Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn tại trại Nguyễn Đức Binh, xã Ba Trại, Ba Vì, Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn tại trại Nguyễn Đức Binh, xã Ba Trại, Ba Vì, Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf
Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn tại trại Nguyễn Đức Binh, xã Ba Trại, Ba Vì, Hà Nội
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HÀ VĂN CƯƠNG Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN TẠI TRẠI NGUYỄN ĐỨC BINH, XÃ BA TRẠI, BA VÌ, HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi - Thú y Khóa học: 2013 - 2018 Thái Nguyên, năm 2018
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HÀ VĂN CƯƠNG Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN TẠI TRẠI NGUYỄN ĐỨC BINH, XÃ BA TRẠI, BA VÌ, HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp: K46 - Thú y - N02 Khoa: Chăn nuôi - Thú y Khóa học: 2013 - 2018 Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Lê Minh Thái Nguyên, năm 2018
- i LỜI CẢM ƠN Sau thời gian học tập và làm đề tài tốt nghiệp, đến nay khóa luận tốt nghiệp của em đã hoàn thành, để đạt được những kết quả trên, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, em còn nhận được sự quan tâm, tạo điều kiệu thuận lợi nhất từ BGH Nhà trường, các thầy cô giáo, cán bộ viên chức trong trường và khoa Chăn nuôi Thú y. Nhân dịp này em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới: Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình dạy bảo, chỉ dạy và giúp đỡ chúng em trong toàn khoá học. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn PGS.TS. Lê Minh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành ốt t khóa luận này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới chủ trang trại Nguyễn Đức Binh cùng toàn thể cô, chú, anh, chị, em trong trại đã nhiệt tình, quan tâm giúp đỡ và hướng dẫn các công tác kỹ thuật chăm sóc lợn nái và lợn con để em có thể tự tay chăm sóc cho lợn và hoàn thành tốt đợt thực tập. Qua đây em xin tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình thực tập tại trại. Cuối cùng em xin kính chúc các thầy cô trong khoa Chăn nuôi thú y và ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên có nhiều sức khỏe, để thực hiện sứ mệnh của mình, truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau. Chúc cho hội đồng đánh giá khóa luận thành công tốt đẹp. Em xin chân thành cảm ơn! Thái nguyên, tháng 12 năm 2018 Sinh viên Hà Văn Cương
- ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn nuôi tại trại lợn Nguyễn Đức Binh Qua 2 năm 2017 - 2018 29 Bảng 4.2. Khẩu phần ăn cho đàn lợn tại trại 31 Bảng 4.3. Kết quả chăm sóc nuôi dưỡng lợn tại trại qua 6 tháng thực tập 32 Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu về số lợn con của lợn náiError! Bookmark not defined. Bảng 4.5. Tình hình sinh sản của lợn nái trực tiếp theo dõi trong thời gian thực tập 38 Bảng 4.6. Lịch sát trùng trại lợn nái 40 Bảng 4.7. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn trong thời gian thực tập 43 Bảng 4.8. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn thịt tại trại 43 Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại 45
- iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ATVSTP: An toàn vệ sinh thực phẩm CP: Charoen Pokphand Cs: Cộng sự KHKT: Khoa học kỹ thuật LMLM: Lở mồm long móng Nxb: Nhà xuất bản PED: Porcine Epidemic Diarrhoea TĂCN: Thức ăn chăn nuôi TT: Thể trọng VTM C: Vitamin C
- iv MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv Phần 1: MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu 2 1.2.1. Mục đích 2 1.2.2.Yêu cầu 2 Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên cơ sở vật chất của cơ sở thực tập 3 2.1.2. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở 7 2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến nội dung của chuyên đề 8 2.2.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái 8 2.2.2. Đặc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ Error! Bookmark not defined. 2.2.3. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 13 2.2.4. Một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nuôi tại cơ sở 16 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 22 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước 22 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 24 Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 27 3.1. Đối tượng và phạm vi theo dõi 27 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 27 3.3. Nội dung tiến hành 27 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 27 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 27
- v 3.4.2. Phương pháp theo dõi (thu thập thông tin) 27 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 28 Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 29 4.1. Cơ cấu đàn lợn nuôi tại trại trại Nguyễn Đức Binh, Ba Vì - Hà Nội năm 2016 - 2018 29 4.2. Thực hiện biên pháp chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn 30 4.2.1. Thực hiện chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái sinh sản 30 4.2.2. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con 34 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại trong thời gian thực tập 37 4.4. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho lợn tại trại lợn Nguyễn Đức Binh 39 4.4.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh 39 4.4.2. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn 42 4.5. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn tại trại 43 4.5.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn thịt 43 4.5.2. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn thịt tại trại trong thời gian thực tập 44 Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 47 5.1. Kết luận 47 5.2. Đề nghị 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
- 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Ngành chăn nuôi lợn chiếm khoảng 60% giá trị ngành chăn nuôi Việt Nam. “Bão giá lợn” vừa qua là cuộc thanh lọc khốc liệt của thị trường. Các chuyên gia trong ngành cũng chỉ ra 8 khó khăn chính của chăn nuôi nói chung cũng như chăn nuôi lợn nói riêng, đó là: sản xuất thị trường còn thiếu kết nối và điều hành tổng thể, nhiều khâu trung gian, chi phí sản xuất còn cao dịch bệnh truyền nhiễm khó kiểm soát, đặc biệt là bệnh tai xanh và LMLM tái cơ cấu ngành còn thấp, chuyển biến chậm, tích tụ đầu tư thấp giết mổ chế biến chưa quản lý và quy hoạch tốt tổ chức sản xuất còn yếu, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ, khó đi vào cuộc sống thể chế thiếu hoàn thiện còn vướng mắc liên quan đến đất đai, tín dụng, bảo hiểm, hợp tác liên kết theo chuỗi còn chưa định hình, rời rạc, liên kết chưa chặt chẽ, Để vượt qua những thách thức trên, cần có những giải pháp cốt lõi như nhà nước cần xây dựng chiến lược điều hành tổng thể ngành chăn nuôi. Tổ chức và quy hoạch sản xuất gắn với thị trường. Tổ chức quản lý tốt dịch bệnh, giết mổ, ATVSTP, Bên cạnh đó, doanh nghiệp và người chăn nuôi cần bắt tay xây dựng hợp tác theo chuỗi áp dụng KHKT về giống, TĂCN, công nghệ chuồng trại để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng thịt, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Đầu tư vào giết mổ và chế biến thịt sâu, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ và xuất khẩu, Nhận thức đúng hiện trạng, những thách thức và triển vọng là điều cần thiết để “vẽ” nên bức tranh với những gam màu sáng cho ngành chăn nuôi lợn trong thời gian tới.
- 2 Từ những yêu cầu cấp thiết của thực tiễn sản xuất, với những kiến thức đã được học từ nhà trường và để hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp giúp sinh viên ra trường có thể làm việc tốt trong các cơ sở chăn nuôi chuyên nghiệp, từ đó giúp cho ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng có thể phát triển bền vững. Chúng em đã được tiếp cận với thực tế sản xuất để ứng dụng những kiến thức đã được học vào giải quyết các vấn để xảy ra trong thực tiễn chăn nuôi, em đã tiến hành thực hiện đề tài: “Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn tại trại Nguyễn Đức Binh, xã Ba Trại, Ba Vì, Hà Nội”. 1.2. Mục đích và yêu cầu 1.2.1. Mục đích - Giúp sinh viên củng cố kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp thông qua việc áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái và lợn con theo mẹ. - Có thể chẩn đoán và đưa ra phác đồ điều trị một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái và lợn con theo mẹ. - Học tập kỹ năng quản lý trang trại chăn nuôi có hiệu quả. 1.2.2.Yêu cầu - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trại chăn nuôi Nguyễn Đức Binh, huyện Ba Vì - Hà Nội. - Nắm vững quy trình phòng, trị bệnh trên đàn lợn nái nuôi con. - Nắm vững quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con. - Thực hiện tốt các yêu cầu, quy định tại cơ sở. - Chăm chỉ, học hỏi để năng cao kỹ thuật, tay nghề của cá nhân.
- 3 Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên cơ sở vật chất của cơ sở thực tập 2.1.1.1.Điều kiện tự nhiên. * Vị trí địa lý Ba Vì là huyện tận cùng phía Tây Bắc của Hà Nội, trên địa bàn huyện có một phần lớn của dãy núi Ba Vì chạy qua phía Nam huyện, phía Đông giáp thị xã Sơn Tây, phía Đông Nam giáp huyện Thạch Thất. Phía Nam giáp các huyện Lương Sơn (về phía Đông Nam huyện) và Kỳ Sơn của Hòa Bình (về phía Tây Nam huyện). Phía Bắc giáp thành phố Việt Trì, Phú Thọ, với ranh giới là sông Hồng (sông Thao) nằm ở phía Bắc. Phía Tây giáp các huyện Lâm Thao, Tam Nông, Thanh Thủy của Phú Thọ. Phía Đông Bắc giáp huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc, ranh giới là sông Hồng. Huyện Ba Vì là một huyện bán sơn địa, diện tích tự nhiên là 428,0 km², lớn nhất Thủ đô Hà Nội. Trên địa bàn huyện có vườn quốc gia Ba Vì. Ở ranh giới của huyện với tỉnh Phú Thọ có hai ngã ba sông là: ngã ba Trung Hà giữa sông Đà và sông Hồng (tại xã Phong Vân) và ngã ba Bạch Hạc giữa sông Hồng và sông Lô (tại các xã Tản Hồng và Phú Cường, đối diện với thành phố Việt Trì). Các điểm cực: cực Bắc là xã Phú Cường, cực Tây là xã Thuần Mỹ, cực Nam là xã Khánh Thượng, cực Đông là xã Cam Thượng. - Vị trí địa lý xã Ba Trại Ba Trại là một trong 7 xã miền núi của huyện Ba Vì. Nằm ở dưới chân núi Ba Vì, có diện tích khoảng 36 km2, Ba Trại xưa thuộc huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây cũ, ngày nay thuộc huyện Ba Vì tỉnh Hà Nội.
