Tiểu luận Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tieu_luan_chien_luoc_tham_nhap_cua_cac_cong_ty_da_quoc_gia_v.docx
Nội dung text: Tiểu luận Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ===000=== TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư Giáo viên hướng dẫn: Ph.D Nguyễn Thị Lan Sinh viên thực hiện – Mã SV - STT : + Đặng Thị Tình – 1211510067 - 121 (40%) + Lê Thị Ngọc Linh – 1211510036 - 75(30%) + Đỗ Thị Mĩ Hạnh – 1211510020 - (30%) Lớp: Anh 2 - Kinh doanh quốc tế, K51 Hà Nội – 30.9.2013
- Mục Lục LỜI MỞ ĐẦU 3 I, Sơ lược về các công ty đa quốc gia: 5 1, Nguồn gốc ra đời và khái niệm: 5 2, Quá trình phát triển và bản chất: 6 3, Đặc điểm hoạt động: 8 4, Mục đích phát triển: 9 II, Chiến lược thâm nhập của các công ti ĐQG vào các nước đang phát triển: 9 1, Chiến lược quốc tế ( The international Strategy): 9 2, Chiến lược xuyên quốc gia ( The Transnational Strategy ) 10 3, Chiến lược toàn cầu ( The Global Strategy): 11 4, Chiến lược đa nội địa (The multi-domestic Strategy): 12 5, Hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia tại Việt Nam: 12 III, Tổng quan về chuyển giá: 13 1, Khái niệm: 13 2, Động cơ thực hiện chuyển giá: 14 3, Tác động của chuyển giá: 17 IV, Các thủ đoạn chuyển giá của các công ty đa quốc gia trên thế giới: 20 1, Chuyển giá thông qua tài sản hữu hình: 20 2, Chuyển giá thông qua các tài sản vô hình 21 3, Chuyển giá thông qua việc mua nguyên nhiên liệu và bán thành phẩm 23 4, Chuyển giá thông qua hỗ trợ tài chính: 26 5, Một vài ví dụ điển hình về chuyển giá của các công ty đa quốc gia trên thế giới: 27 6, Đề xuất giải pháp chống chuyển giá: 28 V, Chuyển giá ở Việt Nam: 31 1, Môi trường pháp lý: 31 2, Đề xuất giải pháp chống chuyển giá ở Việt Nam: 34 KẾT LUẬN 36 TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
- LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, hoạt động của các công ty đa quốc gia ( MNCs - Multinational Corporations hoặc MNEs – Multinational Enterprises) đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi quốc tế. Chúng là lực lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế thế giới và là mẫu hình thực hiện kiểu tổ chức sản xuất hàng hoá hiện đại. Vì vậy, MNCs đang thâm nhập mạnh mẽ vào tất cả các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế chuyển với chiến lược hết sức phong phú và nhạy bén. Khi các quan hệ kinh tế được thiết lập đa dạng, có sự liên kết, phối hợp giữa các chủ thể kinh doanh, thì việc xác định lợi lợi ích ích kinh tế đã vượt ra ngoài phạm vi của một chủ thể riêng lẻ, mà được tính trong chung của cả tập đoàn hay nhóm liên kết. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, câu hỏi làm sao để lợi ích tổng thể đạt tối ưu luôn được đặt ra với các chủ thể kinh doanh. Chuyển giá được xem là một lời giải cho bài toán lợi ích mà ở đó nhà đầu tư không cần thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Đơn giản vì phương cách này giúp họ giảm tổng nghĩa vụ thuế. Từ đó lợi nhuận sau thuế sẽ gia tăng. Trong xu thế mở rộng cửa chào đón các tập đoàn kinh tế quốc tế, phát huy nội lực với các công ty cha - mẹ - anh - chị - em , thì chuyển giá sẽ là công cụ dễ được các chủ thể kinh doanh sử dụng nhằm thay đổi những nghĩa vụ thuế phải thực hiện với nhà nước. Sự mới mẻ và chứa đựng những hấp dẫn về lợi ích kinh tế của chuyển giá là điều được các nhà quản lý lưu tâm, được các chủ thể kinh doanh, người hoạch định chiến lược tài chính của doanh nghiệp lên chương trình hành động cho mình. Hiện tượng chuyển giá không chỉ gây thiệt hại cho chính phủ nước chủ nhà do bị thất thu thuế, giảm phần lợi nhuận của bên góp vốn của nước chủ nhà do giá trị góp vốn của họ thấp mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại quốc tế. Do các quy luật của thị trường tự do, đặc biệt là quy luật cung cầu không hoạt động trong các tập đoàn đa quốc gia, nên gây ra nhiễu loạn quá trình lưu thông quốc tế. Điều này dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra chuyển giá còn tạo tiền đề cho các doanh nghiệp nước
- ngoài từng bước thôn tính các doanh nghiệp trong nước trong liên doanh, liên kết, tăng nhập siêu và tiềm ẩn nhiều bất ổn xã hội. Nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của vấn đề, chúng em đã lựa chọn và quyết định tìm hiểu, phân tích đề tài “Các thủ đoạn chuyển giá của các công ty đa quốc gia”. Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng chuyển giá ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này sẽ đề ra một số biện pháp chống chuyển giá đảm bảo ổn định phát triển kinh tế tại Việt Nam, các nước trong khu vực và trên thế giới
- I, Sơ lược về các công ty đa quốc gia: 1, Nguồn gốc ra đời và khái niệm: + Nguồn gốc: Trong quá trình phát triển của lịch sử sự ra đời của các TNC trên thế giới gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa .Đó là sự phát triển cao của chế độ tư bản chủ nghĩa là sự vận động sâu sắc của các quan hệ sản xuất tbcn.Khi các mối quan hệ kinh tế vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia và gia nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế ngày càng được phát triển.hai nhà nghiên cứu mác và ăngghen khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã dự đoán tích tụ và tập trung cơ bản thông qua hiệp tác giản đơn và công trường thủ công cùng với sự phân công lao động ngày càng hoàn thiện tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa có quy mô lớnvà sự cạnh tranh của những xí nghiệp này càng trở nên gay gắt .Sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tất yếu sẽ đưa đến kết quả là các xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản hoặc bị sát nhập với nhau để trở thành những xí nghiệp lớn hơn .Chế độ xí nghiệp là chế độ điển hình sinh ra trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất.Khởi đầu xí nghiệp ra đời bằng con đương công trường thủ công nhờ sự kết hợp lao động một khi lao động đã liên kết theo một hình thức nào đó sẽ tạo điều kiện cho việc sáng tạo ra máy mócvà hợp thành hệ thống sản xuất bằng máy móc chế độ xí nghiệp đã có được cơ sở vững chắc về kỹ thuật.Với chế độ tự do cạnh tranh của thị trường đã điều tiết sự phân công và trao đổi của xã hội xí nghiệp và nhà máy cũng nhanh chóng trở thành hình thức tổ chức sản xuất điển hình để tổ chức sự phân công lao động xã hội .nhờ sự phát triểnmạnh mẽ của lực lượng sản xuất chế độ xí nghiệp nhà máy đã mở rộng phạm vi lĩnh vực phân công xã hội từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế.Và do vậy phân công lao động và trao đổi quốc tế về nguyên vật liệu bán thành phẩm và sản xuất giữa các nước ngày c14 ng phát triển. + Khái niệm: Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational corporation) hoặc MNE (Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia; có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế khi chúng có những tác động kinh tế lớn đến một vài khu vực cùng với những nguồn lực
- tài chính dồi dào, phục vụ cho quan hệ công chúng và vận động hành lang chính trị. Công ty đa quốc gia hoạt động và có trụ sở ở nhiều nước khác nhau. (khác với Công ty quốc tế, chỉ là tên gọi chung với những công ty nước ngoài tại 1 quốc gia nào đó). Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa; một dạng mới của MNC đang hình thành tương ứng với quá trình toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên hợp toàn cầu. 2, Quá trình phát triển và bản chất: Tự do cạnh tranh không chỉ làm cho quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tăng lên mà còn là nguyên nhân cho sự ra đời của nền sản xuất dựa trên máy móc và theo đó chế độ xí nghiệp tbcn xuất hiện và ngày càng hoàn thiện.Chế độ xí nghiệp ra đời thúc đẩy phân công lao động mở rộng từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế đã làm cho tích tụ và tập trung tư bản sản xuất tăng lên cao và theo đó các tổ chức độc quyền bắt đầu xuất hiện.C.MÁC và PH.ĂNGGHEN cũng đã khẳng định rằng độc quyền sinh ra từ tự do cạnh tranh nhưng không phủ định nó.Một trong những nhân tố thúc đẩy quá trình tập trung tư bản đó là tín dụng .C.MÁC đã nói:là cơ sở chủ yếu của việc chuyển hoá dần dần những xí nghiệp tư nhân tbcn thành những công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa chế độ tín dụng đồng thời cũng là một phương tiện để mở rộng dần các xí nghiệp hợp tác tới một phạm vi toàn quốc ít nhiều rộng lớn.Một đặc trưng nổi bật trong giai đoạn độc quyền là sự cùng tồn tại đan xen nhau giữa độc quyền quốc gia và quốc tế.Cùng với sự phát triển quan hệ quốc tế làm cho các công ty tư bản liên minh với nhau sản xuất và phân phối hàng hoá trên thị trường thế giới đã hình thành nên các công ty độc quyền quốc tế .Khi nghiên cứu sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế nói chung và các tổ chức độc quyền quốc tế xuyên quốc gia nói riêng phải xuất phát từ sự tích tụvà tập trung sản xuất.Tích tụ và tập trung sản xuất đạt đến một mức độ nhất định làm cho các nhà độc quyền quốc gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia hoạt động trên phạm vi quốc tế thực hiện phân chia thế giới về mặt kinh tế.Tập trung sản xuất có bước phát triển mới thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và trở thành cơ sở kinh tế quan trọng của sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của các công ty xuyên quốc gia.Một điểm đáng chú ý trong tiến
- trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế mỹ từ nửa sau của thế kỷ XIX và càng ngày càng trở thành một trung tâm sức mạnh kinh tế của thế giới.Cùng với sự phát triển của các xí nghiệp công thương hiện đại chế độ xí nghiệp của mỹ cũng đã được mở rộng sang tây âu và nhật bản.Khi phạm vi địa lý của sự phân công nội bộ xí nghiệp công thương hiện đại vượt quá biên giới quốc gia thì tnc hình thành.TNC là một cơ cấu kinh doanh quốc tế dựa trên sự kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế và quá trình phân phối quy mô quốc tế vào trong một cơ cấu công ty đơn nhất nhằm chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế đạt hiệu quả tối ưu để thu lợi nhuận độ quyền cao.TNC được hình thành trực tiếp trên cơ sở xí nghiệp công thương hiện đại,khi các xí nghiệp công thương hiện đại hưng thịnh chúng đã bắt đầu ngay vào việc đầu tư ra nước ngoài để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc sản xuất và tìm mua nguyên liệu.Từ thập kỷ 60 lại đây dưới tác động của sự bùng nổ cách mạng khoa học kỹ thuật và khoa học công nghệ tnc đã phát triển nhanh chóng.TNC đã điều chỉnh các hoạt động kinh doanh xây dựng hệ thống phân công quốc tế kết hợp liên kết theo chiều ngang và dọc trong nội bộ công tycơ cấu tổ chức toàn cầu của tnc tương ứng ra đời .Từ những điều nêu trên ta có 3 giai đoạn quá trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia đi từ tích tụ và tập trung sản xuất hình thành các công ty công ty cổ phần các công ty kinh doanh trong ngành công thương Một là quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ quyền lực kinh tế tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty cực lớn bao gồm trong đó rất nhiều công ty và người ta cũng gọi đó là những tập đoàn với công ty mẹ đứng đầu và các công ty con.Chúng còn được gọi là các công ty nhỏ và vừa chúng phụ thuộc về tài chính kỹ thuật vào công ty mẹ.Ở một số nước tư bản chủ nghĩa số xí nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến70_80% tổng số các xí nghiệp.sự thâu tóm các xí nghiệp nhỏ và vừa thực hiện kiểm soát tài chính kỹ thuật đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tư bản sinh lợi.Nhưng về mặt tổ chức sản xuất hình thức này tỏ tính hiệu quả cao giảm được chi phí sản xuất tận dụng được mọi khả năng nguyên liệu phát huy tính năng động sáng tạo do đó làm tăng quy mô và tỷ suất lợi nhuận.Hai là quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền .Độc quyền hiện đại mang nhiều dấu ấn của thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại.Hoạt động R&D cũng như chuyển giao công nghệ là thế mạnh
- của công ty xuyên quốc gia cùng với mạng lưới thị trường rộng khắp thế giới.ba là quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng đẩy mạnh đưa đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hợp nông công nghiệp nông thương nghiệp.quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệpcùng với sự tác động cảu cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã đưa đến hiện tượng cấu tạo hữu cơ tăng lên và giảm ý nghĩa của địa tô tuyệt đối tạo ra mối liên hệ ngày càng tăng giữa công nông nghiệp đẩy mạng xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc dân.điều này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đã có tác động trở lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển.và để toàn bộ nền kinh tế có thể phát triển mạnh trong cạnh tranh nền nông nghiệp cũng phải có khả năng cạnh tranh cao.qua những nhận xét trên cho thấy rằng quá trình tích tụ tư bản và tập trung sản xuất lâu dài đã dẫn đến sự hình thành các công ty xuyên quốc gia + Bản chất: Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tư bản đã dẫn đến sự biến đổi quan trọng về lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất mà khâu quan trọng nhất là các quan hệ sở hữu.khi nghiên cứu về bản chất của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới cần phải đi từ những vấn đề này.Vì đấy là bản chất đặc trưng của công ty xuyên quốc gia Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở các nước tư bản phát triển có thể quan sát thấy nền sản xuất tbcn có sự phát triển. 3, Đặc điểm hoạt động: Quyền sở hữu tập trung: các chi nhánh, công ty con, đại lý trên khắp thế giới đều thuộc quyền sở hữu tập trung của công ty mẹ, mặc dù chúng có những hoạt động cụ thể hằng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau. Thường xuyên theo đuổi những chiến lược quản trị, điều hành và kinh doanh có tính toàn cầu. Tuy các công ty đa quốc gia có thể có nhiều chiến lược và kỹ thuật hoạt động đặc trưng để phù hợp với từng địa phương nơi nó có chi nhánh.
- 4, Mục đích phát triển: +Thứ nhất, đó là nhu cầu quốc tế hóa ngành sản xuất và thị trường nhằm tránh những hạn chế thương mại, quota, thuế nhập khẩu ở các nước mua hàng, sử dụng được nguồn nguyên liệu thô, nhân công rẻ, khai thác các tìêm năng tại chỗ. +Thứ hai, đó là nhu cầu sử dụng sức cạnh tranh và những lợi thế so sánh của nước sở tại, thực hiện việc chuyển giao các ngành công nghệ bậc cao. +Thứ ba, tìm kiếm lợi nhuận cao hơn và phân tán rủi ro. Cũng như tránh những bất ổn do ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh doanh khi sản xuất ở một quốc gia đơn nhất. Ngoài ra, bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ hay bí quyết sản xuất ở một ngành không muốn chuyển giao cũng là lý do phải mở rộng địa phương để sản xuất. Bên cạnh đó, tối ưu hóa chi phí và mở rộng thị trường cũng là mục đích của MNC. Hoạt động của các MNC, vì được thực hiện trong một môi trường quốc tế, nên những vấn đề như thị trường đầu vào, đầu ra, vận chuyển và phân phối, điều động vốn, thanh toán có những rủi ro nhất định. Rủi ro thường gặp của các MNC rơi vào 2 nhóm sau: - Rủi ro trong mua và bán hàng hóa như: thuế quan, vận chuyển, bảo hiểm, chu kỳ cung cầu, chính sách vĩ mô khác - Rủi ro trong chuyển dịch tài chính như: rủi ro khi chính sách của chính quyền địa phương thay đổi, các rủi ro về tỷ giá, lạm phát, chính sách quản lý ngoại hối, thuế ,khủng hoảng nợ II, Chiến lược thâm nhập của các công ti ĐQG vào các nước đang phát triển: 1, Chiến lược quốc tế ( The international Strategy): Sản phẩm được sản xuất tại thị trường nội địa và bán ra thị trường các quốc gia khác với sự điều chỉnh tối thiểu theo yêu cầu của địa phương. Từng SBU có quyền chủ động áp dụng chiến lược này.
- Chiến lược này ít chịu sức ép giảm chi phí và sức ép của yêu cầu địa phương (vì hoạt động sản xuất chủ yếu diễn ra trong nước). Nhưng nó nhạy cảm cao đối với các rủi ro về tỷ giá và rủi ro về chính trị Đặc trưng: - Khai thác lợi thế so sánh, vị trí trong nước để biến thành lợi thế cạnh tranh - Đi vào những thị trường thiếu kĩ năng của MNC. Giá trị được tạo ra bằng sự chuyển đưa những cốt lõi cạnh tranh từ chính quốc ra nước ngoài – nơi mà đối thủ cạnh tranh không có khả năng phát triển, đáp ứng, duy trì - Thường theo một kiểu mẫu giống nhau khi mở rộng thị trường nước ngoài - Tập trung hóa những chức năng phát triển sản phẩm như R&D tại chính quốc, sản xuất sản phẩm theo chuwnr mực nhu cầu thị trường nội địa. - Thiết lập các bộ phận sản xuất, marketing tại những khu vực, quốc gia trọng yếu, nơi họ kinh doanh quốc tế - Trụ sở chính kiểm soát chặt chẽ những chiến lược mark và sản phẩm, sự thích ứng địa phương thực hiện giới hạn. - Hoạt động quốc tế xếp thứ 2 sau thị trường tại chính quốc Hạn chế: có thể bỏ sót cơ hội tại thị trường địa phương 2, Chiến lược xuyên quốc gia ( The Transnational Strategy ) Là chiến lược mà MNC tìm cách đạt hiệu quả toàn cầu và đáp ứng địa phương, có chia sẻ sứ mệnh chung của MNC nhưng có những hoạt động thay đổi theo yêu cầu của địa phương ( chuẩn hóa nơi có thể , thích ứng nơi bắt buộc ) Chọn được một địa điểm tối ưu không thể đảm bảo chắc rằng chất lượng và chi phí cho các yếu tố đầu vào ở đó cũng sẽ tối ưu. Chuyển giao kinh nghiệm có thể là một nguồn lực cốt lõi của lợi thế cạnh tranh, nhưng kinh nghiệm không thể tự động được chuyển giao. Đặc trưng: - Lợi thế cạnh tranh có thể phát triển ở bất kì đơn vị hoạt động nào của MNC
- - Cố gắng đạt chi phí thấp dựa trên kinh tế vùng ,tính kinh tế của quy mô, học tập hiệu quả cũng như tạo sản phẩm khác biệt cho khách hang ở những khu vực khác nhau, khuyến khích mở cửa ở những nơi phát triển kĩ năng hoạt động trong hoạt động toàn cầu - Dòng sản phẩm và kĩ năng có thể chuyển đưa giữa các đơn vị trong MNC, tập trung thúc đẩy phát triển các kĩ năng tại các cơ sở học tập toàn cầu - Giá trị tạo ra bằng sự đổi mới củng cố và trao đổi ý tưởng ,sản phẩm và quy trình Hạn chế : - Thực hiện chiến lược này có nhiều khó khăn vì đáp ứng địa phương làm tăng chi phí. - Cần tránh 2 khuynh hướng: tập trung hoạt động của công ty quá lớn vào một vị trí trung tâm, hoặc vì muốn tăng mức độ thích nghi theo địa phương mà phân tán hoạt động của công ty trên quá nhiều địa điểm khác nhau. 3, Chiến lược toàn cầu ( The Global Strategy): MNC mở rộng thị trường nước ngoài dựa trên sự chuẩn hóa và chi phí có tính cạnh tranh; giá trị được tạo ra dựa trên việc thiết kế sản phẩm cho thị trường toàn cầu và sản xuất, marketing hiệu quả nhất. Quy mô sản xuất, phân phối sản phẩm được nâng cao, thuận lợi cho việc đầu tư phát triển và giảm chi phí rất tích cực; nhưng khó đáp ứng nhu cầu địa phương. Đặc trưng: - Liên kết SBU ở nhiều nước để chia sẻ nguồn tài nguyên giá rẻ, nhấn mạnh đến vấn đề đảm bảo qui mô lợi suất kinh tế. - Chuẩn hóa sản phẩm toàn cầu để tối đa lợi nhuận vì khai thác tính quy mô, học tập kinh tế vùng (vị trí chiến lược). - Không cố gắng đáp ứng địa phương. - Thích hợp cho sản phẩm công nghiệp. - Mục tiêu chiến lược là theo đuổi chiến lược chi phí thấp trên phạm vi toàn cầu để hỗ trợ “ chiến lược giá công kích ” (aggressive pricing) trên thế giới.
