất nông nghiệp việc sử dụng đất bền vững chỉ đạt được trên cơ sở suy trì các chức năng chính của đất là đảm bảo khả năng sản xuất của cây trồng một cách ổn định, không làm suy giảm đối với tài nguyên đất đai
  37. 31 theo thời gian và việc sử dụng đất không gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động sống của con người. 2.4.3. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên Thế giới và Việt Nam 2.4.3.1. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới Tổng diện tích bề mặt của toàn thế giới là 510 triệu Km2 trong đó đại dương chiếm 361 triệu Km2 (71%), còn lại là diện tích lục địa chỉ chiếm 149 triệu Km2 (29%). Bắc bán cầu có diện tích lớn hơn nhiều so với Nam bán cầu. Toàn bộ quỹ đất có khả năng sản xuất nông nghiệp trên thế giới là 3.256 triệu ha, chiếm khoảng 22% tổng diện tích đất liền. Diện tích đất nông nghiệp trên thế giới được phân bố không đều: Châu Mỹ chiếm 35%, Châu Á chiếm 26%, Châu Âu chiếm 13%, Châu Phi chiếm 6%. Bình quân đất nông nghiệp trên thế giới là 12.000m2. Đất trồng trọt trên toàn thế giới mới đạt 1,5 tỷ chiếm 10,8% tổng diện tích đất đai, 46% đất có khả nẳng sản xuất nông nghiệp như vậy còn 54% đất có khả năng sản xuất nhưng chưa được khai thác. Diện tích đất đang canh tác trên thế giới chỉ chiếm 10% tổng diện tích đất tự nhiên (khoảng 1.500 triệu ha), được đánh giá là: - Đất có năng suất cao: 14% - Đất có năng suất trung bình: 28% - Đất có năng suất thấp: 58% Nguồn tài nguyên đất trên thế giới hàng năm luôn bị giảm, đặc biệt là đất nông nghiệp mất đi do chuyển sang mục đích sử dụng khác. Mặt khác dân số ngày càng tăng, theo ước tính mỗi năm dân số thế giới tăng từ 80 - 85 triệu người. Như vậy, với mức tăng này mỗi người cần phải có 0,2 – 0,4 ha đất nông nghiệp mới đủ lương thực, thực phẩm. Đứng trước những khó khăn rất lớn đó thì việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất của đất nông nghiệp là hết sức cần thiết. 2.4.3.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.121,20 nghìn ha, trong đó đất nông nghiệp là 24.696 nghìn ha chiếm 74,56% tổng diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất bình quân đầu người ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế giới. Ngày nay với áp lực
  38. 32 về dân số và tốc độ đô thị hóa kèm theo là những quá trình xói mòn rửa trôi bạc màu do mất rừng, mưa lớn,canh tác không hợp lý, chăn thả quá mức; quá trình chua hoá, mặn hóa, hoang mạc hoá, cát bay, đá lộ đầu, mất cân bằng dinh dưỡng Tỷ lệ bón phân N : P : K trên thế giới là 100 : 33 : 17 còn ở Việt Nam là 100 : 29 : 7 thiếu lân và kali nghiêm trọng dẫn đến diện tích đất đai nước ta nói chung ngày càng giảm, đặc biệt là diện tích đất nông nghiệp. Tính theo bình quân đầu người thì diện tích đất tự nhiên giảm 26,7%, đất nông nghiệp giảm 21,5%. Vì vậy, vấn đề đảm bảo lương thực , thực phẩm trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm đang là một áp lực rất lớn. Do đó việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất nông nghiệp càng trở nên quan trọng đối với nước ta. 2.5. Hiệu quả và tính bền vững trong sử dụng đất 2.5.1. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất Hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu công việc mang lại. Do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu ngày càng cao của con người mà ta phải xem xét kết quả tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra để tạo ra kết quả đó là bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích không? Chính vì thế khi đánh giá hoạt động sản xuất không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm đó. Đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là một nội dung đánh giá hiệu quả. Để xác định bản chất và khái niệm hiệu quả cần xuất phát từ những luận điểm của Mac và những luận điểm lý thuyết hệ thống sau: - Thứ nhất: Bản chất của hiệu quả là thực hiện yêu cầu tiết kiệm thời gian, thể hiện trình độ sử dụng nguồn lực xã hội. C.Mác cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc biệt tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật đó, nó quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát triển văn minh xã hội và nâng cao đời sống của con người qua mọi thời đại. - Thứ hai: Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống thì nền sản xuất xã hội là một hệ thống các yếu tố sản xuất va các quan hệ vật chất hình thành giữa con người với con
  39. 33 người trong quá trình sản xuất. Hệ thống sản xuất xã hội bao gồm trong nó các quá trình sản xuất, các phương tiện bảo tồn và tiếp tục đời sống xã hội, đáp ứng các nhu cầu xã hội, nhu cầu của con người là những yếu tố khách quan phản ánh mối quan hệ nhất định của con người đối với môi trường bên ngoài. Đó là quá trình trao đổi vật chất giữa sản xuất xã hội và môi trường. - Thứ ba: Hiệu quả kinh tế là mục tiêu nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng mà là mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động kinh tế. Trong quy hoạch và quản lý kinh tế nói chung hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu giữa đầu vào và đầu ra, là lợi ích lớn hơn thu được với một chi phí nhất định, hoặc một kết quả nhất định với chi phí lớn hơn (Đỗ Thị Lan, Đỗ Anh Tài, 2007) [17]. Như vậy bản chất của hiệu quả được xem là: Việc đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội; việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực để phát triển bền vững. * Hiệu quả kinh tế Theo Cac Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối có kế hoạch thời gian lao động theo các ngành sản xuất khác nhau. Theo nhà khoa học Samuelson Nodhuas “Hiệu quả có nghĩa là không lãng phí”. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét đến chi phí cơ hội. “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng hàng hóa khác” (Vũ Phương Thụy, 2000) [20]. Hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội. Hiệu quả kinh tế phải đạt được ba vấn đề sau: - Một là: Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quy luật tiết kiệm thời gian - Hai là: Hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm lý thuyết hệ thống. - Ba là: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường nguồn lực sẵn có phục vụ cho lợi ích của con người.
