Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh trên lợn nái sinh sản nuôi tại trại lợn Bùi Huy Hạnh xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương

pdf 65 trang thiennha21 20/04/2022 3671
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh trên lợn nái sinh sản nuôi tại trại lợn Bùi Huy Hạnh xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh trên lợn nái sinh sản nuôi tại trại lợn Bùi Huy Hạnh xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM VIÊN THỊ HẰNG Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH TRÊN LỢN NÁI SINH SẢN NUÔI TẠI TRẠI LỢN BÙI HUY HẠNH XÃ TÁI SƠN, HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Thái Nguyên, năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM VIÊN THỊ HẰNG Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH TRÊN LỢN NÁI SINH SẢN NUÔI TẠI TRẠI LỢN BÙI HUY HẠNH XÃ TÁI SƠN, HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp: K47 - TY - N03 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Đức Trường Thái Nguyên, năm 2019
  3. i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chuyên đề thực tập này trước hết em xin gửi đến quý thầy, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên lời cảm ơn chân thành. Đặc biệt, em xin gửi đến TS.Nguyễn Đức Trường , người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này lời cảm ơn sâu sắc nhất. Em xin chân thành cảm ơn chủ trang trại chăn nuôi Bùi Huy Hạnh và các anh kỹ sư cùng toàn thể các bác công nhân tại trại đã giúp đỡ tạo điều kiện cho em tìm hiểu thực tiễn trong quá trình thực tập. Đồng thời nhà trường đã tạo cho em có cơ hội được thực tập nơi mà em yêu thích, cho em bước ra đời sống thực tế để áp dụng những kiến thức mà các thầy cô giáo đã giảng dạy. Qua công việc thực tập này em nhận ra nhiều điều mới mẻ và bổ ích trong chuyên môn để giúp ích cho công việc sau này của bản thân. Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới bố mẹ anh chị em, cùng bạn bè đã tạo điều kiện ủng hộ và động viên em để em hoàn thành tốt khóa học này. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 15 tháng 12 năm 2019 Sinh viên Viên Thị Hằng
  4. ii LỜI MỞ ĐẦU Thực tập tốt nghiệp là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong chương trình đào tạo của các trường đại học. Trong thời gian thực tập người sinh viên được tiếp cận với thực tiễn sản xuất, rèn luyện tay nghề củng cố và nâng cao kiến thức chuyên môn, nắm được phương pháp nghiên cứu khoa học. Đồng thời, thực tập tốt nghiệp cũng là thời gian để người sinh viên tự rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, trang bị cho bản thân những hiểu biết về xã hội khi ra trường trở thành người cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn có năng lực công tác. Vì vậy, thực tập tốt nghiệp rất cần thiết đối với mỗi sinh viên cuối khoá học trước khi ra trường. Xuất phát từ những đòi hỏi trên, được sự đồng ý của khoa Chăn nuôi Thú y, được sự phân công của thầy giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận của chủ trang trại Bùi Huy Hạnh , xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương em đã tiến hành thực hiện chuyên đề : “Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh trên lợn nái sinh sản nuôi tại trại lợn Bùi Huy Hạnh, xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”.Trong thời gian thực tập được sự giúp đỡ nhiệt tình của chủ trại, cán bộ kỹ thuật và toàn bộ công nhân trong trại cùng với sự chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo và sự nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành tốt nhiệm vụ và thu được một số kết quả nghiên cứu nhất định. Do bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, kiến thức chuyên môn chưa sâu, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và thời gian thực tập còn ngắn nên trong bản khóa luận này của em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em kính mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy, cô giáo cùng các bạn đồng nghiệp để bản khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
  5. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Lịch tiêm phòng vaccine cho đàn lợn hậu bị 28 Bảng 3.2.Thành phần và giá trị dinh dưỡng của 3 loại thức ăn hỗn hợp 29 Bảng 3.3. Chế độ ăn của nái mang thai 30 Bảng 3.4. Chế độ ăn của lợn nái nuôi con 31 Bảng 3.5. Những biểu hiện khi lợn sắp đẻ 32 Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại chăn nuôi Bùi Huy Hạnh qua 3 năm 2017 - 2019 37 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập 38 Bảng 4.3. Tỷ lệ lợn nái đẻ trực tiếp tham gia 39 Bảng 4.4. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại Bùi Huy Hạnh 41 Bảng 4.5. Kết quả điều trị bệnh sinh sản trên đàn lợn nái tại trại 42 Bảng 4.6. Tỷ lệ nhiễm một số bệnh ở đàn lợn con theo mẹ 43 Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con tại trại Bùi Huy Hạnh 44 Bảng 4.8. Kết quả thực hiện các thao tác kỹ thuật trên lợn con 45
  6. iv DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT CP : Charoen Pokphand TL : Tỷ lệ SL : Số lượng L : Lít ml : mililit MMA : Hội chứng mất sữa Nxb : Nhà xuất bản TT : Thể trọng UBND : Ủy ban nhân dân Kg : Kilogam
  7. v MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN 2 LỜI MỞ ĐẦU ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT iv MỤC LỤC v Phần 1 MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài 2 1.2.1. Mục đích 2 1.2.2. Yêu cầu 2 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 3 2.1. Điều kiện cơ sở thực tập 3 2.1.1. Vị trí địa lý 3 2.1.2. Cơ sở vật chất của trại 3 2.1.3.Cơ cấu tổ chức trại 5 2.1.4. Thuận lợi và khó khăn của trại 5 2.2. Tổng quan tài liệu 6 2.2.1. Cấu tạo giải phẫu cơ quan sinh dục cái 6 2.2.2. Đặc điểm sinh lý của lợn cái 10 2.2.3. Bệnh lý lâm sàng 14 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước 22 2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước 22 2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài 23 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 25 3.1. Đối tượng 25
  8. vi 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 25 3.3. Nội dung tiến hành 25 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 25 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện 25 3.4.2. Phương pháp thực hiện quy trình 25 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 36 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 37 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Bùi Huy Hạnh qua 3 năm 2017 - 2019 37 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản 38 4.3 Tỷ lệ lợn nái đẻ phải can thiệp 39 4.4. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Bùi Huy Hạnh 40 4.4.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Bùi Huy Hạnh 40 4.4.2.Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn con theo mẹ tại trại lợn Bùi Huy Hạnh 43 4.5. Kết quả thực hiện các công tác khác tại cơ sở. 45 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 47 5.1. Kết luận 47 5.2. Đề nghị 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
  9. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Việt Nam là một nước nông nghiệp, hơn 70% dân số nước ta sống bằng nông nghiệp. Trong đó ngành chăn nuôi chiếm một vị trí quan trọng. Để đưa ngành chăn nuôi thành ngành chủ lực, đáp ứng nhu cầu, thịt, trứng, sữa nhất là thịt lợn xuất khẩu. Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đẩy mạnh phát triển đàn gia súc cả về số lượng và chất lượng con giống nhằm mục đích nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế. Chăn nuôi lợn là ngành chăn nuôi chính, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu chăn nuôi của nước ta. Trước đây năng suất chăn nuôi còn thấp do người dân chỉ biết nuôi lợn nội và chăn nuôi theo quy mô nhỏ lẻ. Được sự tư vấn và đầu tư của các công ty chăn nuôi trong và ngoài nước, hình thức chăn nuôi tập trung đang ngày càng phát triển. Các trang trại chăn nuôi quy mô từ vài chục đến vài trăm con, những trang trại gia công lên đến hơn nghìn con lợn nái sinh sản cũng như lợn thịt thương phẩm được xây dựng ngày càng nhiều. Những năm trở lại đây, nước ta chú trọng nhập một số giống lợn cao sản từ nước ngoài để nhân giống, lai tạo, cải tạo giống mới phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, các giống lợn này chủ yếu được nhập từ các nước Châu Âu nên khi về Việt Nam khả năng thích nghi kém đặc biệt là lợn nái. Mặt khác trong quá trình sinh đẻ lợn nái dễ bị các loại vi khuẩn ngoài môi trường như: Streptococcus, Staphylococcus, E.coli, xâm nhập và gây một số bệnh nhiễm trùng sau đẻ như viêm âm đạo, âm môn, đặc biệt hay gặp là bệnh viêm tử cung và một số bệnh như: viêm vú, mất sữa, vô sinh, viêm phúc mạc dẫn đến nhiễm trùng huyết và chết. Gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái mà còn là một trong những nguyên nhân làm tăng tỷ lệ bệnh tiêu chảy ở đàn
  10. 2 lợn con trong thời gian theo mẹ, theo đó chất lượng đàn giống bị ảnh hưởng. Để phát triển hơn nữa ngành chăn nuôi lợn nái ở nước ta, chăn nuôi lợn nái là một khâu rất quan trọng quyết định đến sự thành công trong ngành chăn nuôi lợn. Đặc biệt để có con giống nuôi thịt tốt cả về số lượng và chất lượng thì việc chăn nuôi lợn nái là một mắt xích rất quan trọng. Với mục đích nâng cao năng suất sinh sản cho đàn lợn nái sinh sản và hạn chế các thiệt hại do một số bệnh gây ra chúng em đã tiến hành thực hiện chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh trên lợn nái sinh sản nuôi tại trại lợn Bùi Huy Hạnh xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”. 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục đích - Nắm vững quy trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái sinh sản. - Hiểu rõ tác dụng của các loại thức ăn dành cho lợn nái sinh sản, chế độ ăn và cách cho lợn nái ăn qua từng giai đoạn. - Chẩn đoán, điều trị một số bệnh trên đàn lợn nái. - Rèn luyện tay nghề nâng cao, hiểu biết kinh nghiệm thực tế. - Góp phần giúp cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng chăn nuôi. 1.2.2. Yêu cầu - Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái nuôi tại trại. - Xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn nái sinh sản và thực hiện điều trị bệnh
