Luận án Bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở Đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay

pdf 200 trang yendo 4400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở Đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_bao_dam_tinh_lien_tuc_va_phat_trien_cua_doi_ngu_can.pdf

Nội dung text: Luận án Bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở Đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐỚI VĂN TẶNG BẢO ĐẢM TÍNH LIÊN TỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƢỜNG VỤ TỈNH ỦY QUẢN LÝ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC HÀ NỘI - 2015
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐỚI VĂN TẶNG BẢO ĐẢM TÍNH LIÊN TỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƢỜNG VỤ TỈNH ỦY QUẢN LÝ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC Mã số: 6231 02 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS ĐỖ NGỌC NINH HÀ NỘI - 2015
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 01 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN 7 ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình khoa học ở nước ngoài 7 1.2. Các công trình khoa học ở Việt Nam 11 CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ BẢO ĐẢM TÍNH LIÊN TỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƢỜNG VỤ TỈNH ỦY QUẢN LÝ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 21 2.1. Các tỉnh, ban thường vụ tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng và đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý 21 2.2. Tính liên tục, phát triển và bảo đảm tính liên tục, phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng - khái niệm, vai trò, nội dung, phương thức 43 CHƢƠNG 3: BẢO ĐẢM TÍNH LIÊN TỤC, PHÁT TRIỂN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƢỜNG VỤ TỈNH ỦY QUẢN LÝ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM 63 3.1. Thực trạng nội dung bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở ĐBSH 63 3.2. Thực trạng phương thức bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở ĐBSH 78 3.3. Nguyên nhân và kinh nghiệm về bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH 98 CHƢƠNG 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC BẢO ĐẢM TÍNH LIÊN TỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƢỜNG VỤ TỈNH ỦY QUẢN LÝ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ĐẾN NĂM 2025 107 4.1. Thuận lợi, khó khăn, thách thức và mục tiêu, phương hướng tiếp tục bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng 107 4.2. Những giải pháp tiếp tục bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở ĐBSH 117 KẾT LUẬN 150 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 153 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154 PHỤ LỤC 165
  4. 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BTV Ban thường vụ BTVTU Ban thường vụ tỉnh ủy CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH Chủ nghĩa xã hội ĐBSH Đồng bằng sông Hồng HTCT Hệ thống chính trị HĐND Hội đồng nhân dân MTTQ Mặt trận Tổ quốc NXB Nhà xuất bản QPAN Quốc phòng an ninh UBND Ủy ban nhân dân
  5. 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong suốt quá trình lãnh đạo giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, bảo đảm tính kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ các cấp, trong đó có đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy (BTVTU) quản lý. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ luôn đáp ứng yêu cầu cách mạng đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp được Đảng đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đạt kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ đã có sự kế thừa, phát triển đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, nhất là yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), góp phần rất quan trọng vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới. Đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý, theo Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 04-7-2007 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ, đội ngũ này bao gồm các chức danh: tỉnh ủy viên; ủy viên ban thường vụ (BTV), trưởng ban, phó trưởng ban của tỉnh ủy và tương đương; phó chủ tịch Hội đồng nhân dân (HĐND), phó chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh; bí thư, phó bí thư, ủy viên BTV huyện ủy và tương đương; bí thư, phó bí thư, ủy viên BTV đảng ủy khối trực thuộc tỉnh ủy; giám đốc, phó giám đốc sở và tương đương; chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND các huyện và tương đương; chủ tịch, phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), cấp trưởng và cấp phó ban chấp hành các đoàn thể nhân dân tỉnh. Những cán bộ này, có vai trò đặc biệt quan trọng trong đội ngũ cán bộ và đối với thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), nói chung và công cuộc đổi mới nói riêng. Đó là những người quyết định việc thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn tỉnh, xây dựng
  6. 6 đội ngũ cán bộ của tỉnh, bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đây là vấn đề rất cần được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và làm sáng tỏ về lý luận trong công cuộc đổi mới hiện nay. Bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh, thành phố trong cả nước là một bộ phận rất quan trọng, một trong những nhân tố quyết định tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ của Đảng. Bởi vậy, không thể không quan tâm nghiên cứu, tìm giải pháp khả thi bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh, thành phố. Các tỉnh đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) hiện nay gồm: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, một địa bàn rộng lớn của nước ta. So với các khu vực khác, đây là vùng có vai trò rất quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh (QPAN) đối với cả nước. Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhiệm vụ chính trị của từng tỉnh đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ cán bộ, công chức ở các tỉnh. Thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên các tỉnh ĐBSH đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý, đã tích cực đổi mới công tác cán bộ. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý được xây dựng có chất lượng, bước đầu bảo đảm tính liên tục và phát triển. Tuy nhiên, so với yêu cầu của công cuộc đổi mới ở ĐBSH, đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý còn nhiều hạn chế, yếu kém và bất cập; tính liên tục và phát triển còn chưa thực sự được bảo đảm. Cụ thể là: tình trạng hụt hẫng trong đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý đã xảy ra ở nhiều tỉnh, với mức độ khác nhau; số lượng, cơ cấu chưa thực sự hợp lý, ổn định, thể hiện tính liên tục và phát triển về cơ cấu chưa thể hiện rõ; đội ngũ cán bộ ở nhiều tỉnh chưa thể hiện rõ tính liên tục và phát triển về phẩm chất và năng lực, nhất là năng lực tư duy, đề xuất những chủ trương, giải pháp mới và năng lực tổ chức thực tiễn; tình trạng suy thoái về phẩm chất trong một bộ phận cán bộ còn xảy ra Việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế, bất
  7. 7 cập: nhiều cấp ủy tỉnh chưa thực coi việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác cán bộ; chưa thường xuyên chú ý bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ trong quá trình tiến hành các khâu của công tác cán bộ, nhất là khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ; ở nhiều nơi, việc phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị (HTCT) trong bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ còn chưa được coi trọng và còn lúng túng Nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, tìm giải pháp phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới ở địa phương thật sự là vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Để góp phần luận giải vấn đề cấp thiết nêu trên, tác giả chọn và thực hiện đề tài luận án tiến sĩ “Bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay”. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích luận án Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH giai đoạn hiện nay, luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu tiếp tục bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ này đến năm 2025. 2.2. Nhiệm vụ của luận án - Tổng quan các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài, chỉ rõ những vấn đề đã được nghiên cứu, những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu. - Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH giai đoạn hiện nay.
  8. 8 - Khảo sát, đánh giá thực trạng bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ở ĐBSH từ năm 2005 đến nay; chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, kinh nghiệm. - Đề xuất mục tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu, khả thi tiếp tục bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH đến năm 2025. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án nghiên cứu việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH giai đoạn hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: luận án tập trung nghiên cứu việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU ủy quản lý ở các tỉnh của ĐBSH, gồm các chức danh nêu trên, không nghiên cứu những cán bộ được BTVTU phối hợp quản lý (hiệp quản), như: chỉ huy trưởng, phó chỉ huy trưởng, chính ủy, phó chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh và Bộ đội biên phòng tỉnh; giám đốc, phó giám đốc Công an tỉnh; trưởng các đơn vị (tương đương cấp sở) thuộc ngành dọc Trung ương quản lý hoạt động trên địa bàn tỉnh - Địa bàn khảo sát, nghiên cứu: ở 9 tỉnh của ĐBSH là Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, không nghiên cứu những vấn đề này ở thành phố Hà Nội và thành phố Hải Phòng. - Thời gian nghiên cứu, khảo sát: từ năm 2005 đến nay, phương hướng, giải pháp luận án đề xuất có giá trị đến năm 2025. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận
  9. 9 Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về cán bộ, công tác cán bộ. 4.2. Cơ sở thực tiễn Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH và việc bảo đảm tính liên tục, phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở vùng này trong những năm qua, các báo cáo về công tác cán bộ của các tỉnh ủy ĐBSH; đồng thời luận án kế thừa và phát triển kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và các phương pháp phân tích kết hợp với phương pháp tổng hợp; phương pháp lôgíc kết hợp với phương pháp lịch sử; phương pháp diễn dịch kết hợp với phương pháp quy nạp; điều tra xã hội học; chuyên gia, trong đó đặc biệt chú trọng phương pháp khảo sát, tổng kết thực tiễn. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Khái niệm: Bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là toàn bộ hoạt động của tỉnh ủy, BTVTU, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, các tổ chức trong HTCH từ tỉnh đến cơ sở và các lực lượng có liên quan thực hiện những công việc cần thiết, tạo nên sự biến đổi tiến lên, nối tiếp nhau, không giãn đoạn về số lượng, cơ cấu, phẩm chất, năng lực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh. - Hai kinh nghiệm về bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH từ năm 2005 đến nay: Một là, BTVTU tập trung giải quyết có kết quả cơ cấu đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý, nhất là cơ cấu độ tuổi, giới tính, trình độ ngành nghề đào tạo đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý là nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý. Hai là, coi trọng thu hút, trọng dụng nhân tài; kế thừa và phát huy những kinh nghiệm của các thế hệ
  10. 10 cán bộ tiền nhiệm ở mỗi tỉnh sẽ tạo thuận lợi trong bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý. - Hai giải pháp tiếp tục bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH: Thứ nhất, bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý trong đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ. Thứ hai, bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, quản lý, đánh giá, kiểm tra, giám sát và thực hiện chính sách cán bộ. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH trong giai đoạn hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các tỉnh ủy, các cấp ủy ở ĐBSH trong bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý. - Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn xây dựng Đảng ở các trường chính trị tỉnh ở ĐBSH. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