  40. 34 Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan cần xét cả phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó. Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là: Với một diện tích nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng vật chất về xã hội (Phạm Vân Đình và CS, 2001) [5]. * Hiệu quả xã hội Phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được về mặt xã hội mà sản xuất mang lại với các chi phí sản xuất xã hội bỏ ra. Loại hiệu quả này đánh giá chủ yếu về mặt xã hội do hoạt động sản xuất mang lại. “Hiệu quả về mặt xã hội sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp” (Nguyễn Duy Tính, 1995) [34]. * Hiệu quả môi trường Một hoạt động sản xuất được coi là có hiệu quả khi không có những ảnh hưởng tác động xấu được coi là có hiệu quả khi không có những ảnh hưởng tác động xấu đến môi trường đất, nước, không khí, không làm ảnh hưởng tác động xấu đến môi trường sinh thái và đa dạng sinh học. Quan niệm về hiệu quả trong điều kiện hiện nay là phải thỏa mãn vấn đề tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tài nguyên trong sản xuất, mang lại lợi ích xã hội và bảo vệ được môi trường. 2.5.2. Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả sử dụng đất “Thế giới đang sử dụng khoảng 1,5 tỷ ha đất cho sản xuất nông nghiệp. Tiềm năng đất nông nghiệp của thế giới khoảng 3 – 5 tỷ ha. Nhân loại đang làm hư hại đất nông nghiệp khoảng 1,4 tỷ ha đất và hiện nay có khoảng 6 – 7 triệu ha đất nông nghiệp bị bỏ hoang do xói mòn và thoái hóa. Để giải quyết nhu cầu về sản phẩm nông
  41. 35 nghiệp, con người phải thâm canh, tăng vụ tăng năng suất cây trồng và mở rộng diện tích đất nông nghiệp” (FAO, 1976) [37]. Để nắm vững số lượng và chất lượng đất đai cần phải điều tra thành lập bản đồ đất, đánh giá phân hạng đất, điều tra hiện trạng, quy hoạch sử dụng đất hợp lý là điều rất quan trọng mà các quốc gia đặc biệt quan tâm nhằm ngăn chặn những suy thoái tài nguyên đât đai do sự thiếu hiểu biết của con người, đồng thời nhằm hướng dẫn về sử dụng đất và quản lý đất đai sao cho nguồn tài nguyên này được khai thác tốt nhất mà vẫn duy trì sản xuất trong tương lai. Phát triển nông nghiệp bền vững có tính chất quyết định trong sự phát triển chung của toàn xã hội. Điều cơ bản nhất của phát triển nông nghiệp bền vững là cải thiện chất lượng cuộc sống trong sự tiếp xúc đúng đắn về môi trường để giữ gìn tài nguyên cho thế hệ sau này. 2.5.3. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất Trong quá trình sử dụng đất đau tiêu chuẩn cơ bản và tổng quát khi đánh giá hiệu quả là mức độ đáp ứng nhu cầu của xã hội và sự tiết kiệm lớn nhất về chi phí các nguồn tài nguyên, sự ổn đinh lâu dài của hiệu quả. Do đó tiêu chuẩn đánh giá việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất nông – lâm nghiệp là mức độ tăng thêm các kết quả sản xuất trong điều kiện nguồn lực hiện có hoặc mức độ tiết kiệm về chi phí các nguồn lực khi sản xuất ra một khối lượng nông – lâm sản nhất định. “Hiệu quả sử dụng đất có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông – lâm nghiệp, đến môi trường sinh thái, đến đời sống người dân. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất phải tuân theo quan điểm sử dụng đất bền vững hướng vào ba tiêu chuẩn chung là bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường” (FAO, 1994) [36].
  42. 36 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Loại hình sử dụng đất Ớt chuông và Chà là trên quỹ đất nông nghiệp tại Trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel. 3.2. Nội dung nghiên cứu 3.2.1. Khái quát về trang trại - Vị trí địa lý - Khái quát tình hình cơ bản 3.2.2. Tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ của Ớt chuông và Chà là tại Trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel - Tình hình sản xuất - Tình hình chế biến và tiêu thụ 3.2.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất - Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường cho việc trồng cây Ớt chuông và Chà là. - Chỉ ra tính bền vững và khả năng áp dụng tại Việt Nam của mô hình sản xuất trong trang trại. 3.2.4. Thuận lợi, khó khăn, bài học kinh nghiệm và đề xuất 3.3. Phương pháp nghiên cứu Thu thập số liệu thứ cấp: Trên Internet các số liệu thống kê, tổng quan về đất nước ISRAEL, về tình hình sản xuất nông nghiệp, về tình hình xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Các công nghệ đang được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp. Thu thập số liệu sơ cấp: Thu thập số liệu cụ thể về trang trại; Quy mô, diện tích, tình hình sản xuất của trang trại Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp: * Hiệu quả kinh tế - Tổng giá trị sản phẩm (T):
  43. 37 T = p1.q1+p2.q2+ +pn.qn Trong đó: + p: là khối lượng từng loại sản phẩm được sản xuất/ha/năm + q: là đơn giá của từng loại sản phẩm của thị trường cùng thời điểm + T: là tổng giá trị sản phẩm của 1 ha đất canh tác/năm - Thu nhập thuần túy (N): N = T - Csx Trong đó: + N: thu nhập thuần túy của 1 ha đất canh tác/năm + Csx: chi phí sản xuất của 1ha đất canh tác/năm bao gồm cả chi phí vật chất và chi phí lao động - Hiệu quả sử dụng vốn (H): H = T/Csx - Giá trị ngày công lao động: HLđ=N/số ngày công lao động/ha/năm - Các chỉ tiêu phân tích được đánh giá bằng tiền theo thời giá hiện hành và định tính (phân cấp) được tính bằng mức độ cao, thấp. Các chỉ tiêu đạt mức càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn. * Hiệu quả xã hội - Giá trị ngày công lao động nông nghiệp. - Thu nhập bình quân/lao động nông nghiệp. - Tỷ lệ giảm hộ đói nghèo. - Mức độ giải quyết công ăn việc làm và thu hút lao động. - Sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. * Hiệu quả môi trường. -Tỷ lệ che phủ. - Khả năng bảo vệ và cải tạo đất. - Ý thức của người dân trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