  11. 3 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Điều kiện cơ sở thực tập 2.1.1. Vị trí địa lý Trang trại chăn nuôi của ông Bùi Huy Hạnh nằm độc lập giữa cánh đồng lúa, được thành lập và đi vào sản xuất năm 2007, địa điểm xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Tứ Kỳ là một huyện thuộc tỉnh Hải Dương nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Cũng giống như các huyện khác của tỉnh Hải Dương, Tứ Kỳ nằm hoàn toàn ở giữa vùng hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình, phía Đông bắc giáp huyện Thanh Hà (ranh giới là sông Thái Bình); phía Tây bắc giáp thành phố Hải Dương; phía Tây giáp huyện Gia Lộc; phía Tây nam giáp huyện Ninh Giang, đều thuộc tỉnh Hải Dương. Phía Đông nam giáp huyện Vĩnh Bảo (ranh giới là sông Luộc); phía đông giáp huyện Tiên Lãng (ranh giới là một đoạn sông Thái Bình). 2.1.2. Cơ sở vật chất của trại Trang trại có tổng diện tích 3 ha, trong đó xây dựng 1ha cho khu chăn nuôi tập trung cùng các công trình phụ cận, và 2ha trồng cây xanh và ao hồ. Khu chăn nuôi của trại chuyên nuôi lợn sinh sản do công ty CP Việt Nam cung cấp lợn nái và lợn đực giống. Khu chăn nuôi được quy hoạch bố trí xây dựng hệ thống chuồng trại cho 1200 nái, bao gồm: 6 chuồng nái đẻ (mỗi chuồng có 56 ô kích thước 2,4m x 1,6m/ô), 2 chuồng nái chửa (mỗi chuồng có 560 ô kích thước 2,4m x 0.65m/ô), 3 chuồng cách ly, một số công trình phụ phục vụ cho chăn nuôi như: kho thức ăn, phòng sát trùng, phòng pha tinh, kho thuốc, Hệ thống chuồng xây dựng khép kín hoàn toàn, phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối chuồng có 3 quạt thông gió đối với các chuồng đẻ, 8 quạt
  12. 4 thông gió đối với chuồng nái chửa, 2 quạt đối với chuồng cách ly, 2 bên tường có dãy cửa sổ lắp kín. Mỗi cửa sổ có diện tích 1,5m², cách nền 1,2m, mỗi cửa sổ cách nhau 40cm. Trên trần được lắp hệ thống chống nóng bằng tôn lạnh. Phòng pha tinh của trại được trang bị các dụng cụ hiện đại như: máy đếm mật độ tinh trùng, kính hiển vi, thiết bị cảm ứng nhiệt, các dụng cụ đóng nhiệt tinh, nồi hấp cách thủy dụng cụ và một số thiết bị khác. Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các hố sát trùng. Hệ thống nước trong khu chăn nuôi đều là nước giếng khoan. Nước uống cho lợn được cấp từ 1 bể lớn, xây dựng ở đầu chuồng nái đẻ 6 và chuồng nái chửa 2. Nước tắm và nước xả gầm, phục vụ cho công tác khác được bố trí từ các bể lọc và được bơm qua hệ thống ống dẫn tới bể chứa ở giữa các chuồng. Hệ thống điện: Nguồn cấp điện có điện lưới và máy phát dự phòng. Đối với chuồng đẻ, hệ thống điện được cung cấp đầy đủ đảm bảo độ sáng phục vụ cho công tác đỡ đẻ, chăm sóc nuôi dưỡng lợn mẹ và lợn con, mỗi chuồng đẻ được lắp đặt cố định 10 bóng thắp sáng so le nhau cùng hệ thống bóng sưởi cho mỗi ô chuồng có lợn con được sinh ra. Hệ thống sát trùng: nhà sát trùng cho người gồm 3 phòng, mỗi phòng gồm 3 khoang gồm 1 khoang thay đồ, 1 khoang sát trùng và 1 khoang tắm tráng với đầy đủ các trang thiết bị như: bình nóng lạnh,vòi hoa sen tắm, chậu rửa, gương soi, móc quần áo, khăn, xà bông, dầu gội, hệ thống sát trùng khu vực ngoài chuồng nuôi gồm nhà sát trùng xe, hố sát trùng, nhà tắm sát trùng. Máy nén phun sát trùng di động trong khu vực chuồng nuôi. Kho chứa thước ăn: trần đóng kín, có sàn cách mặt đất 30cm để chứa thức ăn trong chăn nuôi. Hệ thống xử lý môi trường: chất thải được xử lý bằng hệ thống biogas trước khi thải ra môi trường, có điểm tiêu chất thải, có giàn khử mùi phía sau
  13. 5 quạt hút gió, có hố hủy lợn xa khu vực chăn nuôi. Các công trình phụ chợ khác: khu sinh hoạt tách biệt với khu chăn nuôi gồm phòng kỹ sư, nhà ở công nhân, nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh. Cổng trại, tường rào đảm bảo an ninh. Có nhà kho phục vụ chăn nuôi như nhà để vôi bột, bể tôi vôi nước. Một số dụng cụ và trang thiết bị khác: tủ lạnh bảo quản vacine, tủ thuốc để bảo quản và dự trữ thuốc cho trại, xe chở cám từ nhà kho xuống chuồng, máy nén khí phun sát trùng di động khu vực ngoài chuồng nuôi. 2.1.3.Cơ cấu tổ chức trại Trại gồm có 20 người trong đó có: + 1 chủ trại + 1 quản lý + 2 kỹ sư chính của công ty + 2 tổ trưởng (1chuồng bầu, 1chuồng đẻ) + 1 bảo vệ + 14 công nhân 2.1.4. Thuận lợi và khó khăn của trại - Thuận lợi: + Trại được xây dựng giữa cánh đồng, cách xa khu dân cư, nên hạn chế được dịch bệnh và không làm ảnh hưởng đến các hộ dân xung quanh. + Đội ngũ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân của trại có năng lực, năng động, nhiệt tình và có trách nhiệm trong công việc. - Khó khăn: + Trại nằm trong vùng nhiệt đới khí hậu gió mùa, thời tiết diễn biến phức tạp nên khâu phòng trừ dịch bệnh gặp nhiều khó khăn. + Bên cạnh đó do trại đã xây dựng từ lâu nên cơ sở vật chất cũng đã được sử dụng lâu năm nên một số bị xuống cấp tốn nhiều chi phí cho việc sản xuất.
  14. 6 2.2. Tổng quan tài liệu 2.2.1. Cấu tạo giải phẫu cơ quan sinh dục cái Trong cơ quan sinh sản, bộ phận sinh dục của lợn cái được chia thành: bộ phận sinh dục bên ngoài và bộ phận sinh dục bên trong. 2.2.1.1. Bộ phận sinh dục bên ngoài gồm: âm môn, âm vật và tiền đình Theo Nguyễn Thị Mai Thơ, Nguyễn Văn Thanh, Sử Thanh Long (2016) [19]. Âm hộ (Vulva) hay còn gọi là âm môn, nằm dưới hậu môn, phía ngoài là hai môi lớn có sắc tố đen. Vào thời kỳ động dục và khi sắp đẻ, hai môi này sung huyết – mọng nước, sưng lên to hơn bình thường và có màu hồng tươi. Cuối thời kỳ động dục và khi đã đẻ xong, hai môi lớn hết sung huyết, nhỏ dần và thâm lại. Dưới niêm mạc của những môi lớn có nhiều tuyến tiết mồ hôi và chất nhờn. Phía trong của hai môi lớn là hai môi nhỏ, luôn có màu hồng tươi tắn và sự mềm mại được giữ thường xuyên bởi dịch nhờn. Phía trên của hai môi nhỏ thu hẹp dần, các nếp gấp hình thành lên âm vật. Khoảng giữa của âm hộ có lỗ thông với âm đạo, gọi là âm môn (khe sinh dục hay cửa mình). Âm vật (Clitoris) có cấu tạo như dương vật nhưng thu nhỏ lại và là tạng cương của đường sinh dục cái, được dính vào phần trên của khớp bán động ngồi, bao xung quanh bởi lớp cơ ngồi hổng. Âm vật được bao phủ bởi lớp niêm mạc có chứa các đầu mút dây thần kinh cảm giác, lớp thể hổng và tổ chức liên kết bao bọc gọi là mạc âm vật. Tiền đình (Vestibulum vaginae sinus progenitalis) là giới hạn giữa âmmôn và âm đạo. Trong tiền đình có màng trinh, phía trước màng trinh là âm môn, phía sau màng trinh là âm đạo. Màng trinh có các sợi đàn hồi ở giữa và do hai lá niêm mạc gấp thành một nếp. Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng
  15. 7 trinh. Hành tiền đình là hai tạng cương ở hai bên lỗ niệu đạo và có cấu tạo giống thể hổng ở bao dương vật của con đực. 2.2.1.2. Bộ phận sinh dục bên trong gồm: âm đạo, tử cung, buồng trứng và ống dẫn trứng Theo Nguyễn Thị Mai Thơ, Nguyễn Văn Thanh, Sử Thanh Long (2016) [19]. Âm đạo (Vagina) là một ống tròn để chứa cơ quan sinh dục khi giao phối, đồng thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các chất dịch từ tử cung. Cấu tạo âm đạo chia làm ba lớp - Lớp liên kết ở ngoài. - Lớp cơ trơn có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm đạo liên kết với các cơ ở cổ tử cung. - Lớp niêm mạc có nhiều tế bào thượng bì, gấp nếp dọc hai bên nhiều hơn ở giữa. Tử cung (Uterus) có cấu tạo phù hợp với chức năng phát triển và dinh dưỡng bào thai. Trứng được thụ tinh ở ống dẫn trứng rồi trở về tử cung làm tổ, ở đây hợp tử phát triển là nhờ chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ thông qua lớp niêm mạc tử cung cung cấp. Tử cung còn có nhiệm vụ đẩy thai ra ngoài trong quá trình đẻ nhờ vào các lớp cơ. Tử cung được cấu tạo bởi 3 lớp. - Ngoài cùng là tổ chức liên kết (Perimetrium). - Lớp cơ trơn (Myometrium) giữ vai trò quan trọng trong việc đẩy thai ra ngoài. Nó là lớp cơ trơn khỏe nhất trong cơ thể. Bên trong các cơ trơn có những sợi liên kết đàn hồi và tĩnh mạch lớn. Các lớp cơ đó đan vào nhau làm cho tử cung chắc, tính đàn hồi cao. - Lớp niêm mạc tử cung (Endometrium) có màu hồng, được phủ lên bằng những tế bào biểu mô kéo dài thành lông nhung. Xen kẽ giữa các tế bào biểu mô là các tuyến tiết chất nhầy. Chất nhầy được gạt về cổ tử cung khi các
  16. 8 lông rung động. Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và niệu đạo trong xoang chậu, hai sừng nằm ở phần trước xoang chậu. Tử cung được giữ tại chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng. Tử cung của lợn thuộc loại tử cung phân nhánh (Uterus Bicorus). Tử cung được chia làm ba phần: cổ, thân và sừng tử cung. - Sừng tử cung dài 50 - 100cm, hình ruột non, thông với ống dẫn trứng. - Thân tử cung dài 3 - 5cm. - Cổ tử cung lợn dài 10 -18cm, có thành dày, hình trụ, có các cột thịt xếp theo kiểu cài răng lược, thông với âm đạo. Buồng trứng (Ovarium) của lợn gồm một đôi treo ở đầu trước của sừng tử cung, phía dưới hõm hông, cạnh trước đây chằng rộng (dây chằng tử cung) và được giữ bởi đây chằng buồng trứng - tử cung và các mạch quản thần kinh vào nuôi nó. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có hình bầu dục hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng. Buồng trứng có cấu tạo. - Bên ngoài là lớp màng có tế bào biểu mô hình khối ở ngoài và lớp màng trắng dai chắc như màng bọc bao dịch hoàn ở bên trong. - Bên trong là mô buông trứng gồm hai miền: miền vỏ và miền tủy. + Miền vỏ (peripheral cortex) dưới màng trắng, nền là mô liên kết đệm gồm nhiều sợi chun, sợi hồ. Miền vỏ sinh ra các loại nang trứng (noãn bao) ở những giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi nang trứng là một túi tròn chứa tế bào trứng bên trong. + Miền tủy ở giữa buồng trứng (zona vasculosa; central medulla) gồm mô liên kết giữa sợi xốp chứa các sợi cơ trơn, mạch máu, thần kinh và lâm ba. Ống dẫn trứng (Oviductus) còn gọi là vòi Fallop, nằm ở màng treo buồng trứng. Khi có tinh trùng vào đường sinh dục của gia súc cái, tế bào
  17. 9 trứng có thể bị đứng lại ở các đoạn khác nhau của ống dẫn rứng. Ống dẫn trứng được chia thành hai đoạn. - Đoạn ống dẫn trứng phía buồng trứng được phát triển to tạo thành một cái phễu để hứng tế bào trứng. Loa kèn có nhiều tua, nhung mao rung động để hứng tế bào trứng. Quá trình thụ tinh thường xảy ra khi trứng và tinh trùng gặp nhau ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng. - Đoạn ống dẫn trứng phía sừng tử cung gắn với mút sừng tử cung. Đoạn này phía ngoài là lớp liên kết sợi, được kéo dài từ màng treo buồng trứng. Ở giữa là hai lớp cơ, cơ vòng phía trong, cơ dọc phía ngoài. Trong cùng là lớp niêm mạc làm nhiệm vụ tiết niêm dịch. Phía trên lớp niêm mạc có lớp nhung mao luôn rungđộng để đẩy tế bào trứng hay hợp tử xuống tử cung làm tổ. Cấu tạo ống dẫn trứng gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu mở ra để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện tích tiếp xúc với buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng chiếm khoảng 1/2 chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo nối tiếp sừng tử cung, nó có thành dày hơn phần rộng và ít nếp gấp hơn. Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận chuyển noãn và tinh trùng đến nơi thụ tinh trong ống dẫn trứng(1/3 phía trên ống dẫn trứng), tiết các chất để nuôi dưỡng noãn, duy trì sự sống và gia tăng khả năng thụ tinh của tinh trùng, tiết các chất nuôi dưỡng phôi trong vài ngày trước khi phôi đi vào tử cung. Nơi tiếp giáp giữa phần eo và tử cung có vai trò điều khiển sự di chuyển của tinh trùng đến phần rộng của ống dẫn trứng hoặc di chuyển của phôi vào tử cung Theo Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2005) [17].
