Tiểu luận Những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống ngân hàng thương mại trên thế giới và cách ứng phó của ngân hàng Trung Ương

doc 49 trang yendo 5230
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống ngân hàng thương mại trên thế giới và cách ứng phó của ngân hàng Trung Ương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctieu_luan_nhung_bat_on_thuong_gap_hien_nay_trong_he_thong_ng.doc

Nội dung text: Tiểu luận Những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống ngân hàng thương mại trên thế giới và cách ứng phó của ngân hàng Trung Ương

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG === TIỂU LUẬN NHỮNG BẤT ỔN THƯỜNG GẶP HIỆN NAY TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THẾ GIỚI VÀ CÁCH ỨNG PHÓ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG Bộ Môn : Tài chính tiền tệ Giảng viên : TS. Nguyễn Thị Lan Nhóm thực hiện: Anh2- Kinh Doanh Quốc Tế - K51 Hà Nội, Tháng 9 năm 2013
  2. DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN 1. Nguyễn Thị Quỳnh Anh MSSV:1211510004 STT: 09 (Phần II, Tổng quát chung ) 2. Trần Ái Linh MSSV: 1211510040 STT: 72 (Lời mở đầu, phần I, Kết luận) 3. Nguyễn Hải Yến MSSV: 1211510075 STT: 141( Phần III, IV) 2
  3. MỤC LỤC DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN 2 LỜI MỞ ĐẦU 5 NỘI DUNG 7 I. Khái quát về ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương và mối quan hệ giữa chúng 7 1. Ngân hàng thương mại (NHTM) 7 2. Ngân hàng trung ương (NHTW) 10 3. Mối quan hệ giữa NHTM và NHTW 12 II. Những bất ổn thường gặp của hệ thống ngân hàng thương mại trên Thế giới.14 1. Rủi ro tín dụng 14 2. Rủi ro thanh khoản 20 3. Rủi ro lãi suất 23 4. Một số rủi ro khác 26 a. Nợ xấu 26 b. Rủi ro tỷ giá hối đoái 28 c. Rủi ro thiếu vốn khả dụng 28 d. Sở hữu chéo 29 e. Rửa tiền qua ngân hàng 32 f. Rủi ro công nghệ thông tin 33 III. Ứng phó của NHTW trước những bất ổn thường gặp của hệ thống NHTM trên thế giới: 34 1.Đối với bất ổn về tín dụng và bất ổn về tính thanh khoản: 35 3
  4. 2.Đối với các loại rủi ro khác: 38 IV. Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng - Đề xuất giải pháp áp dụng ở Việt Nam 40 1. Qui trình xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng 40 2. Áp dụng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng tại Việt Nam 44 KẾT LUẬN 47 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 48 4
  5. LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất trong mỗi quốc gia. Ngân hàng bao gồm nhiều loại nhưng nổi bật nhất là Ngân hàng trung ương (NHTW ) và Ngân hàng thương mại (NHTM). Nếu NHTW là có vai trò quyết định trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô qua chính sách tiền tệ thì NHTM là "dầu bôi trơn" giúp cho bộ máy kinh tế hoạt động thật sự hiệu quả. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống ngân hàng vẫn tồn tại những rủi ro và bất ổn. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới từ năm 2008 kéo dài đến hiện tại đã bóc trần những rủi ro của hệ thống ngân hàng. Việc cho vay dưới chuẩn của các NHTM Mỹ đã tạo nên cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử loài người. Vì vậy, đối với các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng, việc nghiên cứu và phối hợp các hoạt động của NHTM và NHTW là hết sức quan trọng và cần thiết nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững cho mỗi quốc gia. Trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO hơn 6 năm qua, tình hình kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến kinh tế trong nước. Việc nghiên cứu ngành ngân hàng là động lực cho nền kinh tế càng trở nên bức thiết. Vì vậy, nhóm tác giả quyết định lực chọn chủ đề "Những bát ổn trong hệ thống các ngân hàng thương mại hiện nay của các nước trên thế giới và cách ứng phó của ngân hàng trung ương" làm đề tài tiểu luận của mình. Bài tiểu luận được chia làm 4 phần. Ở phần đầu, nhóm tác giả tập trung làm rõ các khái niệm về ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương đồng thời nêu lên mối quan hệ mật thiết giữa chúng tạo nên cái nhìn tổng quan của hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia. Phần 2 của bài tiểu luận, nhóm tác giả đề cập đến những bất ổn của hệ thống các ngân hàng thương mại hiện nay. Trong phần 3, nhóm tác giả đề cập đến các giải phát của ngân hàng trung ương nhằm ứng phó với những bất ổn của hệ thống ngân hàng thương mại. Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng kinh tế và đề xuất cụ thể để áp dụng mô hình đó vào thực tiễn hệ thống tài chính Việt Nam được trình bày chi tiết vào phần cuối của bài tiểu luận. Dù đã rất cố gắng nhưng bài tiểu luận không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, vì vậy, nhóm tác giả rất mong nhận được sự góp ý từ phía các thầy cô và các bạn sinh viên để bài tiểu luận 5
  6. được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Lan đã giúp chúng em hoàn thành bài tiểu luận này! 6
  7. NỘI DUNG I. Khái quát về ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương và mối quan hệ giữa chúng 1. Ngân hàng thương mại (NHTM) a. Định nghĩa Trên thế giới tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng thương mại tùy thuộc vào góc độ nhìn nhận, luật pháp, thể chế của từng quốc gia. Vì thế, định nghĩa về NHTM là không giống nhau tại các quốc gia khác nhau. Theo định nghĩa của Mỹ : “NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính” . Theo Đạo luật Ngân hàng(1941) của Pháp: "NH là một doanh nghiệp với nghiệp vụ thường xuyên là nhận tiền của dân chúng dưới hình thức ký thác hay dưới hình thức khác và sử dụng nguồn lực đó trong các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng và tài chính" Theo pháp lệnh ngân hàng năm 1990 của Việt Nam : “NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán” . Theo Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng 2010 thì : "NHTM là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả hoạt động ngân hàng" Trong đó, hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh cung cấp thường xuyên hoặc một số nghiệp vụ sau đây: - Nhận tiền gửi - Cấp tín dụng - Cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm cũng như hoạt động của hệ thống NHTM, có thể hiểu tổng quát về ngân NHTM như sau: 7
  8. NHTM là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vưc tiền tệ với mục đích kiếm lời, cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. b.Các chức năng cơ bản của NHTM Chức năng trung gian tín dụng Chức năng trung gian tin dụng là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của NHTM. Với chức năng này, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa hai đối tượng: người tiết kiệm và người đầu tư. Nói cách khác, NHTM đóng vai trò là người đi vay đối với những người tiết kiệm và người đầu tư. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới, 80% lợi nhuận của Ngân hàng Công thương - Ngân hàng thương mại Quốc Doanh là thông qua hoạt động cho vay. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Sở dĩ đây là chức năng quan trọng nhất là bởi nó phản ánh được bản chất của NHTM là đi vay để cho vay, quyết định sự thành công hay suy tàn của một NHTM và là cơ sở hình thành nên các chức năng khác 8
  9. Chức năng trung gian thanh toán Chức năng trung gian thanh toán có nghĩa là ngân hàng đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác theo yêu cầu của họ Với chức năng này, NHTM đóng vai trò như một thủ quỹ cho các doanh nghiệp và các cá nhân tham gia gửi tiền, giúp họ thực hiện các hoạt động thanh toán thông qua việc trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để chi trả cho hoạt động mua sắm cũng như cập nhật các khoản thu vào tài khoản tiền gửi đó. Các NHTM cũng cung cấp nhiều công cụ thanh toán đa dạng và tiện lợi như séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, tùy theo nhu cầu, điều kiện của từng khách hàng giúp cho các chủ thể kinh tế tiết kiệm đáng kể thời gian, chi phí thanh toán, lại đảm bảo quá trình thanh toán của họ diễn ra an toàn do không phải giữ quá nhiều tiền mặt. Chức năng này đã mang lại thuận lợi cho các chủ thể kinh tế, góp phần phát triển kinh tế và tăng thêm lợi nhuận cho NHTM từ việc thu phí thanh toán. Chức năng tạo tiền Chức năng tạo tiền là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng. Từ một số dữ liệu ban đầu, thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần. Đó gọi là quá trình tạo tiền Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sẽ đem đầu tư, cho vay từ đó sẽ chuyern sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay vốn thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng. NHTM đã thực hiện được chức năng tạo tiền. Qua đây, ta có thể thấy các chức năng của NHTM gắn bó chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản, là cơ sở cho sự phát triển của hai chức năng còn lại. 9
  10. 2. Ngân hàng trung ương (NHTW) a. Khái niệm NHTW là một định chế công cộng, có thể độc lập hoặc trực thuộc chính phủ; thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng của Chính phủ và chịu trách nhiệm trong việc quản lý nhà nước và các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Khác với NHTM, nhiệm vụ cơ bản của NHTW là phát hành tiền tệ, đảm bạo sựa an toàn hoạt đông của hệ thống ngân hàng vì lợi ích của quốc gia. b. Các chức năng của NHTW Chức năng độc quyền phát hành tiền: NHTW là cơ quan duy nhất có quyền in và phát hành tiền mặt theo các quy định trong luật hoặc được Chính phủ phê duyệt với mục đích đảm bảo tính thống nhất và an toàn cho hệ thống tiền tệ của quốc gia. Tiền do NHTW phát hành tiền hợp pháp, mang tính cưỡng chế lưu hành, được chấp nhận trong toàn bộ các giao dịch của nền kinh tế. NHTW phát hành tiền dựa trên 2 nguyên tắc: phát hành tiền dựa vào dự trữ vàng đảm bảo; phát hành tiền có đảm bảo bằng hàng hóa. Kênh phát hành tiền của NHTW bao gồm : cho Nhà nước vay; qua nghiệp vụ thị trường mở; qua các NHTM và TCTD; qua thị trường vàng và ngoại tệ Là ngân hàng của các ngân hàng: NHTW không tham gia vào kinh doanh tiền tệ- tín dụng một cách trực tiếp với các chủ thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng với các ngân hàng trung gian. Những nghiệp vụ ấy bao gồm: * Mở tài khoản và nhận tiền gửi của các NHTM NHTW nhận tiền gửi của NHTM dưới hai hình thức, đó là tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán. Dự trữ bắt buộc là một quy định của NHTW về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các NHTM bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản và sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng dự trự bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn dự trữ bắt buộc. Nếu thiếu hụt tiền mặt, các NHTM phải vay thêm tiền mặt, 10