  11. 11 Chƣơng 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Trong những năm qua, việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý đã thu hút khá nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu từ nhiều góc độ, khía cạnh, địa bàn khác nhau đạt được kết quả quan trọng. Kết quả nghiên cứu của nhiều công trình đã được công bố trên sách, báo, tạp chí, được thể hiện trong các tham luận hội thảo khoa học, tổng quan đề tài khoa học; luận án tiến sĩ; luận văn thạc sĩ liên quan trực tiếp đến đề tài luận án. 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Ở NƢỚC NGOÀI 1.1.1. Các công trình khoa học nghiên cứu về cải cách công tác cán bộ, phát hiện, đào tạo, bồi dƣỡng nhân tài Về vấn đề này, có hai cuốn sách đáng quan tâm: "Toàn thư công tác Đảng vụ" của Đảng Cộng sản Trung Quốc [22] và "Hồ Cẩm Đào, con đường phía trước" của Mã Linh, Lý Minh [54]. Thực hiện kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo thế hệ thứ năm, Đảng Cộng sản Trung Quốc đang tổ chức rà soát, sắp xếp nguồn tài nguyên cán bộ, đồng thời tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo ở trong và ngoài nước. Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành cải cách mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ và gọi chung là chế độ nhân sự cán bộ. Trong đó, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý tập trung vào ba nhiệm vụ chính: (1) Sắp xếp tài nguyên cán bộ; (2) Xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị; (3) Xây dựng tập thể lãnh đạo có hạt nhân, đặc biệt quan trọng là ban lãnh đạo cấp cao nhất. Quan điểm và cũng là nguyên tắc rất quan trọng trong công tác cán bộ là Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo thống nhất công tác cán bộ, trong đó quan trọng nhất là đánh giá, khảo sát cán bộ, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tiến cử cán bộ một cách dân chủ, rộng mở, chủ yếu là sự tiến cử, giới thiệu trước khi bổ nhiệm. Đảng Cộng sản
  12. 12 Trung Quốc đã xác định các giải pháp nhằm thu hút nhiều nhân tài trẻ, kể cả những người đang làm trong khu vực kinh tế tư nhân và có yếu tố nước ngoài vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng. Theo các tác Mã Linh, Lý Minh (Trung Quốc) đã sớm phát hiện và tạo điều kiện thuận lợi cho một nhân tài trẻ tuổi thăng tiến vượt cấp, như trường hợp Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào. Con đường đi đến đỉnh cao quyền lực của ông do nhiều yếu tố tạo nên: (1) Tài năng; (2) Sự phấn đấu; (3) Thời thế; (4) Sự sớm phát hiện, tiến cử và nâng đỡ, dìu dắt của một số lãnh đạo cấp cao thế hệ trước. Theo các tác giả, tài năng của Hồ Cẩm Đào có điều kiện phát triển rất thuận lợi vì có đường lối “bốn hóa” cán bộ của Đặng Tiểu Bình (cách mạng hóa, trẻ hóa, tri thức hóa, chuyên môn hóa). Đến nay, Trung Quốc vẫn duy tri nghiêm quy định cán bộ lãnh đạo phải biết phát hiện và tiến cử người tài để đem lại lợi ích cho quốc gia. Nhiều nhà lãnh đạo cao cấp ở Trung Quốc như Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo có được “bậc thang tương đối dễ dàng hơn” một phần nhờ vào việc duy trì nghiêm quy định này. Những nội dung nội dung nêu trên có giá trị tham khảo tốt đối với luận án để đề xuất giải pháp. 1.1.2. Các công trình khoa học nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các địa phƣơng Về nội dung này, có các công trình tiêu biểu: “Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi ro” của Hạ Quốc Cường [20]; “Tăng cường xây dựng Đảng ủy địa phương, phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo” của Triệu Gia Kỳ [49]; “Tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng hình thành tầng lớp lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt” của Tôn Hiểu Quần [61] và “Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắng xây dựng một đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao” của Chu Phúc Khởi [48]. Đây là các bài tham luận tại Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc xây dựng đảng cầm quyền kinh nghiệm
  13. 13 của Việt Nam kinh nghiệm của Trung Quốc, ngày 16-18 tháng 12 năm 2004 tại Hà Nội. Các nhà khoa học tập trung làm rõ cơ sở lý luận của những vấn đề được đề cập trong bài tham luận của mình; sử dụng thực tiễn về công tác cán bộ ở Trung Quốc để minh chứng và làm rõ cơ sở thực tiễn; đề xuất các giải pháp phù hợp với Trung Quốc. Các giải pháp được các tác giả đưa ra có thể tham khảo đối với luận án, gồm: một là, tăng cường xây dựng tư tưởng lý luận, không ngừng đẩy mạnh sáng tạo lý luận, dùng chủ nghĩa Mác đang phát triển để chỉ đạo xây dựng Đảng. Hai là, luôn nắm chắc khâu quan trọng là xây dựng đội ngũ cán bộ tố chất cao, coi trọng cao độ việc xây dựng đội ngũ nhân tài, ra sức tăng cường xây dựng ban lãnh đạo. Ba là, kiên trì bao quát toàn cục, điều hoà các mặt, phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng ủy địa phương, gồm: kiện toàn và hoàn thiện thể chế lãnh đạo để đảng ủy địa phương đối với các lĩnh vực đời sống xã hội và các tổ chức trong HTCT, nhất là đối với chính quyền. Bốn là, coi trọng đưa cán bộ đến làm việc tại các địa phương; đi sâu cải cách chế độ lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo đảng và chính quyền các cấp. Năm là, tăng cường giám sát cán bộ lãnh đạo về mọi mặt, nhất là trong hoạt động thực tiễn. Sáu là, tăng cường xây dựng chế độ hóa, quy phạm hóa về tiêu chuẩn, quy trình và yêu cầu đối với các khâu công tác cán bộ dự bị. Ngoài các công trình nêu trên, còn có các công trình của các nhà khoa học Lào: Luận án tiến sĩ: “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay” của Xỉnh Khăm Phom Ma Xay [109]; “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp phụ nữ ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới” của Ních Khăm [58]; “Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới” của Khăm Phăn Phôm Ma Thắt [47]; “Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào quản lý trong giai đoạn hiện nay” của Thong Chăn Khổng Phum Khăm [77].
  14. 14 Các công trình khoa học nêu trên đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các ngành, lĩnh vực ở các địa phương, đơn vị và ở Lào, tổng kết những kinh nghiệm bổ ích, đề xuất các giải giải pháp về các khâu của công tác cán bộ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các ngành, lĩnh vực ở các địa phương, đơn vị và ở nước Lào đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Những kết luận, kinh nghiệm và giải pháp có giá trị tham khảo đối với luận án, gồm: Công trình của Xỉnh Khăm Phom Ma Xay: nghiên cứu xác định một cách đúng đắn mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp với tình hình của Lào hiện nay và những năm tới; xây dựng tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế; đẩy mạnh phong trào tự học tập nâng cao trình độ, năng lực và rèn luyện đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ của Lào; xây dựng và kiện toàn hệ thống trường, lớp và hoàn thiện các chế độ, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế; đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng và quản lý, sử dụng có hiệu quả những người đã qua đào tạo, bồi dưỡng. Công trình của Nich Khăm: cấp ủy đảng các cấp phải gắn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương, từng ngành; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa công tác cán bộ nữ và công tác của Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp. Những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp phụ nữ ở Lào: cơ cấu và quy hoạch cán bộ gắn liền với chức năng, nhiệm vụ; xây dựng các quy chế công tác cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ ở Lào; xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ. Công trình của Khăm Phăn Phôm Ma Thắt: để nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải cải tiến nội dung đào tạo, bồi dưỡng đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, nâng cao năng lực, trách nhiệm của
  15. 15 đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Những giải pháp đáng chú ý: tiếp tục khảo sát, đánh giá cán bộ và xác lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý; cải tiến chương trình và nội dung đào tạo, bồi dưỡng; kết hợp đào tạo, bồi dưỡng qua trường lớp và động thực tiễn. Những đề xuất này rất bổ ích để xác định phương hướng, giải pháp của luận án. Công trình của Thong Chăn Khổng Phum Khăm: quan niệm cán bộ thuộc diện Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào quản lý; quy hoạch cán bộ diện Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào quản lý là một khâu trọng yếu trong công tác cán bộ; phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung để chủ động đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Đây là ý tưởng tốt giúp luận án đề xuất giải pháp điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH để tạo nên tính liên tục và phát triển. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Ở VIỆT NAM 1.2.1. Các công trình nghiên cứu phát triển lý luận về công tác cán bộ Về chủ đề này, có các công trình tiêu biểu: Đề tài “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của PGS.TS.Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS.Trần Xuân Sầm [96]; cuốn sách: “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hiện nay” của PGS.TS. Nguyễn Văn Chỉnh [13]; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ” của Bùi Đình Phong, [59]; “Bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của PGS.TS. Trương Thị Thông và TS. Lê Kim Việt [79]; bài báo khoa học: “Tiếp tục tham mưu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, thực hiện tốt hơn nữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức và cán bộ” của Nguyễn Phú Trọng [97]; “Vai trò của bí thư cấp ủy trong công tác cán bộ” của Bùi Đức Lại [51]. Các tác giả đã làm rõ và có những điểm phát triển lý luận về công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin,
  16. 16 tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện trong các khâu của công tác cán bộ; khái quát các lệch lạc trong công tác cán bộ, nhất là bệnh quan liêu; khẳng định trong công tác cán bộ phải thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, xác định cơ chế thực hiện nguyên tắc này; khẳng định vai trò của bí thư cấp ủy và của các ban tham mưu, giúp việc cấp ủy, nhất là ban tổ chức cấp ủy đối với công tác cán bộ, các giải pháp định hướng về các vấn đề này. Những nội dung có giá trị tham khảo tốt đối với luận án, gồm: Công trình của PGS.TS.Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS.Trần Xuân Sầm: Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; tiêu chuẩn cán bộ; các khâu, các bước, quy trình công tác cán bộ; những quan điểm, phương hướng và 6 giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay. Đáng quan tâm hơn là giải pháp : "Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ", có giá trị tham khảo tốt đối với luận án. Công trình của PGS.TS. Nguyễn Văn Chỉnh và của Bùi Đình Phong: các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ; giải pháp vận dụng vấn đề này theo hướng đảm bảo tính liên tục phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các tỉnh ĐBSH giai đoạn hiện nay. Công trình của PGS.TS Trương Thị Thông và TS. Lê Kim Việt: nguồn gốc, bản chất và những tác hại, các biểu hiện chủ yếu và nguyên nhân của bệnh quan liêu trong công tác cán bộ; phương hướng và các giải pháp chủ yếu đề phòng, khắc phục. Những vấn đề này sẽ được luận án kế thừa để đề xuất giải pháp khắc phục những lệch lạc trong công tác cán bộ, bảo đảm tính liên tục, phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTUTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH. Công trình của Nguyễn Phú Trọng, Bùi Đức Lại: thực trạng tổ chức bộ máy, tình hình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ của nước ta, những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết; đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, trách nhiệm của người đứng đầu, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy; vai trò của người đứng đầu cấp ủy trong công tác cán
  17. 17 bộ; các giải pháp tập trung thực hiện tốt nguyên tắc tập trung, dân chủ, nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong xây dựng đội ngũ cán bộ. 1.2.2. Các công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, địa phƣơng Về nội dung này, có các công trình tiêu biểu: Sách: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Vũ Văn Hiền, Trần Quang Nhiếp và Lê Đức Bình [33]; “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố (qua kinh nghiệm của Hà Nội)” của ThS.Cao Khoa Bảng [69]; Luận án tiến sĩ: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Nguyễn Thái Sơn [74]; Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ trong hệ thống chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay của Trịnh Thanh Tâm [73]. Các nhà khoa học đề làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn của chủ đề nghiên cứu; đánh giá thực trạng, tổng kết kinh nghiệm; tập trung đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, địa phương đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ. Trong mục giải pháp, các nhà khoa học đều luận bàn đến hầu hết các khâu của công tác cán bộ. Những nội dung có giá trị tham khảo tốt đối với luận án: Công trình của Vũ Văn Hiền, Trần Quang Nhiếp, Lê Đức Bình và của ThS. Cao Khoa Bảng: những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt hiện nay; ra các giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong đó, giải pháp về cụ thể hóa tiêu chuẩn và bảo đảm cơ cấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của HTCT có giá trị tham khảo tốt. Công trình của Nguyễn Thái Sơn: khái niệm, vai trò, tính cấp bách, nội dung của việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh; 7 giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng ĐBSH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Một số giải pháp của
