Khóa luận Nghiên cứu và đánh giá sinh trưởng loài cây Nghệ đen (curcumazedoaria) thuộc nhóm lâm sản ngoài gỗ tại mô hình khoa Lâm nghiệp Đại học Nông lâm Thái Nguyên

pdf 64 trang thiennha21 19/04/2022 4330
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu và đánh giá sinh trưởng loài cây Nghệ đen (curcumazedoaria) thuộc nhóm lâm sản ngoài gỗ tại mô hình khoa Lâm nghiệp Đại học Nông lâm Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_va_danh_gia_sinh_truong_loai_cay_nghe_d.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu và đánh giá sinh trưởng loài cây Nghệ đen (curcumazedoaria) thuộc nhóm lâm sản ngoài gỗ tại mô hình khoa Lâm nghiệp Đại học Nông lâm Thái Nguyên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  VÀNG NGỌC HỮU “NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG LOÀI CÂY NGHỆ ĐEN (CURCUMAZEDOARIA) THUỘC NHÓM LÂM SẢN NGOÀI GỖ TẠI MÔ HÌNH KHOA LÂM NGHIỆP ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Lâm nghiệp Khoa : Lâm nghiệp Khoá học : 2015 - 2019 Thái Nguyên, năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  VÀNG NGỌC HỮU “NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG LOÀI CÂY NGHỆ ĐEN (CURCUMAZEDOARIA) THUỘC NHÓM LÂM SẢN NGOÀI GỖ TẠI MÔ HÌNH KHOA LÂM NGHIỆP ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Lâm nghiệp Lớp : K47 - LN Khoa : Lâm nghiệp Khoá học : 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn :TS. Nguyễn Tuấn Hùng Thái Nguyên, năm 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi, những số liệu và kết quả trong khóa luận tốt nghiệp này là hoàn toàn trung thực, chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc. Thái nguyên, ngày 10 tháng 5 năm 2019 Xác nhận của GVHD Người viết cam đoan Đồng ý cho bảo vệ kết quả trước hội đồng khoa học Vàng Ngọc Hữu XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN CHẤM PHẢN BIỆN Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa chữa sai sót sau khi hội đồng chấm yêu cầu! (Ký và ghi rõ họ tên)
  4. ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Lâm nghiệp, cảm ơn các thầy cô giáo đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Tôi đặc biệt xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, sự quan tâm sâu sắc của thầy giáo TS. Nguyễn Tuấn Hùng đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Cuối cùng tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới gia đình, bạn bè và những người thân đã quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập. Trong quá trình nghiên cứu do có những chủ quan và khách quan nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu xót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các sinh viên để tôi hoàn thành khóa luận được tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên , Ngày 10 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Vàng Ngọc Hữu
  5. iii DANH MỤC HÌNH ẢNH Hình 2.1. Cây Nghệ đen 23 Hình 4.1. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ sống của cây Nghệ đen 36 Hình 4.2. Biểu đồ thể hiện sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen 38 Hình 4.3. Biểu đồ thể hiện sinh trưởng đường kính gốc cây Nghệ đen 40 Hình 4.4. Biểu đồ thể hiện động thái ra lá cây Nghệ đen 42 Hình 4.5. Biểu đồ thể hiện chiều dài củ của cây Nghệ đen 43 Hình 4.6. Biểu đồ thể hiện chất lượng cây Nghệ đen 43
  6. iv DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Kết quả phân tích mẫu đất 26 Bảng 3.1. Sơ đồ bố trí các công thức thí nghiệm 30 Bảng 4.1a. Tỷ lệ sống của cây Nghệ đen 34 Bảng 4.1b. Phân tích phương sai một nhân tố đối với tỷ lệ sống cây Nghệ đen 35 Bảng 4.2a. Kết quả sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen 36 Bảng 4.2b. Phân tích phương sai một nhân tố đối với chiều cao cây Nghệ đen 37 Bảng 4.3a. Kết quả sinh trưởng đường kính gốc cây Nghệ đen 38 Bảng 4.3b. Phân tích phương sai một nhân tố đối với đường kính gốc cây Nghệ đen 39 Bảng 4.4a. Kết quả sinh trưởng lá cây Nghệ đen 40 Bảng 4.4b. Phân tích phương sai một nhân tố đối với sinh trưởng lá cây Nghệ đen 41 Bảng 4.5. Đánh giá sinh trưởng chiều dài củ và chất lượng cây Nghệ đen 42
  7. v MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC HÌNH ẢNH iii DANH MỤC BẢNG BIỂU iv MỤC LỤC v Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1.1 Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu nhiên cứu. 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài. 2 1.3.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học 2 1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất 3 Phần 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 4 2.1. Khái quát về lâm sản ngoài gỗ 4 2.1.1. Một số định nghĩa về lâm sản ngoài gỗ 4 2.1.2. Phân loại lâm sản ngoài gỗ 6 2.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu LSNG trong và ngoài nước 10 2.2.1 Tình hình trên thế giới 10 2.2.2 Tình hình nghiên cứu LSNG ở Việt Nam 13 2.3. Khái quát một số đặc điểm của cây Nghệ đen. 22 2.3.1. Đặc điểm nhận biết 22 2.3.2. Đặc tính sinh học và sinh thái 23 2.4. Tổng quan cơ sở thực tập 25 Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 28 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 28 3.3. Nội dung nghiên cứu 28
  8. vi 3.3.1. Đánh giá sinh trưởng của loài cây Nghệ đen (curcumazedoaria) khi sử dụng các công thức bón phân khác nhau 28 3.3.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển cây Nghệ đen (curcumazedoaria) 28 3.4. Phương pháp 29 3.4.1. Phương pháp luận 29 3.4.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 30 3.4.3. Phương pháp thu thập số liệu 30 3.4.4. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 31 3.5. Kỹ thuật trồng và chăm sóc 32 3.5.1. Phương thức trồng 32 3.5.2. Phương pháp chăm sóc 33 Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34 4.1. Đánh giá tỷ lệ sống cây Nghệ đen 34 4.2. Đánh giá sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen 36 4.3. Đánh giá sinh trưởng đường kính gốc cây Nghệ đen 38 4.4. Đánh giá sinh trưởng lá cây Nghệ đen 40 4.5. Đánh giá sinh trưởng củ và chất lượng cây Nghệ đen 42 4.6. Đề xuất một số giải pháp phát triển loài Nghệ đen 44 Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 46 5.1. Kết luận 46 5.2. Kiến nghị 47 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  9. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1 Đặt vấn đề Lâm sản ngoài gỗ bao gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật khác gỗ, được khai thác từ rừng, đất rừng và cây ở rừng. Nhiều loại lâm sản ngoài gỗ được sử dụng cho sản xuất và đời sống của người dân. Hàng trăm nghìn tấn tre nứa được sử dụng trong ngành chế biến bột và giấy, hàng chục nghìn tấn cây thuốc được sử dụng mỗi năm Lâm sản ngoài gỗ còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị, giá trị xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ năm 2008 gần 400 triệu USD, bằng gần 20% tổng giá trị xuất khẩu đồ gỗ. Khai thác, chế biến lâm sản ngoài gỗ đã thu hút hàng trăm nghìn lao động, chủ yếu là ở nông thôn, miền núi góp phần đáng kể vào xoá đói, giảm nghèo ở các địa phương có rừng và đất rừng. Thường vào những vụ nông nhàn, giáp hạt người dân hay vào rừng thu hái lâm sản để kiếm tiền mua lương thực và hàng tiêu dùng và trang trải chi phí thuốc men, học hành cho con trẻ. Ngoài ra lâm sản ngoài gỗ còn là nguồn cung cấp thực phẩm hàng ngày cho hộ gia đình: măng, rau rừng Do đó phát triển sản xuất lâm sản ngoài gỗ là góp phần xoá đói, giảm nghèo vùng dân tộc, miền núi và bảo vệ phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng, cải thiện đời sống cho người dân góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Theo các nhà khoa học thì cứ sau 20 phút trên phạm vi toàn cầu lại có thêm 1 loài động vật hoặc thực vật bị tuyệt chủng. Trong vòng 50 năm gần đây, tốc độ tuyệt chủng của các loài sinh vật đã tăng lên 40 lần so với thời kỳ cách mạng công nghiệp, và hành tinh của chúng ta đang có nguy cơ bước vào giai đoạn tuyệt chủng hàng loạt lần thứ 6 (5 lần trước vào các kỷ Permi, Cambri, Triat, Creta, Tertiari). Việt Nam được xem là trung tâm đa dạng sinh học của vùng nhiệt đới châu Á, mặc dù có nguồn tài nguyên sinh vật rất đa dạng và phong phú,
  10. 2 nhưng nguy cơ tuyệt chủng của một số loài rất cao. LSNG là nguồn tài nguyên sinh vật có thể tái tạo thông qua quá trình tái sinh tự nhiên, nhưng quá trình tái sinh phục hồi không đáp ứng kịp nhu cầu sử dụng của con người và cũng đang có nguy cơ bị tuyệt chủng hàng loạt. Do vậy, để bảo tồn một số loài cây LSNG có giá trị làm dược liệu, hương liệu tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu và đánh giá sinh trưởng loài cây Nghệ đen (curcumazedoaria) thuộc nhóm lâm sản ngoài gỗ tại mô hình khoa Lâm nghiệp Đại học Nông lâm Thái Nguyên” là hết sức cần thiết. 1.2. Mục tiêu nhiên cứu. - Đánh giá được tình hình sinh trưởng của loài cây Họ gừng (zingiberaceae) Nghệ đen (curcumazedoaria) trồng trong mô hình thư viện ngoài trời tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đề xuất được một số biện pháp nhằm phát triển cây bản địa trong mô hình khuôn viên ngoài trời tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 1.3. Ý nghĩa của đề tài. 1.3.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học - Củng cố kiến thức đã học, hệ thống lại kiến thức đã học, tìm tòi ham học hỏi hơn vốn hiểu biết của bản thân được mở rộng có điều kiện để tiếp cận với các đề tài ở quy mô nhỏ, cùng với sự hướng dẫn, hỗ trợ tận tình của giảng viên, sinh viên sẽ bắt đầu định hình được cách thức, quy trình để thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học chất lượng, hiệu quả. hoạt động nghiên cứu khoa học còn góp phần phát huy tính năng động, sáng tạo; khả năng tư duy độc lập, tự học hỏi của sinh viên. Bổ sung kiến thức chuyên môn và vận dụng vào thực tế sản xuất. - Cung cấp thông tin về sinh trưởng và phát triển các loài Nghệ đen (curcumazedoaria) tại mô hình khoa Lâm nghiệp. Ngoài ra, đây còn là nơi
  11. 3 phục vụ cho việc giáo dục về bảo tồn đa dạng sinh học cho tất cả mọi người, đặc biệt là các sinh viên trong khoa Lâm nghiệp nói riêng và sinh viên trường ĐH Thái Nguyên nói chung. 1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất - Qua những đánh giá cụ thể về sinh trưởng của Nghệ đen (curcumazedoaria) chúng ta có thể tìm ra được các giải pháp cụ thể nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và phát triển các loài cây. - Áp dụng kiến thức chuyên môn trong việc chọn giống, trồng và chăm sóc cây. Giúp cây có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt nhất. - Bên cạnh đó việc học tập của các sinh viên đặc biệt là sinh viên khoa Lâm nghiệp rất cần những địa điểm để thực hành nghiên cứu sau những giờ học, để giúp sinh viên có thể nắm chắc được những kiến thức lý thuyết trên lớp. - Tiết kiệm được kinh phí cho việc nghiên cứu khoa học và thực hành của sinh viên trong trường nói chung và sinh viên khoa Lâm nghiệp nói riêng.
  12. 4 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Khái quát về lâm sản ngoài gỗ 2.1.1. Một số định nghĩa về lâm sản ngoài gỗ Từ xưa đến nay đã có nhiều tên gọi khác nhau về lâm sản ngoài gỗ được sử dụng rộng rãi như: lâm sản phụ, lâm sản phi gỗ, sản phẩm không phải là gỗ. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở Việt nam lâm sản được phân chia thành hai loại: Lâm sản chính là những sản phẩm gỗ; Sản phẩm phụ của rừng hay lâm sản phụ, bao gồm động vật và thực vật cho những sản phẩm ngoài gỗ. Từ 1961, lâm sản phụ được coi trọng và được mang tên đặc sản rừng. “Đặc sản rừng bao gồm cả thực vật và động vật rừng là nguồn tài nguyên giầu có của đất nước. Nó có vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, trong đời sống nhân dân, quốc phòng và xuất khẩu ” (Bộ Lâm nghiệp – Kế hoạch phát triển Đặc sản rừng, 1981-1990)[1] . Theo định nghĩa đó Đặc sản rừng là một bộ phận của tài nguyên rừng nhưng chỉ tính đến những sản phẩm có công dụng hoặc giá trị đặc biệt và ngoài các loài thực vật dưới tán rừng còn bao gồm các loài cây cho gỗ đặc hữu hoặc được coi là đặc hữu của Việt Nam, như Pơ mu, Hoàng đàn, Kim giao , như vậy thuật ngữ đặc sản cũng mang ý nghĩa kinh tế, vì không tính đến những sản phẩm không có hoặc chưa biết giá trị. Vì thế, danh mục những đặc sản rừng trong từng thời điểm cũng tập trung sự chú ý vào một số sản phẩm nhất định.