  18. 10 2.2.2. Đặc điểm sinh lý của lợn cái 2.2.2.1. Sự thành thục về tính Thành thục về tính là tuổi con vật có phản xạ sinh dục và có khả năng sinh sản. So với thành thục thể vóc, sự hình thành về tính ở gia súc nói chung và lợn nói riêng thường sớm hơn, nên người ta thường bỏ qua chu kỳ động dục đầu tiên, mà phối cho lợn ở chu kỳ sau, khi đó lợn đã phát triển toàn diện về thể vóc và sẵn sàng đảm nhiệm vai trò làm mẹ. Gia súc phát triển đến một giai đoạn nhất định, thì có biểu hiện về tính dục. Con đực có khả năng sinh ra tinh trùng, con cái có khả năng sinh ra tế bào trứng. Khi đấy gọi là gia súc đã thành thục về tính (Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2005)[17], thời gian thành thục về tính của lợn là 6 - 7 tháng. Sự thành thục về tính được nhận biết bằng sự biến đổi bộ phận ngoài của cơ quan sinh dục và sự biến đổi của thần kinh. Đầu tiên hai mép âm môn sưng đỏ và có dịch chảy ra, sau chuyển sang đỏ thẫm và keo dính. Tương ứng là sự biến đổi về thần kinh lúc đầu hưng phấn sau chuyển sang giai đoạn mê ì. Cùng với sự biểu hiện sinh dục bên ngoài, ở bên trong buồng trứng cũng có sự biến đổi, các noãn bào nổi trên bề mặt trứng và chín, niêm mạc tử cung tăng sinh, cổ tử cung mở dần kèm theo tiết dịch. Tuổi đầu tiên của nái hậu bị trung bình là 4 - 5 tháng tuổi nhưng tuổi phối giống lần đầu thích hợp là 7 - 8 tháng tuổi và tuổi đẻ lứa đầu là 11 - 12 tháng tuổi.  Các yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính - Giống: Các giống gia súc khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau, sự thành thực về tính ở những gia súc có tầm vóc nhỏ thường lớn hơn gia súc có tầm vóc lớn. Các giống lợn nội tuổi thành thục về tính là 4 - 5 tháng, các giống lợn Landrace, Yorksire tuổi thành thục về tính là 6 -7 tháng.
  19. 11 Theo Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003)[7], tuổi thành thục ở lợn lai muộn hơn lợn cái nội thuần chủng ( Ỉ, Móng Cái ) thường ở tháng thứ 4, thứ 5 (120 -150 ngày tuổi ). Lợn F1 thường động dục lần đầu ở 6 tháng tuổi, lợn ngoại 6 - 8 tháng tuổi. - Dinh dưỡng và cách thức nuôi dưỡng Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Duy Hoan (1998)[1], cho biết, kinh nghiệm từ thực tiễn chăn nuôi Hoa Kỳ, để duy trì năng suất sinh sản cao thì cần chú ý tới nhu cầu dinh dưỡng và cách thức nuôi dưỡng. Cho ăn tự do đến khi đạt khối lượng 80 - 90kg, sau đó cho ăn hạn chế đến lúc phối giống (ở chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3). Hoặc có thể điều chỉnh để khối lượng cơ thể đạt 120 - 140kg ở chu kỳ động dục thứ 3 và cho phối giống. Trước phối giống 14 ngày cho ăn chế độ kích dục, tăng trọng lượng thức ăn từ 1 - 1,5kg, có bổ sung khoáng và sinh tố chỉ trong 14 ngày, sẽ giúp lợn nái ăn được nhiều hơn và tăng số trứng rụng từ 2 - 2,1trứng/lần động dục/nái. - Ảnh hưởng của mùa vụ và thời gian chiếu sáng đến tuổi thành thục về tính dục Nhiệt độ môi trường cao gây trở ngại cho sựu biểu hiện chịu đực, do nhiệt độ cao làm giảm khả năng thu nhận thức ăn, làm giảm sự trao đổi chất từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ rụng trứng và thải trứng của lợn nái hậu bị, mặt khác yếu tố nhiệt độ cũng gây stress cho lợn nái nên làm giảm các phản xạ sinh dục, biểu hiện chịu đực. Ngược lại, nhiệt độ quá thấp cũng làm ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính do vấn đề stress nhiệt. Tóm lại, tất cả những yếu tố làm cho con vật stress đều có thể ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính của gia súc. Thời kỳ chiếu sáng cũng như là một thành phần của mùa vụ, bóng tối hoàn toàn làm chậm thành thục so với những biến đổi của ánh sáng tự nhiên hay nhân tạo.
  20. 12 Sự kích thích con đực cũng làm ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính của lợn cái hậu bị. Cách ly lợn nái hậu bị (ngoài 5 tháng tuổi) khỏi lợn đực sẽ dẫn đến chậm trễ sự thành thục về tính so với những lợn nái hậu bị cung độ tuổi được tiếp xúc với con đực. 2.2.2.2. Chu kỳ động dục (Chu kỳ tính) Khi gia súc thành thục về tính, những biểu hiện tính dục được biểu hiện ra liên tục có tính chu kỳ, nó chấm dứt hoàn toàn khi cơ thể già yếu. Đây là một quá trình sinh lý phức tạp, sau khi cơ thể phát triển hoàn toàn, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng các noãn bào phát triển, chín và nổi cộm lên bề mặt buồngtrứng. Khi noãn bào vỡ, trứng rụng gọi là sự rụng trứng, mỗi lần rụng trứng con vật có những biểu hiện tính dục ra bên ngoài gọi là động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng mang tính chu kỳ (Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh 2002)[8]. Sở dĩ trứng rụng có tính chu kì: dưới sự điều khiển của thần kinh trung ương, tuyến yên tiết ra FSH tác động lên buồng trứng làm các noãn bao phát triển, trong khi đóLH làm trứng chín, khi đạt đến tỷ lệ LH/FSH là 3:1 thì khi đó rụng trứng, hình thành thể vàng. Thể vàng tồn tại cho đến khi gần đẻ nếu gia súc được thụ thai, nó chỉ tồn tại từ 3 - 15 ngày nếu trứng không được thụ tinh, sau đó nó teo đi dưới tác dụng của PGF2α làm co mạch máu ngoại vi nuôi thể vàng, lúc này thể vàng rơi vào tình trạng không được cung cấp chất dinh dưỡng và bị tiêu hủy trong vòng 24h giờ, kết quả làm hàm lượng progesteron giảm, lúc này FSH và LH được giải phóng làm trứng phát triển và chín, xuất hiện chu kỳ động dục tiếp theo. Một chu kỳ động dục được tính từ lần thải trứng trước đến lần thải trứng sau. Các loài gia súc khác nhau thì thời gian hình thành chu kỳ là khác
  21. 13 nhau. Ở lợn thời gian hình thành một chu kỳ trung bình là 21 ngày biến động trong phạm vi từ 18 - 25 ngày. Khi tiến hành phối giống lợn có chửa thì lợn không động dục lại. Thời gian có chửa của lợn trung bình là 114 ngày, thời gian động dục trở lại là 7 ngày sau cai sữa, dao động từ 5 - 12 ngày. Theo Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2005)[17]: Chu kỳ động dục của gia súc cái được chia làm 4 giai đoạn: + Giai đoạn trước động dục: Bao noãn phát triển, các tế bào vách ống dẫn trứng tăng sinh. Hệ thống mạch quản trong dạ con phát triển. Các tuyếntrong dạ con bắt đầu tiết dưới tác dụng của hormone Estrogen. Thay đổi của đường sinh dục: tử cung, âm đạo, âm hộ bắt đầu xung huyết. + Giai đoạn động dục: Bao noãn phát triển mạnh nổi lên bề mặt buồng trứng. Bao noãn tiết nhiều Estrogen và đạt cực đại. Các thay đổi ở đường sinh dục cái càng sâu sắc hơn, để chuẩn bị đón trứng. Biểu hiện của con vật: Hưng phấn về tính dục, đứng yên cho con khác nhảy, kêu rống, bồn chồn, thích nhảy lên lưng con khác, ít ăn hoặc bỏ ăn, tìm đực. Âm hộ ướt, đỏ, tiết dịch nhày. Càng tới thời điểm rụng trứng thì âm hộ đỏ tím, dịch tiết keo lại, mắt đờ đẫn. Cuối giai đoạn này thì trứng rụng. + Giai đoạn sau động dục: Thể vàng bắt đầu phát triển và tiết ra Progesteron có tác dụng ức chế sự co bóp của đường sinh dục. Niêm mạc tử cung vẫn còn phát triển. Các tuyến dịch nhờn giảm bài tiết, mô màng nhầy tử cung bong ra cùng với lớp tế bào biểu mô âm đạo hóa sừng thải ra ngoài. Biểu hiện hành vi về sinh dục: Con vật không muốn gần con đực, không muốn cho con khác nhảy lên. Con vật dần trở lại trạng thái bình thường. + Giai đoạn yên tĩnh: Thể vàng teo dần đi con vật trở lại trạng thái bình thường. Biểu hiện hành vi sinh dục không có. Đây là giai đoạn nghỉ ngơi, yên tĩnh để phục hồi lại cấu tạo, chức năng cũng như năng lượng để chuẩn bị cho chu kỳ động dục tiếp theo.