  44. 38 PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Khái quát về Ớt chuông và Chà là tại trang trại Tzu. Hiện tại tổng diện tích đất nông nghiệp của trang trại là 100 dunam (1 dunam = 1000 m2). Có 60 dunam (6 ha) là trồng Ớt chuông và 40 dunam (4 ha) trồng Chà là Trang trại có 3 kho đóng gói và ba kho lạnh để bảo quản sau khi thu hoạch. Trang trại gồm 60 công nhân và 30 sinh viên. Vụ thu hoạch có khoảng 30 công nhân làm việc ngoài trang trại số công nhân còn lại ở lại kho vận hành máy và đóng gói vận chuyển quả vào kho lạnh ngay sau khi đóng gói. a.Ớt chuông Điều kiện tự nhiên của trang trại khá thích nghi với cây Ớt chuông (bao gồm: Ớt chuông đỏ, Ớt chuông vàng và Ớt chuông cam). Diện tích trồng Ớt chuông của trang trại được chia ra thành 5 khu vực trồng ớt nhỏ. Trong đó có 1 khu vực được trồng Ớt chuông trong nhà lưới với diện tích là 20 dunam và 4 khu vực trồng Ớt chuông trong nhà kính, mỗi khu vực là 10 dunam. Các loại Ớt chuông được trồng xen kẽ nhau theo các khoang của nhà kính, nhà lưới. Thường Ớt chuông trồng trong nhà kính sẽ cao hơn so với trồng trong nhà lưới gây khó khăn cho người thu hoạch. + Ớt chuông là cây hàng năm, từ một gốc có thể phát triển thành bụi cây nhỏ gọn thẳng, có thể đạt chiều cao 2 mét đến 2,5 mét. Quả được hình thành từu một bông hoa duy nhất phát triển trong góc giữa lá và thân cây. Tùy giống Ớt chuông khác nhau mà chúng khác nhau về hình dạng và màu sắc. Chúng có thể dung để ăn sống, nấu chín hoặc chế biến. + Yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh: Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây là 25 – 28oC vào ban ngày và 18 – 20oC vào ban đêm, tối thích cho sinh trưởng là 18 – 28oC. Yêu cầu ánh sáng nhiều, nhất là thời điểm ra hoa, thiếu ánh sang làm giảm tỷ lệ đậu quả. Ớt chuông có thể phát triển ở nhiều loại đất khác nhau như đất sét nhẹ, đất bazan, đất feralit vàng đỏ, riêng ở đây chủ yếu phát triển ở đất cát, pH tối thích rừ 5.5-6.5.
  45. 39 + Trong điều kiện nhà che nylon hay còn gọi là nhà kính, Ớt chuông có thể trồng được quanh năm. Hình 4.1: Hình ảnh trang trại Ớt chuông Hình 4.2: Hình ảnh packing house của trang trại
  46. 40 Hình 4.3: Hình ảnh Ớt chuông được phân loại và đóng hộp b. Chà là Hiện tại tổng diện tích đất trồng Chà là là 40 dunam (1 dunam = 1000 m2). Chà là có nhiều loại giống tùy theo sự lai giống giữa cây bố và cây mẹ. Có 3 loại Chà là phổ biến hiện nay là: Medjool, Degiec, Zahidi. Ðiều kiện trồng Chà là là rất khắc nghiệt về đất đai thiên nhiên cũng như kỹ thuật trồng. Chà là là món ăn qúi, có giá trị kinh tế và dinh dưỡng cao nhưng rất ít nước có khả năng sản xuất để cung ứng cho thị trường. Hiện nay, nhu cầu Chà là của con người rất cao (tới 0,4 kg/người/năm), nên thị trường rất khan hiếm mặt hàng này. Hình 4.4: Hình ảnh Packing house Chà là
  47. 41 - Chà là là loại cây trồng thích hợp với nhiều loại đất khác nhau, nhất là đất cát nghèo dinh dưỡng, đất có nước ngầm và có độ nóng cao. Ðặc biệt Chà là có thể chịu đựng được nơi có độ mặn cao. - Trồng bằng cây con từ 5-6 tháng tuổi. Nên trồng vào đầu vụ mưa để giảm công tưới và tăng tỉ lệ sống. - Tùy theo địa hình của đất mà từng nơi mà có thể trồng tập trung hoặc trồng theo hàng và tùy thuộc vào điều kiện thời tiết khí hậu của từng vùng ta trồng cho phù hợp để cây đến tuổi dễ thụ phấn tự nhiên - Cuối tháng 8 là thời điểm của mùa thu hoạch và kết thúc vào đầu tháng 12 hàng năm Hình 4.5: Cây Chà là tại trang trại Tzu 4.2. Tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ Ớt chuông và Chà là 4.2.1. Tình hình sản xuất a. Ớt chuông - Tùy vào thời kỳ sinh trưởng của cây mà chế độ tưới khác nhau. - Khi cây còn nhỏ, dọn sạch cỏ xung quanh gốc để cỏ khỏi lấn át cây Ớt mới trồng.
  48. 42 - Khi cây cao 50-70cm sẽ đi buộc dây giữ cho cây thẳng rồi cây cao tầm 30cm đi buộc lại 1lần cho đến khi cây đạt chiều cao tối đa thì ngừng. - Thân: Ớt là cây thân bụi 2 lá mầm, thân thường mọc thẳng, đôi khi có thể gặp các dạng (giống) có thân bụi, nhiều cành, chiều cao trung bình 0,5 - 1,5m, có thể là cây hàng năm hoặc cây lâu năm nhưng thường được gieo trồng là cây hàng năm. - Thường xuyên giữ độ ẩm cho cây trong suốt thời gian sinh trưởng, tưới rãnh khi cây đã ra hoa và độ ẩm thích hợp trong thời gian đó là 75-85% - Thời gian từ trồng đến thu hoạch khoảng 120- 130 ngày. Bảng 4.1:Trung bình tổng sản lượng Ớt chuông ( 1dunam = 1000m2 ) Tiêu chuẩn đánh giá 2015 – 2016 2016 - 2017 2017 – 2018 Năng suất 8.5 8 9 (tấn/năm/dunam) (Nguồn: Thu thập số liệu từ trang trại) Qua bảng trên ta thấy lượng Ớt trung bình trên dunam qua các năm đều cao. Trên tổng 60 dunam (6 ha) của trang trại Tzu thì năm 2016 – 2017 có tổng trung bình sản lượng rất lớn là 540 tấn/ 6 ha. b. Chà là - Tùy vào thời kỳ sinh trưởng của cây mà chế độ tưới khác nhau. - Khi cây còn nhỏ, dọn sạch cỏ xung quanh gốc để cỏ khỏi lấn át Chà là mới trồng. - Mỗi năm vào tháng 12 cần phải cắt lá già, khô khi lá non mọc, cắt đến 5-10 lá già. Khi lá non mọc ra phải cắt gai để sau này khỏi bị chấn thương. - Cây Chà là nở hoa đón nhị đực trong 3 ngày, nếu có được thụ tinh thì kết trái ngay sau đó. Nếu không có phấn thụ tinh thì hoa héo đi sau 3 ngày kế tiếp. Ðể tăng khả năng đậu trái của hoa cái, ta có thể áp dụng biện pháp thụ tinh nhân tạo và biện pháp canh tác để tăng khả năng thụ phấn tự nhiên. - Khi mùa hoa nở, nhà vườn thu lấy phấn hoa đực và dùng bông nhúng vào phấn hoa đực rồi tung lên vòi nhụy cái vào mỗi sáng sớm. Nếu bảo quản tốt, phấn hoa Chà là có thể dùng trên một năm.