  13. 5 Ngày nay, trong Lâm nghiệp thuật ngữ lâm sản ngoài gỗ được dùng phổ biến, chính thức thay cho thuật ngữ lâm sản phụ (minor forest product/ secondary forest product). Định nghĩa của thuật ngữ này được thông qua trong hội nghị tư vấn lâm nghiệp Châu Á-Thái Bình Dương tại Băng Cốc, 5- 8-1991: “Lâm sản ngoài gỗ (Non-wood forest product) bao gồm những sản phẩm tái tạo được ngoài gỗ, củi và than gỗ. Lâm sản ngoài gỗ được lấy từ rừng, đất rừng hoặc từ những cây thân gỗ”. Do đó, không được coi là LSNG những sản phẩm như cát, đá, nước, dịch vụ du lịch sinh thái. Lâm sản ngoài gỗ bao gồm “tất cả các sản phảm sinh vật (trừ gỗ tròn công nghiệp, gỗ làm dăm, gỗ làm bột giấy) có thể lấy ra từ hệ sinh thái tự nhiên, rừng trồng được dùng trong gia đình, mua bán hoặc có ý nghĩa tôn giáo, văn hóa hoặc xã hội”. Việc sử dụng hệ sinh thái cho mục đích giải trí, bảo tồn thiên nhiên, quản lý vùng đệm thuộc về lĩnh vực dịch vụ của rừng” (Wichens, 1991)[18]. Trong hội nghị các chuyên gia LSNG của các nước vùng Châu Á, Thái Bình Dương họp tại Bangkok, Thái Lan từ ngày 5-8/11/1991 đã thông qua định nghĩa về LSNG như sau: “Lâm sản ngoài gỗ (Non-wood forest products) bao gồm tất cả các sản phẩm cụ thể, có thể tái tạo, ngoài gỗ, củi và than. Lâm sản ngoài gỗ được khai thác từ rừng, đất rừng hoặc từ các cây thân gỗ” Thực vật rừng gồm tất cả các loài cây, loài cỏ dây leo bậc cao và bậc thấp phân bố trong rừng. Những loài cây không cho gỗ hoặc ngoài gỗ còn cho các sản phẩm quý khác như nhựa Thông, quả Hồi, vỏ Quế hoặc sợi Song mây là thực vật đặc sản rừng” (Lê Mộng Chân, Vũ Dũng, 1992)[4]. LSNG là tất cả những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật không kể gỗ cũng như những dịch vụ có được từ rừng và đất rừng. Dịch vụ trong định nghĩa này như là những hoạt động từ du lịch sinh thái, làm dây leo, thu gom nhựa và các hoạt động liên quan đến thu hái và chế biến những sản phẩm này
  14. 6 LSNG bao gồm các nguyên liệu có nguồn gốc sinh vật, không phải là gỗ, được khai thác từ rừng để phục vụ con người. Chúng bao gồm thực phẩm , thuốc, gai vị, tinh dầu, nhựa, nhựa mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã (còn sống hay sản phẩm của chúng), củi và các nguyên liệu thô như tre, nứa, song, mây, gỗ nhỏ và sợi. LSNG là các sản phẩm nguồn gốc sinh vật, loại trừ gỗ lớn, có ở rừng, ở đất rừng và các cây bên ngoài rừng. Theo Trần Ngọc Hải (2000): Lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các vật liệu sinh học khác gỗ được khai thác từ rừng (hiểu theo nghĩa rộng gồm rừng tự nhiên và rừng trồng) phục vụ mục đích của con người. Bao gồm các loài thực vật, động vật dùng làm thực phẩm, làm dược liệu, tinh dầu, nhựa sáp, nhựa dính, nhựa mủ, cao su, tanin, màu nhuộm, chất béo, cây cảnh, nguyên liệu giấy, sợi Theo Vũ Tiến Hinh và Phạm Văn Điển (2003): Lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh học và các dịch vụ thu được từ rừng hoặc từ bất kỳ vùng đất nào có kiểu sử dụng đất tương tự, loại trừ gỗ lớn ở tất cả các hình thái của nó. Theo các định nghĩa như đã nêu ở trên, LSNG là một phần tài nguyên rừng. Như vậy, đi tìm chỉ một định nghĩa cho LSNG là không thể. Định nghĩa này có thể thay đổi phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, vào quan điểm sử dụng, phát triển tài nguyên và nhu cầu khác. Các loại sản phẩm ngoài gỗ sẽ ngày càng được tăng lên do sự tìm tòi, phát hiện giá trị của chúng để phục vụ cuộc sống cho con người, chúng gồm các sản phẩm qua chế biến hoặc không cần qua chế biến. 2.1.2. Phân loại lâm sản ngoài gỗ Hiện nay, có rất nhiều loại LSNG được điều tra, phát hiện, khai thác và sử dụng. Đối tượng và mục tiêu sử dụng, nghiên cứu LSNG cũng rất đa dạng
  15. 7 (người dân, thương nhân, nhà quản lý, nhà nghiên cứu ). Chính vì vậy, việc phân loại cũng rất nhiều quan điểm khác nhau. Dưới đây sẽ trình bày một số phương pháp phân loại LSNG đang được sử dụng phổ biến hiện nay: Phân loại LSNG theo hệ thống sinh giới: Theo phân loại kinh điển, sinh giới được chia là hai giới chính: Động vật và thực vật. Giới động vật và giới thực vật, tuy rất phong phú và đa dạng nhưng đều có thể sắp xếp một cách khách quan vào hệ thống các bậc phân loại từ lớn đến nhỏ: Giới\Ngành\Lớp\Bộ\Họ\Chi\Loài. Ưu điểm của cách phân loại này là thấy được mối quan hệ thân thuộc giữa các loài và nhóm loài cùng sự tiến hóa của chúng. Phương pháp phân loại này chú ý nhiều đến đặc điểm sinh học của loài. Nhược điểm là đòi hỏi người sử dụng phải có những hiểu biết nhất định về phân loại động, thực vật (Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên, 2000) [3]. Phân loại LSNG theo nhóm giá trị sử dụng: Là cách phân loại mà các LSNG khác nhau không kể nguồn gốc trong hệ thống sinh giới, nơi phân bố có cùng giá trị sử dụng thì được xếp trong cùng một nhóm. Ví dụ: Một hệ thống phân loại LSNG thực vật theo nhóm công dụng như sau: Nhóm cây cho lương thực, thực phẩm; Nhóm cây cho sợi Nhóm cây cho ta-nanh Nhóm cây cho màu nhuộm Nhóm cây làm dược liệu Nhóm cây cho nhựa, sáp, sơn Nhóm cây dùng làm vật liệu nhẹ và thủ công mỹ nghệ Nhóm cây làm cảnh, cho bóng mát. Ưu điểm của phương pháp phân loại này là đơn giản, dễ áp dụng và sử dụng nhiều kiến thức bản địa của người dân, nên người dân dễ nhớ, đồng thời
  16. 8 khuyến khích được họ tham gia trong quá trình quản lý tài nguyên. Ngoài ra phương pháp này cũng được các nhà kinh doanh, nhà nghiên cứu LSNG quan tâm. Nhược điểm của phương pháp phân loại này là chỉ mới nhấn mạnh tới giá trị sử dụng, mà chưa đề cập đến đặc điểm sinh vật học (đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố ) của các loài, nên khả năng nhận biết các loài gặp nhiều khó khăn hơn nữa một số loài có nhiều công dụng khi phân loại dễ bị trùng vào nhiều nhóm khác nhau. Hệ thống phân loại khác lại dựa vào các sản phẩm LSNG, như hệ thống phân loại đã thông qua trong Hội nghị LSNG Thái Lan, tháng 11/1991 (Bài giảng Lâm sản ngoài gỗ, 2002. Dự án LSNG, Hà Nội). Trong hệ thống này lâm sản ngoài gỗ được chia làm 6 nhóm: Nhóm 1: Các sản phẩm có sợi: tre nứa, song mây, lá và thân có sợi và các loại cỏ. Nhóm 2: Sản phẩn làm thực phẩm: các sản phẩm nguồn gốc thực vật: thân, chồi, rễ, củ, lá, hoa, quả, quả hạch, gia vị, hạt có dầu và có nấm. Các sản phẩm nguồn gốc động vật: mật ong, thịt động vật rừng, cá, trai ốc, tổ chim ăn được, trứng và côn trùng. Nhóm 3: Thuốc và mỹ phẩm có nguồn gốc thực vật Nhóm 4: Các sản phẩm chiết xuất: gôm, nhựa dầu, nhựa mủ, ta-nanh và thuốc nhuộm, dầu béo và tinh dầu. Nhóm 5:: Động vật và các sản phẩm từ động vật không làm thực phẩm: tơ, động vật sống, chim, côn trùng, lông mao, lông vũ, da, sừng, ngà, xương và nhựa cánh kiến đỏ. Nhóm 6: Các sản phẩm khác: như lá Bidi (lá thị rừng dùng gói thuốc lá ở Ấn Độ).
  17. 9 Bốn năm sau, chuyên gia về lâm sản ngoài gỗ của FAO, C.Chandrasekharan (FAO, 1995) đã đề xuất hệ thống phân loại lâm sản ngoài gỗ gồm 4 nhóm chính như sau: Cây sống và các bộ phận của cây Động vật và các sản phẩm của động vật Các sản phẩm được chế biến (các gia vị, dầu thực vật ) Các dịch vụ rừng. Ở Việt Nam, khung phân loại lâm sản ngoài gỗ đầu tiên được chính thức thừa nhận bằng văn bản đó là: “Danh mục các loài đặc sản rừng được quản lý thống nhất theo ngành”. Đây là văn bản kèm theo Nghị định 160 - HĐBT ngày 10/12/1984 của Hội đồng bộ trưởng về việc thống nhất quản lý các đặc sản rừng (nay gọi là lâm sản ngoài gỗ). Theo danh mục này đặc sản rừng được chia làm 2 nhóm lớn: Hệ cây rừng và Hệ động vật rừng. Mỗi nhóm lớn lại chia nhiều nhóm phụ sau: * Hệ cây rừng: Nhóm cây rừng cho nhựa, ta-nanh, dầu và tinh dầu như: thông, quế, hồi, tràm, đước, vẹt, trám, bạch đàn, bồ đề Nhóm cây rừng cho dược liệu như: ba kích, sa nhân, thiên niên kiện, thảo quả, hà thủ ô, đẳng sâm, kỳ nam, hoằng đằng Nhóm cây rừng cho nguyên liệu làm các loại hàng tiểu thủ công và mỹ nghệ như: song, mây, tre, trúc, lá buông Các sản phẩm công nghiệp được chế biến từ nguyên liệu có nguồn gốc từ các loài cây rừng như: cách kiến Shellac, dầu thông, tùng hương, dầu trong, chai cục * Hệ động vật rừng: Bao gồm các nhóm động vật rừng cho da, lông, sừng, xương, ngà, thịt, xạ, mật; cho dược liệu như: voi, hổ, báo, trâu rừng, bò rừng, hươu, nai, rắn,
  18. 10 trăn, kỳ đà, tắc kè, khỉ, nhím, vượn, ong rừng, các loài chim quý, các nhóm động vật rừng có đặc dụng khác. Mặc dù còn vài điểm chưa hợp lý, tuy nhiên có hệ thống phân loại lâm sản ngoài gỗ trên là một mốc quan trọng, đánh giá sự tiến bộ về nhận thức, sự hiểu biết về lâm sản ngoài gỗ của Việt Nam. 2.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu LSNG trong và ngoài nước 2.2.1 Tình hình trên thế giới Ngay từ những năm 1950 các nhà khoa học nghiên cứu về cây thuốc của Liên Xô đã có các nghiên cứu về cây thuốc trên quy mô rộng lớn. Năm 1952 các tác giả A.l. Ermakov, Arasimovich, đã nghiên cứu thành công công trình “Phương pháp nghiên cứu hoá sinh – sinh lý cây thuốc”. Công trình này là cơ sở cho việc sử dụng và chế biến cây thuốc đạt hiệu quả tối ưu nhất, tận dụng tối đa công dụng của các loài cây thuốc. Các tác giả A.F.Hammermen, M.D. Choupinxkaia và A.A. Yatsenko đã đưa ra được giá trị của từng loài cây thuốc (cả về giá trị dược liệu và giá trị kinh tế) trong tập sách “Giá trị cây thuốc”. Năm 1972 tác giả N. G. Kovalena đã công bố rộng rãi trên cả nước Liên Xô (cũ) việc sử dụng cây thuốc vừa mang lại lợi ích cao vừa không gây hại cho sức khoẻ của con người. Qua cuốn sách “Chữa bệnh bằng cây thuốc” tác giả Kovalena đã giúp người đọc tìm được loại cây thuốc và chữa đúng bệnh với liều lượng đã được định sẵn (Trần Thị Lan, 2005) [15]. Năm 1954 tác giả Từ Quốc Hân đã nghiên cứu thành công công trình “Dược dụng thực vật cấp sinh lý học”. Cuốn sách này giới thiệu tới người đọc cách sử dụng từng loại cây thuốc, tác dụng sinh lý, sinh hoá của chúng, công dụng, cách phối hợp các loài cây thuốc treo từng địa phương như “Giang Tô tỉnh thực vật dược tài chí”, “Giang Tô trung dược danh thực đồ khảo”, “Quảng Tây trung dược trí” (Trần Hồng Hạnh, 1996) [14].