  11. thường là từ NHTW để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây cũng là một trong những công cụ của NHTW nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách thay đổi số nhân tiền tệ. Tuy nhiên, vai trò thực sự của tỷ lệ dự trữ bắt buộc thật sự đang dần phai mờ bởi hệ thống NHTM đã tăng tính thanh khoản của lượng tiền tín dụng, nhờ sự phát triển của thị trường tài chính những năm gần đây và xu hướng chứng khoán hóa trong hoạt động ngân hàng; ngoài ra còn có hình thức bảo hiểm tiền gửi ra đời, làm giảm thiểu khả năng xảy ra nhu cầu rút tiền mặt bất thường của khách hàng. Ngày nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nhắc đến như một công cụ để điều hành chính sách tiền tệ. Khi lạm phát cao, NHTW nâng tiền gửi dự trự bắt buộc, khả năng vho vay và khả năng thanh khoản của của các NHTM bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó, tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại , nếu NHTW hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền , thì cung về tín dụng của các NHTM cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời mở rộng khối lượng tiền. Tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá. Công cụ dự trữ bắt buộc giúp cắt "cơn sốt" lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp kinh tế chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hòa mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trự bắt buộc cũng rất nhạy cảm, vì chỉ một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn, khó khiển soát. Mặt khác, một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt cuộ để kiểm soát cung ứng tiền tệ sẽ gây nên vấn đề khả năng thanh khoản đối với các NHTM có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây nên tình trạng bất ổn trong hệ thống NHTM. Chính vị vậy, cần phải cân nhắc cẩn thận khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc. * Cho vay đối với các NHTM Quản lý vốn khả dụng cho NHTM: Vốn khả dụng của NHTM tại NHTW cso vai trò rất quan trọng, một mặt giúp cho các NHTM sử dụng vốn an toàn, có hiệu quả, tăng quay vòng vốn trong nền kinh tế; mặt khác, tạo điều kiện cho NHTW điều hành chính sách tiền tệ đã định. Theo Quyết định số 37\200\QĐ- NHNN ngày 24\01\2000 : "Quản lý vốn khả dụng của NHTM tại NHNN là sự kiểm soát của NHNN đối với sự thay đổi tiền gửi của các NHTM tại NHNN và thoogn qua sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở 11
  12. để tác động vào khả năng thanh toán của các NHTM nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ" Cứu nguy cho các NHTM : NHTW đảm nhận trách nhiệm người cho vay cuối cùng để cứ các NHTM khỏi ngay cơ phá sản dẫn đến sự đổ vỡ của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, NHTW là ngân hàng duy nhất có tiềm lực tại chính đủ mạnh để cứu các NHTM. * Là tổ chức thanh toán bù trừ giữa các NHTM Vì toàn bộ hệ thống NHTM đều phải tham gia gửi tiền tại NHTW nên chúng có thể thực hiện thanh toán thông qua chuyển khoản thông qua NHTW. Điều này góp phần tiết kiệm chi phí thanh toán cho các NHTM và toàn xã hội. Mặt khác, nhờ hoạt động này mà NHTW có thể kiểm tra sự biến động vốn khả dụng của từng ngân hàng trung gian, cơ sở để có biện pháp kiến nghị kịp thời Là ngân hàng của chính phủ: Với chức năng là ngân hàng của Chính phủ, NHTW có nhiệm vụ nhận tiền từ kho bạc và cho Chính phủ vay khi cần thiết. Bên cạnh đó, NHTW có nhiệm vụ tở chức các đợt phát hành trái phiếu, bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ. Chức năng quản lí nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Với chức năng quản lí nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và tín dụng, NHTW có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ; phê duyệt, cấp giấy phép và quy định quy chế hoạt động cho các NHTM. Đồng thời, NHTW cũng phải đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và thanh tra, kiểm tra hoạt động của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, NHTW cố vấn cho Chính phủ về chính sách tiền tệ và làm đại diện cho Chính phủ trong các mối quan hệ đôi ngoại về tiền tệ. 3. Mối quan hệ giữa NHTM và NHTW Qua những phân tích trên, có thể thấy tầm quan trọng của NHTM và NHTW và mối quan hệ chặt chẽ giữa NHTM và NHTW. Có thể nói, NHTW là đầu não điề khiển mọi hoạt động của các NHTM. Vậy nên, chính phủ cần hiểu rõ mối quan hệ giữa NHTM và NHTW để có những điều chỉnh kịp thời, đồng thời giúp bộ máy ngân hàng vận hành trơn tru. 12
  13. a. Quan hệ quyền lực Thứ nhất, NHTM có vai trò vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia nên NHTW các nước đều được luật pháp cho phép có nhiều thẩm quyền đối với các NHTM, nhằm mục đích thực thi chính sách tiền tệ, giữ cho hệ thống ngân hàng lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. NHTW có quyền yều cầu các NHTM phải ký gửi một phần tổng tiền gửi mà họ nhận được từ mọi giới theo một tỷ dự trữ bắt buộc. NHTW ấn định lượng tiền gửi bắt cuộ và tăng giảm tùy theo tình hình kinh tế, chính sách tiền tệ. Thứ hai, NHTW được quyền kiểm soát các đơn xin thành lập NHTM, đưa ra các tiêu chuẩn để thành lập một NHTM và chế tài các vụ việc vi phạm luật ngân hàng. Thứ ba, NHTW có nhiệm vụ thanh tra, kiểm soát quá trình hoạt động của các ngân hàng trung gian nhằm đảm bảo hệ thống hoạt động lành mạnh, đề phòng rủi ro có thể xảy ra, dẫn tới đổ vỡ chung của hệ thống ngân hàng. Cuối cùng, NHTW được quyền ấn định mức lãi suất, lệ phí hoa hồng áp dụng cho NHTM, các thể lệ điều hành các nghiệp vụ ngân hàng Không chỉ có quan hệ về mặt quyền lực, các NHTM còn được sự hậu thuẫn của NHTW về nhiều mặt để giải quyết những bất ổn thường thấy trong hệ thống NHTM. b. Quan hệ trợ giúp: NHTW là ngân hàng của các ngân hàng, do đó NHTW có nghĩa vụ giúp đỡ, sử dụng quyền hạn của mình để tạo điều kiện giúp đỡ, thúc đẩy sự phát triển của các NHTM sao cho các NHTM hoạt động hiệu quả nhất. Các hình thức trợ giúp có thể bao gồm: NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới nhiều hình thức như cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với giấy tờ có giá của NHTM. Để ngăn ngờ nguy cơ vỡ nợ cho các NHTM và đảm bảo sự an toàn cho hệ thống ngân hàng, NHTW đã trở thành người cho vay cuối cùng, cung cấp tín dụng , góp phần đưa hoạt động của NHTM này ổn định trở lại. Mức lãi suất cho vay khi đó thường là lãi suất phạt và ngân hàng nhận hỗ trợ tín dụng phải chịu nhiều điều kiện ngặt nghèo của NHTW. Cung cấp những tiện nghi ngân hàng cho các ngân hàng trung gian. 13
  14. Giúp các ngân hàng thanh toán các món nợ với nhau mà không phải di chuyển tiền bạc bằng cách thiết lập phòng giao dịch bán tại trụ sở của mình. NHTW thành lập những trung tâm rủi ro ngân hàng, trong đó có trung tâm séc không tiền bảo chứng. II. Những bất ổn thường gặp của hệ thống ngân hàng thương mại trên Thế giới. 1. Rủi ro tín dụng a. Khái niệm rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là rủi ro do một hoặc một nhóm khách hàng không thực hiện được các nghĩa vụ tài chính với ngân hàng; hay nói cách khác, đó là khả năng không chi trả được nợ của người đi vay đối với người cho vay khi đến hạn phải thanh toán. Ngoài ra, khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân hàng cấp tín dụng cũng được coi là rủi ro tín dụng. Ngày nay, nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, cải tiến trang thiết bị kỹ thuật, nâng cao công nghệ và các nhu cầu phục vụ sản xuất kinh doanh luôn tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu này, các NHTM cũng phải luôn mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, điêu đó có nghĩa là rủi ro tín dụng cũng phát sinh nhiều hơn. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp nhất, việc quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn, nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào Rủi ro tín dụng nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời sẽ nảy sinh các rủi ro khác. Trên thực tế, hoạt động cho vay là hoạt động lớn nhất và chủ yếu của ngân hàng thương mại. Thông thường ở các nước, nghiệp vụ này mang lại 2/3 thu nhập cho ngân hàng, còn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại thường chiếm 90% tổng thu nhập của mỗi ngân hàng. Thêm vào đó, các khoản tiền vay bao giờ cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn với những tài sản có khác nên rủi ro tín dụng đối với NHTM là rất lớn. b.Biểu hiện của rủi ro tín dụng Khi tiến hành cấp tín dụng các ngân hàng thương mại đều mong muốn khoản tín dụng được hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn như đã thoả thuận. Chính vì thế, sau khi cấp tín dụng cho 14
  15. khách hang, NHTM thực hiện theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay của họ. Nếu thấy có biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích hoặc có sự khác thường có thể dán đến việc không hoàn trả được vốn vay của khách hàng, NHTM phải tìm biện pháp ngăn ngừa, can thiệp kịp thời. Các biểu hiện thường gặp là: Khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính hoặc không cung cấp được những thông tin mà ngân hàng yêu cầu. Sử dụng tín dụng sai mục đích ban đầu Số tiền gửi giảm sút. Lưỡng lự chậm chễ khi dàn xếp những cuộc viếng thăm cơ sở sản xuất kinh doanh của cán bộ ngân hàng, có sự suy giảm trong bầu không khí tin cậy và hợp tác, có sự lạnh nhạt với ngân hàng ngay sau khi nhận được vốn vay. Khách hàng có ý xin hoãn nợ hoặc khất nợ, gia hạn nợ, chậm chễ trong việc thanh toán lãi hàng kỳ, hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá kỳ hạn, không được trả như cam kết. Các dấu hiệu trên đây là biểu hiện của những khó khăn về mặt tài chính từ phía người đi vay, các dấu hiệu này xuất hiện là có khả năng khách hàng khó hoàn trả các món vay. Vì vậy, chúng là cơ sở để ngân hàng tìm hiểu biện pháp điều chỉnh và ngăn chặn kịp thời, tránh những khoản nợ quá hạn có thể gây rủi ro tín dụng. c. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng Nguyên nhân khách quan * Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định Hiện nay, thị trường thế giới đang phải đối mặt với sự biến động quá nhanh, thất thường và khó dự đoán trước. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2007 (xuất phát từ sự kiện “bong bóng bất động sản” trên thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp tại Mỹ) đã dẫn tới sự đổ vỡ hàng loạt của hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ 15