  18. 18 công trình này, nhất là giải pháp về công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ có giá trị tham khảo khá tốt. Công trình của Trịnh Thanh Tâm: những đặc điểm của các tỉnh ở ĐBSH tác động đến công tác cán bộ; giải pháp về số lượng, cơ cấu, quy hoạch. thực hiện chính sách cán bộ nữ 1.2.3. Các công trình nghiên cứu về các khâu của công tác cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, địa phƣơng đáp ứng têu cầu, nhiệm vụ 1.2.3.1. Các công trình nghiên cứu về tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý Về vấn đề này, có các công trình khoa học đáng quan tâm: Đề tài: “Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay” của TS. Đoàn Minh Huấn [45]; “Vấn đề tạo nguồn cán bộ các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn - thực trạng và giải pháp” của ThS.Trần Thị Hương [46]; “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh” của TS.Trần Minh Tuấn [99]; Bài báo khoa học: “Nên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo nhu cầu công tác” của tác giả Lê Công Quyền [71]; “Đảng Cộng sản Trung Quốc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn [98]. Các nhà khoa học đều có chung ý tưởng về khẳng định việc tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý là một nội dung rất quan trọng của công tác cán bộ; luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn của công tác tạo nguồn cán bộ; đề xuất các giải pháp về tạo nguồn cán bộ. Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học đều tập trung làm rõ vị trí, vai trò, nội dung, phương thức và đề xuất các giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý. Những nội dung có giá trị tham khảo đối với luận án: Công trình của TS.Đoàn Minh Huấn, ThS. Trần Thị Hương: khái niệm tạo nguồn cán bộ chủ chốt, kinh nghiệm tạo nguồn; đặc điểm của HTCT cơ sở
  19. 19 các tỉnh Tây Bắc ảnh hưởng đến xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; giải pháp về tạo "nguồn gần và nguồn xa". Công trình của TS.Trần Minh Tuấn, Lê Công Quyền: yêu cầu cấp thiết và những vấn đề đặt ra hiện nay về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; quan điểm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện; giải pháp về xác định đối tượng và mục tiêu đào tạo; đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng mang tính “mềm”, tiến tới theo nhu cầu của người học và sát với từng chức danh đào tạo. Tương tự, tác giả Lê Công Quyền đã phân tích, chỉ ra những hạn chế về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay đề xuất giải pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải xuất phát và gắn liền với nhu cầu công tác của cán bộ, công chức nhằm khắc phục sự lãng phí, kém hiệu quả. Công trình của Nguyễn Minh Tuấn: phát triển nhanh của hệ thống các cơ sở đào tạo bồi dưỡng cán bộ ở các cấp; đẩy mạnh việc quán triệt sâu sắc vai trò, mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đẩy mạnh chuyển đổi mô hình đào tạo theo yêu cầu của thực tiễn; chuyển đổi từ phương thức cán bộ chỉ do cơ quan cử đi đào tạo, bồi dưỡng sang phương thức kết hợp giữa điều động của tổ chức với tự lựa chọn của học viên; giảng dạy theo hướng các chuyên đề, tổ chức đi thực tế 1.2.3.2. Các công trình nghiên cứu về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý Nội dung này, có khá nhiều nhà khoa học nghiên cứu đạt kết quả đáng khích lệ, tiêu biểu là các công trình: Sách: “Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Trần Đình Hoan [35]; “Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý” của Đỗ Minh Cương [19]; “Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay của Thân Minh Quế [62]; luận văn thạc sĩ “Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay” của Trần Minh Thấu [76]; luận án,
  20. 20 luận văn: Quy hoạch cán bộ diện ban thường vụ tỉnh, thành ủy quản lý ở đồng bằng Bắc Bộ giai đoạn hiện nay” của Trần Thị Thanh Nhàn [57]; “Công tác quy hoạch tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý của thành phố Hồ Chí Minh - thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Thị Lan [50]; “Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc nước ta giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Ngọc Lâm [52]; “Chất lượng quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng Đông Bắc bộ nước ta giai đoạn hiện nay” của Hoàng Nguyên Hòa [36]; bài báo khoa học: “Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Trần Đình Hoan [34]; “Về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý” của Nguyễn Phương Hồng [44]; “Vài nét về quy hoạch cán bộ dài hạn của thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Hà [32]; “Quy hoạch, đào tạo cán bộ trẻ ở thành phố Hồ Chí Minh” của Phúc Sơn [70]. Các công trình khoa học nêu trên đã làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, địa phương; xây dựng được khái niệm, nội dung đánh giá thực trạng, tổng kết kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Những kết luận, kinh nghiệm và giải pháp do các công trình nêu trên đề xuất đề có giá trị tham khảo đối với luận án, song đáng chú ý là kết quả nghiên cứu của các công trình sau đây: Công trình của Trần Đình Hoan: trong công tác cán bộ hiện nay, có thể xác định: đánh giá cán bộ là khâu tiền đề, quy hoạch cán bộ là khâu nền tảng, luân chuyển cán bộ là khâu đột phá và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vừa là yêu cầu trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài. trong đó, làm tốt công tác quy hoạch cán bộ là một trong những tiền đề quan trọng bảo đảm sự phát triển liên tục của đội ngũ cán bộ. Các giải pháp: mở rộng đối tượng quy hoạch và phát hiện nguồn từ xa; phát huy dân chủ, thu hút sự tham gia của các tầng lớp nhân dân vào quá trình đánh giá, quy hoạch, sử dụng và luân chuyển cán bộ.
  21. 21 Công trình của Đỗ Minh Cương: giải pháp về tạo nguồn, lựa chọn cán bộ để đưa vào diện quy hoạch; dân chủ hóa và kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp có thẩm quyền trong định hướng, phê duyệt và bổ sung quy hoạch. Công trình của Thân Minh Quế: giải pháp nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí uỷ viên BTVTU và cấp uỷ viên các cấ về công tác quy hoạch cán bộ; cụ thể hoá tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ thuộc diện BTVTU quản lý phù hợp với từng tỉnh; đánh giá cán bộ, tạo nguồn cán bộ dồi dào, nhất là cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ; đổi mới, hoàn thiện nội dung, quy trình xây dựng quy hoạch cán bộ thuộc diện BTVTU quản lý; chủ động phát hiện, khắc phục các biểu hiện tiêu cực, tư tưởng cục bộ khép kín, tự ti dân tộc; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ Công trình của Nguyễn Phương Hồng: mục tiêu của quy hoạch cán bộ; đối tượng quy hoạch; quan điểm cơ bản về xây dựng quy hoạch cán bộ; dự báo nhu cầu cán bộ, nhằm bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; có nhiều phương án bố trí cho một cán bộ với dự kiến cho nhiều chức danh theo hướng gắn với chuyên môn được đào tạo, phù hợp với năng lực, trình độ của cán bộ; xây dựng quy hoạch cán bộ, phải bám sát quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; coi trọng và làm tốt việc định kỳ đánh giá, rà soát, bổ sung quy hoạch; tổ chức thực hiện quy hoạch gắn với đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ theo quy hoạch; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng quy hoạch cán bộ. Công trình của Trần Thị Thanh Nhàn: đặc điểm chủ yếu của các tỉnh, thành phố ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay; đặc điểm của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh, thành ủy quản lý; khái niệm, nội dung của việc quy hoạch cán bộ diện ban thường vụ tỉnh, thành ủy quản lý; giải pháp mới: thực hiện nghiêm những yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quy hoạch cán bộ; phát
  22. 22 huy vai trò, trách nhiệm của các cấp có thẩm quyền trong định hướng, phê duyệt và bổ sung quy hoạch cán bộ diện ban thường vụ tỉnh, thành ủy quản lý. 1.2.3.3. Các công trình nghiên cứu về luân chuyển, chính sách cán bộ Về nội dung này, có các công trình tiêu biểu: Luận văn thạc sĩ “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay” của Phạm Tất Thắng [75]; bài báo khoa học: “Về chính sách đối với cán bộ luân chuyển”của Trương Quốc Bảo [6]; bài báo khoa học “Bước đột phá trong công tác cán bộ ở Thái Bình” của Hồng Văn [102]; “Hải Phòng đổi mới công tác cán bộ” của Nguyễn Văn Vinh [108]; “Chú trọng ba khâu đánh giá, quy hoạch, luân chuyển” của Phúc Sơn [71]. Các nhà khoa học đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác luân chuyển, chính sách cán bộ đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; phân tích, đánh giá thực trạng tiễn hành công việc này ở các địa bàn nghiên cứu, tổng kết được những kinh nghiệm bổ ích; đề xuất các giải pháp khả thi thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ và chính sách cán bộ đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên có gíá trị tham khảo đối với luận án, gồm: Công trình của Phạm Tất Thắng,Trương Quốc Bảo: quan niệm luân chuyển, điều động, thuyên chuyển, tăng cường, biệt phái cán bộ; vị trí, tầm quan trọng của công tác luân chuyển cán bộ diện BTVTU quản lý ở tỉnh Ninh Bình; giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác luân chuyển cán bộ diện BTVTU quản lý ở tỉnh Ninh Bình như làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ luân chuyển, cấp ủy, cán bộ, đảng viên nơi cán bộ luân chuyển đi và nơi đến, nhất là nơi đến; tăng cường theo dõi, giúp đỡ và giải quyết những khó khăn, tạo thuận lợi cho cán bộ luân chuyển hoàn thành nhiệm vụ; thực hiện tốt chính sách cán bộ luân chuyển. Công trình của Hồng Văn, Nguyễn Văn Vinh, Phúc Sơn : vai trò và quan hệ mật thiết giữa luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp với các khâu khác của công tác cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
  23. 23 lý các cấp có chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. trong đó luân chuyển cán bộ được xác định là khâu đột phá hiện nay; các giải pháp thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tiểu kết chƣơng 1 Như vậy, đã có nhiều công trình khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ, một số công trình nghiên cứu đã có biểu hiện hướng về mục tiêu tạo sự kế thừa, phát triển liên tục của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở các địa phương khác nhau trong những thời điểm khác nhau đạt kết quả quan trọng về lý luận và thực tiễn. Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên có giá trị tham khảo tốt để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của luận án. Tuy nhiên, do mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau và góc độ nghiên cứu có những điểm khác nhau, các công trình khoa học nêu trên chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH giai đoạn hiện nay. Từ biểu hiện của những hướng nghiên cứu về sự kế thừa, phát triển liên tục của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của một số công trình khoa học nêu trên, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đó, luận án tập trung giải quyết ba vấn đề chủ yếu sau đây: Thứ nhất, xây dựng khung lý thuyết về tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH; về bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH. Thứ hai, trên cơ sở khung lý thuyết đã xây dựng, luận án đánh giá thực trạng việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH từ năm 2005 đến nay về nội dung và phương thức bảo đảm, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, kinh nghiệm. Thứ ba, từ khung lý thuyết và những kết luận rút ra từ việc đánh giá thực trạng tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH và thực trạng việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH, luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu tiếp tục đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH đến năm 2025.
  24. 24 Chƣơng 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ BẢO ĐẢM TÍNH LIÊN TỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƢỜNG VỤ TỈNH ỦY QUẢN LÝ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.1. CÁC TỈNH, BAN THƢỜNG VỤ TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƢỜNG VỤ TỈNH UỶ QUẢN LÝ 2.1.1. Các tỉnh và ban thƣờng vụ tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng 2.1.1.1. Khái quát về các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14-9-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSH đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Quyết định số 191/2006/QĐ- TTg ngày 17-8-2006 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện nghị quyết này, đã xác định, ĐBSH gồm 10 tỉnh (Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình) và 2 thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Hải Phòng). Sau khi mở rộng địa giới Thủ đô Hà Nội ra toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và bốn xã của huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình), ĐBSH còn 9 tỉnh: Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình và 2 thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội, Hải Phòng. Ở các tỉnh có 12 thành phố trực thuộc tỉnh, 19 quận, 06 thị xã và 93 huyện, 433 phường, 119 thị trấn, 1906 xã [95]. * Đặc điểm tự nhiên Các tỉnh ở ĐBSH là những tỉnh thuộc đồng bằng lớn ở nước ta, có diện tích hơn 21.049,2 km2, chiếm 4,89% diện tích tự nhiên của cả nước [95], đất màu mỡ được bồi đắp bởi phù sa của hệ thống sông Hồng; phía Đông và Đông Nam tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, rất thuận tiện cho giao lưu bằng đường thủy với các tỉnh, thành phố trong nước và các nước trên thế giới, thuận lợi cho phát triển kinh tế biển, kinh tế vùng nước lợ, nước mặn.