  19. 11 Năm 1968, một số nhà nghiên cứu cây thuốc tại Vân Nam, Trung Quốc đã xuất bản cuốn sách “Kỹ thuật gây trồng cây thuốc ở Trung Quốc” (Phan Văn Thắng, 2002) [12]. Mendelsohn, 1989 đã căn cứ vào giá trị sử dụng của lâm sản ngoài gỗ để phân thành 5 nhóm: Các sản phẩm thực vật ăn được, keo dán và nhựa, thuốc nhuộm và ta nanh, cây cho sợi, cây làm thuốc. Ông cũng căn cứ vào thị trường tiêu thụ để phân lâm sản ngoài gỗ thành 3 nhóm: Nhóm bán trên thị trường, nhóm bán ở địa phương và nhóm sử dụng trực tiếp bởi người thu hoạch. Nhóm thứ ba thường chiếm tỷ trọng rất cao nhưng lại chưa tính được giá trị. Theo Mendelsohn chính điều này đã làm cho lâm sản ngoài gỗ trước đây bị lu mờ và ít được chú ý đến (Phan Văn Thắng, 2002) [12]. Năm 1992, J.H. de Beer - một chuyên gia lâm sản ngoài gỗ của tổ chức Nông lương thế giới - khi nghiên cứu về vai trò và thị trường của lâm sản ngoài gỗ đã nhận thấy giá trị to lớn của thảo quả đối với việc tăng thu nhập cho người dân sống trong khu vực vùng núi nơi có phân bố thảo quả nhằm xoá đói giảm nghèo, đồng thời là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội vùng núi và bảo tồn phát triển tài nguyên rừng. Về nhu cầu thị trường của thảo quả là rất lớn, chỉ tính riêng ở Lào, hàng năm xuất khẩu khoảng 400 tấn sang Trung Quốc và Thái Lan. Đây là công trình nghiên cứu tổng kết về vai trò thảo quả đối với con người, xã hội cũng như tình hình sản xuất buôn bán và dự báo thị trường, tiềm năng phát triển của thảo quả (Phan Văn Thắng, 2002) [12]. Theo Falconer, 1993, hầu hết mọi người đều thừa nhận lâm sản ngoài gỗ như một yếu tố quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội miền núi. Ở Ghana, lâm sản ngoài gỗ có vai trò cung cấp thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng, đồng thời cũng chiếm gần 90% nguồn thu nhập của các hộ gia đình (Phan Văn Thắng, 2002) [12].
  20. 12 Năm 1996, Tiền Tín Trung, một nhà nghiên cứu về cây thuốc dân tộc tại Viện Vệ sinh dịch tễ công cộng Trung Quốc biên soạn cuốn sách “Bản thảo bức tranh màu Trung Quốc”. Cuốn sách đã mô tả tới hơn 1000 loài cây thuốc ở Trung Quốc, một trong số đó là thảo quả. Nội dung đề cập là: Tên khoa học, một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học cơ bản, công dụng và thành phần hoá học của thảo quả (Phan Văn Thắng, 2002) [12]. Năm 1999, trong cuốn “Tài nguyên thực vật của Đông Nam Á” L.S. de Padua, N. Bunyapraphatsara và R.H.M.J. Lemmens đã tổng kết các nghiên cứu về các cây thuộc chi Amomum trong đó có thảo quả. Ở đây tác giả đề cập đến đặc điểm phân loại của thảo quả, công dụng, phân bố, một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học của thảo quả. Tác giả cũng trình bày kỹ thuật nhân giống, trồng, chăm sóc bảo vệ, thu hái, chế biến, tình hình sản xuất và buôn bán thảo quả trên thế giới (Phan Văn Thắng, 2002) [12]. Nhiều nước trên thế giới như Brazil, Colombia, Equado, Bolivia, Thái Lan, Inđonesia, Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc đã và đang nghiên cứu các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ, trong đó có các loại rau, quả rừng mang lại nhiều dinh dưỡng, nhằm nâng cao đời sống của người dân bản địa và bảo vệ đa dạng sinh học của các hệ sinh thái rừng địa phương (Everlyn Mathias, 2001) [17]. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu C. Chandrasekhanran (1995) - một chuyên gia lâm sản ngoài gỗ của FAO, đã chia lâm sản ngoài gỗ thành 4 nhóm chính như sau: A. Cây sống và các bộ phận của cây. B. Động vật và các sản phẩm của động vật. C. Các sản phẩm được chế biến (các gia vị, dầu, nhựa thực vật ). D. Các dịch vụ từ rừng Các nghiên cứu chỉ ra rằng rừng nhiệt đới không chỉ phong phú về tài nguyên gỗ mà còn đa dạng về các loại thực vật cho sản phẩm ngoài gỗ. Khi
  21. 13 nghiên cứu đa dạng lâm sản ngoài gỗ trong phạm vi một bản ở Thakek, Khammouan, Lào người ta đã thống kê được 306 loài lâm sản ngoài gỗ trong đó có 223 loài làm thức ăn (Phan Văn Thắng, 2002) [24]. Theo ước tính của Quỹ thiên nhiên thế giới (WWF) có khoảng 35.000- 70.000 loài trong số 250.000 loài cây được sử dụng vào mục đích chữa bệnh trên toàn thế giới. Nguồn tài nguyên cây thuốc này là kho tàng vô cùng quý giá của các dân tộc hiện đang khai thác và sử dụng để chăm sóc sức khoẻ, phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc của các nền văn hoá. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ngày nay có khoảng 80% dân số các nước đang phát triển có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ban đầu phụ thuộc vào nguồn dược liệu hoặc qua các chất chiết xuất từ dược liệu (Nguyễn Văn Tập, 2006) [11]. 2.2.2 Tình hình nghiên cứu LSNG ở Việt Nam Vào những năm 1960 đến những năm 1980, một số nhà khoa học khi nghiên cứu về cây thuốc ở nước ta đề cập đến thảo quả. Do thảo quả là cây “truyền thống”, có đặc thù riêng khác với một số loài lâm sản ngoài gỗ là có phạm vi phân bố hẹp, chúng được trồng chủ yếu dưới tán rừng ở các tỉnh phía Bắc như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang nên các nhà khoa học ít quan tâm. Các công trình nghiên cứu liên quan còn tản mạn (Phan Văn Thắng, 2002) [12]. Sau năm 1975, Vàng đắng (Coscinium fenestrum) nguồn nguyên liệu cho berberin coi là có vùng phân bố rộng, có trữ lượng lớn. Song chỉ sau hơn chục năm khai thác loài Vàng Đắng đã trở nên rất hiếm và ở tình trạng sẽ nguy cấp (V) trong sách đỏ Việt Nam. Ba Kích (Morinda offcinalis) là một cây thốc có tác dụng tăng cường khả năng sinh dục ở nam giới, chữa thấp khớp và một số bệnh khác đã bị khai thác mỗi năm vài chục tấn liên tục nên đã cạn kiệt (Viện Dược Liệu, 2002) [16]. Nghiên cứu của Giáo sư Đỗ Tất Lợi (1975) đã cho rằng: thảo quả là loài cây thuốc được trồng ở nước ta vào khoảng năm 1990. Trong thảo quả có
  22. 14 khoảng 1-1,5% tinh dầu màu vàng nhạt, mùi thơm, ngọt, vị nóng cay dễ chịu có tác dụng chữa các bệnh đường ruột. Đây là một công trình nghiên cứu khẳng định công dụng của thảo quả ở nước ta. Tuy nội dung nghiên cứu về thảo quả của công trình còn ít, nhưng nó đã phần nào mở ra một triển vọng cho việc sản xuất và sử dụng thảo quả trong y học ở nước ta. Năm 1982, Giáo sư Đoàn Thị Nhu công bố kết quả nghiên cứu của mình về “Bảo vệ, khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc thiên nhiên và phát triển trồng cây thuốc trên rừng ở Việt Nam”. Trong đó tác giả kết luận: thảo quả là cây dược liệu quý và thích nghi tốt ở điều kiện dưới tán rừng, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có nghiên Tiến Bân và cs (1994). Các nhà nghiên cứu đã thống kê được 113 loài thực vật rừng làm thực phẩm, gia vị có ở Việt Nam và tìm hiểu giá trị dinh dưỡng, phân biệt rau ăn được và rau độc, đặc điểm nơi sống, cách thu hái, chế biến, thành phần dinh dưỡng Đây là một đề tài khoa học của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu đã điều tra, khảo sát, tìm hiểu, trong một thời gian dài đầy công phu và tỉ mỉ trên nhiều vùng sinh thái khác nhau (Nguyễn Tiến Bân, 1994) [8]. Theo Lê Trần Đức, 1997, Sa nhân là cây thuốc quý trong y học cổ truyền phương đông, cứu nào về kỹ thuật gây trồng thảo quả dưới tán rừng (Phan Văn Thắng, 2002) [12]. Theo kết quả điều tra của Viện Dược liệu Bộ Y tế năm 1985, nước ta có 1863 loài cây thuốc thuộc 236 họ thực vật. Theo giáo sư Võ Văn Chi trong cuốn “Từ điển cây thuốc” số loài cây thuốc ở Việt Nam là trên 3000 loài. Trên 3/4 cây trong số này là những cây mọc tự nhiên, phần lớn sinh sống ở rừng. Kết quả điều tra sơ bộ ban đầu ở rừng một số tỉnh miền bắc cho thấy tỷ lệ cây làm thuốc thường chiếm tỷ lệ rất cao (Viện Dược Liệu, 2002) [16]. Nguyễn thuộc chi Sa Nhân (Amomum Roxb), họ Gừng (Zingiberaceae). Trên thế giới chi Amomum roxb có khoảng 250 loài phân bố chủ yếu ở vùng
  23. 15 nhiệt đới núi cao ở Ấn Độ có 48 loài, Malaysia có 18 loài, Trung Quốc có 24 loài. Ở nước ta, Sa nhân phân bố ở hầu hết các tỉnh vùng núi Bắc và Trung Bộ có khoảng 30 loài trong đó có gần 30 loài mang tên Sa nhân, trong đó 23 loài đã được xác định chắc chắn. Ở Viện dược liệu và trường Đại Học Dược hiện có 12 mẫu vật chưa đủ tài liệu định tên loài đều mang tên Sa Nhân (theo Nguyễn Tập). Ở Việt Nam, Sa nhân đã được biết đến từ rất lâu đời là vị thuốc cổ truyền trong y học dân tộc. Bước đầu đã thống kê được trên 60 đơn thuốc có vị Sa Nhân dùng trong các trường hợp ăn không tiêu, kiết lỵ, đau dạ dày, phong tê thấp, sốt rét, đau răng, phù thũng, Ngoài ra Sa nhân còn dùng trong sản xuất hương liệu để sản xuất xà phòng, nước gội đầu. Các tác giả đã nghiên cứu đặc điểm sinh thái học, vòng đời tái sinh, cấu tạo, nơi phân bố, kỹ thuật, thời gian gây trồng, thu hoạch của sa nhân. Năm 1999, khi nghiên cứu ở Vườn quốc gia Ba Vì, Nguyễn Văn Sản và cs, đưa ra kết luận: LSNG là nguồn thu nhập quan trọng đối với cuộc sống của người dân nông thôn. Tác giả cho rằng một trong những nguyên nhân mất rừng, làm suy thoái đa dạng sinh học có nguồn gốc từ đời sống khó khăn của người dân, lâm sản ngoài gỗ bị sử dụng không hợp lý, cạn kiệt. Một trong những giải pháp có hiệu quả để giải quyết vấn đề đời sống khó khăn của người dân mà vẫn bảo tồn và phát triển rừng bền vững ở nước ta là phát triển tài nguyên LSNG. Nguyễn Ngọc Bình và cs (2000), với cuốn sách “Trồng cây nông nghiệp, dược liệu và đặc sản dưói tán rừng”. Tác giả đã giới thiệu giá trị kinh tế, đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố, kỹ thuật gây trồng 28 loài lâm sản ngoài gỗ như: Ba kích, sa nhân, thảo quả, trám trắng, mây nếp, Trước yêu cầu bảo tồn và trồng thêm Ba kích để làm thuốc, từ năm 1994 đến 2002, Viện Dược liệu đã phối hợp với một số hộ nông dân ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xây dựng thành công một số mô hình trồng cây Ba