  22. 14 2.2.2.3. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái Theo Nguyễn Quang Linh (2005)[12] Thời gian chửa của lợn trung bình là 114 ngày, dao động trong vòng từ 111 ngày đến 118 ngày chia làm hai giai đoạn: + Giai đoạn chửa kỳ I: Từ lúc phối giống có chửa đến ngày chửa thứ 84. Bào thai phát triển chậm, chỉ chiếm 1/4 khối lượng lợn con sơ sinh. + Giai đoạn chửa kỳ II: Từ ngày 84 đến khi đẻ, bào thai lớn nhanh chiếm 3/4 trọng lượng sơ sinh. Mỗi giai đoạn này đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc là khác nhau. Đặc biệt chú ý trong 2 tuần cuối (100 - 114 ngày) dinh dưỡng và chăm sóc phải thật hợp lý. Đây là thời kỳ lợn mẹ cần nhiều chất dinh dưỡng nhất cho sự phát triển của bào thai. Tuy nhiên thể tích bào thai lớn làm giảm lượng thức ăn thu nhận, vì vậy cần phải cho nái ăn nhiều bữa và đảm bảo chất dinh dưỡng. Trong thời kỳ mang thai tính thèm ăn của nái bị giảm xuống, để khắc phục điều này cần chế biến và bảo quản thức ăn thật tốt, kích thích tính ngon miệng cho nái thu nhận thức ăn cao. Giai đoạn này lợn mẹ cần sự yên tĩnh, những tác động kích thích từ bên ngoài dễ dẫn đến hiện tượng đẻ non hay xáo trộn sinh lý lợn mẹ, gây khó khăn khi đẻ. Khi thai đã thành thục sẽ được cơ thể mẹ đẩy ra ngoài (trong khoảng 113 - 116 ngày), lợn thường đẻ vào ban đêm, thời gian đẻ trung bình từ 2 - 6 giờ. Nếu sức khoẻ của lợn mẹ và các thai bình thường thì không cần can thiệp nhiều trong khi lợn đẻ. 2.2.3. Bệnh lý lâm sàng 2.2.3.1. Bệnh viêm tử cung  Nguyên nhân của bệnh Viêm tử cung Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002)[8], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm
  23. 15 chí mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Theo các tác giả Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng (2000)[9], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây sát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. - Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khỏe. - Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. - Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung. - Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao, gây viêm. - Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm. Theo Đào Trọng Đạt , Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng (2000)[9], thì lợn đẻ khó là khi lợn có thai đã đến thời kỳ đẻ, xuất hiện các triệu chứng như cắn ổ, ỉa, đái dắt, rặn đẻ liên tục, các hiện tượng trên kéo dài trên 12 giờ nhưng lợn vẫn không đẻ được. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến đẻ khó: do thai quá to so với cửa xoang chậu, ngôi thai không bình thường, do lợn mẹ cơ thể gầy yếu, suy dinh dưỡng không đủ sức rặn đẻ, lợn mẹ cổ tử cung bị hẹp, cửa xoang chậu không đủ rộng để thai qua một cách dễ
  24. 16 dàng. Ngoài các nguyên nhân kể trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng nhiễm trùng do vi khuẩn vào dạ con gây nên trong thời gian động dục (vì lúc đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường máu và viêm tử cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Lê Văn Năm , 1999)[15]. Theo Nguyễn Văn Thanh (2003)[16], viêm tử cung là một hội chứng thường xuất hiện trên lợn nái sau khi sinh. Lợn nái viêm tử cung sẽ bị tổn thương lớp niêm mạc, từ đó gây ảnh hưởng đến sự tiết PGF2α và làm sáo trộn chu kỳ động dục làm tăng tình trạng chậm sinh và vô sinh. Trong đó biểu hiện chậm động dục khi xảy ra sẽ làm giảm sức sinh sản của lợn nái, giảm số vòng quay lứa đẻ trong năm. Ngoài ra, phải tốn chi phí thuốc điều trị, phải loại thải sớm lợn nái do chậm động dục làm giảm hiệu quả kinh tế của trại chăn nuôi.Viêm tử cung là một trong nhiều yếu tố tổn thương đường sinh dục trên lợn nái sau khi sinh. Khi có dịch tiết và dịch lẫn mủ chính là biểu hiện của viêm tử cung . Cũng theo Nguyễn Văn Thanh (2003)[16], có nhiều nguyên nhân gây viêm tử cung như: dinh dưỡng, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, những nguyên nhân khác sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể hoặc tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập và phát triển để gây nên các triệu chứng. Boma M.H., bilkei G (2006)[21], cho thấy lứa đẻ càng cao thì sự biến đổi cấu trúc cơ quan tiết niệu sinh dục càng nhiều nên cũng ảnh hưởng đến việc lợn bị viêm tử cung. Hầu hết vi khuẩn được đào thải hết ra ngoài sau đẻ trong vòng 12 - 36 giờ. Tuy nhiên một số vi khuẩn cơ hội có thể áp đảo vi khuẩn không gây bệnh từ đó gây nên bệnh viêm tử cung. Bệnh viêm tử cung và các bệnh ở đường tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát triển trong âm đạo và việc gây
  25. 17 nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra. Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa phối nhưng đã bị viêm tử cung.  Hậu quả của bệnh Viêm tử cung Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sinh trưởng, phát triển của lợn con. Đánh giá được hậu quả của viêm tử cung nên đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh và đưa ra các nhận xét có ý nghĩa rất lớn cho quá trình chẩn đoán, phòng và điều trị bệnh. Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002)[8]; Trần Thị Dân (2004)[6], lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: - Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều Prostaglandin F2 (PGF2 ). PGF2 gây phân hủy thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hóa các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá hủy, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái chửa dễ bị sảy thai. Lớp nội mạc của tử cung bào thai có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng
  26. 18 Progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu. - Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu - Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của vi khuẩn E. coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố tạo sữa Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc. - Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính thì không có khả năng động dục lại Nếu tử cung bị viêm mạn tính thì sự phân biệt PGF2 giảm, do đó thể vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone. Progesterone ức chế thùy trước tuyến yên tiết raLH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được. Ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng mà người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn viêm tử cung lúc sinh đẻ là: chảy mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ ảnh hưởng rất lớn tới năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA (viêm vú, mất sữa, viêm tử cung), từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng. Qua đó, ta thấy hậu quả của viêm tử cung là rất lớn, để tỷ lệ mắc bệnh
  27. 19 giảm, người chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh, từ đó tìm ra biện pháp đề phòng và điều trị hiệu quả. * Bệnh viêm vú  Nguyên nhân gây bệnh viêm vú - Theo Trần Minh Châu (1996) [3], khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đườngruộtxâm nhập gây viêm vú. Một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm vú ở lợn nái là thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần thức ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập và gây viêm. + Do kế phát từ một số bệnh: Sót nhau, viêm tử cung, bại liệt sau đẻ, viêm bàng quang khi lợn nái bị những bệnh này vi khuẩn theo máu về tuyến vú cư trú tại đây và gây bệnh. + Lợn nái tốt sữa, lợn con bú không hết hoặc lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng vú còn lại căng sữa. Lợn con bú làm xây xát bầu vú hoặc lợn con bị bệnh không bú, sữa xuống nhiều bầu vú căng dễ dẫn đến viêm (Trương Lăng, 2000) [11]. + Do quá trình chăm sóc nuôi dưỡng kém, chất độn chuồng và ổ đẻ bẩn, sau khi đẻ bầu vú không được vệ sinh sạch, hàng ngày không vệ sinh bầu vú, thời tiết quá ẩm kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột dẫn đến viêm.  Triệu chứng Bình thường bệnh viêm vú xảy ra ngay sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 5 - 7 ngày có khi đến một tháng. Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [18], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú
  28. 20 xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% (Lê Hồng Mận, 2002)[14]. Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu.  Hậu quả của bệnh viêm vú Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ. - Theo Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004) [13], bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con. - Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [2], mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau.
  29. 21 * Bệnh sát nhau:  Nguyên nhân: Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. Sau khi đẻ tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Ca và P. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. + Kế phát sau các bệnh khó đẻ khác. + Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt bệnh Brucellalosis (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của nhau.  Triệu chứng: Căn cứ vào mức độ sát nhau người ta chia ra làm 2 loại: + Sát nhau hoàn toàn: Toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc thường là có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn. + Sát nhau không hoàn toàn: Ở động vật đơn thai một phần màng nhau còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ.  Điều trị Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytoxin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục
  30. 22 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước 2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước Nước ta ngành chăn nuôi rất được nhà nước quan tâm và phát triển, ngành chăn nuôi lợn đã được nhà nước đầu tư kinh phí cho rất nhiều dự án để nghiên cứu về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nói chung và lợn nái nói riêng. Theo Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ ( 2003) [7], trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1h đẻ, cắt răng nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục. Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh ( 2002) [8], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ, 2004 [13]). Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung ( 2002) [10], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và E.coli nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ
  31. 23 tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh ( 2002) [8] cho biết, khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Tác giả đề nghị nên dùng oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. Lê Xuân Cương (1986) [5] cho biết: lợn nái chậm sinh sản do nhiều nguyên nhân, trong đó tổn thương bệnh lý đường sinh dục có tỷ lệ đáng kể. Cùng với nhận định trên, Lê Minh Chí, Nguyễn Như Pho (1985) [4] cho rằng: khi lợn nái đẻ khó cần áp dụng các thủ thuật ngoại khoa, nhưng sau đó thì niêm mạc đường sinh dục có thể bị tổn thương, gây viêm đường sinh dục. 2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài Chăn nuôi lợn ở nước ngoài đã được quan tâm và phát triển từ lâu ở các nước Châu Âu, họ có rất nhiều các công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh lý của con lợn nái và các bệnh, cách trị bệnh trên con lợn nái sinh sản. Theo Urban V.P., Schnur V.I., Grechukhin A. N., (1983) [24], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E. coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp. Theo Smith B.B., Martineau G., BisaillonA. (1995) [22], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Theo Urban V.P., Schnur V.I., Grechunkhin A. N., (1983) [24],điều trị viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh
  32. 24 viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả. Xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược độc học cho phép đáp ứng tốt hơn phương pháp điều trị. Theo Trekaxova A.V., Daninko L.M., Ponomareva M.I (1983) [20], về chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 - 40ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 8 - 10cm. Dung dịch novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần. Theo Smith B.B., Martineau G., BisaillonA. (1995) [22], chữa bệnh viêm tử cung bằng cách sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao. Streptomycin 0,25g, penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml + VTM C. Theo Soko, (1981) [23] cho rằng, vi khuẩn E. coli cộng sinh có mặt thường trực trong đường ruột của người và động vật, trong quá trình sống vi khuẩn có khả năng tiếp nhận các yếu tố gây bệnh như: yếu tố bám dính (K88, K99), yếu tố dung huyết (Hly), yếu tố cạnh tranh (Colv), yếu tố kháng kháng sinh (R) và các độc tố đường ruột. Các yếu tố gây bệnh này không được di truyền qua DNA của chromosome mà được di truyền qua DNA nằm ngoài chromosome gọi là plasmid. Những yếu tố gây bệnh này đã giúp cho vi khuẩn E.coli bám dính vào nhung mao ruột non, xâm nhập vào thành ruột, phát triển với số lượng lớn. Sau đó vi khuẩn thực hiện quá trình gây bệnh của mình bằng cách sản sinh độc tố, gây hội chứng tiêu chảy, phá huỷ tế bào niêm mạc ruột.