  25. 25 Các tỉnh ở ĐBSH thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Diễn biến của thời tiết không bất thường và phức tạp như các tỉnh của vùng Tây Bắc hoặc Bắc Trung Bộ. Đặc biệt, hằng năm ở các tỉnh ĐBSH có mùa đông lạnh, rất thuận lợi cho việc gieo trồng lúa nước, các cây nhiệt đới, các cây ngắn ngày á nhiệt đới và ôn đới. Cơ cấu cây trồng ở các tỉnh rất đa dạng, phong phú, nhiều loại có chất lượng cao, trở thành đặc trưng của nhiều tỉnh trong vùng. Hệ thống sông ngòi ở các tỉnh dày đặc, thông ra biển, cùng với các hồ lớn có chế độ thủy văn khá ổn định, rất thuận lợi cho tưới, tiêu, nuôi trồng thủy sản, giao thông, cung cấp nước cho sinh hoạt và các khu công nghiệp. Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không cùng với hệ thống sông ngòi, đường biển tạo điều kiện rất thuận lợi cho các tỉnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm QPAN. Các tỉnh ở ĐBSH có các huyện thuộc ba vùng chủ yếu: vùng đồi núi thấp, gồm các huyện: Nho Quan (Ninh Bình), Lập Thạch (Vĩnh Phúc), Hoành Bồ (Quảng Ninh) ; vùng ven biển, gồm các huyện Hải Hậu, Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng (Nam Định); Đầm Hà, Yên Hưng (Quảng Ninh); Thái Thụy, Tiền Hải (Thái Bình); Kim Sơn (Ninh Bình) , ngoài ra còn có huyện đảo Vân Đồn, Cô Tô (Quảng Ninh) Các huyện còn lại, gồm đồng bằng và đồi núi xen kẽ. Nhìn chung, các tỉnh có địa hình tương đối bằng phẳng. Tài nguyên, khoáng sản ở các tỉnh khá đa dạng, có trữ lượng lớn, như: than đá ở Quảng Ninh, than bùn ở Hưng Yên, chiếm tới 90% trữ lượng than cả nước, đá vôi ở tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Quảng Ninh Ở các tỉnh còn có nguồn thuỷ, hải sản lớn, đa dạng. * Đặc điểm kinh tế Kinh tế ở các tỉnh phát triển tương đối năng động với tốc độ bình quân hằng năm khá cao, đã chuyển mạnh từ kinh tế chủ yếu là thuần nông, độc canh cây lúa, sản xuất nhỏ, manh mún, tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm sang nền kinh tế sản xuất nông nghiệp hàng hoá, hàng hoá chất lượng cao và phát triển công nghiệp - xây dựng, dịch vụ. Hệ thống cây trồng của các tỉnh rất phong phú, gồm lúa nước, ngô, khoai, sắn, đỗ tương, lạc, cây dược liệu,
  26. 26 hoa, cây cảnh Ngành chăn nuôi phát triển nhanh chóng, nhiều trang trại chăn nuôi của nông dân đạt hiệu quả cao đã trở thành những điển hình của mô hình nông dân sản xuất kinh doanh giỏi. Tuy nhiên, do bình quân diện tích đất canh tác cho người dân thấp và qua một số lần chia lại đất canh tác nên ở nhiều nơi đất đai cạnh tác bị chia nhỏ, manh mún, gây khó khăn cho phát triển kinh tế trang trại, sản xuất hàng hoá nông nghiệp lớn và chăn nuôi đại gia súc. Cơ cấu kinh tế ở nhiều tỉnh đang có xu hướng giảm mạnh tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong tổng GDP của tỉnh; lao động nông nghiệp ngày càng giảm, lao động công nghiệp - xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng lên. Các khu, cụm công nghiệp được xây dựng làm động lực phát triển kinh tế, thực hiện CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh, như các khu công nghiệp ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh. Nhiều khu công nghiệp đã thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước với lượng vốn đầu tư rất lớn, như khu công nghiệp Bình Xuyên (Vĩnh Phúc) với dự án đầu tư của hãng sản xuất máy tính IBM lên tới 800 triệu USD; khu công nghiệp Hòa Xá (Nam Định) thu hút nhiều nhà đầu tư lớn ở Hàn Quốc, Nhật Bản với mức đầu tư gần một triệu USD Các tỉnh ở ĐBSH có nhiều làng nghề truyền thống, lâu đời với các sản phẩm có giá trị, nổi tiếng trong nước, khu vực và trên thế giới, như: đúc đồng ở Vụ Bản (Nam Định) và ở Đại Bái, huyện Gia Bình (Bắc Ninh); dệt lụa, xây dựng ở Nội Duệ (Bắc Ninh); sản xuất đồ gỗ mỹ phẩm chất lượng cao ở La Xuyên, huyện Ý Yên (Nam Định); dệt chiếu cói ở Phát Diệm, huyện Kim Sơn (Ninh Bình) Một số huyện được nâng lên thành thị xã, như huyện Từ Sơn (Bắc Ninh), Chí Linh (Hải Dương); trong huyện đã hình thành nhiều thị trấn, thị tứ; một số xã ở các huyện ven đô thị được chuyển các phường. * Đặc điểm văn hóa, xã hội Trình độ dân trí chung của các tỉnh ở ĐBSH vào loại cao nhất so với các vùng khác trong cả nước. Nơi đây có nhiều trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề, các trung tâm ngoại ngữ. Tất cả các tỉnh đều hoàn thành việc phổ cấp tiểu học, nhiều tỉnh hoàn thành việc phổ cập trung học cơ sở cho
  27. 27 người dân. Đây là nhân tố rất quan trọng để nâng cao trình độ dân trí phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở địa phương. Các tỉnh ở ĐBSH là nơi đất chật, người đông, với mật độ dân số vào loại cao nhất nước, song phân bố không đều; nhiều huyện có mật độ dân số trên 1000 người/km²; huyện có mật độ dân số lớn nhất nước là huyện Thái Thụy (Thái Bình) với 1183 người/km2; tiếp đến là huyện Tiên Du (Bắc Ninh) với 1157 người/km² Trong khi đó, huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh) có mật độ dân số rất thấp, với khoảng 125 người/km2. Ở hầu hết các tỉnh việc tăng diện tích đất canh tác đang là vấn đề rất cấp bách, nhưng rất nan giải. Các tỉnh ở ĐBSH là nơi sinh sống của nhiều dân tộc, trong đó người Kinh là chủ yếu, ngoài ra còn có các dân tộc thiểu số như: Dao, Cao Lan, Sán Dìu, Tày, Nùng, Hoa, Mường sống tập trung ở một số huyện: Lập Thạch (Vĩnh Phúc), Hải Hà (Quảng Ninh), Nho Quan (Ninh Bình), Kim Bảng (Hà Nam). Một số huyện có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, như: ở huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) có 7 dân tộc thiểu số sinh sống, gồm: người Dao, Cao Lan, Sán Dìu, Tày, Nùng, Hoa; ở huyện Hải Hà (Quảng Ninh) có bốn dân tộc thiểu số sinh sống, gồm: người Dao, Tày, Sán Dìu, Nùng Các tỉnh ĐBSH là vùng đất có truyền thống văn hiến lâu đời, là nơi phát tích của các triều đại phong kiến ở nước ta, nơi hội tụ những giá trị văn hóa được lưu giữ, bảo tồn qua nhiều thế hệ và được công nhận cấp quốc gia và quốc tế như vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), dân ca Quan họ vùng Kinh Bắc, ca trù Nơi đây tập trung nhiều di tích lịch sử - văn hóa có giá trị trường tồn, vừa là địa điểm du lịch, văn hóa, vừa là danh lam thắng cảnh và tâm linh như đền thờ nhà Trần ở Thiên Trường (Nam Định), đền thờ vua Đinh - Lê và khu du lịch Tràng An, Hoa Lư (Ninh Bình), Yên Tử, Uông Bí (Quảng Ninh) Các tỉnh vùng này là nơi du nhập và phát triển của các tôn giáo lớn ở nước ta như Phật giáo, Công giáom với số tín đồ lớn, tập trung ở các huyện ven biển của tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình. Có huyện có số tín đồ chiếm trên 49% tổng số dân của huyện, như Nghĩa Hưng (Nam Định). Cùng với sự phát triển các tôn giáo, các công trình kiến trúc văn hóa tôn giáo đực
  28. 28 xây dựng, trùng tu, gồm đình, chùa, nhà thờ. Nhiều công trình nổi tiếng trong vùng và trong nước, vừa là nơi sinh hoạt tôn giáo, vừa là điểm du lịch văn hóa, như: các đình chùa ở Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc; xứ đạo Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình) là các xứ đạo lớn nhất nước ta, nổi tiếng không chỉ trong nước, mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Trong những năm gần đây, ở các tỉnh nhiều phong tục, tập quán, lễ hội đang được khôi phục và phát triển theo đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm đa dạng đời sống văn hóa tinh thần của người dân; đồng thời, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần quan trọng cổ vũ, động viên nhân dân trong xây dựng đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, như: Hội Lim (Tiên Du, Bắc Ninh); Hội Phủ Giầy, Chợ Viềng, Vụ Bản (Nam Định) * Đặc điểm chính trị Nhân dân ở ĐBSH đoàn kết cần cù, chịu khó, tiết kiệm, thông minh, có truyền thống yêu nước, căm thù và kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm, bọn áp bức, bóc lột, không chịu bó tay trước khó khăn, gian khổ, thách thức quyết liệt, vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trong sự nghiệp cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ở các tỉnh ĐBSH một lòng một dạ đi theo Đảng làm cách mạng, đánh đuổi thực dân, đế quốc xâm lược, đánh đổ địa chủ, phong kiến xây dựng đất nước giàu mạnh, tự do, dân chủ, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. HTCT từ tỉnh đến cơ sở đã được củng cố kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên một bước khá lớn, vai trò của các tổ chức trong HTCT từng bước được nâng lên. Hiện tại, ở các tỉnh vùng ĐBSH an ninh chính trị được bảo đảm, trật tự, an toàn xã hội, nhìn chung được giữ vững. Bên cạnh những thuận lợi về phát triển kinh tế - xã hội, các tỉnh ở ĐBSH vẫn còn một số hạn chế, yếu kém và đang đứng trước những thách thức lớn. Kinh tế - xã hội phát triển chưa thật mạnh mẽ và còn tiềm ẩn những rủi ro. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã ở nhiều nơi còn lạc hậu. Môi trường bị ô nhiễm nặng. Số lượng lao động không có việc làm còn lớn, nhiều người phải
  29. 29 đi làm xã quê hương dài ngày. Đời sống của người dân ở nhiều vùng nông thôn còn khó khăn. Hoạt động lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội còn diễn rabiến phức tạp. Tệ nạn xã hội ở nhiều nơi có xu hướng tăng lên; ở khá nhiều nơi, các tệ cờ bạc, rượu chè bê tha, nghiện hút, thanh thiếu niên hư và việc học hành của con, cháu, chữa bệnh của người dân, tai nạn giao thông là những nỗi lo thường nhật của nhiều gia đình. Hoạt động của các tổ chức trong HTCT ở khá nhiều nơi còn yếu kém; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu dân của một số cán bộ có chức có quyền vẫn còn xảy ra; một bộ phận cán bộ, suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống chưa được phát hiện và loại bỏ. 2.1.1.2. Ban thường vụ tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng - chức năng, nhiệm vụ và vai trò * Khái quát về đảng bộ tỉnh, tỉnh ủy và BTVTU ở ĐBSH Ở ĐBSH có 9 đảng bộ tỉnh, có 124 đảng bộ trực thuộc tỉnh ủy, trong đó, 79 đảng bộ thành phố, huyện, thị xã ; 45 đảng bộ khối và tương đương (trong đó, Quảng Ninh có 01 đảng bộ khối, Nam Định có thêm 01 đảng bộ dệt may). Đến cuối tháng 12-2013 ở chín tỉnh của ĐBSH có 6097 tổ chức cơ sở đảng và 627.649 đảng viên. Đây là vùng có số tổ chức đảng cơ sở đảng và đảng viên lớn nhất so với các vùng khác trong cả nước. Tính đến tháng 7-2014 ở các tỉnh có 484 tỉnh ủy viên, trong đó có 98% tỉnh ủy viên là người địa phương, các đồng chí này đều trưởng thành qua nhiều chức vụ, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, am hiểu nhiều lĩnh vực, có lập trường bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức trách nhiệm cao, gương mẫu về đạo đức, lối sống và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuổi đời bình quân tỉnh ủy viên ở chín tỉnh là 53,2 tuổi; tuổi đời dưới 40 là 31 đồng chí, chiếm 6,40% tổng số tỉnh ủy viên; tuổi từ 40 đến 50 tuổi là 188 đồng chí, chiếm tỷ lệ 38,84%; tỉnh ủy viên có tuổi đời trên 50 tuổi chiêm tỷ lệ khá cao (265 đồng chí), chiếm 54,75%; tỉnh ủy viên là nữ (56 đồng chí) chiếm 13% [Phụ lục 3]. Các tỉnh ủy viên ở các tỉnh ĐBSH hiện nay đều đã được đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, cụ thể là: 99,6% tỉnh ủy viên tốt nghiệp đại học, trong đó có 166 đồng chí có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, chiếm tỷ lệ
  30. 30 34,3%; tỷ lệ tỉnh ủy viên có trình độ cử nhân chính trị hoặc cao cấp lý luận chính trị là 100%. Nhiều đồng chí đã qua các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, nghiệp vụ công tác đảng, công tác vận động quần chúng và ngoại ngữ, tin học, các lớp bồi dưỡng chức danh [Phụ lục 4]. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI quy định:"Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy)" [29, tr.17]. Như vậy, tỉnh ủy ở các tỉnh ĐBSH là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ đại hội, do đại hội đảng bộ tỉnh bầu ra. Đối tượng lãnh đạo của tỉnh ủy là các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên trong đảng bộ tỉnh; các tổ chức trong HTCT từ tỉnh đến cơ sở, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và nhân dân; các lĩnh vực đời sống của xã hội như kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh Điều lệ Đảng quy định: “Cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh ủy, thành ủy) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên” [29, tr.33]. Như vậy, nhiệm vụ của tỉnh ủy, gồm: xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết định về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh; xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết định về công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ tỉnh, các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng, ban hành các nghị quyết và tổ chức thực hiện về xây dựng HTCT từ tỉnh đến cơ sở. * Chức năng, nhiệm vụ của BTVTU ở ĐBSH Ở chín tỉnh vùng ĐBSH có 124 ủy viên BTV tỉnh ủy, trong đó, ủy viên BTVTU là nữ: 7 đồng chí (chiếm 0,56%); tuổi đời dưới 44 tuổi: 2 đồng chí (chiếm 0,16 %); trên 55 tuổi: 82 đồng chí (chiếm 66 %). Tất cả ủy viên BTVTU đều có trình độ đại học, trong đó 48 đồng chí có trình độ sau đại học; 36 đồng chí có trình độ cao cấp lý luận chính trị, 88 đồng chí có trình độ cử nhân chính trị [phụ lục 4].