  24. 16 kích. Trong đó có mô hình Ba kích trồng xen ở vườn gia đình và vườn trang trại, mô hình trồng Ba kích ở đồi và đất nương rấy cũ. Bước đầu các mô hình này đã đem lại những hiệu quả đáng kể (Nguyễn Chiều, Nguyễn Tập, 2006) [7]. Năm 2001, Vũ Văn Dũng và cs đã đề xuất cách phân loại mới, theo các tác giả, lâm sản ngoài gỗ được chia ra làm 6 nhóm chính bao gồm: Sản phẩm có sợi, sản phẩm dùng làm thực phẩm, các sản phẩm thuốc và mỹ phẩm, các sản phẩm chiết xuất, động vật và các sản phẩm động vật khác làm thực phẩm, làm thuốc, các sản phẩm khác gồm cây cảnh, lá để gói thức ăn và hàng hoá, nhìn chung, mỗi cách phân loại đều có những tồn tại nhất định, nhưng chúng đều có ý nghĩa trong nghiên cứu về sự đa dạng, phong phú của LSNG, về tiềm năng phát triển ngành LSNG ở Việt Nam. Năm 2001, trong quá trình thực hiện dự án “Sử dụng bền vững lâm sản ngoài gỗ” tại vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ và vùng đệm Vườn quốc gia Ba Bể các nhà nghiên cứu kết luận rằng: phát triển lâm sản ngoài gỗ là một trong những hướng đi đem lại hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng mục tiêu nâng cao chất lượng sống cho người dân, từ đó xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế xã hội trong khu vực (Phan Văn Thắng, 2002) [12]. Trong công trình nghiên cứu “Giá trị và sử dụng lâm sản ngoài gỗ ở 2 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn” của Phan Văn Thắng và cs (2001) cho thấy giá trị sử dụng của lâm sản ngoài gỗ đối với người dân rất lớn, 90% số hộ dân sống dựa vào rừng. Sản phẩm khai thác chủ yếu hiện nay là gỗ và lâm sản ngoài gỗ như măng, tre, trúc, hồi, giẻ, và cây dược liệu. Thu nhập từ lâm sản ngoài gỗ trong mỗi hộ gia đình đứng thứ 2 trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình và chiếm trung bình khoảng 22% tổng thu nhập kinh tế. Tìm hiểu việc sử dụng thực vật rừng làm thuốc, rau của nhân dân các xóm Bản Cám, Nà Nặm thuộc Vườn quốc gia Ba Bể - tỉnh Bắc Kạn, La Quang Độ (2001). Tác giả đã xác định được tên, giá trị sử dụng, đặc điểm sinh thái, nơi
  25. 17 phân bố của 15 loài thực vật rừng làm rau ăn và kinh nghiệm của người dân tộc trong khai thác, sử dụng, chế biến các loài này. Đề tài là một sự đóng góp quan trọng cho tỉnh Bắc Kạn trong việc đánh giá hiện trạng nguồn tài nguyên lâm sản ngoài gỗ (La Quang Độ) [2]. Trồng và chế biến Thạch đen - một nghề cổ truyền của dân tộc Tày Nùng, Phùng Tửu Bôi (2005). Cây Thạch đen có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng được nhập vào ta từ rất lâu đời. Ở Việt Nam cây đã được trồng ở một số nơi, hiện đang trồng nhiều ở Lạng Sơn và Cao Bằng, nhiều nhất là ở ba xã Chi Lăng, Kim Đồng và Tân Tiến thuộc huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Theo tác giả Thạch đen là một loài lâm sản ngoài gỗ có nhiều giá trị và triển vọng, cần có chính sách và kỹ thuật hỗ trợ để người dân có thể phát triển lâu dài loại hàng hoá này (Phùng Tửu Bôi, 2005) [13]. Kiến thức bản địa về kinh doanh tre lấy măng ở vùng Đông Bắc Việt Nam, Nguyễn Danh Minh và cs (2005). Để khai thác tiềm năng sẵn có về tre, kết hợp kinh nghiệm địa phương về kinh doanh tre lấy măng với khoa học hiện địa, góp phần thúc đẩy kinh doanh măng tre ở Việt Nam, đề tài nghiên cứu kiến thức bản địa kinh doanh tre lấy măng ở vùng Đông Bắc Việt Nam được thực hiện từ năm 2004. Mục tiêu của đề tài nhằm xác định những loài tre có thể kinh doanh lấy măng; tổng kết kinh nghiệm địa phương và đề xuất mô hình kỹ thuật để kinh doanh tre lấy măng hiệu quả và bền vững (Nguyễn Thị Thoa) [9]. Khi nghiên cứu các biện pháp phát triển bền vững nguồn tài nguyên thực vật phi gỗ tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, Ninh Khắc Bản (2003) đã thống kê được 29 loài cây dùng làm thuốc và cây cho tinh dầu. Trong đó tác giả đã lựa chọn được một số loài cây triển vọng để đưa vào phát triển: Thảo quả, Thiên niên kiện, Xuyên khung, Theo Ninh Khắc Bản (2003), khi điều tra về nguồn thực vật phi gỗ tại Hương Sơn – Hà Tĩnh bước đầu đã xác định được khoảng 300 loài cây có thể
  26. 18 sử dụng để làm thuốc. Tuy nhiên trong quá trình điều tra thấy có khoảng 25 loài cây được sử dụng làm thuốc chữa bệnh như: Hà thủ ô, Thiên niên kiện, Thạch xương bồ, Ngũ gia bì, Sa nhân Nghiên cứu một số bài thuốc, cây thuốc dân gian của cộng đồng dân tộc thiểu số tại buôn Đrăng Phốk - Vùng lõi VQG Yok Đôn - Huyện Buôn Đôn – Tỉnh Dak Lak, Nguyễn Văn Thành và cs, 2004. Nghiên cứu đã chỉ ra từ cộng đồng các bài thuốc, cây thuốc dân gian dùng để trị các loại bệnh thường gặp trong cuộc sống từ đó lựa chọn các bài thuốc, cây thuốc hay, quan trọng để bảo tồn và phát triển nhân rộng dựa trên cơ sở sự lựa chọn có sự tham gia của người dân. Đề tài đã ghi nhận được 46 bài thuốc với tổng cộng 69 loài cây làm thuốc mà người dân tại cộng đồng đã sử dụng để điều trị từ các bệnh thông thường đến các bệnh có thể gọi là nan y và đã sắp xếp thành 9 nhóm các bài thuốc theo nhóm bệnh. Đề xuất về bảo tồn và phát triển nguồn cây thuốc tại Vườn quốc gia Tam Đảo, Ngô Quý Công và cs trong 2 năm 2004-2005 nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều tra việc khai thác, sử dụng cây thuốc nam tại vùng đệm của Vườn quốc gia, nghiên cứu kỹ thuật nhân giống, gây trồng một số loài cây thuốc quý nhằm bảo tồn và phát triển cho mục đích gây trồng thương mại. Cũng trong thời gian này tác giả Nguyễn Tập và cộng sự (2005) đã điều tra đánh giá hiện trạng và tiềm năng về y học cổ truyền trong cộng đồng các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, kết quả đã thu thập được nhiều cây thuốc, bài thuốc các thầy lang trong cộng đồng thường sử dụng, nhằm kế thừa và quảng bá rộng rãi những trí thức bản địa này của địa phương. Những vấn đề đặt ra là làm thế nào để duy trì, bảo tồn và khai thác được vốn kinh nghiệm quý báu này. Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự (2006) đã nghiên cứu 6 loài tre quả thịt (tre Quả thịt Lộc Bắc, Trường Sơn, Pà Cồ, Cúc Phương, Dẹ Yên Bái, Kon
  27. 19 Hà Nừng). Tác giả đã tiến hành điều tra, khảo sát, nghiên cứu đặc điểm sinh thái, cấu tạo, giải phẫu hoa, quả. Kết quả của nghiên cứu sẽ làm cơ sở cho giám định loài và ghép chi để tạo ra các giống tre cho măng có năng suất, chất lượng cao. Kiến thức bản địa của người dân trong việc khai thác sử dụng các loài lâm sản ngoài gỗ làm thực phẩm, gia vị tại xã Thần Sa -Võ Nhai, Nguyễn Thị Thoa và cộng sự (2006) [9]. Tác giả đã xác định được 16 loài lâm sản ngoài gỗ thường xuyên được sử dụng làm rau ăn, gia vị, tìm hiểu kinh nghiệm của người dân xã trong việc sử dụng các loài làm thực phẩm, gia vị và đề xuất giải pháp bảo vệ, phát triển các loài này Năm 2006 nhóm tác giả thuộc Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc sản - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam phối hợp với Viện Dược liệu đã tổ chức điều tra nguồn tài nguyên cây thuốc tại xã Đồng Lâm, huyện Hoàng Bồ, tỉnh Quảng Ninh và đã ghi nhận được 288 loài thuộc 233 chi, 107 họ và 6 ngành thực vật. Tất cả đều là những cây thuốc mọc hoang dại trong các quần xã rừng thứ sinh và đồi cây bụi. Trong đó có 8 loài được coi là mới (chưa có tên trong danh lục cây thuốc Việt Nam) (Nguyễn Văn Tập, 2006) [10]. Lê Thị Diên và cộng sự (2006) [11] đã thử nghiệm gây trồng một số loài cây thuốc nam dưới tán rừng tự nhiên tại thôn Hà An. Các cây thuốc nam được gây trồng có tỷ lệ sống cao, sức sinh trưởng tốt, hứa hẹn sẽ đóng góp đáng kể vào nguồn thu nhập cho các hộ gia đình tham gia gây trồng [5]. Trần Ngọc Hải và cộng sự (2002), đã đánh giá vai trò kinh tế của LSNG ở 2 thôn người Dao tại xã Ba Vì. Tác giả cho rằng LSNG, đặc biệt là nhóm tre bương và cây dược liệu đóng vai trò quan trọng trong kinh tế hộ gia đình. Thực trạng khai thác sử dụng và tiềm năng gây trồng cây thuốc tại Vườn quốc gia Tam Đảo và vùng đệm, 2008, Đỗ Hoàng Sơn và cộng sự. Qua