  49. 43 - Nếu để hoa đực nhờ gió côn trùng đưa phấn tới cho hoa cái thì trên một vườn nên trồng nhiều giống khác nhau để tăng cường thụ phấn ,làm như vậy sẽ tăng khả năng đậu quả cho Chà là. - Đến cuối tháng 8 hàng năm Chà là bắt đầu chín và được thu hoạch về kho đóng gói phân loại quả (tốt, baloon, nhỏ, trung bình, lớn), đóng hộp (loại 0,9kg, 1kg, 5kg) sau đó sẽ được chuyển đến kho lạnh để bảo quản. Hình 4.6: Đóng gói Chà là loại 5 kg Bảng 4.2: Trung bình tổng sản lượng Chà là (1dunam = 1000m2) Tiêu chuẩn đánh giá 2015-2016 2016-2017 2017-2018 Năng suất 8.5 9 8.5 (tấn/năm/dunam) ( Nguồn : Phiếu điều tra chủ trang trại) Bảng số liệu trung bình tổng lượng Chà là cho ta thấy sản lượng Chà là trung bình trên dunam qua các năm đều cao. Sản lượng Chà là cao nhất vào năm 2016 - 2017 là 360 tấn/4 ha.
  50. 44 4.2.2. Tình hình chế biến và tiêu thụ a. Ớt chuông - Thu hoạch liên tục 4-5 tháng. - Khi quả đạt kích thước tối đa, màu sắc chuyển từ xanh sang đỏ/vàng 90% quả có thể thu hoạch. - Khi thu hoạch tránh để trầy xước, quả bị dập sẽ làm hỏng và mất giá trị của quả. - Ớt chuông sau khi thu hoạch mang về kho phân loại theo kích cỡ ( lớn, trung bình, nhỏ) , loại ( tốt, không tốt) , sau quá trình làm sạch và chọn lọc Ớt chuông được phân loại bằng máy móc móc đạt chuẩn về cân nặng cho mỗi kích cỡ quả, từ quả nhỏ, quả trung bình, quả lớn và quả đem bán chợ. Mỗi loại quả sẽ được chạy ra các ô khac nhau và đóng hộp . Hình4.7: Hình ảnh Ớt được thu hoạch và mang vào packing house
  51. 45 - Sau khi đóng hộp, Ớt được chở đến kho đóng gói trung tâm và được chuyển đến công ty xuất khẩu . Trong đó 55% xuất khẩu đi các nước Châu Âu, 25% xuất khẩu sang Nga và 20% trong nước. Hình 4.8: Biểu đồ tiêu thụ Ớt chuông của trang trại Tzu 20% Châu Âu Nga 55% Trong nước 25% Hình 4.9: Hình ảnh Ớt chuông sau khi đóng hộp chờ xuất khẩu
  52. 46 b. Chà là - Thu hoạch liên tục từ 5 – 6 tháng. - Trước khi thu hoạch Chà là sẽ được cách ly với thuốc bảo vệ thực vật khoảng 10 - 15 ngày. - Khi quả đạt kích thước tối đa, màu sắc chuyển từ vàng sang nâu đỏ 90% quả thì có thể thu hoạch. - Khi thu tránh để trầy xước sẽ làm hỏng và mất giá trị của quả. - Chà là sau khi thu hoạch mang về kho phân loại theo kích cỡ (lớn, trung bình, nhỏ), loại (tốt, baloon), sau quá trình làm sạch và chọn lọc Chà là được phân loại bằng máy móc. Mỗi loại quả sẽ được chạy ra các ô ra khác nhau và đóng hộp. - Sau khi đóng hộp Chà là được trở đến kho lạnh bảo quản, nhiệt độ kho lạnh khoảng -50C đến -70C. - Chà là được xuất khẩu khắp các khu vực như Châu Âu, Nga, Đông Nam Á, với giá trị cao, mang lại nguồn thu lớn cho trang trại. Hình 4.10 : Biểu đồ tiêu thụ Chà là tại trang trại Tzu 5% 10% Châu Âu 10% 40% Trong nước Nga Đông Nam Á Bắc Mỹ 15% Úc 20%
  53. 47 Hình 4.11: Hình ảnh Chà là đóng hộp chờ xuất khẩu 4.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất 4.3.1. Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc quá trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định. Bản chất của hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động sản xuất, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu không thể thiếu trong đánh giá hiệu quả sử dụng đất, đây là căn cứ quan trọng để tìm ra giải pháp kỹ thuật và lựa chọn được loại hình sử dụng đất thích hợp. Để đánh giá được hiệu quả kinh tế tôi đã tiến hành điều tra thực địa và điều tra chủ trang trại theo mẫu phiếu điều tra về các chỉ tiêu: Năng suất, sản lượng, giá bán, chi phí vật chất, lao động (đánh giá hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất thông qua các chỉ tiêu: Giá trị sản suất, chi phí sản xuất, thu nhập thuần, hiệu quả đồng vốn, giá trị ngày công lao động).