  31. 31 Điều 20 Điều lệ Đảng quy định: "Hội nghị tỉnh ủy, thành ủy, bầu ban thường vụ” [26, tr.34]; "Ban thường vụ lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết của đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cùng cấp và cấp trên; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp ủy" [29, tr. 34]. Như vậy, BTVTU ở ĐBSH là một bộ phận rất quan trọng của tỉnh ủy, gồm những người tiêu biểu trong tỉnh ủy, phụ trách những mặt công tác, lĩnh vực, địa bàn trọng yếu của đảng bộ tỉnh; thay mặt tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ họp tỉnh ủy. Chức năng: BTVTU cũng có chức năng lãnh đạo tương tự tỉnh ủy, gồm: lãnh đạo các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên của đảng bộ tỉnh; lãnh đạo các tổ chức trong HTCT, các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân dân trong tỉnh; lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội; lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát. Nhiệm vụ: BTVTU có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc, đại hội đảng bộ tỉnh, các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, của tỉnh ủy. Định hướng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, trọng tâm và những vấn đề xã hội quan trọng, có chủ trương đối với các dự án đầu tư trên địa bàn, chủ trương, giải pháp lớn về phát triển kinh tế - xã hội, QPAN, xây dựng chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh và lãnh đạo tổ chức thực hiện. Xem xét và cho ý kiến các chương trình, kế hoạch, đề án về cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, QPAN, phân bổ ngân sách trước khi trình HĐND tỉnh phê duyệt. Đối với một số vấn đề lớn, cần giải quyết ngay, thuộc quyền hạn và trách nhiệm quyết định của tỉnh ủy, nhưng không thể triệu tập họp tỉnh ủy thì BTVTU bàn bạc, quyết định và báo cáo tỉnh ủy vào hội nghị tỉnh ủy gần nhất. Xây dựng chương trình công tác hằng năm của tỉnh ủy; chuẩn bị nội dung và quyết định triệu tập hội nghị tỉnh ủy thường lệ và bất thường; thay mặt tỉnh ủy báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các Ban xây dựng Đảng, Ban Tổ
  32. 32 chức Trung ương về công tác của đảng bộ tỉnh và thông báo với cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc; chuẩn bị các dự thảo văn kiện và đề án nhân sự đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh trình tỉnh ủy. Lãnh đạo, chỉ đạo sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể trong tỉnh; xây dựng đội ngũ cán bộ tỉnh, nhất là đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý, gồm: phê duyệt quy hoạch cán bộ diện BTVTU quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quyết định điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ diện BTVTU quản lý; phân công nhiệm vụ cho từng tỉnh ủy viên. Chuẩn bị nhân sự ứng cử các chức danh bí thư, phó bí thư tỉnh ủy, chủ tịch HĐND, UBND tỉnh, bổ sung tỉnh ủy viên để tỉnh ủy trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét. Quyết định thẩm tra, xem xét, kết luận về lịch sử chính trị và chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên thuộc diện BTVTU quản lý; chuẩn bị nhân sự ủy viên BTV, ủy viên, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra tỉnh ủy, phó chủ tịch HĐND, UBND tỉnh. Chuẩn bị nhân sự thuộc diện BTVTU quản lý để giới thiệu vào danh sách bầu cử đại biểu quốc hội, HĐND tỉnh, lãnh đạo việc định hướng cơ cấu đại biểu HĐND tỉnh; tham gia ý kiến với ban các sự đảng, đảng đoàn, tập thể lãnh đạo các cơ quan, đơn vị ngành dọc của Trung ương về bố trí cán bộ cấp trưởng các cơ quan, đơn vị có tổ chức đảng trực thuộc tỉnh ủy. Quyết định phân cấp quản lý cán bộ cho cấp ủy cấp huyện; chỉ định bổ sung cấp ủy viên, chuẩn y kết quả bầu cử cấp ủy, ủy ban kiểm tra và bí thư, phó bí thư cấp ủy, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra, các chức danh lãnh đạo của cấp ủy trực thuộc tỉnh ủy. * Vai trò của BTVTU Một là, BTVTU ở các tỉnh ĐBSH là lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, quyết định của các kỳ họp tỉnh ủy về phát triển kinh tế - xã hội, QPAN, bảo đảm cho các nghị quyết, quyết định ấy được thực hiện. BTVTU là tập thể trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo điều hành các hoạt động của tỉnh ủy, đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ họp tỉnh ủy, chỉ đạo phối hợp các hoạt động của các tỉnh ủy viên, các cấp ủy trực thuộc trong thực hiện các nghị
  33. 33 quyết, quyết định của tỉnh ủy, đồng thời xử lý những vấn đề nảy sinh theo thẩm quyền bảo đảm cho nghị quyết, quyết định của tỉnh ủy được thực hiện. Hai là, BTVTU ở ĐBSH trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, quyết định của các kỳ họp tỉnh ủy về công tác xây dựng đảng bộ tỉnh, bảo đảm cho các nghị quyết, quyết định ấy, được thực hiện thắng lợi. Giữa hai kỳ họp tỉnh ủy, BTVTU trực tiếp và thay mặt tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đóc việc thực hiện các nghị quyết, quyết định, trực tiếp giải quyết những vấn đề nảy sinh, bảo đảm cho các nghị quyết, quyết định của tỉnh ủy về công tác xây dựng Đảng được thực hiện và bảo đảm cho các hoạt động của tỉnh ủy, đảng bộ tỉnh diễn ra bình thường theo chương trình, kế hoạch. Ba là, BTVTU ở ĐBSH trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của tỉnh ủy về xây dựng và hoạt động của các tổ chức trong HTCT từ tỉnh đến cơ sở. Tương tự như trên, BTVTU thay mặt tỉnh ủy trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định đó, đồng thời định hướng họat động của các tổ chức kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh theo đúng đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và nghị quyết của tỉnh ủy. Hoạt động của BTVTU bảo đảm cho các nghị quyết, quyết định của tỉnh ủy về những vấn đề nêu trên được thực hiện. Bốn là, BTVTU thay mặt tỉnh ủy tiếp nhận các chỉ thị, sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các ban tham mưu của Đảng để triển khai thực hiện, báo cáo lên cấp trên về hoạt động của tỉnh ủy, đảng bộ tỉnh theo quy định. 2.1.2. Đội ngũ cán bộ diện ban thƣờng vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng - khái niệm, chức năng, nhiệm vụ, vai trò và đặc điểm 2.1.2.1. Khái niệm đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý Để làm rõ khái niệm đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH, cần làm rõ khái niệm "cán bộ", "cán bộ diện BTVTU quản lý". Theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm "cán bộ" gồm hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, cán bộ là người làm việc trong cơ quan nhà nước; nghĩa thứ hai, cán
  34. 34 bộ là người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ, trong các cơ quan, tổ chức nhà nước [110, tr. 249]. Với nghĩa thứ nhất, khái niệm này, khá rộng, khi cho rằng, tất cả người lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan nhà nước đều là cán bộ. Tuy nhiên, khái niệm này lại không coi những người làm việc trong các cơ quan đảng, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội là cán bộ. Những người này là một bộ phận đông đảo và rất quan trọng đối với mọi hoạt động của địa phương, đơn vị và cả nước. Với nghĩa thứ hai, khái niệm này, chỉ coi những người có chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Điều này, khá hợp lý, song còn hẹp, vì không coi những người có chức vụ trong các cơ quan đảng, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội là cán bộ. Trên thực tế, nhiều người có chức vụ không làm việc trong các tổ chức của HTCT các cấp nhưng cũng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước, họ không thể không được coi là cán bộ. Để hiểu rõ khái niệm "cán bộ" cần dựa vào chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số định nghĩa khác và dựa vào các văn bản của Đảng, Nhà nước Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [39, tr.269]. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra khái niệm cán bộ, mà còn chỉ ra chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của cán bộ. Đây là khái niệm "cán bộ" theo nghĩa rộng. Sách tra cứu các mục từ về tổ chức đưa ra khái niệm"cán bộ" theo nghĩa nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, “cán bộ bao gồm những người được bầu hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong các tổ chức (Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân) thuộc hệ thống chính trị ở các cấp từ trung ương tới cơ sở” [68, tr.122]. Theo nghĩa rộng, “cán bộ gồm tất cả những người đảm nhiệm một công việc, mà những công việc này cần khả năng tập hợp, vận động nhân dân
  35. 35 hưởng ứng, cùng thực hiện không chỉ trong các tổ chức thuộc HTCT, mà cả trong các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội” [68, tr.123]. Khái niệm "cán bộ" theo nghĩa hẹp có nhiều điểm phù hợp với đối tượng nghiên cứu của luận án. Luận án đồng tình và sử dụng khái niệm cán bộ theo nghĩa hẹp nêu trên. Điều 4 Luật Cán bộ, công chức chỉ rõ: Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [64, tr.3]. Điều 21 Luật Cán bộ, công chức chỉ rõ thêm: "Cán bộ gồm cán bộ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện" [64, tr.8]. Hiện tại, ở nước ta có nhiều cách phân loại đội ngũ cán bộ. Tương ứng với mỗi cách phân loại sẽ có các loại cán bộ khác nhau. Nếu phân loại đội ngũ cán bộ theo các tổ chức trong HTCT sẽ có các loại cán bộ, như: cán bộ đảng, chính quyền, MTTQ, đoàn thể. Nếu phân loại theo tính chất công việc sẽ có các loại cán bộ: cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật, chuyên môn. Nếu phân loại theo hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta sẽ có các loại cán bộ: cán bộ trung ương, cán bộ địa phương, cán bộ cơ sở. Nếu phân loại theo chủ thể quản lý và theo phân cấp của Đảng về quản lý cán bộ sẽ có các loại cán bộ: cán bộ diện BTV cấp ủy các cấp quản lý và cán bộ không thuộc diện này, ví dụ: cán bộ diện BTV huyện ủy quản lý, cán bộ diện BTVTU quản lý Tất cả các loại cán bộ đều được hình thành theo hai phương thức chính: được bầu cử hoặc được bổ nhiệm. Theo Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 04-7-2007 của Ban Chấp hành Trung ương về việc ban hành quy định phân cấp quản lý cán bộ, cán bộ diện