  28. 20 điều tra họ thống kê được tại Vườn quốc Gia Tam Đảo và vùng đệm có 459 loài cây thuốc thuộc 346 chi và 119 họ trong 4 ngành thực vật là: Equisetophyta, Polypodiophyta, Pinophyta và Magnoliophyta. Người dân thuộc vùng đệm ở đây chủ yếu là người Dao và Sán Dìu sử dụng cây thuốc để chữa 16 nhóm bệnh khác nhau. Trong đó trên 90% số loài được sử dụng thu hái trong rừng tự nhiên. Mỗi năm có khoảng hơn 700 tấn thuốc tươi từ Vườn quốc gia Tam đảo được thu hái để buôn bán. Nguồn tài nguyên cây thuốc ở đây đang bị suy giảm khoảng 40% so với 5 năm trước đây. Trên cơ sở các nghiên cứu tác giả đã đề xuất 26 loài cây thuốc cần được ưu tiên và đưa vào bảo tồn. Từ nhiều năm qua, Viện Dược liệu đã thu thập hơn 500 loài cây thuốc đem về trồng, nhân giống ở các vườn cây thuốc. 65 loài có nguy cơ cao đã được trồng ở Trạm nghiên cứu trồng cây thuốc Sa Pa (Lào Cai), Vườn trạm nghiên cứu trồng cây thuốc Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Vườn Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến thuốc Hà Nội (Thanh Trì), Vườn trung tâm nghiên cứu dược liệu Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa) và vườn bảo tồn cây thuốc vùng cao Phó Bảng (Đồng Văn - Hà Giang). Các vườn thuốc này có đủ điều kiện giống như điều kiện sống tự nhiên của chúng và lý lịch thu thập, ngày trồng, tình hình sinh trưởng phát triển, ra hoa - quả được ghi lại để đánh giá khả năng bảo tồn (Lê Văn Giỏi, 2006) [6]. Vừa qua Viện Dược liệu và Bộ môn Dược liệu - Trường Đại học Dược Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu định tính và định lượng một số nhóm chất trong cây Chè đắng mọc tại Cao Bằng. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong lá Chè đắng có 5 nhóm chất: Saponin tổng, flavonoid tổng, polysaccharid tổng, carotenoid và các a-xít hữu cơ. Đây là những nhóm chất
  29. 21 có nhiều tác dụng sinh học quan trọng và từ lâu đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu (Dẫn theo Nguyễn Thị Thoa, 2006) [9] Dược thảo trong rừng mưa nhiệt đới, Phạm Minh Toại và cs, 2005, tác giả chỉ ra: với mức độ mất rừng như hiện nay thì hệ thực vật và động vật giàu có ở vùng nhiệt đới, bao gồm cả các loài dược thảo đã biết hoặc đang ở dạng tiềm năng sẽ bị huỷ diệt và các kiến thức bản địa liên quan cũng ít có cơ hội tồn tại. Việc mất rừng nhiệt đới rõ ràng đang đe doạ sự an toàn của loài người thông qua các tác động cùng tăng lẫn nhau như: trượt lở đất, lũ lụt và hoang mạc hoá, xói mòn đất và sự lây nhiễm một số bệnh tật. Tuy nhiên, sự tuyệt chủng của những loài dược thảo và sự mất đi của những thầy thuốc nam giỏi ở địa phương (thầy lang) còn là một nguy cơ lớn hơn nhiều đối với sức khoẻ con người ở cả các nước đang phát triển và các nước phát triển. Một số vấn đề bảo tồn cây thuốc mọc tự nhiên ở rừng, Nguyễn Văn Tập, 2005. Trong nguồn lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam, cây thuốc chiếm một vị trí quan trọng về thành phần loài cũng như về giá trị sử dụng và kinh tế. Theo kết quả điều tra cơ bản của Viện Dược liệu (Bộ Y tế) đến năm 2004 đã phát hiện được ở nước ta có 3.948 loài thuộc 1.572 chi và 307 họ thực vật (kể cả rêu và nấm) có công dụng làm thuốc. Trong số đó, trên 90% tổng số loài là cây thuốc mọc tự nhiên, chủ yếu trong các quần hệ rừng. Rừng cũng là nơi tập hợp hầu hết cây thuốc quý có giá trị sử dụng và kinh tế cao. Ngoài ra cũng có nhiều cá nhân nghiên cứu về chủ đề liên quan đến LSNG nhưng hầu hết các nghiên cứu này tập trung vào các loại tre trúc như: Thử nghiệm nhân giống Luồng của trường Đại học Lâm Nghiệp Việt Nam, nghiên cứu nhân giống và gây trồng các loài tre trúc lấy măng của Phân Viện Khoa học Lâm nghiệp miền Nam; nghiên cứu nhân giống tre Lồ Ô và Luồng của khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông Lâm Huế; một số tác giả khác đã
  30. 22 nghiên cứu về cây thuốc nam. Ngoài ra có một số đề tài nghiên cứu về khai thác và sử dụng cũng như chế biến các loài LSNG của một số cộng đồng dân tộc thiểu số của sinh viên khoa Lâm nghiệp của các trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Đại học Huế và Đại học Tây Nguyên. Nhận xét: Các kết quả nghiên cứu đã phác thảo một bức tranh về lâm sản ngoài gỗ với số lượng khổng lồ các giống loài. Chúng có dạng sống, đặc điểm sinh thái và giá trị sử dụng vô cùng đa dạng. Tính phong phú của lâm sản ngoài gỗ có ý nghĩa lớn trong giai đoạn hiện nay. Nó không phải là sản phẩm “phụ” mà là một trong những sản phẩm chính của rừng, có ý nghĩa đến quá trình phát triển kinh tế xã hội miền núi và góp phần bảo tồn và phát triển rừng. Gần đây, những phát hiện mới về tiềm năng của lâm sản ngoài gỗ như khả năng phục hồi nhanh, cho thu hoạch sớm với năng suất kinh tế cao và ổn định, có khả năng kinh doanh liên tục, phù hợp với quy mô hộ gia đình và đặc biệt là việc khai thác chúng gần như không tổn hại đến rừng đã thúc đẩy nhiều nhà khoa học tham gia vào nghiên cứu phát triển lâm sản ngoài gỗ. 2.3. Khái quát một số đặc điểm của cây Nghệ đen. Kế thừa các tài liệu nghiên cứu đã có và quy trình kỹ thuật trồng rừng của Viện Khoa học Lâm nghiệp cho thấy một số đặc điểm sinh thái học cơ bản của Nghệ đen như sau: 2.3.1. Đặc điểm nhận biết Cây thảo cao đến 1,5m. Thân rễ hình nón có khía chạy dọc, mang nhiều củ có thịt màu vàng tái. Ngoài những củ chính, còn có những củ phụ có cuống hình trứng hay hình quả lê màu trắng. Lá có đốm đỏ ở gân chính, dài 30– 60 cm, rộng 7–8 cm. Cụm hoa ở đất, thường mọc trước khi có lá. Lá bắc dưới xanh nhợt, lá bắc trên vàng và đỏ. Hoa vàng, môi lõm ở đầu, bầu có lông mịn.
  31. 23 Hình 2.1. Cây Nghệ đen 2.3.2. Đặc tính sinh học và sinh thái Nghệ đen có chứa 82,6% tinh bột, 1đến 1,5% tinh giàu. Củ nghệ đen chứa nhiều tinh giàu,vị đắng, tính cay mùi vị hăng, tính ấm. nghệ đen chứa đặc tính kháng khuẩn cao, có thể ngăn ngừa sự phát triển của virus gây hại đối với dạ dày và virus gây ung thư. Tinh dầu trong nghệ đen giúp làm tăng khả năng tiết mật nhưng lại không làm tăng nồng độ axit trong dạ dày, giúp ổn định dạ dày rất tốt. Nghệ đen có tính ấm giúp điều trị các bệnh lý khiến cơ thể bị lạnh từ bên trong như ho, cảm lạnh; điều hòa và lưu thông khí huyết, giúp giảm đau bụng kinh, điều trị kinh nguyệt không đều, máu đông, 2.3.2.1. Phân bố địa lý Nghệ đen là cây ưu khí hậu ôn hòa, nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển là 20-25 độ c . cây nghệ ưu đất tơi xốp những vùng cát pha ở đồng bằng, hoặc đất thịt nhẹ ở trung du miền núi đều thích hợp để trồng cây nghệ đen. Cây mọc hoang ở vùng núi ven suối và được trồng ở nhiều nơi. Là cây bản địa của Ấn độ và Indonesia.
  32. 24 2.3.2.2. Giá trị - Người ra dùng nghệ để chế biến làm thực phẩm: Cụ thể, dân gian ta dùng củ nghệ làm gia vị trong ăn uống. Chủ yếu lấy màu vàng gây cảm giác ngon và béo. Đem phơi và nghiền ra, nghệ là thành phần của bột cà ri. Nghệ là loại gia vị khử mùi tanh của cá, ốc, lươn. - Sử dụng làm thuốc chữa bệnh: Nghệ đen cho những vị thuốc thông dụng trong y học dân tộc. Thân rễ của nghệ gọi là khương hoàng. Trong củ nghệ có nhựa, curcumin (0,76 – 1,1%), tinh dầu (trên 1,5%), chất béo, tinh bột. Curcumin và tinh khuẩn. Nghệ đen được sử dụng làm thuốc giúp cho tiêu hóa. Chữa các bệnh về mật và gan, phụ nữ sinh đẻ xong bị đau bụng. Nghệ có tác dụng chống loét dạ dày. Làm giảm tiết dịch vị, làm giảm độ acid của dịch vị và có tác dụng chống viêm (ta thường dùng thuốc viên nghệ, kim truật, melamin). Nghệ dùng ngoài, bôi lên mụn nhọt, vết thương mới khỏi làm cho chóng lên da non và tránh làm sẹo. Nghệ là loại thuốc trị loét tốt (dùng dưới dạng nước ép trong một thời gian dài). Trong y học phương Đông, dân gian ta dùng nghệ đen rất nhiều. Để phòng bệnh sau khi sinh đẻ, người ta cho sản phụ ăn một củ nghệ nướng, uống với một ít rượu. Sau khi đẻ, nếu máu xông lên tim, người ta dùng nghệ đốt tồn tính, tán bột cho uống 8 g mỗi ngày với giấm. Trẻ em lên cơn suyễn, đờm kéo lên tắc nghẹt cổ, khó thở, dùng một gram nghệ giã nát, hòa với đồng tiện vắt lấy nước cốt uống. - Nghệ đen giúp chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ: Nghệ đen ngoài những công dụng hữu ích đối với sức khỏe, chúng ta còn được biết nhiều hơn nữa về loại củ này có khả năng làm đẹp cho phụ nữ. Tuy nhiên, người ta thường dùng nghệ đen dưới dạng tinh bột để giúp cho quá trình chăm sóc sắc đẹp diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tạo những loại mặt nạ tinh bột nghệ đen trị mụn trứng cá, ngăn ngừa quá trình lão hóa da và giúp giảm mờ sẹo thâm nhanh chóng.
  33. 25 2.4. Tổng quan cơ sở thực tập Địa điểm xây dựng mô hình vườn thực vật nằm trong Mô hình khoa Lâm nghiệp và nằm trong diện tích của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên do vậy cũng có các yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội đặc trưng của xã Quyết Thắn, thành phố Thái Nguyên . a. Đất đai Đất đai của xã Quyết Thắng được hình thành do hai nguồn gốc: Đất hình thành tại chỗ do phong hoá đá mẹ và đất hình thành do phù sa bồi tụ. Nhóm đất phù sa chiếm tỷ lệ ít, là nhóm đất ở địa hình bằng, được bồi đắp bởi sản phẩm phù sa của dòng chảy của các suối và do thời tiết, thời gian được chia thành. Đất phù sa không được bồi tụ hàng năm trung tính ít chua, thành phần cơ giới chủ yếu là thịt trung bình đất phù sa ít được bồi hàng năm trung tính ít chua, thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ. Nhóm đất xám bạc màu: phát triển trên đất phù sa cổ có sản phẩm Feralitic trên nền cơ giới nặng, đây là đất bạc màu có thành phần cơ giới nhẹ, dễ bị xói mòn, rửa trôi. Nhóm đất Feralit: Phân bố chủ yếu ở địa hình đồi núi, được phát triển trên phù sa cổ, dăm cuội kết và cát kết, loại đất này diện tích khá lớn. Đất khu vực vườn ươm là đất dốc tụ pha cát lẫn với đá nhỏ, đất có màu xám đen, hàm lượng dinh dưỡng trong đất thấp do đã sử dụng nhiều năm. Đất là đất feralit, nguồn gốc của đất xuất phát từ đá sa thạch, độ pH của đất thấp, đất nghèo mùn. Đất có độ màu mỡ thấp nên cây con sinh trưởng và phát triển mức trung bình, đôi khi có cây phát triển kém.