  16. quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới. Nền kinh tế của nhiều quốc gia đã rơi vào suy thoái và cho tới nay vẫn chưa thể thoát ra được. Từ đầu năm 2012 tới nay, một vài quốc gia đã có dấu hiệu dần dần giải quyết được hậu quả của suy thoái như : Pháp và Đức đã đạt tốc độ tăng trưởng 0,2% trong quý III; GDP của Mỹ tăng trưởng 1,3% trong quý II và 2,7% trong quý III; GDP của Vương quốc Anh tăng 1,0% trong quý III, mức tăng mạnh nhất trong vòng năm qua . . Tuy nhiên tổng quan tình hình kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn. Mới đây, các chuyên gia kinh tế đã dự báo khả năng quay lại vòng xoáy khủng hoảng của các nước trong khối EU trong quý IV này. Tình hình khủng hoảng kéo dài và khó dứt này khiến cho hoạt động kinh doanh nói chung gặp rủi ro rất lớn và khả năng vỡ nợ, nợ xấu tăng cao. Ngoài ra, cũng cần kể tới những nguyên nhân bất khả kháng dẫn tới sự bất ổn của nền kinh tế như thiên tai, chiến tranh, các biến động chính trị đang có xu hướng gia tăng. Hay sự thay đổi về chính sách của Nhà nước, các chính sách về ngoại tệ, xuất nhập khẩu, ngoại hối. * Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi tại các quốc gia đang và chậm phát triển Hiện nay tại các quốc gia đang và chậm phát triển mạnh, các bộ luật về tài chính và kinh doanh vẫn còn chưa được xây dựng một cách rõ ràng, kịp thời và thiếu đồng bộ, thường xuyên phải thay đổi, chỉnh sửa. Điều này khiến cho các quy định và công tác xử lý vi phạm chưa được triệt để, còn nhiều lỗ hổng và sai sót. * Rủi ro do sự bất cân xứng về thông tin trên thị trường Trên thị trường cạnh tranh không hoàn hảo như hiện nay, việc ngân hàng không được cung cấp các thông tin cần thiết về khách hàng và ngược lại, việc khách hàng không có đủ thông tin về các ngân hàng sẽ dẫn tới những hiện tượng sau : Sự lựa chọn đối nghịch: Do thông tin bị che đậy, bóp méo, ngân hàng quyết định cho vay với khách hàng không đủ khả năng trả nợ ( VD: doanh nghiệp sắp phá sản, người đang bị siết sợ, ) Rủi ro đạo đức: Do thiếu thông tin dẫn tới giám sát không đầu đủ, ngân hàng không biết được khách hàng đã có những hành động vi phạm thoả thuận với ngân hàng như sử dụng tiền vay sai mục đích, trốn nợ 16
  17. Nguyên nhân chủ quan * Nguyên nhân từ phía khách hàng Đối với khách hàng là cá nhân: Người vay bị thất nghiệp (có thể tạm thời hay kéo dài) dẫn đến không có thu nhập và không đảm bảo được khả năng trả nợ. Những biến cố bất thường trong cuộc sống gây khó khăn tài chính cho khách hàng như: ốm đau, tai nạn, chết, li dị Người đi vay hoạch định ngân quỹ không chính xác. Đối với khách hàng là doanh nghiệp: Rủi ro do thị trường cung cấp: Thị trường cung cấp không có khả năng thỏa mãn số lượng và chất lượng nguyên vật liệu mà doanh nghiệp yêu cầu. Thiệt hại về giá cả khi nguyên vật liệu cung cấp cho doanh nghiệp không đáp ứng được các yêu cầu, phẩm chất, quy cách. Doanh nghiệp không đạt được chỉ tiêu sản xuất, số lượng tiêu thụ và doanh thu như dự tính. Rủi ro do thị trường tiêu thụ : Sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra có số lượng quá lớn vượt nhu cầu thị trường hoặc có chất lượng không đáp ứng được yêu cầu của thị trường (Do khâu nghiên cứu thị trường thực hiện chưa tốt) nên số lượng hàng hoá lớn làm ứ đọng sản phẩm trong kho ; Thiệt hại về giá: Doanh nghiệp buộc phải giảm giá bán sản phẩm hàng hoá thấp hơn mức giá dự kiến ban đầu. Thiệt hại về giá: Doanh nghiệp buộc phải giảm giá bán để tiêu thụ sản phẩm, khiến doanh thu giảm sút so với dự kiến. Thiệt hại về chất lượng sản phẩm hàng hoá do doanh nghiệp cung cấp không đáp ứng được yêu cầu thị trường. Do công nghệ không phù hợp, do khâu bảo quản không tốt, do hao mòn vô hình, do người tiêu dùng thay đổi thị hiếu làm cho sản phẩm không bán được, hoặc khó bán. Vì thế doanh nghiệp khó có khả năng trả nợ. 17
  18. Rủi ro do yếu kém về tài chính: doanh nghiệp không thể đối phó với các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi tiền vay cho chủ nợ. * Nguyên nhân từ phía ngân hàng Do chính sách cho vay của ngân hàng không hợp lý, quá chú trọng về mục tiêu lợi nhuận nên bỏ qua những khoản cho vay lành mạnh. Do ngân hàng không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không chính xác việc phân tích đánh giá khả năng tín dụng của người vay. Do ngân hàng không thường xuyên thực hiện việc kiểm tra giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng tiền vay. Do ngân hàng thực hiện việc đánh giá, đảm bảo tín dụng không tốt hoặc không đầy đủ theo các quy định của pháp luật. (tài sản có đủ điều kiện pháp lý, phải có tính thị trường, có giá trị ổn định) Do cán bộ tín dụng thiếu trình độ chuyên môn cần thiết, thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc có tư cách phẩm chất không tốt cố tình làm sai nguyên tắc trong quá trình thực hiện cho vay. Ngân hàng đã quyết định cho vay chỉ dựa trên cơ sở quy mô hoạt động của doanh nghiệp mà không căn cứ vào khả năng tài chính của doanh nghiệp. Do giá trị của tài sản biến động giảm quá mức dự kiến của ngân hàng. d. Hậu quả của rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, đa dạng và phức tạp nhất, thường xuyên xảy ra và thường gây hậu quả nặng nề nhất bởi nó làm phát sinh những rủi ro khác đối với hệ thống NHTM. Từ khái niệm về rủi ro tín dụng ta thấy rằng rủi ro tín dụng là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, vi phạm các đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự hoàn trả và tính thời hạn. Gây nên sự đổ vỡ lòng tin của người cấp tín dụng với người nhận tín dụng 18
  19. Về bản chất, đây là loại rủi ro đa dạng và phức tạp, rất khó quản lý và thường xuyên là nguyên nhân dẫn đến rủi ro khác, rủi ro tín dụng của một ngân hàng thể hiện ra bên ngoài chính là khối lượng nợ quá hạn mà ngân hàng đó phải gánh chịu. Khi rủi ro tín dụng nảy sinh, tuỳ theo mức độ mà nó gây ra những tác hại nghiêm trọng không chỉ với hệ thống ngân hàng, với người vay và còn cả với nền kinh tế và xã hội. Đối với ngân hàng thương mại. Ở mức độ thấp rủi ro tín dụng là mất đi cơ hội, khả năng tích luỹ vốn, làm giảm sức mạnh của ngân hang, ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh lâu dài của ngân hàng. Đối với người đi vay. Thông thường rủi ro tín dụng là hệ quả của rủi ro kinh doanh của khách hàng. Với nợ quá hạn người đi vay hoàn toàn mất nguồn tài trợ từ các ngân hàng, cơ hội kinh doanh sẽ tuột mất, tài sản sẽ bị tịch thu hoặc phát mại, người đi vay sẽ đứng trước nguy cơ phá sản. Đối với nền kinh tế xã hội. Rủi ro tín dụng chứng tỏ người vay vốn đã không thực hiện được hiệu quả đầu tư như đặt ra khi vay vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại. Do đó lợi ích kinh tế xã hội dự kiến nhận được đã không có, sản xuất và lưu thông hàng hoá sẽ đình trệ, chức năng làm công cụ điều tiết nền kinh tế sẽ bị suy yếu. Quyền lợi của người gửi tiền sẽ không được đảm bảo. Lịch sử hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thế giới đã chứng kiến không ít các Ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm chí không giới hạn trong một quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực thậm chí là cả châu lục. e. Ví dụ về rủi ro tín dụng Một trong những ví dụ nổi bật và gần đây nhất về rủi ro tín dụng là hiện tượng “bong bóng bất động sản” trên thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp tại Mỹ năm 2007. Nhằm cứu nền kinh tế nước khỏi cuộc suy thoái kéo dài suốt 3 năm từ 2001 – 2003, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng khiến cho tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo. Điều này kích thích sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong môi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm, thậm chí cho những người nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả 19
  20. là hiện tượng cho vay và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Tới đầu năm 2007, bong bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ, khiến cho các cá nhân đi vay không trả được nợ, kéo theo đó là tổ chức tín dụng cho vay mua nhà không đòi được nợ, xếp hạng tín dụng tụt hạng và cổ phiếu bị mất giá mạnh. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng lún sâu vào khủng hoảng và dẫn tới sự phá sản hàng loạt. 2. Rủi ro thanh khoản a. Khái niệm rủi ro thanh khoản Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền, hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng các nhu cầu của các hợp đồng thanh toán. Rủi ro thanh khoản xảy ra khi cung về tiền ít hơn cầu về tiền. Rủi ro thanh khoản liên quan đến khả năng chuyển các tài sản chính thành tiền một cách nhanh chóng mà không chịu thất thoát về giá cả. Như vậy, nói một cách khác rủi ro thanh khoản là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp ứng các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán, hoặc lượng tiền được rút đột ngột tăng do biến cố kinh tế - chính trị nào đó. b. Nguyên nhân rủi ro thanh khoản Dòng vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế trong xã hội vào các NHTM bị hạn chế do tác động của lạm phát và lòng tin. Về phía các NHTM, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong bối cảnh đó, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt một cách quyết liệt nhằm thu về một khối lượng tiền mặt đồng Việt Nam khá lớn từ lưu thông thì một số NHTM không thể xoay chuyển kịp thời, bị mất thanh khoản do cơ cấu đầu tư Nguyên nhân khách quan: 20
  21. Thay đổi trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN thông qua các công cụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các loại lãi suất như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất thịtrường mở Thay đổi lựa chọn kênh đầu tư của các nhà đầu tư. Do tình trạng khủng hoảng của nền kinh tế, khủng hoảng khu vực tài chính, Các tin đồn thất thiệt gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong nhân dân, từ đó dẫn tới hiện tượng lượng tiền rút khỏi ngân hàng tăng đột biến. Nguyên nhân chủ quan từ nội bộ ngân hàng Ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn từ các cá nhân và định chế tài chính khác, sau đó chuyển hoá chúng thành những tài sản đầu tư dài hạn. Cho nên, đã xãy ra tình trạng mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, mà thường gặp là dòng tiền thu về từ tài sản đầu tư nhỏ hơn dòng tiền chi ra để trả các khoản tiền gửi đến hạn. Tác động của sự thay đổi của lãi suất đến người gửi tiền và người vay vốn. Khi lãi suất giả, một số người gửi tiền rút vốn khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn, còn những người đi vay tích cực tiếp cận các khoản tín dụng vì lãi suất đã thấp hơn trước. Như vậy, rốt cuộc lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Do ngân hàng đưa ra những chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản không phù hợp và kém hiệu quả như : các chứng khoán đang sở hữu có tính thanh khoản thấp, dự trữ của ngân hàng không đủ cho nhu cầu chi trả Ngoài ra, rủi ro thanh khoản có thể xảy ra do các nguyên nhân chủ quan khác như : Ngân hàng không dự tính trước nhu cầu tài trợ khoản cho vay, không đáp ứng được nhu cầu rút tiền ngay của khách hàng. Thiếu đa dạng hóa các loại hình tài trợ, các loại tiền sử dụng trong giao dịch. Sự mất cân đối về thời gian đáo hạn. Sự suy giảm uy tín đối với công chúng. c. Hậu quả của rủi ro thanh khoản 21