  36. 36 BTVTU quản lý gồm những chức danh: cấp trưởng và cấp phó các tổ chức, cơ quan trong HTCT cấp tỉnh, cấp ủy đảng, chính quyền cấp huyện, các ủy viên BTV huyện, thị, thành ủy (thành phố trực thuộc tỉnh) và tương đương cấp huyện (đảng ủy khối các cơ quan, đảng ủy khối doanh nghiệp, dân chính). Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Cán bộ diện BTVTU quản lý là những người được các tổ chức trong HTCT bầu, phê chuẩn, hoặc được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm giữ các cương vị cấp trưởng và cấp phó các tổ chức, cơ quan trong HTCT tỉnh; cấp trưởng và cấp phó cấp ủy, chính quyền cấp huyện, các ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện và tương đương, đó là những cán bộ lãnh đạo, quản lý mọi hoạt động của tổ chức, cơ quan, đơn vị nơi cán bộ công tác, bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của tổ chức, cơ quan, đơn vị Đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là tập hợp những cán bộ diện BTVTU quản lý, hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, tạo thành hoạt động tổng thể của đội ngũ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT của từng tỉnh Từ khái niệm trên, có thể xác định chức danh cán bộ diện BTVTU ở ĐBSH gồm: Ở tỉnh: các tỉnh ủy viên, ủy viên BTVTU; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND tỉnh; chủ tịch, phó chủ tịch UBND tỉnh; các ủy viên đảng đoàn HĐND tỉnh, ban cán sự đảng UBND tỉnh; chủ nhiệm, phó chủ nhiệm UBKT tỉnh ủy; trưởng, phó trưởng các ban tham mưu, giúp việc của tỉnh ủy; chánh, phó chánh văn phòng tỉnh ủy; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường chính trị tỉnh; ủy viên thường trực HĐND tỉnh; trưởng, phó trưởng các ban của HĐND tỉnh; chánh, phó chánh văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội - HĐND tỉnh; giám đốc, phó giám đốc các sở, ban, ngành và tương đương thuộc tỉnh; giám đốc, phó giám đốc đài phát thanh - truyền hình tỉnh; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh; chủ tịch, phó chủ tịch Liên đoàn lao động tỉnh; chủ tịch, phó chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh; chủ tịch, phó chủ tịch Hội Nông dân tỉnh; chủ
  37. 37 tịch, phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh; bí thư, phó bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh; hội đồng thi đua - khen thưởng tỉnh; chánh thanh tra, phó chánh thanh tra tỉnh; trưởng ban, phó trưởng ban: ban dân tộc miền núi, ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh, ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe tỉnh; phó trưởng ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng tỉnh; chủ tịch, phó chủ tịch: Hội văn học - nghệ thuật tỉnh, Hội chữ thập đỏ, Hội nhà báo, Hội liên hiệp thanh niên, liên minh hợp tác xã, liên hiệp các tổ chức hữu nghị, liên hiệp các hội khoa học - kỹ thuật; tổng biên tập, phó tổng biên tập báo của đảng bộ tỉnh; ủy viên ủy ban kiểm tra tỉnh ủy; bí thư, phó bí thư, ủy viên BTV đảng ủy khối cơ quan và đảng ủy khối doanh nghiệp (ở những tỉnh tổ chức đảng bộ khối cơ quan và đảng bộ khối doanh nghiệp tỉnh). Ở những tỉnh chỉ tổ chức đảng bộ khối cơ quan và doanh nghiệp tỉnh, thì bí thư, phó bí thư, ủy viên BTV đảng ủy khối này là cán bộ diện BTVTU quản lý. Các chức danh cán bộ diện BTVTU phối hợp quản lý (hiệp quản): chánh án, phó chánh án, thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh; viện trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; chỉ huy trưởng, phó chỉ huy trưởng, chính ủy, phó chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh; chỉ huy trưởng, phó chỉ huy trưởng, chính ủy, phó chính ủy Bộ đội biên phòng tỉnh; giám đốc, phó giám đốc Công an tỉnh; trưởng các đơn vị (tương đương cấp sở) thuộc ngành dọc Trung ương quản lý hoạt động trên địa bàn tỉnh. Từ đối tượng nghiên cứu của luận án, luận án không nghiên cứu các chức danh cán bộ này. Ở huyện, thị xã, thành phố: bí thư, phó bí thư, ủy viên BTV huyện, thị, thành ủy; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND huyện, thị xã, thành phố. 2.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của các cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng Các chức danh cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH đã nêu là những cán bộ giữ các chức vụ quan trọng trong các cơ quan, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT tỉnh và trong cấp ủy, chính quyền huyện, thị xã, thành phố của tỉnh.
  38. 38 Trên thực tế, danh cán bộ diện BTVTU quản lý, họ thường được phân chia thành hai loại cán bộ chính, đó là cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý. Những cán bộ diện BTVTU quản lý công tác ở các cơ quan đảng thường được gọi là cán bộ lãnh đạo; cũng có thể gọi những cán bộ diện BTVTU quản lý công tác trong MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là cán bộ lãnh đạo; những cán bộ diện BTVTU quản lý công tác trong các cơ quan chính quyền tỉnh huyện, thị xã, thành phố thường được gọi là cán bộ quản lý Việc phân chia nêu trên, chỉ là tương đối. Bởi vì, lãnh đạo và quản lý quan hệ chặt chẽ với nhau và có nhiều điểm tương đồng và bao hàm lẫn nhau. Hoạt động lãnh đạo đã bao hàm trong nó những nội dung của hoạt động quản lý, và ngược lại, hoạt động quản lý cũng bao hàm trong nó những nội dung của hoạt động lãnh đạo. Trên thực tế, rất khó phân biệt rạch ròi hoạt động lãnh đạo với hoạt động quản lý. Hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý kết hợp chặt chẽ với nhau nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ đã được xác định. Sách tra cứu các mục từ về tổ chức đã đưa ra kết luận: “Lãnh đạo cùng với quản lý là công việc mà tất cả các chủ thể là tổ chức và cá nhân có thẩm quyền tác động đến các tổ chức và cá nhân dưới quyền và các thành viên khác trong xã hội khi thi hành nhiệm vụ do các chủ thể đó vạch ra” [68, tr. 471]. Trong hoạt động của mình, cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện một số chức năng quản lý và cán bộ quản lý cũng phải thực hiện một số chức năng lãnh đạo. Song, trong quá trình hoạt động, cán bộ lãnh đạo chủ yếu thực hiện phương thức của hoạt động lãnh đạo, đó là giáo dục, thuyết phục, vận động, động viên Cán bộ quản lý chủ yếu sử dụng các công cụ, phương tiện quản lý để tiến hành công việc. Cán bộ diện BTVTU quản lý thường xuyên và chủ yếu sử dụng phương thức lãnh đạo thường được gọi là cán bộ lãnh đạo. Cán bộ thường xuyên và chủ yếu sử dụng phương thức quản lý, thường được gọi là cán bộ quản lý. Cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Từng cán bộ có chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ này cũng có những điểm chung về chức năng, nhiệm vụ.
  39. 39 * Chức năng: chức năng chủ yếu của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH là lãnh đạo, quản lý. Trong quá trình hoạt động, cán bộ lãnh đạo là người chủ trì và cùng tập thể lãnh đạo xây dựng, ban hành các nghị quyết, quyết định của tập thể lãnh đạo về thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, xây dựng tổ chức bộ máy, cán bộ và hoạt động của cơ quan, tổ chức; lãnh đạo tổ chức thực hiện. Đối với cán bộ quản lý, trong quá trình hoạt động, những cán bộ này chủ yếu sử dụng những phương pháp, công cụ quản lý để thực hiện chức năng chủ yếu của tổ chức, cơ quan mà cán bộ là người quản lý. Họ quản lý và chịu trách nhiệm về thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quản lý mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức đó. * Nhiệm vụ: nhiệm vụ của từng cán bộ có nhiều điểm khác nhau tùy theo nhiệm vụ của tổ chức, đơn vị mà cán bộ được giao phụ trách và tùy theo nhiệm vụ cán bộ được giao. Song, nhiệm vụ đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý cũng có những điểm chung, gồm: tổ chức, chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động của cán bộ, công chức, các bộ phận trong cơ quan, đơn vị họ được giao phụ trách một cách có hiệu quả, nhằm thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Cụ thể là: xác định mục tiêu, phương hướng và giải pháp thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung đạt kết quả, trước hết là nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Bố trí, phân công cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị. Tuyên truyền, cổ vũ, động viên cán bộ, công chức tích cực thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức dưới quyền có chất lượng, bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Kiểm tra, giám sát, đôn đốc cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, khen thưởng, động viên kịp thời những cán bộ, công chức, bộ phận hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhắc nhở, phê bình, xử lý theo thẩm quyền những cán bộ, công chức, bộ phận không hoàn thành nhiệm vụ. Sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm về hoạt động của cơ quan, đơn vị và bản thân 2.1.2.3. Vai trò của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng
  40. 40 V.I Lênin viết: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [103, tr.473]. “Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo” [103, tr.158]. Theo Lênin, vai trò của đội ngũ cán bộ trước hết ở chỗ tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Khi giành được chính quyền, họ còn phải thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế nhằm xây dựng thắng lợi CNXH. Chủ tịch Hồ chí Minh khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [40, tr.269]; "công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [40, tr.273]. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò đó: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ” [25, tr.68]. Cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ của Đảng, có đầy đủ vai trò của đội ngũ cán bộ và có những điểm riêng: Một là, đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH là người trực tiếp hoặc tham gia xây dựng các chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, QPAN của tỉnh, các nghị quyết, quyết định về thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị họ phụ trách. Các ủy viên BTVTU và các tỉnh ủy viên trực tiếp tham dự các cuộc họp tỉnh ủy để xây dựng và ban hành các nghị quyết của tỉnh ủy về chủ trương, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, QPAN của tỉnh. Những cán bộ diện BTVTU quản lý khác với cương vị đảm nhiệm là người tham gia có hiệu quả vào những hoạt động nêu trên. Sự tham gia của họ có vai trò rất quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng các chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, QPAN của tỉnh trong các kỳ họp tỉnh ủy. Đối với các cấp ủy trực thuộc tỉnh ủy và cơ quan, đơn vị trực thuộc tỉnh cán bộ diện BTVTU quản lý là người phụ trách, là cán bộ chủ chốt hoặc