- - Phân tán vài hoạt động chủ yếu và hỗ trợ như sản xuất ,marketing ,R&D ở vài vị trí thuận lợi nhất trên phạm vi toàn cầu (outsource). - Quyết định tập trung hóa tại trụ sở chính. Hạn chế: Không phù hợp tại những thị trường cần sự thích ứng cao. 4, Chiến lược đa nội địa (The multi-domestic Strategy): Những quyết định chiến lược và hoạt động phân chia theo đơn vị kinh doanh từng quốc gia. Chiến lược này có cơ hội khách hàng hóa cao nhưng hạn chế khai thác quy mô kinh tế, học tập và phối hợp thông tin Đặc trưng: - Tập trung sự cạnh tranh tại từng thị trường - Thu lợi bằng việc khách hàng hóa sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị hiếu của những thị trường quốc gia khác nhau, dẫn đến gia tăng giá trị sản phẩm tại thi trường quốc gia địa phương và đẩy giá sản phẩm lên cao - Mức độ phân quyền cho địa phương cao (gần gũi về vị trí và văn hóa ) - Giá trị được tạo ra bằng việc giao quyền cho nhà QT địa phương để thích ứng với môi trường kinh tế luật pháp văn hóa địa phương - Thích hợp khi có nhiều chi nhánh tại các quốc gia và áp lực giảm chi phí không lớn - Thích hợp cho sản phẩm tiêu dùng Hạn chế: chi phí cao 5, Hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia tại Việt Nam: - Hình thức liên doanh chiếm ưu thế lớn trong những năm đầu: Ở Việt Nam, những năm đầu mở cửa và hợp tác với nước ngoài (tính từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài 12/1987), việc thu hút đầu tư nước ngoài dưới hình th ức liên doanh có nhiều nổi trội so với hình thức đầu tư khác. Phía Việt Nam có thể góp vốn bằng quyền sử ụng đất; hoạt động theo nguyên tắc nhất trí H ội đồng quản trị , nên các thành viên phía Việt Nam và đối tác có quyền ngang nhau. Qua đó, nhà kinh doanh Việt Nam
- có cơ h ội để học hỏi trực tiế p các nhà đầu tư nước ngoài; được tham gia vào hoạch định chính sách, tổ ch ức, ki ểm soát hoạ t đ ộng kinh doanh, rủi ro được phân chia về hai bên nên hình thức này trở thành hình th ức thu hút các công ty ĐQG ch ủ y ếu. - Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đang trở nên phổ biến, thay cho hình thức liên doanh Xu hướng này là các chi nhánh TNCs khi đầu tư vào Vi ệ t Nam mu ốn tự quản lý, quyết định chiến lược kinh doanh, chủ động hơn trong việc lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, trong việc tổ chức kinh doanh và tiếp cận thị trường. Hơn nữa, khi Việ t Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài s ửa đ ổi (năm 1996), chính sách đối x ử bình đẳng gi ữa doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã khiến cho các doanh nghiệp nước ngoài không còn cố bám vào các doanh nghi ệp trong nước để tìm kiếm các chính sách ưu đãi. III, Tổng quan về chuyển giá: 1, Khái niệm: Có quan điểm cho rằng, chuyển giá chỉ là hành vi liên quan đến các tập đoàn kinh tế đa quốc gia. Theo đó, chuyển giá được hiểu là “việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia trên toàn cầu”. Tuy nhiên, trên thực tế, chuyển giá không chỉ được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (doanh nghiệp FDI), mà nó còn được thực hiện bởi các công ty có nhiều công ty con chỉ hoạt động kinh doanh trong nước hoặc thậm chí được thực hiện bởi các công ty là các chủ thể kinh tế độc lập song chủ sở hữu của chúng lại có mối quan hệ thân nhân với nhau. Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, tài sản trong quan hệ giữa các bên liên kết nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của các bên. Các bên liên kết ở đây có thể là các công ty thành viên trong một công ty đa quốc gia, các công ty hoặc đơn vị
- thành viên trong một tổng công ty hoặc các công ty độc lập mà chủ sở hữu của chúng có mối quan hệ đặc biệt thân nhân với nhau. Hành vi đó có đối tượng tác động là giá cả và được thực hiện thông qua các hợp đồng kinh tế về mua bán hàng hoá, tài sản, cung cấp dịch vụ. Cơ sở cho việc chuyển giá xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch kinh tế. Do vậy, họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Quyền này được pháp luật về kinh doanh của mọi quốc gia thừa nhận, nó chỉ bị hạn chế bởi các quy định pháp luật có liên quan, chẳng hạn như pháp luật về cạnh tranh, về thương mại hoặc chính bởi những điều luật về định giá chuyển giao. 2, Động cơ thực hiện chuyển giá: Động cơ của hành vi chuyển giá chính là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh xét trên phương diện tổng thể. Việc xác định giá giao dịch giữa các thành viên của các bên liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Đầu tiên phải kể đến sự khác biệt về thuế suất doanh nghiệp. Khi phát hiện ra thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa hai quốc gia có sự khác biệt lớn, với mục tiêu luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình các công ty đa quốc gia (MNC) sẽ tiến hành thực hiện hành vi chuyển giá nhằm mục đích giảm thiểu tối đa khoản thuế mà MNC này phải nộp cũng như là tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của MNC. Khi có chênh lệch về thuế suất thì thủ thuật chuyển giá mà các MNC thường sử dụng đó là nâng giá mua đầu vào các nguyên, vật liệu, hàng hóa và định giá bán ra hay giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng trên các quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao. Chẳng hạn như, công ty B và C đều là công ty con của tập đoàn A. Công ty B áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 25%. Công ty C kinh doanh ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn nên được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%. Khi B cung cấp vật tư cho C với giá thấp hơn giá thị trường giao dịch sòng phẳng thì làm cho lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của B giảm đi, còn lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của C tăng lên tương ứng. Phần lợi nhuận tăng lên ở công ty C chỉ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 10%. Nếu bán đúng giá thị trường thì phần lợi nhuận này nằm ở công ty B và phải chịu thuế suất 25%. Do đó,
- nếu xét riêng biệt thì công ty B thiệt, còn công ty C được lợi. Nhưng xét tổng thể thì tổng thuế phải nộp của cả hai công ty đã giảm đi. Như vậy, bằng cách thực hiện này thì MNC đã chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao sang quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp và như vậy mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã được thực hiện thành công. Động cơ tiếp theo chính là kỳ vọng về sự biến đổi trong tỷ giá và trong chi phí cơ hội đầu tư. Với mục đích là bảo toàn và phát triển nguồn vốn đầu tư ban đầu, các MNC sẽ tiến hành đầu tư vào một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ mạnh lên nghĩa là số vốn đầu tư ban đầu của họ được bảo toàn và phát triển, ngược lại họ sẽ rút đầu tư ra khỏi một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ bị yếu đi nghĩa là vốn đầu tư ban đầu của họ bị giảm đi. Chẳng hạn một MNC đang định đầu từ vào sản xuất tại Việt Nam với số vốn ban đầu bỏ ra là 100 triệu USD với tỷ giá USD/VND là 20.000 tại thời điểm đầu tư, như vậy tổng vốn đầu tư tương đương là 2.000 tỷ đồng. Thời hạn đầu tư của dự án là 10 năm và giả sử cuối thời hạn đầu tư, MNC rút vốn đầu tư trong tình trạng là hòa vốn kinh doanh. Xảy ra 3 trường hợp đối với lợi nhuận mà MNC thu được từ Việt Nam do chênh lệch tỷ giá: Tỷ giá của USD/VND vẫn giữ nguyên là 20.000: như vậy với tình trạng hòa vốn thì vốn vẫn bảo tồn là 2.000 tỷ đồng, MNC rút vốn ra khỏi Việt Nam là 100 triệu USD. Do đó lợi nhuận mang lại do chênh lệch tỷ giá là 0%. Việt Nam Đồng tăng giá 10% so với USD, tức lúc này tỷ giá USD/VND giảm và 2.000 tỷ VND quy đổi thành 110 triệu USD. Như vậy lúc này MNC thu được do chênh lệch tỷ giá bằng đúng 10% do Đồng Việt Nam tăng giá. Trường hợp ngược lại là Đồng Việt Nam giảm giá 10% tức là tỷ giá USD/VND tăng lên làm cho 2.000 tỷ VND lúc này chỉ đổi được 91 triệu USD. Như vậy vốn đầu tư của MNC rút ra khỏi Việt Nam bị giảm xuống. Lúc này lỗ do chênh lệch tỷ giá cùng bằng đúng tỷ lệ giảm giá của Đồng Việt Nam là 10%. Dựa trên các dự báo về tình hình tỷ giá mà các MNC có thể thực hiện các khoản thanh toán nội bộ sớm hơn hay muộn hơn nhằm giảm rủi ro về tỷ giá. Các khoản công nợ có thể được thanh toán sớm hơn nếu các dự báo cho rằng đồng tiền của quốc gia mà MNC có công ty con sẽ bị mất giá. Và ngược lại các khoản thanh toán sẽ bị trì hoãn nếu