  33. 25 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng Lợn nái sinh sản nuôi tại trại Bùi Huy Hạnh, xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm thực hiện: Trại lợn nái sinh sản Bùi Huy Hạnh, xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. - Thời gian: Từ 20/11/2018 – 25/5/2019 3.3. Nội dung tiến hành -Theo dõi cơ cấu đàn lợn nái đánh giá tình hình chăn nuôi. - Trực tiếp thực hiện qui trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái sinh sản. - Theo dõi một số bệnh lợn nái sau khi đẻ. - Điều trị bằng một số phác đồ và so sánh hiệu quả điều trị. 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện - Cơ cấu của đàn nái sinh sản tại trại. - Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại. - Một số chỉ tiêu về sinh sản của lợn nái. - Biện pháp vệ sinh phòng bệnh. - Lịch tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại. - Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại - Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái của trại. 3.4.2. Phương pháp thực hiện quy trình 3.4.2.1. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh tại cơ sở - Công tác vệ sinh phòng bệnh tại trại
  34. 26 Vệ sinh lợn nái khi đẻ: Khi lợn nái có hiện tượng rặn đẻ thì người công nhân chuồng đẻ vệ sinh sạch sẽ lợn nái bằng nước đã pha dung dịch sát trùng theo tiêu chuẩn của bác sỹ thú y quy định, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ đỡ đẻ đã được sát trùng sạch sẽ, chuẩn bị lồng úm, bóng đèn sưởi. Vệ sinh lợn nái chờ phối: Tất cả lợn nái chờ phối đều được tắm rửa sạch sẽ nhất là phần hông, tiến hành vệ sinh âm hộ theo trình tự từ trong ra ngoài bằng nước muối sinh lý rồi dùng khăn sạch thấm hết nước cũng từ trong ra ngoài. Vệ sinh đực giống: Khi khai thác tinh, đực giống được rửa sạch phần bụng và bao ngoài dương vật bằng nước muối sinh lý. Vệ sinh chuồng trại: Trong chuồng và không gian xung quanh chuồng được rắc vôi, phun thuốc sát trùng theo lịch cụ thể do kỹ sư quy định. Công tác vệ sinh phòng bệnh được diễn ra hàng ngày. Chuồng đẻ: Thay nước dẫm chân sát trùng trước khi vào chuồng 1 lần/ngày(phụ thuộc vào thời tiết mà số lần thay nước dẫm chân có thể thay đổi). Lau sàn chuồng 1 lần/ngày. Phun sát trùng 1 lần/ngày. Xịt gầm chuồng 1 lần/ngày. Xả vôi gầm 2 lần/ tuần ( thứ 3, thứ 7). Cọ rửa máng heo mẹ 1 lần/ tuần( thứ 2). Quét mạng nhện 3 lần/tuần (T3, T5, CN). Lau máng heo con 1 lần/ ngày. Quét hành lang chuồng 1 lần/ ngày. Thứ 5 tổng vệ sinh toàn trại. Chuồng nái chửa: Thay nước dẫm chân sát trùng trước khi vào chuồng 1 lần/ngày. Phun sát trùng 1 lần/ ngày.
  35. 27 Xịt máng 1 lần/ ngày. Rửa sàn, tắm lợn 1 lần/ ngày. Quét mạng nhện 3 lần/tuần (T3, T5, CN). Quét hành lang chuồng 1 lần/ngày. Thứ 5 tổng vệ sinh toàn trại. Khu vực bên ngoài: Phun sát trùng toàn bộ xung quanh trại 3 lần/ tuần. Phun thuốc diệt ruồi, côn trùng 2 lần/ tuần. Đánh chuột 1 lần/ tuần. - Phòng bệnh bằng hóa dược Khi lợn nái đang sinh đẻ tiến hành tiêm amoxiciject LA, liều lượng 1ml/10kg T.T, tiêm bắp cổ, phòng nhiễm khuẩn. Khi lợn nái đẻ xong được tiêm oxytoxin, liều lượng 2ml/con, tiêm ở bắp mông vị trí tiêm sát mép âm hộ, kích thích cơ tử cung co bóp để đẩy hết các sản phẩm trung gian ra ngoài. - Phòng bệnh bằng vaccine Định kỳ trại nhập về một số lượng lớn hậu bị nhất định để thay thế những con nái già, nái sinh sản kém, nái bị chết do bệnh hoặc những con nái không đủ điều kiện để mang thai bị loại thải. Những con hậu bị này được nuôi ở khu cách ly để theo dõi bệnh và được tiêm phòng một số loại vaccine theo quy định chăn nuôi của công ty.
  36. 28 Bảng 3.1. Lịch tiêm phòng vaccine cho đàn lợn hậu bị Thời điểm Hãng sản xuất Liều lượng Cách Phòng Vaccine tiêm (Quốc gia) (ml/con) dùng bệnh Boehringer 25 tuần PRRS 2 Tiêm bắp Tai xanh ( Đức ) Intervet 26 tuần Parvo 2 Tiêm bắp Khô thai (Hà Lan) 27 tuần Ceva coglapest 2 Tiêm bắp Dịch tả (Pháp) Ceva Lở mồm Afopor 2 Tiêm bắp (Pháp) long móng 28 tuần Intervet Begonia 2 Tiêm bắp Giả dại (Hà Lan) Boehringer 29 tuần PRRS 2 Tiêm bắp Tai xanh ( Đức ) Intervet 30 tuần Parvo 2 Tiêm bắp Khô thai (Hà Lan) Ceva Lở mồm Afopor 2 Tiêm bắp (Pháp) long móng 31 tuần Intervet Begonia 2 Tiêm bắp Giả dại (Hà Lan) (Nguồn: Kỹ thuật của trại) Ở trại nái, những con hậu bị được nuôi tiếp 2 tháng khi đủ 8 tháng tuổi thì tiến hành thụ tinh. Tất cả những lợn động dục, sau khi đã phối 3 liều tinh trong 3 buổi phối liên tiếp nhau sẽ được nuôi dưỡng và tiếp tục tiêm phòng vaccine theo quy trình tiêm vaccine trên nái mang bầu của trại. 3.4.2.2. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ Thức ăn và dinh dưỡng có vai trò quan trọng trong chăn nuôi lợn, nó
  37. 29 quyết định tới hiệu quả chăn nuôi. Toàn bộ thức ăn trong trang trại là do công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam sản xuất và chỉ được sử dụng nội bộ không được bán ra bên ngoài nên được phòng kỹ thuật công ty nghiên cứu sản xuất. Thức ăn sử dụng đảm bảo thành phần dinh dưỡng và các thành phần khác để khi sử dụng vào trong chăn nuôi lợn sinh trưởng phát triển tốt cho năng suất cao trong chăn nuôi. Trại hiện nay sử dụng 3 loại thức ăn: - Thức ăn hỗn hợp 566F sử dụng cho nái chửa kỳ 1 - Thức ăn hỗn hợp 567SF được sử dụng cho lợn đực giống, lợn hậu bị, nái chửa kỳ 2, nái nuôi con và nái chờ phối - Thức ăn 550P dạng viên và 550PF dạng bột sử dụng cho lợn con theo mẹ, lợn tập ăn và lợn cai sữa. Thành phần dinh dưỡng của 3 loại thức ăn này được ghi ở bảng 3.2 Bảng 3.2.Thành phần và giá trị dinh dưỡng của 3 loại thức ăn hỗn hợp Loại thức ăn Lợn nái STT Thành phần dinh dưỡng Lợn con tập Lợn nái nuôi mang thai ăn (550P) con (567SF) (566F) 1 Độ ẩm tối đa (%) 14 14 14 2 Protein (%) 21 17 13 3 Xơ thô tối đa (%) 3,5 7 10 4 NLTĐ (Kcal/kg) 3300 3100 2900 5 Canxin (min-max) (%) 0,6-1,2 0,6-1,2 0,6-1,4 Phospho tổng hợp số 6 0,4-0,9 0,5-1,0 0,5-1,0 (min-max ) (%) 7 Lysin tổng số ( min ) (%) 1,3 0,8 0,6 Methyonin + Cystine tổng 8 0,7 0,5 0,4 số (min) (%) 9 Hormone Không Không Không
  38. 30 Qua bảng trên ta thấy thành phần dinh dưỡng của 3 loại thức ăn được xây dựng phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng cho từng loại lợn ở từng giai đoạn khác nhau, đảm bảo cho lợn sinh tưởng và phát triển tốt, cho ra sản phẩm đạt năng suất cao. Bảng 3.3. Chế độ ăn của nái mang thai Lượng thức ăn/con/ngày(kg) Quy trình Thời kỳ chửa Bình cho ăn Gầy Béo thường (bữa/ngày) Từ tuần 1 - 4 2,5 2,2 2 1 bữa: 7h Từ tuần 5 - 11 2,2 2 1,8 Từ tuần 12 - 16 3 2,8 2,5 1 bữa: 7h (đổi sang 567SF) Tuần 17 (lên chuồng đẻ) 3 2,8 2,5 2 bữa 3 ngày 2,5 2,3 2 Trước ngày đẻ dự 3 bữa:7h 2 ngày 2 1,8 1,5 kiến 13h30; 1 ngày 1,5 1,5 1,5 16h30 Ngày đẻ 1,5 1,5 1,5 Từ tuần phối thứ 1 đến tuần thứ 4: cho ăn thức ăn hỗn hợp 566F mức cho ăn 2,0 - 2,5kg thức ăn/nái/ngày đêm, tùy vào thể trọng của từng con mà mức độ cho ăn phù hợp, nếu nái gầy cho ăn 2,5 kg thức ăn/ ngày, nái béo chỉ cho ăn 2 - 2,2 kg thức ăn/ngày. Từ tuần phối thứ 5 đến tuần phối thức 11: cho ăn thức ăn hỗn hợp 566S với mức ăn 2,5 - 3kg thức ăn/ ngày đêm. Từ tuần phối 12 - 16: Cho ăn thức ăn hợp 567SF với mức ăn 2,5 - 3kg thức ăn/ngày đêm. Giai đoạn này giúp nái làm quen với thức ăn mới trước khi chuyểnsang chuồng đẻ.
  39. 31 Từ tuần 17: nái được chuyển sang chuồng đẻ nhằm tạo điều kiện cho nái thích nghi với chuồng mới. Chuồng đẻ cho ăn 3 lần/ngày. Ăn thức ăn hỗn hợp 567SF với mức ăn 2,5 - 3 kg thức ăn/ngày đêm. Trước đẻ 3 ngày cho ăn 2 - 2,5 kg thức ăn/con. Trước đẻ 2 ngày cho ăn 1,5 - 2 kg thức ăn /con. Trước đẻ 1 ngày cho ăn 1,5 kg thức ăn /con. Ngày đẻ cho ăn 1,5 kg thức ăn /con. Bảng 3.4. Chế độ ăn của lợn nái nuôi con Lượng thức ăn (kg/ngày) Ngày đẻ Lợn nái Ngày thứ 1 sau đẻ 2,5 Ngày thứ 2 sau đẻ 3,5 Ngày thứ 3 sau đẻ 4,5 Ngày thứ 4 sau đẻ 5,5 Ngày thứ 5 sau đẻ 6 Ngày thứ 6 đến cai nữa 6,5 Sau khi đẻ do phải tiết sữa nuôi con nên khẩu phần ăn tăng 1kg/ngày chia đều 3 bữa/ngày, đến khi nào khẩu phần ăn 6,5kg/ngày và duy trì cho tới khi lợn con cai sữa. Lợn con sau khi đẻ ngày thứ 4 bắt đầu cho tập ăn bằng thức ăn viên 550P. Từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 14 thức ăn của lợn con trộn 2 loại cám tỷ lệ 3:7 (3 phần cám bột trộn với 7 phần thức ăn viên). Cho lợn tập ăn từ từ ít một và cho ăn nhiều lần trên ngày. Vệ sinh máng tập ăn hằng ngày để giữ cho máng luôn khô ráo sạch sẽ tránh nảy sinh mầm bệnh. Nái cai sữa, ngày cai sữa cho nhịn ăn, trong giai đoạn chờ phối cho ăn thức ăn 567SF với mức ăn 2kg thức ăn /con/ngày đêm. Đối với lợn nái sau cai
  40. 32 sữa mà gầy khẩu phần ăn có thể tăng hơn một chút lên 3 kg thức ăn/con/ngày đêm, để cho lợn khỏe mạnh đảo bảo tiêu chuẩn khi phối giống. Tất cả các loại lợn đều được uống nước bơm hệ thống núm uống tự động. Bảng 3.5. Những biểu hiện khi lợn sắp đẻ Trước khi đẻ Dấu hiệu 0 - 10 ngày Bầu vú căng lên và cứng, âm hộ sung huyết 2 ngày Bầu vú cương cứng hơn và tiết ra chất lỏng trong 12 - 14 giờ Nái bồn chồn, tuyến vú bắt đầu tiết sữa 6 giờ Sữa tiết ra nhiều hơn qua 2 lỗ tia sữa 2 - 4 giờ Các vú đều có sữa non vọt thành tia dài 30 phút - 2 giờ Tăng nhịp thở, 15 - 30 phút Âm hộ tiết ra dịch nhờn màu hồng có lẫn phân su 15 giây - 5 phút Nái nằm nghiêng 1 bên, hơi thở đứt quãng, ép bụng, ép đùi, quẩy đuôi rặn đẻ - Quy trình chăm sóc Chuồng trại của lợn nái nuôi con yêu cầu phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không có mùi hôi thối, ẩm ướt. Do vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 24-28oC, độ ẩm 70 - 75%. * Quy trình chăm sóc đàn lợn con theo mẹ - Lợn sau khi đẻ xong nhỏ amox 10% liều 1ml/con. - Sau đẻ 1 ngày tiến hành ghép heo, bấm tai, mài nanh, cắt đuôi,tiêm sắt 2ml/con phòng thiếu máu và tiêm amcoli 0,5ml/con khi thực hiện ngoại khoa phòng viêm nhiễm, nhỏ amox 10% 1ml/con, sát trùng rốn bằng cồn. - Sau đẻ 2 ngày nhỏ cầu trùng diacoxin 5%, sát trùng rốn bằng cồn. - Ngày thứ 4 nhỏ tiếp amox 10% với liều 1ml/con.
