Khóa luận Phát triển tài nguyên thông tin số cho các cơ quan thông tin - Thư viện ngành luật ở Hà Nội

pdf 104 trang thiennha21 15/04/2022 3880
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Phát triển tài nguyên thông tin số cho các cơ quan thông tin - Thư viện ngành luật ở Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_phat_trien_tai_nguyen_thong_tin_so_cho_cac_co_quan.pdf

Nội dung text: Khóa luận Phát triển tài nguyên thông tin số cho các cơ quan thông tin - Thư viện ngành luật ở Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA THÔNG TIN - THƢ VIỆN  BÙI THỊ ÁNH TUYẾT PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN THÔNG TIN SỐ CHO CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN - THƢ VIỆN NGÀNH LUẬT Ở HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH THÔNG TIN THƢ VIỆN Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2008-X HÀ NỘI, 2012 MỤC LỤC 1
  2. PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3 3. Tình hình nghiên cứu 3 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 5 5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài 6 7. Bố cục của khóa luận 6 PHẦN 2: NỘI DUNG 7 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN THÔNG TIN SỐ CHO CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN THƢ VIỆN NGÀNH LUẬT Ở HÀ NỘI 7 1.1 Những khái niệm cơ bản 7 1.1.1 Khái niệm phát triển 7 1.1.2 Khái niệm tài nguyên 7 1.1.3 Khái niệm thông tin số 8 1.1.4 Khái niệm phát triển tài nguyên thông tin số 9 1.1.5 Khái niệm sưu tập số 10 1.1.6 Khái niệm siêu dữ liệu 11 1.2 Vai trò của tài nguyên thông tin số trong hoạt động thông tin – thƣ viện 14 1.2.1 Vai trò của tài nguyên thông tin số nói chung 14 1.2.2 Vai trò của tài nguyên thông tin số đối với ngành Luật nói riêng 16 1.3 Khái quát về một số cơ quan thông tin – thƣ viện ngành Luật ở Hà Nội 17 1.3.1 Lịch sử ra đời và phát triển 17 1.3.2 Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ 22 1.3.3 Đặc điểm cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin 23 1.3.4 Đặc điểm nhu cầu tin của người dùng tin 25 2
  3. 1.4 Các yếu tố tác động đến việc phát triển tài nguyên thông tin số 30 1.4.1 Chính sách phát triển nguồn tài nguyên thông tin số 30 1.4.2 Quy mô cơ quan thông tin thư viện 31 1.4.3 Kinh phí hoạt động 32 1.4.4 Trình độ cán bộ 33 1.4.5 Vấn đề công nghệ 37 1.4.6 Vấn đề bản quyền 37 1.4.7 Vấn đề liên quan đến người dùng tin 39 1.4.8 Vấn đề kiểm duyệt 40 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN THÔNG TIN SỐ CỦA CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN - THƢ VIỆN NGÀNH LUẬT Ở HÀ NỘI 42 2.1 Đặc điểm vốn tài liệu của các cơ quan thông tin – thƣ viện ngành Luật 42 2.1.1 Đặc điểm vốn tài liệu truyền thống 42 2.1.2 Đặc điểm vốn tài liệu hiện đại 44 2.2 Phƣơng thức phát triển tài nguyên thông tin số của các cơ quan thông tin – thƣ viện ngành Luật 47 2.2.1 Nguồn mua tài nguyên thông tin số 47 2.2.2 Nguồn trao đổi tài nguyên thông tin số 49 2.2.3 Công tác số hóa tài liệu 53 2.2.4 Thu thập tài liệu nội sinh 62 2.3 Chính sách và kinh phí phát triển tài nguyên thông tin số của các cơ quan thông tin - thƣ viện ngành Luật 65 2.3.1 Chính sách phát triển tài nguyên thông tin số 65 2.3.2 Kinh phí phát triển tài nguyên thông tin số 67 2.4 Công nghệ áp dụng để phát triển tài nguyên thông tin số của các cơ quan thông tin – thƣ viện ngành Luật 70 3
  4. 2.5 Đội ngũ cán bộ trong hoạt động phát triển tài nguyên thông tin số của các cơ quan thông tin – thƣ viện ngành Luật 74 2.6 Công tác thực hiện bản quyền và vấn đề thanh lý tài liệu số 77 2.6.1 Công tác thực hiện bản quyền 77 2.6.2 Công tác thanh lý tài nguyên thông tin số 80 CHƢƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN THÔNG TIN SỐ CHO CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN - THƢ VIỆN NGÀNH LUẬT Ở HÀ NỘI 82 3.1 Nhận xét về công tác phát triển tài nguyên thông tin số của các cơ quan thông tin – thƣ viện 82 3.1.1 Ưu điểm 82 3.1.2 Hạn chế 86 3.2 Các giải pháp phát triển tài nguyên thông tin số cho các cơ quan thông tin – thƣ viện 88 3.2.1 Đảm bảo tính pháp lý cho tài nguyên thông tin số 88 3.2.2 Thay đổi nhận thức cho cán bộ các cấp 90 3.2.3 Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ 91 3.2.4 Xây dựng chính sách bổ sung phù hợp 92 3.2.5 Tăng cường kinh phí xây dựng tài nguyên thông tin số 93 3.2.6 Chú trọng chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin số 94 3.2.7 Thống nhất các chuẩn nghiệp vụ 95 3.2.8 Đào tạo người dùng tin 97 PHẦN 3: KẾT LUẬN 10 0 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 10 2 4
  5. PHỤ LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ XXI, Công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông đã chiếm một vị trí quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Sự phát triển nhanh chóng của CNTT và truyền thông đã tác động mạnh mẽ đến ngành Thông tin – Thư viện (TTTV). Xu hướng phát triển của các cộng đồng thư viện trên thế giới hiện nay là tiến đến số hóa và kết nối để thu hẹp diện tích và khoảng cách địa lý. Sự phát triển của CNTT không chỉ làm thay đổi nhanh chóng toàn bộ thế giới mà đồng thời còn tạo ra nhiều thách thức và cơ hội. Đặc biệt với ngành TTTV, ngành có sự kết hợp lĩnh vực quản trị tri thức với những ứng dụng CNTT và truyền thông. Ngành đang phải đương đầu với các thách thức do cuộc cách mạng công nghệ này đem lại để tồn tại và đáp ứng được những nhu cầu tin đa dạng, phức tạp của cộng đồng người dùng tin. Đây là quy luật của tự nhiên. Việc tăng nhanh cả về số lượng, chất lượng, loại hình, phương thức khai thác của thông tin – tri thức đã tạo ra một sức ép đáng kể cho các cơ quan TTTV phải tự biến đổi, hoàn thiện mình để quản trị nguồn thông tin tri thức đó. Nhằm giải quyết bài toán quản trị tri thức, các mô hình thư viện hiện đại đã ra đời và xu thế xây dựng, phát triển các Thư viện số, các bộ sưu tập tài nguyên thông tin số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TTTV trên thế giới. Sự tác động của công nghệ web, CNTT chính là những yếu tố quan trọng hướng tới việc xây dựng thư viện số, phát triển các bộ sưu tập, nguồn tài nguyên thông tin số và đó là một sự thỏa mãn nhu cầu chưa từng có về lưu trữ, tổ chức, và truy cập thông tin. Sự xuất hiện của các bộ sưu tập tài nguyên số, thư viện số không chỉ tạo ra một cơ hội mới cho sự phát triển thư viện, mà còn đặt ra những yêu cầu cao hơn trong việc cải tổ những thư viện truyền thống. Tài nguyên số chính là một trong những nền tảng quan trọng tạo nên sức mạnh trí tuệ quốc gia. Cùng với sự tác động mạnh mẽ của CNTT, ngành TTTV Việt Nam đang bước những bước đầu tiên trên con đường hiện đại hóa. Xã hội thông tin càng phát triển càng đặt ra nhiều thách thức không nhỏ cho ngành. Nhận thức được tầm quan trọng của các công nghệ ngày nay tới hoạt động TTTV, và cũng là sự hội nhập với cộng đồng thư 5
  6. viện trên thế giới, các cơ quan TTTV Việt Nam luôn tự đổi mới chính mình, nâng cao chất lượng dịch vụ TTTV để bắt kịp thời đại. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện hệ thống pháp Luật. Vì vậy, trong quá trình phát triển hiện tại, các cơ quan TTTV ngành Luật (sau đây gọi tắt là thư viện ngành Luật) đóng vai trò quan trọng trong việc lưu giữ, phổ biến và cung cấp các nguồn thông tin pháp Luật phục vụ công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp, đặc biệt là công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập của các trường đào tạo Luật hướng tới các đối tượng người dùng tin. Tuy nhiên sự đáp ứng thông tin của các thư viện ngành Luật vẫn còn hạn chế so với nhu cầu của người dùng tin. Thực tế tại một số thư viện ngành Luật ở Hà Nội cho thấy mặc dù sự đáp ứng thông tin còn hạn chế so với nhu cầu người dùng, nhưng mỗi thư viện đều có những thế mạnh, những khả năng có thể liên kết chia sẻ, phát triển nguồn lực thông tin. Hiển nhiên rằng không thể có một cơ quan TTTV nào có đủ khả năng đáp ứng mọi nhu cầu thông tin của người dùng tin. Bởi lẽ nhu cầu thông tin đang ngày càng biến đổi, phát triển nhanh chóng, vừa bao quát, vừa chuyên sâu trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cán bộ, học tập của sinh viên, nghiên cứu của các chuyên gia Giải pháp đặt ra cho các thư viện ngành Luật là tiến hành trao đổi chia sẻ nguồn lực thông tin, xây dựng, phát triển các bộ sưu tập tài nguyên thông tin số, các thư viện số. Xây dựng, phát triển bộ sưu tập tài nguyên thông tin số sẽ trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động của các cơ quan. Bộ sưu tập tài nguyên thông tin số là cầu nối cho sự trao đổi giữa các chuyên gia, thủ thư và bạn đọc, là công cụ khám phá, tìm kiếm, truy xuất thông tin và là mô hình hiện đại nhằm cung cấp những dịch vụ thông tin chuyên biệt ở mức độ cao. Phát triển nguồn tài nguyên thông tin số không chỉ tạo ra một cơ hội mới cho sự phát triển thư viện, mà còn đặt ra những yêu cầu cao hơn trong việc cải tổ những thư viện truyền thống. Chính vì vậy, các thư viện ngành Luật cần phát triển tài nguyên số và công nghệ khai thác. Thực tế cũng cho thấy các thư viện ngành Luật đã xây dựng được phần nào bộ sưu tập số, nguồn tài nguyên số của mình. Trên cơ sở đó, cần phải phát triển nguồn tài nguyên số của các cơ quan, đẩy mạnh sự phát triển của thư viện, đó là sự hội nhập cũng như tiến bước cùng thời đại. Xuất phát từ yêu cầu thực tế và nhận thức của bản thân về sự phát triển của sưu tập số, tác giả đã lựa chọn đề tài “Phát triển tài nguyên 6
  7. thông tin số cho các cơ quan TTTV ngành Luật ở Hà Nội” làm Khóa luận của mình với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động phát triển nguồn tài nguyên thông tin số, tăng cường sự hợp tác và phát triển giữa các thư viện ngành Luật trong bối cảnh hiện nay. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề xây dựng và phát triển sưu tập số, nguồn tài nguyên thông tin số, tìm hiểu tình hình thực tiễn hoạt động xây dựng phát triển nguồn tài nguyên thông tin số của các thư viện ngành Luật trên địa bàn Hà Nội, khóa luận đưa ra những nhận xét và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động xây dựng, phát triển nguồn tài nguyên thông tin số của các cơ quan hướng tới sự tiết kiệm, đồng bộ, hiệu quả trong hoạt động, hợp tác. Để thực hiện được mục đích trên, khóa luận cần giải quyết các nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu các vấn đề lý luận về sưu tập số, tài nguyên thông tin số - Làm rõ vai trò của bộ sưu tập tài nguyên thông tin số đối với các cơ quan TTTV nói chung và ngành Luật nói riêng - Tìm hiểu tình hình hoạt động, hiện trạng, khả năng phát triển nguồn tài nguyên thông tin số của các thư viện ngành Luật. - Trình bày các nhân tố ảnh hưởng tác động tới hoạt động xây dựng phát triển nguồn tài nguyên thông tin số 3. Tình hình nghiên cứu Trên cở sở tham khảo và tìm hiểu các tài liệu liên quan đến sưu tập số, nguồn tài nguyên thông tin số, xây dựng, phát triển sưu tập số, nguồn tài nguyên thông tin số, hoạt động của thư viện ngành Luật tác giả nhận thấy: - Đã có khá nhiều tài liệu, bài viết nghiên cứu của các chuyên gia TTTV về vấn đề lý luận của sưu tập số, thông tin số. Sự phát triển của tài nguyên số hiện nay. Đó là những bài viết đi sâu về các vấn đề nhỏ trong cả quy trình của vấn đề xây dựng và phát triển sưu tập số, nguồn tài nguyên thông tin số: Những vấn đề cơ bản về Siêu dữ liệu của Th.s Cao Minh Kiểm; Hướng dẫn thực hành xây dựng bộ sưu tập thư viện số bằng phần mềm nguồn mở Greenstone của Nguyễn Minh Hiệp - Bên cạnh đó là các bài giảng ngành TTTV đề cập đến các vấn đề của thông tin số, sưu tập số, thư viện số hay thư viện điện tử như: Nghiên cứu thư viện số trên thế 7