  34. 26 Bảng 2.1. Kết quả phân tích mẫu đất Độ sâu Chỉ tiêu Chỉ tiêu dễ tiêu/100g đất tầng đất(cm) Mùn N P205 K20 N P205 K20 Ph 1 – 10 1.766 0.024 0.241 0.035 3.64 4.65 0.90 3.5 10 – 30 0.670 0.058 0.211 0.060 3.06 0.12 0.44 3.9 30 - 60 0.711 0.034 0.131 0.107 0.107 3.04 3.05 3.7 b. Đặc điểm khí hậu, thời tiết Mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông lâm nằm trong khu vực xã Quyết Thắng thành phố Thái Nguyên nên mang đầy đủ các đặc điểm khí hậu của thành phố Thái Nguyên. Khí hậu nhiệt đới gió mùa,thời tiết chia làm 4 mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông. Có 2 mùa chính: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10,mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. (Nguyễn Văn Núi 2016) c. Dân số - lao động Xã Quyết Thắng có tổng số dân là 10.474 người, người dân nơi đây đa số sống chủ yếu dựa vào nghề sản xuất nông lâm nghiệp, chăn nuôi, hoạt động dịch vụ và đi làm thuê ngoài trong những lúc nông nhàn. Trình độ dân trí ở đây tương đối cao nhưng tỷ lệ hộ sống dựa vào ngành nông nghiệp vẫn còn cao. Số lao động trong độ tuổi là khoảng 5523 người chiếm 59,92% trong tổng số nhân khẩu của toàn xã. d. Giao thông- thủy lợi - Giao thông Xã Quyết Thắng có hệ thống giao thông tương đối hoàn chỉnh, các tuyến đường liên xã đều được nhựa hóa, hệ thống liên thôn đều được bê tông hóa tiện cho việc đi lại. Tuy nhiên chất lượng một số tuyến đường còn thấp nên gây khó khăn trong việc trao đổi mua bán hàng hóa của người dân.
  35. 27 - Thủy lợi Quyết Thắng không có sông lớn chảy qua địa bàn do vậy chủ yếu chịu ảnh hưởng chế độ thuỷ văn hệ thống kênh đào Núi Cốc, suối và hồ, ao trên địa bàn phục vụ cơ bản cho nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Ở đây người dân sống phần đa là sản xuất nông lâm nghiệp, vì vậy công tác thủy lợi được chính quyền xã cùng với nhân dân rất quan tâm và đầu tư. Toàn xã xây dựng được 15km kênh mương đảm bảo cung cấp đủ nước cho sản xuất. Hiện nay các thôn xóm cũng đã và đang tiến hành xây dựng những đoạn kênh mương còn lại nhằm đảm bảo cho việc cung cấp nước cho sản xuất nông lâm nghiệp đạt hiệu quả tốt. e. Kinh tế- xã hội - Sản xuất nông nghiệp: Chiếm 80% số hộ là sản xuất nông nghiệp, ngoài ra còn có sự kết hợp giữa vật nuôi và cây trồng. - Sản xuất lâm nghiệp: Từ 10 năm trở lại đây việc trồng cây gây rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc đã được tiến hành. Hiện nay toàn xã đã phủ xanh được phần lớn diện tích đất trống đồi núi trọc. Mặc dù thu nhập từ lâm nghiệp chưa đáng kể nhưng thời điểm này có một số rừng trồng đã đủ tuổi khai thác. - Dịch vụ: Hiện nay dịch vụ đang có sự phát triển đi lên. Nhìn chung kinh tế của xã vẫn chưa cao, quy mô sản xuất chưa lớn và chưa có kế hoạch cụ thể, rõ ràng đây là một điểm hạn chế của xã. Trong xã chưa phát triển tương đối giữa các ngành, mức sống của người dân vẫn chưa đồng đều. Trong những năm gần đây mức sống của người dân tăng lên rõ rệt. Hệ thống cơ sở hạ tầng của xã được đầu tư và phát triển đặc biệt là hệ thống giao thông, thủy lợi là lĩnh vực quan trọng để phục vụ về các mặt của đời sống, kinh tế, xã hội của nhân dân trong xã.
  36. 28 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: cây Nghệ đen (curcumazedoaria) thuộc Họ Gừng (Zingiberaceae) Phạm vi nghiêu cứu: Ảnh hưởng của một số công thức bón phân đến sinh trưởng cây Nghệ đen tại mô hình khoa Lâm Nghiệp – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Mô hình khoa Lâm Nghiệp – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Thời gian:1/1/2019-1/6/2019 3.3. Nội dung nghiên cứu 3.3.1. Đánh giá sinh trưởng của loài cây Nghệ đen (curcumazedoaria) khi sử dụng các công thức bón phân khác nhau 3.3.1.1. Tỷ lệ sống của cây Nghệ đen(curcumazedoaria) 3.3.1.2. Sinh trưởng chiều cao của cây Nghệ đen(curcumazedoaria) 3.3.1.3. Động thái ra lá của cây Nghệ đen(curcumazedoaria) 3.3.1.4. Sinh trưởng của củ. 3.3.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển cây Nghệ đen (curcumazedoaria) - Lựa chọn giống có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, có khả năng kháng sâu bệnh cao. - Chọn mùa vụ thích hợp để trồng. - Áp dụng các biện khoa học kĩ thuật vào trồng chăm sóc và bảo vệ cây. - Sử dụng các loại phân bón chuyên dụng để kích thích cây phát triển
  37. 29 3.4. Phương pháp 3.4.1. Phương pháp luận Sinh trưởng là sự biến đổi theo tuổi của các nhân tố điều tra, là sự tăng lên của một đại lượng nào đó nhờ kết quả đồng hóa của một vật sống. Quá trình sinh trưởng của cây rừng nói riêng, các loài thực vật nói chung là kết quả tổng hợp của nhân tố nội tại và điều kiện ngoại cảnh, vì vậy nếu điều kiện ngoại cảnh đồng nhất thì nhân tố nội tại sẽ quyết định đến quá trình sinh trưởng và phát triển của mỗi loài cây. Do đó trong cùng một loài cây ở một điều kiện ngoại cảnh khác nhau nó sẽ sinh trưởng khác nhau vì mỗi loại cây có phạm vi phân bố về điều kiện ngoại cảnh (khí hậu, đất đai ) nhất định, nếu nằm trong phạm vi phân bố thì cây sinh trưởng phát triển tốt còn nếu xa phạm vi phân bố cây sinh trưởng phát triển kém. - Trong toàn bộ đời sống của cây rừng, bản thân cây rừng chịu sự chi phối của môi trường quanh chúng. Tiểu hoàn cảnh bao gồm tiểu khí hậu và đất. Với đối tượng nghiên cứu là cây bản địa trồng trong mô hình nó chịu sự chi phối rất lớn của tiểu hoàn cảnh của các loài cây khác tạo ra. Do vậy: + Khi nghiên cứu sinh trưởng của cây bản địa phải đặt trong tổng thể của sự tác động của các loài cây khác và các nhân tố hoàn cảnh khác, nghĩa là phải đánh giá cả hiện trạng của thảm thực vật và các nhân tố sinh thái khác. + Để đánh giá được sinh trưởng của các loài cây trồng trong mô hình rừng phòng hộ đầu nguồn, đề tài cần phải nắm rõ được các biện pháp kỹ thuật đã áp dụng, trên cơ sở đó dựa vào các yếu tố môi trường xung quanh như đất đai, khí hậu, thảm thực bì để đánh giá ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố đó đến sinh trưởng của cây trồng. Từ đó đề xuất được các biện pháp kỹ thuật tạo điều kiện cho cây sinh trưởng và phát triển tốt hơn.
  38. 30 3.4.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên, 3 lần lặp/1 CTTN, có 40 cây/1 CTTN. Thí nghiệm gồm 4 công thức với 3 lần nhắc lại, tất cả là 480 cây. Có 4 công thức trong đó có 3 công thức sử dụng 2 loại phân bón: Phân NPK và phân chuồng hoai. Tỷ lệ phân bón ở mỗi công thức là khác nhau, công thức còn lại không sử dụng phân bón dùng làm mẫu đối chứng. Cụ thể tỉ lệ phân bón ở mỗi công thức như sau: - CT1: Công thức đối chứng. - CT2: Đất + 1kg phân chuồng ủ hoai mục + 1kg NPK trong khu vực 5m2 - CT3: Đất + 3kg phân chuồng ủ hoai mục + 1kg NPK trong khu vực 5m2 - CT4: Đất +5 kg phân chuồng ủ hoai mục + 1kg NPK trong khu vực 5m2 Sơ đồ bố trí các công thức thí nghiệm như sau: Bảng 3.1. Sơ đồ bố trí các công thức thí nghiệm Lần lặp lại Công thức thí nghiệm 1 CT.1 CT.2 CT.4 CT.3 2 CT.1 CT.4 CT.3 CT.2 3 CT.3 CT.1 CT.4 CT.2 3.4.3. Phương pháp thu thập số liệu - Các chỉ số cần theo dõi gồm có: +D00. + Hvn. + Số cây/khóm. + Số lá/cây: đếm số lá, đánh dấu cây được đếm bằng cách buộc dây. + Chiều dài, đường kính củ: dùng thước đo, thước kẹp cơ khí. + Chiều dài lá: Dùng thước đo. - Phương pháp theo dõi được thực hiện như sau:
  39. 31 Trong quá trình điều tra số liệu để dễ dàng hơn cho việc thu thập và điều tra, đã sử dụng biện pháp gắn mã số thẻ cho từng cây, gắn biển cây cho mỗi hàng trong mô hình giúp việc thu thập số liệu tốt hơn. + Đường kính sát gốc (D0.0), được đo sát gốc cây trồng bằng thước kẹp cơ khí, đo theo 2 chiều Đông – Tây và Nam – Bắc rồi tính trị số bình quân. + Chiều cao vút ngọn (Hvn) được đo bằng thước dây. Dùng bút xóa trắng kẻ 1 đường làm mốc ở gốc cây làm chuẩn rồi dùng thước đo từ điểm chuẩn đến đỉnh ngọn sinh trưởng của cây. + Chỉ số lá/cây, số cây/khóm đếm trực tiếp. - Quá trình thu thập số liệu được chia làm 3 đợt, định kỳ 2 tháng đo 1 lần đó là:  Đợt 1: Dự kiến ngày đo : 15/01/2019.  Đợt 2: Dự kiến ngày đo : 15/02/2019.  Đợt 3: Dự kiến ngày đo : 17/03/2019. 3.4.4. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu - Tỷ lệ sống: Trong đó: C%: Tỷ lệ sống, n: Số cây sống, N: Tổng số cây trồng trong mô hình. - Chiều cao trung bình của cây ở mỗi lần đo: Trong đó: : Là chiều cao trung bình của các cây; ∑h: Là tổng số đo chiều cao các cây; M: là tổng số cây. - Đường kính trung bình của các cây ở mỗi lần đo: [7]. Trong đó: ∑d: Là tổng số đo đường kính các cây; M: là tổng số cây. Số liệu sau khi thu thập được phân tích và xử lý trên phần mềm Excel 2010.