  22. Rủi ro thanh khoản là một trong những rủi ro nguy hiểm nhất và liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Nếu không đáp ứng được các nhu cầu thanh toán, ngân hàng có thể bị mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản. Rủi ro thanh khoản làm giảm tính thanh khoản hay tính linh động của ngân hàng, từ đó gây rủi ro đối với tài sản tài chính của cá nhân và doanh nghiệp và ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng, gây khó khăn cho hoạt động vay và cho vay vốn tín dụng, đẩy mức lãi suất trong ngắn hạn lên cao ( thậm chí xấp xỉ mức lãi suất tiền gửi dài hạn như trường hợp của thị trường liên ngân hàng Việt Nam những tháng đầu năm 2011 ), buộc ngân hàng phải đi vay để tài trợ cho các khoản tín dụng do lượng vốn huy động được giảm trong khi chỉ số tín dụng trên tổng huy động lại tăng. Khi những ngân hàng đi vay trên thị trường liên ngân hàng đó không còn tiền mặt để cho vay và trả nợ đến hạn sẽ dẫn tới khủng hoảng thanh khoản đối với hệ thống ngân hàng và gián tiếp gây ra các cuộc khủng hoảng kinh tế khác (khủng hoảng tài chính, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng nợ ). d. Ví dụ về rủi ro thanh khoản Một trong những ví dụ điển hình về rủi ro thanh khoản là “ Thảm họa Northern Rock” , sự sụp đổ của một đơn vị tài chính được tin tưởng và nhiều người mơ ước nhất nước Anh. Mô hình kinh doanh của Northern Rock như mọi ngân hàng khác là thu hút tiền gửi vào và dùng số tiền đó cho vay thế chấp. Theo nhận định của Northern Rock thị trường cho vay thế chấp là khá lành mạnh. Vì thế Northern Rock áp dụng chiến lược huy động vốn là 25% lấy từ khoản tiền gửi tiết kiệm, 25% từ thị trường tiền tệ bán buôn (vay liên ngân hàng) và 50% từ việc chứng khoán hóa (bán những khoản thu nhập tương lai từ khoản vay thế chấp cho các nhà đầu tư dài hạn). Mô hình huy động vốn này có nghĩa là Northern Rock bán một nửa hợp đồng cho vay cho các nhà đầu tư hơn là nắm giữ nó cho tới khi đáo hạn. Và đây chính là mô hình kinh doanh hoạt động hiệu quả của Northern Rock trong rất nhiều năm. Cho tới năm 2007, sau khi tỷ lệ lãi suất liên ngân hàng tăng cao 3 lần liên tục, ngân hàng này gặp khó khăn trong việc huy động nguồn vốn cho vay và buộc phải tìm kiếm đối tác để bán bớt những bộ phận kinh doanh nhỏ của mình. Northern Rock thậm chí đã liên lạc với các cơ quan tài chính của chính phủ cũng như Ngân hàng Trung ương Anh ( BoE ) để nhờ trợ giúp. Tuy nhiên, những thông tin bí mật về các cuộc trao đổi này bị giới truyền thông biết được. Báo chí dồn dập đưa ra những dự đoán về nguy cơ vỡ nợ, cũng như nguy cơ với người gửi tiền 22
  23. khiến cố phiếu của Northern Rock rớt không phanh, các nhà đầu tư tức giận và từng đoàn người nườm nượp kéo đến các chi nhánh của Northern Rock rút tiền gây nên cảnh hỗn loạn. Trong 3 ngày 14, 15 và 17/9/2007 khoảng 3 tỷ bảng Anh đã được rút ra. BoE đã phải hỗ trợ bằng cách bơm một lượng lớn tiền mặt cho Northern Rock song vẫn không cứu vãn được tình hình. Sau thất bại của Chính phủ Anh trong những nỗ lực đàm phán với các thể chế tài chính lớn trên thế giới nhằm giải cứu Northern Rock, ngày 21 tháng 2 năm 2008 Northern Rock chính thức bị quốc hữu hóa. 3. Rủi ro lãi suất a. Khái niệm rủi ro lãi suất Rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất trên thị trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất, dẫn đến tổn thất về mặt tài sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng. Rủi ro lãi suất trong huy động vốn và trong hoạt động cho vay là những nhân tố gây ảnh hưởng lớn và khá thường xuyên đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng bởi nó tác động tới giá trị đầu tư, lợi nhuận của và giá của chứng khoán lợi tức cố định. Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền kinh tế, lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm đối với biến động của nền kinh tế; hơn nữa, nó là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Vì vậy, rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện thường xuyên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. b. Nguyên nhân của rủi ro lãi suất Nguyên nhân chủ quan * Sự không cân xứng giữa các kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có của NHTM Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn ( tài sản nợ ) và tài sản được đo bằng khe hở lãi suất : Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất – Nguồn nhạy cảm lãi suất Các tài sản và nguồn nhạy cảm thường là các tài sản mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thay đổi, ví dụ như khoản tiền gửi ngắn hạn , các khoản cho vay và đi 23
  24. vay trên thi trường liên ngân hàng, chứng khoán ngắn hạn của chính phủ, các khoản cho vay ngắn hạn . Các loại tài sản ít nhạy cảm hơn là tài sản và nguồn trung và dài hạn với lãi suất cố định. Ví dụ, một khoản tiền gửi tiết kiệm 3 tháng (100 tỷ) với lãi suất 10%/năm. Khi lãi suất thị trường thay dổi ( tăng hoặc giảm) , thì khoản tiền này ( 100 tỷ )sẽ nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới. Ngược lại, với khoản tiết kiệm 3 năm, khi lãi suất thị trường thay đổi, chỉ một phần nhỏ sắp đến hạn, hoặc mới gửi có khả năng chuyển sang lãi suất mới. Ngân hàng có khe hở dương nếu tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm (kì hạn huy động dài hơn sử dụng). * Những nguyên nhân khác Do bất lợi trong cạnh tranh, buộc ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và hạ lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Do ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng nên tạo ra các tài sản và nguồn kém nhạy cảm với lãi suất. Nguyên nhân khách quan * Sự biến động của lãi suất thị trường Lãi suất thị trường thường xuyên thay đổi, do đó ngân hàng luôn phải nghiên cứu và dự báo lãi suất. Tuy nhiên , trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính xác mức độ thay đổi của lãi suất nên không điều chỉnh kịp thời khe hở lãi suất. * Những nhân tố làm biến đổi lãi suất 24
  25. Các trường hợp gây rủi ro lãi suất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Rủi ro lãi suất trong huy động vốn: Đây là trường hợp rủi ro khi ngân hàng huy động quá nhiều tiền gửi có kì hạn dài, lãi suất cao nhưng sau đó lãi suất thị trường lại giảm xuống do điều hành của chính phủ hay do quan hệ cung cầu . Ví dụ như trường hợp điều tiết lãi suất của NHNN vào những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 cũng khiến nhiều ngân hàng gặp phỉ rủi ro lãi suất. Rủi ro lãi suất trong cho vay: Đây là loại rủi ro có ảnh hưởng khá lớn và thường xuyên vì hoạt động kinh doanh chủ yếu cuả các NHTM Vịêt Nam vẫn hoạt động cho vay và tỉ lệ thu nhập từ lãi chiếm tỉ trọng lớn trong thu nhập của ngân hàng. Rủi ro lãi suất trong cho vay: xảy ra khi lãi suất thị trường giảm, các ngân hàng phải cho vay với lãi suất thị trường trong khi đã huy động vốn mới mức lãi suất cao hơn. Thêm vào đó là sự cạnh trnah giữa các ngân hàng cũng làm cho mức lãi suất luôn biến đổi. Khi lãi suất cơ bản tăng lãi suất huy động cũng sẽ tăng, tuy nhiên chỉ áp dụng đối với các khoản cho vay mới phát sinh, còn các khoản dư nợ hiện hành của ngân hàng thương mại đặc biệt là các khoản cho vay trung và dài hạn có lãi suât danh nghĩa ghi trên hợp đồng ở mức thấp thì rất dễ gặp rủi ro 25
  26. tín dụng. Trong thực tế, có rất ít ngân hàng có đủ cơ cấu cân đối giữa nguồn vốn trung, dài hạn với dư nợ trung, dài hạn, nhiều trường hợp trong khi chi phí huy động tăng nhưng thu nhập của các khoản cho vay trung và dài hạn vẫn thực hiện theo như hợp đồng tín dụng sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng. Rủi ro lãi suất do sự thay đổi cung cầu vốn trên thị trường liên ngân hàng: Các khoản vay và cho vay trên thị trường này thường rất ngắn, lãi suất cũng thường xuyên biến đổi. Các NHTM vay vốn chủ yếu để đảm bảo khả năng thanh khoản và chênh lệch lãi suất song cũng phải có sự phân tích lãi suất một cách cận thận vì rất dễ gặp rủi ro. c. Ví dụ về rủi ro lãi suất Một ví dụ điển hình của loại rủi ro này tại Việt Nam là thời điểm 9 tháng đầu năm 2008, khi cuộc đua tăng lãi suất huy động bùng nổ, nhiều NHTM ( đặc biệt là các NHTM nhỏ có nguy cơ mất khả năng thanh khoản ) đã liên tục tăng lãi suất huy động. Nhưng sau đó, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lãi suất đã đồng loạt giảm mạnh khiến hầu hết các NHTM tại Việt Nam thời điểm đó gặp rủi ro lãi suất. 4. Một số rủi ro khác a. Nợ xấu Nợ xấu là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp. Nợ xấu của Việt Nam hiện chủ yếu rơi vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng, là những lĩnh vực thời gian qua chịu sự tác động từ sự đóng băng kéo dài của thị trường bất động sản. Theo số liệu của NHNN, tính đến cuối tháng 5/2012, dư nợ cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản khoảng 197.000 tỷ đồng. Nó chỉ chiếm một tỷ lệ không phải là lớn trong tổng dư nợ 2,6 triệu tỷ đồng. Nợ xấu cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản khoảng 12.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 6,5% dư nợ, chiếm khoảng 10,3% trong tổng nợ xấu ngân hàng theo báo cáo của các tổ chức tín dụng. Đối với cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán, do thị trường 26