- 4 Phía Đông giáp xã Tản Lĩnh, phía Bắc giáp xã Cẩm Lĩnh, phía Tây giáp xã Thuần Mỹ, phía Nam giáp núi Ba Vì. * Điều kiện địa hình, đất đai Nhìn chung địa hình của xã phần lớn là đồi gò, độ cao các quả đồi chênh nhau từ 5 đến 20 m, độ dốc không lớn. Diện tích ruộng có 730 mẫu Bắc bộ phần lớn là ruộng, diện tích còn lại là đất đồi. * Điều kiện khí hậu Đặc điểm chung của Ba Trại bị chi phối bởi các yếu tố vĩ độ Bắc, cơ chế gió mùa, sự phối hợp giữa gió mùa và vĩ độ tạo nên khí hậu nhiệt đới ẩm với mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ bình quân năm trong khu vực là 230C. Lượng mưa trung bình năm 2.500 mm, phân bố không đều trong năm, tập trung nhiều vào tháng 7, tháng 8. Độ ẩm không khí 86,1%, vùng thấp thường khô hanh vào tháng 12 và tháng 1. * Giao thông Xã Ba Trại nằm giữa hai con đường tỉnh lộ, đường 87 Sơn Tây - Đá Chông và đường 88 Sơn Tây - Bất Bạt. Đường 87 đi qua xã từ phía Đông - Nam qua các xóm Chằm Mè - Trung Sơn tiếp giáp đường 89 tại Đá Chông. Đường 89 chạy song song với sông Đà qua địa phận xã Thuần Mỹ. Đường 88 đi qua xã ở phía Bắc và cũng là ranh giới giữa Ba Trại với Cẩm Lĩnh. 2.1.1.2 .Điều kiện kinh tế - xã hội * Điều kiện kinh tế Sản xuất nông lâm nghiệp thủy sản theo giá trị tăng thêm đạt 1.662 tỷ đồng, tăng 24,2% so với cùng kỳ. Nông nghiệp với hai sản phẩm đặc trưng Ba Vì đó là hèc và sữa tươi. Sản lượng chè đạt 12.800 tấn/năm và sản lượng sữa tươi đạt 9.750 tấn/năm. Sản xuất công nghiệp: Giá trị tăng thêm đạt 340 tỷ đồng, tăng 34% so với cùng kỳ. Huyện có hai cụm công nghiệp (Cam Thượng và Đồng Giai xã Vật Lại) và 12 làng nghề đang hoạt động hiệu quả.
- 5 Dịch vụ du lịch: Giá trị tăng thêm đạt 1.803 tỷ đồng, tăng 48,4% so với cùng kỳ. Doanh thu du lịch đạt 70 tỷ đồng, thu hút 1,5 triệu lượt khách đến với Ba Vì. Huyện có 15 đơn vị hoạt động kinh doanh du lịch. * Tình hình dân cư Dân số huyện Ba Vì có hơn 265 nghìn người (bao gồm 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao), toàn huyện có 31 xã, thị trấn, trong đó có 7 xã miền núi, một xã giữa sông Hồng. Người dân Ba Vì vốn bình dị, thông minh, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động. Trong thời kỳ đổi mới Đảng bộ, nhân dân huyện Ba Vì tiếp tục phát huy truyền thống quê hương, phát triển mạnh mẽ và vững chắc góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp hiện đại hóa đất nước. 2.1.1.3. Quá trình thành lập và phát triển của trang trại * Quá trình thành lập Là trang trại tư nhân được thành lập vào tháng 04 năm 2015. Với tổng số nái là 54 con, chuồng trại khép kín chăn nuôi theo hướng công nghiệp hiện đại. Tất cả các trang thiết bị phục vụ trong chăn nuôi đều được nghiên cứu, tính toán để phù hợp với vật nuôi, luôn đáp ứng và tạo điều kiện môi trường tốt nhất cho sự phát triến của đàn lợn. Với nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi, công việc như kế toán, kỹ thuật, đều do chủ trại tính toán sắp xếp. Sinh viên thực tập về làm phần lớn các công việc của trại như cho lợn ăn, dọn chuồng, vệ sinh trong ngoài trại, chẩn đoán và phòng, trị các bệnh thường gặp trong thời gian thực tập. * Cơ sở vật chất của trang trại - Trại được bao quanh bởi hệ thống tường bao và cổng rào bằng sắt. Ngay phía trong đằng sau cổng trại là hố khử trùng. - Trại lợn có khoảng 1,2 ha đất để xây dựng trang trại, nhà điều hành, nhà ở cho công nhân, nhà tắm, bếp ăn và các công trình phụ phục vụ cho công nhân, sinh viên thực tập và các hoạt động khác của trại.
- 6 - Trong khu chăn nuôi được quy hoạch bố trí xây dựng hệ thống chuồng trại cho 100 nái: bao gồm 1 chuồng đẻ tiếp giáp với chuồng bầu có vách ngăn tường bê tông. Chiều dài chuồng 36 m, chiều rộng 16 m, có 26 ô chia làm 2 dãy kích thước 2,2 m × 1,6 m x 1,2 m/ô, 1 chuồng bầu có 85 ô chia làm 2 dãy kích thước 2,2 m × 0,65 m x 1,2 m/ô. Có 3 ô lợn đực giống kích thước 5 m × 6 m x 1,4 m, 1 chuồng thương phẩm có sức chứa nuôi 450 lợn thịt. Cùng một số công trình phụ phục vụ cho chăn nuôi như: kho thức ăn, kho thuốc, kho chứa dụng cụ chăn nuôi, phòng khử trùng, phòng pha tinh - Hệ thống chuồng xây dựng khép kín hoàn toàn. Phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối chuồng có 3 quạt thông gió đối với các chuồng đẻ, 4 quạt đối với các chuồng bầu, các chuồng thương phẩm, chuồng nái hậu bị, đực giống và chuồng úm. Hai bên tường xây được chát mịn bằng xi măng và quét vôi có dãy cửa sổ lắp kính, mỗi cửa sổ có diện tích 1,2 m², cách nền 1,2 m, mỗi cửa sổ cách nhau 50 cm. Trên trần được lắp hệ thống chống nóng bằng bạt cách nhiệt. Mái chuồng được lợp bằng bờ lô. - Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông có khía chống trơn trượt. - Hệ thống nước trong trại chăn nuôi cho lợn uống là nước giếng khoan được bơm lên bể chứa và được xử lý vệ sinh đảm bảo sạch sẽ và an toàn trước khi sử dụng cho lợn nuôi. Nước tắm cho lợn, nước xả gầm, rửa chuồng được bơm từ ao chứa nước trong trang trại lên bể chứa và theo hệ thống ống nước dẫn tới các chuồng khác nhau. * Cơ cấu tổ chức của trang trại Cơ cấu của trại được tổ chức như sau: 01 chủ trại; 01 quản lý trại; 01 kỹ thuật; 2 công nhân Là trại tư nhân nên số lương công việc không nhiều. Các công việc được phân công rõ ràng, mỗi người 1 công việc khác nhau. Đối với sinh viên thực tập tốt nghiệp, được trại luân phiên thay đổi công việc để sinh viên được tiếp cận, và được thực hành, thao tác trên nhiều khâu, nhiều đối tượng khác nhau.
- 7 2.1.2. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở 2.1.2.1. Công tác chăn nuôi Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất con giống và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trại lợn nuôi cả lợn nái sinh sản và lợn thương phẩm, gồm các giống lợn Yorkshire và Landrace. Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,0 - 2,3 lứa/năm. Số con sơ sinh là 12 con/đàn. Tại trại, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày thì tiến hành cai sữa. Trong trại có 03 lợn đực giống giống Duroc, lợn đực giống này được nuôi nhằm mục đích kích thích động dục cho lợn nái, khai thác tinh để thụ tinh nhân tạo và cho phối giống trực tiếp. Thức ăn cho lợn là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng dinh dưỡng do công ty CP cung cấp. 2.1.2.2. Công tác thú y Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại sản xuất lợn giống luôn thực hiện nghiêm ngặt, chặt chẽ. - Công tác vệ sinh: Hệ thống chuồng trại luôn đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Hàng ngày luôn có công nhân quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom phân, đường đi trong trại được quét dọn và rắc vôi theo lịch của trại. - Công nhân, kỹ sư, khách tham quan khi vào khu chăn nuôi lợn đều phải sát trùng, tắm bằng nước sạch trước khi thay quần áo bảo hộ lao động. - Công tác phòng bệnh: Trong khu vực chăn nuôi, hạn chế đi lại giữa các chuồng, hành lang giữa các chuồng và bên ngoài chuồng đều được rắc vôi bột, các phương tiện ra vào trại sát trùng một cách nghiêm ngặt ngay tại cổng. Với phương châm “Phòng bệnh là chính ” nên tất cả lợn ở đây đều được cho uống thuốc, tiêm phòng vắc xin đầy đủ. Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin
- 8 luôn được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với từng loại lợn có quy trình tiêm riêng, từ lợn nái, lợn hậu bị, lợn đực, lợn con. Lợn được tiêm vắc xin ở trạng thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bênh truyền nhiễm và các bệnh mãn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn. Tỷ lệ tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn luôn đạt 100%. - Công tác trị bệnh: cán bộ kỹ thuật của trại có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra đàn lợn thường xuyên, các bệnh xảy ra ở lợn nuôi tại trang trại luôn được kỹ thuật viên phát hiện sớm, cách li, điều trị ngay ở giai đoạn đầu của bệnh nên điều trị đạt hiệu quả từ 80 - 90% trong một thời gian ngắn. Vì vậy, không gây thiệt hại lớn về số lượng đàn lợn. 2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến nội dung của chuyên đề 2.2.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái 2.2.1.1. Sự thành thục về tính - Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể con cái, đặc biệt là cơ quan sinh dục đã phát triển cơ bản hoàn thiện. Dưới tác dụng của thần kinh, nội tiết, con vật xuất hiện các phản xạ về sinh dục, khi đó trên buồng trứng có khả năng thụ thai, tử cung cũng sẵn sàng cho thai làm tổ. Sự thành thục về tính của lợn sớm hay muộn phụ thuộc vào: giống, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, khí hậu, chuồng trại + Giống: Các giống khác nhau thì thành thục về tính cũng khác nhau: những giống thuần hóa sớm hơn thì tính thành thục sớm hơn những giống thuần hóa muộn, những giống có tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn những giống có tầm vóc lớn. Theo Phạm Hữu Doanh và cs, (2003) [4], cho rằng: Tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng khi khối lượng đạt từ 20 - 25 kg. Ở lợn nái lai tuổi động dục lần đầu muộn hơn sơ với lợn nội thuần, ở
- 9 lợn lai F1 (có sẵn máu nội) động dục bắt đầu lúc 6 tháng tuổi khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55 kg. Ở lợn ngoại động dục muộn hơn so với lợn lai, tức là lúc động dục 6 - 7 tháng khi lợn có khối lượng 60 - 80 kg. Tuỳ theo giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý mà có tuổi động dục lần đầu khác nhau. Lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 -5 tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi) các giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace) có tuổi động dục lần đầu muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi. Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng: cũng là yếu tố ảnh hưởng rõ rệt tới tuổi động dục. Mùa hè lợn cái hậu bị thành thục chậm hơn so với mùa thu - đông, điều đó có thể do ảnh hưởng của nhiệt độ trong chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng thấp trong các tháng nóng bức. Những con được chăn thả tự do thì xuất hiện thành thục sớm hơn những con nuôi nhốt trong chuồng 14 ngày (mùa xuân) và 17 ngày (mùa thu). Mùa đông, thời gian chiếu sáng trong ngày thấp hơn so với các mùa khác trong năm, bóng tối cũng làm chậm tuổi thành thục về tính so với những biến động ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày. Chế độ dinh dưỡng: Ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn cái. Thường những lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì tuổi thành thục về tính sớm hơn những lợn được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém, lợn nái được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng tốt sẽ thành thục ở độ tuổi trung bình 188,5 ngày (6 tháng tuổi) với khối lượng cơ thể là 80 kg và nếu hạn chế thức ăn thì sự thành thục về tính sẽ xuất hiện lúc 234,8 ngày (trên 7 tháng tuổi) và khối lượng cơ thể là 48,4 kg. Dinh dưỡng thiếu làm chậm sự thành thục về tính là do sự tác động xấu lên tuyến yên và sự tiết kích tố hướng dục, nếu thừa dinh dưỡng cũng ảnh hưởng không tốt tới sự thành thục là do sự tích luỹ mỡ xung quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục làm giảm chức năng bình thường của chúng, mặt khác do béo quá ảnh hưởng tới các hocmon oestrogen và progesterone trong máu làm cho hàm lượng của hoocmon trong cơ thể không đạt mức cần thiết để thúc đẩy sự thành thục.