- dự báo cho rằng đồng tiền của quốc gia đó có xu hướng mạnh lên. Do tình hình lạm phát của các quốc gia khác nhau, nếu quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao tức đồng tiền nước đó bị mất giá. Do đó MNC sẽ tiến hành hoạt động chuyển giá nhằm bảo toàn lượng vốn đầu tư và lợi nhuận. Chi phí cơ hội cũng là một trong các động lực để các MNC thực hiện hành vi chuyển giá. Các MNC nhận ra rằng các khoản lợi nhuận của họ chỉ có thể chuyển về nước sau khi kết thúc năm tài chính và sau khi được kiểm tra của cơ quan thuế và chịu sự kiểm soát ngoại tệ của cơ quan quản lý ngoại hối. Vì vậy, các cơ hội đầu tư có thể sẽ bị bỏ lỡ. Do đó các MNC sẽ tiến hành thủ thuật chuyển giá nhằm thu hồi nhanh vốn đầu tư và bắt lấy cơ hội đầu tư khác. Trong các hoạt động liên doanh liên kết với các đối tác trong nước thì các MNC sẽ định giá thật cao các yếu tố đầu vào mua từ công ty mẹ nhằm tăng cường tỷ lệ góp vốn và nắm quyền quản lý. Ngoài ra, các MNC có thể cấu kết với các công ty nước ngoài khác làm lũng đoạn thị trường trong nước. Ngoài ra, yếu tố tình hình kinh tế-chính trị của quốc gia mà MNC có chi nhánh hay công ty con. Các chính sách kinh tế thay đổi ảnh hưởng đến quyền lợi của các công ty con của MNC thì MNC sẽ thực hiện các hành vi chuyển giá nhằm chống lại các tác động. Hoặc nếu tình hình chính trị bất ổn, để giảm rủi ro và bảo tồn vốn kinh doanh bằng cách chuyển giá thì MNC muốn thu hồi vốn đầu tư sớm. Ngoài ra hoạt động chuyển giá cũng nhằm làm giảm các khoản lãi từ đó giảm áp lực đòi tăng lương của lực lượng lao động, cũng như giảm sự chú ý của các cơ quan thuế của nước sở tại. Bên cạnh đó những động cơ bên ngoài đó, chuyển giá còn được thực hiện do một số động cơ bên trong. Khi các hoạt động sản xuất kinh doanh của MNC tại chính quốc hay tại các công ty thành viên trên các quốc gia khác bị thua lỗ. Lý do dẫn đến sự thua lỗ có thể là do sai lầm trong kế hoạch kinh doanh, sai lầm trong việc nghiên cứu và đưa sản phẩm mới vào thị trường, các chi phí quản lý hay chi phí quảng cáo, quảng bá sản phẩm quá cao dẫn đến kết quả kinh doanh bị thua lỗ. Để tạo ra một bức tranh tài chính tươi sáng hơn cho công ty khi đứng trước các cổ đông và các bên hữu quan khác thì chuyển giá như là một cứu cánh để thực hiện ý đồ trên. Chuyển giá giúp cho các MNC san sẻ
- thua lỗ giữa các thành viên với nhau từ đó làm giảm các khoản thuế phải nộp và tạo nên bức tranh kết quả kinh doanh giả tạo vi phạm pháp luật của các quốc gia. Các MNC khi thâm nhập vào một thị trường mới thì điều quan trọng trong giai đoạn này là phải chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh thị phần nhằm xây dựng nền móng ban đầu cho hoạt động kinh doanh sau này. Vì vậy mà các MNC trong giai đoạn này sẽ tăng cường các hoạt động quảng cáo, quảng bá sản phẩm làm cho giai đoạn này MNC sẽ bị lỗ nặng và kéo dài. Trong các mối liên kết kinh doanh hay hợp tác kinh doanh thì các MNC sẽ dựa vào tiềm lực tài chính hùng hậu của mình mà thực hiện các hành vi chuyển giá bất hợp pháp để làm cho hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài và chiếm lấy quyền quản lý và kiểm soát công ty. Tồi tệ hơn là đẩy các đối tác ra khỏi hoạt động kinh doanh và chiếm toàn bộ quyền kiểm soát và chuyển quyền sở hữu công ty. Tình trạng này thường xảy ra phổ biến tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi mà trình độ quản lý còn yếu kém. Sau khi đánh bật các các đối thủ và những bên liên kết kinh doanh ra khỏi thị trường thì MNC sẽ chiếm lĩnh thị trường và nâng giá sản phẩm để bù lại phần chi phí trước đây đã bỏ ra. Do được hưởng các đặc quyền, đặc lợi trong quá trình kêu gọi đầu tư của nước chủ nhà và nắm trong tay các quyền về kinh tế chính trị và xã hội mà MNC xem công ty con đặt trên quốc gia này như là trung tâm lợi nhuận của cả MNC và thực hiện hành vi chuyển giá để lại hậu quả đáng kể cho nước tiếp nhận đầu tư. Ngoài ra chuyển giá còn được thực hiện do việc chuyển giao các sản phẩm và dịch vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và tính bảo mật cao như trong các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, y dược nhằm giảm các rủi ro khi giao dịch các sản phẩm này thì chuyển giá là phương pháp được các MNC lựa chọn. 3, Tác động của chuyển giá: Đối với bản thân các MNC: Chuyển giá giúp cho MNC dễ dàng thực hiện kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình về lợi nhuận và thuế. Dựa vào lợi thế về tiềm lực tài chính, những ưu đãi mà các quốc gia đặc cách cho các MNC khi kêu gọi thu hút đầu tư như thuế suất, hạn ngạch, lĩnh vực đầu tư thì các MNC có thể thực hiện việc chuyển giá nhằm giảm thiểu việc thực hiện nghĩa vụ về thuế đối với quốc gia mà mình đặt trụ sở, trong trường hợp các
- quốc gia này có chính sách tiền tệ thắt chặt. Chuyển giá giúp MNC không bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh và đầu tư, nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường nội địa, đánh bật và thâu tóm các công ty nhỏ lẻ trong nước. Thông qua việc bán các tài sản, thiết bị lỗi thời với giá cao thì một mặt giúp các công ty tại chính quốc thay đổi được công nghệ với chi phí thấp, mặt khác lại giúp thu hồi vốn đầu tư nhanh tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Chuyển giá còn giúp các MNC tránh được các rủi ro trong hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm vì các hoạt động này thường tốn nhiều chi phí và khả năng thành công không cao. MNC sẽ giảm được một số các rủi ro về tỷ giá, rủi ro về thị trường tiêu thụ sản phẩm, rủi ro về tính ổn định của nhà cung cấp nguyên vật liệu và chất lượng nguyên vật liệu và một số rủi ro khác. Tuy nhiên, các MNC có nguy cơ phải gánh chịu những hình phạt nghiêm khắc của quốc gia sở tại và các quốc gia có liên quan nếu việc chuyển giá bị phát hiện. Các MNC sẽ bị phạt một số tiền rất lớn, có khả năng bị rút giấy phép kinh doanh và chấm dứt mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tại quốc gia đó. Bên cạnh đó uy tín của các MNC trên thương trường quốc tế cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng và là tâm điểm chú ý của các cơ quan thuế của các quốc gia khác mà MNC có trụ sở. Đối với các quốc gia liên quan: Các MNC với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận có thể thực hiện mọi phương thức chuyển giá và gây ra hậu quả nghiêm trọng và lâu dài đối với nền kinh tế của không chỉ các quốc gia tiếp nhận đầu tư mà còn cả với các quốc gia xuất khẩu đầu tư, tùy thuộc vào chênh lệch thuế suất giữa hai quốc gia. Đầu tiên, chuyển giá làm thất thu ngân sách nhà nước. Đây có thể coi là tác động hiển nhiên vì với việc doanh nghiệp được lợi về thuế thì phần thuế lẽ ra có thể thu được theo Luật đã không được nộp vào ngân sách nhà nước. Ví dụ như ở Việt Nam, năm 2009 có tới 56% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động kinh doanh kê khai lỗ. Tất nhiên, có thể có trường hợp lỗ thật và số lỗ này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng không thể loại trừ khả năng chuyển giá, bởi vì, nếu đó là lỗ thực sự thì không thể có chuyện các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục gia tăng đầu tư vào Việt Nam. Và thực tế cũng cho thấy trong rất nhiều trường hợp, các nhà đầu tư nước ngoài đã xác định giá chuyển giao khác xa giá thị trường. Kết quả giám định của công ty giám định quốc tế
- Thụy Sĩ (SGS) cho thấy: “Liên doanh Khách sạn Thăng Long (TP Hồ Chí Minh) - giá trị thiết bị khai báo 496.906 USD, giá trị thẩm định khai khống là 190.006 USD, chiếm tỷ lệ 40,43%. Trung tâm quốc tế dịch vụ văn phòng (Hà Nội) - giá trị thiết bị khai báo là 1.288.170 USD, giá trị thẩm định khai khống là 260.000 USD, tỷ lệ 21,16%”. Và hậu quả là tạo ra sự phản ánh sai lệch hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, tạo ra một bức tranh kinh tế không trung thực. Trong trường hơp quốc gia tiếp nhận đầu tư có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn nên trở thành người được hưởng lợi từ hoạt động chuyển giá của các MNC. Vì vậy mà các quốc gia này cố ý làm lơ để các MNC tha hồ thực hiện hành vi chuyển giá và các quốc gia này không sẵn lòng hợp tác với chính quốc để ngăn chặn hành vi chuyển giá. Về lâu dài, khi mà có sự chuyển biến của môi trường kinh doanh quốc tế thì các quốc gia này từng được xem là “thiên đường về thuế” sẽ đến lượt gánh chịu những hậu quả do việc thả lỏng và thờ ơ trong công tác quản lý trước đây gây ra. Lúc này các quốc gia này sẽ phải đương đầu với khó khăn về tài chính do các nguồn thu không bền vững đã phản ánh không chính xác sức mạnh của nền kinh tế và khủng hoảng kinh tế sẽ xảy ra. Ngoài ra, chuyển giá còn tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế. Mặc nhiên, khi một doanh nghiệp được hưởng lợi về nghĩa vụ thuế thông qua hành vi chuyển giá, doanh nghiệp này sẽ thu lợi cao hơn những doanh nghiệp khác có cùng điều kiện nhưng không thực hiện hành vi chuyển giá. Thông qua hoạt động chuyển giá nhằm xâm chiếm thị phần khi mới tham gia vào thị trường, các MNC sẽ tiến hành các chiêu thức quảng cáo và khuyến mãi quá mức, và hậu quả là lũng đoạn thị trường. Các doanh nghiệp trong nước không đủ tiềm lực tài chính để cạnh tranh vì vậy mà dần dần sẽ bị phá sản hoặc buộc phải chuyển sang kinh doanh trong các ngành khác. Các MNC sẽ dần trở nên độc quyền và thao túng thị trường trong nước, kiểm soát giá cả và mất dần tính tự do cạnh tranh của thị trường tự do. Chính phủ của quốc gia này sẽ gặp khó khăn trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô và không thể thúc đẩy ngành sản xuất trong nước phát triển. IV, Các thủ đoạn chuyển giá của các công ty đa quốc gia trên thế giới:
- 1, Chuyển giá thông qua tài sản hữu hình: Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình (bao gồm: chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó, nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy, có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên và có giá trị), tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị Chuyển giá thông qua tài sản hữu hình là thủ đoạn chuyển giá chính của các công ty đa quốc gia trên thế giới bằng cách định giá thật cao các tài sản cố định chuyển giao cho các thành viên hoặc công ty con ở các quốc gia có thuế suất cao. Giá chuyển giao này thường cao gấp nhiều lần giá trị thực của nó, vì vậy mà công ty có thể chuyển một phần thu nhập ra nước ngoài. Vì vậy mà thu nhập chịu thuế sẽ giảm. Khi thực hiện hành vi này, các công ty đa quốc gia một mặt tiết kiệm được chi phí thanh toán các tài sản cố định lỗi thời, một mặt lại chuyển được thu nhập về quốc gia có thuế suất thấp, từ đó tối đa hóa lợi nhuận của công ty mẹ. Nhiều người sẽ lầm tưởng, nếu như một phần thu nhập được công ty con chuyển ra nước ngoài cho công ty mẹ thì công ty mẹ vẫn phải nộp thuế cho nước của công ty mẹ, như vậy thì có khác gì đâu. Trên thực tế, thuế thu nhập doanh nghiệp đánh cả vào thu nhập ở trong lẫn ngoài nước, cho nên nếu lợi nhuận của công ty mẹ phát sinh ở nước ngoài thì vẫn phải đóng thuế. Tuy nhiên các nước có thỏa thuận với nhau về thuế suất mà doanh nghiệp phải nộp.Giả sử nước A thu thuế thu nhập là 28% doanh thu sau khi trừ đi các khoản khác, mức thuế của nước B là 25%. Ở nước A có công ty X, công ty X mở công ty con tại nước B. Vậy số thuế mà công ty con phải nộp cho nước B là 25%, lợi nhuận sau đó chuyển về công ty mẹ ở nước A phải chịu 3% thuế (28-25=3). Trường hợp ngược lại, nước ở công ty con có mức thuế cao hơn mức thuế ở công ty mẹ thì lợi nhuận chuyển về được miễn thuế do đã đóng thuế ở nước công ty con rồi. Với ví dụ trên thì nghĩa là nếu nước A có mức thuế 25%, nước B có mức thuế 28%, công ty con đóng 28% xong chuyển lợi nhuận về công ty mẹ thì công ty mẹ ko phải đóng thuế (25-28= -3%, ko
- tính thuế). Lợi dụng đặc điểm trên, các công ty đa quốc gia thường để cho công ty con của mình ở các quốc gia có thuế thu nhập doanh nghiêp cao chịu lỗ (thường là lỗ rất nhiều) để không phải chịu thuế. 2, Chuyển giá thông qua các tài sản vô hình Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Ngày nay quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bản quyền, bí quyết kĩ thuật, thương hiệu, uy tín là những tài sản vô hình phổ biến của doanh nghiệp. Có thể phân biệt được một cách rõ ràng một tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp hay không thì phụ thuộc vào các đặc tính của tài sản đó. Uy tín của công ty có thể coi là một tài sản không xác định vì nó luôn gắn liền với sự tồn tại của công ty chừng nào công ty còn tồn tại. Tuy nhiên nếu công ty kí kết hợp đồng sử dụng bằng phát minh sáng chế của một công ty khác và không có ý định kéo dài hiệu lực của hợp đồng thì công ty chỉ được sử dụng bằng phát minh sáng chế này trong một thời hạn xác định. Khi đó bằng phát minh sáng chế trở thành một tài sản vô hình của công ty. Mặc dù tài sản vô hình không có hình thái vật chất cụ thể như các trang thiết bị máy móc nhà xưởng khác của công ty nhưng nó lại rất có giá trị đối với công ty và có thể trở thành nhân tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Ví dụ một công ty như Coca-Cola khó có thể đạt được vị trí như hiện tại nếu không có sự hỗ trợ tích cực của các nhãn hiệu. Nhãn hiệu này dù không có hình thái vật chất cụ thể để có thể cầm nắm được song nó lại được thừa nhận, được nhiều người biết đến, và có tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, làm tăng doanh số bán hàng trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế việc sở hữu một nhãn hiệu mạnh là điều rất có ý nghĩa đối với các công ty lớn như Coca-Cola. Chuyển giá thông qua tài sản vô hình là thủ đoạn chuyển giá thông qua việc mua lại các tài sản cố định vô hình hay chi trả các chi phí bản quyền, chi phí xây dựng thương hiệu, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩmvới giá thật cao. Các công ty mẹ sẽ đặt các phòng nghiên cứu ở các quốc gia có thuế suất cao, tất cả các chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm sẽ do công ty con ở quốc gia đó chịu nhưng kết quả nghiên cứu thì tất cả các công ty con ở các nước khác đều được sử dụng. Hoặc đơn giản hơn là công ty con phải mua bản quyền với giá cao khiến cho lợi nhuận giảm sút thậm chí bị lỗ. Điều này
- làm tối thiểu hóa khoản thuế phải nộp, đồng thời việc phân bổ các nguồn chi phí là do chủ quan của các công ty nên đây cũng được coi là một thủ đoạn chuyển giá. Ví dụ về chuyển giá thông qua tài sản cố định vô hình Tập đoàn viễn thông WorldCom từng là công ty viễn thông đường dài lớn thứ 2 tại Mỹ sau AT&T. WorldCom đã sáng tạo trong việc sử dụng chuyển giá cho một loạt các nhãn hiệu, tên thương mại, bí mật thương mại, thương hiệu, nhãn hiệu dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ. Với mức phí là 9,2 triệu USD, công ty kiểm toán KPMG đã khuyên công ty nên tăng thu nhập sau thuế bằng cách áp dụng một chương trình chuyển nhượng tài sản vô hình. Theo đó, công ty sẽ tạo ra tài sản được gọi là “Management Foresight”, một tài sản vô hình chưa từng được biết đến. Công ty mẹ đã thực hiện chương trình này để được hưởng một quyền chịu thuế thấp và đã cho phép các công ty con của nó chuyển đổi các khoản thanh toán phí bản quyền hàng năm, sự thỏa thuận này dự kiến sẽ tiết kiệm được 25 triệu USD tiền thuế trong năm đầu tiên và 170 triệu USD trong khoảng hơn 5 năm. Tuy nhiên, sau scandal gian lận kế toán trị giá 11 tỉ USD, WorldCom đã nộp đơn xin phá sản vào ngày 21/7/2002. Kết quả giám định phá sản của WorldCom cho thấy rằng trong một vài trường hợp việc tính tiền bản quyền đã thực sự vượt quá thu nhập ròng hợp nhất của công ty trong mỗi năm của giai đoạn 1998-2001 và trong những trường hợp khác chiếm tới 80-90% thu nhập ròng của công ty con. Trong khoảng thời gian bốn năm từ 1998-2001, phí bản quyền cho việc sử dụng tài sản vô hình của công ty và hầu hết các khoản phí từ việc chương trình “Management Foresight” là hơn 20 tỷ USD. Các công ty con đã biến chi phí bản quyền thành một chi phí hợp lý và đủ điều kiện được giảm thuế do đó số tiền thu nhập của công ty bị đánh thuế ở tỷ lệ thấp. Một thỏa thuận chuyển giá như vậy có thể giúp công ty tiết kiệm từ 100 triệu đến 350 triệu USD tiền thuế. Vụ phá sản của WorldCom đã trở thành một trong những vụ phá sản đình đám nhất lịch sử cũng như là một vụ lừa đảo bê bối nhất. Bernie Ebbers – Tổng giám đốc điều hành của tập đoàn viễn thông WorldCom cũng đã bị lĩnh án 25 năm tù giam vì hành vi lừa đảo của mình. 3, Chuyển giá thông qua việc mua nguyên nhiên liệu và bán thành phẩm
- Đây là thủ đoạn chuyển giá mà trong đó, công ty con sẽ mua nguyên nhiên liệu hoặc bán thành phẩm từ công ty mẹ hay công ty liên kết với mức giá cao hơn giá thị trường, và sẽ bán ra với mức giá thấp hơn giá thị trường nhằm tối thiểu hóa thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan thuế của nhà nước. Cơ sở của hình thức chuyển giá này là việc thuế suất doanh nghiệp giữa các quốc gia có sự chênh lệch khá lớn. Khi công ty con mua nguyên nhiên liệu từ công ty mẹ hay công ty liên kết với giá cao và bán ra với giá thấp, công ty sẽ rơi vào tình trạng “lỗ giả” hoặc lợi nhuận chiếm phần không đáng kể trong tổng doanh thu; nhờ thủ thuật này, công ty con (đóng tại các quốc gia có mức thuế suất doanh nghiệp cao) không phải đóng thuế, hoặc chỉ một phần nhỏ lợi nhuận thực tế mà công ty tạo ra. Trong khi đó, công ty mẹ nhờ vào việc bán nguyên vật liệu với giá cao và mua sản phẩm với giá rẻ (để từ đó phân phối ra các đại lí bán lẻ) lại thu được lợi nhuận khổng lồ, và số tiền phải nộp thuế có thể bằng 0 (nếu các công ty này đóng ở các thiên đường thuế), hoặc là thuế suất rất bé. Bằng cách này các công ty đa quốc gia đã chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia có thuế suất doanh nghiệp cao sang quốc gia có thuế suất doanh nghiệp thấp, lợi nhuận của cả tập đoàn không đổi, nhưng lợi nhuận sau thuế tăng lên đáng kể. Một trong những vụ chuyển giá nổi tiếng nhất ở Canada cho tới nay liên quan đến tập đoàn dược phẩm Anh Quốc Glaxo SmithKline, mà cụ thể là công ty con Glaxo Canada và việc định giá ranitidine, thành phần chính trong thuốc Zantac. Glaxon Canada phải trả một cái giá cao hơn gấp 5 lần khi mua ranitidine từ Glaxo Group so với giá thị trường. Để có được quyền sản xuất và bán nhãn hàng thuốc Zantac tại thị trường Canada, Glaxo Canada đã phải trả tiền bản quyền cho công ty mẹ ở Anh Quốc thông qua một thỏa thuận cấp phép trong đó: Glaxo Canada được phép sản xuất, sử dụng và bán các sản phẩm của Glaxo group, được sử dụng các nhãn hiệu thuộc quyền sở hữu của Glaxo group, được tiếp cận những sản phẩm mới, và nhận được hỗ trợ kĩ thuật từ Glaxo Group. Tuy nhiên, theo như thỏa thuận này, Glaxo Canada buộc phải mua ranitidine từ nhà cung ứng cho phép của Glaxo Group (trong trường hợp này là Adechsa, một công ty không (non-resident company) thường trú tại Thụy Sĩ.