  41. 33 - Ngày thứ 5 kiểm tra lợn xem có con nào còi cọc gầy yếu so với đàn tiến hành ghép heo, - Lợn 4 - 5 ngày tuổi tiến hành thiến đối với lợn đực không để làm giống. Tập ăn sớm cho lợn con khi lợn con được 4 - 6 ngày tuổi bằng cám viên 550SF. Cách tập cho lợn con ăn sớm như sau: Đầu tiên cho một ít thức ăn vào trong máng ăn đặt vào ô chuồng để lợn con làm quen dần với thức ăn. Sau khi lợn con đã quen và ăn được, từ từ tăng lượng thức ăn lên. Hàng ngày vệ sinh máng tập ăn sạch sẽ, thức ăn tập ăn đảm bảo khô không bị ẩm mốc, có mùi. * Quy trình đỡ đẻ: Chuẩn bị lồng úm: Chuẩn bị bao khâu lồng úm, bao khâu lồng úm đã được giặt sạch, sát trùng, phơi khô, sau đó khâu lồng úm. Chuẩn bị đỡ đẻ: Với lợn mẹ cần vệ sinh âm hộ và mông cho sạch sẽ bằng nước có pha sát trùng khi vỡ ối, vệ sinh sàn chuồng, chuẩn bị thảm lót và lồng úm, chuẩn bị bóng điện úm cho lợn con, chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ như bột lăn Mistral, cồn iod để sát trùng, kéo để cắt dây rốn, chỉ để buộc dây rốn. Kĩ thuật đỡ đẻ: - Một tay cầm chắc lợn, một tay dùng khăn khô lau sạch dịch nhờn ở mồm, mũi và toàn thân cho lợn để lợn hô hấp thuận lợi, bôi cồn vào rốn sau đó rắc bột lăn Mistral lên toàn bộ cơ thể lợn con cho nhanh khô rồi cho vào trong lồng úm. - Cắt rốn: Thắt dây rốn ở vị trí cách cuống rốn 2,75 cm, dùng kéo cắt phần bên ngoài nút thắt một đoạn bằng 1/2 bên trong nút buộc khoảng 1,5 cm. Sát trùng dây rốn và vùng cuống rốn bằng cồn iod. - Cho lợn con vào lồng úm tº = 33 - 35ºC - Trước khi cho lợn con ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ bằng nước pha sát trùng, có lót thảm, mùa đông lắp thêm bóng ở trên vị trí bú rồi cho lợn con ra bú.
  42. 34 - Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết, lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú. Không can thiệp khi quá trình đẻ của lợn nái diễn ra bình thường, chỉ can thiệp khi lợn mẹ rặn đẻ lâu và khó khăn. * Kỹ thuật can thiệp lợn đẻ khó Một số biểu hiện lợn đẻ khó: - Khi lợn đã vỡ nước ối mà lợn mẹ lại không có biểu hiện rặn đẻ. - Lợn rặn đẻ liên tục, bụng căng lên do rặn đẻ mạnh, đuôi cong lên do lợn con đã ra đến cổ tử cung nhưng do trọng lượng lợn con quá to hoặc do ngôi thai bị ngược nên không ra ngoài được. - Thời gian 1 - 2 h vẫn chưa thấy lợn đẻ sau con đầu tiên. - Lợn mẹ trở nên kiệt sức: thở nhanh, yếu ớt do qúa trình rặn đẻ nhiều nên kiệt sức. Cách can thiệp lợn đẻ khó: - Trong trường hợp lợn nái đẻ lâu, thời gian đẻ kéo dài dùng tay hỗ trợ động tác đẻ cho lợn xoa bầu vú hoặc có thể cho lợn con đẻ trước bú để kích thích lợn mẹ đẻ. - Trong trường hợp lợn rặn đẻ quá lâu hoặc sau khi lợn đã đẻ được 6 - 7 con trở lên thì ta có thể can thiệp bằng sử dụng thuốc oxytoxin 2ml/con. - Nếu các biện pháp trên không được thì phải can thiệp bằng tay: Rửa sạch âm hộ của lợn nái, rửa sạch tay bằng nước pha sát trùng vikors 1 ml/200 lít nước, dùng gel bôi trơn, sau đó đưa tay vào cơ quan sinh dục của lợn nái sâu 10 - 15cm, và lựa chiều kéo từng thai ra ngoài theo nhịp rặn của lợn mẹ. * Quy trình vệ sinh phòng bệnh cho lợn tại trại Vệ sinh hàng ngày: Việc vệ sinh sát trùng chuồng trại có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Vệ sinh bao gồm nhiều yếu tố: vê ̣sinh môi trường xung quanh, vê ̣sinh đất, nước, vê ̣sinh chuồng trại Hàng ngày đều có
  43. 35 công nhân quét dọn, vệ sinh chuồng trại, thu gom phân rác, nước tiểu Để góp phần nâng cao năng suất cũng như chất lượng của đàn lợn, trong quá trình học tập và thực tập tại trại em đã cùng các anh kỹ sư, các bác công nhân trong trại đã thực hiện nghiêm túc những quy định mà trại đề ra như sau: - Hằng ngày, trước khi vào chuồng làm việc các kỹ sư, công nhân và sinh viên thực tập phải đi qua nhà sát trùng, đeo ủng trước khi vào chuồng. Đồ dùng cá nhân, sổ sách cần để vào tủ UV trước khi đem vào chuồng. - Giao nhận ca với ca đêm, kiểm tra qua một lượt chuồng trại. - Kiểm tra nhiệt độ chuồng nuôi. - Cho lợn nái ăn, thu dọn phân tránh lợn mẹ nằm đè lên phân. - Lau máng tập ăn cho lợn con, chuẩn bị thức ăn, rắc thức ăn cho lợn con tập ăn. - Lau mông lợn mẹ bị dính phân. - Vệ sinh sàn sạch sẽ, rắc vôi bột, quét đường đi lại giữa dãy chuồng. - Vệ sinh máng ăn cho lợn mẹ vào thứ 2 hàng tuần ; vét cám thừa trước khi tra cám. - Định kỳ tiến hành phun thuốc sát trùng, xịt gầm, xả vôi gầm chuồng, quét mạng nhện trong chuồng, rắc vôi bột ở cửa ra vào đảm bảo vệ sinh chuồng trại. - Tiến hành khâu vách bằng bao đã giặt sạch ngâm sát trùng ở chuồng đợi đẻ. - Trong khu vực chăn nuôi hạn chế đi lại giữa các chuồng, không được tự ý sang các khu khác đặc biệt là khu cách ly. - Các phương tiện ra vào trại phải được sát trùng kỹ tránh phát tán mầm bệnh từ bên ngoài vào.
  44. 36 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu thu được xử lý trên phần mềm exel (2013) - Tỷ lệ lợn mắc bệnh: ∑số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 ∑ số lợn theo dõi - Tỷ lệ lợn khỏi bệnh: ∑số con khỏi bệnh Tỷ lệ lợn khỏi bệnh (%) = x 100 ∑ số con điều trị
  45. 37 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Bùi Huy Hạnh qua 3 năm 2017 - 2019 Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại chăn nuôi Bùi Huy Hạnh qua 3 năm 2017 - 2019 Tháng 5/ STT Loại lợn Năm 2017 Năm 2018 2019 1 Lợn đực giống 21 21 20 2 Lợn nái sinh sản 1.302 1.240 1.173 3 Lợn hậu bị 120 121 90 4 Lợn con 28.908 31.416 11.655 Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy, số lượng nuôi giữa các loại lợn của trại là rất khác nhau và có sự chênh lệch rõ rệt. Số lợn con và lợn nái sinh sản là cao nhất, vì trang trại chỉ sản xuất lợn giống, do đó cơ cấu của trại chủ yếu là lợn nái và lợn con theo mẹ. Số lượng lợn nái có xu hướng tăng lên, đặc biệt, lợn nái hậu bị tăng lên số lượng lớn nhằm thay thế cho các lợn nái sinh sản không đủ tiêu chuẩn và phải loại thải. Từng lợn nái được theo dõi tỉ mỉ, các số liệu liên quan của từng nái như số tai, ngày phối giống, ngày đẻ dự kiến, được ghi trên thẻ gắn tại chuồng nuôi. Số lợn đực giống cũng tăng giảm không ổn định là do số lợn nái tăng khiến nhu cầu về khai thác tinh dịch để phối giống cho lợn nái tăng, bên cạnh đó là việc phải loại thải những con đực giống đã kém chất lượng nên công ty phải cung cấp thêm lợn giống đực cho trại.
  46. 38 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản Bảng 4.2. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập Lợn con đẻ ra Lợn con cai sữa Tháng Nái đẻ, nuôi con / nái /lứa / nái / lứa 12/2018 56 12,76 12,55 1/2019 56 12,6 12,32 2/2019 56 12,71 12,44 3/2019 56 12,39 12,25 4/2019 56 12,14 12 5/2019 56 12,64 12,3 Tổng 336 12,54 12,31 Bảng 4.2 cho biết số lượng lợn nái đẻ, nái nuôi con và số lượng lợn con mà em trực tiếp chăm sóc. Số lượng lợn nái đẻ, nuôi con qua 6 tháng em chăm sóc trung bình số lợn con đẻ ra / nái/ lứa là 12,54 con, trung bình số lợn con cai sữa / nái / lứa là 12,31 con. Trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng em đã được học hỏi nhiều kiến thức về cách cho ăn, loại thức ăn nào dành cho những loại lợn nào, nhu cầu dinh dưỡng của lợn nái trong từng thời kỳ, các thao tác kỹ thuật để chăm sóc lợn mẹ tốt Bên cạnh đó em cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm như: đối với lợn nái sau khi tách con cần áp dụng chế độ ăn tăng để tăng số trứng rụng và tăng số con đẻ ra trên lứa; chuồng trại phải sạch sẽ thoáng mát tuy nhiên cũng không nên tắm thường xuyên vào những ngày lạnh, ẩm ướt vì sẽ làm ẩm chuồng, độ ẩm không khí tăng, vi sinh vật dễ phát triển trong môi trường làm lợn nái dễ nhiễm bệnh, vào những ngày mùa đông giá rét thì phải chuẩn bị bóng úm và thảm cho lợn con, đối với lợn mẹ sau khi đẻ phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, giữ cho chuồng trại luôn khô ráo, sạch sẽ, giữ ấm cho lợn và tuyệt đối không tắm cho lợn con.