  27. sụt giảm và khó khăn kéo dài nên xu hướng cho vay có chiều hướng giảm. Đến cuối tháng 5/2012 chỉ còn khoảng gần 12.000 tỷ đồng, nợ xấu của nó cũng ở mức tương đối thấp với khoảng 485 tỷ đồng. Hiện nay, nợ xấu là một trong số những rủi ro đe dọa sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là tại Việt Nam. Trong những năm qua, tỉ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam, tỉ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng thương mại tính đến tháng 6/2011 khoảng 3%, tuy nhiên, theo Fitch Ratings, tỉ lệ này theo chuẩn mực kế toán quốc tế về phân loại các loại nợ xấu, con số này lên tới 13%. Nguyên nhân nợ xấu: Hầu hết các tổ chức tín dụng theo đuổi chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi năng lực quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị dẫn đến nợ xấu tăng nhanh hơn dư nợ tín dụng. Một bộ phận không nhỏ vốn tín dụng và nhiều TCTD tập trung đầu tư vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, chẳng hạn bất động sản. Khi các lĩnh vực này, đặc biệt là thị trường bất động sản đóng băng và giá bất động sản giảm sâu kéo theo nợ xấu cho vay lĩnh vực này tăng nhanh. Do công tác thanh tra, giám sát ngân hàng trong một thời gian dài chưa phát huy hiệu quả cao trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm, rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các Ngân hàng thường mại, nhất là các vi phạm quy định hạn chế cấp tín dụng và đầu tư quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. 27
  28. b. Rủi ro tỷ giá hối đoái Rủi ro hối đoái là rủi ro xuất hiện trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền. Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động, với biến đổi của tỷ giá hối đoái, bất kỳ một khoản nợ nào cho dù dài hay ngắn, đối với một đồng tiền nhất định, đều có thể tạo cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái. Sự thay đổi tỷ giá sẽ dẫn đến sự thay đổi giá trị ngoại hối, cụ thể: Nếu ngân hàng có dư dật về ngoai tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. Nếu ngân hàng ở vị đoản về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi nếu ngoại tệ đó xuống giá. c. Rủi ro thiếu vốn khả dụng Rủi ro thiếu vốn khả dụng là rủi ro xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Nó xảy ra khi xuất hiện tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa 28
  29. việc huy động và sử dụng vốn. Nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn là do ngân hàng không có các chính sách huy động vốn linh hoạt hoặc chính sách lãi suất chưa phù hợp. d. Sở hữu chéo Trong những năm qua, hệ thống NHTM Việt Nam phát triển vượt bậc cả về số lượng và tổng mức đầu tư tín dụng. Năm 1997, số NHTMCP đã tăng vọt lên con số 84 và đến nay được sắp xếp lại còn 35 NHTMCP. Tuy nhiên sự phát triển như vũ bão và tăng trưởng nóng của hệ thống ngân hàng đã làm gia tăng tình trạng sở hữu chéo và đầu tư chéo giữa các TCTD, NH và DN và DN và NH. Vấn đề sở hữu chéo và đầu tư chéo tại các TCTD ở Việt Nam ngày càng nghiêm trọng và được chia thành 6 nhóm: (1)Sở hữu của các NHTM Nhà nước và NHTM nước ngoài tại các NH Liên doanh; (2) Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM; (3) Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý cũ; (4) Sở hữu của NHTM Nhà nước tại các NHTM cổ phần; (5) Sở hữu chéo lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần; (6) Sở hữu các NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước và tư nhân. (Nguồn: UB Kinh tế Quốc hội). Tình trạng sở hữu chéo giữa các NHTM Nhà nước và các NHTM cổ phần thể hiện phổ biến và rõ nét nhất. Bốn “ đại gia” NHTM Nhà nước là Vietcombank, VietinBank, Agribank, BIDV đều sở hữu tỷ lệ cổ phần số lượng lớn và trở thành cổ đông chiến lược của các NHTMCP. Điển hình nhất là Vietcombank đang sở hữu 11% tại NHTMCP Quân đội (MB), 8,2% tại Eximbank, 4,7% tại NHTMCP Phương Đông, 5,3% tại NHTMCP Sài Gòn Công thương. Trường hợp khác, Agribank hiện đang sở hữu 15% tại NHTMCP Hàng Hải (cổ phần gián tiếp thông qua Agriseco), 11% tại NHTMCP Sài Gòn Công thương. Còn VietinBank cũng sở hữu 11% cổ phần tại NHTMCP Sài Gòn Công thương 29
  30. + Sở hữu chéo có mặt tích cực là góp phần làm tăng hiểu biết giữa ngân hàng với DN, đồng thời hình thành nên một cơ cấu sở hữu và quản trị ổn định trong các DN, ngân hàng. Tuy nhiên, sở hữu chéo cũng có những mặt trái, thể hiện qua những trục trặc ngày càng rõ của ngành ngân hàng vài năm trở lại đây, trong đó nghiêm trọng nhất là các ngân hàng thương mại đã dùng sở hữu chéo để lách các quy định bảo đảm an toàn hoạt động do Ngân hàng Nhà nước ban hành. + Tuy nhiên Tiến sĩ Nguyễn Thành Long - Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đưa ra 8 hệ lụy của rủi ro chéo và đầu tư chéo: Việc sở hữu chéo có thể dẫn tới các giao dịch bất hợp lý, phi thị trường (unfair) giữa các tổ chức có quan hệ sở hữu lẫn nhau. Các giao dịch này có thể dẫn tới các hành vi chuyển giá, trốn thuế . Việc sở hữu chéo ảnh hưởng tiêu cực tới công tác quản trị công ty. Tình trạng này có thể quan sát được qua các quyết định liên quan tới lợi ích nhóm, lợi ích của các thành viên hội đồng quản trị, ban điều hành đồng thời là đại diện phần vốn góp sở hữu chéo. Về lâu dài, tình trạng thiếu sự giám sát của các cổ đông sẽ làm sói mòn hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 30
  31. Việc sở hữu chéo có thể làm giảm mức độ minh bạch và sức cạnh tranh cũng như động lực phát triển trong hoạt động doanh nghiệp, từ đó làm giảm tính minh bạch và sức cạnh tranh của nền kinh tế; tạo ra sự e ngại, tác động không tốt tới việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt từ các cổ đông chiến lược. Việc sở hữu chéo, đặc biệt trong trường hợp các ngân hàng sở hữu cổ phần chi phối tại các doanh nghiệp không hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, một mặt, giúp các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn với chi phí hợp, tuy nhiên chính điều này làm giảm động lực phát triển, giảm tính năng động, tạo sức ỳ lớn cho doanh nghiệp, giảm sự cạnh tranh của doanh nghiệp, thậm chí có thể dẫn tới các quyết định đầu tư, kinh doanh thiếu thận trọng (kể cả từ phía ngân hàng – tổ chức cấp vốn, lẫn doanh nghiệp mà ngân hàng là cổ đông), từ đó làm giảm sự cạnh tranh của nền kinh tế; Tiềm ẩn rủi ro thị trường cho danh mục các cổ phiếu, cổ phần của các công ty con, công ty liên doanh, liên kết Trường hợp là các cổ phiếu niêm yết và thị trường suy giảm, thiệt hại của danh mục đầu tư này làm giảm tổng giá trị tài sản của các tổ chức tín dụng, giảm năng lực tín dụng (do phải tuân thủ các quy định về an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng), từ đó làm giảm thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Việc sở hữu chéo làm bóp méo (tăng) giá trị doanh nghiệp và giá trị cổ phiếu (bị đội giá trị – double counting). Ngoài ra, việc sở hữu chéo còn có thể dẫn tới tình trạng tăng vốn ảo. Cụ thể, các doanh nghiệp phát hành riêng lẻ cho nhau, hạch toán sở hữu cổ phiếu (bù trừ cho nhau) và không kèm theo việc thanh toán bằng tiền. Sở hữu chéo còn tác động tiêu cực tới TTCK, đặc biệt tại các doanh nghiệp niêm yết. Lý do là các cổ đông sở hữu chéo thông thường nắm giữ cổ phần của nhau trong một thời gian dài, mà nếu lượng cổ phiếu nắm giữ bởi các cổ đông này quá lớn, phần cổ phiếu tự do chuyển nhượng (free floating shares) còn lại ít thì cổ phiếu đó rất dễ là đối tượng của các hoạt động lạm dụng, thao túng thị trường. Mà đối với các cổ phiếu là đối tượng trong các đợt lạm dụng, thao túng thị trường, thông thường các nhà đầu tư chiến lược sẽ rất e ngại, điều này gây khó khăn trong doanh nghiệp trong việc huy động vốn sau này. 31
  32. Sở hữu chéo nếu phổ cập ở diện rộng, với quy mô lớn và trong một thời gian dài, sẽ làm tích tụ những hạn chế nêu trên và điều này có thể làm trì trệ nền kinh tế do các doanh nghiệp mất động lực cạnh tranh, ít sáng tạo và hạn chế thay đổi kinh doanh, các nguồn vốn của nền kinh tế bị phân bỏ không hợp lý, không hiệu quả, gây lãng phí. e. Rửa tiền qua ngân hàng Rửa tiền đã trở thành vấn nạn nghiêm trọng mang tính quốc tế, được cộng đồng thế giới rất quan tâm, vì nó gây ra hậu quả kinh tế, xã hội nghiêm trọng ảnh hưởng tới an ninh quốc gia và uy tín quốc tế của quốc gia, làm suy yếu nền kinh tế, cũng như cải tổ nền kinh tế. Rửa tiền không chỉ giúp cho tội phạm che giấu được nguồn gốc của những khoản tiền bất hợp pháp mà còn tạo ra cơ sở cho chúng hưởng thụ và sử dụng những đồng tiền đã được tẩy rửa để phục vụ cho những hoạt động tội phạm khác. Hoạt động rửa tiền ngày càng mở rộng về quy mô và độ tinh vi và không một định chế tài chính nào miễn nhiễm hoàn toàn trước các hoạt động này. Theo cục Phòng chống (AMLD) thuộc ngân hàng Nhà nước (NHNN), Việt Nam chưa có đánh giá chính thức của cơ quan có thẩm quyền về tội phạm rửa tiền. NHNN đã "khoanh vùng" được 165 báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến hoạt động rửa tiền, chuyển cơ quan thanh tra và công an xác minh. Tổng số tiền giao dịch nghi ngờ rửa tiền là gần 51.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, NHNN cũng tiếp nhận 50 văn bản từ các cơ quan thực thi pháp luật đề nghị rà soát, cung cấp thông tin liên quan đến các bị can hoặc đối tượng trong các vụ án hình sự. Nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng, với bối cảnh nền kinh tế Việt Nam sử dụng tiền mặt nhiều, cơ hội cho tội phạm rửa tiền rất cao. Trước đây rửa tiền thường được đánh giá liên quan đến hoạt động chuyển tiền qua biên giới, thì nay rửa tiền trong nước gia tăng, gắn với hoạt động phạm pháp như buôn lậu, buôn bán ma túy, trốn thuế đặc biệt là tham nhũng. Khi bầu Kiên bị bắt, nhiều câu hỏi đặt ra, liệu ở đây có liên quan gì đến hoạt động rửa tiền? Tuy nhiên, đại diện cục Phòng chống rửa tiền khẳng định: Ma trận sở hữu chéo đã trở thành hiện tượng điển hình của nền kinh tế Việt Nam. Các cá nhân, tổ chức đều được góp vốn tham gia cổ đông sáng lập ngân hàng. Ngân hàng A có công ty B tham gia 10% vốn, công ty B lại có ông C là chủ tịch HĐQT nhưng ông C lại cử ông D đứng ra đại diện vốn. Vì vậy, trong cổ đông sáng lập ngân hàng A không có tên ông C, trong khi nhân vật này mới thực sự là người điều hành. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam cũng không truy cứu "tội phạm kép". 32