- 10 Mật độ nuôi nhốt: Mật độ nuôi nhốt đông trên 1 đơn vị diện tích trong suốt thời gian phát triển sẽ làm chậm tuổi động dục. Nhưng cần tránh nuôi lợn cái hậu bị tách biệt đàn trong thời kỳ phát triển. Kết quả nghiên cứu của Hughes và James, (1996) [24], cho thấy việc nuôi nhốt lợn cái hậu bị riêng từng cá thể sẽ làm chậm lại thành thục tính so với lợn cái được nuôi nhốt theo nhóm. Bên cạnh những yếu tố trên thì đực giống cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tuổi động dục của lợn cái hậu bị. Nếu lợn cái hậu bị thường xuyên tiếp xúc với đực giống sẽ nhanh động dục hơn lợn cái hậu bị không tiếp xúc với lợn đực giống. Theo Hughes và James, (1996) [24], lợn cái hậu bị ngoài 90 kg thể trọng ở 165 ngày tuổi cho tiếp xúc 2 lần/ngày với lợn đực, mỗi lần tiếp xúc 15 - 20 phút thì tới 83% lợn cái hậu bị động dục lần đầu - Tuổi thành thục về tính của gia súc: Tuổi thành thục về tính thường sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc, nghĩa là sau khi con vật đã thành thục về tính thì vẫn tiếp tục sinh trưởng lớn lên. Đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi. Theo Phạm Hữu Doanh và cs, (2003) [4] cho rằng: Không nên cho phối giống ở lần động dục đầu tiên vì ở thời kỳ này cơ thể lợn chưa phát triển đầy đủ, chưa tích tụ được chất dinh dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách hoàn chỉnh. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con cái lâu bền cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục lần đầu rồi mới cho phối giống. 2.2.1.2. Sự thành thục về thể vóc Theo Nguyễn Đức Hùng và cs, (2003) [8], tuổi thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, tầm vóc ổn định. Tuổi thành thục về thể vóc thường chậm hơn so với tuổi thành thục về tính. Thành thục về tính được đánh dấu bằng hiện tượng động dục lần đầu tiên. Lúc này sự sinh trưởng và phát dục của cơ thể vẫn còn tiếp tục, trong giai đoạn lợn thành thục về tính mà ta cho giao phối ngay sẽ không tốt, vì lợn
- 11 mẹ có thể thụ thai nhưng cơ thể mẹ chưa đảm bảo cho bào thai phát triển tốt, nên chất lượng đời con kém, đồng thời cơ quan sinh dục, đặc biệt là xương chậu vẫn còn hẹp dễ gây hiện tượng khó đẻ. Điều này ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Do đó không nên cho phối giống quá sớm. Đối với lợn cái nội khi được 7 - 8 tháng tuổi khối lượng đạt 40 - 50 kg nên cho phối, đối với lợn ngoại khi được 8 - 9 tháng tuổi, khối lượng đạt 100 - 110 kg mới nên cho phối. 2.2.1.3. Chu kỳ động dục Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể đã phát triển hoàn hảo, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng có quá trình phát triển của noãn bao, noãn bao thành thục, trứng chín và thải trứng. Song song với quá trình thải trứng thì toàn bộ cơ thể nói chung đặc biệt là cơ quan sinh dục có hàng loạt các biến đổi về hình thái cấu tạo và chức năng sinh lý. Tất cả các biến đổi đó được lặp đi, lặp lại có tính chất chu kỳ nên gọi là chu kỳ tính. Theo Trần Thanh Vân và cs, (2017) [22], lợn nái sau khi thành thục về tính thì bắt đầu biểu hiện động dục, lần thứ nhất biểu hiện không rõ ràng, cách sau đó 15 - 16 ngày động dục trở lại, lần này biểu hiện rõ ràng hơn và sau đó đi vào quy luật mang tính chu kỳ. Theo Nguyễn Thiện và cs, (1993) [20], chu kỳ tính của lợn nái thường diễn ra trong phạm vi 19 - 21 ngày. Thời gian động dục thường kéo dài khoảng 3 - 4 ngày (lợn nội) hoặc 4 - 5 ngày (lợn lai, lợn ngoại), và được chia làm ba giai đoạn: giai đoạn trước khi chịu đực (bắt đầu), giai đoạn chịu đực (phối giống), giai đoạn sau chịu đực (kết thúc). + Giai đoạn trước khi chịu đực: lợn nái kêu rít, âm hộ xung huyết, chưa cho phối và lợn chưa chịu đực. Thời gian rụng trứng khi có hiện tượng trên đối với lợn ngoại và lợn nái lai là 35 - 40 giờ, với lợn nội là 25 - 30 giờ.
- 12 + Giai đoạn chịu đực: Lợn kém ăn, mê ì, lợn đứng yên khi ấn tay lên lưng gần mông, âm hộ giảm độ sưng, nước nhờn chảy ra, dính, đục, đứng yên khi có đực đến gần và cho đực nhảy. Giai đoạn này kéo dài 2 ngày, nếu được phối giống lợn sẽ thụ thai, lợn nội có thời gian ngắn hơn 28 - 30 giờ. + Giai đoạn sau chịu đực: lợn trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở, đuôi cụp và không chịu đực - Thời điểm phối giống thích hợp Theo Nguyễn Thiện và cs, (1993) [20], trứng rụng tồn tại trong tử cung 2 - 3 giờ và tinh trùng sống trong âm đạo lợn cái 30 - 48 giờ. Thời điểm phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4, tính từ lúc bắt đầu động dục. Đối với lợn nái nội hơn một ngày vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 do thời gian động dục ở lợn nái nội ngắn hơn. Thời điểm phối giống có ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu thai và sai con. Phối sớm hoặc phối chậm đều đạt kết quả kém nên cho nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm tối ưu. 2.2.1.4. Sinh lý quá trình mang thai và đẻ Sau thời gian lưu lại ở ống dẫn trứng khoảng 3 ngày để tự dưỡng (noãn hoàng và dịch thể do ống dẫn trứng tiết) hợp tử bắt đầu di chuyển xuống tử cung, tìm vị trí thích hợp để làm tổ, hình thành bào thai. Sự biến đổi nội tiết tố trong cơ thể mẹ trong thời gian có chửa như sau: Progesterone trong 10 ngày đầu có chửa tăng rất nhanh cao nhất vào ngày chửa thứ 20 rồi nó hơi giảm xuống một chút ở 3 tuần đầu, sau đó duy trì ổn định trong thời gian có chửa để an thai, ức chế động dục 1 - 2 ngày trước khi đẻ progesterone giảm đột ngột. Estrogen trong suốt thời kỳ có chửa duy trì ở mức độ thấp, cuối thời kỳ có chửa khoảng 2 tuần thì bắt đầu tăng dần, đến khi đẻ thì tăng cao nhất. Thời gian có chửa của lợn nái bình quân là 114 ngày (Jose Bento và cs, 2013) [26].
- 13 2.2.2. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 2.2.2.1. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái đẻ Mục đích chăn nuôi lợn nái đẻ nhằm đảm bảo cho lợn đẻ an toàn, lợn con có tỷ lệ sống cao, lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con Chính vì vậy quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe lợn mẹ và lợn con. * Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [16]: thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái. * Quy trình chăm sóc Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Theo Trần Văn Phùng và cs,
- 14 (2004) [16], cần phải theo dõi thường xuyên sức khỏe lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện các trường hợp bất thường để có biện pháp xử lý kịp thời. Trước khi lợn đẻ 10 - 15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 - 5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh lợn nái sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người, dùng khăn thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy tránh được nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái, chúng ta chuyển nhẹ nhàng từ chuồng chửa sang chuồng đẻ để lợn quen dần với chuồng mới. Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan trọng đó là việc chuẩn bị ô úm lợn cho lợn con. Theo Trần Thanh Vân và cs, (2004) [21], ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào những tháng mùa đông. Ngoài ra, ô úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng ăn vào ô úm cho lợn con lúc 7 - 10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức ăn của lợn con. Vào ngày dự kiến đẻ của lợn nái, cần chuẩn bị xong ô úm cho lợn con. Kích thước ô úm : 1,2 m x 1,5 m. Ô úm được cọ rửa sạch, phun khử trùng và để trống từ 3 - 5 ngày trước khi đón lợn con sơ sinh. 2.2.3.2. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con * Quá trình nuôi dưỡng
- 15 Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [16]: thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn bổ sung đạm động, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 kcal, protein 15%, canxi từ 0,9 - 1,0%, phospho 0,7%. Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trưc tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: - Đối với lợn nái ngoại: + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 - 3 kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4 kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: lượng thức ăn/nái/ngày = 2 kg + ( số con x 0,35 kg/con ) + Số bữa ăn trên ngày: 2 (sáng và chiều) + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh).