  8. giới và định hướng nghiên cứu thư viện số ở Việt Nam; thư viện điện tử của Th.s Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Nắm bắt theo xu thế phát triển của nguồn tài nguyên thông tin số như hiện nay, cũng đã có nhiều khóa luận của sinh viên tiến hành nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề lý luận và thực tiễn về tài nguyên thông tin số ở Việt Nam: “Tìm hiểu vấn đề xây dựng và phát triển sưu tập số” của sinh viên Lê Công Năng K49 chính quy, “công tác số hóa tài liệu tại thư viện Quốc gia Việt Nam” của sinh viên Lại Cao Bằng K52 chính quy, “khảo sát một số phần mềm tiêu biểu được sử dụng để xây dựng bộ sưu tập số trong các cơ quan TTTV Việt Nam” của sinh viên Đồng Thị Thanh Thoan K49 chính quy, “Tìm hiểu về việc phát triển và chia sẻ tài nguyên số tại trung tâm TTTV Đại học Quốc gia Hà Nội và thư viện Quốc gia Việt Nam” của sinh viên Mai Thị Hương K52 chính quy, “Thư viện số với các giải pháp quản trị quyền thông tin số” của sinh viên Vũ Thị Thanh Mai K46 tại chức - Đối với các thư viện ngành Luật, đã có một số tài liệu, báo cáo khoa học tìm hiểu về nguồn lực thông tin, tình hình hoạt động tại các thư viện Luật, các bài báo đề cập tới vấn đề chia sẻ nguồn lực thông tin nói chung, các vấn đề nhằm đẩy mạnh sự phát triển của các thư viện ngành Luật. Gần đây nhất, là tháng 10 năm 2010, tại Trung tâm TTTV Đại học Luật Hà Nội có tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Thư viện Luật Việt Nam, hợp tác và phát triển”. Tháng 04 năm 2011 tác giả cũng đã thực hiện một đề tài khoa học: “Nghiên cứu chia sẻ nguồn lực thông tin pháp Luật cho hệ thống các cơ quan TTTV ngành Luật ở Hà Nội.” Trong hội thảo về thư viện Luật Việt Nam, các bài viết nghiên cứu về tình hình hoạt động của các thư viện Luật cụ thể và trong đề tài khoa học của tác giả thực hiện, đều nêu ra việc cần phải tiến hành đẩy mạnh hoạt động hiệu quả, tiết kiệm, cũng như trao đổi tương tác giữa các cơ quan TTTV đem lại kết quả tốt nhất đối với người dùng tin trên cơ sở xây dựng các thư viện hiện đại, nguồn tin điện tử, nguồn tài nguyên thông tin số làm giải pháp cho các vấn đề này Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn tài nguyên thông tin số cho hệ thống các thư viện ngành Luật. Với thực tiễn nghiên cứu của ngành, cũng như thực tiễn vai trò của vấn đề, khóa luận “Phát triển nguồn tài nguyên thông tin số cho hệ thống các cơ quan TTTV ngành Luật” được triển khai. Đây là vấn đề mới, và chưa có tác giả nào thực hiện 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 8
  9. - Đối tượng nghiên cứu: Lý thuyết chung về vấn đề phát triển nguồn tài nguyên thông tin số; Thực trạng xây dựng và phát triển nguồn tài nguyên thông tin số tại các thư viện ngành Luật; Các vấn đề liên quan đến xây dựng và phát triển nguồn tài nguyên thông tin số. - Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát thực tiễn hoạt động, hiện trạng xây dựng phát triển nguồn tài nguyên thông tin số tại một số thư viện ngành Luật trên địa bàn Hà Nội. Cụ thể là: Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Luật Hà Nội Trung tâm Thông tin – Thư viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng Quốc hội Thư viện Học viện Tư pháp Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin. Nắm vững tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước về công tác sách báo và thư viện. - Phương pháp cụ thể: Thu thập tài liệu, đọc và phân tích tài liệu Quan sát điều tra thực tế Điều tra bằng bảng hỏi Phương pháp phỏng vấn, trao đổi, mạn đàm 6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài 9
  10. -Đóng góp về lý luận: Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần hoàn thiện lý luận cơ bản về phát triển tài nguyên thông tin số nói riêng và phát triển vốn tài liệu nói chung. -Đóng góp về thực tiễn: Khóa luận nêu bật được thực trạng phát triển nguồn tài nguyên thông tin số của một số thư viện ngành Luật trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét, kiến nghị nhằm đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển nguồn tài nguyên thông tin số cho các cơ quan này. 7. Bố cục khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì bố cục chính của khóa luận được chia thành 3 chương như sau: Chương 1: Lý luận chung về phát triển tài nguyên thông tin số cho các cơ quan thông tin – thư viện ngành Luật ở Hà Nội Chương 2: Thực trạng công tác phát triển tài nguyên thông tin số của các cơ quan thông tin – thư viện ngành Luật ở Hà Nội Chương 3: Nhận xét và giải pháp phát triển tài nguyên thông tin số cho các cơ quan thông tin – thư viện ngành Luật ở Hà Nội PHẦN NỘI DUNG 10
  11. CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN THÔNG TIN SỐ CHO CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN-THƢ VIỆN NGÀNH LUẬT Ở HÀ NỘI 1.1 Những khái niệm cơ bản 1.1.1 Khái niệm phát triển Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trả qua nhưng bước quanh co phức tạp. Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật. 1.1.2 Khái niệm tài nguyên Dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, khái niệm tài nguyên được mở rộng ra trên nhiều lĩnh vực hoạt động của con người. Hiểu theo nghĩa rộng, tài nguyên bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu – năng lượng, thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ liên quan mà con người có thể sử dụng cho mục đích tồn tại và phát triển của mình. Trên cơ sở sưu tầm, có thể đưa ra một số định nghĩa tài nguyên như sau: Theo Từ điển Tiếng Việt: Tài nguyên là nguồn của cải có sẵn trong tự nhiên chưa khai thác hoặc đang được tiến hành khai thác. Mọi đối tượng của xử lý thông tin như bộ nhớ, tệp dữ liệu, công trình máy tính cần cho việc thực hiện một mục tiêu nào đó. Hay hiểu hơn giản hơn: “ Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, phi vật chất và tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới cho con người” 11
  12. Như vậy, dựa trên các quan niệm, có thể nói tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tăng. 1.1.3 Khái niệm thông tin số Thế kỷ XXI được đánh dấu bằng sự ra đời của nền kinh tế mới, được gắn bằng nhiều thuật ngữ: kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế mạng Trong nền kinh tế này, xuất hiện một loại nguồn lực quan trọng là tài nguyên thông tin số. Đây là nguồn lực có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành thư viện trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Cũng như bất kỳ nguồn lực nào trong xã hội, vấn đề cần thiết phải xác lập được phương thức quản lý và chiến lược phát triển thích hợp. Theo Luật công nghệ thông tin, khái niệm thông tin số được trình bày như sau: “Thông tin số là thông tin được tạo lập từ các thiết bị kỹ thuật số, được lưu trữ dưới dạng các tín hiệu số, được xử lý, chuyển tải (trao đổi) giữa các thiết bị kỹ thuật số thông qua môi trường mạng hoặc môi trường khác”. Với cách hiểu như vậy, thông tin số được coi là thông tin đại chúng, được tạo ra bởi con người hay sự vật, hiện tượng, được chuyển đổi thành dạng tín hiệu số, lưu trữ trong các thiết bị máy móc. Thông tin số mang những đặc trưng vốn có của các nguồn tài nguyên truyền thống, bên cạnh đó còn mang những đặc điểm ưu việt: Do sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ tạo và lưu trữ dữ liệu trên các vật mang tin từ tính, quang học, mật độ ghi thông tin trên các vật mang tin này rất cao nên dung lượng lưu trữ lớn, mật độ thông tin lớn. Thông tin số đem lại khả năng đa truy cập, cho phép người dùng có thể tra tìm tài liệu đồng thời theo nhiều dấu hiệu khác nhau, cùng với đó là khả năng liên hệ, tiếp cận với tác giả, tạo ra một kênh phản hồi thông tin giữa người dùng tin và người sáng tạo ra thông tin. Sự tồn tại dưới nhiều dạng của thông tin số làm cho thông tin số trở nên hấp dẫn hơn, dễ hiểu hơn, dề truyền đạt hơn, và hơn hết là khả năng truy cập từ xa trong mọi điều kiện về không gian, thời gian. CNTT truyền thông đã thực hiện được việc truyền thông tin dạng số từ các vị trí ở xa. 12
  13. Tiếp cận mọi nơi, mọi lúc là điều không tưởng với các thư viện truyền thống, các nguồn tin lưu trữ dưới dạng truyền thống. Thông tin số ra đời đáp ứng được yêu cầu này, nó trở thành kênh thông tin đem lại những lợi ích quan trọng cho người sử dụng trong kỷ nguyên công nghệ điện toán: Thông tin dạng số có thể gửi nhiều bản cùng một lúc qua mạng thông tin trong một phần nhỏ của một phút, thậm chí chỉ một giây. Người sử dụng không cần phải đến thư viện để sử dụng các máy tính được nối mạng. Họ có thể truy cập thông tin qua máy tính của mình. Thông tin dạng số có thể cắt và dán từ tài liệu này sang tài liệu khác. Thông tin dạng số được miễn phí hoặc rẻ hơn so với tài liệu in. Thông tin dạng số thường thay đổi vai trò của cán bộ thư viện ở nhiều phương diện. Sự phát triển nhanh chóng và đổi mới hàng ngày, thậm chí hàng giờ mang lại sự ưu việt cho nguồn thông tin số Cũng qua đó nâng cao năng lực khai thác thông tin của người dùng tin Tuy nhiên, thông tin số cũng có những hạn chế trong quá trình sử dụng, đó là tính đảm bảo an toàn thông tin. Sự phát triển của CNTT là tiền đề nhưng cũng đem lại những thách thức cho các vấn đề không mong muốn. Đó là việc dễ sao chụp thông tin, dễ bị làm sai lệch thông tin, các hệ quả của CNTT tác động tới sự phát triển của thông tin số Với các đặc trưng như vậy, thông tin số có ý nghĩa rất lớn đến việc xây dựng, phát triển những thư viện hiện đại và bền vững. 1.1.4 Khái niệm phát triển tài nguyên thông tin số Phát triển tài nguyên thông tin số là công tác làm tăng thêm nguồn lực thông tin số của mỗi cơ quan, đơn vị. Là những hoạt động nhằm gia tăng số lượng cũng như chất lượng tài liệu số. Trên cơ sở nhu cầu người dùng tin, cũng như vai trò quan trọng của thông tin số mang lại, phát triển tài nguyên số là một hoạt động tất yếu, có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển thư viện hiện đại và bền vững. Quá trình phát triển tài nguyên số cũng được vận động từ thấp đến cao, chất lượng, số lượng tài nguyên số sẽ ngày càng được tăng cường. 13
  14. Tạo lập và phát triển tài nguyên thông tin số của riêng mỗi cơ quan là vấn đề lớn nhất trong xây dựng thư viện điện tử, thư viện số. Công việc này đòi hỏi phải đầu tư lớn và liên tục. Để làm tốt công việc này, các cơ quan xây dựng thư viện điện tử, thư viện số cần có cách tiếp cận hợp lý, khả thi và kinh tế. 1.1.5 Khái niệm sƣu tập số Một sưu tập số không chỉ là một tập hợp các đối tượng số thông thường mà còn phải là một tập hợp các tài liệu hay đối tượng số được lựa chọn và tổ chức cùng với các siêu dữ liệu mô tả và có ít nhất một giao diện để cho người sử dụng truy cập. Hoặc sưu tập số là tập hợp các dữ liệu trực tuyến (online) và dữ liệu điện tử trên vật mang tin vật lý như CD-ROM, vi phim, audio, video về một chủ đề. Mặc dù mỗi loại hình tài liệu có sự khác nhau về cách thể hiện, nhưng nó đều cung cấp một giao diện đồng nhất mà qua đó các tài liệu có thể truy cập dễ dàng. Chúng là tập hợp các thông tin được số hóa dưới những dạng thức nhất định để máy móc có thể đọc được và người dùng tin có thể truy cập thông tin một cách dễ dàng với những thiết bị tương thích. Nói cách khác sưu tập số là tập hợp các đối tượng số, mỗi đối tượng số được cấu thành bởi hai thành phần không thể thiếu là nội dung số và siêu dữ liệu. Ví dụ: bộ sưu tập số về chủ tịch Hồ Chí Minh gồm các văn bản, các tác phẩm văn học, các văn kiện chính trị do Bác viết và do người khác viết về Bác; Những bài hát, bản nhạc viết về Hồ chí Minh; những đoạn phim, những băng video phản ánh cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Một bộ sưu tập số như vậy trước khi trình bày phải qua một quá trình hình thành để tạo nên những cấu trúc hỗ trợ cho việc truy tìm và lướt tìm được dùng cho việc truy cập sưu tập. Khi xây dựng xong, bộ sưu tập có thể được xuất bản trên Internet hoặc xuất ra CD-ROM một cách hoàn toàn tự động. Một khi sưu tầm thêm tài liệu mới, ta có thể dễ dàng bổ sung thêm vào bộ sưu tâp bằng cách tái xây dựng. Một thư viện nói chung bao gồm nhiều bộ sưu tập khác nhau, mỗi sưu tập tổ chức mỗi khác, tuy nhiên hoàn toàn giống nhau về phương cách hiển thị. Những bộ sưu tập như thế có thể được tạo nên bằng một Phần mềm nguồn mở 14
  15. đa ngôn ngữ thư viện số Greenstone (Greenstone digital library multilingual open source software). Các chuyên gia TTTV đã phân loại sưu tập số như sau: Theo cấp độ lưu trữ: Sưu tập lưu trữ: Là sưu tập những đối tượng số có mục đích lưu trữ lâu dài tại thư viện. Sưu tập máy chủ: Là các tài liệu số lưu trong máy chủ nhưng không đảm bảo được lưu giữ lâu dài. Sưu tập gương: Là các loại tài liệu số lưu trữ ở một nơi khác, thư viện chỉ giữ bản sao và không có ý định lưu giữ lâu dài. Sưu tập liên kết: Là sưu tập những tài liệu số được lưu giữ bên ngoài thư viện. Thư viện chỉ tạo ra đường dẫn đến tài liệu đó mà không lưu giữ được trong máy chủ Sưu tập theo loại hình tài liệu Sưu tập văn bản Sưu tập đa phương tiện như âm thanh, hình ảnh, video Sưu tập web Sưu tập theo nguồn gốc số hóa: Sưu tập tài liệu số hóa (Digitnized Object) Sưu tập tài liệu gốc (Digital Born Object) 1.1.6 Khái niệm siêu dữ liệu Thuật ngữ "Siêu dữ liệu" (tiếng Anh "METADATA"), có thể được định nghĩa đơn giản là dữ liệu về dữ liệu. Theo tiến sỹ Warwick Cathro, "siêu dữ liệu là những thành phần mô tả tài nguyên thông tin hoặc hỗ trợ thông tin truy cập đến tài nguyên thông tin". Trong tài liệu, siêu dữ liệu được xác định là "dữ liệu mô tả các thuộc tính của đối tượng thông tin và trao cho các thuộc tính này ý nghĩa, khung cảnh và tổ chức. Siêu dữ liệu còn có thể được định nghĩa là dữ liệu có cấu trúc về dữ liệu". Gail Hodge định nghĩa siêu dữ liệu là "thông tin có cấu trúc mà nó mô tả, giải thích, định vị, hoặc làm cho nguồn tin trở nên dễ tìm kiếm, sử dụng và quản lý hơn. Siêu dữ liệu được hiểu 15