  54. 48 a.Ớt chuông Hiệu quả kinh tế của cây Ớt chuông tính trên 1 dunam của trang trại (1dunam=1000 m2) được thể hiện qua bảng sau. Bảng 4.3: Hiệu quả kinh tế của Ớt chuông tại Trang trại Tzu- moshav Einyahav (1dunam = 1000m2, 1Shekel = 6.000 vnđ) Tiêu chuẩn đánh giá 2015-2016 2016-2017 2017-2018 Năng suất (tấn/dunam) 8.5 8 9 Giá trị sản phẩm 6 7 7.5 (Shekel/Kg) Chi phí sản xuất (vật liệu, 30.000 32.000 32.000 phân bón, thuốc trừ sâu, Shekel/dunam Shekel/dunam Shekel/dunam công lao động, ) Lợi nhuận (Shekel/Dunam) 21.000 24.000 35.500 Lợi nhuận trên 60 dunam- 1.260.000 1.440.000 2.100.000 6ha (Shekel) (Nguồn: Phiếu điều tra chủ trang trại) Sản lượng và giá Ớt chuông có xu hướng gia tăng: từ năm 2015 đến năm 2017 tăng 01 tấn/dunam và 02 Shekel/Kg. Đối với loại hình sử dụng này có chi phí sản xuất (vật liệu, phân bón, thuốc trừ sâu, công lao động, ), đầu tư thấp, thu nhập thuần lại ỏ mức trung bình nhưng hiệu quả sử dụng đồng vốn lại đạt mức cao và rất cao nguyên nhân do thị trường ổn định dẫn tới giá cả, giá trị sản phẩm cao. Kinh nghiệm canh tác, sản xuất lâu năm cùng với việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ đã góp phần nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng cũng như giá trị sản phẩm.
  55. 49 b.Chà là Chà là là loại cây đem lại hiệu quả kinh tế cao nếu được chăm sóc phù hợp. Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu tôi đã tiến hành điều tra trực tiếp chủ trang trại và thu được kết quả thể hiện qua bảng sau. Bảng 4.4: Hiệu quả kinh tế của cây Chà là tại trang trại Tzu (1dunam = 1000m2, 1Shekel = 6.000 vnđ) Tiêu chuẩn đánh giá 2015-2016 2016-2017 2017-2018 Năng suất( tấn/dunam) 8.5 9 8.5 Giá trị sản phẩm 35 35 40 (Shekel/Kg) Chi phí sản xuất (vật 40.000 40.000 40.000 liệu, phân bón, thuốc trừ Shekel/dunam Shekel/dunam Shekel/dunam sâu, công lao động, ) Lợi nhuận 257.500 275.000 257.500 (Shekel/Dunam) Lợi nhuận trên 40 10.030.000 11.000.000 10.030.000 dunam- 4ha ( skekel) (Nguồn: Phiếu điều tra chủ trang trại) Sản lượng và giá Chà là có xu hướng gia tăng: từ năm 2015 đến năm 2018 tăng 01 tấn/dunam và 05 Shekel/Kg. 4.3.2. Hiệu quả xã hội Hiệu quả xã hội là sự thu hút lao động của các loại hình sử dụng đất. Vì vậy loại hình sử dụng đất nào mang lại hiệu quả kinh tế cao sẽ có tác dụng tích cực đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống, thay đổi bộ mặt nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực, giảm tình trạng đói nghèo và giải quyết việc làm cho người dân. Loại hình sử dụng đất Ớt chuông và Chà là đã thu hút nhiều lao động trên địa bàn góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân, nâng cao đời sống nhân dân.
  56. 50 Hiệu quả xã hội của loại hình sử dụng đất được đánh giá thông qua các chỉ tiêu: Mức độ giải quyết việc làm, đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu nông hộ, khả năng thu hút lao động, yêu cầu về vốn đầu tư, sản phẩm tiêu thụ trên thị trường, đảm bảo đời sống của nhân dân, phù hợp với tập quán canh tác, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo. Bảng 4.5: Hiệu quả xã hội của Ớt chuông và Chà là tại trang trại Tzu – moshav Einyahav Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả xã hội Kiểu sử Mức độ Đáp ứng Tỷ lệ giảm Thu hút dụng đất giải quyết nhu cầu hộ đói Đánh giá lao động việc làm nông hộ nghèo Ớt chuông Cao Cao Cao Cao Cao Chà là Cao Cao Cao Cao Cao Qua bảng điều tra trên ta thấy Ớt chuông và Chà là được đánh giá là có hiệu quả xã hội cao là vì các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả xã hội của hai loại hình sử dụng đất đều ở mức “Cao”. Từ giai đoạn trồng cây, chăm sóc, thu hoạch đến giai đoạn đóng gói đều cần rất nhiều lao động đặc biệt là giai đoạn thu hoạch và đóng gói; Từ đó, giúp giải quyết công ăn việc, nâng cao mức thu nhập cho người lao động và giảm tỷ lệ đói nghèo. Tại khu vực này thu hút rất nhiều lao động trên thế giới, lao động lâu năm ở đây chủ yếu là công nhân Thái Lan, lao động hàng năm bao gồm rất nhiều du học sinh, sinh viên trên thế giới ( Việt Nam, Lào, Campuchia, Kenya, Cambudia, Myanmar ). 4.3.3. Hiệu quả môi trường Trong quá trình sử dụng đất, đất đai bị tác động bởi các yếu tố tự nhiên, thực trạng phát triển xã hội và việc khai thác sử dụng đất của con người. Tình trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên đất đang có chiều hướng gia tăng, dẫn đến việc chất lượng đất giảm dần, môi trường bị ô nhiễm, suy giảm đa dạng sinh học. Hiệu quả môi trường là sự tương tác giữa các loại hình sử dụng đất và phản ứng của môi trường. Để đạt hiệu quả môi trường thì sự tương tác đó là không làm
  57. 51 ảnh hưởng xấu đến môi trường, không làm suy thoái và ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường đất đối với sản xuất nông nghiệp. Qua đó góp phần bảo vệ và cải tạo môi trường. Để đánh giá hiệu quả môi trường của các loại hình sử dụng đất của trang trại Tzu em dựa vào đánh giá các chỉ tiêu sau: - Tỷ lệ che phủ; - Khả năng bảo vệ, cải tạo đất; - Mức độ ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật đến môi trường. Hiệu quả môi trường và mức độ ảnh hưởng của các loại hình sử dụng đất được thể hiện qua bảng sau: Bảng 4.6: Đánh giá hiệu quả môi trường của cây Ớt chuông và Chà là tại trang trại Kiểu sử dụng Tỷ lệ che Khả năng bảo Ảnh hưởng đất phủ vệ, cải tạo đất thuốc BVTV Đánh giá Ớt chuông Cao Cao Thấp Cao Chà là Cao Cao Thấp Cao ( Nguồn: số liệu thu thập tại trang trại) Qua bảng trên ta thấy cả hai loại hình sử dụng đất đều đạt hiệu quả cao về môi trường, bởi Chà là là cây lâu năm nên tỷ lệ che phủ rất cao (trong suốt quá trình sản xuất); còn Ớt chuông có tỷ lệ che phủ cao (vì thời gian đất nghỉ ngơi trong 1 năm là ngắn). Ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật đều ở mức thấp (ở đây khi phát hiện có sâu bệnh thường sử dụng các loài thiên địch là chủ yếu, thường thì lúc cây còn nhỏ sẽ bị sâu bệnh hại tấn công nhiều hơn, khi đến mùa thu hoạch thì rất ít khi phát hiện sâu bệnh do độ ẩm thấp sâu bệnh ít phát triển nên hầu hết là không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật). Như chúng ta biết thì thuốc BVTV rất có hại cho môi trường đất: thuốc BVTV giúp ta diệt được những sinh vật có hại: sâu, bọ, Nhưng bên cạnh đó thuốc BVTV cũng làm suy giảm các vi sinh vật có lợi cho đất như giun, mối, vậy nên biện pháp ưu tiên nhất vẫn là sử dụng các loài thiên địch và hệ thống nhà lưới nhà kính, để phòng chống sâu bệnh hại.