- 16 + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%. + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. * Quy trình chăm sóc Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [16] vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. Ngoài ra yêu cầu đối với chuồng trại của lợn nái nuôi con là phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không ẩm ướt, vì vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [16] chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 200C, độ ẩm 70 - 75%. 2.2.3. Một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái nuôi tại cơ sở * Đẻ khó Rặn đẻ yếu: Đặc trưng các cơn co thắt cơ tử cung và thành bụng của gia súc mẹ vừa yếu vừa ngắn. Có 3 dạng cơn co thắt và rặn đẻ yếu: - Cơn co thắt yếu nguyên phát bắt đầu từ khi mở cổ tử cung và xảy ra trùng với cơn rặn đẻ nguyên phát. - Cơn co thắt và rặn đẻ yếu thứ phát xảy ra sau khi co thắt và rặn đẻ mạnh nhưng không có kết quả. - Cơn co thắt và rặn đẻ yếu thứ phát xảy ra do bào thai không di chuyển được. Các cơn co thắt và rặn đẻ yếu nguyên phát, thông thường, quan sát thấy khi vi phạm chế độ chăm sóc nuôi dưỡng gia súc chửa và thiếu vận động,
- 17 cũng như khi bị bệnh làm suy yếu sức khỏe của con mẹ. Cần can thiệp để cứu lợn con và mẹ (Trần Văn Bình, 2010) [29]. * Khô âm đạo Đẻ kéo dài do co thắt và rặn đẻ yếu nguyên phát hoặc thứ phát, mà trước đó dịch ối và nước tiểu đã chảy ra hết, hoặc do nhân tạo làm vỡ bào thai trước khi cổ tử cung mở hết, thường dẫn đến khô đường sinh dục. Xương chậu hẹp bẩm sinh, thai quá to: vì chế độ ăn uống cho lợn nái khi có chửa không đúng quy trình kỹ thuật. Khi lợn chửa bị sốt cao do mắc các bệnh truyền nhiễm đã điều trị trong thời gian khá dài. * Bệnh viêm tử cung Lợn là loài sinh sản đa thai, khả năng sinh sản ngày càng cao nên bộ phận sinh dục hoạt động nhiều tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập nhất là trong điều kiện dinh dưỡng không phù hợp, điều kiện chăm sóc vệ sinh kém thì bệnh dễ xảy ra. Viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái (Trần Tiến Dũng và cs, 2002) [5]. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs, (2002) [10], Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Cơ quan sinh dục lợn nái phát triển không bình thường gây khó đẻ hoặc lợn nái khó đẻ do thai quá to, thai ra ngược, thai phát triển không bình thường Phối giống quá sớm lợn nái tơ, nái già mang nhiều thai. Khi đẻ tử cung co bóp yếu, do lứa đẻ trước đã bị viêm tử cung làm cho niêm mạc tử cung biến đổi nên nhau thai không ra gây sát nhau, thối rữa tạo điều kiện cho sự phát triển của vi khuẩn.
- 18 - Bệnh kế phát từ các bệnh khác như bệnh viêm âm đạo, tiền đình, bàng quang hoặc các bệnh truyền nhiễm: sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao thường gây ra các bệnh viêm tử cung. - Trong quá trình có thai, lợn nái ăn uống nhiều chất dinh dưỡng, tinh bột, protein và ít vận động cơ thể nên cơ thể béo dẫn đến khó đẻ. Hoặc do thiếu dinh dưỡng lợn nái sẽ ốm yếu, sức đề kháng giảm nên không chống lại vi trùng xâm nhập cũng gây viêm. - Do dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây sây sát sẽ tạo ra các ổ viêm nhiễm trong âm đạo hoặc tử cung hoặc do tinh dịch bị nhiễm khuẩn. - Lợn đực bị viêm niệu quản và dương vật khi nhảy trực tiếp sẽ truyền bệnh sang lợn nái. - Bệnh còn xảy ra khi chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý kém hoặc do thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột, thời tiết quá nóng, quá lạnh, ẩm ướt kéo dài. - Lợn nái sinh ra đều mang vi khuẩn trong âm đạo nhưng không gây bệnh, chỉ khi cổ tử cung mở, chất tiết chảy ra tạo điều kiện cho sự phát triển của vi khuẩn. Theo Lê Thị Tài và cs, (2002) [17] đây là một bệnh khá phổ biến ở gia súc cái; nếu không được chữa trị kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gia súc cái. Theo Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [5], Trần Thị Dân (2004) [3]: Khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính như: lợn dễ bị sảy thai, bào thai phát triển kém hoặc thai chết lưu, lợn nái giảm sữa hoạc mất sữa, nếu lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. Viêm tử cung là một trong những yếu tố gây vô sinh, rối loạn chức năng cơ quan sinh dục vì các quá trình viêm ở trong dạ con cản trở sự di chuyển của tinh trùng tạo độc tố có hại cho tinh trùng như: spermiolisin (độc tố làm tiêu tinh trùng). Các độc tố của vi khuẩn, vi trùng và các đại thực bào tích tụ
- 19 gây bất lợi với tinh trùng, ngoài ra nếu có thụ thai được thì phôi ở trong môi trường dại con bất lợi cũng dễ bị chết non (Lê Văn Năm và cs, 1999) [15]. * Triệu chứng: Theo Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [5], triệu chứng viêm tử cung thể hiện qua 3 thể viêm: - Viêm nội mạc: lợn có biểu hiện sốt nhẹ, dịch viêm có màu trắng hoặc xám và có mùi tanh. Con vật có phản ứng đau nhẹ, phản ứng co bóp tử cung giảm nhẹ. - Viêm cơ: lợn có biểu hiện sốt cao, dịch viêm có màu hồng hoặc nâu đỏ và có mùi tanh thối. Con vật có phản ứng đau rõ rệt, phản ứng co bóp tử cung yếu ớt. Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung, niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm lớp cơ và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. - Viêm tương mạc: lợn có biểu hiện sốt rất cao, dịch viêm có màu nâu rỉ sắt và có mùi thối khắm. Con vật rất đau kèm triệu chứng viêm phúc mạc, phản ứng co bóp tử cung mất hẳn. Đối với lợn nái sau khi đẻ, sảy thai và viêm nặng: thụt rửa tử cung bằng dung dịch Iodine 10% pha 10 ml/2 lít nước, thụt rửa 2 lần/ngày trong 2 ngày đầu và thụt rửa 1 lần/ngày từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 sau khi đẻ. Sau khi thụt rửa bơm thuốc kháng sinh O.T.C 10% (5 ml thuốc pha 20 ml nước sinh lý) hay 4 g streptomycin + 40.000 UI penicillin ngày 1 lần trong 3 ngày liên tiếp vào tử cung. Đồng thời tiêm oxytocin liều 10 - 15 UI (2 ống 5 ml/ 1 lần) nhiều lần trong ngày để tử cung co bóp tống dịch sản ra ngoài. Tiêm kháng sinh phổ rộng chống viêm như: tetramycin LA, amoxi 15% 3 lần liên tiếp mỗi lần cách nhau 48 giờ. Ngoài ra, tiêm các loại thuốc bổ trợ như: urotropin giúp tăng cường bài tiết độc tố, thuốc hạ sốt, vitamin C liều cao và canxi hỗ trợ co bóp tử cung, các thuốc kháng viêm: ketovet,
- 20 * Bệnh viêm vú - Nguyên nhân: Christensen và cs, (2007) [23] khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy: vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus spp. và Arcanobacterium pyogenes. Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây viêm vú. Một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm vú ở lợn nái là thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần thức ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập và gây viêm. Do kế phát từ một số bệnh: sót nhau, viêm tử cung, bại liệt sau đẻ, viêm bàng quang khi lợn nái bị những bệnh này vi khuẩn theo máu về tuyến vú cư trú tại đây và gây bệnh. Lợn nái tốt sữa, lợn con bú không hết hoặc lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng vú còn lại căng sữa. Lợn con bú làm xây xát bầu vú hoặc lợn con bị bệnh không bú, sữa xuống nhiều bầu vú căng dễ dẫn đến viêm. Do quá trình chăm sóc nuôi dưỡng kém, chất độn chuồng và ổ đẻ bẩn, sau khi đẻ bầu vú không được vệ sinh sạch, hàng ngày không vệ sinh bầu vú, thời tiết quá ẩm kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột dẫn đến viêm. - Triệu chứng Theo White (2013) [28], biểu hiện rõ tại vú viêm với các đặc điểm: vú căng cứng, nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa, nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều lợn cợn lẫn máu; sau 1 - 2 ngày thấy có mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,50C. Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [19], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ
- 21 vào thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% (Lê Hồng Mận, 2002) [13]. Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những mảnh casein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu. - Hậu quả của bệnh viêm vú Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ. Theo Nguyễn Đức Lưu và cs, (2004) [12], bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con. Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], cũng khẳng định: mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau.
- 22 - Thực hiện phòng bệnh: Vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng ngày bằng dung dịch sát trùng. Bấm răng sữa cho lợn con mới sinh, nên cho lợn con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng bị viêm. Dùng các phương pháp nhân tạo như chườm nóng, xoa bóp nhẹ lên vùng vú bị sưng (Duy Hùng, 2011) [7]. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [9], cho biết: trước khi đẻ cần lau vú, xoa vú, tắm cho lợn nái. Cho con bú mẹ sau 1 giờ đẻ, cắt răng nanh lợn con. Tiêm kháng sinh 1,5 - 2 triệu UI với 100 ml nước cất tiêm quanh vú, tiêm liên tục trong 3 ngày. Chườm đá lạnh vào bầu vú viêm. Tiêm thuốc chống viêm như prednizolon, hydro - cortizone (Lê Hồng Mận và Bùi Đức Lũng, 2004) [14]. Dùng novocain tiêm ven tai, tiêm chỗ giáp nhau giữa hai bầu vú và phần sườn của lợn, tiêm nhắc lại sau một ngày. Dùng kháng sinh sreptomycin, penicillin, ampicillin, lincomycin liều đạt trên 200.000 - 500.000 UI, mỗi loại trên một lần tiêm cho 1 - 2 lần/ngày trong 3 - 5 ngày. 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs, (2003) [11], thì: bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang
- 23 lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây sây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Theo tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], cho biết: ở những nái bị viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt nặng). Theo tác giả Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [5], khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. Theo Phạm Hữu Doanh và cs, (2003) [4], trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1 giờ đẻ, cắt răng nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: Penicillin 1,5 - 2 triệu UI với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục. Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [18], kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên 620 lợn nái ngoại nuôi tại một số trại tại vùng Bắc Bộ cho biết: tỷ lệ nhiễm viêm tử cung ở đàn lợn tương đối cao, biến động từ 36,57% tới 61,07%. Tỷ lệ mắc tập trung ở những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8. Theo Trần Ngọc Bích và cs, (2016) [2], khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13%. Chữa bệnh viêm tử cung bằng cách: sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả
- 24 cao: streptomycin 0,25 g, penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml + VTM C (Smith và cs, 1995) [27]. Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [6], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh Oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm Amoxillin 15% 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao. Khi gây bệnh thực nghiệm trên chuột và lợn vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae và vi khuẩn Pasteurella multocida phân lập được có độc lực cao đối với chuột bạch và lợn, đồng thời khẳng định vi khuẩn là một trong những nguyên nhân chính gây bệnh đường hô hấp ở lợn. Tác giả đã sử dụng kết quả này làm cơ sở cho việc lựa chọn chủng để chế vắc xin phòng bệnh đường hô hấp cho lợn do các vi khuẩn nêu trên gây ra. Mặt khác, còn cho biết vi khuẩn mẫn cảm cao với các loại kháng sinh rifampicin, ceftazidin, Ciprofloxacin và khuyến cáo nên sử dụng các loại kháng sinh này để điều trị cho lợn mắc bệnh đường hô hấp. Khi giám định một số đặc tính sinh vật học của Actinobacillus pleuropneumoniae cũng khẳng định vi khuẩn bắt màu gram âm, gây dung huyết mạnh, không di động, không mọc trên môi trường Macconkey, không sinh indol, phản ứng catalase, oxidase cho kết quả thất thường, phản ứng Urease dương tính, lên men các loại đường maltose, mannitol, mannose, xylose, lên men thất thường các loại đường galactose, lactose, không lên men các loại đường: glucose, arabinose, sorbitol. Để điều trị hội chứng tiêu chảy ở lợn con, ngoài kháng sinh đặc hiệu với vi khuẩn đường ruột như: trimazon, berberin có hiệu quả điều trị 75 - 80%. Chúng ta cần luôn phối hợp các chế phẩm sinh học Biosubtyl sẽ tăng hiệu quả điều trị và bổ sung điện giải, tăng tỷ lệ khỏi bệnh từ 80 - 95% con vật mau hồi phục, đảm bảo số lượng cũng như chất lượng con giống. 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
- 25 Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thê giới đang rất phát triển, các nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Tuy nhiên vấn đề hạn chế bệnh sinh sản là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết, đặc biệt là bệnh viêm đường sinh dục. Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh viêm đường sinh dục và đã đưa ra các kết luận giúp cho người chăn nuôi lợn nái sinh sản hạn chế được bệnh này. Tuy vậy, tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục trên đàn lợn nái sinh sản vẫn rất cao. Do đó theo Smith (1995) [27], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Winson khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả, xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của 30 phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược động học cho phép đáp ứng tốt hơn cách điều trị. Chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch Novocain 0,5% liều từ 30 - 40 ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 8 - 10 cm. Dung dịch Novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị Penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong Novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần. Theo Glawisschning Bacher (1992) [15], nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh
- 26 dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt. Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung, lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần.