  47. 39 4.3 Tỷ lệ lợn nái đẻ phải can thiệp Bảng 4.3. Tỷ lệ lợn nái đẻ trực tiếp tham gia Đẻ bình Số con đẻ Tháng Số con đẻ Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) thường khó 12/2018 56 55 98,21 1 1,79 1/2019 56 52 92,85 4 7,15 2/2019 56 49 87,5 7 12,5 3/2019 56 48 85,71 8 14,3 4/2019 56 54 96,42 2 3,58 5/2019 56 48 85,71 8 14,3 Tổng 336 306 91,07 30 8,93 Qua bảng 4.3. cho thấy: Số lượng lợn đẻ mỗi tháng, số con đẻ bình thường và số con đẻ phải can thiệp tại cơ sở. Tỷ lệ lợn nái đẻ phải can thiệp thấp chỉ từ 1,79 - 14,3%, trung bình là 8,93%. Số lợn nái đẻ phải can thiệp với tỷ lệ thấp là do trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng đã thực hiện đúng quy trình về thức ăn cho lợn nái mang thai và kỹ thuật chăm sóc lợn nái đẻ. Số lợn nái đẻ khó chủ yếu tập trung nhiều ở nái đẻ lứa đầu, một số ít là do lợn mẹ trong quá trình mang thai quá béo, ít vận động làm ảnh hưởng đến quá trình đẻ. Trong quá trình đỡ đẻ cho lợn nái, em rút ra được một số bài học kinh nghiệm đó là: Việc ghi chép chính xác ngày phối giống cho lợn nái là rất quan trọng, sẽ giúp cho người chăn nuôi xác định được thời điểm lợn sắp đẻ để có kế hoạch chuẩn bị các dụng cụ hỗ trợ quá trình đẻ, chuẩn bị ổ úm cho lợn con. Khi xác định quá ngày đẻ dự kiến mà lợn chưa đẻ cần xác định lại ngày phối giống và ngày đẻ dự kiến nếu quá 2 ngày đẻ dự kiến lợn chưa đẻ cần tiêm thuốc hẹn đẻ. Tiêm lutalyse liều 2ml/con, tiêm bắp mông vị trí gần mép âm hộ, tác dụng hẹn giờ đẻ sau 24h. Trong thời gian lợn sắp đẻ thì phải thường xuyên theo dõi, quan sát lợn, không nên để lợn tự đẻ vì lợn mẹ có thể sẽ đè con, cắn con hoặc khi lợn mẹ đẻ khó sẽ không kịp thời xử lý.
  48. 40 Khi đỡ đẻ cho lợn, người thực hiện phải thao tác nhẹ nhàng, khéo léo, để tránh làm tổn thương cơ quan sinh dục của lợn mẹ, toàn bộ dụng cụ, tay của người thực hiện đỡ đẻ phải được sát trùng, người đỡ đẻ cho lợn không được để móng tay dài có thể làm tổn thương cơ quan sinh dục của lợn nái trong quá trình can thiệp đẻ khó. - Một số biểu hiện lợn đẻ khó đã gặp tại cơ sở: + Lợn rặn đẻ liên tục, bụng căng lên do rặn đẻ mạnh, đuôi cong lên do lợn con đã ra đến cổ tử cung nhưng do khối lượng lợn con quá to hoặc do ngôi thai bị ngược nên không ra ngoài được. + Lợn mẹ kiệt sức do quá trình rặn đẻ nhiều. - Cách can thiệp lợn đẻ khó tại cơ sở: Đầu tiên cho lợn mẹ đứng dậy để đổi ngôi thai nếu sau đó lợn chưa đẻ tiến hành can thiệp bằng tay dùng thuốc sát trùng cơ quan sinh dục của lợn nái, sát trùng tay, dùng gel bôi trơn tay, sau đó đưa tay vào tử cung lợn, nắm lợn con, đưa lợn con ra ngoài. Tùy thuộc vào vị trí thai nằm để lựa cách đưa bào thai ra ngoài . Lưu ý khi đưa lợn con ra ngoài cần tiến hành nhẹ nhàng theo nhịp rặn của lợn mẹ, tránh thô bạo làm tổn thương niêm mạc tử cung lợn mẹ. * Sử dụng thuốc cho nái đẻ - Sử dụng oxytoxin: Kích thích co bóp tử cung với liều lượng 2 ml/con. - Sử dụng kháng sinh: Sử dụng hitamox liều 1ml/10kg TT tiêm 3 mũi liên tục, mỗi mũi cách nhau 1 ngày có tác dụng kháng viêm. - Một số thuốc khác: + Anazine: 20ml/con hạ sốt + Gentylo: 1ml/15kg TT đối với nái bị viêm phổi. 4.4. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Bùi Huy Hạnh 4.4.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Bùi Huy Hạnh Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại em đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với các anh kỹ sư của trại.
  49. 41 Qua đó chúng em đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Sau đây là kết quả của công tác chẩn đoán bệnh dựa trên biểu hiện lâm sàng của con vật. Bảng 4.4. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại Bùi Huy Hạnh Số con mắc Bệnh Số con bệnh Biểu hiện theo SL TL quan sát được dõi ( con) (%) - Sau khi sinh 3 - 5 ngày âm hộ Viêm tử chảy mủ trắng . 336 32 9,52 cung - Hơi sưng âm hộ. - Sốt nhẹ , ăn ít hoặc bỏ ăn. - Bầu vú sưng to, nóng đỏ, đau. - Biểu hiện sốt , ăn ít hoặc bỏ ăn. Viêm vú 336 3 0,9 - Lấy tay bóp vị trí viêm thấy sữa lẫn mủ chảy ra. - Sau khi sinh 1 - 2 ngày ở âm hộ chảy ra dịch màu nâu, màu hồng. Sát nhau 336 16 4,76 - Lợn có biểu hiện rặn nhiều, sốt cao 41 -42ºC , lợn ăn ít ,bỏ ăn. Qua bảng 4.4 cho thấy: Đàn lợn nái của trại mắc các bệnh như sau: Bệnh viêm tử cung, bệnh viêm vú, bệnh sát nhau. Trong đó, lợn nái mắc bệnh viêm tử cung chiếm tỷ lệ 9,52%, tiếp đến là bệnh sát nhau tỷ lệ là 4,76%, bệnh viêm vú chiếm 0,9%. Để giảm thiểu tỷ lệ mắc các bệnh trên lợn nái nhằm hạn chế bệnh sản khoa ở lợn nái cần nâng cao sức đề kháng cho lợn trong thời kỳ mang
  50. 42 thai và sinh đẻ, điều chỉnh tăng, giảm thức ăn thích hợp đối với những lợn nái đẻ lứa đầu để con đẻ không quá to dẫn đến đẻ khó. Có như vậy mới hạn chế được việc can thiệp bằng tay hay dụng cụ sản khoa, từ đó sẽ hạn chế được việc làm tổn thương đường sinh dục của lợn nái. Bên cạnh đó cần đảm bảo chuồng nuôi phải đầy đủ ánh sáng, thoáng mát về mùa hè và kín gió về mùa đông. Qua đây em thấy rằng trong chăn nuôi cần quan tâm chú ý hơn nữa đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn nái vì khi lợn nái nhiễm bệnh thì không những ảnh hưởng trực tiếp đến con nái bị bệnh, mà còn ảnh hưởng đến chất lượng đàn lợn con. Bảng 4.5. Kết quả điều trị bệnh sinh sản trên đàn lợn nái tại trại Bùi Huy Hạnh Bệnh Phác đồ điều trị Số Số con khỏi con điều SL TL trị (con) (%) - Thụt rửa bằng bột dung dịch vệ sinh Gynapax 6 gói/ 5 lít nước/ 2 con Viêm - Tiêm oxytocine: 2ml/con/ lần ngày 1 lần, tử tiêm bắp mông vị trí gần mép âm hộ . 32 31 96,86 cung - Tiêm amoxinject L.A 1ml/10kg TT, tác dụng kéo dài 48h, tiêm bắp cổ. - Liệu trình điều trị từ 3-5 ngày. - Lấy nước nóng pha với muối . Viêm - Nếu bị nhẹ lấy khăn nóng chườm vào vùng 3 3 100 vú vú bị viêm cứng chườm 3-4 lần trên một ngày. - Nếu bị nặng chườm kết hợp tiêm liều amoxinject L.A, 1ml/10kgTT Sát - Oxytoxin: 2ml/con. 16 16 100 nhau - Hitamox: 1ml/15kg TT. - Điều trị 3 - 5 ngày, kết hợp thụt rửa bằng bột Gynapax: 2,5 lít/con Tỷ lệ điều trị khỏi bệnh viêm tử cung là 96,86% thấp hơn bệnh viêm vú là 100% , vì bệnh viêm tử cung việc chẩn đoán bệnh thường khó khăn hơn, khi
  51. 43 chúng ta phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở thể viêm nặng và điều trị khó khăn hơn. Tỷ lệ điều trị khỏi của bệnh sát nhau là 100% cao hơn bệnh viêm tử cung. Bệnh viêm tử cung có 1 lợn nái không khỏi do nái già và bị viêm nặng , xử lý trường hợp này bằng cách loại thải . 4.4.2.Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn con theo mẹ tại trại lợn Bùi Huy Hạnh Bảng 4.6. Tỷ lệ nhiễm một số bệnh ở đàn lợn con theo mẹ Số con Lợn mắc theo bệnh Tên bệnh Biểu hiện quan sát được dõi SL TL (con) (con) (%) - Phân lỏng, có màu trắng hoặc vàng Hội chứng nhớt, phân dính hậu môn, có khi lợn 4215 186 4,4 tiêu chảy nôn, lợn gầy, ốm yếu, ăn ít hoặc bỏ ăn. - Lợn gầy còm, lông xù, thở thể Hội chứng 4215 30 0,71 bụng có khi ngồi thở, bụng hóp lại, hô hấp giảm ăn , bỏ ăn, tai dựng như tai thỏ. - Lợn đi khập khiễng, khớp chân sưng lên. Thường thấy viêm khớp khủy chân, cổ chân và khớp bàn chân. Lợn con ăn ít, hơi sốt, chân lợn Viêm khớp 4215 6 0,14 có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ, sưng sờ nắn vào có phản xạ đau. - Lợn con được 5 – 7 ngày tuổi tại vị trí cuống rốn cứng mổ ra có nhân ở bên Viêm rốn 4215 408 9,67 trong , sờ vị trí cuống rốn mềm bóp ra có mủ. Kết quả bảng 4.6 chung tình hình mắc bệnh ở đàn lợn con nuôi tại trại vẫn còn xảy ra khá cao. Hội chứng tiêu chảy có 186 lợn con mắc bệnh chiếm 4,4%, nguyên nhân là do lợn con mới đẻ ra sức đề kháng còn yếu dễ bị ảnh hưởng của các
  52. 44 yếu tố bên ngoài như vi sinh vật xâm hại hay nhiệt độ chuồng nuôi không thích hợp (lạnh quá hay nóng quá) hay lợn con hiếu động nghịch nước. Hội chứng hô hấp có 30 lợn con mắc bệnh chiếm 0,71%, do quá trình vệ sinh chuồng nuôi chưa được tốt, không khí trong chuồng nuôi nhiều bụi bẩn, thức ăn quá khô sinh nhiều bụi cũng dẫn tới viêm phổi. Việc phun sát trùng quá lâu cũng là nguyên nhân dẫn tới lợn con bị lạnh. Viêm khớp có 6 lợn con mắc bệnh chiếm 0,14 %, do sự lây nhiễm mầm bệnh qua đường miệng, rốn, vết thương trên da,đầu gối khi chà sát trên nền chuồng gây ra. Viêm rốn có 408 lợn con mắc bệnh chiếm 9,67%. Có thể thấy bệnh viêm rốn xảy ra nhiều nhất trong tất cả các bệnh do sự chăm sóc nuôi dưỡng vệ sinh phòng bệnh chưa tốt làm cho mầm bệnh lây nhiễm vào rốn lợn con gây bệnh. Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con tại trại Bùi Huy Hạnh Số con khỏi Số con Bệnh Phác đồ điều trị SL TL ( con) (%) - Tiêm Norflox 100 : Hội chứng 1ml/10kgTT, kết hợp với 186 178 95,69 tiêu chảy Atropin: 1ml/10kgTT. - Điều trị liên tục 3 - 5 ngày. - Tiêm Tylosine 20%: Hội chứng 1ml/15kg TT 30 28 93,33 hô hấp - Điều trị trong 3 - 5 ngày. - Hitamox: 1ml/10kg TT Viêm - Điều trị liên tục 3 - 5 mũi,2 6 5 83,33 khớp ngày/1 lần. - Dùng kháng sinh Hitamox 0,5ml/con, điều trị từ 3 - 5 Viêm rốn 408 396 97,06 ngày, kết hợp với bôi cồn Iodine vào cuống rốn.