  58. 52 4.3.4. So sánh hiệu quả sử dụng đất giữa Ớt chuông và Chà là. Bảng 4.7: Hiệu quả sử dụng đất của Ớt chuông và Chà là giai đoạn 2017- 2018. Kiểu sử dụng Hiệu quả môi Hiệu quả kinh tế Hiệu quả xã hội đất trường Ớt chuông Thấp Cao Thấp Chà là Cao Cao Cao Tổng hiệu quả kinh tế mà hai loại hình sử dụng đất này đem lại cao nhất là giai đoạn năm 2017-2018. Qua bảng trên ta thấy được hiệu quả kinh tế của Ớt chuông ( 2.100.000 Shekel / 60 dunam) thấp hơn hiệu quả kinh tế của Chà là ( 10.030.000 shekel / 40 dunam). Cả hai loại hình sử dụng đất này đều mang hiệu quả xã hội cao, giải quyết được công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho nhiều lao động trên thế giới và trong nước. Tuy nhiên vì Chà là cây lâu năm nên tỷ lệ che phủ rất cao ( trong suốt quá trình sản xuất) còn Ớt chuông trong 1 năm đất sẽ nghỉ ngơi trong một thời gian ngắn. Vì vậy hiệu quả sử dụng đất của Chà là cao hơn hiệu quả sử dụng đất Ớt chuông. 4.3.5. Tính bền vững và khả năng áp dụng tại Việt Nam của cây Ớt chuông và Chà là a. Ớt chuông Loại hình sử dụng đất trồng Ớt chuông là loại hình đáp ứng được hiệu quả về cả 3 mặt kinh tế - xã hội – môi trường. Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, thu nhập chủ yếu là từ nông nghiệp. Vì vậy để năng cao mức thu nhập và tạo công ăn việc làm cho người dân, cũng như bảo vệ môi trường thì Việt Nam có thể ứng dụng công nghệ trồng Ớt chuông tại Việt Nam. Ưu tiên phát triển trồng Ớt chuông ở những nơi ít mưa, vì mưa nhiều sẽ gây trường hợp thối nhũn quả khi đang mùa vụ thu hoạch. Hoặc ở những nơi mưa nhiều có thể sử dụng phương pháp trồng Ớt chuông trong nhà kính. Tuy nhiên do khí hậu Việt Nam mưa nhiều và có độ ẩm cao nên sâu bệnh hại sẽ phát triển nhiều hơn, do đó đòi hỏi sự thông thái từ các nhà nghiên cứu và người
  59. 53 dân để tìm ra phương pháp tốt nhất để cải thiện sâu bệnh hại. Ngoài ra, hiện nay đầu ra của sản phẩm vẫn gặp nhiều khó khăn, không có sự cam kết đầu ra nên giá trị sản phẩm vẫn bấp bênh theo giá thị trường. Đây chính là điểm hạn chế lớn đòi hỏi các cơ quan chức năng như Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công Thương, có hướng hỗ trợ để những người dân ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất có đầu ra ổn định hơn. Nhà nước cần có hỗ trợ về giá, giống, phân bón, Cán bộ khuyến nông cần trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho bà con nông dân như: kỹ thuật làm đất, ươm hạt, bón phân Xây dựng các mô hình chuyên canh, vùng sản xuất theo hướng hàng hóa dựa trên lợi thế của từng vùng, việc sản xuất theo mô hình chuyên canh sẽ tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ, thuận lợi cho việc thu mua, bao tiêu sản phẩm. Cần có chính sách hỗ trợ nông dân về vốn đầu tư trồng mới và chăm sóc trong thời kỳ kiến thiết cơ bản. Tăng cường huy động nguồn vốn tự có của nhân dân và nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài của các tổ chức quốc tế, nguồn vốn từ ngân sách huyện, tỉnh và trung ương tham gia vào các chương trình phát triển cây ăn quả của huyện, xã. Mở các lớp tập huấn về kỹ thuật chăm sóc, sử dụng các loại thuốc phòng trừ sâu bệnh, áp dụng các biện pháp canh tác phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cây Ớt chuông. Tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm: Nắm bắt thông tin thị trường, thường xuyên theo dõi các thông tin, dự báo về thị trường sản phẩm nông sản để người sản xuất yên tâm, chủ động đầu tư. Áp dụng phương pháp quảng cáo, tuyên truyền về sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng, liên kết liên doanh tìm đối tác đầu tư gắn liền với tiêu thụ sản phẩm Ớt chuông rất có triển vọng phát triển trong tương lai. Vì vậy các cấp chính quyền cần tạo điều kiện để Ớt chuông được phát triển tại Việt Nam.