- 27 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng thực hiện - Đàn lợn nái sinh sản. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm nghiên cứu: Trại lợn Nguyễn Đức Binh, huyện Ba Vì - Hà Nội. - Thời gian nghiên cứu: 18/11/2017 – 18/05/2018. 3.3. Nội dung tiến hành - Đánh giá tình hình chăn nuôi lợn tại Trại lợn Nguyễn Đức Binh, huyện Ba Vì - Hà Nội. - Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh cho đàn lợn nái sinh sản. - Thực hiện chẩn đoán, điều trị một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái trong thời gian thực tập. 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi - Cơ cấu đàn lợn tại thời điểm thực tập - Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại - Một số chỉ tiêu về sinh sản của lợn nái - Khối lượng công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại - Số tiêm vắc xin phòng bệnh - Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái. - Kết quả áp dụng các thủ thuật trong chữa bệnh cho lợn 3.4.2. Phương pháp theo dõi (thu thập thông tin)
- 28 3.4.2.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Nguyễn Đức Binh, Huyện Ba Vì, Hà Nội Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, chúng em tiến hành thu thập thông tin từ trại, kết hợp với kết quả điều tra, theo dõi của bản thân. 3.4.2.2. Quy trình vệ sinh chuồng nuôi hàng ngày Đế tài sử dụng quy trình đang được áp dụng cho đàn lợn nái nuôi tại trại và theo dõi, đánh giá hiệu quả. 3.4.2.3. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn tại trại Quy trình chăm sóc nái chửa, nái chờ đẻ, nái đẻ được áp dụng theo đúng quy trình của công ty CP. 3.4.2.4. Chẩn đoán và điều trị bệnh gặp trên đàn lợn nái và lợn con tại trại Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn nái, lợn con, em tiến hành theo dõi các đối tượng hàng ngày thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Bằng mắt thường, đánh giá qua biểu hiện lâm sàng như trạng thái cơ thể, bộ phận sinh dục ngoài, các dịch rỉ viêm (màu sắc, mùi ) của lợn nái, tình trạng sức khỏe lợn con, khả năng vận động, 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu thu thập được xử lý trên phần mềm Excel 2007. - Tỷ lệ lợn mắc bệnh: số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 số lợn theo dõi - Tỷ lệ khỏi: số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%) = x100 số con điều trị
- 29 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Cơ cấu đàn lợn nuôi tại trại Nguyễn Đức Binh, Ba Vì - Hà Nội trong 3 năm (2016 - 2018). Trong quá trình thực tập tốt nghiệp tại trại, em đã tiến hành theo dõi tình hình chăn nuôi của trại trong 3 năm (2016 - 2018) qua số liệu trực tiếp tại thời điểm thực tập và trên hệ thống sổ sách lưu của trại. Kết quả được trình bày qua bảng 4.1 Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn nuôi tại trại lợn Nguyễn Đức Binh qua 3 năm 2016 - 2018 (Đơn vị: con) STT Loại lợn 2016 2017 5/2018 1 Lợn đực giống 4 3 1 2 Lợn nái 116 100 54 3 Lợn thịt 1100 1120 600 4 Lợn con 2934 2530 637 Tổng 4154 3753 1293 Qua bảng 4.1 cho thấy, trang trại chăn nuôi lợn Nguyễn Đức Binh với chức năng chính là sản xuất con giống, do đó cơ cấu của trại phần lớn là khu chăn nuôi lợn nái và lợn con theo mẹ. Ngoài ra còn có chuồng lợn thương phẩm chăn nuôi lợn thịt với quy mô khoảng 450 con/lứa. Số lợn nái nuôi tại trại năm 2016 và tính đến tháng 5 năm 2018 có xu hướng giảm. Từ 116 xuống 54 nái. Sở dĩ có sự giảm số đầu lợn nái là do ngành chăn nuôi lợn của Việt Nam đang chịu ảnh hưởng của sự khủng hoảng về giá lợn. Trong năm 2017, nhiều trang trại chăn nuôi lợn nói chung và trang trại chăn nuôi lợn Nguyễn Đức Binh cũng bị ảnh hưởng không nhỏ vì sự khủng hoảng này, do đó đã dẫn đến giảm số lượng đầu lợn
- 30 nái. Số lợn đực giống cũng dao động trong khoảng từ 1 - 4 con, đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng của trại. Số lợn con được sinh ra từ lợn nái của trại, ngoài bán giống, trại còn sử dụng để nuôi lợn thịt, với quy mô chuồng lợn thịt dao động từ 150 - 450 con. Mặc dù với quy mô chăn nuôi chưa phải là lớn, nhưng trang trại chăn nuôi lợn của ông Nguyễn Đức Binh áp dụng các quy trình kỹ thuật khoa học tiên tiến vào chăn nuôi, vì vậy cũng đem lại hiệu quả cao trong chăn nuôi lợn sinh sản cũng như lợn thương phẩm. 4.2. Thực hiện biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn 4.2.1. Thực hiện chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái sinh sản Trong quá trình thực tập tại trang trại, được sự quan tâm chỉ đạo của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, cùng sự tạo điều kiện của chủ trại chăn nuôi, đã tạo điều kiện cho sinh viên thực tập được luân phiên thực hiện các thao tác kỹ thuật ở từng chuồng khác nhau. Chính vì vậy, trong thời gian 6 tháng thực tập, em đã được tham gia chăm sóc cho lợn nái chửa, lợn nái đẻ, lợn nái nuôi con, tham gia đỡ đẻ, chăm sóc cho lợn con theo mẹ đến cai sữa và nuôi lợn thương phẩm từ sau cai sữa đến khi xuất chuồng. Hàng ngày, em trực tiếp làm công tác vệ sinh chuồng trại, chăm sóc lợn, theo dõi sức khỏe cho đàn lợn. Quy trình chăm sóc từng đối tượng lợn được áp dụng theo đúng quy trình ủc a công ty CP. Cụ thể như sau: * Quy trình chăm sóc nái chửa Lợn nái chửa được ăn loại thức ăn CP 966, 567S với khẩu phần ăn phân theo tuần chửa, thể trạng, lứa đẻ như sau: Đối với nái chửa từ tuần 1 đến tuần chửa 12 ăn thức ăn CP 966 với tiêu chuẩn 1,5 - 2 kg/con/ngày, cho ăn 2 lần trong ngày. Đối với nái chửa từ tuần 13 đến tuần chửa 14 ăn thức ăn CP 966 với tiêu chuẩn 2,5 - 3 kg/con/ngày, cho ăn 2 lần trong ngày.
- 31 Đối với nái chửa từ tuần 15 trở đi ăn thức ăn 567S với tiêu chuẩn 3,5 - 4 kg/con/ngày, cho ăn 2 lần trong ngày. * Quy trình chăm sóc nái đẻ Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp và rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu chuẩn ăn 3 kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng, chiều. Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 5 ngày, giảm tiêu chuẩn ăn xuống 0,5 kg/con/bữa. Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn từ 0,5 - 5 kg/con/ngày chia làm hai bữa sáng, chiều mỗi bữa tăng lên 0,5 kg. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc nuôi nhiều con có thể cho ăn tăng lượng thức ăn lên 6 kg/con/ngày. Khẩu phần ăn cho lợn nái tại trại được trình bày ở bảng 4.2. Bảng 4.2. Khẩu phần ăn cho lợn nái tại trại Đối tượng Giai đoạn Chế độ ăn/ngày (kg) < 60 kg Tự do Lợn nái hậu bị 61 - 100 kg 2 - 2,5 101 kg - chờ phối 3 - 3,5 Lợn nái chờ phối Sau cai sữa 3 - 3,5 Chửa kỳ 1 (từ 1- 84 ngày) 1,5 - 2,0 Chửa kỳ 2 (85 - 110 ngày) 2,2 - 2,5 Lợn nái mang thai Từ ngày 111 - 113 1,0 - 1,5 Ngày đẻ 0 - 0,5 Ngày đầu tiên 0 - 1,0 Ngày thứ 2 sau đẻ 2 Lợn nái nuôi con Ngày thứ 3 sau đẻ 3 Ngày thứ 4 sau đẻ 4 Ngày thứ 5 trở đi 5 Ngày cai sữa 0 - 0,5
- 32 - Lợn mẹ được cho uống nước tự do. Số lợn nái, lợn con và lợn thương phẩm em trực tiếp chăm sóc trong thời gian thực tập được thể hiện qua bảng 4.3. Bảng 4.3. Kết quả chăm sóc nuôi dưỡng lợn tại trại qua 6 tháng thực tập (Đơn vị: con) Nái đẻ, Lợn con từ sơ Lợn Tháng nuôi con sinh - cai sữa thương phẩm 12 0 0 237 1 0 0 235 2 0 0 235 3 0 0 270 4 0 0 275 5 7 76 0 Tổng 7 76 1252 Nhìn vào kết quả thực hiện công việc ở bảng 4.3. cho thấy: trong 6 tháng thực tập, thì có 5 tháng em được phân công làm việc trực tiếp ở chuồng lợn thịt, và có 1 tháng (tháng 5) em được phân công xuống làm việc tại chuồng lợn nái đẻ. Chính vì vậy, kết quả thực hiện khâu chăm sóc, nuôi dưỡng cho lợn nái đẻ chưa nhiều. Trong tháng 5 em được phân công chăm sóc cho 5 lợn nái chửa giai đoạn 100 - 114 ngày đươc chuyển từ chuồng bầu lên chuồng đẻ. Hàng ngày, ngoài công việc vệ sinh, sát trùng chuồng nuôi, em còn cho lợn nái ăn và theo dõi sức khỏe cho lợn nái chuẩn bị đẻ. Khi lợn nái có biểu hiện sắp đẻ hoặc lợn nái đẻ, bản thân em sẽ trực để đỡ đẻ. Toàn bộ số lợn con được sinh ra trong tháng 5 (76 con) cũng được em chăm sóc hàng ngày. Ngoài ra, trong 5 tháng còn lại em được phân công chăm sóc, nuôi dưỡng và theo dõi cho đàn lợn thịt thương phẩm, với số lượng lợn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là 1252 con.