  16. là dữ liệu về dữ liệu hoặc thông tin về thông tin". Nói tóm lại, siêu dữ liệu là thông tin mô tả tài nguyên thông tin. Mục đích đầu tiên và cốt yếu nhất của siêu dữ liệu là góp phần mô tả và tìm lại các tài liệu điện tử trên mạng Internet. Sự phát triển mạnh mẽ của Internet đã tạo ra sự bùng nổ của các loại dữ liệu đa dạng ở dạng số, văn bản, hình ảnh, âm thanh, hình ảnh động, tài liệu đa phương tiện. Những tài liệu số này có thể truy cập được trên Internet song việc tìm kiếm chúng một cách hiệu quả và khoa học như với các hệ thống thông tin trực tuyến là hết sức khó khăn. Để góp phần tăng cường chất lượng tìm kiếm các tài liệu số trên mạng Internet, người ta đã đưa ra giải pháp sử dụng siêu dữ liệu. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ người dùng tin đánh giá thông tin mà không phải truy cập trực tiếp đến thông tin; giúp kiểm tra sự tồn tại của đối tượng thông tin, mô tả về ngôn ngữ, vị trí của thông tin Thực ra trong hoạt động TTTV truyền thống, từ lâu đã có những khái niệm liên quan đến siêu dữ liệu. Các bản mô tả thư mục chứa các dữ liệu mô tả đối tượng (như cho sách, cho tạp chí), do đó, chúng có thể được xem như một dạng siêu dữ liệu. Với việc tự động hoá công tác biên mục, phiếu thư mục được thay thế bằng biểu ghi thư mục. Như vậy, thành phần "siêu dữ liệu" còn có thể được trình bày trong biểu ghi, vì vậy, biểu ghi này được coi là biểu ghi siêu dữ liệu (metadata record) của các đối tượng được Cơ sở dữ liệu (CSDL) quản lý. Với tài liệu truyền thống trên giấy, thông tin mô tả được bố trí nằm ngoài đối tượng mà nó mô tả (ví dụ, trên phiếu thư mục của mục lục thư viện, trong biểu ghi của CSDL). Nhờ những yếu tố mô tả như vậy, người ta có thể xác định và tìm kiếm lại được tài liệu một các chính xác theo một vài yếu tố. Trong thư viện điện tử hiện nay hay trong môi trường mạng, siêu dữ liệu ngày càng trở nên quan trọng bởi nó giữ vai trò chủ đạo không chỉ cung cấp cho người dùng tin những mô tả tài liệu mà họ tìm kiếm mà còn thông tin sử dụng phần mềm để xác định vị trí thông tin phù hợp, để thỏa thuận điều khoản cung cấp tài liệu, yêu cầu và tiếp nhận tài liệu. Và nguồn tài liệu điện tử hiện nay phân tán trên mạng nhiều đến mức không thể xử lý hết được bằng cách thủ công như đã và đang áp dụng với tài liệu xuất bản trên giấy. Để xử lý được hết tài liệu điện tử phân tán, người ta phải áp dụng các phương pháp tự động - sử dụng các chương trình đặc biệt (được gọi theo nhiều cách khác nhau như robots, crawlers, spiders, ). Do tài liệu số (điện tử) được tạo ra, thông thường 16
  17. không tuân thủ những quy định xuất bản truyền thống, không có những quy tắc nhất định giúp cho phép nhận dạng tự động được các yếu tố mô tả thông thường như tác giả, địa chỉ xuất bản, thông tin về khối lượng, nên cần thiết phải có những quy định thống nhất để các chương trình tự động nhận dạng và xử lý chúng đúng theo các yêu cầu nghiệp vụ. Những quy định như vậy được gọi là các quy định về siêu dữ liệu. Có thể thấy hiện nay, do nhiều chương trình máy tính chỉ định chỉ số dựa vào một số thành phần hạn chế như nhan đề hoặc toàn văn nên không hỗ trợ những tìm kiếm đặc thù (thí dụ theo tác giả, theo chủ đề, theo lĩnh vực, ). Vì thế, để tạo điều kiện cho các chương trình có thể định chỉ số tự động theo một số yếu tố xác định, người ta cần thiết phải đưa thêm vào tài liệu điện tử những thuộc tính bổ sung để tăng cường việc mô tả tài nguyên thông tin. Các công cụ định chỉ số tự động sẽ được lập trình để nhận dạng các thuộc tính này và định chỉ số chúng, từ đó hỗ trợ tìm kiếm theo những thuộc tính đặc thù. Trong thư viện truyền thống, siêu dữ liệu chủ yếu là dạng mô tả hình thức và nội dung của tài liệu có trong kho thư viện, trong thư viện điện tử, siêu dữ liệu đã phát triển ở mức độ cao hơn với khái niệm rộng hơn. Nó đã phát triển thành 5 loại siêu dữ liệu: Siêu dữ liệu hành chính (Administraive): Được dùng để quản lý và quản trị các tài nguyên thông tin. Ví dụ: Thông tin bổ sung; bản quyền và thông tin tái bản; tài liệu về yêu cầu truy cập hợp pháp; thông tin định vị; các tiêu chí số hóa; kiểm soát phiên bản và những khác biệt giữa các đối tượng thông tin tương đồng; thông tin kiểm trá của hệ thống quản lý. Siêu dữ liệu mô tả (Descriptive): Được dùng để mô tả hay nhận diện các tài nguyên thông tin. Ví dụ: các biểu ghi thư mục; các hỗ trợ tìm kiếm; định chỉ số chuyên biệt; siêu dữ liệu liên kết giữa các tài nguyên; chú giải của người sử dụng Siêu dữ liệu bảo quản (Preservation): Các thông tin liên quan đến quản lý việc bảo quản các tài nguyên thông tin. Ví dụ: Các tài liệu về tình trạng, điều kiện vật lý của tài nguyên thông tin; các tài liệu về công tác bảo quản và các phiên bản thông tin dưới dạng vật lý và số. Siêu dữ liệu sử dụng (Use): Các thông tin liên quan đến mức độ và loại hình sử dụng tài nguyên thông tin. Ví dụ: Các biểu ghi trình bày; các thông tin về người sử dụng và việc sử dụng; thông tin về tái sử dụng nội dung và các phiên bản đa phương tiện. 17
  18. Siêu dữ liệu kỹ thuật (Technical): Các thông tin liên quan đến cách thức hoạt động của hệ thống cũng như siêu dữ liệu. Ví dụ: thông tin phản hổi về phần cứng và phần mềm; thông tin số hóa; thông tin về thời gian phản hồi của hệ thống; dữ liệu về tính xác thực. Hiện nay, có nhiều trao đổi thông tin mang tính chất metadata khá thông dụng đang được áp dụng như: MARC21/UNIMARC, Dublin Core Metadata các dữ liệu metadata này thường được gắn vào phần đầu cho mỗi tài liệu điện tử được đưa vào máy chủ hoặc trên mạng internet nhằm hỗ trợ các công cụ tìm kiếm lọc ra các thông tin metadata để tổ chức thành các kho dữ liệu mà không cần dùng đến hệ quản trị cơ sở dữ liệu truyền thống. Thực tế thì ngay bản thân ngôn ngữ XML tự nó đã hỗ trợ việc hình thành một cơ sở dữ liệu toàn văn, phi cấu trúc và rất thuận lợi cho việc tìm kiếm, trao đổi và lưu trữ thông tin 1.2 Vai trò của tài nguyên thông tin số trong hoạt động thông tin – thƣ viện 1.2.1 Vai trò của tài nguyên thông tin số nói chung Xây dựng phát triển tài nguyên thông tin số là một trong những mục tiêu quan trọng của tất cả các loại hình thư viện trên thế giới, nhằm hướng đến mục tiêu phục vụ thông tin cho người dùng ở mọi lúc, mọi nơi, không phân định không gian, thời gian. Đưa ra sự định hướng này, là dựa trên vài trò quan trọng của nguồn tài nguyên số trong hoạt động các cơ quan TTTV. Hiện nay, mọi thứ đều được số hóa, được chuyển thành dạng tài nguyên số. Khi sách bắt đầu được số hóa, một câu hỏi được đặt ra: “Liệu chúng ta nên chấm dứt việc xuất bản sách in và thay vào đó là số hóa sách để đọc trên máy?”. Các nhà nghiên cứu cho rằng vào thời điểm hiện nay, nên duy trì cả hai cách trên. Thật vậy, dù có rất nhiều người hài lòng với việc đọc sách ở dạng PDF trên trang web, mỗi năm, số lượng sách in được xuất bản vẫn ngày một tăng. Tuy nhiên, tiện ích của sách điện tử là điều không thể phủ nhận. Ngoài việc có thể đọc và lưu trữ tài liệu trên máy, số hóa sách mang lại nhiều lợi ích rất lớn. Trong thư viện truyền thống, mỗi quyển sách là một bản hoàn chỉnh và độc lập; giờ đây, tất cả tài liệu sẽ được liên kết với nhau trong thư viện số trên cơ sở nguồn tài nguyên số của các cơ quan TTTV. Bên cạnh việc dùng “link” (đường dẫn liên kết) để liên kết câu, từ hoặc các quyển sách với nhau, người đọc có thể sử dụng “tag” (gắn thẻ) để chú thích chung cho tất cả mọi người về một dữ liệu, tranh ảnh hay bài hát nào đó 18
  19. nhằm thuận tiện cho việc tìm kiếm khi cần. Ví dụ, chúng ta chỉ cần nhấp chuột vào “link” về các chủ đề liên quan hoặc chú thích ở cuối trang để tìm kiếm những điều cần biết thêm. Chính việc số hóa sách đã cho phép thực hiện điều này mà sách truyền thống không bao giờ đạt được. Sách được số hóa đồng nghĩa với việc nó có thể được chia nhỏ thành từng trang, từng đoạn nhỏ, sau đó được sắp xếp lại tạo thành một quyển sách mới hoặc chứa trong một “giá sách ảo” – nơi tập hợp những đoạn văn ngắn hoặc cả nội dung của một quyển sách hoàn chỉnh. Hiện nay trên thế giới, xu thế phát triển Thư viện số, xây dựng nguồn tài nguyên thông tin số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TTTV. Nguồn tài nguyên thông tin số trong các thư viện hiện đại sẽ đáp ứng mọi nhu cầu thông tin của người sử dụng một cách dễ dàng và nhanh chóng. Vì thế trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, tài nguyên số đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển của các cơ quan TTTV. Kho tài nguyên thông tin số trong các thư viện số sẽ bao gồm tất cả các loại tài liệu điện tử và các loại ấn phẩm; tạo ra một môi trường và cơ hội bình đẳng rộng mở cho tất cả mọi người đều có cơ hội sử dụng nguồn tài liệu học tập bởi các tài nguyên số của thư viện số tồn tại ngoài những giới hạn về vật lý và quản lý của một thư viện truyền thống. Tính linh hoạt và khả năng đáp ứng của tài nguyên số trong nghiên cứu, đào tạo, thể hiện ở chỗ một bản tài liệu số có thể cùng lúc phục vụ cho nhiều đối tượng khác nhau, không phụ thuộc vào số lượng người dùng, thời gian và vị trí địa lý của người dùng tin. Tính hiệu quả của nguồn tài nguyên số là tiết kiệm thời gian và kinh phí. Các cơ quan TTTV sẽ đỡ tốn kinh phí xây dựng kho tàng, kinh phí bổ sung tài liệu, bảo quản và kinh phí trả lương cho người phục vụ. Ngoài ra với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng, và giá cả tài liệu như hiện nay thì nguồn tài nguyên số là giải pháp hữu hiệu cho hoạt động chia sẻ tài liệu giữa các cơ quan TTTV. Trên tất cả là giúp cho người dùng tin được dễ dàng, thuận tiện, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc trong việc tìm kiếm khai thác thông tin. Nguồn tài nguyên thông tin số là sự lựa chọn tối ưu để bảo tồn được tài liệu lâu dài, các tài liệu quý hiếm, ngắn chặn những rủi ro hủy hoại do thời gian, thiên tai, khí hậu và tần suất sử dụng. 19
  20. Có thể thấy rằng, nguồn tài nguyên thông tin số với những ưu điểm của mình đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các cơ quan TTTV, đẩy mạnh sự hoạt động của các cơ quan. Nguồn tài nguyên số sẽ là nguồn tài nguyên chủ đạo trong chiến lược xây dựng phát triển của các cơ quan TTTV hiện nay. Xây dựng nguồn tài nguyên số chính là một xu thế tất yếu vì mục đích sao lưu, bảo quản tài liệu, mở rộng đối tượng phục vụ và chia sẻ tài nguyên, tận dụng tối đa và có hiệu quả hệ thống cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại. 1.2.2 Vai trò nguồn tài nguyên thông tin số đối với ngành Luật nói riêng Hiện nay, số lượng tài liệu trong các cơ quan TTTV đều gia tăng một cách nhanh chóng, phong phú về cả số lượng và chất lượng, với số tài liệu ngày càng nhiều thì các cơ quan TTTV đều nghĩ ra cách lưu giữ, bảo quản, phục vụ nguồn tài liệu một cách hiệu quả nhất là vấn đề quan trọng. Đối với ngành Luật nói riêng, vấn đề này cần phải đặt ra một cách cấp bách. Sự phát triển của các thư viện ngành Luật hiện nay đóng vai trò quan trọng vào sự đáp ứng nhu cầu các đối tượng người dùng tin. Không chỉ là các đối tượng người dùng chuyên ngành Luật mà còn là đông đảo đối tượng người dùng tin các tầng lớp. Điều này là hiển nhiên khi mà Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Vai trò của thư viện ngành Luật đã được khẳng định. Tại một số thư viện ngành Luật ở Hà Nội, nguồn lực thông tin pháp luật tồn tại song song ở hai dạng điện tử và truyền thống, tuy nhiên chưa đáp ứng được nhu cầu của người dùng tin. Mỗi thư viện ngành Luật lại có những thế mạnh, những khả năng riêng có thể liên kết chia sẻ nguồn lực thông tin, hỗ trợ cho nhau cùng hoạt động, phát triển. Để làm được điều này, tài nguyên số giữ vai trò chủ đạo. Chỉ có xây dựng phát triển tài nguyên số, thì các thư viện ngành Luật mới có thể tận dụng khai thác chính những lợi ích, vai trò mà nguồn thông tin số mang lại. Đó là tính linh hoạt, hiệu quả hay khả năng chia sẻ của tài nguyên số. Tài nguyên thông tin số có vai trò quan trọng trong hoạt động TTTV nói chung và ngành Luật nói riêng. Những lợi ích của nó tác động tới ngành TTTV, cũng chính là tác động tới ngành Luật. Trên thực tế sự phát triển của các thư viện ngành Luật hiện nay, thì xây dựng phát triển tài nguyên số là hoạt động cấp bách cần thực hiện. Khi mà nhu cầu thông tin đang ngày càng biến đổi, phát triển nhanh chóng, vừa bao quát, vừa 20