  60. 54 b.Chà là Vừa qua Phân viện Nghiên cứu lâm nghiệp (đơn vị thực thuộc Bộ nông nghiệp và PTNT) đã nhập khẩu giống Chà là và đang gieo ươm tại Trạm Thực nghiệm lâm nghiệp Phú Hài để phục vụ nhu cầu trồng rừng và phủ xanh ở tỉnh Phan Thiết. Phân viện đã trồng thử nghiệm 8,7ha tại Mũi Né với kết quả bước đầu cây đang sinh trưởng và phát triển tốt; dự kiến trong năm nay sẽ trồng với số lượng lớn. Với giá bán 5.000 đồng/cây giống tuy còn ở mức cao, nhưng đã mở ra triển vọng lớn trong công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở tỉnh Phan Thiết. Cây Chà là thường được dùng làm cây nội thất, cây xanh văn phòng hay cây sân vườn, thường được trồng chậu trang trí nội thất hoặc trồng thành bụi cây trong sân vườn trang trí vườn, sân, quán cafe Đối với những kiến trúc nhà biệt thự, có thể trồng cây nga mi trên hai lối đi dẫn vào nhà, tạo nên vẻ tự nhiên cho lối đi. Cây Chà là mang ý nghĩa sâu sắc về tình bạn. Có thể mua trang trí hay làm quà tặng đều mang ý nghĩa tình bạn. Phong thủy: Loại bỏ được tất cả các độc tố không khí trong nhà. Lá của cây có thể rủ xuống nhẹ nhàng nên sẽ làm dịu và phục hồi bất cứ môi trường nào cho dù là nhà ở hay văn phòng. 4.4. Thuận lợi, khó khăn, giải pháp, bài học kinh nghiệm. a. Thuận lợi - Có những mặt bằng rộng lớn, thuận lợi cho thành lập các vùng chuyên canh quy mô lớn. - Khí hậu cận xích dạo, nhiệt lượng dồi dào cùng với nguồn nước phong phú, là điều kiện thích hợp cho cây trồng phát triển; mùa khô kéo dài thuận lợi cho phơi sấy. - Nhiệt, ẩm có sự phân hóa theo độ cao thuận lợi cho cây trồng. - Nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn, khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cao.
  61. 55 b. Khó khăn - Hệ thống nhỏ giọt do sử dụng lâu sẽ bị tắc do muối bám nhiều khiến một số cây bị chết. - Hết vụ thu hoạch vẫn còn rất nhiều quả xanh không được tiêu thụ. - Sâu bệnh hại - Mùa mưa gây xói mòn đất, nhất là ở những nơi mất lớp phủ thực vật. - Mùa khô kéo dài gây trở ngại lớn cho sản xuất. c. Giải pháp - Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm sinh thái và bền vững thì các cơ quan chính quyền tại Việt Nam cần nâng cao khai thác tiềm năng đất đai theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa sản phẩm hàng hóa và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. - Thực hiện đồng bộ các giải pháp về chính sách, phát triển cơ sở hạ tầng, giải pháp về khoa học kỹ thuật, giải pháp về thị trường để thúc đẩy sản xuất. - Quá trình sử dụng đất phải gắn bó với việc cải tạo, bồi dưỡng và bảo vệ đất, bảo vệ môi trường. Theo đó, nghiên cứu để phát triển bền vững các loại hình trồng Ớt chuông, Chà là, nho tại Việt Nam tạo thêm thu nhập cho người dân và nâng cao các loại hình sản phẩm này tại Việt Nam. d. Bài học kinh nghiệm - Được tiếp xúc trực tiếp với mô hình sản xuất nông nghiệp với công nghệ cao, mô hình đóng gói Ớt chuông, Chà là, tại Israel. - Được thực tế lắp ráp đường ống phun sương, đường ống tưới nước nhỏ giọt ngay tại trang trại. - Được hướng dẫn các công đoạn từ việc làm đất, trồng cây, hái quả, đóng gói quả cho đến việc nhỏ nhất là dọn dẹp trang trại. Từ đó học hỏi, hiểu biết nhiều hơn về nông nghiệp hiện đại nước bạn, tìm ra một số điểm còn hạn chế của nông nghiệp nước nhà.
  62. 56 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Qua thời gian nghiên cứu, đánh giá sử dụng đất ở trang trại Tzu thuộc Moshav Ein Yahav em đã rút ra được một số nhận xét như sau: - Trang trại Tzu là một trang trại lớn thuộc Moshav Ein Yahav, Arava, Israel. Với tống diện tích là 100 dunam (10 ha), trong đó 60 dunam trồng Ớt chuông, 40 dunam trồng Chà là. - Thực trang sản xuất của trang trại Tzu : cả hai loại hình sử dụng đất này đều rất thích nghi với điều kiện đất đai, khí hậu và thời tiết ở đây. Trung bình tổng sản lượng trong 3 năm gần đây: Ớt chuông đạt 8.5 tấn/dunam, Chà là đạt 8.6tấn/dunam. - Hiệu quả sử dụng đất : Ớt chuông và Chà là là hai loại cây trồng không chỉ những đem lại hiệu quả kinh tế mà còn đem lại hiệu quả xã hội và môi trường. Giải quyết được công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho nhiều lao động trên thế giới và trong nước. Hiệu quả sử dụng đất của Chà là cao hơn hiệu quả sử dụng đất Ớt chuông về mặt hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Tổng hiệu quả kinh tế mà hai loại hình này đem lại cao nhất là giai đoạn năm 2017-2018, lợi nhuận thu về đạt 12.400.000 shekels (74 tỷ 400 triệu VNĐ/10ha) trong một năm. - Trang trại có nhiều thuận lợi như : có mặt bằng rộng lớn thuận lợi thành lập các vùng chuyên canh quy mô lớn, nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn, khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cao. Bên cạnh những thuận lợi cũng gặp môt số khó khăn như sau: hệ thống tưới nhỏ giọt sử dụng lâu sẽ bị tắc do muối bám nhiều khiến cây bị chết, hết mùa vụ thì rất nhiều quả xanh không được tiệu thụ, sâu bệnh hại, mùa khô kéo dài, mùa mưa gây sói mòn cục bộ tại nơi mất lớp phủ thực vật. 5.2. Kiến nghị Sau khi học tập và nghiên cứu tại trang trại Tzu em có kiến nghị như sau: Nhà trường cần tạo điều kiện để sinh viên được tiếp cận nhiều hơn với các mô hình công nghệ cao tại Israel (một nước đứng đầu về phát triển nông nghiệp trên
  63. 57 thế giới); phục vụ cho công tác học tập cũng như nghiên cứu tại trường. Từ đó, hiểu biết nhiều hơn về nông nghiệp hiện đại nước bạn, tìm ra một số điểm còn hạn chế của nông nghiệp nước nhà,đề xuất mô hình sản xuât phù hợp với điều kiện kinh tế và điều kiện khí hậu tại Việt Nam. Quá trình sử dụng đất phải gắn bó với việc cải tạo, bồi dưỡng và bảo vệ đất, bảo vệ môi trường. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về chinh sách, phát triển cơ sở hạ tầng, giải pháp về khoa học kỹ thuật, giải pháp về thị trường thúc đẩy sản xuất. Cần khai thác tiềm năng đất đai theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đang dạng hóa sản phẩm hàng hóa.