- 33 Từ việc chăm sóc các đối tượng lợn của trại, bản thân em đã nâng cao được nhiều kỹ năng nghề và củng cố lại được kiến thức đã được học, cũng như học hỏi và đúc kết được một số kinh nghiệm nhất định cho bản thân trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng lợn. - Đối với lợn nái chửa kỳ cuối, việc chăm sóc lợn là rất quan trọng. Hai tuần trước khi đẻ, phải chuyển lợn nái chửa lên chuồng lợn đẻ để lợn thích nghi dần với môi trường mới. Khi lợn chuyển lên chuồng đẻ phải mang theo thẻ theo dõi của từng lợn và gắn ở đầu mỗi ô chuồng để tiện cho công tác chăm sóc, theo dõi. Khi chăm sóc lợn nái chửa giai đoạn 2 tuần trước khi đẻ phải chú ý về khẩu phần ăn của từng con, khi tra cám lợn phải nhìn vào bảng cám của từng con, nếu cho ăn quá nhiều hoặc quá ít đều ảnh hưởng tới bào thai. Khi thực hiện tra cám, qua theo dõi 1 số con lợn nái được ăn nhiều hơn theo tiêu chuẩn thì em thấy lợn nái dễ béo, lợn con đẻ ra nặng hơn khối lượng trung bình, lợn mẹ thường khó đẻ. Đặc biệt phải chú ý đến khẩu phần ăn của những con lợn mới lên đẻ 1 - 2 lứa đầu. Ngoài ra, cần phải tắm chải cho lợn nái chửa hàng ngày thùy theo nhiệt độ thời tiết. Nếu vào mùa hè là cần thiết, do thời tiết nóng nên lợn mẹ thường ăn ít, do đó tắm cho lợn giúp cho lợn mát hơn, giảm stress khi nhiệt độ môi trường quá cao. Tắm lợn giúp cho lợn sạch sẽ, sàn chuồng sạch sẽ, khi lợn đẻ sẽ tránh nhiễm trùng cho lợn con và tránh được vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây viêm tử cung và kế phát một số bệnh khác. Nếu vào mùa đông thì phải dùng bàn chải để chải toàn bộ bề mặt cơ thể cho lợn mẹ. Đối với những phần cơ thể bị bẩn, lấy dẻ sạch lau ướt từng vùng và vệ sinh bầu vú cho lợn mẹ. Lợn nái trước khi sinh thường có những biểu hiện sau: trước khi sinh 3 ngày bầu vú căng, có tiết vài giọt sữa. Đối với nái tơ thường sinh sau 2 - 3 giờ tiết sữa. Ngoài ra nái còn tăng nhịp thở, thải phân lắt nhắt. Sau khi sinh được
- 34 vài con nếu nhận thấy nái khó đẻ có thể dùng oxytocin 2 ml/nái. Tại trại lợn em thực tập, để lợn nái đẻ đồng loạt thường tiêm lutalyse với thành phần là 25 mg PGF2α tiêm dưới da ở mép âm đạo với liều 1,8 - 2 ml/con vào thời điểm 111 ngày sau 24 giờ toàn bộ lợn nái được tiêm sẽ đẻ, thuận tiện cho chăm sóc và cai sữa lợn con. Khi lợn sắp đẻ thì phải có kế hoạch chuẩn bị đỡ đẻ gồm các công việc em trực tiếp làm là: chuẩn bị lồng úm cho lợn con, chuẩn bị bao khâu lồng úm, bao khâu lồng úm phải được nhúng nước sát trùng, giặt sạch, phơi khô, sau đó khâu lồng úm. Chuẩn bị đỡ đẻ: với con lợn chuẩn bị đẻ cần vệ sinh âm hộ và mông cho lợn nái sạch sẽ, vệ sinh sàn chuồng, chuẩn bị bóng điện úm cho lợn con, chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ như vải màn hoặc vải mềm khô, sạch, cồn iod để sát trùng, kéo để cắt dây rốn, chỉ để buộc. Khi lợn đẻ em tiến hành đỡ đẻ cho lợn. 4.2.2. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con và một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái. 4.2.2.1 Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con Trong thời gian thực tập tại trại, em vừa tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái vừa được học và làm một số các thao tác trên lợn con như đỡ lợn đẻ, mài nanh, bấm số tai, thiến lợn đực và mổ hecni. * Đỡ đẻ lợn con: kỹ thuật đỡ đẻ cho lợn con được em thực hiện như sau: - Sau khi lợn mẹ đẻ, lấy lợn con từ trong chuồng ra. - Vuốt hết dịch vùng đầu và mặt. Vỗ nhẹ vào thân để kích thích hô hấp. - Vuốt hết màng bọc và nhớt ở phần thân và chân lợn. Dùng khăn lau khô người lợn, lợn con phải khô và sạch trước khi cắt dây rốn. - Cầm lợn con và dây buộc rốn, thắt dây rốn ở vị trí cách cuống rốn 2,5 cm, dùng kéo cắt phần bên ngoài nút thắt một đoạn bằng 1/2 bên trong nút buộc khoảng 1,5 cm. Sát trùng dây rốn, vùng cuống rốn bằng cồn iod. - Cho lợn con vào lồng úm tº = 33 - 35ºC
- 35 - Trước khi cho lợn con ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ, lót thảm cho lợn con ra bú. - Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết, lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú. * Thao tác bấm số tai, mài nanh, cắt đuôi và tiêm chế phẩm Fe - Dextran - B12 cho lợn con: lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt hơn, cứng cáp hơn sẽ được tiến hành mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi, tiêm kháng sinh và chế phẩm Fe - Dextran - B12. Thường thì chế phẩm Fe - Dextran - B12 sẽ được tiêm vào 3 ngày tuổi sau khi lợn con sinh với liều lượng 1 - 2 ml/con, nhưng để tránh gây strees cho lợn con và tiện cho các thao tác kỹ thuật thì trại thực hiện các công việc đó cùng một lúc. Sắt sẽ được tiêm bổ sung lần 2 vào 7 - 10 ngày tuổi nếu thấy cần thiết. * Thiến lợn đực: đối với lợn đực nuôi thịt ta cần thiến càng sớm càng tốt. Thông thường trong chăn nuôi lợn nái sinh sản thường thiến lợn vào 7 - 10 ngày tuổi. Nhưng thực tế trại thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 5 sau khi sinh. Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: dao thiến, cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xilanh tiêm và thuốc kháng sinh. Thao tác: đầu tiên là tiêm cho lợn con 1 ml/con kháng sinh (amcoli, amistin). Sau đó người thiến ngồi ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 đùi sao cho đầu của lợn con hướng xuống dưới một tay nặn sao cho dịch hoàn nổi rõ, tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn. Dùng 2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp thừng dịch hoàn vào giật dịch hoàn ra, dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn, bôi cồn vào vị trí thiến. * Mổ hecni - Chuẩn bị lợn: cho nhịn ăn từ 6 - 12 giờ trước khi phẫu thuật.