  21. chuyên sâu trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cán bộ, học tập của sinh viên, nghiên cứu của các chuyên gia khi mà dạng thông tin truyền thống không mang lại nhiều lợi ích tối ưu như thông tin số, khi mà các thư viện ngành Luật cần phải tiến hành chia sẻ nguồn lực thông tin thì xây dựng bộ sưu tập số, tài nguyên số sẽ là câu trả lời cho tất cả các vấn đề đó. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ cùng với xu thế hội nhập là những đòi hỏi và thách thức cho ngành TTTV nói chung và cho thư viện ngành Luật nói riêng cần phải có những đổi mới hoạt động, bắt kịp những tiến bộ của thời đại phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với vai trò của nguồn thông tin số, thiết nghĩ xây dựng phát triển thông tin số sẽ là việc làm cần thiết, một động thái tích cực để đổi mới phương pháp phục vụ nhằm góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả phục vụ người dùng tin. 1.3 Khái quát về một số cơ quan thông tin – thƣ viện ngành Luật ở Hà Nội 1.3.1 Lịch sử ra đời và phát triển Trung tâm Thông tin – Thƣ viện Đại học Luật Hà Nội Trung tâm TTTV Trường Đại học Luật Hà Nội có quá trình hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nhà trường. Thư viện trở thành đơn vị độc lập trực thuộc Ban Giám hiệu theo quyết định số: 49 ngày 21 tháng 1 năm 1988 của Hiệu trưởng và hoạt động theo Quy định về tổ chức và hoạt động của thư viện trường đại học (Quyết định số 688/ĐH ngày 14/7/1986 của Bộ ĐH-THCN). Ngày 24/12/2009, hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội đã ban hành Quyết định số 2233/QĐ-TCCB thành lập Trung tâm TTTV trên cơ sở Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội. Là một thư viện chuyên ngành Luật, trung tâm có chức năng thông tin và thư viện, phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, tư vấn pháp luật và quản lý của Nhà trường. Trung tâm tổ chức thu thập khai thác và sử dụng các nguồn tài liệu chuyên ngành luật và các chuyên ngành khác nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu của các đối tượng bạn đọc góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội. Với chức năng như vậy Trung tâm đề ra những nhiệm vụ cụ thể: 21
  22. +Tham mưu giúp Hiệu trưởng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển TTTV dài hạn và ngắn hạn; Tổ chức và điều phối toàn bộ hệ thống thông tin, tư liệu thư viện trong Nhà trường; +Bổ sung, phát triển nguồn lực thông tin trong nước và nước ngoài đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và tư vấn pháp luật; thu nhận lưu chiểu các tài liệu do trường xuất bản: các công trình nghiên cứu khoa học đã được nghiệm thu, tài liệu hội nghị, hội thảo, khoá luận, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, chương trình đào tạo, giáo trình, tập bài giảng và các dạng tài liệu khác của nhà trường; các ấn phẩm tài trợ, biếu tặng, tài liệu trao đổi giữa các thư viện; +Tổ chức xử lý, sắp xếp, lưu trữ, bảo quản, quản lý tài liệu và thông tin; xây dựng hệ thống tra cứu thông tin hiện đại, thiết lập mạng lưới truy cập và tìm kiếm thông tin tự động hóa; xây dựng, quản lý các cơ sở dữ liệu, các bộ sưu tập; biên soạn, xuất bản các ấn phẩm thông tin theo quy định của pháp luật; +Tổ chức phục vụ, hướng dẫn cho bạn đọc khai thác, tiếp cận, sử dụng hiệu quả các nguồn thông tin, tài liệu có trong thư viện và các sản phẩm, dịch vụ thông tin của Trung tâm. +Nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, các tiêu chuẩn về xử lý thông tin và các ứng dụng của công nghệ thông tin vào công tác TTTV; +Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học cho viên chức của Trung tâm để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả công tác; +Tổ chức, quản lý cán bộ, tài sản theo sự phân cấp của Hiệu trưởng; bảo quản, kiểm kê định kỳ vốn tài liệu, cơ sở vật chất kỹ thuật và các tài sản khác của thư viện; tiến hành thanh lý các tài liệu lạc hậu, hư nát theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước và của trường; +Mở rộng hợp tác với các cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế về lĩnh vực TTTV, tham gia các hoạt động về nghiệp vụ với hệ thống thư viện trong cả nước nhằm thúc đẩy sự nghiệp thư viện Việt Nam phát triển, liên kết hợp tác với các thư viện luật trong và ngoài nước để phối hợp bổ sung và trao đổi tài liệu, chia sẻ nguồn lực thông tin, dữ liệu biên mục, tổ chức dịch vụ mượn liên thư viện, dịch vụ cung cấp thông tin qua mạng; 22
  23. +Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị khác trong trường để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao +Thực hiện báo cáo định kỳ tháng, quý, năm và báo cáo đột xuất về tình hình hoạt động của Trung tâm TTTV với Ban giám hiệu và cấp có thẩm quyền. Hiện nay Trung tâm TTTV trường Đại học Luật Hà Nội đã xác định rõ vai trò của mình trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của các đối tượng người dùng tin trong nhà trường. Trung tâm Thông tin – Thƣ viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng Quốc hội Trung tâm Thông tin – Thư viện và Nghiên cứu Khoa học (TTTTTV&NCKH) thuộc Văn phòng Quốc hội, chịu sự quản lý của Văn phòng Quốc hội, nên hoạt động của TTTTTV&NCKH tập trung vào việc phục vụ các cơ quan của Quốc Hội, các đại biểu Quốc hội, các cơ quan và các vị lãnh đạo Đảng, Chính phủ thông qua việc bảo đảm thông tin đối với các vấn đề, lĩnh vực có liên quan tới việc lập pháp của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ (hoạt động của các Bộ, ngành, địa phương) trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó trung tâm còn bảo đảm thông tin cho các vị đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp Quốc hội. Triển khai và trực tiếp tham gia, chỉ đạo các hoạt động thông tin phục vụ các chương trình hoạt động của Quốc hội trên các phạm vi. Thực hiện việc trao đổi thông tin giữa các cơ quan thông tin, thư viện của Quốc hội các nước trong khuôn khổ đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt. Với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể, trung tâm ngày càng thể hiện được vai trò của mình, phát huy tốt nhất hiệu quả hoạt động, đáp ứng nhu cầu tin, nhu cầu nghiên cứu, hoạch định chính sách của cán bộ, lãnh đạo một cách cao nhất. Trung tâm có Thư viện là đơn vị chuyên trách quản lý tổ chức tài liệu, cung cấp cho người dùng tin là các đại biểu Quốc hội, các cán bộ Trung tâm. Thư viện trực thuộc Trung tâm. Thƣ viện Viện Nhà nƣớc và Pháp luật 23
  24. Viện Nhà nước và Pháp luật đã trải qua 40 năm xây dựng và phát triển. Bốn mươi năm - đó là cả một chặng đường dài không ngừng phấn đấu và trưởng thành về mọi mặt của tập thể cán bộ, viên chức, công chức Viện Nhà nước và Pháp luật. Nhiệm vụ chủ yếu hiện nay của Viện Nhà nước và Pháp luật là nghiên cứu cơ bản về hệ thống chính trị, Nhà nước và pháp luật; nghiên cứu những vấn đề lý luận vè thực tiễn về tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật; kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực Nhà nước và pháp luật, thực hiện đào tạo sau đại học theo quy định của pháp luật, tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và các cơ quan khác; tổ chức thẩm định và tham gia thẩm định về mặt khoa học các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các Bộ, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, thực hiện các tư vấn khoa học phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của Viện. Trải qua 40 năm xây dựng và phát triển của Viện Nhà nước và Pháp luật, sự quan tâm của lãnh đạo Viện, Phòng Thông tin – Tư liệu – Thư viện (nay là Thư viện) đã được hình thành và phát triển ngay từ những ngày đầu xây dựng Viện. Chức năng đầu tiên của Thư viện là thu thập tàng trữ và bảo quan tư liệu. Phòng Thông Tin – Tư liệu – Thư viện có nhiệm vụ sưu tầm, thu thập, bổ sung đầy đủ các tư liệu, sách, báo chí trong nước và nước ngoài phục vụ đắc lực cho việc nghiên cứu và giảng dạy của cán bộ trong Viện, nghiên cứu sinh, học viên cao học của Viện, cán bộ của một số Bộ, trường đại học có liên quan đến ngành luật. Ngay từ những ngày đầu mới hình thành, Thư viện đã có cán bộ chuyên trách, quản lý thư viện là cán bộ được đào tạo đúng ngành thư viện, do đó đã xây dựng và định hướng các hoạt động của thư viện theo đúng chuyên môn. Thư viện của Viện làm việc có nề nếp, tinh thần thái độ phục tốt, đảm bảo đúng nguyên tắc. Các cán bộ trong phòng đều là những người gắn bó lâu năm với Viện, đều được đào tạo phù hợp với công việc, là những người tâm huyết yêu nghề, có cố gắng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thư viện Viện đã thu hút được nhiều cán bộ nghiên cứu trong và ngoài Viện, các chuyên gia cho việc xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu tài liệu của Viện cũng như việc dịch, lược dịch, lược thuật tài liệu để phục vụ tốt công tác nghiên cứu đào tạo của Viện. 24
  25. Cùng với sự phát triển lớn mạnh của Viện, Thư viện đã từng bước xây dựng , phát triển nâng cao hiệu quả công tác phục vụ bạn đọc. Nhờ có sự định hướng hoạt động của Phòng Thông tin – Tư liệu – Thư viện một cách chính xác hiệu quả, phòng đã xây dựng và phát triển được nhiều loại hình công tác phục vụ bạn đọc: từ việc kịp thời giới thiệu vốn tư liệu phong phú, phát triển công tác dịch, lược dịch các tư liệu quý hiếm, việc tổ chức ra các tập thông tin chuyên đề phục vụ các cấp lãnh đạo đến việc phát triển công tác thư mục, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Thƣ viện Học viện Tƣ pháp Thư viện Học viện Tư pháp là một thư viện chuyên ngành, ra đời và phát triển cùng quá trình phát triển của Học viện Tư pháp với nhiệm vụ tổ chức và cung cấp các dịch vụ thông tin tư liệu phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập nghiên cứu khoa học (NCKH) của hơn 100 cán bộ, giảng viên và toàn bộ học viên của các lớp đào tạo Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên, Chấp hành viên, Công chứng viên làm việc và học tập tại Học viện Tư pháp. Thư viện có quy mô nhỏ và còn nhiều khó khăn nhưng Ban Giám đốc Học viện nói chung và Lãnh đạo Thư viện nói riêng luôn quan tâm phát triển vốn tài liệu, làm phong phú nguồn thông tin tri thức để phục vụ bạn đọc ngày càng tốt hơn. Nguồn tài liệu của Thư viện được bổ sung hàng năm là các đầu báo, đầu sách, tạp chí chuyên ngành, các công trình khoa học, băng ghi âm, ghi hình, các ấn phẩm luật học trong và ngoài nước. Đặc biệt, xuất phát từ đặc thù về đối tượng và lĩnh vực đào tạo nghề luật, được sự quan tâm và phối hợp của các cơ quan Tư pháp trong cả nước, Thư viện Học viện Tư pháp đã và đang sưu tầm, quản lý nhiều bộ hồ sơ của các vụ án điển hình để phục vụ cho công tác học tập và nghiên cứu của Học viện. Hồ sơ vụ án chiếm 50% số lượng các loại hình tài liệu có trong thư viện và cũng là tài liệu được bạn đọc sử dụng nhiều nhất vì theo nguyên lý đào tạo của Học viện Tư pháp, học viên sẽ học bằng cách áp dụng lý thuyết vào giải quyết các hồ sơ thực tế. Nhằm mục đích giúp bạn đọc dễ dàng tiếp cận nguồn tài liệu quý giá này, Thư viện Học viện Tư pháp sẽ từng bước cập nhật lên Website của Học viện. Hiện nay, Thư viện đã được trang bị máy tính nối mạng Internet để bạn đọc có thể tra cứu thông tin, phục vụ cho công việc học tập và nghiên cứu. Các cán bộ làm việc tại Thư viện không chỉ đơn thuần là quản lý và cho mượn tài liệu mà họ còn rất nhiệt tình trong việc giới thiệu với bạn đọc những tài liệu liên 25
  26. quan đến chuyên ngành học, hướng dẫn giúp bạn đọc dễ dàng tra cứu những tài liệu mà họ cần. Bằng những việc làm cụ thể và thiết thực đó, Thư viện Học viện Tư pháp phấn đấu trở thành một thư viện hiện đại với mong muốn được phục vụ bạn đọc ngày càng tốt hơn 1.3.2 Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ Trung tâm Thông tin – Thƣ viện Đại học Luật Hà Nội Trung tâm là một đơn vị trực thuộc Ban giám hiệu trong cơ cấu tổ chức của trường đại học Luật Hà Nội với bộ máy tổ chức gồm Ban giám đốc và các phòng chuyên môn. Hiện nay, Trung tâm có tổng số 19 cán bộ viên chức, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về TTTV và Luật học trong đó có 03 thạc sỹ TTTV (02 thạc sỹ chuyên ngành khoa học Thư viện,), 12 cử nhân chuyên ngành Thông tin – Thư viện, 4 cử nhân chuyên ngành Luật, 2 trung cấp. Ngoài ra, trung tâm còn có 2 cán bộ hợp đồng. Đội ngũ cán bộ thường xuyên được cử đi đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ ở trong và ngoài nước để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ. Đội ngũ cán bộ được tổ chức như sau: - Tổ nghiệp vụ : 03 cán bộ - Tổ thông tin : 02 cán bộ - Tổ phục vụ bạn đọc :13 cán bộ Ban giám đốc gồm một giám đốc là ThS. Lê Thị Hạnh và một phó giám đốc là Th.s Phạm Thị Mai. Trung tâm Thông tin – Thƣ viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng Quốc hội Hiện trung tâm có số lượng 39 cán bộ viên chức có trình độ chuyên môn về nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm TTTV, Công nghệ thông tin, Luật Tất cả cán bộ của Trung tâm đều có trình độ cử nhân trở lên. Thư viện là một bộ phận trực thuộc Trung tâm. Phó giám đốc trung tâm chịu trách nhiệm phụ trách Thư viện. Thư viện hiện có 6 cán bộ. Trong đó có 3 thạc sĩ, 2 cử nhân và 1 cao đẳng. 26