  64. 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tiếng Việt: b. Các Mác (1949), Tư bản Luận - Tập III, NXB Sự Thật, Hà Nội. c. CIA (2012), Đất nước/ lãnh thổ Israel. d. Đường Hồng Dật và các cộng sự (1994), Lịch sử nông nghiệp Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. e. Nguyễn Thế Đặng – Nguyễn Thế Hùng, 1999, Giáo trình đất, Nhà xuất bản Nông nghiệp. f. Phạm Vân Đình, Đỗ Kim Chung và các cộng sự (1997), Kinh tế nông nghiệp, NXB Nông nghiệp Hà Nội g. Phạm Duy Đoán (2004), Hỏi và đáp luật đất đai năm 2003, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. h. Quyền Đình Hà (1993), Đánh giá kinh tế đất vùng đồng bằng sông Hồng, Luận án Tiến sỹ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội. i. Đỗ Nguyên Hải (1999), “Xác định chỉ tiêu đánh giá chất lƣợng môi trƣờng trong quản lý sử dụng đất đai bền vững cho sản xuất nông nghiệp”, Khoa học đất, (11), trang 120. j. Nguyễn Đình Hợi (1993), Kinh tế tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh nông nghiệp, NXB Thống kê, Hà Nội. k. Cao Liêm (1996), Giáo trình quản lý đất lâm nghiệp, Hà Nội. l. Luật đất đai Việt Nam (2003), NXB Chính trị quốc gia. m. Nguyễn Đình Bồng (1995), Đánh giá tiềm năng sản xuất nông lâm nghiệp của loại đất trồng dồi núi trọc tỉnh Tuyên Quang theo phương pháp phân loại đất thích hợp, Luận án phó tiến sỹ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. n. Nông nghiệp Israel (Wikipedia – Bách khoa toàn thư mở) o. Nguyễn Ngọc Nông, Nông Thị Thu Huyền (2012), Giáo Trình Đánh Giá Đất, trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên. p. Nguyễn Sinh Cúc ( 2003)_Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ dổi mới (1986 – 2002 ), Nxb Thống kê, Hà Nội.
  65. 59 q. Hatzava, Israel ( Wikipedia – Bách khoa toàn thư mở) r. Đỗ Thị Lan (2001), Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sỹ, Đại học nông nghiệp, Hà Nội. s. Phạm Chí Thành, Đào Châu Thu và các cộng sự (1998), Hệ thống nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, trang 56. t. Nguyễn Duy Tính (1995), Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng ĐBSH và Bắc Trung bộ, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. u. Vũ Thị Phương Thụy (2000), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả kinh té sử dụng đất canh tác ở ngoại thành Hà Nội, Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học nông nghiệp, Hà Nội. v. Lương Văn Hinh và cs (2003), Giáo trình cây công nghiệp, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. w. Phạm Đình Phê và Cao Thị Lan ( 2001)_Sinh Thái học và bảo vệ môi trường, NXB Nông nghiệp,Hà Nội. x. Phạm Chí Thành (1998), Hệ thống nông nghiệp, Bài giảng hệ cao học, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội; y. Nguyễn Xuân Thảo (2004)Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. z. Phạm Chí Thành và Đào Châu Thu (1998) , Hệ thống nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. aa. Đào Châu Thu, Nguyễn Khang (1998), Giáo trình đánh giá đất, Trường Đại học Nông nghiệp I, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. bb. Vũ Việt Linh và Nguyễn Ngọc Bình (1995), Các hệ thống nông lâm kết hợp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. cc. Lê Đình Thái (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
  66. 60 dd. Đào Ngọc Dung và Trung Chính (2006), Việc làm, thu nhập và đời sống nông dân vùng đồng bằng sông Hồng, Báo Nhân dân số ra ngày 27 và 28 tháng 9 năm 2006. ee. Thế Dân (2001), Một số vấn đề khoa học công nghệ nông nghiệp thời ký công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Số 1/2001, Tr.75-85. ff. Vũ Thị Bình (2004), Tác động của việc chuyển đổi ruộng đất tới công tác quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở một số địa phương vùng đồng bằng sông Hồng”, Kỷ yếu hội thảo khoa học và quản lý đất đai và thị trường bất động sản, TPHCM tháng 3, Tr.48-54. gg. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, (2005), Tổng quan về cơ cấu và tình hình sản xuất lúa ở đồng bằng sông Hồng thời gian qua, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, Tr.210-220. hh. Webside: www.kinhtenongthon.com.vn , 2008)_An ninh lương thực vấn đề nóng nhất, Báo điện tử www.kinhtenongthon.com.vn/Story/kinhtethitruong/2008/4/ 10261.html. ii. Nguyễn Duy Tính (1995), Đề cương hệ thống nông nghiệp và phát triển trang trại, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tiếng Anh: jj. FAO (1994),The state of food and agriculture kk. FAO. 1976. A framework for land evaluation. FAO Soils Bulletin No. 32, Rome. ll. W.B World Development Report (1995), Development and the environment, World Bank, Washington. mm. Thomas Petermann - Enviromental Appraisals for Agricultural and Irrigated land Development, Zschortau 1996 nn. World Bank (2002), Implementing reform for faster growth and poverty reduction, world bank, Hanoi.
  67. 61 oo. De Kimpe ER & Warkentin B.P (1998), Soil Functions and Future of Natural Resources, Torwards Sustainable Land Use, Use, ISCO, Volumel 1, p.10, pp.3- 11 pp. World Bank (2001), Rural Development Strategy: Reaching the rural poor. Internet draft, July and August, 2001, Washington, D.C, U.S.A. qq. Dent F.J, (1992), Enviromental Issuse in Land and Water Development a Region Respective, In RAPA Publication No. 1992/8, FAO, Bangkok, Thai Lan, pp.52-74. rr. Smyth & Julian Dumaski, (1993), Planning for Sustainability in Agricultural Develop Projects.