- Năm 1976, một người tiền nhiệm của Glaxo SmithKline đã phát hiện ra một loại thuốc ranitidine(được lưu hành với tên gọi Zantac), sau đó được phép kinh doanh tại Canada từ năm 1981. Nhà máy sản xuất ranitidine chủ yếu được những công ty liên kết tại Anh vài Singapore, sau đó được bán cho Adechsa, một công ty liên kết khác tại Thụy Sĩ nhằm mục đích kinh doanh ranitidine cho các công ty không liên kết khác với mức giá được chỉ định bởi công ty mẹ ở Anh quốc. Trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 1993, Glaxo Canada nhập ranitidine sử dụng cho việc sản xuất và bán Zantac ở Canada, việc mua bán này diễn ra theo thỏa thuận cung ứng (supply agreement) được kí kết vào năm 1983 giữa Glaxo Canada và Adechsa. Glaxo Canada mua ranitidine từ Adechsa với giá giao động từ 1512$ đến 1651$/ kg. Trong khi đó, những nhà sản xuất khác chỉ phải mua vào với giá thấp hơn khoảng 5 lần (từ 194$/kg đến 304$/kg). Glaxo Canada cứ tiếp tục mua vào với mức giá cao theo thỏa thuận từ trước, dẫn đến báo cáo lợi nhuận thấp và thậm chí còn dẫn đến thua lỗ ở Canada. CRA (Canada revenue agency - Cơ quan thuế Canada) đã quyết định đánh giá lại mức thuế của Glaxo Canada trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 1993, mở ra một loạt phiên tòa xét xử, bắt đầu từ 30/5/2008 với cho đến phiên tòa cuối cùng ngày 18/10/2012 diễn ra tại tòa án tối cao Canada. Hình thức chuyển giá này khá là phổ biến ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam; CocaCola là một ví dụ điển hình. CocaCola Chương Dương là một liên doanh giữa hai đối tác là Công ty nước giải khát Chương Dương và Tập đoàn CocaCola Indochina PTE.LTD, được cấp phép hoạt động chính thức vào ngày 27/9/1995, với số vốn đầu tư là 48,7 triệu đồng. Ở Cocacola, hơn 40% chi phí cho nguyên vật liệu được nhập từ công ty mẹ, mà đối với ngành sản xuất nước giải khát thì chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỉ trọng rất lớn trong tổng chi phí (khoảng 50%); điều đó cũng đồng nghĩa với việc giá trị nguyên liệu nhập khẩu từ công ty mẹ, tiềm ẩn nguy cơ các doanh nghiệp tiến hành chuyển giá để tránh thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thực tế báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty cho thấy tỉ trọng chi phí nguyên vật liệu chiếm hơn 60% tổng chi phí của toàn doanh nghiệp, đây là một con số quá cao, phù hợp với đặc điểm của ngành. Dưới đây là Bảng so sánh tỉ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn hàng bán của công ty Coca cola Chương Dương và hai công ty con Coca cola tại Australia và Canada: Cocacola Chương Cocacola Amati Cocacola enterprises Năm Dương (Australia) (Canada) 1997 81% 31.68% 35.23% 1998 86.67% 34.84% 36.94% Trong khi tỉ lệ nguyên vật liệu trên vốn của CocaCola Chương Dương luôn chiếm trên múc 80% trong hai năm 1997 và 1998, tại CocaCola Amati và CocaCola enterprises chỉ dao động từ 31 đến 37%. Qua đây có thể phần nào khẳng định là có hành vi chuyển giá trong hành vi mua nguyên vật liệu sản xuất từ công ty mẹ. CocaCola Chương Dương có thể đã kê khai nâng giá mua vào (so với giá thực tế), nhằm mục đích tạo ra thua lỗ giả tạo tại Việt Nam, nhưng lợi nhuận thực chất đã được chuyển sang cho công ty mẹ. Tình trạng chuyển giá cũng diễn ra tương tự tại các công ty con của CocaCola tại Việt Nam (nhà máy CocaCola Ngọc Hồi-Hà Nội, nhà máy CocaCola Non Nước; năm 2001 ba nhà máy này sát nhập lại thành công ty Coca Cola Việt Nam). Theo cục thuế thành phố Hồ Chí Minh cho biết, CocaCola đã lỗ dài từ khi chính thức hoạt động tại Việt Nam 10 năm trước với số lỗ luôn đạt mức trên 100 tỉ đồng một năm, có những năm số lỗ chiếm tới một phần ba tổng doanh thu. Trong năm 2006, CocaCola lỗ 228 tỉ đồng, năm 2007 có giảm nhưng cũng ở mức 198 tỉ đồng. Đặc biệt năm 2011, số lỗ giảm xuống chỉ còn 39 tỉ đồng. Nhưng tính đến 30/9/2011, CocaCola đã lỗ lũy kế 3768 tỉ đồng. Bằng cách chuyển giá này, CocaCola trốn phải nộp một con số không lồ tiền thuế cho cơ quan nhà nước. 4, Chuyển giá thông qua hỗ trợ tài chính:
- Đây là hình thức chuyển giá bằng cách công ty mẹ sẽ cho công ty con vay vốn với lãi suất rất cao nhằm giảm lợi nhuận thu được. Có trường hợp công ty mẹ sẽ bảo lãnh cho công ty con vay vốn với phí bảo lãnh cao. Qua thực tế kiểm tra cho thấy, các công ty đa quốc gia và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hầu hết đều áp dụng hình thức này. Vay vốn với lãi suất hay phí bảo lãnh cao đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất sẽ bị đẩy lên rất cao, lợi nhuận trước thuế giảm, qua đó giảm thuế phải nộp. Một ví dụ điển hình cho hình thức này là công ty xi măng ChinFon Hải Phòng, liên doanh hợp tác giữa ChinFon Investment Co., Ltd (Đài Loan) và Tổng công ty xi măng Việt Nam cùng xí nghiệp khai thác đá Minh Đức, Hải Phòng. Công ty được thành lập theo giấy phép đầu tư số 490/GP của Uỷ Ban Nhà nước Hợp tác & Đầu tư (nay là Bộ KH&ĐT) ngày 24/12/1992. Nhà máy sản xuất tại Tràng Kênh, Thuỷ Nguyên - TP.Hải Phòng, công suất 1,4 triệu tấn xi măng/năm. Công ty có tổng vốn đầu tư: 288,3 triệu USD; Sau khi hoàn thành dây chuyền 1 tổng trị giá quyết toán là 263.705.066 USD. Vốn pháp định của công ty: 90.000.000 USD, trong đó phía nước ngoài (Đài Loan) góp 70%, bằng 63 triệu USD; phía Việt Nam: Tổng công ty Xi măng Việt Nam góp 14,44%, bằng 13 triệu USD và Xí nghiệp khai thác đá Minh Đức - Hải Phòng, góp 15,56%, bằng 14 triệu USD. Tuy nhiên, hàng năm công ty ChinFon phải trả chi phí bảo lãnh cho công ty mẹ lên tới 398.768 USD 1 năm. Thuế GTGT cho khoản phí này được công ty tính khấu trừ vào thuế GTGT của chi phí đầu vào, từ đó gây thất thu cho nguồn thuế. Trước tình hình đó, Cục thuế Thành phố Hải Phòng đã có công văn số 875/CT-ĐTNN ngày 18 tháng 8 năm 2003 về vấn đề khấu trừ thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với phí bảo lãnh trả bằng lợi nhuận sau thuế gửi tới tổng cục Thuế Việt Nam. Sau đó, tổng cục thuế cũng đã có công văn số 3422 TCT/NV5 trả lời cục thuế Hải Phòng. Trong công văn nêu rõ “trường hợp Công ty xi măng Chinfon Hải Phòng quyết định sử dụng lợi nhuận sau thuế để trả phí bảo lãnh thì thuế GTGT đối với khoản phí bảo lãnh này không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào của Công ty. Toàn bộ chi phí bảo lãnh bao gồm cả thuế GTGT được sử dụng bằng nguồn lợi nhuận sau thuế”, tức là công ty ChinFon sẽ phải trả toàn bộ chi phí bảo lãnh bằng lợi nhuận sau thuế chứ không còn được khấu trừ thuế GTGT vào thuế GTGT của đầu vào
- nữa. Chính hành động kịp thời này đã ngăn chặn kịp thời hành vi chuyển giá nhằm gian lận thuế của công ty ChinFon. 5, Một vài ví dụ điển hình về chuyển giá của các công ty đa quốc gia trên thế giới: Apple Theo 1 vài tính toán của các chuyên gia tài chính, năm 2011 Apple chỉ phải chi trả có 1,9% thuế doanh nghiệp cho những khoản lợi nhuận kếch xù từ nước ngoài, lên tới hàng chục tỷ USD. Cụ thể, theo hồ sơ tài chính mà Apple đệ trình lên Ủy ban Chứng khoán Mỹ, Apple đã trả 713 triệu tiền thuế cho 36,8 tỷ USD tổng lợi nhuận trước thuế từ nước ngoài trong năm tài khóa kết thúc ngày 29/9. Apple đã có thể phải đóng thuế lợi nhuận nhiều hơn đối với những quốc gia mà họ bán sản phẩm, song hãng này đã tối thiểu hóa khoản thuế phải nộp bằng cách sử dụng nhiều phương pháp tính toán khác nhau, nhằm chuyển lợi nhuận sang các nước có mức thuế thấp. Hồi tháng 4 năm nay, tờ New York Times đã đăng bài viết nói về chiến lược né thuế tinh vi của Apple tại Mỹ và trên thế giới. Theo báo này, năm 2006, khi cổ phiếu của Apple bắt đầu tăng vọt, các quan chức của hãng đã lập một chi nhánh mang tên Braeburn Capital ở thành phố Reno, Nevada. Braeburn Capital, có chức năng quản lý và đầu tư tiền mặt của Apple nhưng chỉ có vài chục nhân viên. Lý do Apple chọn Reno làm nơi đặt chi nhánh này là bởi, mức thuế doanh nghiệp ở Nevada chỉ là 0%, trong khi tại bang California, nơi Apple đặt trụ sở, là 8,84%. Theo đó, khi một khách hàng ở Mỹ mua một sản phẩm của Apple, một phần lợi nhuận từ thương vụ sẽ được chuyển vào các tài khoản do Braeburn Capital quản lý. Braeburn Capital sau đó dùng số tiền này đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ tài chính khác. Và khi các khoản đầu tư này sinh ra lợi nhuận cho Apple, cơ quan thuế California không thể thu thuế của Apple bởi địa chỉ của Braeburn Capital là ở Nevada. Kể từ khi