  27. Thƣ viện Viện Nhà nƣớc và Pháp luật Thư viện hiện có 6 cán bộ viên chức. Trong đó có 1 thạc sĩ và 5 cử nhân. Các cán bộ tại thư viện có trình độ chuyên môn về TTTV, luật và công nghệ thông tin. Thư viện được cơ cấu với 1 trưởng phòng phụ trách chung; 2 phó phòng: 1 phó phòng đảm nhiệm mảng thư viện, 1 phó phòng đảm nhiệm mảng thông tin tư liệu; 1 cán bộ phụ trách công nghệ, hệ thống mạng của thư viện; và 1 thủ thư. Thƣ viện Học viện Tƣ pháp Thư viện Học viện Tư pháp hiện chỉ có 3 cán bộ. Cả ba cán bộ đều có trình độ cử nhân ngành TTTV và ngành Luật. Thư viện được tổ chức với 1 thư viện viên chính phụ trách chung, 1 cán bộ quản lý mảng hồ sơ và tạp chí, 1 cán bộ phụ trách về sách giáo trình và sách tham khảo. Do đặc điểm quy mô của thư viện nên số lượng cán bộ của thư viện còn hạn chế. 1.3.3 Đặc điểm cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin Trung tâm Thông tin – Thƣ viện Đại học Luật Hà Nội Cơ sở vật chất, thiết bị và hạ tầng thông tin được trang bị đồng bộ, hiện đại: Hệ thống các phòng phục vụ bao gồm: phòng đọc trên 400 chỗ ngồi, phòng mượn sách giáo trình và tài liệu tham khảo, phòng tra cứu Internet và đào tạo người dùng tin, trung tâm dữ liệu tiếng Anh, hệ thống máy tính phục vụ bạn đọc gồm 122 máy được tính nối mạng Internet, khu vực Trung tâm TTTV được trang bị hệ thống mạng không dây (Wireless). Hệ thống giá sách, bàn ghế, ánh sáng, điều hoà nhiệt độ, các thiết bị sao chụp, in ấn tài liệu hiện đại. - Hệ thống máy tính gồm : 122 máy ( phòng đọc 1: 17 máy, khu vực hành lang tầng 1 : 20 máy, phòng đọc 2 : 71 máy, phòng đào tạo người dùng tin : 24 máy) - Hệ thống máy in , máy photocopy phục vụ việc in ấn và sao chụp tài liệu( phòng đọc 1: 02 máy, phòng đọc 2 : 2 máy,phòng đào tạo người dùng tin 1 máy) Với hệ thống cơ sở vật chất như vậy , Trung tâm đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ và đáp ứng nhu cầu của NDT tại Trung tâm. 27
  28. Trung tâm Thông tin – Thƣ viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng Quốc hội Trung tâm được trang bị hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng hiện đại. Đó là hệ thống trang thiết bị phục vụ bạn đọc mới, cùng các trang thiết bị như máy tính, máy in, máy photo được trang bị hiện đại, phục vụ người dùng tin. Diện tích phục vụ bạn đọc cũng được quan tâm chú trọng, mở rộng. Hiện Trung tâm đang xây dựng thêm một địa điểm đó là ở 37 Hùng Vương. Vì vậy, phòng đọc sẽ được tổ chức ở hai địa điểm là 37 Hùng Vương và 35 Ngô Quyền. Có phòng xử lý báo tạp chí, phòng CSDL sách và phòng bổ sung. Hàng năm, Trung tâm được ban lãnh đạo quan tâm đầu tư kinh phí để bổ sung tài liệu sách, báo, tạp chí triển khai các hoạt động của thư viện; mua sắm, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết để phục vụ cho công tác thư viện Thƣ viện Viện Nhà nƣớc và Pháp luật Thư viện của Viện chỉ có 5 máy tính trong đó có một máy tính phòng đọc và 4 máy tính phòng nghiệp vụ. Như vậy nhu cầu tra cứu của bạn đọc chỉ được sử dụng trên một máy tính, sẽ làm giảm khả năng cũng như thời gian tìm tin của bạn đọc. Hệ thống máy in, máy photo phục vụ bạn đọc cũng hạn chế. Tuy nhiên thì những hình thức phục vụ đó đều là miễn phí đối với bạn đọc. Diện tích phục vụ bạn đọc cũng hạn chế khi thư viện chỉ có 3 phòng: 1 phòng đọc, 1 phòng nghiệp vụ, 1 phòng kho. Với cơ sở vật chất thiếu thốn như vậy, phần nào đã làm giảm đi hiệu quả phục vụ bạn đọc của thư viện. Đây là một hạn chế đã và đang được các lãnh đạo, cán bộ của thư viện nghiên cứu và tìm ra giải pháp tốt nhất nhằm mục tiêu cuối cùng phục vụ, đáp ứng tốt nhu cầu người dùng tin. Thƣ viện Học viện Tƣ pháp Tương ứng với nguồn tài liệu và quy mô của Thư viện còn hạn chế, Thư viện học viện tư pháp có cơ sở vật chất nghèo nàn. Chỉ gồm hai phòng: Phòng đọc: Chủ yếu là sách tham khảo 28
  29. Phòng mượn: Chủ yếu là sách giáo trình, hồ sơ tình huống. Thư viện đang sử dụng phần mềm Vilas. Hệ thống máy tính: 6 máy với 1 máy chủ và 5 máy con. Hệ thống trả mượn sách tại thư viện đã được tự động hóa. Do điều kiện còn hạn chế nên người dùng tin chỉ có thể sử dụng mạng Lan, thư viện chưa có mạng wifi. 1.3.4 Đặc điểm nhu cầu tin của ngƣời dùng tin Trung tâm Thông tin – Thƣ viện Đại học Luật Hà Nội Như đã biết, số lượng người dùng tin tại Trung tâm chủ yếu là sinh viên (90%). Qua điều tra bảng hỏi, đã cho ra một số kết quả phản ánh phần nào nhu cầu tin của bạn đọc tại trung tâm: Nhu cầu sử dụng thông tin số về các lĩnh lực tri thức đa dạng và phong phú như về kinh tế, thương mại, lịch sử, địa lý nhưng mức độ thường xuyên và chủ yếu quan tâm nhất vẫn là Luật (90%). Mức độ quan tâm lĩnh vực trong ngành Luật hết sức đa dạng như Luật kinh tế, Luật hình sự, Luật dân sự, Luật hành chính nhà nước Lĩnh vực Mức độ (%) Rất quan tâm Quan tâm Ít quan tâm Không bao giờ Luật kinh tế 57 37 6 0 Luật hình sự 54 43 3 0 Luật dân sự 12 67 6 0 Luật hành chính NN 14 50 37 0 Luật quốc tế KD 26 33 40 0 Luật thương mại 33 43 16 0 Khác 6 26 23 0 Bảng 1: Nhu cầu tin lĩnh vực ngành Luật tại Trung tâm TTTV Đại học Luật 29
  30. Theo bảng thống kê, có thể thấy bạn đọc quan tâm hết sức đa dạng các lĩnh vực trong ngành Luật, tuy nhiên, nhiều nhất là Luật kinh tế và Luật hình sự. Chiếm tỉ lệ quan tâm ít nhất là Luật dân sự, Luật hành chính Nhà nước. Ý kiến bạn đọc đánh giá về mức độ đáp ứng nội dung tài liệu của cơ quan chủ yếu là rất tốt (3%) và tốt (77%). Có 20% bạn đọc đánh giá chưa tốt. Nhu cầu khai thác tài liệu Luật dưới dạng số chiếm 84%. Hình thức sử dụng tài liệu số cũng đa dạng như CSDL toàn văn (54%), CSDL thư mục (26%), CSDL dữ kiện (10%), khác (10%) Bạn đọc chủ yếu khai thác tài liệu số qua cổng thông tin của thư viện (70%), google(100%) Ngôn ngữ tài liệu bạn đọc thường sử dụng là tiếng Việt (100%) và tiếng Anh (36%). Trung tâm Thông tin – Thƣ viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng Quốc hội Do việc bảo mật của Trung tâm nên tác giả không được phát bảng hỏi khảo sát nhu cầu tin, mà chỉ được phép nghiên cứu tìm hiểu tài liệu, một số thông tin về nhu cầu tin của đại biểu Quốc hội khóa 12, phóng vấn cán bộ Trung tâm, để thấy được nhu cầu tin của người dùng tin tại Trung tâm. Lĩnh vực Đại biểu Quốc hội quan tâm phong phú đa dạng, đặc biệt là Pháp luật, Kinh tế, Chính trị, Xã hội, Y tế, Giáo dục. Hình thức thông tin được các đại biểu ưu tiên sử dụng là thông tin tham khảo chuyên đề, thông tin hỏi – đáp, CSDL Nhu cầu sử dụng ngôn ngữ tư liệu của các Đại biểu Quốc hội chủ yếu là tiếng Việt. Bên cạnh đó, sử dụng đa dạng các loại ngôn ngữ khác như Anh, Pháp, Nga, Đức Mức độ quan tâm của Đại biểu Quốc hội đối với nguồn thông tin như CSDL trên máy tính, thông tin chuyên đề, phương tiện thông tin đại chúng, hay qua tiếp xúc cử tri là chủ yếu. Dưới đây là kết quả bảng hỏi trong một công trình nghiên cứu cho thấy sự đánh giá về chất lượng thông tin, nghiên cứu do Trung tâm cung cấp: 30
  31. 100 96.8 90 80 64.8 70 ĐBQH 60 50 Thƣ ký 40 31.4 ĐBQH 30 22.4 23.2 20 5.5 10 0.4 0 0 Rất tốt Tốt Bình Chƣa tốt thƣờng Biểu đồ 1: Đánh giá về chất lượng thông tin, nghiên cứu do Trung tâm cung cấp Thƣ viện Viện Nhà nƣớc và Pháp luật Là một Thư viện với đối tượng phục vụ bạn đọc còn hạn chế, đặc điểm nhu cầu tin của bạn đọc tại Thư viện cũng có những nét riêng. Nhu cầu sử dụng thông tin số về các lĩnh lực tri thức cũng đa dạng và phong phú như về kinh tế, thương mại, lịch sử, địa lý và quan tâm nhất vẫn là Luật (66%). Mức độ quan tâm lĩnh vực về ngành Luật cũng đa dạng: Luật kinh tế, Luật hình sự, Luật dân sự Nhu cầu khai thác tài liệu Luật dưới dạng số chiếm 94% và đa dạng các hình thức sử dụng: CSDL toàn văn (20%), CSDL dữ kiện (36%), CSDL thư mục (30%) Trên cơ sở đó truy cập tài liệu số qua nhiều kênh khác nhau như cổng thông tin của thư viện khác(46%), goodle (70%), người quen cung cấp (36%) Lĩnh vực Mức độ (%) Rất quan tâm Quan tâm Ít quan tâm Không bao giờ Luật kinh tế 30 26 6 0 Luật hình sự 33 33 6 0 Luật dân sự 40 30 6 0 31
  32. Luật hành chính NN 33 33 0 0 Luật quốc tế KD 16 23 13 0 Luật thương mại 43 23 3 0 Khác 6 13 36 0 Bảng 2: Nhu cầu tin lĩnh vực ngành Luật tại Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật Bảng thống kê cho thấy, nhu cầu tin về lĩnh vực ngành Luật đa dạng và đồng đều. Chiếm tỉ lệ quan tâm cao nhất là Luật thương mại, Luật dân sự. Ít nhất là Luật quốc tế kinh doanh. Bạn đọc tại Thư viện sử dụng tài liệu bằng nhiều ngôn ngữ, nhưng chủ yếu là tiếng Việt và tiếng Anh, bên cạnh là một số ngôn ngữ khác như tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Nhật, tuy nhiên số lượng ít. 16% bạn đọc cho ý kiến đánh giá mức độ đáp ứng nội dung tài liệu của thư viện là rất tốt, 60% cho ý kiến tốt và 23% cho ý kiến chưa tốt. Thƣ viện Học viện Tƣ pháp Đối tượng người dùng tin tại Thư viện chủ yếu là cán bộ, giảng viên, học viên của Học viện. Một đối tượng nữa là các thành phần như Luật sư, Thẩm phán Nhu cầu khai thác thông tin về các lĩnh vực tri thức cũng đa dạng, và chú trọng vào ngành Luật (98%). Các lĩnh vực chuyên sâu trong ngành Luật đều được các đối tượng bạn đọc quan tâm với tần suất cao: Luật kinh tế, Luật hành chính nhà nước, Luật thương mại Lĩnh vực Mức độ (%) Rất quan tâm Quan tâm Ít quan tâm Không bao giờ Luật kinh tế 60 33 3 0 Luật hình sự 33 50 13 0 Luật dân sự 53 40 0 0 Luật hành chính NN 13 40 30 0 32
  33. Luật quốc tế KD 20 43 33 0 Luật thương mại 43 40 0 0 Khác 13 23 20 0 Bảng 3: Nhu cầu tin lĩnh vực ngành Luật tại Thư viện Học viện Tư pháp Cũng theo bảng thống kê thì Luật kinh tế và Luật dân sự là 2 lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất. Mức độ quan tâm ít nhất là Luật hành chính Nhà nước. Nhu cầu khai thác tài liệu Luật dưới dạng số chiếm 80%. Hình thức sử dụng tài liệu số cũng đa dạng như CSDL toàn văn (43%), CSDL thư mục (46%) Bạn đọc chủ yếu khai thác tài liệu số qua cổng thông tin của thư viện (56%), google(87%), qua người quen cung cấp (23%), cổng thông tin thư viện khác (16%). Ngôn ngữ tài liệu bạn đọc thường sử dụng là tiếng Việt (100%) và tiếng Anh (36%). 67% bạn đọc cho ý kiến mức độ đáp ứng nội dung tài liệu của cơ quan là tốt. Tuy nhiên có một số lượng lớn tới 33% cho ý kiến không tốt. Như vậy nhu cầu người dùng tin chưa được đáp ứng tốt nhất. 1.4 Các yếu tố tác động đến việc phát triển tài nguyên thông tin số 1.4.1 Chính sách phát triển nguồn tài nguyên thông tin số Xây dựng, phát triển tài nguyên số đang là xu hướng tất yếu ở tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Để xây dựng phát triển được nguồn tài nguyên số theo đúng nghĩa, cần có những đánh giá chính xác về thực trạng và nhu cầu của thư viện, từ đó có quan điểm thống nhất, có cách tiếp cận đúng đắn và lựa chọn những bước đi thích hợp. Chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước, của chính các cơ quan TTTV là một trong những yếu tố hàng đầu tác động tới hoạt động sứ mệnh này. Năm 2002, Chính phủ ra Nghị định số 72/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện. Tại chương IV điều 14 có viết: “Bảo đảm kinh phí cho các thư viện phát triển vốn tài liệu, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, theo hướng hiện đại hóa, từng bước thực hiện điện tử hóa, tự động hóa, xây dựng thư viện điện tử, tạo cảnh quan môi trường văn hóa nhằm nâng cao chất lượng người đọc, tổ chức khai thác, sử dụng vốn tài liệu, thông tin và các hoạt động khác của thư viện theo đúng chỉ tiêu, kế 33