  41. 41 người đứng đầu, có vai trò rất quan trọng về lãnh đạo, chỉ đạo, chủ trì việc xây dựng các chủ trương, kế hoạch hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị đó, bảo đảm cho nhiệm vụ chính trị được thực hiện. Hai là, đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH lực lượng nòng cốt triển khai, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các chương trình, kế hoạch, đề án công tác của tỉnh, huyện trên các lĩnh vực đời sống xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Mỗi cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH thể hiện vai trò của mình qua việc cụ thể hoá các nghị quyết, chủ trương của Đảng, của tỉnh ủy thành kế hoạch, chương trình, nhiệm vụ, chỉ tiêu cụ thể của các ngành, lĩnh vực do cán bộ phụ trách; quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và cấp mình trong HTCT; đề xuất các giải pháp sát thực tế, tuyên truyền, giải thích, tổ chức và động viên lực lượng thực hiện Trong quá trình hoạt động cán bộ diện BTVTU quản phải hướng dẫn, hỗ trợ cán bộ và những bộ phận khi có tình huống phức tạp nảy sinh, phải xử lý một cách chủ động và sáng tạo mọi tình huống, thường xuyên giám sát, kiểm tra, đôn đốc, điểu chỉnh để các kế hoạch ngày càng phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tuỳ theo vị trí của mình, họ chịu trách nhiệm trước tỉnh ủy và chính quyền về tổ chức thực hiện những nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực đơn vị mình phụ trách, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh và nâng cao đời sống nhân dân. Ba là, đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH là nòng cốt trong xây dựng, củng cố, kiện toàn HTCT ở địa phương trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao Đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH là thành viên của tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nhiều cán bộ là người đứng đầu các tổ chức thành viên của HTCT trong tỉnh, những cán bộ này là nòng cốt và có tính quyết định việc xây dựng, củng cố, kiện toàn HTCT của địa phương vững mạnh. Họ là người chủ trì xây dựng các quy chế, quy định, nội quy hoạt động; phân công nhiệm vụ cho các đơn vị và từng thành viên trong tổ chức mình;
  42. 42 xây dựng đội ngũ cán bộ dưới quyền có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ; trang bị các công cụ, phương tiện, thiết bị kỹ thuật phục vụ thực hiện tốt nhiệm vụ của các tổ chức trong HTCT. Bốn là, đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là hạt nhân của khối đoàn kết thống nhất trong đảng bộ, trong HTCT và đoàn kết nhân dân ở địa phương, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Mỗi cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH có vai trò to lớn trong xây dựng, củng cố, tăng cường đoàn kết trong cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị và trong nhân dân. Qua đó, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và sự đồng thuận trong nhân dân, đây là nhân tố đặc biệt quan trọng để đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương được thực hiện thắng lợi. Năm là, đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là lực lượng nòng cốt trong xây dựng đội ngũ cán bộ của địa phương, cơ quan, đơn vị và là nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý bổ sung cho các cơ quan cấp trên. Đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH là cán bộ chủ chốt hoặc đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị họ phụ trách, có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng đội ngũ ngũ cán bộ của cơ quan, đơn vị, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh có chất lượng tốt thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Họ là lực lượng nòng cốt và quyết định việc xây dựng đội ngũ ngũ cán bộ của cơ quan, đơn vị có chất lượng tốt. Kết quả khảo sát 550 lượt người được hỏi ý kiến ở các tỉnh ĐBSH về vai trò của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý của tỉnh đối với các hoạt động ở địa phương, cho thấy, 79,98% số người được hỏi ý kiến cho rằng đội ngũ cán bộ này có vai trò quan trọng; 39,53% cho rằng, họ có vai trò rất quan trọng; 40,45% cho rằng, họ có vai trò đặc biệt quan trọng [Phụ lục 15b, câu 1]. 2.1.2.4. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng
  43. 43 Thứ nhất, hầu hết cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH là người địa phương, một số ít cán bộ là người từ các vùng, miền khác ở nước ta, song họ gắn bó, mật thiết với địa phương tích cực tham gia xây dựng tỉnh. Hiện tại, ở nhiều tỉnh, số lượng cán bộ diện BTVTU quản lý là người trong tỉnh chiếm gần 99% như: tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Vĩnh Phúc, Thái Bình. Ở một số tỉnh có một số ít cán bộ diện BTVTU quản lý không phải là người địa phương, song họ gắn bó mật thiết với địa phương vì sự phát triển toàn diện, bền vững của tỉnh. Phần lớn cán bộ diện BTVTU quản lý là người địa phương rất thuận lợi trong thực hiện nhiệm vụ, như: hiểu sâu đặc điểm, phong tục, tập quán địa phương; kế thừa truyền thống đoàn kết trong chống thiên tai và chống giặc, truyền thống văn hóa làng, xã Song, đặc điểm này, cũng dễ dẫn đến đoàn kết xuôi chiều, hạn chế tự phê bình và phê bình, giải quyết công việc trọng tình hơn trọng lý, tùy tiện, xem nhẹ pháp luật "phép vua thua lệ làng" Thứ hai, phần lớn cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH trưởng thành từ cơ sở, có kinh nghiệm lãnh đạo sản xuất nông nghiệp, nhất là thâm canh lúa nước, song nhiều cán bộ còn hạn chế về kinh nghiệm lãnh đạo các lĩnh vực khác, nhất là lãnh đạo CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. ĐBSH là một trong những đồng bằng lớn vào bậc nhất ở nước ta với truyền thống trồng lúa nước. Nhiều tỉnh ở ĐBSH nổi tiếng về thâm canh lúa nước. Người dân có nhiều kinh nghiệm về việc này. Phần lớn trong số cán bộ trưởng thành từ cơ sở. Nhiều cán bộ trưởng thành từ cán bộ xã, phường, thị trấn; một số trưởng thành từ quân đội, công an và các cơ sở khác, song nguồn gốc của họ chủ yếu vẫn từ nông thôn các tỉnh ĐBSH. Vì vậy, cán bộ thường hiểu rất sâu và có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn từ cơ sở. Phần lớn cán bộ có kinh nghiệm lãnh đạo sản xuất nông nghiệp, nhất là thâm canh lúa nước. Tuy nhiên, nhiều cán bộ còn hạn chế về kinh nghiệm lãnh đạo các lĩnh vực khác, như công nghiệp, xây dựng, dịch vụ
  44. 44 Thứ ba, đa số cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH được đào tạo cơ bản, hệ thống, có trình độ mọi mặt khá cao; năng động, trách nhiệm trong công việc; đội ngũ cán bộ đã được trẻ hóa một bước. Đa số cán bộ diện BTVTU quản lý được đào tạo một cách hệ thống, cơ bản tại các trường đại học, cao đẳng nên trình độ mọi mặt của cán bộ khá cao. Hầu hết cán bộ có ít nhất một bằng đại học, một số cán bộ có hai bằng đại học chuyên môn, đều có trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính trị, nhiều đồng chí có học vị thạc sĩ, tiến sĩ chuyên môn. Phần lớn cán bộ trưởng thành trong thời kỳ đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội và trong thời kỳ đổi mới. Tuyệt đại đa số cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng động, sáng tạo, trách nhiệm với công việc, quan tâm đến đời sống nhân dân. Trong những năm đổi mới vừa qua, nhất là những năm gần đây, đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở vùng này, được các cấp ủy tỉnh quan tâm trẻ hóa về tuổi đời, trình độ, năng lực, phong cách công tác Những cán bộ này, sẽ phát huy phẩm chất, năng lực của mình trong những năm tới. Thứ tư, đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH được thừa hưởng các giá trị văn hóa, truyền thống cách mạng của các thế hệ cán bộ tiền nhiệm; song khá nhiều cán bộ còn chịu sự chi phối của cách nghĩ, tầm nhìn của người sản xuất nhỏ, tiểu nông, phong cách làm việc của của thời kỳ thực hiện cơ chế hành chính tập trung, bao cấp và quan hệ huyết thống, truyền thống làng, xã. Đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn minh của dân tộc Việt, nơi có truyền thống cách mạng. Các thế hệ cán bộ tiền nhiệm luôn tìm mọi cách khắc phục khó khăn, năng động, sáng tạo, tích cực đổi mới. Những nhân tố đó là tài sản rất giá trị được nhiều cán bộ kế thừa và phát huy mạnh mẽ trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ đạt kết quả. Song, ĐBSH cũng là vùng có nhiều phong tục, tập quán, nơi điển hình của việc thực hiện cơ chế hành chính, tập trung, bao cấp trước đây, nơi thể hiện sâu đậm của quan hệ huyết thống, truyền thống làng xã những yếu tố này vẫn còn tác động khá mạnh đến hoạt động của nhiều cán bộ.
  45. 45 Trong thời kỳ đổi mới những mặt tích cực của truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, quan hệ huyết thống, truyền thống làng, xã được phát huy, song những hạn chế, tiêu cực của nó ở nhiều nơi chưa được ngăn chặn, loại trừ, thậm chí có mặt lại có xu hướng gia tăng. Khá nhiều cán bộ còn chịu sự chi phối khá mạnh của cách nghĩ, tầm nhìn của người sản xuất nhỏ, tiểu nông, phong cách làm việc của thời kỳ thực hiện cơ chế hành chính, tập trung, bao cấp và tác động của quan hệ huyết thống, truyền thống làng, xã trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, dễ cục bộ địa phương, hạn chế đấu tranh, tùy tiện trong công việc, bệnh thành tích. Đây là cái níu kéo, cản trở không nhỏ sự vươn lên, trưởng thành của các bộ, thậm chí làm cho một số cán bộ suy thoái, bị đào thải. 2.2. TÍNH LIÊN TỤC, PHÁT TRIỂN VÀ BẢO ĐẢM TÍNH LIÊN TỤC, PHÁT TRIỂN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƢỜNG VỤ TỈNH UỶ QUẢN LÝ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG - KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, NỘI DUNG, PHƢƠNG THỨC 2.2.1. Khái niệm tính liên tục, phát triển và bảo đảm tính liên tục, phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thƣờng vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng 2.2.1.1. Khái niệm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng Để đưa ra khái niệm "tính liên tục và phát triển" của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH cần làm rõ các khái niệm “liên tục”, "tính liên tục", "phát triển", "tính phát triển". * Khái niệm “liên tục”, "tính liên tục" Đại từ điển tiếng Việt cho rằng: “Liên tục” là “nối tiếp nhau thành một quá trình không bị gián đoạn: phát triển liên tục, làm việc liên tục” [110, tr.1020]. Theo Từ điển từ và ngữ Hán - Việt, giải nghĩa: “Liên tục” (liên 1: tục: tiếp nối) Tiếp nối không ngừng: Việc xây dựng con người mới phải được tiến hành thường xuyên, hằng ngày, liên tục, bền bỉ [53, tr.409].