  40. 32 3.5. Kỹ thuật trồng và chăm sóc 3.5.1. Phương thức trồng Vườn thực vật được trồng hoàn toàn bằng củ và được thu thập từ các tỉnh như Bắc Kạn, Cao Bằng, Tuyên Quang Chỉ tiêu của củ được đem ra trồng là mới đào từ rừng, vườn trồng, củ được chọn phải củ tốt cả khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, mỗi củ có từ 2 mầm sinh trưởng trỏ lên. Do sưu tầm từ nhiều vùng khác nhau nên không thể có sự đồng nhất kích thước củ, số mầm cây. Bước 1: Phát dọn thực bì và tạo hố trồng cây trước khi làm đất nên diệt diệt cỏ để hạn chế cỏ dại cạnh tranh dinh dưỡng với cây trồng trính. Xử lý thực bì có thể Xử lý thực bì toàn diện, cuốc rẫy sới cỏ gạch đá tạo khoảng không gian để trồng cây. - Tạo ô diện tích 2,5x2,5m. Trong ô tạo 5 luống, độ rộng luống 30cm, mỗi luống cách nhau 20cm và cách thành ô 10cm - Trên mỗi luống dùng cuốc đào hố với kích thước 15x15x15cm Bước 2: bón phân lót Rắc khoảng 0,2–0,5kg phân vi sinh sông ranh xuống gốc làm phân lót cho cây. Bước 3: Đặt củ xuống hố Đặt củ ngay ngắn giữa hố, hướng phần có mầm sinh trưởng lên trên, đặt thấp hơn mặt hố từ 2-4cm. Bước 4: Lấp đất Khi lấp đất độ sâu khoảng 5-7cm. Không nên lấp quá giày sẽ ảnh hưởng đến khả năng nảy mầm của nghệ sau này. Lấp đất nhỏ phủ kín toàn bộ củ, dùng 2 bàn tay nén đất quanh củ theo chiều thẳng đứng. Lấp đất phủ kín mặt hố, vun đất vào gốc cây theo hình mâm xôi
  41. 33 3.5.2. Phương pháp chăm sóc Ở giai đoạn đầu của việc trồng củ, củ bắt đầu có mầm và phát triển thành cây con, cây vẫn rất yếu nên cần sự chăm sóc đặc biệt. Hơn thế nữa giai đoạn trồng vườn thực vật đang trong giai đoạn nắng nóng đỉnh điểm của miền bắc,. Mỗi ngày định kỳ tưới nước 1 lần vào cuối chiều trong vòng 1 tháng đầu để đảm bảo cây đủ lượng nước vượt qua giai đoạn nắng nóng và sự thích nghi ở môi trường mới trong mô hình, khi trời mưa nhiều tiến hành đào rãnh thoát nước làm giảm sợ ngập úng cho nghệ giúp nghệ sinh trưởng và phát triển một cách tốt nhất. - Khi cây còn nhỏ cần phải sới phá váng tạo điều kiện cho rễ củ phát triển tốt. Khi đã trồng 4-5 tháng cây đã hình thành củ không sấy sáo đất vì sẽ làm đứt rễ ở củ và chỉ nên làm cỏ bằng tay. - Sau khi trồng 20-25 ngày nghệ đen (curcuma zedoaria) có từ 4 đến 6 lá tiến hành làm cỏ sới vun gốc kết hợp với bón lót phân kali hoặc cho bếp. Vì nghệ là cây lấy củ không lấy lá, không nên để lá phát triển quá tốt. Trong trường hợp cây phát triển lá quá tốt tiến hành ngắt bỏ một số lá ở phía dưới gốc lúc này không nên bón phân đậm nữa ta chỉ nên bón phân kali để tạo điều kiện phát triển củ. giảm bớt số lần tưới chỉ cho cây đủ ẩm cây sẽ đanh lại
  42. 34 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đánh giá tỷ lệ sống cây Nghệ đen Kết quả tỷ lệ sống của cây Nghệ đen được thể hiện tại bảng 4.1a: Bảng 4.1a. Tỷ lệ sống của cây Nghệ đen Tỷ lệ CTTN Số cây trồng Số cây sống (%) Lần đo 1 CT1 120 99 82,5 CT2 120 102 85 CT3 120 105 87,5 CT4 120 111 92,5 Lần đo 2 CT1 120 96 80 CT2 120 99 82,5 CT3 120 102 85 CT4 120 108 90 Lần đo 3 CT1 120 93 77,5 CT2 120 96 80 CT3 120 99 82,5 CT4 120 105 87,5 T ừ kết quả tổng hợp tại bảng 4.1a ta thấy: tỷ lệ sống của cây Nghệ đen giảm dần theo các lần theo dõi. Tỷ lệ sống của cây Nghệ đen khi sử dụng các công thức bón phân khác nhau là khác nhau. Sau lần theo dõi thứ 3 có thể thấy rằng cây Nghệ đen có tỷ lệ sống cao nhất khi sử dụng công thức 4 đạt 87,5%, tiếp theo là công thức 3 đạt 82,5%, công thức 2 đạt 80% thấp nhất là
  43. 35 công thức 1 có tỷ lệ sống đạt 77,5%. Như vậy công thức 4 là tốt nhất đối với tỷ lệ sống của cây Nghệ đen. Bảng 4.1b. Phân tích phương sai một nhân tố đối với tỷ lệ sống cây Nghệ đen ANOVA Source of SS df MS F P-value F crit Variation Between 26.25 3 8.75 8.75 0.006604 4.066181 Groups Within 8 8 1 Groups Total 34.25 11 Đặt nhân tố A là các công thức phân bón ở thí nghiệm - Đặt giả thuyết H0: nhân tố A tác động đều lên kết quả thí nghiệm - Đặt đối thuyết H1: nhân tố A tác động không đồng đều lên kết quả thí nghiệm So sánh: ta thấy FA = 8,75 > F05 = 4,066181 Vậy giả thuyết H0 bị bác bỏ, chấp nhận đối thuyết H1 tức là nhân tố A tác động không đồng đều đến tỷ lệ sống cây Nghệ đen. Ảnh hưởng ở các công thức khác nhau là không giống nhau, có ít nhất một công thức tác động trội hơn các công thức còn lại. So sánh bảng Ducan (phụ lục 2) có thể thấy CT4 có ảnh hưởng tốt nhất đến tỷ lệ sống cây Nghệ đen so với các công thức còn lại.
  44. 36 Hình 4.1. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ sống của cây Nghệ đen 4.2. Đánh giá sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen Kết quả sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen được tổng hợp tại bảng 4.2a: Bảng 4.2a. Kết quả sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen Lần đo CTTN Hvn TB CT1 15.4 CT2 16,1 1 CT3 17.5 CT4 18.8 CT1 28.8 CT2 31.2 2 CT3 33.3 CT4 36.2 CT1 55.8 CT2 58.2 3 CT3 60.3 CT4 63.2
  45. 37 Dẫn liệu từ bảng 4.2a ta thấy: chiều cao của cây Nghệ đen qua các lần đo tăng lên rõ rệt. Tăng trưởng chiều cao của cây Nghệ đen sử dụng các công thức bón phân khác nhau là không giống nhau. Kết quả lần đo thứ 3 cho thấy chiều cao trung bình cây Nghệ đen sử dụng công thức 4 là cao nhất đạt 63,2cm, công thức 3 có chiều cao trung bình đạt 60,3cm, công thức 2 cây Nghệ đen có chiều cao trung bình là 58,2cm, chiều cao trung bình cây Nghệ đen sử dụng công thức 1 là thấp nhất đạt 55,8cm. Như vậy công thức 4 có ảnh hưởng tốt nhất đến sự sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen. Bảng 4.2b. Phân tích phương sai một nhân tố đối với chiều cao cây Nghệ đen ANOVA Source of SS df MS F P-value F crit Variation Between 87.89583 3 29.29861 20.99005 0.000379 4.066181 Groups Within 11.16667 8 1.395833 Groups Total 99.0625 11 Đặt nhân tố A là các công thức phân bón ở thí nghiệm - Đặt giả thuyết H0: nhân tố A tác động đều lên kết quả thí nghiệm - Đặt đối thuyết H1: nhân tố A tác động không đồng đều lên kết quả thí nghiệm So sánh: ta thấy FA = 20,99005 > F05 = 4,066181 Vậy giả thuyết H0 bị bác bỏ, chấp nhận đối thuyết H1 tức là nhân tố A tác động không đồng đều đến sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen. Ảnh hưởng ở các công thức khác nhau là không giống nhau, có ít nhất một công thức tác động trội hơn các công thức còn lại. So sánh bảng Ducan(phụ lục 3) có thể thấy CT4 có ảnh hưởng tốt nhất đến sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen so với các công thức còn lại.
  46. 38 Hình 4.2. Biểu đồ thể hiện sinh trưởng chiều cao cây Nghệ đen 4.3. Đánh giá sinh trưởng đường kính gốc cây Nghệ đen Bảng 4.3a. Kết quả sinh trưởng đường kính gốc cây Nghệ đen Lần đo CTTN Doo TB CT1 0.7 CT2 0.8 1 CT3 0.8 CT4 0.9 CT1 0.9 CT2 1 2 CT3 1.1 CT4 1.2 CT1 1.4 CT2 1.6 3 CT3 1.7 CT4 1.9 Kết quả tổng hợp tại bảng 4.3a cho thấy đường kính gốc của cây Nghệ đen tăng lên qua mỗi đợt theo dõi. Sinh trưởng đường kính của cây Nghệ đen sử dụng các công thức bón phân khác nhau là không giống nhau. Kết quả theo
  47. 39 dõi lần 3 cho thấy đường kính của cây Nghệ đen sử dụng công thức 4 có đường kính gốc lớn nhất đạt 1.9cm, tiếp theo là công thức 3 có đường kính gốc đạt 1,7cm, công thức 2 có đường kính gốc đạt 1,6cm, công thức 1 có đường kính nhỏ nhất đạt 1.4cm. Như vậy công thức 4 có ảnh hưởng tốt nhất đến sự sinh trưởng đường kính gốc cây Nghệ đen. Bảng 4.3b. Phân tích phương sai một nhân tố đối với đường kính gốc cây Nghệ đen ANOVA Source of SS df MS F P-value F crit Variation Between 0.3425 3 0.114167 22.83333 0.000282 4.066181 Groups Within Groups 0.04 8 0.005 Total 0.3825 11 Đặt nhân tố A là các công thức phân bón ở thí nghiệm - Đặt giả thuyết H0: nhân tố A tác động đều lên kết quả thí nghiệm - Đặt đối thuyết H1: nhân tố A tác động không đồng đều lên kết quả thí nghiệm So sánh: ta thấy FA = 22,83333 > F05 = 4,066181 Vậy giả thuyết H0 bị bác bỏ, chấp nhận đối thuyết H1 tức là nhân tố A tác động không đồng đều đến sinh trưởng đường kính gốc cây Nghệ đen. Ảnh hưởng ở các công thức khác nhau là không giống nhau, có ít nhất một công thức tác động trội hơn các công thức còn lại. So sánh bảng Ducan(phụ lục 4) có thể thấy CT4 có ảnh hưởng tốt nhất đến sinh trưởng đường kính gốc cây Nghệ đen so với các công thức còn lại.
  48. 40 Hình 4.3. Biểu đồ thể hiện sinh trưởng đường kính gốc cây Nghệ đen 4.4. Đánh giá sinh trưởng lá cây Nghệ đen Bảng 4.4a. Kết quả sinh trưởng lá cây Nghệ đen Lần CTTN Số lá TB đo CT1 1.6 CT2 1.9 1 CT3 2 CT4 2.3 CT1 2.3 CT2 2.7 2 CT3 2.8 CT4 3.1 CT1 2.9 CT2 3.3 3 CT3 3.7 CT4 4 Từ kết quả từ bảng 4.5a ta thấy số lượng lá cây Nghệ đen tăng lên qua các lần theo dõi. Số lượng lá của cây Nghệ đen sử dụng các công thức bón
  49. 41 phân khác nhau là khác nhau. Kết quả theo dõi số lượng lá cây Nghê đen lần thứ 3 cho thấy công thức 4 cho số lượng lá trung bình nhiều nhất đạt 4 lá/cây, tiếp theo là công thức 3 cây Nghệ đen có số là trung bình là 3,7 lá/ cây, công thức 2 cây Nghệ đen có số là trung bình là 3,3 lá/ cây, công thức 1 cho số lượng lá trung bình ít nhất đạt 2,9 lá/cây. Như vậy công thức 4 có ảnh hưởng tốt nhất đến sinh trưởng lá của cây Nghệ đen. Bảng 4.4b. Phân tích phương sai một nhân tố đối với sinh trưởng lá cây Nghệ đen ANOVA Source of SS df MS F P-value F crit Variation Between 2.369167 3 0.789722 24.29915 0.000226 4.066181 Groups Within 0.26 8 0.0325 Groups Total 2.629167 11 Đặt nhân tố A là các công thức phân bón ở thí nghiệm - Đặt giả thuyết H0: nhân tố A tác động đều lên kết quả thí nghiệm - Đặt đối thuyết H1: nhân tố A tác động không đồng đều lên kết quả thí nghiệm So sánh: ta thấy FA = 24,29915 > F05 = 4,066181 Vậy giả thuyết H0 bị bác bỏ, chấp nhận đối thuyết H1 tức là nhân tố A tác động không đồng đều đến động thái ra lá cây Nghệ đen. Ảnh hưởng ở các công thức khác nhau là không giống nhau, có ít nhất một công thức tác động trội hơn các công thức còn lại. So sánh với chỉ tiêu Ducan (phụ lục 5) có thể thấy CT4 có ảnh hưởng tốt nhất đến động thái ra lá cây Nghệ đen so với các công thức còn lại.