- thành lập Braeburn Capital, Apple đã kiếm hơn 2,5 tỷ USD từ tiền lãi và cổ tức thu được từ dự trữ tiền mặt và các khoản đầu tư tài chính toàn cầu. Như vậy, theo tờ New York Times, văn phòng của Apple ở Reno có chức năng giúp tập đoàn này tránh thuế các bang tại Mỹ. Tuy nhiên, việc mở văn phòng tại Reno mới chỉ là một trong số rất nhiều thủ thuật hợp pháp mà công ty này đang sử dụng để tránh hàng tỷ USD thuế thu nhập mà họ phải chịu mỗi năm trên toàn thế giới. Tương tự như tại Nevada, Apple đã mở nhiều văn phòng tại những “thiên đường” về thuế như Ireland, Hà Lan, Luxembourg, British Virgin Islands . Thậm chí, mặc dù biết được thủ đoạn trốn thuế của Apple nhưng chính phủ Luxembourg còn cam kết chỉ đánh thuế của Apple ở mức thấp nếu như hãng chuyển các giao dịch qua nước này. Ngoài Luxembourg, từ thập niên 1980, Apple đã thành lập hai chi nhánh ở Ireland là Apple Operations International và Apple Sales International. Chính phủ Ireland ưu đãi thuế cho Apple, nhưng lợi ích thật sự ở đây là Apple có thể chuyển tiền thu được từ bản quyền các phần mềm phát triển ở California sang Ireland. Đây là một thao tác rất đơn giản trong nội bộ Apple nhưng kết quả nó đem lại đó là một khoản lợi nhuận khổng lồ bởi mức thuế suất tại Irenaldn chỉ xấp xỉ 12,5%, thay vì mức 35% tại Mỹ. Chính vì vậy từ năm 2004, Ireland đã là nơi đóng góp hơn một phần ba doanh thu toàn cầu của Apple. Không chỉ có thế, qua chi nhánh Ireland, Apple cũng chuyển lợi nhuận sang các công ty không chịu thuế ở vùng Caribean, đặc biệt là quần đảo "thiên đường thuế" Virgin. Nhờ hiệp ước giữa Ireland và các quốc gia châu Âu, Apple tha hồ chuyển lợi nhuận qua Hà Lan mà không hề bị đánh thuế. 6, Đề xuất giải pháp chống chuyển giá: Trong thời gian qua, xác định hoạt động chuyển giá của các công ty đa quốc gia không chỉ đem lại thiệt hại vật chất cho nền kinh tế, mà còn tạo thói quen coi thường luật pháp, thói quen trốn thuế của các công ty đa quốc gia, nên cơ quan thuế các nước đang phát triển đã tích cực sử dụng các biện pháp nhằm hạn chế hiện tượng chuyển giá. Cụ thể như
- Đẩy mạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý chống chuyển giá: Cần nhanh chóng xây dựng và ban hành cá điều luật, quy định về chống chuyển giá; đồng thời, bổ sung các quy định về chống chuyển giá vào Luật quản lý thuế. Sớm hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về hoạt động của các doanh nghiệp: Đây là cơ sở để thống kê, kiểm soát tình hình sản xuất, kinh doanh, lịch sử chấp hành luật thuế, thông tin về các bên liên kết, giá cả, chi phí của các mặt hàng trong từng ngành, từng lĩnh vực giúp cơ quan thuế có cơ sở so sánh, phân tích, phát hiện và đấu tranh chống chuyển giá có hiệu quả. Hiện nay, chúng ta chưa xây dựng được một cơ sở dữ liệu về giá cả của các hàng hóa được giao dịch bởi hai công ty độc lập hay giữa 2 công ty liên kết, vì thế khi một vụ mua bán nội bộ diễn ra, rất khó cho các cơ quan chức năng để tìm được một vụ mua bán tương tự giữa hai công ty độc lập làm cơ sở so sánh, đối chiếu để xác định xem có hành vi chuyển giá hay không. Ngoài ra, việc xây dựng cơ sở dữ liệu nên được tiến hành thống nhất và công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người đều có thể tra cứu khi cần. Trên cơ sở của hệ thống dữ liệu về doanh nghiệp, có thể xây dựng các định mức về chi phí, về giá cả đầu ra, đầu vào, về tỷ suất lợi nhuận bình quân của từng ngành nghề, từng địa bàn, giá cả thị trường trong và ngoài nước với từng loại hình doanh nghiệp làm cơ sở thực hiện đấu tranh chống chuyển giá. Kiện toàn bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thuế: Cần nghiên cứu thành lập một bộ phận chuyên trách phục vụ công tác quản lý thuế đối với hoạt động chống chuyển giá tại Tổng cục thuế, đồng thời thành lập các tổ chuyên trách phục vụ công tác quản lý thuế đối với hoạt động chống chuyển giá tại một số Cục thuế có nhiều doanh nghiệp, công ty có vốn nước ngoài. Các cán bộ của các bộ phận này sẽ được đào tạo bài bản, chuyên sâu về hoạt động chống chuyển giá, là người thường xuyên kiểm tra hoạt động của các bên liên kết, phòng ngừa và phát hiện, đấu tranh chống các hiện tượng chuyển giá. Mặt khác, phải đưa những vấn đề cơ bản về chuyển giá vào chương trình đào tạo phổ cập nâng cao kiến thức hàng năm cho toàn bộ cán bộ thuế, nhằm nâng cao ý thức và khả năng phát hiện các hiện tượng chuyển giá giữa các doanh nghiệp liên kết ngay từ cơ sở. Một điều quan trọng nữa là cần phải nâng cao ngoại ngữ cho các cán bộ thuế bởi vì một thực trạng hiện nay là các cán bộ của nước ta chuyên môn rất giỏi nhưng kém
- ngoại ngữ, gây khó khăn trong khi làm việc với đối tác nước ngoài. Ngoài ra các MNC thường có trụ sở tại các nước phát triển, nơi có trình độ quản lý tương đối cao, vì thế đội ngũ cán bộ của nước ta luôn cần phải cập nhật kiến thức một cách nhanh chóng và kịp thời. Cần có chế tài xử lý nghiêm khắc với hiện tượng chuyển giá: Cần xác định hành vi chuyển giá là hành vi trốn thuế, vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp liên kết. Cần phải đề ra các hình phạt nghiêm khắc đủ sức răn đe để buộc các doanh nghiệp phải kê khai đầy đủ các bên liên kết và các giao dịch liên kết ngay từ khi đăng ký và có nghĩa vụ xuất trình đầy đủ các thông tin, tài liệu, chứng từ để chứng minh việc lựa chọn và áp dụng phương pháp xác định giá trong giao dịch liên kết phù hợp với giá thị trường. Khi phát hiện các trường hợp chuyển giá, cần có chế tài để truy thu số thuế trốn lậu, đồng thời với việc xử phạt nghiêm khắc và có thể tước bỏ mọi ưu đãi về thuế mà doanh nghiệp này đang được hưởng, có thể truy cứu trách nhiệm hình sự hay cấm kinh doanh tại Việt Nam. Chế tài đối với hành vi chuyển giá ở một số nước Úc: số tiền phạt bằng 50% số thuế tránh được nếu công ty trả thuế sử dụng giá chuyển nhượng với mục đích nhằm giảm thiểu số thuế phải nộp. Phạt 25% số thuế tránh được nếu công ty trả thuế sử dụng giá chuyển nhượng nhằm các mục đích khác. Ấn Độ: phạt lên đến 300% số thuế tránh được. Các công ty trả thuế được yêu cầu tính trước thu nhập chịu thuế trong một năm và có nghĩa vụ phải nộp thuế trước. Trường hợp không hoàn thành nghĩa vụ này thì khoản chậm nộp phải chịu lãi suất 18%/năm. Hàn Quốc: tiền phạt từ 10% đến 30% đối với số số thuế tránh được, và chịu lãi suất đối với khoản nộp bổ sung (được coi như chậm nộp) là 18,25%/năm. Nếu công ty trả thuế không trình ra được các tài liệu chứng minh theo yêu cầu, thì có thể bị phạt đến 30 triệu Won (tương đương gần 600 triệu đồng theo thời giá). New Zealand: phạt ít nhất là 20% so với số thuế tránh được. Philippines: phạt tiền tương đương 25% - 50% số thuế tránh được. Ngoài ra, khoản phạt phải chịu lãi suất 20%/năm Cần xây dựng một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan: Cung cấp thông tin phục vụ việc phát hiện và xử lý các hành vi chuyển giá và vi
- phạm pháp luật của các bên liên kết. Đồng thời, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đẩy mạnh hợp tác trong cung cấp và trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế giữa các cơ quan thuế của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nhằm xác định giá thị trường và các mối quan hệ liên kết của các doanh nghiệp. Hoạt động chuyển giá giữa các bên liên kết đang ngày càng trở nên tinh vi, phức tạp, được hỗ trợ bởi các công cụ hiện đại và các giao dịch giữa các bên liên kết có thể được thực hiện qua các khâu trung gian. Hàng hoá trên thị trường ngày càng đa dạng và giá cả bị chi phối bởi nhiều yếu tố cả về mặt thị trường và về mặt xã hội. Các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế có nhiều kinh nghiệm về tổ chức sản xuất và kinh doanh để tạo ra những sản phẩm đặc thù, những chi phí riêng biệt. Việc đấu tranh hạn chế hoạt động chuyển giá của các bên liên kết sẽ là một hoạt động lâu dài, nhiều khó khăn không chỉ với ngành thuế mà còn cần sự góp sức của các cơ quan chức năng khác. V, Chuyển giá ở Việt Nam: 1, Môi trường pháp lý: Hành vi chuyển giá đã bắt đầu manh nha xuất hiện tại Việt Nam từ khoảng 15 năm trước, khi mà các công ty đa quốc gia và các doanh nghiệp FDI đầu tư mạnh vào thị trường Việt Nam. Điều này đặt ra một thách thức với các nhà quản lý về việc tạo ra một khung pháp lý cho việc chống chuyển giá tại Việt Nam. Có thể nói văn bản pháp lý đầu tiên có đề cập đến hành vi chuyển giá là thông tư 74/1997/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn về thuế với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó, cụ thể tại chương IV, phần thứ ba của thông tư đã đề cập đến 1 số phương pháp cụ thể để xác định hành vi chuyển giá, đó là: Phương pháp so sánh giá thị trường tự do. Phương pháp sử dụng giá bán ra để xác định giá mua vào. Phương pháp sử dụng giá thành toàn bộ để xác định lợi tức chịu thuế. Một số hình thức chuyển giá tiêu biểu tại Việt Nam a) Chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí đầu vào. Đây là hình thức khá phổ biến được các công ty đa quốc gia sử dụng tại Việt Nam nhằm nâng chi phí đầu vào, hạ chi phí đầu ra nhằm tối thiểu hóa lợi nhuận, qua đó giảm số thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Thực tế là ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam hiện nay