  33. Do đó, nếu ai đó tham nhũng hay lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng không bị xem xét có hay không tội rửa tiền. Hơn nữa, các hiện tượng thuê giám đốc để thành lập doanh nghiệp, ủy quyền cho tài xế, nhân viên đứng tên cổ phần cũng gây khó khăn cho việc truy tìm nguồn gốc dòng tiền. Hiện tượng rửa tiền bằng cách thuê người khác đứng tên chủ tài khoản, sau đó chủ sở hữu bàn giao mã số pin để người thuê thực hiện việc chuyển tiền vào tài khoản trong nước và rút ngoại tệ tại Campuchia đã có. Trước đây có nhóm tội phạm quốc tế thuê một số người Việt Nam mở 12 thẻ debit của các ngân hàng trong nước. Các chủ thẻ nhận ít tiền thù lao rồi giao lại thẻ cho người đặt hàng. Sau đó, nhóm tội phạm này sang Campuchia (quốc gia không quản lý ngoại hối) để rút tiền mặt. Hằng ngày, tiền được chuyển vào cả 12 tài khoản ở Việt Nam và rút sạch từ Campuchia. Về nghiệp vụ, các ngân hàng phải có bộ phận riêng rà soát tất cả các giao dịch hàng ngày. Có rất nhiều yêu cầu đặt ra trong vấn đề an ninh tiền tệ, đòi hỏi ngân hàng phải quản trị nhiều hơn, phải bổ sung nguồn lực cho khâu theo dõi, kiểm soát dòng tiền. Thực tế, theo luật tất cả các giao dịch gửi tiền hoặc rút tiền từ 500 triệu đồng trở lên đều phải qua khâu khai báo với ngân hàng. Ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin, mục đích. Trong trường hợp khách hàng từ chối thì ngân hàng buộc phải hủy giao dịch, đó là bổn phận của ngân hàng. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, với tội phạm rửa tiền là loại tội phạm có những am hiểu nhất định về ngân hàng nên chúng có nhiều chiêu để lách luật, chẳng hạn chia nhỏ hạn mức tiền gửi. Về vấn đề này, ông Nguyễn Trí Hiếu cho rằng: "Trong hệ thống tài chính ngân hàng ở Mỹ, các cơ quan an ninh như FBI buộc ngân hàng phải có phần mềm theo dõi, phát hiện tất cả những hành vi Splitting (chia nhỏ). Chúng ta hiện nay chưa có điều khoản bắt buộc, song cũng đã đến lúc các ngân hàng thương mại phải lưu ý và có đánh giá đầy đủ, lưu tâm nhiều hơn đến vấn đề này, trong những trường hợp cần thiết cần báo cáo với các cơ quan chức năng". f. Rủi ro công nghệ thông tin Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính. Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả 33
  34. là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống đáng kể và là nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân hàng trong tương lai. Hiện nay mạng thông tin ngày càng phát triển, các Ngân hàng áp dụng những công nghệ tiên tiến, hiện đại vào việc quản lý hệ thống để giúp Ngân hàng phát triển hơn và hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên những hacker đã lợi dụng việc đó để tấn công vào hệ thống quản lý của các Ngân hàng, gây ra những hậu quả nghiêm trọng như trễ mạng hay ngừng hoạt động. Việc này ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của các Ngân hàng. Mới đây NH Nonghyup Bank là một trong những tổ chức tài chính lớn nhất ở Hàn Quốc. Ứng dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến của họ được sử dụng rộng rãi trên các thiết bị di động và đạt lượng cài đặt từ 5 đến 10 triệu lượt. Tin tặc đã lợi dụng sự phổ biến của ứng dụng này bằng cách cung cấp một bản cập nhật được tải về trên các website tải ứng dụng của bên thứ ba. Bản cập nhật này đã bị cài mã độc. Nó sử dụng lỗ hổng bảo mật Master Key trên các thiết bị Android để chèn một tập tin độc hại vào ứng dụng. Trong tập tin nhiễm độc bị chèn vào, classes.dex có dung lượng 205 kb, nhỏ hơn so với phiên bản hợp pháp. Tin tặc này cũng cung cấp một phiên bản cài đặt có sẵn các trojan để dự trù trường hợp người dùng chưa cài ứng dụng dịch vụ ngân hàng trên thiết bị của họ. Khi ứng dụng này được mở, nó sẽ kích hoạt màn hình hiển thị một trang web giả mạo, sau đó yêu cầu người dùng nhập thông tin tài khoản của họ. Trang web hiển thị khi người dùng mở ứng dụng bị nhiễm trojan. Khi người dùng thực hiện nhập thông tin, thông tin của họ sẽ được gửi đến một máy chủ dùng để điều khiển các mã độc. Phát hiện đặc biệt này cho thấy việc lợi dụng lỗ hổng bảo mật Master Key nguy hiểm như thế nào đối với người dùng Android. Thực tế là nó đã bị lợi dụng để "cài trojan" vào một ứng dụng dịch vụ ngân hàng với tầm gây hại không kém gì các mối đe dọa ngân hàng trực tuyến mà chúng ta đã biết, vì nó không chỉ là nguy cơ rò rỉ thông tin cá nhân, mà còn gây ra những tổn thất tài chính. III. Ứng phó của NHTW trước những bất ổn thường gặp của hệ thống NHTM trên thế giới: Như chúng ta đã biết, NHTW và NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, NHTW có vai trò quan trọng trong điều tiết hoạt động của hệ thống NHTM, giúp NHTM tránh được những bất ổn, rủi ro. Trong phần 3, nhóm tác giả sẽ làm rõ quá trình hỗ trợ của NHTW trước những bất 34
  35. ổn thường gặp của hệ thống NHTM nhằm hạn chế rủi ro đẫn đến khủng hoàng toàn bộ hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế tài chính nói chung. 1. Đối với bất ổn về tín dụng và bất ổn về tính thanh khoản: Có thể tóm tắt hai chức năng của NHTW là ngân hàng của các ngân hàng và hoạt động thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng như sau, NHTW đánh giá mức độ hiệu quả và rủi ro trong hoạt động của hệ thống ngân hàng trung gian thông qua các chỉ tiêu điều tiết. Qua đó, NHTW sẽ có những phản ứng thích hợp nhằm tăng sự hiệu quả và an toàn của hệ thống ngân hàng trung gian, cũng như giảm thiểu rủi ro trong thanh khoản. NHTW thực hiện điều này bằng cách thay đổi chính sách tiền tệ, cụ thể là đều chỉnh lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc, thay đổi lãi suất, cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian, thay đổi một số quy định trong ngành ngân hàng Bản chất của bất ổn tín dụng là ngân hàng không thu hồi được vốn vay, hay nói cách khác, đó là khả năng không chi trả được nợ của người đi vay đối với người cho vay khi đến hạn phải thanh toán. Thông thường, bản thân các ngân hàng luôn có những biện pháp cần thiết để quản lý rủi ro này thông qua những hoạt động phân tích, đánh giá tiềm năng lợi nhuận vay vốn, khả năng trả nợ, đánh gí tính thanh khoản của tài sản cầm cố, thông qua tình hình kinh tế thế giới, kinh tế từng quốc gia, Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, những rủi ro về tín dụng vẫn có thể xảy ra và hầu hết các NHTM đều gặp phải thì thống ngân hàng sẽ gặp nguy hiểm và có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Hệ thống NHTM sụp đổ sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng, có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả nền kinh tế. Nếu giá nhà đất bị đóng băng trong khi các tài sản thế chấp của khách hàng đều là bất động sản, trong trường hợp đến hạn thu hồi vốn, khách hàng không đủ khả năng trả tiền, cũng không bán được các tài sản thế chấp đi, vì vậy NHTM không thể thu hồi được vốn ban đầu. Rủi ro này sẽ càng trầm trọng nếu khách hàng tiền gửi đồng loạt rút tiền dẫn đến nguy cơ phá sản của ngân hàng. Trong trường hợp này, NHTW buộc phải can thiệp bằng cách cung cấp tín dụng cho NHTM hoặc quốc hữu háo những ngân hàng ấy hay cắt giảm lãi suất để khơi thống dòng vốn bị ứ đọng. Với những biện pháp tạm thời này, NHTW có thể đẩy lùi những bất ổn, bình ổn tâm lý cho các khách hàng tiền gửi. Trong dài hạn, NHTW buộc phải có những biện pháp xử lý nghiêm khắc với NHTM vì những lỏng lẻo trong quá trình đánh giá hồ sơ xin vay vốn; đồng 35
  36. thời có những điều chỉnh cần thiết trong chính sách điền tiền tề để ngăn chặn tình trạn này xảy ra một lần nữa Khủng hoảng tài chính năm 2008-2009 tại Mỹ bắt nguồn từ khủng hoảng nhà đất Mỹ. Từ năm 2001, môi trường lãi suất thấp ở Mỹ tạo điều kiện cho công dân Mỹ đi vay tiền mua nhà đất ngày càng nhiều hơn. Các ngân hàng vào thời điểm đó để có thể biến các mortages (illquidity asset) thành liquidity assests) đã backed up các mortages và bán lại cho các coogn ty, ngân hàng đầu từ ở phố Walls. Các gói mortages này đã được đóng gói và chia thành các nhánh khác nhau như senior, mezzanine, equity và bán lại cho các nhà đầu tư với lãi suất khác nhau phụ thuộc vào rủi ro của từng nhánh. Các nhánh của MBS dưới bàn tay "phù phép" của các công ty. còn có thể sản sinh ra CDO (collateral debt obligation). Sự chững lại của thị trường và khản năng thất bại của các mortages tăng lên kéo theo sự sụp đỏ của thị trường tài chính Mỹ. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Theo ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Từ đó dẫn đến đổ vỡ đồng loạt của hệ thống ngân hàng. Nhiều nạn nhân là những NHTM sừng sỏ thế giới như Northern Rock, ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh, vào tháng 9/2007 buộc phải cầu cứu đến NHTW Anh sau khi bị mất thanh khoản nặng nề từ việc cho vay cầm cố bất động sản nói trên và NHTW Anh buộc phải tiếp quản ngân hàng này. Hai nhà cho vay cầm cố khổng lồ tại Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải nhường cho chính phủ tiếp quản để tránh nguy cơ phá sản. Ngân hàng lớn thứ 4 nước Mỹ Lehman Brothers cũng tuyên bố phá sản vào 15/9/2008. Để ứng phó với cuộc khủng hoảng, các NHTW buộc phải vào cuộc, tiêu biểu có sự giải cứu tập đoàn bảo hiểm khổng lồ AIG của FED để tránh cho tình trạng tài chính nước này ngày một tồi tệ hơn, sự kiện này tiêu tốn hơn 85 tỷ đô la của FED. NHTW Mỹ, Anh, Nhật, ECB buộc phải cắt giảm lãi suất liên tục để khơi thông dòng vốn, kích thích nhu cầu vay vốn của người đi vay. Không chỉ dừng lại ở đó, các quốc gia trên gia tăng lượng tín dụng bơm vào nền kinh tế để kích thích tiêu dùng, đầu tư, cho vay và tăng tính thanh khoản cho các định chế tài chính. FED phải dùng tới 700 tỷ đô la để mua lại nợ xấu của các ngân hàng. ECB cũng công bố gói hỗ trợ lên đến 2.3oo tỷ đô la. Trung Quốc chi gần 600 tỷ đô la để kích thích kinh tế vào ngày. Vào 25/11/2008, Mỹ chi thêm 800 tỷ đô để cứu vớt nền kinh tế. Ngày 8/10/2008, các NHTW đồng loạt hạ lãi suất. 36
  37. Tình hình Việt Nam: từ 2005-2008 hoạt động cho vay tăng 130% so với dự toán, 2 tháng đầu năm 2008 các ngân hàng đều trong tình trạng căng thẳng tiền đồng. 6 tháng đầu năm 2006 tăng trưởng tín dụng ở mức thấp, nhiều ngân hàng liên tiếp rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng, đòi hỏi thăng vốn pháp định. Tháng 7/2008 dư nợ cho vay đã tăng 0.7% so với các tháng trước. So với 2007 thì dư nợ 2008 về cho vay tăng 18.36%. cuối 2008 tốc độ tăng trưởng giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm do các ngân hàng đua nhau đưa ra các chương trình cho vay tiêu dùng, cho vay bất động sản trung và dài hạn. Lãi suất cho vay liên tiếp giảm mạnh, mức tăp thấp. Một số hạn chế rủi ro mà NHTW và các NHTM ở VN đang áp dụng: 1. Quyết định 127/05/QĐ-NHNN 03/02/2005 của thông đốc ngân hàng về việc sửa đổi bổ xung một số điều của quy chế cho vay của tổ chức tín dụng thay số 1627/2001/QĐ- NHNN. 2. Quyết định số 43/2005/QĐ-NHNN 22/04/2005 và quyết định số 18/QĐ-NHNN sửa đổi bổ xung ban hành quy định về phân loại nợ trích lập và dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. 3. Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN 20/040/2005 yêu cầu các NHTM tuân thủ đúng quy định cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao thanh toán, chiết khấu, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn, chú trọng đến công tác kiểm tra thường xuyên. 4. Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005 của thống đốc NHNN về sửa đổi bổ xung quy định cho vay của NHTM đối với khách hàng. Các nội dung được sửa đổi quy định theo hướng trao nhiều quyền phán quyết hoặc tạo cơ sở pháp lý cho TCTD chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh. 5. Theo nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp định của các tố chức tín dụng do chính phủ ban hành, đối với NHTMCP, mức vốn pháp định áp dụng đến 2008 là 1.000 tỉ đồng và cho đến cuối 2010 là 3.000 tỉ đồng. 6. Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007 của thống đốc NHNN về việc sửa đổi bổ xung quy định về các tỉ lệ bảo đám an toàn trong hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. 7. Chỉ thị 05/2008/CT-NHNN 09/10/2008 của thống đốc NH về một số biện pháp đảm bảo an toàn hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng 37