  50. 42 Hình 4.4. Biểu đồ thể hiện động thái ra lá cây Nghệ đen 4.5. Đánh giá sinh trưởng củ và chất lượng cây Nghệ đen Bảng 4.5. Đánh giá sinh trưởng chiều dài củ và chất lượng cây Nghệ đen Chất lượng cây Số cây Chiều CTTN Tốt TB Xấu sống dài củ Số Tỷ Số Số Tỷ lệ Tỷ lệ cây lệ cây cây CT1 31 15.5 14 45.2 10 32.3 7 22.6 CT2 32 17.6 22 68.8 6 18.8 4 12.5 CT3 33 18.9 24 72.7 5 15.2 3 9.1 CT4 35 21.2 28 80.0 6 17.1 2 5.7 Cây tốt: Là những cây phát triển cân đối về chiều cao và đừng kính, cây mọc dài, không sâu bệnh, không cụt ngọn Cây trung bình: là những cây có chiều cao thấp hơn so với cây tốt, cây không tròn đều, không sâu bệnh, không cụt ngọn Cây xấu: là những cây có các chỉ tiêu về sinh trưởng D00, Hvn thấp hơn cây trung bình; Là những cây cong queo, sâu bệnh, cụt ngọn, còi cọc
  51. 43 Hình 4.5. Biểu đồ thể hiện chiều dài củ của cây Nghệ đen Quan sát bảng 4.5 và biểu đồ hình 4.5 ta thấy chiều dài củ cây Nghệ đen sử dụng các công thức bón phân khác nhau có kích thước khác nhau. Cụ thể cây Nghệ đen sử dụng công thức 4 có chiều dài trung bình củ dài nhất đạt 21,2cm, tiếp theo là công thức 3 củ Nghệ đen có chiều dài đạt 18,9cm, công thức 3 củ Nghệ đen có chiều dài 17,6cm, cây Nghệ đen sử dụng công thức 1 có chiều dài trung bình củ ngắn nhất đạt 15,5cm. Đánh giá chất lượng cây Nghệ đen Hình 4.6. Biểu đồ thể hiện chất lượng cây Nghệ đen
  52. 44 Theo dõi biểu đồ hình 4.6 và bảng 4.6 ta thấy chất lượng cây Nghệ đen khi sử dụng các công thức bón phân khác nhau là không giống nhau, tỷ lệ cây có chất lượng tốt, trung bình, xấu là không đồng đều. Cây Nghệ đen có tỷ lệ cây đạt chất lượng tốt cao nhất khi sử dụng công thức 4 đạt 80%, cây chất lượng xấu chiếm tỷ lệ ít 5,7%. Công thức 3 cho tỷ lệ 72,7% tốt; 15,2% trung bình; 9,1 xấu. Công thức 2 cho tỷ lệ 68,8% tốt; 18,8% trung bình; 12,5% xấu. Cây Nghệ đen sử dụng công thức 1 có số cây đạt chất lượng tốt thấp nhất đạt 45,2%; cây chất lượng trung bình và xấu chiếm tỷ lệ lớn lần lượt là 32,3% và 22,6%. 4.6. Đề xuất một số giải pháp phát triển loài Nghệ đen * Biện pháp dải lớp nilon không màu xung quanh gốc cây: Trong nông nghiệp màng ni lông được sử dụng để phủ lên đất với mục đích: - Hạn chế bốc hơi nước của đất, giữ ẩm, giữ ấm cho đất, tiết kiệm nước tưới. - Chống rửa trôi phân bón, bảo vệ dinh dưỡng cho cây, tiết kiệm phân bón. - Không cho cỏ dại mọc, giảm công nhổ cỏ, đồng thời làm mất chỗ trú ẩn của sâu hại, bảo vệ cây trồng. - Giúp cây trồng quang hợp tốt hơn, hạn chế ánh sáng trong đất giúp rễ cây phát triển. - Tạo môi tường thuận lợi cho việc ứng dụng các kỹ thuật canh tác nông nghiệp hiện đại. * Xây dựng hệ thống tưới tự động: Đây được coi là một phương pháp tưới hoàn thiện và hiện đại, được áp dụng phổ biến trong phát triển nông nghiệp trên thế giới và cũng được ứng dụng nhiều tại Việt Nam. Hệ thống tưới nước tự động có nhiều lợi ích như tiết kiệm nguồn nước tưới, phù hộ với mọi điều kiện địa hình, kích thích cây tăng trưởng, năng suất tưới cao và giảm diện tích chiếm đất khi xây dựng kênh mương.
  53. 45 * Phân bón: Phân bón là nguồn cung cấp năng lượng sống cho cây trồng nên không thể thiếu; Khi bón phân hữu cơ cần phải qua khâu xử lý như ủ mục, chế biến để tăng dinh dưỡng, đỡ độc hại và giảm mầm mống bệnh chọ cây trồng. Mỗi năm bón phân phải bón theo tán, bón lót là chính, bón thúc theo kỹ thuật, Ngoài ra, có thể sử dụng các biện pháp bón phân mới như sử dụng phân vi sinh bón qua đường lá.
  54. 46 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Sau khi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp “Nghiên cứu và đánh giá sinh trưởng loài cây Nghệ đen (curcumazedoaria) thuộc nhóm lâm sản ngoài gỗ tại mô hình khoa Lâm Nghiệp Đại học Nông Lâm ” tôi có một số kết luận dưới đây: Cây Nghệ đen (curcumazedoaria) có khả năng thích nghi với điều kiện tự nhiên tại mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. Tỷ lệ sống cao và cho chất lượng tốt Việc sử dụng các công thức bón phân khác nhau trong quá trình thực hiện nhằm đánh giá được sự sinh trưởng của cây Nghệ đen với những chế độ dinh dưỡng khác nhau. - Về tỷ lệ sống: công thức 4 cho tỷ lệ sống là cao nhất đạt 87,5%, công thức 1 tỷ lệ sống là thấp nhất đạt 77,5%. - Về chiều cao: cây Nghệ đen sử dụng công thức 4 có chiều cao trung bình là cao nhất đạt 63,2cm, công thức 1 là thấp nhất đạt 55,8cm - Về đường kính gốc: cây Nghệ đen sử dụng công thức 4 có đường kính gốc trung bình là lớn nhất đạt 1,9cm, công thức 1 là nhỏ nhất đạt 1,4cm. - Về số lá: cây Nghệ đen sử dụng công thức 4 có số lá trung bình là nhiều nhất đạt 4 lá/cây, công thức 1 là ít nhất đạt 2,9 lá/cây. - Về chiều dài củ và chất lượng cây: cây Nghệ đen sử dụng công thức 4 có chiều dài trung bình củ là lớn nhất đạt 21,2cm, tỷ lệ cây tốt đạt 80%; công thức 1 là nhỏ nhất đạt 15,5cm, tỷ lệ cây tốt đạt 45,2%.
  55. 47 5.2. Kiến nghị Để đánh giá được chính xác sinh trưởng của cây Nghệ đen (curcumazedoaria) tôi xin được đưa ra một số kiến nghị như sau: Tiến hành trồng cây Nghệ đen ở các thời điểm khác nhau trong năm Lựa chọn khu vực đất có điều kiện thổ nhưỡng khác để trồng Sử dụng các loại phân bón khác nhau Thí nghiệm cần được thực hiện nhiều lần để kết quả được chính xác nhất
  56. 48 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu trong nước 1. Bộ Lâm nghiệp – Kế hoạch phát triển Đặc sản rừng (1981-1990). 2. La Quang Độ (2001), Tìm hiểu việc sử dụng thực vật rừng làm thuốc, rau ăn của nhân dân các xóm Bản Cán, Nà Năm thuộc vườn quốc gia Ba Bể - tỉnh Bắc Kạn, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 3. Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên (2000), Giáo trình Thực vật rừng, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 4. Lê Mộng Chân, Vũ Văn Dũng (1992), Thực vật đặc sản rừng - Đại học lâmnghiệp, Xuân Mai, Hà Tây. 5. Lê Thị Diên, Nguyễn Xuân Cẩm, Trần Minh Đức (2006), Kỹ thuật gây trồng một số loài cây thuốc nam dưới tán rừng tự nhiên, Trường Đại học Nông Lâm Huế. 6. Lê Văn Giỏi (2006), Mô hình trồng cây thuốc nhập nội ở Sa Pa, Bản tin Lâm sản ngoài gỗ, (6/2006), trang 18-19. 7. Nguyễn Chiều, Nguyễn Tập (2006), Mô hình trồng ba kích ở vùng trung du và núi thấp, Bản tin Lâm sản ngoài gỗ, (6/2006), trang 4-5. 8. Nguyễn Tiến Bân (1994), Một số rau dại ăn được ở Việt Nam, Nxb Quân đội Nhân dân. 9. Nguyễn Thị Thoa (2006), Hiện trạng bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại xã Quân Chu huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Tam Đảo, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 10. Nguyễn Văn Tập (2005), “Một số vấn đề bảo tồn cây thuốc mọc tự nhiên ở rừng”, Bản tin Lâm sản ngoài gỗ, (4), trang 8.
  57. 49 11. Nguyễn Văn Tập (2006), “Những phát hiện về tài nguyên cây thuốc tại xã Đồng Lâm, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Nam”, Bản tin Lâm sản ngoài gỗ, (10/2006), trang 20-21. 12. Phan Văn Thắng (2002), Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố hoàn cảnh đến sinh trưởng của thảo quả tại xã San Sả Hồ- Sa Pa - Lào Cai. 13. Phùng Tửu Bôi (2005), Trồng và chế biến Thạch đen - một nghề cổ truyền của dân tộc Tày Nùng, Bản tin Lâm sản ngoài gỗ, (1), trang 14. 14. Trần Hồng Hạnh (1996), Nghề thuốc nam cổ truyền ở làng Nghĩa Trai, Luận án tốt nghiệp khoa học lịch sử chuyên ngành dân tộc học. 15. Trần Thị Lan (2005), Nghiên cứu một số giải pháp bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại xã San Thàng - thị xã Lai Châu - tỉnh Lai Châu Khóa luận tốt nghiệp đại học, chuyên ngành Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 16. Viện Dược liệu (2002), Số liệu và khai thác, thu mua dược liệu ở Việt Nam từ năm 1961 đến nay, Hà Nội. II. Tài liệu nước ngoài 17. Everlyn Mathias (2001), Phương pháp thu thập và sử dụng kiến thức bản địa, (tập II). 18. Wichens (1991), Việc sử dụng hệ sinh thái cho mục đích giải trí, bảo tồn thiên nhiên, quản lý vùng đệm thuộc về lĩnh vực dịch vụ của rừng”.
  58. MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Cây Nghệ đen lần đo đầu tiên đầu tiên Cây Nghệ đen ở lần đo thứ 2
  59. Tiến hành đo chiều cao cây Nghệ đen Củ Nghệ đen
  60. Phụ lục 1 Phiếu tổng hợp các chỉ tiêu sinh trưởng cây Nghệ đen Chiều Chất lượng STT Hvn Doo Số lá dài củ Tốt TB Xấu 1 2 3 4 5 40
  61. Phụ lục 2 Phân tích phương sai ANOVA đối với tỷ lệ sống cây Nghệ đen ANOVA Source of Variation SS df MS F P-value F crit Between Groups 26.25 3 8.75 8.75 0.006604 4.066181 Within Groups 8 8 1 Total 34.25 11 Tỷ lệ sống CT N Subset for alpha = 0.05 1 2 3 4 93.000 CT1 3 0 96.000 CT2 3 0 Duncana 99.000 CT3 3 0 105.000 CT4 3 0 Sig. 1.000 1.000 1.000 1.000 Means for groups in homogeneous subsets are displayed. a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000.
  62. Phụ lục 3 Phân tích phương sai ANOVA đối với chiều cao cây Nghệ đen ANOVA Source of SS df MS F P-value F crit Variation Between 87.89583 3 29.29861 20.99005 0.000379 4.066181 Groups Within 11.16667 8 1.395833 Groups Total 99.0625 11 Hvn TB CT N Subset for alpha = 0.05 1 2 3 55.833 CT1 3 3 58.166 CT2 3 7 Duncana 60.333 CT3 3 3 63.166 CT4 3 7 Sig. 1.000 .055 1.000 Means for groups in homogeneous subsets are displayed. a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000.
  63. Phụ lục 4 Phân tích phương sai ANOVA đối với đường kính gốc cây Nghệ đen ANOVA Source of SS df MS F P-value F crit Variation Between 0.3425 3 0.114167 22.83333 0.000282 4.066181 Groups Within 0.04 8 0.005 Groups Total 0.3825 11 Doo TB CT N Subset for alpha = 0.05 1 2 3 CT1 3 1.4333 CT2 3 1.6333 Duncana CT3 3 1.7333 CT4 3 1.9000 Sig. 1.000 .122 1.000 Means for groups in homogeneous subsets are displayed. a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000.
  64. Phụ lục 5 Phân tích phương sai ANOVA đối với động thái ra lá cây Nghệ đen ANOVA Source of Variation SS df MS F P-value F crit Between Groups 2.369167 3 0.789722 24.29915 0.000226 4.066181 Within Groups 0.26 8 0.0325 Total 2.629167 11 Số lượng lá CT N Subset for alpha = 0.05 1 2 3 CT1 3 2.8667 CT2 3 3.2333 Duncana CT3 3 3.7000 CT4 3 4.0333 Sig. 1.000 1.000 .053 Means for groups in homogeneous subsets are displayed. a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000.