  34. hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”. [2, tr.6]. Đây là một bước chuyển biến lớn trong việc định hướng cho các thư viện phát triển nguồn lực thông tin của mình. Nghị định ra đời đáp ứng theo nhu cầu phát triển của xã hội, khi mà sự phát triển của công nghệ thông tin đang tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội. Các văn bản pháp quy tiếp tục được ra đời nhằm cụ thể hóa hơn hoạt động phát triển thư viện cũng như khẳng định nhiệm vụ vai trò của thư viện hơn nữa. Tại chương IV điều 23 của Pháp lệnh Thư viện có viết: “Thư viện hoạt động bằng ngân sách nhà nước, được thu phí đối với các hoạt động dịch vụ sao chụp, nhân bản tài liệu, biên dịch phù hợp pháp luật về bảo vệ quyền tác giả, biên soạn thư mục, phục vụ tài liệu tại nhà hay gửi qua bưu điện và một số dịch vụ khác theo yêu cầu của người sử dụng vốn tài liệu thư viện”. [4, tr.8] Với thực tế công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại. Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trên cơ sở đó: Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ chính trị (khóa III) về “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước” được ban hành. Các văn bản pháp quy về công tác thư viện đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng – Nhà nước ta đối với sự phát triển của sự nghiệp thư viện nói chung và công tác phát triển tài liệu số nói riêng. Trên cơ sở đó, các cơ quan TTTV nói chung, và các thư viện ngành Luật nói riêng xây dựng nên những chính sách phát triển thư viện của cơ quan mình, hướng theo mục tiêu nhiệm vụ chiến lược của Đảng – Nhà nước. 1.4.2 Quy mô cơ quan thông tin - thƣ viện Vấn đề xây dựng, phát triển tài nguyên thông tin số hiện nay là nhiệm vụ chiến lược đối với các cơ quan TTTV. Tuy nhiên đây là nhiệm vụ khó khăn và nhiều thách thức. Bởi lẽ xây dựng, phát triển tài nguyên số và việc chia sẻ nó với bên ngoài đòi hỏi sự đầu tư không nhỏ về cả nguồn lực tiền bạc và con người. Các cơ quan TTTV hiện 34
  35. nay phải đánh giá được năng lực của mình để có thể quyết định chính xác. Yếu tố quy mô thư viện là yếu tố quan trọng quyết định việc có hay không việc xây dựng phát triển tài nguyên số. Điều này đúng không chỉ đối với các cơ quan TTTV nói chung mà cả các thư viện ngành Luật nói riêng. Nếu quy mô và tiềm lực của cơ quan còn hạn chế thì vấn đề xây dựng tài nguyên số là cả thách thức lớn trong một giai đoạn phát triển. Thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi các cơ quan TTTV cần nhìn nhận đánh giá đúng khả năng của cơ quan, để có thể ưu tiên phát triển các loại hình tài liệu nào, xây dựng tài nguyên theo các phương thức nào 1.4.3 Kinh phí hoạt động Một tác động mang tính sống còn đối với hoạt động xây dựng, phát triển tài nguyên số của các cơ quan TTTV – đó chính là kinh phí hoạt động. Thực tế cho thấy, bất kỳ hoạt động riêng lẻ nào trong quá trình xây dựng, phát triển tài nguyên số đều phụ thuộc vào tính khả thi của các nguồn kinh phí. Ngân sách tài chính của các cơ quan TTTV được cấp thường không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu của người dùng. Do vậy, ngân sách này cần phải đảm bảo tính cân đối giữa các loại hình/khổ mẫu tài liệu và hình thức truy cập nhằm đáp ứng nhu cầu người dùng. Chính vì vậy đòi hỏi các cơ quan TTTV cần lên kế hoạch để kinh phí bổ sung phát triển tài nguyên số của mình đáp ứng được. Điều này dựa trên sự phong phú và đa dạng của loại hình, chủ đề tài liệu đối với các chuyên ngành đào tạo khác nhau; Sự phân phối tài liệu hợp lý đảm bảo nhu cầu truy nhập thông tin. Kinh phí có những ảnh hưởng trực tiếp nhất định đến việc lựa chọn, đặt mua và bổ sung các nguồn tài nguyên thông tin đưa vào phục vụ. Hơn nữa, với nguồn kinh phí phụ thuộc từ nhiều nguồn khác nhau đòi hỏi cán bộ làm công tác bổ sung cũng như các nhà quản lý có cái nhìn toàn diện hơn trong việc đưa ra chính sách phát triển tài nguyên số của cơ quan mình một cách hợp lý để vẫn đáp ứng được nhu cầu thông tin của người dùng, khả năng duy trì hoạt động của cơ quan. Khi các cơ quan TTTV càng đảm bảo khả năng cung cấp thông tin của mình nhằm đáp ứng nhu cầu và duy trì người dùng, thì các nguồn tài chính sử dụng để mua tài liệu hay quyền truy cập thông tin càng trở nên hạn chế. Chính vì thế mà nghiên cứu định hướng chiến lược cần phải phù hợp với các phương thức, công cụ quản lý trong môi trường hiện tại. Thế nên đôi khi sự thiếu hụt về kinh phí không tránh khỏi, dẫn đến việc tỷ lệ hóa các bộ sưu tập với các mục đích và chính sách phục vụ khác nhau – trở thành một hoạt động quan trọng đối với người 35
  36. quản lý cũng như người trực tiếp làm công tác bổ sung tài liệu, quá trình bổ sung tài liệu. Như đã nói, xây dựng một thư viện số, tài nguyên số là vấn đề không nhỏ về nhân lực, vật lực. Đây là chiến lược phát triển mang lại hiệu quả trong tương lai, nhưng là sự đòi hỏi đầy thách thức của các yếu tố đảm bảo. Chi phí để xây dựng và duy trì phát triển tài nguyên số của các cơ quan là vấn đề cốt lõi hàng đầu. Bởi sự đòi hỏi của công nghệ hiện đại, phương thức hoạt động hiện đại và từ chính nguồn ngân sách được cấp còn eo hẹp. Chính vì vậy mà đối với tất cả các cơ quan TTTV nói chung, ngành Luật nói riêng cần hết sức chú tâm tới vấn đề này. Cần phải có chiến lược hoạch định kinh phí rõ ràng cũng như thu hút các nguồn tài trợ, tìm kiếm kinh phí hỗ trợ cho sự hoạt động. 1.4.4 Trình độ cán bộ Trong thư viện số, dù có sự hỗ trợ của công nghệ, nhưng các cán bộ thư viện phải là người quản trị những Sưu tập số, nguồn tài liệu số của cơ quan. Cán bộ thư viện phải trở thành những chuyên gia thông tin trong xã hội tri thức. Các thư viện số đòi hỏi phải có các cán bộ thư viện số. Các bộ sưu tập số hóa cần được chọn lọc, thu thập, tổ chức, tạo truy cập và bảo quản. Các dịch vụ của thư viện số cần được thực hiện đúng kế hoạch, thực hiện đúng hợp đồng và được giúp đỡ đầy đủ. Các máy tính là các công cụ quan trọng nhất trong xây dựng các thư viện số nhưng con người mới giúp cho các hoạt động trong thư viện kết hợp lại với nhau và duy trì hoạt động của thư viện. Nếu như trong thư viện truyền thống người cán bộ thư viện chỉ được biết đến như là người trông coi sách, có nhiệm vụ giữ sách và cho mượn sách thì trong thời đại thư viện số vai trò của cán bộ thư viện thay đổi hoàn toàn. Các công việc chính của cán bộ thư viện có thể vẫn là: thu thập tài liệu, thông tin, xử lý kỹ thuật tài liệu, làm phân loại, biên mục, tổ chức các hình thức phục vụ, nhưng chất của công việc đã thay đổi cơ bản. Người cán bộ thư viện được xem như là người tổ chức và chuyên gia thông tin, môi trường làm việc của họ là môi trường "số". Nhiệm vụ của một cán bộ thư viện số được xem xét với các góc độ sau: Thu thập tư liệu: Lựa chọn, bổ sung, xử lý, bảo quản, tổ chức phục vụ các bộ sưu tập số; Thiết kế cấu trúc kỹ thuật cho thư viện số; 36
  37. Biên mục: Mô tả nội dung tài liệu số (siêu dữ liệu); Xây dựng kế hoạch, hỗ trợ các dịch vụ số (định hướng thông tin, tư vấn chuyển giao ); Tạo lập các giao diện thân thiện với người sử dụng trong hệ thống mạng; Xây dựng các chính sánh, tiêu chuẩn liên quan đến thư viện; Thiết kế, duy trì và chuyển giao các sản phẩm thông tin chất lượng cao với giá trị gia tăng; Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với thông tin số trong môi trường mạng; Bảo đảm an ninh thông tin. Hình thức, phương thức phục vụ Cho dù phục vụ thư viện truyền thống hay thư viện số thì đối tượng và mục tiêu phục vụ vẫn là đáp ứng nhu cầu thông tin cho người dùng tin. Tuy nhiên, trong thư viện truyền thống bạn đọc không có nhiều dịch vụ để lựa chọn ngoài việc đến thư viện tra tìm tài liệu qua các tủ mục lục truyền thống, ghi phiếu yêu cầu và thông qua thủ thư mượn, đọc tài liệu in trên giấy. Trong thư viện số, thủ thư có thể cung cấp cho bạn đọc những dịch vụ đa dạng, linh hoạt bao gồm: Phân tích và xử lý các loại thông tin khác nhau; Thúc đẩy và tổ chức các giá trị tiềm ẩn trong mọi thông tin; Cung cấp những sản phẩm, dịch vụ thông tin có giá trị đúng lúc, đúng đối tượng. Chuyển giao thông tin đến người dùng và cung cấp các dịch vụ chuyên biệt có định hướng Yêu cầu kiến thức, năng lực Có kiến thức tổng hợp: để đáp ứng được yêu cầu của thư viên số, tài liệu số, người cán bộ thư viện cần có những kiến thức cơ bản về các ngành khoa học thư viện, khoa học thông tin, công nghệ thông tin, ngoại ngữ và một số chuyên ngành cụ thể khác Khả năng nắm bắt thông tin cao: + Có phản ứng nhanh nhạy với các nguồn thông tin khác nhau; 37
  38. + Có kỹ năng trong việc tìm kiếm thông tin; + Có niềm đam mê trong công việc, ý thức xây dựng và cung cấp thông tin; + Có kỹ năng xử lý làm tăng giá trị của thông tin; + Có khả năng sàng lọc và đánh giá thông tin; + Có khả năng thu thập, bổ sung; + Có khả năng tổ chức, quản lý thông tin; + Có khả năng phổ biến thông tin đến người sử dụng đúng lúc, đúng đối tượng; + Năng động, sáng tạo, tinh thần đồng đội cao, có tầm nhìn chiến lược, biết xây dựng dự án. Nội dung Cán bộ thƣ viện truyền thống Cán bộ thƣ viện số Chuyên gia thông tin Vai trò trong xã hội Thu thập, phổ biến tư liệu Định hướng thông tin Môi trường làm việc Thư viện truyền thống Thư viện số Hệ thống kiến thức Đơn lẻ Tổng hợp Bất cứ người dùng kết nối Nhóm độc giả Cố định mạng máy tính Cơ sở dịch vụ Bên trong toàn nhà thư viện Trên hệ mạng máy tính Nội dung công việc Đơn điệu Đa dạng, phong phú Cách thức phục vụ Bị động Chủ động Đối tượng làm việc Tài liệu in Các bộ sưu tập số Định hướng thông tin, tư vấn Nội dung công việc Gửi giao tài liệu và chuyển giao công nghệ hiện đại 38
  39. Trình độ làm việc Thấp ( Ngoại ngữ và CNTT ) Cao, chuyên nghiệp Bảng 4: Sự khác nhau giữa thủ thư số và thủ thư truyền thống Mặc dù các yêu cầu chung đối với các thư viện số hóa cũng giống như với các bộ sưu tập phi số hóa, nhưng để tổ chức một bộ sưu tập số thì không hề giống với việc tổ chức một bộ sưu tập in. Nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với các cán bộ thư viện số hiện nay không hề giống với những gì họ đã được học ở trường. Hơn nữa đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thì kiến thức học được hôm nay sẽ sớm bị lạc hậu nay mai. Vì vậy người cán bộ thư viện cần có các khả năng cá nhân đặc biệt (do bẩm sinh) hơn là chuyên môn nghiệp vụ (do học tập tích lũy). Các cán bộ thư viện phải thật nhạy bén với những thay đổi, họ phải học tập (có chọn lọc) và thực hành thường xuyên. Họ phải nhiệt tình với học tập, phải tự rèn luyện và có tinh thần sẵn sàng đối mặt với những thách thức. Hơn thế nữa, họ phải là những người có năng lực về công nghệ. Những cán bộ đáp ứng được các yêu cầu trên chính là những người sẽ áp dụng các phương pháp mới, tiên tiến để hoàn thành nhiệm vụ truyền thống của ngành thư viện: chọn lọc, thu thập, tổ chức, cung cấp truy cập, và bảo quản nguồn lưu trữ trí tuệ và nghệ thuật của loài người. Lĩnh vực chuyên môn thư viện đang rất cần có các chuyên viên trẻ, mới tốt nghiệp vì hiện nay rất nhiều thư viện truyền thống đang chuyển đổi sang thư viện số. Các công việc trong thư viện số sẽ thu hút đội ngũ chuyên viên thư viện kế cận. Nhiệm vụ chính của các cán bộ thư viện số là quản lý, lãnh đạo và các công tác liên quan đến trang web. Nhiêm vụ quản lý tập trung vào phần lập kế hoạch và đánh giá các dự án thư viện số, trong khi công tác lãnh đạo và chuyên môn trong lĩnh vực thư viện số đòi hỏi các cán bộ thư viện số phải cộng tác với nhau và cả với người sử dụng. Các cán bộ thư viện số hiện nay rất chú trọng các kỹ năng về thông tin và quản lý dự án để họ có thể chứng minh khả năng của mình trong các dự án hợp tác và làm việc theo nhóm. Các thư viện số sẽ vẫn thay đổi không ngừng nên các cán bộ thư viện số phải có khả năng thích ứng được với sự thay đổi đó. Với thực tế như vậy, một cán bộ thư viện số cần đáp ứng được 2 yêu cầu: một là phải có các kỹ năng như là kỹ năng về thông tin, về phân tích xu hướng; hai là phải tiếp 39
  40. tục nâng cao trình độ thông tin và kỹ thuật về tổ chức và công tác thực tiễn trong hoạt động xây dựng các thư viện số, các nguồn tài nguyên số. 1.4.5 Vấn đề công nghệ Khi xây dựng, phát triển tài nguyên số, việc lựa chọn công nghệ để tiến hành rất quan trọng bởi vì nó là công cụ đắc lực giúp ta thực hiện các công việc trong quy trình tạo lập và vận hành. Do đó công nghệ phải đáp ứng các yêu cầu: Là công cụ, môi trường để đảm bảo các tài liệu số hóa sau khi được tạo lập sẽ dễ dàng, thuận tiện cho người tiếp cận. Có đủ độ tin cậy cho người quản trị và kỹ thuật viên trong quá trình tạo lập, bảo quản và cung cấp dữ liệu trong quá trình hoạt động của tài liệu số. Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chuẩn nghiệp vụ TTTV. Dễ dàng trao đổi dữ liệu với các chuẩn khác, có công cụ sao lưu an toàn dữ liệu. Dựa theo các yêu cầu trên, để nguồn tài nguyên số phát huy được hết vai trò của mình, các cơ quan TTTV nói chung, ngành Luật nói riêng khi tạo lập tài nguyên số cần phải có cơ sở hạ tầng sau: - Phải có hệ thống mạng Internet được kết nối Internet với đường truyền đủ đáp ứng cho số người dùng tối thiểu của thư viện. - Hệ thống máy chủ đủ mạnh để đáp ứng việc lưu trữ, bảo quản, cung cấp dữ liệu và quản lý người dùng và các phần mềm hệ thống có bản quyền. - Trang web đăng tải và là cổng truy cập của người dùng vào bộ sưu tập số, tài liệu số của cơ quan. - Phần mềm quản lý tài nguyên số 1.4.6 Vấn đề bản quyền Trong một thư viện truyền thống, quyền sở hữu tài liệu là quan trọng; nhưng trong lĩnh vực lưu hành tài nguyên điện tử, quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể là quyền tác giả hay bản quyền là quan trọng hơn. 40