- 36 - Chuẩn bị dụng cụ: 1 kim khâu, 1 kẹp cầm kim, chỉ, kéo, cồn sát trùng, thuốc kháng sinh, giá cố định. - Thực hiện: cho lợn con vào giá để cố định chắc. Sau đó tiêm cho lợn con 1ml/con kháng sinh (mmcoli, amistin). Vệ sinh sát trùng vị trí mổ hecni ở vị trí dọc 2 hàng vú cuối cùng, dùng dao mổ rạch cạnh hecni, dùng tay nắn nhẹ những chất trong bao hecni trở vào xoang bụng. Dùng 2 ngón tay đặt vào lỗ hecni ngăn không cho ruột trở ra ngoài bao hecni. Dùng kim cong khâu qua da, xuyên bao hecni ngay phần cổ bao hecni sao cho không chạm vào ruột và cách mép ngoài lỗ hecni 0,5 cm, cứ thế khâu vòng quanh cổ bao hecni. Sau khi khâu giáp mí kéo 2 đầu sợi chỉ siết chặt lại và buộc nút chết. Sau đó sát trùng vị trí mổ hecni. 4.2.2.2. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái. Trong thời gian thực tập tại cơ sở em đã được tham gia chăm sóc và nuôi dưỡng lợn con từ sơ sinh đến cái sữa . Kết quả một số chỉ tiêu của các đàn lợn em chăm sóc đạt được trình bày ở bảng 4.4. Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái từ tháng 12 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018 Số lợn nái Số lợn con Số lợn con còn sống Tỷ lệ sống Ngày, đẻ đẻ ra/lứa/nái đến cai sữa/nái sót tháng x m (con) ( x ) ( ) (%) 12 0 0 0 0 1 0 0 0 0 2 0 0 0 0 3 0 0 0 0 4 0 0 0 0 5 7 10,86 ± 1,59 10,57 ± 1,58 97,37
- 37 Tính 7 10,86 ± 1,59 10,57 ± 1,58 97,37 chung Bảng 4.4 cho thấy các chỉ tiêu về sinh sản. Theo dõi 7 lợn nái, số con đẻ ra trung bình là 10,86 con/lứa/nái, số con còn sống đến cai sữa là 10,57 con/lứa/nái, tỷ lệ sống là 97,37%. Trong quá trình nuôi dưỡng từ sau khi đẻ đến 21 ngày số lượng lợn con cai sữa giảm. Có nhiều nguyên nhân là do lợn mẹ đè chết, do loại thải, một số lợn con nhiễm trùng hay mắc bệnh dẫn đến chết. Để có tỷ lệ lợn con cai sữa cao phải chú ý chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, nếu nhiệt độ môi trường thấp phải đưa lợn con vào ô úm, không nên để chuồng, sàn chuồng ẩm hơn để tránh lợn con bị tiêu chảy. Nên cho lợn con tập ăn sớm lúc 7 ngày tuổi để tăng khả năng tăng trọng của lợn. Phải tạo mọi điều kiện thích hợp, tối ưu nhất để lợn con có khả năng phát triển tốt nhất. Trong quá trình đỡ đẻ, thiến phải đảm bảo sát trùng đúng kỹ thuật. Tuân thủ đúng yêu cầu trên thì có thể hạn chế được tỷ lệ lợn con chết, đảm bảo tỷ lệ lợn con xuất bán cao, mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại trong thời gian thực tập Trong quá trình đỡ đẻ phải chú ý đến từng lợn nái và có các biện pháp xử lý kịp thời nhằm nâng cao năng suất sinh sản của lợn nái như sau: * Kĩ thuật can thiệp lợn đẻ khó Một số biểu hiện lợn đẻ khó: + Khi lợn đã vỡ nước ối mà lợn mẹ lại không có biểu hiện rặn đẻ. + Lợn rặn đẻ liên tục, bụng căng lên do rặn đẻ mạnh, đuôi cong lên do lợn con đã ra đến cổ tử cung nhưng do lợn con quá to hoặc do ngôi thai bị ngược nên lợn con không ra ngoài được. + Mắt của lợn mẹ trở nên rất đỏ do quá trình rặn đẻ liên tục. + Lợn mẹ trở nên kiệt sức: thở nhanh, yếu ớt do quá trình rặn đẻ nhiều
- 38 nên kiệt sức. Cách can thiệp lợn đẻ khó: dùng nước sát trùng vệ sinh âm hộ và mông lợn. Sát trùng tay, bôi gen bôi trơn. Đưa tay vào trong tử cung, nắm lấy lợn con, đưa lợn con ra ngoài. Tại trại em thực tập một số dụng cụ còn chưa được trang bị đầy đủ nên đa số chúng em không có găng tay cao su mà chỉ được vệ sinh sát trùng tay trước khi can thiệp đẻ khó. * Sử dụng thuốc cho lợn đẻ + Sử dụng oxytocine Với lợn đẻ bình thường không phải tiêm oxytocine. Lợn lứa 5 - 6 trở lên tiêm tùy trường hợp. Nếu trong quá trình đẻ lợn mẹ, kiệt sức, rặn kém, khi đẻ được1 - 2 con trở lên thì cho phép tiêm. Lợn hậu bị và lợn nái sinh sản sức khỏe yếu tiêm tùy trường hợp. Liều lượng: 2 ml/con + Sử dụng kháng sinh Việc sử dụng kháng sinh cho lợn mẹ được thực hiện 1 lần trong ngày vào 1 giờ cố định. Mỗi lợn nái tiêm 1 mũi kháng sinh bắt buộc đề phòng viêm tử cung. Tiêm mũi thứ 2, 3 phải theo dõi, nếu viêm thì tiêm. - Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại trong thời gian thực tập được thể hiện qua bảng 4.5 như sau: Bảng 4.5. Tình hình sinh sản của lợn nái trực tiếp theo dõi trong thời gian thực tập Số Đẻ bình Tỷ lệ Số con đẻ khó Tỷ lệ Tháng con đẻ thường (%) phải can thiệp (%) 12 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 2 0 0 0 0 0 3 0 0 0 0 0
- 39 4 0 0 0 0 0 5 7 6 85,71 1 14,29 Tổng 7 6 85,71 1 14,29 Qua bảng 4.5 cho thấy: trong số 7 lợn nái mà em trực tiếp được đỡ đẻ thì có 6 ca đẻ bình thường và 1 ca đẻ khó phải can thiệp. Trong quá trình chăm sóc theo dõi, cùng với sự theo dõi sổ sách ghi chép thông tin của từng lợn nái đẻ, em thấy rằng, những lợn nái đẻ khó phải can thiệp, thường là những lợn đẻ ở những lứa đầu tiên hoặc lợn đẻ nhiều lứa. Do khung xương chậu của lợn mẹ chưa được phát triển hoàn thiện, lợn mẹ chưa yếu không thể rặn thai ra ngoài do vậy trong quá trình đẻ phải có sự can thiệp từ người chăm sóc. Trong quá trình đỡ đẻ cho lợn, em rút được kinh nghiệm là cần chuẩn bị tốt ô úm, vệ sinh vùng mông và âm hộ con nái trước khi đẻ. Khi lợn đẻ phải chú ý từng con một để nhận biết con nào có biểu hiện đẻ khó, con nào đẻ dễ, chú ý thời gian đẻ của mỗi con để biết nhanh hay chậm. Nếu con mẹ đẻ khó cần can thiệp sớm bằng cách dùng oxytocin để kích thích co bóp cơ trơn tử cung, xoa bầu vú. Nếu thai quá to, lợn mẹ rặn đẻ không được phải nhanh chóng can thiệp đưa con con ra ngoài để tránh ngạt, làm chết những con còn lại trong tử cung. Khi can thiệp phải chú ý sát trùng tay vệ sinh vùng mông, âm hộ, phải tiến hành nhẹ nhàng tránh gây đứt nhau, sây sát niêm mạc tử cung lợn mẹ. Những người trực tiếp đỡ đẻ và can thiệp đẻ khó phải cắt móng tay, nếu để móng tay dài có thể làm tổn thương lợn con mới sinh, khi can thiệp đẻ khó có thể làm xây sát niêm mạc tử cung lợn nái. Phải theo dõi ngày phối giống và ngày đẻ dự kiến để chuẩn bị kế hoạch đỡ đẻ. 4.4. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho lợn tại trại lợn Nguyễn Đức Binh 4.4.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh
- 40 Thực hiện phương châm ‘‘Phòng bệnh hơn chữa bệnh’’‚ vì thế trại đã đặt khâu phòng bệnh lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được dịch bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vâṭ chủ. Sát trùng: Sử dụng các thuốc sát trùng CP. novacide, ommicide. Nguồn nước uống: hệ thống nước sạch được lấy từ suối đầu nguồn về bể lớn rồi được xử lý bằng chlorine với nồng độ khoảng 3 - 5 ppm. Lịch sát trùng của trại được em và mọi người thực hiện như sau: Trong quá trình áp dụng quy trình vệ sinh sát trùng chuồng trại của trại, bản thân em cũng đã ý thức được tầm quan trọng của việc vệ sinh sát trùng chuồng trại, cũng như nâng cao ý thức của người thực hiện công việc. Ngoài việc, áp dụng quy trình chuẩn như bảng 4.6 đã trình bày, em cũng rút ra được một số những lưu ý trong quá trình làm vệ sinh sát trùng đó là: - Khi rắc vôi bột dọc hàng lang đường tra cám và đường lấy phân nên rắc từ chỗ quạt thông gió tới giàn mát, nếu làm ngược lại sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe của người làm do bột vôi sẽ bám vào người, có thể gây sặc bột vôi cho người rắc vôi. Nên sử dụng các dụng cụ bảo hộ như khẩu trang, găng tay khi đi rắc vôi vì nếu dùng tay trực tiếp rắc vôi sau một thời gian dài có thể tổn thương da cho người công nhân.
- 41 Bảng 4.6. Lịch sát trùng trại lợn nái Trong chuồng Ngoài khu vực Thứ Ngoài Chuồng nái Chuồng chăn Chuồng đẻ chuồng chửa cách ly nuôi Phun sát Phun sát Quét hoặc rắc Phun sát trùng Phun sát trùng Thứ 2 trùng toàn vôi đường đi + rắc vôi trùng toàn bộ bộ khu vực khu vực Quét hoặc Phun sát Phun sát trùng + Thứ 3 rắc vôi trùng quét vôi đường đi đường đi Xả vôi xút Thứ 4 Phun sát trùng Rắc vôi Rắc vôi gầm Phun sát trùng Thứ 5 Phun ghẻ Phun ghẻ + xả vôi xút gầm Phun sát Phun sát trùng Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 6 trùng + rắc vôi trùng trùng trùng Phun sát Thứ 7 Phun sát trùng trùng Tổng vệ Chủ Tổng vệ sinh Tổng vệ sinh Vệ sinh sinh nhật chuồng chuồng tổng khu chuồng - Khi phun chỉ tiến hành phun ở hành lang, đường tra cám và đường lấy phân, không phun trực tiếp lên người lợn nái và lợn con. Nếu phun trực tiếp lên lợn nái và lợn con sẽ dẫn đến lợn nái bị tổn thương da, lợn con dễ bị bệnh tiêu chảy, viêm da vì nồng độ thuốc sát trùng quá đặc, do thuốc sát trùng có
- 42 mùi khó chịu, nếu vào đường hô hấp có thể gây tổn thương đường hô hấp của lợn con. - Khi pha sát thuốc sát trùng phải chú ý pha đúng tỷ lệ, không nên pha quá loãng vì sẽ không đảm bảo tỷ lệ tiêu diệt vi khuẩn, mầm bệnh. Cũng không nên pha thuốc sát trùng quá đặc vì sẽ gây tổn thương niêm mạc, da của lợn nái, lợn con và gây lãng phí làm giảm năng suất chăn nuôi. - Khi lau máng ăn của lợn mẹ phải chú ý vét hết cám thừa, lau thật sạch máng ăn, để tránh cám thừa còn trên máng gây thiu, mốc, lợn mẹ ăn phải sẽ ảnh hưởng sức khỏe, nếu lợn có chửa ăn phải thức ăn mốc, ôi thiu dễ bị sảy thai. - Phải xịt gầm hàng ngày để tránh mùi hôi bốc lên và giữ chuồng trại sạch sẽ hơn, khi xịt gầm cần chú ý không để nước bắn lên trên gây ẩm ướt chuồng nuôi, không nên xịt gầm quá sớm vào mùa đông, chỉ nên xịt gầm sau 9 giờ để tránh lợn con bị lạnh sẽ dễ mắc bệnh hô hấp, tiêu chảy. - Đối với lợn nuôi thịt, mùa hè nên xịt rửa chuồng để dọn phân, trước khi dọn phân, nên đánh thức lợn dậy, tập cho lợn có thói quen thải phân trước, rồi mới hót phân kho vào bao tải, sau đó mới tiến hành rửa chuồng. Vào mùa đông, hạn chế việc phun nước rửa chuồng, trong trường hợp chuồng lợn bẩn, chỉ tiến hành rửa những khu vực bị bẩn, để giữ cho nền chuồng luôn khô, nếu chuồng nuôi quá bẩn thì mới tiến hành phun nước rửa, tuy nhiên nên rửa chuổng vào buổi trưa, để cho lợn không bị nhiễm lạnh. 4.4.2. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn Trong quá trình thực tập tại cơ sở em đã cùng cán bộ kỹ thuật của trại tham gia vào công tác tiêm phòng cho đàn lợn con và hỗ trợ tiêm phòng lợn nái. Kết quả tiêm phòng cho lợn nái và lợn con được thể hiện qua bảng 4.7:
- 43 Bảng 4.7. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn trong thời gian thực tập Tỷ Bệnh Số Số con lệ Loại Thời điểm Loại vắc xin, Liều dùng Đường được con an an lợn phòng bệnh chế phẩm (ml/con) tiêm phòng tiêm toàn toàn (%) Dịch tả Tiêm 20-30 ngày Coglapest 2 250 250 100 1 bắp Lợn thịt Dịch tả Tiêm 50-60 ngày Coglapest 2 250 250 100 2 bắp Bảng 4.7 cho thấy quy trình phòng bệnh cho đàn lợn thịt tại trại. lợn thịt 20 - 30 ngày và 50 - 60 ngày được tiêm vắc xin dịch tả mũi thứ nhất và thứ 2 với số lượng 500 con, an toàn 500 con. Đối với đàn lợn nái chửa thì trực tiếp cán bộ kỹ thuật trại sẽ làm vắc xin cho lợn, nên sinh viên không được làm. 4.5. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn tại trại 4.5.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn thịt Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại em đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với kỹ sư của trại. Qua đó chúng em đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Kết quả tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn thịt được trình bày ở bảng 4.8. Bảng 4.8. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn thịt tại trại Chỉ tiêu theo dõi Số con Số con Tỷ lệ theo dõi mắc bệnh (%) Tên bệnh (con) (con) Lợn nái sinh sản
- 44 Bệnh viêm vú 7 1 14,29 Bệnh viêm tử cung 7 1 14,29 Lợn thịt Viêm khớp 237 1 0,42 Viêm phổi 237 75 31,64 Tiêu chảy 237 63 26,58 Bảng 4.8. cho thấy, trong số 7 con lợn nái chăm sóc và nuôi dưỡng có 1 lợn nái mắc bệnh viêm tử cung, 1 lợn nái mắc bệnh viêm vú, tỷ lệ mắc bệnh là 14,29%. Trong tổng số 237 lợn thịt được theo dõi, có 1 lợn mắc bệnh viêm khớp, chiếm tỷ lệ 0,42%, lợn viêm phổi là 75 con, chiếm 31,64% và tiêu chảy ở lợn thịt là 63 con, chiếm tỷ lệ 26,58%. Lợn nái mắc bệnh viêm tử cung là do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi với điều kiện như nuôi dưỡng, chăm sóc và thời tiết không thuận lợi. Mặt khác, do trong quá trình phối giống cho lợn nái bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Do quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai làm cho vi khuẩn từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập vào gây viêm. Lợn mắc viêm vú thường do kế phát viêm tử cung, do nền chuồng bẩn, vú bị tổn thương Lợn mắc bệnh viêm phổi và tiêu chảy thương do thời tiết thay đổi thất thường, nhiệt độ chênh lệch ngày và đêm lớn dẫn đến vi khuẩn phát triển mạnh gây bệnh cho lợn. 4.5.2. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn thịt tại trại trong thời gian thực tập Quá trình thực tập tại trại, dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại em đã tham gia điều trị bệnh cho lợn nái và lợn thịt mắc bệnh, kết quả được trình bày qua bảng 4.9.