  53. 45 Kết quả bảng 4.7 cho ta thấy kết quả điểu trị một số bệnh đối với lợn con: Hội chứng tiêu chảy điều trị 186 con, số con khỏi là 178 con chiếm 95,69%. Hội chứng hô hấp điều trị 30 con , số con khỏi bệnh là 28 con chiếm 93,33%. Viêm khớp điều trị 6 con , số con khỏi bệnh là 5 con chiếm 83,33%. Viêm rốn điều trị 408 con, số con khỏi bệnh là 396 con chiếm 97,06%. Tỷ lệ khỏi bệnh của viêm rốn cao hơn tiêu chảy vì tiêu chảy gây mất nước nhanh làm giảm sức đề kháng và khả năng ăn uống của lợn con dễ gây chết nhanh. Khi lợn con mắc bệnh ta điều trị có con thì 3 ngày đã khỏi, có con thì 4 - 5 ngày mới khỏi nên ta phải điều trị liên tục 3 - 5 ngày để lợn khỏi bệnh . 4.5. Kết quả thực hiện các công tác khác tại cơ sở. Bảng 4.8. Kết quả thực hiện các thao tác kỹ thuật trên lợn con Số lượng Số con Tỷ lệ STT Tên công việc được thực (con) (%) hiện (con) 1 Đỡ lợn đẻ 4215 1900 45,07 Mài nanh, cắt đuôi, cho uống 2 4215 2100 49,82 Amox Bấm tai, tiêm chế phẩm NOVA- 3 4215 2100 49,82 Fe-B12 phòng bệnh thiếu máu Cho uống Diacoxin 5% phòng 4 4215 2121 50,33 cầu trùng 5 Thiến lợn đực 2529 1462 57,79 Qua bảng 4.8 có thể thấy trong 4215 con theo dõi đã được thực hiện công việc mài nanh, cắt đuôi 2100 con đạt tỷ lệ 49,82%. Lợn con sau khi sinh phải được mài nanh, cắt đuôi thường là một ngày sau khi đẻ nếu không sẽ làm tổn thương vú lợn mẹ cũng như tránh được việc lợn con cắn lẫn nhau.
  54. 46 Khi 3 ngày tuổi cho uống Diacoxin 5% phòng bệnh cầu trùng với số lượng là 2121 con chiếm tỷ lệ 50,33%. Khi lợn được 4-5 ngày tuổi thì tiến hành thiến, số lợn con em được thiến là 1462 con. Qua lần thực tập này em đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm, cũng như được thực hiện các thao tác, nắm được tầm quan trọng của việc chăm sóc lợn con từ khi sơ sinh cho tới cai sữa, phòng ngừa các bệnh hay gặp trên lợn con, nhằm nâng cao tỷ lệ nuôi sống, khối lượng lợn con cai sữa cao.
  55. 47 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tại trang trại chăn nuôi Bùi Huy Hạnh xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương em rút ra được một số kết luận như sau : 1.Công tác vệ sinh - Công tác vệ sinh trong và các khu vực quanh trai đều đạt tiêu chuẩn 5S. - Hằng tuần trại tổ chức làm tổng vệ sinh toàn trại 1 lần/tuần, tiến hành nhổ cỏ và rắc vôi xung quanh khu vực chăn nuôi. - Thay hố sát trùng ở các cổng vào chủ nhật hằng tuần. - Trong chuồng nuôi hằng ngày luôn được vệ sinh sạch sẽ và rắc vôi tiêu độc khử trùng. - Khu sinh hoạt hằng ngày của công nhân, kỹ sư đều được vệ sinh sạch sẽ. 2.Công tác chăn nuôi - Trực tiếp, nuôi dưỡng cho 336 lợn nái, lợn nái đẻ trung bình 12,54con/nái/lứa, trung bình số lợn con cai sữa/nái/lứa là 12,31 con. Có 91,07% nái đẻ bình thường và 8,93% nái đẻ khó phải can thiệp. - Công tác chăn nuôi của trại được thực hiện tốt và đem lại hiệu quả cao. - Số lợn con sinh ra to, khỏe mạnh, giảm số lượng lợn con tồn lại trại,nâng cao hiệu quả kinh tế. 3.Công tác thú y - Công tác phòng bệnh được thực hiện nghiêm túc, đúng theo lịch làm việc của công ty, qua đó đã hạn chế được tình trạng dịch bệnh sảy ra ở mức thấp nhất. - Công nhân và kỹ sư trước khi vào khu vực chăn nuôi đều phải tắm sát trùng và thay quần áo lao động, chân đi ủng và nhúng vào chậu sát trùng được đặt trước cửa của mỗi chuồng nuôi.
  56. 48 - Lịch vắc xin tại trại thì được thực hiện nghiêm ngặt, theo đúng lịch của công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam. 5.2. Đề nghị - Trại cần thực hiện tốt hơn công tác vệ sinh trong và ngoài chuồng nuôi, cần quản lý chặt chẽ hơn nữa người và xe cộ ra vào trại. - Công tác vệ sinh chuồng nái chửa và vệ sinh dụng cụ,vệ sinh gia súc trước khi phối giống, vệ sinh máng ăn, máng uống, cần được thực hiện tốt giảm tỉ lệ lợn mắc bệnh. - Tăng cường công tác quản lý lợn con để hạn chế thấp nhất tình trạng lợn con chết do bị đè và rơi xuống gầm. - Hướng dẫn cho công nhân và sinh viên thực tập chi tiết về các kỹ thuật cơ bản trong chăn nuôi, nhất là có công nhân mới. - Thực hiện tốt hơn công tác mổ hecni cho lợn con. Lợn cai sữa cần được chăm sóc tốt hơn để giảm tỷ lệ mắc các bệnh. - Cần chú ý tới việc sử dụng nước trong chuồng để chuồng luôn khô ráo, làm giảm tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc bệnh tiêu chảy
  57. 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO I.Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Duy Hoan (1998), Sinh lý sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái, heo con,heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 29 - 35. 3. Trần Minh Châu (1996), Một trăm câu hỏi về bệnh trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Lê Minh Chí, Nguyễn Như Pho (1985), "Hội chứng MMA ở heo nái sinh sản", Kết quả nghiên cứu khoa học 1981 - 1985, Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh, tr. 48 - 51. 5. Lê Xuân Cương (1986), Năng suất sinh sản của lợn nái, Nxb Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp Tp. Hồ Chí Minh. 7. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ ( 2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinhsản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng (2000). Bệnh ở lợn nái và lợn con. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội. 10. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, trang 44 - 52. 11. Trương Lăng (2000), Hướng dẫn điều trị các bệnh lợn, Nxb Đà Nẵng. 12. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
  58. 50 13. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Công ty cổ phần dược và vật tư thú y Hanvet, tr. 157 - 172. 14. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Lê Văn Năm (1999), Cẩm nang bác sĩ thú y hướng dẫn phòng và trị bệnh lợn cao sản, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Nguyễn Văn Thanh (2003), “Khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại Đồng bằng sông Hồng và thử nghiệm điều trị”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập 10. 17. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2005), Giáo trình sinh lý học động vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 18. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội 19 Nguyễn Thị Mai Thơ , Nguyễn Văn Thanh, Sử Thanh Long (2016) , giáo trình bệnh sinh sản gia súc , Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 20. Trekaxova A.V., Daninko L.M., Ponomareva M.I, Gladon N.P (1983), Bệnh của lợn đực và lợn nái sinh sản (người dịch Nguyễn Đình Chi), Nxb Nông nghiệp Hà Nội. II. Tài liệu tiếng anh 21. Boma M.H., bilkei G (2006), “ Gross pathological findings in sows of diffirent parity, culfed due to recurring swine urogenital disease (SUGD) in Kenya”. Onderstepoort Journal of Veterinary Research, 73: 139-142. 22. Smith B.B., Martineau G., BisaillonA. (1995), Mammary gland and lactaion problems, In disease of swine, 7thedition, Iowa state university press, pp. 40- 57. 23. Soko, (9/1981). Neonatal coli - infecie laboratoriana diagnostina a
  59. 51 prevencia UOLV - Kosice. 24. Urban V.P., Schnur V.I., Grechukhin A. N. (1983), “The metritis, mastitis agalactia syndrome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik selskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69-75.
  60. MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG THỜI GIAN THỰC TẬP TỐT NGHIỆP Hình 1: sơ đồ trại Hình 2: khu sinh hoạt và nghỉ ngơi Hình 3: nhà sát trùng xe Hình 4: Phun sát trùng
  61. Hình 5:Lau sàn Hình 6: Rắc vôi Hình 7: Xịt gầm Hình 8: Bấm tai
  62. Hình 9 : Cho uống Hình 10 : Tiêm lợn con Diacoxin 5% Hình 11 : Thiến lợn Hình 12 : Mài nanh
  63. Hình 13: Cắt đuôi Hình 14 : Lợn mẹ bị viêm tử cung Hình 15: Quấn héc ni Hình 16: Thuốc TYLOSINE 20%
  64. Hình 17: Dung dịch sát trùng Hình 18 : Thuốc sắt Hình 19 : Thuốc kháng sinh Hình 20 : Amoxinject L.A
  65. Hình 21 : Thuốc NORFLOX100 Hình 22 :Thuốc DIACOXIN 5%