  41. Sưu tầm thông tin và làm cho thông tin đó trở nên phổ biến hơn đối với những người khác là một điều liên quan đến vấn đề xã hội, và những người xây dựng thư viện số, xây dựng tài nguyên số phải am hiểu quyền sở hữu trí tuệ để hành động một cách có trách nhiệm và đúng luật xung quanh những ứng dụng cụ thể của họ. Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, những tài liệu dưới đây không được bảo hộ bản quyền: - Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005; Chương I, Mục 1, Điều 15 “Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả: 1. Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin. 2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó. 3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu”[3] - Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005: Điều 27, khoản (a), (b) “ Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết” [3] Việc số hoá tài liệu cho thư viện số là không vi phạm bản quyền nếu: Tài liệu nằm ngoài bản quyền hoặc tài liệu được bảo hộ bản quyền nhưng số hoá để sử dụng với mục đích phi thương mại trong phạm vi hạn chế của thư viện, trường học, viện nghiên cứu. Bản thân việc số hoá tài liệu không vi phạm bản quyền, việc vi phạm hay không phụ thuộc vào mục đích sử dụng (chẳng hạn dùng với mục đích thương mại làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người nắm giữ bản quyền là vi phạm) và phạm vi sử dụng (ví dụ nếu phổ biến rộng rãi ra công chúng, ngoài phạm vi thư viện là vi phạm). Thư viện số, nơi chứa những tài nguyên số có thể làm cho việc truy cập trở nên rộng rãi hơn thư viện truyền thống. Chính điều này đã nảy sinh ra nhiều vấn đề: truy cập thông tin trong thư viện số, nói chung ít bị kiểm soát hơn trong thư viện thường. Đưa thông tin vào thư viện số là có khả năng làm cho thông tin đó trở nên phổ biến ngay đối với một số lượng độc giả hầu như vô hạn. Đối với người sử dụng, thông tin trên thế giới có thể truy cập bất cứ nơi đâu. Đối với tác giả, một độc giả có trình độ hơn có thể tiếp cận được nhiều thông tin hơn trước. Đối với nhà xuất bản, nhiều thị trường mới mở ra vượt qua mọi giới hạn địa lý. 41
  42. Nhưng có một nghịch lý, tác giả và nhà xuất bản hỏi có bao nhiêu cuốn sách sẽ được bán nếu những thư viện số nối mạng khiến cho bản điện tử của cuốn sách đó được truy cập rộng rãi trên thế giới? Cơn ác mộng cho họ khi câu trả lời là một. Có bao nhiêu sách sẽ được xuất bản trực tuyến nếu toàn bộ thị trường có thể bị phá hủy bởi việc bán một bản điện tử cho một thư viện công cộng? Nhà xuất bản sẽ thông qua công nghệ và phương tiện luật pháp để thực thi chính sách hạn chế việc truy cập đến những thông tin họ bán. Sở hữu một cuốn sách chắc chắn không phải là xác lập được quyền sở hữu đối với tài liệu đó theo nghĩa của bản quyền. Mặc dù có nhiều bản của một tài liệu nhưng chỉ có một bản quyền. Điều này không chỉ áp dụng cho bản in mà cả cho bản điện tử, dù được số hóa từ bản in hay được tạo nên dưới dạng điện tử từ đầu. Khi mua một cuốn sách, ta có thể bán lại, nhưng chắc chắn không mua được quyền tái phân phối. Quyền đó tùy thuộc vào bản quyền. Muốn phát triển tài liệu số cần phải có những hành động để tránh vi phạm bản quyền. Cần phải cân nhắc việc số hóa các tài liệu là một việc làm có lợi ích chung mà không xâm phạm tới quyền lợi của người khác. Đây là một điều khó về mặt pháp lý. Và nếu không chắc chắn với điều cân nhắc trên thì ta phải tiến hành xin phép để được cấp phép thực hiện số hóa. 1.4.7 Vấn đề liên quan đến ngƣời dùng tin Phát triển tài nguyên số cuối cùng cũng là đáp ứng, phục vụ tốt nhất nhu cầu người dùng tin. Vì vậy người dùng tin là động cơ xây dựng và phát triển và cũng là người thẩm định cuối cùng tài nguyên số của thư viện. Bởi lẽ đó, khi tiến hành xây dựng và phát triển tài nguyên số cần nghiên cứu nhu cầu, trình độ nhận thức của nhóm người dùng tin chức năng của mình để xác định diện ưu tiên trong bộ sưu tập số. Đó là việc nghiên cứu các vấn đề: - Nhu cầu tin: + Hứng thú đọc: Nghiên cứu những vấn đề, lĩnh vực khoa học người dùng tin quan tâm. + Sở thích tin: Nghiên cứu thể loại, phương thức, định dạng nguồn tin số hóa mà người dùng tin quan tâm. 42
  43. + Phương thức khai thác: Nghiên cứu phương thức người dùng tin thường khai thác nguồn tin số hóa, các kênh thông tin số hóa người dùng tin thường sử dụng - Trình độ: + Trình độ tin học: Liên quan đến khả năng tìm kiếm, khai thác nguồn tin số hóa của người dùng tin. + Trình độ ngoại ngữ: Liên quan đến việc xác định tỷ lệ tài liệu tiếng nước ngoài trong tài liệu số. + Trình độ chuyên môn: Liên quan đến việc xác định mức độ chuyên sâu của nguồn tin số hóa. - Ngoài ra, cũng nên tìm hiểu độ tuổi, mức sống, công việc của người dùng tin để hỗ trợ định hướng việc xây dựng và phát triển sưu tập số, tài nguyên số. Trên cơ sở những vấn đề này, các cơ quan TTTV khi tiến hành phát triển tài nguyên số cần chú tâm nghiên cứu những người dùng tin của mình, để có thể làm giàu thêm những bộ sưu tập số có chất lượng phù hợp đáp ứng theo nhu cầu của người dùng tin 1.4.8 Vấn đề kiểm duyệt Một yếu tố khác cần đề cập cũng có ảnh hưởng quan trọng tới quá trình xây dựng, phát triển tài nguyên số, đó chính là các cấp quản lý, kiểm duyệt quyết định vào hoạt động lựa chọn tài liệu ban đầu và bổ sung tài liệu. Với cơ chế hoạt động hiện nay, quá trình lựa chọn và bổ sung tài liệu khi tiến hành xây dựng tài nguyên số phải đi qua các thủ tục hành chính, phê duyệt từ các cấp và phòng ban liên quan. Điều đó cũng có những tác động đến chính sách phát triển trên cơ sở các quan điểm khác nhau của các đối tượng này lên loại và nội dung tài liệu dự kiến được bổ sung số hóa. Ngoài ra, họ cũng góp phần tác động đến nguồn kinh phí được cấp nhằm phát triển tài nguyên thông tin của mỗi thư viện. Trên cơ sở các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý và phát triển bộ sưu tập, nhằm mục đích ngày một nâng cao chất lượng hoạt động thông tin của đơn vị, đảm bảo tính hiệu quả của tài nguyên thông tin trong bối cảnh phát triển chung; đòi hỏi các cơ quan TTTV cần thiết xây dựng cho mình định hướng chiến lược phát triển nguồn tài nguyên số một cách hợp lý. Định hướng đó cần đáp ứng được nhu cầu thông tin của các nhóm đối tượng người dùng, cũng như phù hợp với những thay đổi phát triển 43
  44. chung của môi trường, vấn đề tài chính, đối tượng người dùng trong môi trường cơ quan tồn tại, hoạt động và phát triển. CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN THÔNG TIN SỐ CỦA CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN THƢ VIỆN NGÀNH LUẬT Ở HÀ NỘI 2.1 Đặc điểm vốn tài liệu của các cơ quan thông tin – thƣ viện 44
  45. 2.1.1 Đặc điểm vốn tài liệu truyền thống Trung tâm Thông tin – Thƣ viện Đại học Luật Hà Nội Tổng số vốn tài liệu: 24593 đầu bản; 195943 bản ấn phẩm. Cụ thể như sau: + Sách giáo trình: 331 đầu ấn phẩm; 70632 bản ấn phẩm + Sách tham khảo: 8155 đầu ấn phẩm; 107472 bản ấn phẩm + Luận văn, luận án: 3829 đầu ấn phẩm, 5456 bản ấn phẩm + Đề tài nghiên cứu khoa học: 127 đầu, 165 bản + Bài trích: 12037 + Báo tạp chí tiếng Việt: 51 loại + Báo tạp chí tiếng nước ngoài: 40 loại Nguồn tài liệu của Trung tâm nhìn chung phong phú, đa dạng, phục vụ hữu ích cho việc nghiên cứu và học tập của sinh viên. Nguồn tài liệu này được cập nhật và bổ sung hàng năm. Trung tâm Thông tin – Thƣ viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng Quốc hội Trung tâm có vốn tại liệu khá đa dạng, phong phú, nhưng với quy mô trung bình. Tổng số vốn tài liệu của Trung tâm khoảng 45.000 cuốn sách các loại. Tuy nhiên bộ sưu tập tài liệu của Trung tâm còn bao gồm nguồn tài liệu chuyên biệt về công tác lập pháp, thông tin về các kỳ họp Quốc hội và các nguồn thông tin Pháp luật khác. Thích ứng cùng sự phát triển của ngành, với các khung phân loại phổ biến mang nhiều ưu điểm trên thế giới, Trung tâm hiện cũng đã sử dụng bảng phân loại DDC từ năm 2010. Thƣ viện Viện Nhà nƣớc và Pháp luật Nhìn chung, các kho sách, báo chí, tư liệu, luận án, luận văn của Viện là khá lớn và có giá trị. Tổng số tên tài liệu: 20000, trên 24000 bản tài liệu bao gồm sách tiếng Việt: trên 7000 cuốn; sách tiếng Nga: 4000 cuốn; sách tiếng Pháp: 516 cuốn, sách tiếng Đức: 492 cuốn, sách tiếng Anh: 494 cuốn; tài liệu: 2490 cuốn, luận án: 558 cuốn, thư mục: 98 tập, tạp chí trong và ngoài nước (30 tên): 5260 tập. Ngoài ra, thư viện còn có 45
  46. kho văn bản Pháp luật của Việt Nam từ năm 1945 đến nay bao gồm 310 tập. (Đây là kho tài liệu quý nhưng đã cũ nát nhiều, đang cần có chế độ bảo dưỡng, xử lý kịp thời). Phòng Thông tin – Tư liệu – Thư viện đã xây dựng được thư mục “Hệ thống pháp luật Mỹ”. Thư mục bao gồm một số sách, tài liệu, các bài báo, tạp chí gồm tiếng Việt, tiếng Nga, Anh hiện đã có trong thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật nhằm giúp đỡ cho cán bộ nghiên cứu đề tài có thêm những thông tin chung về lịch sử nhà nước và xã hội Hoa Kỳ, về hệ thống pháp luật và đời sống pháp lý Hoa Kỳ có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các hoạt động thương mại. So với các thư viện ngành Luật và các thư viện khác của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, có thể thấy: thời kỳ trước, Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật có nguồn tư liệu khá phong phú, đa dạng và hiệu quả hoạt động cao. Hiện nay các thư viện xây dựng sau nên được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, kỹ thuật, có dự án lớn do đó phát triển, có nguồn tư liệu nước ngoài phong phú hơn rất nhiều. Còn thư viện của Viện Nhà nước và Pháp luật chưa được đầu tư thỏa đáng. Đây là vấn đề cần đặt ra cho lãnh đạo Viện trong quá trình phát triển Thư viện. Thƣ viện Học viện Tƣ pháp Vốn tài liệu tại Học viện Tư pháp có thể nói là còn nghèo nàn. Là một thư viện chuyên ngành nên nguồn tài liệu chủ yếu có nội dung về pháp luật. Mặc dù số lượng tài liệu còn hạn chế, nhưng nhìn chung đáp ứng được nhu cầu đặc thù của người dùng tin của học viện – với đặc thù của Trường là đào tạo cán bộ. Những tài liệu như: Pháp luật thừa kế, Ngân hàng pháp luật, Pháp luật chứng khoán, Pháp luật sở hữu trí tuệ, Pháp luật thương mại, Pháp luật lao động, Pháp luật đầu tư và đấu thầu, Pháp luật xây dựng, Pháp luật đất đai nhà ở, Pháp luật cầm cố thế chấp, Pháp luật cạnh tranh, Pháp luật hộ tịch và cư trú, Pháp luật hôn nhân và gia đình, Pháp luật doanh nghiệp, Tổ chức tòa án, Thẩm phán, Pháp luật tố tụng dân sự, Thi hành án dân sự, Pháp luật dân sự, Pháp luật hợp đồng và mẫu hợp đồng, Pháp luật bảo hiểm xã hội, Pháp luật thuế, Pháp luật kế toán tài chính, ngân sách, Pháp luật hải quan xuất nhập khẩu, Pháp luật cơ quan lập pháp, Pháp luật hành chính, Khiếu nại tố cáo, Pháp luật cán bộ công chức, Pháp luật tố tụng hình sự đều được thư viện sưu tầm để phục vụ bạn đọc tốt nhất. Có thể chia nguồn tài liệu tại Thư viện Học viện Tư pháp thành 3 dạng tài liệu như sau: Sách tham khảo: có 2500 đầu sách tương ứng với 14000 cuốn. 46
  47. Sách giáo trình: 45 đầu sách tương ứng với 13500 cuốn Nguồn tài liệu đặc thù: Hồ sơ tình huống với 240 đầu tương ứng với 81600 hồ sơ. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, đặc thù của thư viện. Khác biệt với các cơ quan TTTV chuyên ngành khác. Đến với một số thư viện ngành Luật thì nguồn tài liệu đặc thù này không có, thông qua khảo sát, phỏng vấn bạn đọc cho thấy hồ sơ tình huống là những nguồn tin, nguồn tài liệu quý giá phục vụ đắc lực cho bạn đọc khi nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề về pháp luật, bên cạnh đó là một cơ sở thực tế giúp bạn đọc cọ xát, bước đầu làm quen với môi trường của ngành luật. Đây là nguồn tài liệu đóng vai trò quan trọng đối với sinh viên, học viên, cán bộ của các thư viện chuyên ngành pháp luật nói chung và đối với người dùng tin của thư viện Học viện Tư pháp nói riêng. 2.1.2 Đặc điểm vốn tài liệu hiện đại Trung tâm Thông tin – Thƣ viện Đại học Luật Hà Nội Trung tâm đã xây dựng được một nguồn tài liệu hiện đại phong phú và chất lượng. Trung tâm chia ra hai loại cơ sở dữ liệu (CSDL): + Cơ sở dữ liệu thư mục do trung tâm xây dựng gồm sách, giáo trình, luận án, luận văn, bài trích tạp chí với 17926 biểu ghi. Địa chỉ truy cập: + Cơ sở dữ liệu luật quốc tế trực tuyến West Law, Heinonline, Eline@Vietnam, cơ sở dữ liệu học tiếng Anh trực tuyến: Discoveries. Nhìn chung bao gồm tài liệu truyền thống và tài liệu điện tử đã đáp ứng được một phần lớn nhu cầu tin của người dùng tin. Trung tâm Thông tin – Thƣ viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng Quốc hội Trung tâm là nơi xuất bản các nguồn thông tin luật pháp như tạp chí điện tử, các bản giới thiệu hệ thống văn bản luật mới ban hành. CSDL tại trung tâm được chia thành các dạng: CSDL sách; CSDL báo, tạp chí; CSDL dữ kiện, đề tài khoa học. Số lượng cụ thể như sau: 47