- 45 Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản và lợn thịt tại trại Chỉ Thời Kết quả tiêu Thuốc điều trị, gian Số Đườn Số con liều lượng dùng con Tỷ lệ g tiêm điều trị Tên thuốc khỏi (%) (con) bệnh (ngày) (con) Oxytocin 1 ml/con Bệnh viêm Tiêm 1 ml/20 kg 3 1 1 100 tử cung Pen - strep bắp TT Bệnh 1 ml/20 kg Tiêm Pen - strep 3 1 1 100 viêm vú TT bắp Pendistrep Tiêm Viêm khớp 1 ml/10kgTT 5 1 1 100 L.A bắp Tylogenta Tiêm Viêm phổi 1,5 ml/con 3 75 71 94,60 bắp Tiêm Tiêu chảy Nor 100 2 ml/con 3 63 59 93,65 bắp Bảng 4.9 cho thấy kết quả điều trị cho lợn nái và lợn thịt tại trại trong quá trình thực tập. Em đã trực tiếp được điều trị một phần số lợn bị bệnh, số lợn còn lại do kỹ sư trại hỗ trợ em làm để kịp tiến độ công việc. Trong 1 con lợn mắc bệnh viêm tử cung mà em điều trị thì có 1 con khỏi chiếm tỷ lệ 100%, điều trị 1 con mắc bệnh viêm vú có 1 con khỏi. Trong thời gian thực tập, em còn tham gia điều trị cho 75 lợn con mắc bệnh viêm phổi, điều trị khỏi 71 con, hiệu quả điều trị đạt 94,60%. Thuốc điều trị viêm phổi được dùng nhiều tại trại là Tylogenta, hiệu quả điều trị khá cao. Do thời gian thực tập, thời tiết nồm, nhiệt độ thấp, độ ẩm cao nên lợn con hay bị viêm phổi, hoặc do khi lau (rửa) ô chuồng không nhốt lợn con riêng, khiến lợn con bị lạnh dẫn tới bị viêm phổi. Ngoài ra, em còn tham gia điều trị
- 46 63 con lợn bị tiêu chảy khỏi 59 con, đạt tỷ lệ 93,65%. Bệnh viêm khớp em điều trị 1 con, khỏi 1 con, đạt tỷ lệ 100%. Cho thấy, liệu trình điều trị đạt hiệu quả tương đối cao.
- 47 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trại chăn nuôi lợn Nguyễn Đức Binh, em đã theo dõi và thực hiện được một số công việc sau: - Về công tác chăm sóc nuôi dưỡng lợn: + Chăm sóc, nuôi dưỡng cho 7 con lợn nái, 76 con lợn con và 1252 con lợn thịt. - Về công tác phòng bệnh: + Thực hiện vệ sinh, sát trùng chuồng trại hàng tuần theo lịch. + Thực hiện đỡ đẻ cho 07 con, mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi, thiến lợn đực cho lợn con. + Thực hiện tiêm phòng các loại vắc xin dịch tả cho lợn thịt với số con được tiêm là 250 con. - Về công tác chẩn đoán, điều trị bệnh: + Lợn nái tại trang trại mắc các bệnh viêm vú (14,28%), viêm tử cung (14,28%). Lợn thịt mắc các bệnh viêm khớp (0,42%), viêm phổi (31,64%) và bệnh tiêu chảy (26,58%). + Dùng thuốc pen - strep điều trị bệnh viêm vú cho lợn, tỷ lệ khỏi 100%. Thuốc oxytocin và pen - strep điều trị bệnh viêm tử cung, tỷ lệ khỏi 100%. Thuốc pendistrep LA điều trị bệnh viêm khớp, tỷ lệ khỏi 100%. Thuốc tylogenta điều trị bệnh viêm phổi, tỷ lệ khỏi 94,60%. Và thuốc Nor 100 điều trị lợn tiêu chảy, tỷ lệ khỏi 93,65%. 5.2. Đề nghị Xuất phát từ thực tế của trại, qua phân tích đánh giá bằng hiểu biết của mình, em có một số ý kiến nhằm nâng cao hoạt động của trại như sau: - Đầu tư nâng cấp thêm về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, dụng cụ thú y. - Tăng cường công tác chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý, thực hiện tốt công tác vệ sinh thú y.
- 48 - Đưa khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, cố gắng thực hiện tốt mục tiêu và phương hướng đã đề ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội, tr. 29 - 35. 2. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016), “Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập XXIII (số 5), tr. 51 - 56. 3. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản lợn nái và sinh lý lợn con, Nxb Nông nghiệp, TP Hồ Chí Minh. 4. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ. 7. Duy Hùng (2011), “Bệnh viêm vú ở lợn nái”, Báo nông nghiệp Việt Nam. 8. Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huê Viên, Phan Văn Kiểm (2003), Giáo trình Truyền giống nhân tạo vật nuôi, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 10. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), “Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trí”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi tập II, tr. 44 - 52.
- 49 11. Phạm Sỹ Lăng, Phan Đình Lân, Trương Văn Dung (2003), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 12. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 14. Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng (2004), Kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Lê Văn Năm (1999), Phòng và trị bệnh ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 16. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình Chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 17. Lê Thị Tài, Đoàn Thị Kim Dung, Phương Song Liên (2002), Phòng và trị một số bệnh thường gặp trong thú y bằng thuốc nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 18. Nguyễn Văn Thanh (2007), “Kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên lợn nái ngoại nuôi tại một số trang trại tại vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, tập XIV (số 3), tr. 38 - 43. 19. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 20. Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993), Thụ tinh nhân tạo cho lợn ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 21. Trần Thanh Vân, Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 22. Trần Thanh Vân, Nguyễn Thị Thúy Mỵ, Mai Anh Khoa, Bùi Thị Thơm, Nguyễn Thu Quyên, Hà Thị Hảo, Nguyễn Đức Trường (2017), Giáo trình chăn nuôi chuyên khoa, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Tài liệu tiếng Anh 23. Christensen R. V., Aalbaek B., Jensen H. E. (2007), “Pathology of udder lesions in sows”, J. Vet. Med. A Physiol, Patho.l Clin, Med, 2007 Nov., 54(9), tr. 491.
- 50 24. Hughes, James (1996), “Maximising pigs production and reproduction”, Compus, hue University of Agriculture and Forestry, September. 25. Glawisschning E., Bacher H (1992), “The Efficacy of Costat on E. coli infectedweaning pigs”. 12th IPVS congress, August 17 - 22, tr. 182. 26. Jose Bento S., Ferraz and Rodger K., Johnson (2013), Animal Model Estimation of Genetic Parameters and Response to Selection for Litter Size and Weight, Growth, and Backfat in Closed Seedstock Populaions of Large White and Landrace Swine, Department of Animal Science, December 4, 2013, University of Nebraska, Lincoln 68583 – 0908. 27. Smith, Martineau B. B., G., Bisaillon, A. (1995), “Mammary gland and lactaion problems”, In disease of swine, 7th edition, Iowa state university press, tr. 40 - 57. 28. White B. R., Mc Laren D. G., Dzink P. J., Wheeler M. B. (2013), “Attain ment of puberty and the mechanism of large litter size in Chinese Meishan females versus Yorkshire females”, Biology of Reproduction 44 (Suppl. 1), 160 (abstract). Tài liệu internet 29. Trần Văn Bình (2010),
- MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Ảnh 1: Lợn bị viêm vú Ảnh 2: Lợn mắc bệnh viêm tử cung Ảnh 3: Chế phẩm Fe 10% + B12 Ảnh 4:Thuốc Oxytocin
- Ảnh 5: Thuốc nor 100 Ảnh 6: Thuốc cefanew@ Ảnh 7: Thuốc Nova-Genty Ảnh 8: Thuốc trị cầu trùng