- còn chậm phát triển nên hầu hết các nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh của các công ty đa quốc gia đề phải nhập từ công ty mẹ hoặc các đối tác do công ty mẹ chỉ định, với giá cao hơn giá thực tế. Đây là một vấn đề nan giải vì Bộ tài chính không thể kiểm soát được giá thành của các nguyên liệu nhập khẩu. Do vậy, ở Việt Nam, các công ty con cứ báo lỗ (tức không phải nộp thuế), còn tại bản xứ, công ty mẹ cứ ung dung hưởng lợi. Thủ đoạn này thường gặp ở các công ty sản xuất ô tô, rượu, bia, nước giải khát. Một ví dụ điển hình đã được nêu ở trên là công ty TNHH nước giải khát CocaCola ở Việt Nam. Công ty này phải nhập nước cốt từ công ty liên kết ở Singapore để sản xuất CocaCola với mức giá rất cao, chiếm tới 1/3 tổng giá thành. Trong khi đó, sản phẩm bán ra ở thị trường Việt Nam có giá tương đối rẻ. Một phần nguyên nhân là do thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay tương đối cao so với mặt bằng thế giới (25%), trong khi đó tại Singapore, cao nhất chỉ là 17%. Do vậy với hình thức chuyển giá này, CocaCola đã âm thầm chuyển được lợi nhuận ra nước ngoài với mức thuế dễ chịu hơn. Thực tế là từ năm 2008 đến nay, CocaCola liên tục báo lỗ, tuy nhiên việc kinh doanh của công ty này không hề bị gián đoạn, thậm chí công ty còn có kế hoạch mở rộng sản xuất tại Đà Nẵng! b) Chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ. Đây cũng là một hình thức cũng khá phổ biến được các công ty đa quốc gia áp dụng. Các công ty áp dụng hình thức này thông qua chuyển giao công nghệ và thu phí tiền bản quyền. Đây là một loại chi phí chiếm tỉ trọng lớn trong khấu hao tài sản vô hình. Tài sản vô hình ở đây thường là công nghệ, bí quyết kĩ thuật, bản quyền, nhãn mác, kĩ thuật quản lý điều hành Thông thường, việc chuyển giao này thông qua các công ty mẹ ở nước ngoài chuyển giao cho các công ty con tại Việt Nam với giá cao hơn hẳn giá thị trường, đôi khi có thể gọi là mức giá “trên trời”. Ví dụ như ban đầu liên doanh Mecedes-Benz của Đức trước khi đàm phán đòi chi phí bản quyền chuyển giao công nghệ là 42 triệu USD, tuy nhiên sau khi phía Việt Nam đàm phán đã giảm đi còn 9,6 triệu USD, tức là đã giảm đi 77% so với chi phí ban đầu mà phía Đức đưa ra. Chính vì thế mới xảy ra nhiều trường hợp công ty con ở Việt Nam thì lỗ liên lục và không phải nộp thuế do chi phí bản quyền quá cao, còn công tư mẹ ở nước ngoài
- vẫn được hưởng lợi từ phí bản quyền, thậm chí có xu hướng đẩy chi phí bản quyền đến mức giá cao hơn nữa. Tuy nhiên việc phát hiện và có những biện pháp cũng như chế tài xử phạt đối với hình thức này là không hề đơn giản, bởi vì việc định giá bản quyền và các công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài không phải là một điều dễ dàng. c) Chuyển giá thông qua việc nâng giá tài sản cố định hữu hình. Với hình thức này, các doanh nghiệp sẽ tăng chi phí khấu hao nhằm giảm thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp và dần thôn tính hết các tài sản này. Bởi vì tài sản cố định hữu hình không bền mãi với thời gian mà sẽ dần mất giá trị trong thời gian sử dụng do cọ sát, ăn mòn hay bị điều kiện thiên nhiên tác động. Ngoài ra còn có khấu hao vô hình do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm tài sản cố định bị giảm giá. Chi phí khấu hao tài sản cố định được tính trực tiếp vào chi phí sản xuất. Ví dụ tài sản cố định có giá trị 10000 USD và được tính khấu hao trong 10 năm, tức là khấu hao trung bình 1 năm là 1000 USD. Tuy nhiên, doanh nghiệp lại kê khai giá trị tài sản này lên tới 50000 USD, tức khấu hao trung bình 1 năm là 5000 USD, doanh nghiệp đã bớt được một khoản chịu thuế mỗi năm lên tới 4000 USD. Một cuộc điều tra của bộ công thương cho thấy rằng có trên 40 doanh nghiệp thuộc bộ này đã định giá tài sản cố định để góp vốn liên doanh cao hơn thực tế đến 50 tỷ USD. Cũng giống như chi phí bản quyền, công nghệ thì việc định giá tài sản cố định hữu hình của công ty đa quốc gia cũng không đơn giản, nhất là định giá các dây chuyền sản xuất, máy móc nhập khẩu từ nước ngoài. d) Chuyển giá thông qua việc hạ giá bán sản phẩm đầu ra cho một công ty liên kết trong nội bộ tập đoàn. Giống như việc nâng giá đầu vào, việc bán sản phẩm đầu ra với giá thấp hơn giá thị trường cũng với mục đích là gây ra tình trạng lỗ ở công ty con tại Việt Nam nhằm trốn thuế, còn công ty mẹ hay công ty liên kết ở nước có thuế suất thấp hơn sẽ bán sản phẩm bằng giá thị trường. Tất nhiên tổng thu nhập vẫn không đổi, chỉ có điều tổng số thuế phải nộp được giảm đi đáng kể, qua đó tăng tổng lợi nhuận của cả hệ thống công ty. Trong thực tế, luật pháp Việt Nam cũng đã quy định rõ ràng về xác định giá giao dịch giữa 2 đơn vị có mỗi quan hệ liên kết (thông tư 66), tuy nhiên, các công ty vẫn lợi dụng
- mọi cách mọi thủ đoạn để lách luật và việc các cơ quan chức năng có thể phát hiện và xử phạt các công ty vi phạm không phải lúc nào cũng có thể làm được. Ngoài ra, tại Việt Nam còn xuất hiện nhiều hình thức chuyển giá khác như chuyển giá thông qua việc cung cấp dịch vụ từ công ty mẹ với mức giá cao, chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất, Tuy nhiên 4 hình thức nêu trên là cơ bản và phổ biến nhất. 2, Đề xuất giải pháp chống chuyển giá ở Việt Nam: Sau khi thông tư 117/2005/TT-BTC và sau đó là thông tư 66/2010/TT-BTC ra đời, hàng loạt các công ty, doanh nghiệp đã bị thanh tra và xử lý sai phạm. Theo Tổng cục Thuế, kết quả thanh tra 575 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khai lỗ trong các năm từ 2005-2009 và đã giảm lỗ hơn 4.000 tỷ đồng và truy thu thuế hơn 212 tỷ đồng, trong đó, phát hiện 43 doanh nghiệp FDI có quan hệ giao dịch liên kết có dấu hiệu chuyển giá, qua đó xử phạt 37 doanh nghiệp, giảm lỗ 887 tỷ đồng, truy thu thuế và phạt 27 tỷ đồng. Công tác thanh tra, kiểm tra giá chuyển nhượng bắt đầu được chú trọng triển khai từ năm 2010 và đã đạt được một số kết quả bước đầu. Đặc biệt, có cuộc thanh tra giá chuyển nhượng đã điều chỉnh tăng doanh thu so với số báo cáo của doanh nghiệp lên 250%. Hiện nay, vấn đề chuyển giá giữa các bên liên kết đã từng bước được kiểm soát. Tính đến ngày 31/12/2011, toàn ngành thuế đã rà soát quản lý được 3.144 doanh nghiệp phải kê khai thông tin giao dịch liên kết, trong đó 2.023 doanh nghiệp đã thực hiện kê khai, chiếm khoảng 64%. Trong năm 2011, ngành thuế đã tổ chức thanh tra tại 921 doanh nghiệp kê khai lỗ và có dấu hiệu chuyển giá, đã xử lý giảm lỗ 6.617 tỷ đồng (tăng 2,5 lần), truy thu và phạt 1.669 tỷ đồng (tăng 4 lần so với năm 2010). Kết quả thu thuế từ doanh nghiệp FDI năm 2011 tăng 11,3% so với năm 2010 có phần đóng góp của những nỗ lực chống chuyển giá. Nhìn vào số liệu các doanh nghiệp được kiểm tra, số doanh nghiệp được xác định có chuyển giá, số giảm lỗ và số thuế truy thu, số thuế xử phạt rõ ràng chưa thực sự tương xứng với hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp này. Vì thế, để hoạt động chống chuyển giá hiệu quả hơn, cần thực hiện một số biện pháp sau: Đẩy mạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý chống chuyển giá: Sớm hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về hoạt động của các doanh nghiệp: Kiện toàn bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thuế: Cần có chế tài xử lý nghiêm khắc với hiện tượng chuyển giá
- Chế tài đối với hành vi chuyển giá ở một số nước Cần xây dựng một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan:
- KẾT LUẬN Bất kì một công ty hay tổ chức nào đều cũng hoạt động vì mục tiêu và mục đích lợi nhuận (chỉ trừ một số ít những tổ chức phi lợi nhuận). Chính từ mục đích đó công ty luôn phải có những đối sách phù hợp mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó luôn tồn tại những chiến lược chưa mang tính tích cực, ảnh hưởng mạnh đến các nước nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển. Đó là một quy luật tất yếu trong quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của bất cứ tổ chức hoạt động kinh tế nào. Trong tiến trình phát triển kinh tế toàn cầu hóa, việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như nền kinh tế thế giới sẽ đem lại cho các quốc gia nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế, song kèm theo đó cũng có nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp như các vấn đề về nghiệp vụ kinh doanh của các công ty đa quốc gia hay các vấn đề quan trọng, cần quan tâm mang tính quốc tế. Và một trong những vấn đề đó chính là vấn đề chuyển giá của các công ty đa quốc gia. Với chính sách mở cửa, thu hút đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã trở thành một phần tích cực trong các thành phần kinh tế đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách của Nhà nước trong việc ưu đãi đầu tư, khuyến khích sản xuất kinh doanh và xuất khẩu để thực hiện hoạt động chuyển giá nhằm tránh thuế, trốn thuế gây khó khăn cho cơ quan quản lý. Hình thức hoạt động chuyển giá hiện nay diễn ra cũng hết sức đa dạng và phức tạp như: thông qua định giá tài sản vô hình và hữu hình, thông qua mua bán nguyên vật liệu sản xuất, thông qua hỗ trợ tài chính Trong bài tiểu luận, chúng em đã phân tích kỹchiến lược thâm nhập thị trường các nước đang phát trienervaf một số thủ đoạn chuyển giá vô cùng tinh vi của các công ty đa quốc gia áp dụng nhằm trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh và thôn tính đối phương, từ đó liên hệ với Việt Nam và nêu ra một số giải pháp để đẩy lùi vấn nạn “chuyển giá”. Đây là những vấn đề mới xuất hiện và còn khá mới mẻ tuy nhiên có ảnh hướng rất lớn tới nền kinh tế vì vậy Chính phủ cùng các ban ngành hay cụ thể hơn là cơ quan thuế và hải quan cần phải tập trung nghiên cứu và tìm ra giải pháp để ngăn chặn và giải quyết vấn đề này để tạo điều kiện và môi trường tốt nhất cho các công ty tập đoàn phát triển
- góp phần khiến cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ.
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giá chuyển giao giữa các chi nhánh của công ty đa quốc gia, Tạp chí Kinh tế và Dự báo. 2. Sách tài chính tiền tệ, nxb Thống Kê 3. Sách Công ty đa quốc gia hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 4. Vietnamnet 5. 6. Một số nguồn khác từ các website Internet.