  38. Tóm lại, những cách ứng phó thường gặp của NHTW trong tình huống bất ổn như nợ xấu tăng cao, bất ổn về tính thanh khoản hay, bất ổn về rủi ro tín dụng là cung cấp tín dụng thông qua hoạt động tái chiết khấu các giấy tờ có giá do ngân hàng đó nắm giữ; mua lại và sát nhập ngân hàng ấy; cắt giảm lãi suất để kích cầu tiêu dùng, đầu tư và cho vay. Sau khi cuộc khủng hoảng qua đi, NHTW sẽ có những biện pháp dài hạn giúp giảm thiểu khả năng tái xảy ra những tình trạng như vậy, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng cường hoạt động giám sát, thanh tra hệ thống NHTM. 2. Đối với các loại rủi ro khác: Đa phần bản thân NHTM sẽ có biện pháp quản trị những rủi ro như rủi ro lãi suất ( thông qua việc quản trị khe hở lãi suất, quản trị lãi suất bằng các nghiệp vụ phái sinh ); rủi ro tác nghiệp, duy chỉ có loại rủi ro về tỷ giá hối đoái thì cần có sự can thiệp của NHTW. Để giảm thiểu rủi ro về tỷ giá hối đoái thì NHTW cần có sự điều chỉnh trên ba phương diện, gồm chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá và chính sách quản lí ngoại hối. Về chính sách tiền tệ NHTW sẽ đổi mới công tác dự báo theo hướng ứng dụng mô hình kinh tế lượng, xây dựng cơ chế truyền tải tác động của chính sách tiền tê và nâng cao hiệu quả các công cụ điều hành gián tiếp của chính sách tiền tệ cho phép thị trường tiền tệ phát triển và phát huy tính can thiệp của NHTW trên thị trường khi cần thiết. Bên cạnh đó, sẽ có nhưng đổi mới cơ chế điều hành theo nguyên tắc thị trường, xây dựng hệ thống lãi suất chủ đạo của NHTW để định hướng lãi suất thị trường, đổi mới điều hành lãi suất ngoại tệ; gắn điều hành lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ và tỷ giá để duy trì chênh lệch lãi suất thực. Cần tiếp tục điều hành trên nguyên tắc lãi suất cơ bản, lấy kiểm soát lạm phát làm mục tiêu để củng cố và nâng cao sức mạnh của đồng nội tệ, góp phần cân bằng giá trị đối ngoại của đồng nội tê, tránh gây biến động tỷ giá lớn. NHTW cần quy định khung lãi suất tiền gửi và cho vay buộc các ngân hàng cho vay phải thi hành. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ gia tăng được nguồn vốn cho vay. Ngược lại sẽ làm giảm khả năng kinh doanh tín dụng, làm cho NHTM mất tự chủ trong kinh doanh. Khi muốn tăng khối lương cho vay, NHTW phải điều tiết giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn và ngược lại. 38
  39. NHTW yêu cầu các NHTM tăng dự trữ bắt buộc, đảm bảo an toàn cho các NHTM, giảm lượng tiền lưu thông cân bằng với nguồn cung của xã hội. trong trường hợp giảm tỉ lệ dự trữ, khả năng mở rộng của NH sẽ tăng lên, dẫn đến gia tăng lượng tiền lưu thông, góp phần tăng cung xã hội. NHTW tham gia mua bán các chứng từ có giá: NHTW mua các chứng từ có giá sẽ làm tăng dự trữ thương mại, cung ứng tín dụng tăng lên, chuyển dịch vốn đầu tư, điều tiết tốt sẽ có lợi cho các NHTM. Về chính sách tỷ giá NHTW cần thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt, tương đối ổn định theo một rổ tiền tệ theo hướng khuyến khích xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Để hỗ trợ, cần thực hiện các biện pháp cải thiện thị trường ngoại hối bằng cách cho phép chuyển đổi tự do giữa các ngoại tệ, cho phép các cá nhân có đủ điều kiện kinh doanh ngoại tệ; xóa bỏ tỷ giá kỳ hạn; cho phép áp dụng nghiệp vụ quyền chọn giữa đồng nội tệ và ngoại tệ và nới rộng biên độ tỷ giá giao ngay; tự do hóa các quy định về lãi suất trong nghiệp vụ quyền chọn giữa nội tệ và ngoại tệ để tạo nên một thị trường ngoại hối thanh khoản, cân bằng và lành mạnh; giảm đầu cơ ngoại tệ làm bóp méo quan hệ cung cầu trên thị trường và làm ngưng trệ hoạt động của thị trường như trước đây trong thời kỳ biến động tỷ giá. Ngoài ra cần phát triển các công cụ phái sinh trên thị trường để tạo điều kiện cho việc thả nổi tỷ giá khi đủ điều kiện mà không tạo ra cú sốc về biến động tỷ giá và tạo cơ chế phòng ngừa rủi roc ho các nhân, gia đình doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng. Về chính sách quản lý ngoại hối NHTW cần tự do hóa các giao dịch vãng lai, thể hiện ở việc bỏi giấy phép mua, chuyển mang ngoại tệ của cá nhân cho các mục đích học tập, du lịch, chữa bệnh, bỏ giấy phép chuyển ngoại tệ tiền mặt ra nước ngoài, bỏ giấy phép hoạt động kiều hối và thu đổi ngoại tệ sang kinh doanh đó điều kiện để tạo nên tính thanh khoản cho thị trường và giảm nhu cầu tích trữ bằng ngoại tệ. Thêm vào đó cũng cần luật hóa các quy định về quản lý ngoại hối, tăng cường chế tài và xử phạt nghiêm khắc các vi phạm về quản lý ngoại hối. Ngoài ra, cần thu hẹp đối tượng cho vay ngoại tê đi kềm với chính sách hạn chế huy động ngoại tệ bằng công cụ kinh tế. Cụ thể, tạo nên chênh lệch lãi suất tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi nội tệ theo hướng có lợi cho người gửi 39
  40. bằng đồng nội tệ thông qua công cụ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ khi áp dụng được. Góp phần giảm tình trạng ngoại tệ hóa tiền gửi. Cũng cần khuyến khích dân chúng và các tổ chức bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng bằng cách các ngân hàng áp dụng tỷ giá chuyển khoản cáo hơn hoặc bằng tỷ giá của thị trường chợ đen như một số ngân hàng đang áp dụng như hiện nay hoặc giải pháp huy động tiền gửi có đảm bảo bằng ngoại tệ. Chính phủ cần thực hiện chính sách thu chi ngân hàng bằng đồng nội tệ để ngoại tệ trên thị trường được chu chuyển thông suốt, tránh tình trạng nắm giữ trong tài khoản. IV. Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng - Đề xuất giải pháp áp dụng ở Việt Nam Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng đã và đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới mà điển hình là Hoa Kỳ và Ấn Độ và đạt được những thành tựu nhất định. Vì thế nhóm tác giả xin được giới thiệu về mô hình này, bên cạnh đó là những đề xuất về việc áp dụng mô hình này ở nước ta. Mô hình này được xây dựng dựa trên các chỉ số liên quan đến hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc gia trong một khoảng thời gian xác định từ đó đưa ra ước lượng về xác suất xảy ra khủng hoảng trong tương lai, giúp Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách kịp thời đưa ra những biện pháp phù hợp nhằm ngăn chặn hay giảm thiểu rủi ro mà cuộc khủng hoảng gây ra. Theo Goldstein, Kamisky & Reinhart (2000), đối với các cuộc khủng hoảng thì yếu tố “sớm” được xác định là từ 1 đến 12 tháng trước khi bắt đầu một cuộc khủng hoảng hoặc chậm nhất là 12 tháng sau khi khủng hoảng bắt đầu vì các cuộc khủng hoảng thường kéo dài đến vài năm và đỉnh điểm của nó cũng thường diễn ra vài năm sau khi bắt đầu. Như vậy, kể cả khi cuộc khủng hoảng đã xảy ra, mô hình này vẫn có ý nghĩa. Ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng của chúng ta thường phải đối mặt với nhiều bất ổn. Tuy chưa có cuộc khủng hoảng chính thức nào xong việc đề phòng những hậu quả nghiêm trọng xảy ra từ những bất ổn đó vẫn là điều mà hệ thống ngân hàng cần quan tâm và tìm biện pháp phòng tránh. 1. Qui trình xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng Có nhiều qui trình xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng khác nhau theo các quan điểm khác nhau ví dụ: dựa trên sự kết hợp các sự kiện để nhận định và xác định thời gian xảy 40
  41. ra khủng hoảng, dựa trên các chỉ số về tỉ lệ nợ xấu (NPLs), Trong phần nghiên cứu này, nhóm tác giả xin được giới thiệu mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng dựa trên một chỉ số mang tính tổng hợp và có tính định lượng cao, phản ánh toàn bộ rủi ro mà hệ thống ngân hàng phải đối mặt, đó là chỉ số đổ vỡ ngành ngân hàng BSF (Banking Sector Fragility). Qui trình này được hình thành qua 3 giai đoạn: a. Xác định các giai đoạn xảy ra khủng hoảng ngành ngân hàng Như đã nói ở trên, việc xác định các giai đoạn xảy ra khủng hoảng sẽ được lượng hóa thông qua việc tính toán chỉ số BSF. Chỉ số này được xây dựng dựa trên những chỉ số đo lường những rủi ro chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất trong hoạt động ngân hàng: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường (lãi suất,tỷ giá, giá vốn chủ sở hữu và giá hàng hóa). Theo Aykut Kibritcioglu chỉ số BSF được tính toán dựa trên 3 yếu tố sau: Sự thay đổi trong tiền gửi ngân hàng (đại diện cho rủi ro thanh khoản), sự thay đổi trong tín dụng đối với khu vực tư nhân (rủi ro tín dụng) và sự thay đổi trong nợ nước ngoài của ngân hàng (rủi ro tỷ giá). Ta có công thức: Trong đó: 1. CPS: phần trăm thay đổi theo năm của tín dụng khu vực tư nhân nội địa trong hệ thống ngân hàng 2. FL: phần trăm thay đổi theo năm của nợ nước ngoài thực của ngân hàng 3. DEP: phần trăm thay đổi theo năm của tổng tiền gửi thực của ngân hàng 4. µ: giá trị số học trung bình của mỗi biến số 5. σ: độ lệch tiêu chuẩn mỗi biến số Giá trị BSF càng cao thể hiện rằng hoạt động của ngành ngân hàng chứa đựng càng nhiều 3 rủi ro được lượng hóa ở trên, tuy không phải là dấu hiệu của tính đổ vỡ xong có thể là sự cảnh báo về đổ vỡ trong tương lai. Giá trị BSF càng giảm thể hiện sự đổ vỡ trong khu vực ngân 41