  46. 46 Thực tế cho thấy, trong quá trình vận động của con người, tổ chức, hoặc sự vật, trong một khoảng thời gian nhất định thường diễn ra sự nối tiếp nhau tạo nên sự phát triển của sự vật, con người, tổ chức đó. Trong đó, có những sự nối tiếp liên tục, có những sự nối tiếp không liên tục (đứt quãng); và cũng có những sự nối tiếp vừa liên tục, vừa gián đoạn đan xen nhau. Trong toàn bộ quá trình vận động, của sự vật, con người, tổ chức có thể diễn ra sự nối tiếp liên tục; cũng có thể diễn ra sự gián đoạn. Như vậy, trong tổng thể quá trình vận động của sự vật, con người, tổ chức, có thời kỳ diễn ra sự nối tiếp liên tục, cũng có thời kỳ gián đoạn Thời gian diễn ra các sự nối tiếp rất khác nhau, có thể ngắn, có thể rất dài. Sự nối tiếp liên tục hay sự nối tiếp gián đoạn chỉ rõ tính chất của sự nối tiếp đó. Chẳng hạn, có thể nói, trong giai đoạn này cán bộ A có sự nối tiếp liên tục; cán bộ B có sự nối tiếp không liên tục (gián đoạn). Để đưa ra khái niệm "tính liên tục" hay "tính chất liên tục" cần làm rõ khái niệm "tính chất". Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa "tính chất": đặc điểm riêng, phân biệt sự vật này với sự vật khác [110, tr.1651]. Từ khái niệm "liên tục", "tính chất" có thể hiểu: “tính liên tục” của con người, tổ chức, sự vật là sự vận động nối tiếp nhau thành một quá trình không bị gián đoạn của con người, tổ chức, sự vật ấy. Tương tự,“tính liên tục”của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là sự vận động nối tiếp nhau thành một quá trình không bị gián đoạn của đội ngũ cán bộ này. Như vậy, đối lập với tính liên tục của con người là tính gián đoạn. Đối lập với tính liên tục của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là sự hẫng hụt (hoặc hụt hẫng) trong đội ngũ cán bộ này. * Khái niệm “phát triển”, "tính phát triển" Đại từ điển tiếng Việt cho rằng: “Sự phát triển” là “vận động, tiến triển theo chiều hướng tăng lên: phát triển kinh tế, văn hoá, không ngừng phát triển sản xuất [110, tr.1321]. Từ điển Triết học, bản dịch ra tiếng Việt có sửa chữa, bổ sung chỉ rõ: Phát triển - quá trình vận động từ thấp (giản đơn) đến cao
  47. 47 (phức tạp) phát triển là một quá trình nội tại: bước chuyển từ thấp lên cao xảy ra bởi vì trong cái thấp đã chưa đựng dưới dạng tiềm tàng những khuynh hướng dẫn tới cái cao, còn cái cao là cái thấp đã phát triển [100, tr.433]. Theo Từ điển từ và ngữ Hán - Việt, giải nghĩa: “Phát triển” (triển: mở rộng ra) mở mang rộng ra, làm cho mạnh hơn lên, tốt hơn lên [53, tr.517] Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động" [42, tr.227]; "Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và sự vận động của sự vật cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn [42, tr.227]. Như vậy, sự phát triển của sự vật là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự phát triển, luôn luôn gắn với sự tiến bộ. Con người, tổ chức, sự vật phát triển, tức là ngày càng hoàn thiện, tiến bộ hơn. Sự thụt lùi, đứng yên tại chỗ không phải là sự phát triển. Đối với các tổ chức, tập thể người trong xã hội sự phát triển của từng tổ chức, không chỉ bao gồm sự tăng lên về chất lượng, tính phức tạp, sự liên hệ của tổ chức ấy, mà còn bao gồm quy mô, cơ cấu và kết quả hoạt động theo hướng tăng lên về mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức, tập thể ấy. Từ phân tích trên và từ khái niệm "tính chất", có thể hiểu:“tính phát triển” của sự vật, con người, tổ chức là vận động theo hướng tăng lên về chất của sự vật, con người và tổ chức. Tương tự, “tính phát triển”của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là sự vận động theo hướng tăng lên về chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ. Như vậy, đối lập với tính phát triển của sự vật, con người, tổ chức là sự thụt lùi, đứng yên tại chỗ của sự vật, con người, tổ chức ấy. Đối lập với
  48. 48 tính phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là sự thụt lùi, không tăng lên về chất lượng đội ngũ cán bộ này. * Khái niệm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH Sự phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH có thể diễn ra sự vận phát liên tục, cũng có diễn ra sự phát triển gián đoạn, thể hiện ở các bước nhảy vọt. Tuy nhiên, để có sự phát triển nhảy vọt cần tạo nên sự liên tục trong quá trình vận động, phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý. Nếu không như thế sẽ không thể có sự phát triển nhảy vọt. Khi luận bàn về đội ngũ cán bộ, những vấn đề chủ yếu thường được tập trung làm sáng tỏ, gồm: số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ, phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là sự biến đổi tiến lên nối tiếp nhau không gián đoạn về số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ và về phẩm chất, năng lực, phong cách công tác, ý thức tổ chức kỷ luật của đội ngũ cán bộ trong một khoảng thời gian nhất định, tạo nên chất lượng ngày càng tăng của đội ngũ cán bộ, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao. Từ khái niệm trên, thấy rằng, tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở các tỉnh ĐBSH, gồm: Một là, tính liên tục và phát triển về số lượng cán bộ diện BTVTU quản lý Nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị và của tỉnh liên tục phát triển, đòi hỏi đội ngũ cán bộ diện diện BTVTU quản lý phải liên tục phát triển, bảo đảm về số lượng, để đủ cán bộ phụ trách những lĩnh vực, cơ quan, đơn vị trọng yếu của tỉnh bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Song, số lượng cán bộ này thường luôn biến động, do: một số cán bộ đến tuổi nghỉ hưu; một số cán bộ được luân chuyển, điều động đảm nhiệm các cương vị khác; một số cán bộ qua đời Bởi vậy, phải tăng cường số lượng, bù đắp số cán bộ thiếu hụt, đảm đương nhiệm vụ. Song, việc tăng số lượng
  49. 49 cán bộ phải hợp lý theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Tính liên tục và phát triển về số lượng cán bộ diện BTVTU quản lý phải theo hướng này. Hai là, tính liên tục và phát triển về cơ cấu đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý Sự biến động về số lượng cán bộ diện diện BTVTU quản lý kéo theo sự biến động về cơ cấu đội ngũ cán bộ này. Hơn nữa, nhiệm vụ chính trị của các địa phương, cơ quan, đơn vị và của tỉnh liên tục phát triển, với yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi đội ngũ cán bộ diện diện BTVTU quản lý phải liên tục và phát triển về cơ cấu, để cơ cấu hợp lý. Cơ cấu đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH, bao gồm các cơ cấu chủ yếu như: cơ cấu độ tuổi, cơ cấu giới tính, dân tộc, cơ cấu giai cấp, cơ cấu trình độ, chuyên môn được đào tạo, cơ cấu lĩnh vực công tác đã kinh qua Tính liên tục và phát triển về cơ cấu đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH phải hướng tới tăng cường chất lượng và hợp lý về các cơ cấu này. Ba là, tính liên tục và phát triển về phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ Phẩm chất của đội ngũ cán bộ: được thể hiện tập trung ở phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống. Hai loại phẩm chất này quan hệ mật thiết với nhau, tạo tiền đề và thuận lợi cho nhau phát triển. Năng lực của đội ngũ cán bộ: được tạo nên bởi những nhân tố chủ yếu, như trình độ mọi mặt, kinh nghiệm công tác, khả năng nắm bắt thực tiễn, vận dụng các tri thức đã tích lũy vào công việc, xử lý các tình huống, ý thức tổ chức kỷ luật, phong cách làm việc khoa học Tính liên tục và phát triển về năng lực của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH phải được thể hiện ở những mặt này và được thể hiện tập trung ở mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao năm sau cao hơn năm trước, ở việc được tập thể tín nhiệm và được cấp có thẩm quyền giao đảm nhiệm những cương vị công tác ngày càng cao hơn. Tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH về phẩm chất và năng lực phải thể hiện tính liên tục và phát triển về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; về trình độ mọi mặt, kinh nghiệm công tác, khả năng nắm bắt thực tiễn, vận dụng các tri thức đã tích lũy
  50. 50 vào công việc, xử lý các tình huống, phong cách làm việc khoa học, ý thức tổ chức kỷ luật và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. 2.2.1.2. Bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng - Khái niệm, vai trò * Khái niệm bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH Để đưa ra khái niệm "bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH còn cần làm rõ khái niệm "bảo đảm". Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa, "Bảo đảm" là: 1. Cam đoan chịu trách nhiệm về việc gì đó. 2. Làm cho có được điều gì 3. Có đủ, trọn vẹn các điều quy định 4. Chắc chắn đạt tiêu chuẩn cần thiết " [110, tr. 109]. Trong khoa học Xây Dựng Đảng, khái niệm "bảo đảm" thường được dùng trong xây dựng các tổ chức, các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên Đó là các hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên để có được các tổ chức đảng, các cơ quan lãnh đạo của đảng ở các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng tốt, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Từ định nghĩa nêu trên của Đại từ điển tiếng Việt và việc sử dụng khái niệm "bảo đảm" trong khoa học Xây Dựng Đảng, luận án sử dụng khái niệm này, theo nghĩa thứ hai (2. Làm cho có được điều gì ). Từ phân tích trên và khái niệm "tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH" có thể đưa ra khái niệm: Bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là toàn bộ hoạt động của tỉnh ủy, BTVTU, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, các tổ chức trong HTCH từ tỉnh đến cơ sở và các lực lượng có liên quan thực hiện những công việc cần thiết, tạo nên sự biến đổi tiến lên, nối tiếp nhau, không giãn đoạn về số lượng, cơ cấu, phẩm chất, năng lực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
  51. 51 Mục đích việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là làm cho chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng nâng lên đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Đội ngũ cán bộ ấy, luôn có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất, năng lực tốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Chủ thể bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là tỉnh ủy, BTVTU. Đối tượng của việc bảo đảm là đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH đương chức và cán bộ trong quy hoạch. Lực lượng tham gia vào việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH, gồm: các cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tỉnh, trước hết là các cấp ủy trực thuộc tỉnh ủy; các tổ chức trong HTCT từ tỉnh đến cơ sở và nhân dân trong tỉnh; các tổ chức, lực lượng khác ở Trung ương * Vai trò của bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH Một là, bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tỉnh ủy, BTVTU, các cấp ủy, cán bộ, đảng viên về công tác cán bộ. Để bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH, tỉnh ủy, BTVTU các cấp ủy đảng, nhất là tỉnh ủy, BTVTU và các cấp ủy trực thuộc phải tìm chủ trương, giải pháp thực hiện tốt các khâu của công tác cán bộ phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh. Tiến hành công việc này, là tỉnh ủy, BTVTU và các cấp ủy trực thuộc phải quán triệt sâu sắc Chiến lược cán bộ, các nghị quyết, quan điểm, chủ trương, các hướng dẫn của Đảng của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ; nghiên cứu, quán triệt sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ; nắm chắc tình hình và đặc điểm đội ngũ cán bộ của tỉnh, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh để xác định các chủ trương, giải pháp bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý và tổ chức thực
  52. 52 hiện. Nhờ đó, nhận thức, trách nhiệm của tỉnh ủy, BTVTU, các cấp ủy về công tác cán bộ được nâng lên. Cán bộ, đảng viên là lực lượng rất quan trọng tham gia vào việc bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý. Quá trình tham gia vào công việc này, đội ngũ cán bộ, đảng viên thấy rõ hơn vai trò của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý và vai trò của công tác cán bộ trong điều kiện hiện nay. Qua đó, nhận thức, trách nhiệm của họ đối với công tác cán bộ được nâng lên. Hai là, bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH góp phần quan trọng nâng cao chất lượng công tác cán bộ của các tỉnh ủy Việc xác định các chủ trương, giải pháp và tổ chức thực hiện nhằm bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH về thực chất là việc tiến hành các khâu chủ yếu của công tác cán bộ. Những hoạt động này của tỉnh ủy, BTVTU và các cấp ủy chính là quá trình việc thực tiễn hóa các khâu trọng yếu của công tác cán bộ. Qua đó, năng lực tổ chức thực hiện công tác cán bộ của tỉnh ủy, BTVTU và các cấp ủy được nâng lên, đồng thời đúc rút được những kinh nghiệm về tiến hành công tác cán bộ. Điều này góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao chất lượng công tác cán bộ của tỉnh ủy, BTVTU và các cấp ủy. Ba là, bảo đảm tính liên tục và phát triển của đội ngũ cán bộ diện BTVTU quản lý ở ĐBSH là nhân tố rất quan trọng hạn chế và khắc phục dần sự hụt hẫng, thậm chí thừa về số lượng, sự kém hợp lý về cơ cấu và sự giảm sút về phẩm chất, năng lực của cán bộ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ của tỉnh Những yếu kém nêu trên dẫn đến tình trạng bị động, lúng túng của các cấp ủy trong công tác cán bộ, nhất là khi đại hội Đảng các cấp, bầu cấp ủy và bầu cử đại biểu HĐND các cấp, và khi xảy ta tình huống đột xuất trong công tác cán bộ, thậm chí một số nơi có tình trạng dư thừa một số cán bộ. Cạnh đó là tình trạng sự kém hợp lý về cơ cấu và sự giảm sút về phẩm chất, năng lực