  48. CSDL sách: 13500 biểu ghi CSDL báo, tạp chí: 25000 biểu ghi CSDL dữ kiện đề tài khoa học: 4000 biểu ghi CSDL sách CSDL báo, tạp chí CSDL đề tài khoa học Biểu đồ 2: CSDL tại TTTTTV&NCKH của Văn phòng Quốc hội Thƣ viện Viện Nhà nƣớc và Pháp luật Hiện nay thư viện của Viện đang triển khai từng bước xây dựng thư viện hiện đại, nhằm tạo lập một công cụ mạnh, trợ giúp đắc lực cho hoạt động nghiên cứu khoa học và giảng dạy sau đại học về Nhà nước và pháp luật. Thư viện đã xây dựng và tạo nguồn lực thông tin ngày càng dồi dào và mang tính cập nhật hơn. Nhiều cơ sở dữ liệu khoa học về Nhà nước và Pháp luật đã được xây dựng (khoảng 19000 biểu ghi). Trong kỷ nguyên của công nghệ thông tin, thư viện điện tử và thư viện số là một mô hình mà nhiều quốc gia đã xây dựng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người sử dụng thông tin. Do vậy, Thư viện đã và đang, sẽ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cấp Bộ: “Tin học hóa công tác thông tin – tư liệu – thư viện”. Kho sách của Viện đã được tiến hành tin học hóa với 19000 biểu ghi: Toàn bộ kho sách tiếng Việt đã được tin học hóa: 4500 biểu ghi (có tóm tắt nội dung cuốn sách) Toàn bộ kho sách tiếng Pháp: 516 biểu ghi (có dịch và tóm tắt nội dung cuốn sách) Toàn bộ kho sách tiếng Nga: 2300 biểu ghi (có dich và tóm tắt nội dung cuốn sách) Kho sách tiếng Anh: 460 biểu ghi (có dịch và tóm tắt nội dung cuốn sách) 48
  49. Kho tư liệu: 2050 biểu ghi (có tóm tắt nội dung) Kho Luận án: 500 biểu ghi (có tóm tắt nội dung). Báo và tạp chí tiếng Việt từ năm 1999 đến nay đều được tin học hóa (tạp chí có tóm tắt nội dung): 7800 biểu ghi. Có thể thấy vốn tư liệu của thư viện là tài sản quý giá, là tiềm lực, là sức mạnh là niềm tự hào của thư viện Thƣ viện Học viện Tƣ pháp Với đặc thù hoạt động và quy mô của Thư viện, việc xây dựng phát triển tài liệu hiện đại của thư viện vẫn còn hạn chế. Thư viện mới bước đầu biên mục các biểu ghi với các tài liệu là các sách giáo trình, các tài liệu hỏi đáp về luật pháp Tuy nhiên số lượng chưa được nhiều và chưa được thống kê cụ thể. Thư viện có nguồn tài liệu là các mẫu văn bản, hồ sơ liên quan đến ngành Luật được cập nhật trực tiếp trên trang web của Học viện. Cũng tại đây, ấn phẩm Tạp chí Nghề luật cũng được số hóa và đưa lên trang web để cho học viên, bạn đọc tra cứu. Tất cả nguồn tài liệu điện tử này chỉ được tra cứu trực tiếp trên máy tính của Thư viện. Hiện thư viện chưa thể truy cập trên mạng Internet từ xa, bạn đọc muốn tìm và download tài liệu thì phải đến thư viện. Đây cũng là một hạn chế của thư viện. 2.2 Phƣơng thức phát triển tài nguyên thông tin số của các cơ quan thông tin – thƣ viện ngành Luật 2.2.1 Nguồn mua tài nguyên thông tin số Phát triển tài liệu số, có thể bằng nhiều phương thức khác nhau. Mỗi phương thức lại có những ưu và nhược điểm của nó. Tùy từng điều kiện, đặc thù của cơ quan, từ đó lựa chọn những phương thức phát triển tài nguyên thông tin số cho thư viện mình. Nguồn mua tài nguyên số là một trong những phương thức đã được các cơ quan TTTV thường sử dụng. Việc mua tài nguyên thông tin điện tử của các cơ quan đơn vị đang xuất bản là một sự lựa chọn của các cơ quan TTTV. Bởi lẽ hiện nay hầu hết các ấn phẩm đều vừa xuất bản trên giấy, vừa tồn tại dưới dạng điện tử và cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, xu hướng thế giới số, rất nhiều cơ quan TTTV đã tận dụng và phát huy 49
  50. tiệm lực này. Trên thế giới đã có rất nhiều Trung tâm TTTV xây dựng được thư viện số chứa những bộ sưu tập số quy mô và chất lượng. Các bộ sưu tập số được xây dựng không chỉ nhằm mục đích phục vụ người dùng tin của thư viện mà bên cạnh đó là mục đích hướng tới những cộng đồng người dùng tin hoặc người dùng tin toàn cầu. Để thực hiện được mục đích này cũng như đáp ứng được nhu cầu người dùng tin, các hoạt động mua hay trao đổi tài nguyên số được hình thành. Với phương thức này, các cơ quan TTTV có thể tiết kiệm được công sức cũng như thời gian để có thể đưa tài nguyên số tới bạn đọc của cơ quan mình một cách nhanh và hiệu quả nhất. Đây là một phương thức cần được phát triển trong các thư viện khi tiến hành xây dựng nguồn tài nguyên số của cơ quan mình. Với nguồn mua tài nguyên số trong hoạt động phát triển tài nguyên số, hiện tại đã có 2 cơ quan TTTV tiến hành hoạt động này. Đó là Trung tâm TTTV Đại học Luật Hà Nội và TTTTTV&NCKH của Văn phòng Quốc hội. Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Luật Hà Nội: Trung tâm đã tiến hành mua 3 CSDL luật quốc tế trực tuyến: West Law Heinonline Eline@Vietnam Đây là những CSDL đã được lựa chọn phù hợp với nhu cầu của người dùng tin tại Trung tâm. Trên cơ sở đó, Trung tâm mua quyền truy cập, và người dùng tin có thể tra tìm và sử dụng nguồn tin tại các CSDL này. Để mua được quyền truy cập 3 CSDL trực tuyến này, kinh phí là một vấn đề khó khăn. Và dự án của tổ chức SIDA – Tổ chức phát triển quốc tế của Thụy Điển đã tài trợ cho Trung tâm mua quyền truy cập 3 CSDL này. Hoạt động này được bắt đầu từ những năm 1998, 1999 đến nay. Các CSDL này cung cấp những tài liệu luật của các nước phương Tây, và trên thế giới. Tại đây chứa những CSDL toàn văn về sách, luận án, luận văn hay các bài nghiên cứu về ngành Luật. Để có thể truy cập và sử dụng nguồn tin trên các CSDL này, bạn đọc phải đến phòng máy của thư viện để truy cập. Thư viện được cấp một số account để cung cấp tới bạn đọc sử dụng. Bạn đọc chỉ có thể truy cập khi sử dụng máy tính tra cứu của Trung tâm, tại phòng tra cứu 3 CSDL này theo quy định. Việc bạn đọc truy cập tại các CSDL 50
  51. này là miễn phí, tuy nhiên khó khăn ở đây là đòi hỏi bạn đọc phải có vốn tiếng Anh tốt mới có thể sử dụng hiệu quả nguồn tin vì tất cả nguồn tin trong 3 CSDL được Trung tâm mua đều được viết và xây dựng bằng tiếng Anh. Từ khi mua quyền truy cập các CSDL này, bạn đọc tại Trung tâm đều hài lòng với chất lượng của các CSDL. Tuy nhiên do kinh phí từ dự án hỗ trợ tới hiện tại đã hết, nên Trung tâm chỉ có thể duy trì quyền truy cập các CSDL này đến năm 2012. Để có thể tiếp tục sử dụng các CSDL luật này, Trung tâm cần có nguồn kinh phí hỗ trợ lớn khác. Có thể từ các dự án tài trợ, từ các tổ chức hoặc từ kinh phí nhà trường phân bổ để hỗ trợ cho Trung tâm có thể tiếp tục mua quyền truy cập các CSDL này, hoặc các CSDL khác nhằm phục vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu bạn đọc hiện nay. Trung tâm Thông tin – Thư viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng Quốc hội Hoạt động mua tài liệu số tại Trung tâm cũng đã được triển khai. Đó là những bản sách về chính trị, pháp luật, xã hội Tuy nhiên số lượng không nhiều. Điều này được lý giải bởi vấn đề bản quyền của tài liệu, và chi phí khi mua bản quyền các tài liệu này thì thường rất đắt. Mặc dù Trung tâm đã triển khai hoạt động này nhưng hầu như không mua được những bản sách có giá trị, các dạng tài liệu quý hiếm. Hiện nay, Trung tâm đang lựa chọn để mua từ 3-5 CSDL chuyên đề pháp luật và chủ yếu là CSDL của nước ngoài, cụ thể là Mỹ. Do đặc thù khi mua các CSDL này là đắt nên trung tâm hiện đang tiến hành tập hợp một danh mục từ 25 đến 30 CSDL nổi tiếng và có uy tín trên thế giới, từ đó sẽ lựa chọn mua 3 đến 5 CSDL để phục vụ người dùng tin của Trung tâm. Vấn đề xem xét lựa chọn danh mục các CSDL lựa chọn cũng là một vấn đề khó khăn. Các cán bộ tại Trung tâm thường dựa trên việc theo dõi tần suất trích dẫn CSDL để lựa chọn. Sau khi lựa chọn được danh mục các CSDL đó, các cán bộ tại Trung tâm sẽ tiến hành xây dựng một bảng hỏi, đưa vào đó các danh mục CSDL Trung tâm đã lựa chọn và đưa tới trực tiếp các người dùng tin của Trung tâm. Chính người dùng tin sẽ là người lựa chọn các CSDL sẽ mua trong tương lai. Dựa theo nhu cầu, sự lựa chọn của người dùng tin, cán bộ Trung tâm sẽ tổng hợp và đưa ra những CSDL được nhiều người dùng tin lựa chọn nhất, trên cơ sở kinh phí được cấp sẽ quyết định mua CSDL phù hợp. Kế hoạch này sẽ triển khai trong tháng 3/2012. Trong tương lai, Trung tâm sẽ đẩy mạnh hơn nữa nguồn mua tài nguyên số nhằm tăng cường vốn tài liệu số, cũng như đáp ứng hơn nữa nhu cầu người dùng tin. 51
  52. 2.2.2 Nguồn trao đổi tài nguyên thông tin số Hiện nay, xu hướng chung trong các cộng đồng thư viện trên thế giới là hướng tới chia sẻ và hòa nhập. Và tài nguyên số ngày càng khẳng định được vai trò của mình, đặc biệt trong hoạt động chia sẻ. Trao đổi tài nguyên số là hoạt động nhằm tăng cường nguồn lực thông tin số của các cơ quan TTTV, đem tới sự phát triển chung cho các bên tham gia, đánh dấu sự hợp tác của các cơ quan, một xu hướng chủ đạo trong sự phát triển của xã hội nói chung, của ngành thư viện nói riêng. Ngay từ khi chưa xuất hiện tài liệu số như hiện nay, hoạt động trao đổi chia sẻ tài liệu truyền thống giữa các cơ quan TTTV đã được diễn ra thường xuyên. Điển hình như thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật, Thư viện Bộ Tư Pháp Hoạt động này đã mang lại nhiều lợi ích cho các cơ quan, đó là lợi ích từ phía người dùng tin và lợi ích từ phía người cung cấp. Tuy nhiên, với những cơ quan gặp giới hạn về khoảng cách địa lý thì vấn đề trao đổi chia sẻ nguồn tin gặp nhiều khó khăn, hạn chế tới hoạt động trao đổi chia sẻ tài nguyên của các cơ quan TTTV. Sự ra đời của tài liệu số là bước phát triển lớn, là giải pháp cho sự chia sẻ với mọi giới hạn địa lý này. Vai trò cũng như tính ưu việt của tài liệu số đã được chứng minh rõ qua quá trình sử dụng của người dùng tin. Tận dụng và phát huy đặc điểm của tài liệu số, hiện nay các cơ quan TTTV không chỉ tiến hành hoạt động trao đổi tài nguyên truyền thống, mà còn tiến hành trao đổi những tài nguyên điện tử, tài nguyên số nhằm phát triển hơn nữa bộ sưu tập số của cơ quan mình. Trong các thư viện ngành Luật được khảo sát, hoạt động trao đổi tài liệu số mới chỉ diễn ra tại TTTTTV&NCKH của Văn phòng Quốc hội. Trung tâm hiện đang tiến hành trao đổi CSDL của Nhà Pháp luật Việt – Pháp. Đây là hoạt động Nhà Pháp luật Việt-Pháp đã và đang triển khai rộng rãi việc chia sẻ các nguồn cơ sở dữ liệu pháp luât điện tử Pháp tới nhiều đối tác tại Việt Nam, trong đó có Trung tâm. Tất cả các đối tượng người dùng tin của Trung tâm đều được quyền truy cập miến phí vào các nguồn cơ sở dữ liệu pháp luật tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Nhà Pháp luật Việt Pháp. Với mục đích phát triển Thư viện Nhà Pháp luật thành Trung tâm tư liệu pháp luật Pháp và các nước Pháp ngữ, đặc biệt là sử dụng các hình thức hiện đại truy cập các cơ sở dữ liệu pháp lý, từ tháng 6 năm 2011, Nhà Pháp luật Việt-Pháp đã thiết lập quan hệ đối tác với hai nhà xuất bản lớn của Pháp, đó là Dalloz và Francis Lefebvre và một 52
  53. trường Đại học trực tuyến: Đại học Luật pháp ngữ kỹ thuật số (UNJF) nhằm cung cấp các cơ sở dữ liệu pháp luật điện tử tới các cán bộ nghiên cứu pháp luật, giới luật gia và sinh viên chuyên ngành luật ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Đây cũng chính là các địa chỉ mà người dùng tin tại TTTTTV&NCKH của Văn phòng Quốc hội có thể truy cập và sử dụng. Cụ thể: Nhà xuất bản Dalloz Địa chỉ truy cập : Đây là nhà xuất bản này có nguồn dữ liệu phong phú, từ các Tuyển tập pháp luật chuyên ngành, các Bộ luật và các tạp chí pháp luật trong mọi lĩnh vực : Luật dân sự Luật kinh doanh Luật về bất động sản Luật hành chính Luật lao động Luật hình sự Nhà xuất bản Francis Lefebvre Địa chỉ truy cập : Trước những đòi hỏi thực tế của pháp luật Việt Nam, Nhà Pháp luật Việt-Pháp đã đăng ký quyền truy cập đối với các cơ sở dữ liệu về pháp luật Bất động sản và pháp luật kinh doanh của Nhà xuất bản Francis Lefebvre – Đây là một kho tư liệu chuyên ngành bao gồm các tuyển tập, các bộ luật, cũng như các tạp chí pháp luật với những tin tức pháp luật được cập nhật thường xuyên. Nguồn tư liệu trực tuyến của Nhà xuất bản này dành chủ yếu cho đối tượng là các luật gia muốn nghiên cứu một cách chuyên sâu những biến chuyển về tình hình pháp luật của Pháp trong hai lĩnh vực này. 53