  42. hàng. Từ chỉ số này, ta có thể đưa ra những đánh giá ban đầu về tính chất mỗi giai đoạn khủng hoảng theo tiêu chuẩn sau: 6. Nếu -0,5< BSF-3<0, hệ thống ngân hàng trong giai đoạn đổ vỡ ở mức trung bình 7. Nếu BSF-3<-0,5, hệ thống ngân hàng trong giai đoạn đổ vỡ ở mức cao Ta cũng cần lưu ý việc lựa chọn các chỉ số tham gia vào việc tính toán BSF là không giống nhau tại các quốc gia khác nhau tùy thuộc và các rủi ro khác nhau mà các ngân hàng gặp phải. Cụ thể, đối với Hoa Kỳ, 3 nhóm rủi ro chính trong ngành ngân hàng là rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng và rủi ro tỷ giá, 5 biến số được dùng để tính toán chỉ số BSF bao gồm: tổng tiền gửi thực tế, tổng tín dụng trừ đi các khoản chứng khoán chính phủ, tổng các tài khoản nợ ngoại tệ, tổng tài sản bằng ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ của các ngân hàng thương mại. Chỉ số BSF trong trường hợp này được tính như sau: Trong đó: 8. DEPt: phần trăm thay đổi theo năm của tổng tiền gửi thực của tất cả các ngân hàng thương mại tại Hoa Kỳ tại tháng t 9. Credt: phần trăm thay đổi theo năm về tổng tín dụng của ngân hàng thương mại trừ đi các khoản chứng khoán chính phủ tại tháng t 10. FCLt: phần trăm thay đổi theo năm về các khoản nợ ngoại tệ của các ngân hàng thương mại tại tháng t 11. FCAt: phần trăm thay đổi theo năm về tổng tài sản bằng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại tại tháng t 12. Resvt: phần trăm thay đổi theo năm về dự trữ ngoại tệ của các ngân hàng thương mại tại tháng t 13. µ: giá trị số học trung bình của mỗi biến số theo tháng 14. σ: độ lệch tiêu chuẩn mỗi biến số theo tháng 42
  43. Xét trong trường hợp cụ thể, ta có chỉ số đổ vỡ ngành ngân hàng Hoa kỳ giai đoạn 2001- 2011 Biểu đồ trên cho thấy một cuộc khủng hoảng ngân hàng Hoa Kỳ đã diễn ra từ tháng 7-2008 đến tháng 12-2011(BSF 0) trong đó trầm trọng nhất là trong giai đoạn 7-2008 đến 4-2009 (BSF<-0,5). Điều này phản ánh tương đối chính xác với thực tế với bong bóng bất động sản và khủng hoảng trong khu vực cho vay thế chấp giai đoạn 2007-2008 kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng lớn ở Mỹ giai đoạn sau đó. b. Lựa chọn các chỉ số cảnh báo Từ một cuộc điều tra toàn diện về nhiều dạng khác nhau của chỉ số dự báo nhưng theo Kaminsky, Lizondo và Reinhart, có 6 nhóm chỉ số dự báo đáng tin cậy nhất về xác suất xảy ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung: 15. Nhóm chỉ số tài khoản vãng lai: giá trị xuất, nhập khẩu, tỷ giá thực,cán cân thương mại/GDP. 16. Nhóm chỉ số tài khoản vốn: tài sản nợ ngoại tệ/Có ngọai tệ của khu vực ngân hàng, dự trữ ngoại tệ, M2/dự trữ ngoại tệ, nợ nước ngòa ngắn hạn/dự trự ngoại tệ. 17. Nhóm chỉ số khu vực tài chính: tiền gửi/M2, tín dụng nội địa/GDP, cho vay/tiền gửi, hệ số cung tiền M2, lãi suất thực nội địa. 43
  44. 18. Nhóm chỉ số khu vực sản xuất: chỉ số CPI, chỉ số sản xuất công nghiệp, chỉ số chứng khoán. 19. Nhóm chỉ số khu vực tài chính công: tín dụng ngân hàng trung ương cho khu vực công/GDP. 20. Nhóm chỉ số kinh tế toàn cầu: giá dầu thế giới, tỷ lệ tăng trưởng ở Mỹ, tỷ giá thực của đồng đôla/Yên Nhật c. Ước lượng xác suất xảy ra khủng hoảng Có 2 phương pháp ước lượng xác suất xảy ra khủng hoảng là phương pháp phi tham số và tham số. Tuy nhiên, đối với phương pháp phi tham số, hạn chế của nó là việc mô phỏng đồ thị sự ảnh hưởng của các chỉ số đối với xác suất xảy ra khủng hoảng, hay nói cách khác nó không thể đưa ra chính xác xác suất xảy ra khủng hoảng. Vì thế nhóm tác giả xin được nêu ra trong bài tiểu luận này phương pháp ước lượng tham số. Giả thiết cơ bản của phương pháp này là nền kinh tế phản ứng khác nhau về sự kiện khủng hoảng tài chính nói chung và khủng hoảng ngân hàng nói riêng. Phương pháp này chủ trương tiếp cận vấn đề theo tín hiệu. Một tín hiệu được phát ra khi giá trị một chỉ số nào đó vượt qua ngưỡng bình thường của nó. Một tín hiệu tốt nếu cuộc khủng hoảng xảy ra sau đó sau một khoảng thời gian hợp lí. Trên thực tế, có nhiều chỉ số khác nhau và tín hiệu từ một chỉ số thường là không chính xác, do vậy, xác suất xảy ra cuộc khủng hoảng được xác định bằng bình quân gia quyền của các chỉ số vượt qua mức tối ưu với tỉ trọng là khả năng dự báo trong quá khứ của các chỉ số đó. Càng nhiều chỉ số vượt qua mức tối ưu, xác suất xảy ra cuộc khủng hoảng càng lớn. 2. Áp dụng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng tại Việt Nam Sau khi mở cửa hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, hệ thống các ngân hàng thương mại chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố quốc tế, đặc biệt là từ các định chế tài chính của một số quốc gia lớn như Hoa kỳ, do đó chúng ta thường ở trong thế bị động mỗi khi một cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn ra. Mặt khác, từ năm 1970 cho đến nay, đã có hơn 100 cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra ở 93 nước trong đó các nước đang phát triển chiếm 50%. Do đó, việc xây dựng được một hệ thống cảnh 44
  45. báo sớm khủng hoảng là vô cùng cần thiết. Nó sẽ giúp Chính phủ phát hiện sớm các bất ổn trong hệ thống ngân hàng cũng như kịp thời giải quyết chúng. Mô hình cảnh báo sớm này có ưu điểm là dễ thực hiện, một số nước phát triển đã áp dụng, kiểm nghiệm và đạt hiệu quả, điển hình như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, khi áp dụng tại Việt Nam, mô hình này sẽ gặp phải một số khó khăn điển hình việc công bố thông tin còn chưa minh bạch, các số liệu đưa ra thường không chính xác không phản ánh đúng thực trạng của hệ thống ngân hàng thương mại và đặc biệt là chưa có những định nghĩa chính xác về nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại. Để giải quyết vấn đề này, tác giả đã nghiên cứu và đưa ra một số đề xuất sau: Trước hết cần đưa ra các qui định chặt chẽ về việc công bố và xử lí thông tin, tạo ra sự đồng bộ trong việc xử lí thông tin giữa Ngân hàng trung ương với các ngân hàng thương mại. Hiện nay, ở nước ta tồn tại hai hệ thống kế toán khác nhau áp dụng cho các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại, dẫn đến sự khác nhau về các dữ liệu cũng như kết quả công bố. Vì vậy, Ngân hàng trung ương cần nhanh chóng thống nhất và ban hành một hệ thống kế toán chung để giảm thiểu tối đa những sai lệch này, đảm bảo tính chính xác và thống nhất trong các thông tin được công bố từ hệ thống ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó để nâng cao khả năng cảnh báo sớm khủng hoảng, ngân hàng trung ương cần phải quy định cụ thể về những thông tin cần thiết từ ngân hàng thương mại cho việc xây dựng mô hình Tiếp theo đó, Ngân hàng trung ương cũng cần hoàn thiện công tác giám sát các hoạt động của ngân hàng thương mại. Việc giám sát của các ngân hàng trung ương không chỉ đơn thuần là quan sát những hành động của ngân hàng thương mại mà còn phải phát hiện ra những hạn chế và rủi ro tiềm ẩn, đồng thời đưa ra những dấu hiệu cảnh báo sớm. Bên cạnh đó còn đưa ra lộ trình xây dựng mô hình cảnh báo sơm cho các ngân hàng thương mại. Đặc biệt, trong hệ thống ngân hàng hiện nay, vẫn đang tồn tại một số vấn đề về hoạt động của hệ thống các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư. Về mặt lý thuyết, ngân hàng thương mại là nơi đa số người dân ký gửi thu nhập thường xuyên cũng như tiền gửi tiết kiệm của họ với kỳ vọng ưu tiên chính là sự an toàn của đồng tiền ký gửi, cộng thêm một khoản lãi suất khiêm tốn để đồng tiền của họ không bị mất giá nhiều do lạm phát. Vì thế về cơ bản, các ngân hàng thương mại thường chỉ tập trung vào những khoản cho vay truyền thống với rủi ro thấp. Trái lại, ngân 45
  46. hàng đầu tư lấy nguồn vốn chủ yếu của từ các nhà đầu tư có số vốn lớn và vốn nhàn rỗi. Họ hiểu rõ và chấp nhận mức độ rủi ro tối đa là có thể mất hết vốn, chấp nhận rủi ro cao để kỳ vọng mức lợi nhuận cao. Tuy nhiên hiện nay các ngân hàng thương mại lại có xu hướng đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có rủi ro cao như bất động sản hay chứng khoán. Điều này cho thấy các ngân hàng thương mại đang lấn sân sang các hoạt động của ngân hàng đầu tư. Chính sự nhập nhằng trong quy chế hoạt động của hai hệ thống ngân hàng đã dẫn đến hiện tượng này. Hiện tượng này có thể dẫn tới tình trạng thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, trầm trọng hơn là sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống ngân hàng vì các ngân hàng thương mại chiếm đa số, là “xương sống” của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng trung ương cần nhanh chóng triển khai, xây dựng một hệ thống giám sát chặt chẽ, nhất là trong hoạt động tín dụng trong đó chú trọng áp dụng các công nghệ quản lí tiên tiến, xây dựng hành lang pháp lí rõ ràng, định nghĩa chính xác về nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại, tránh gây ra những chồng chéo trong việc quản lí và thực thi nhiệm vụ. 46
  47. KẾT LUẬN Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, NHTW cũng như hệ thống NHTM đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế đất nước. Giữa hai loại ngân hàng này luôn tồn tại mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. NHTW tạo ra những điều kiện thuận lợi, cung cấp phương tiện hoạt động cho NHTM đồng thời NHTM thực hiện chức năng của mình trên phương diện kế tiếp, phát triển hoạt động của NHTW một cách độc lập và hiệu quả. Trong thực tế hệ thống tài chính hiện nay, hai rủi ro đáng kể và thường xuyên nhất của hệ thống các NHTM là rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng. Bằng việc sử dụng công cụ chính là quyền lực của mình thông qua chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt, NHTW phần nào có thể giúp các NHTM phòng ngừa hay giải quyết các rủi ro đó. Tuy nhiên, để hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả, luôn cần có sự hợp tác từ phía các NHTM đối với những chính sách mà NHTW đưa ra cũng như sự nghiên cứu cẩn trọng, tỉ mỉ những tác động của chính sách đó tới lợi ích của cả nền kinh tế nói chung và lợi ích của các NHTM nói riêng từ phía NHTW. 47
  48. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Tài chính Tiền tệ - GS.TS Nguyễn Văn Tiến - NXB Thống Kê - 2011 Giáo trình Ngân Hàng Thương Mại - GS.TS Nguyễn Văn Tiến – NXB Thống Kê - 2010 Quản trị rủi ro trong Kinh doanh Ngân hàng - GS.TS Nguyễn Văn Tiến – NXB Thống Kê - 2010 Rủi ro tài chính, thực tế và phương pháp đánh giá – Nguyễn Văn Nam, Hoàng Xuân Quế (ĐH KTQD) – NXB Tài Chính - 2002 Ngân Hàng Thương Mại , Quản trị và Nghiệp vụ - Phan Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Thu Thảo – NXB Thống Kê - 2002 Rủi ro lãi suất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại – Th.S Phạm Tiến Trình Rủi ro hối đoái và một số gợi ý chính sách để giảm rủi ro hối đoái trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu – Nguyễn Thị Nhung – Tạp chí Ngân hàng – Số chuyên đề năm 2005 – trang 60~64 Commercial Banking Issues – Jane Olcott – www.eHow.com Problems Faced by Commercial Banks (For Rural Marketing Notes) - www.scribd.com 48
  49. ro-tin-dung-va-quan-ly-rui-ro-tin-dung-cua-cac-ngan-hang-thuong-mai-tai- t.html html thoai/ post344100.html m%E1%BA%A1i hang/126/11884149.epi 2861912.html tai-viet-nam.htm 49