Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai

pdf 76 trang thiennha21 19/04/2022 3930
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_tri_thuc_ban_dia_su_dung_cay_thuoc_tai.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  NGUYỄN MINH HIẾU NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ NẬM PUNG, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính qui Chuyên ngành/Ngành : ST&BTĐDSH Lớp : K47ST&BTĐDSH Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2015 - 2019 THÁI NGUYÊN - 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  NGUYỄN MINH HIẾU NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ NẬM PUNG, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính qui Chuyên ngành : ST&BTĐDSH Lớp : K47 ST&BTĐDSH Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Thu Hiền THÁI NGUYÊN - 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là quá trình điều tra trên thực địa hoàn toàn trung thực, chưa công bố trên các tài liệu, nếu có gì sai tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn. Thái Nguyên, ngày 10 tháng 06 năm 2019 XÁC NHẬN CỦA GVHD NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thu Hiền Nguyễn Minh Hiếu Xác nhận của giáo viên chấm phản biện Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa sai sót sau khi hội đồng chấm yêu cầu. (Ký, ghi rõ họ tên) Phạm Thu Hà
  4. ii LỜI CẢM ƠN Được sự phân công của Nhà trường, Khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sau 5 tháng thực tập em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai”. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân còn có sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, bạn bè, cô chú, anh chị tại địa bàn xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Xin cảm ơn cô giáo – TS. Nguyễn Thị Thu Hiền, người đã hướng dẫn cho em trong suốt thời gian thực tập đã chỉ dẫn, định hướng đi cho em để em hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xin cảm ơn sự giúp đỡ của cán bộ Ủy ban Nhân dân xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và cán bộ Kiểm lâm Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, cùng sự chỉ bảo tận tình của các thầy lang, bà mế thuộc xã Nậm Pung. Đồng thời xin cảm ơn thầy cô giáo Khoa Lâm nghiệp, các bộ phận liên quan thuộc Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và người thân trong gia đình cùng bạn bè thân thiết đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, tuy nhiên do hạn chế về kinh nghiệm cũng như về thời gian và trình độ nghiên cứu nên khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý, chỉ bảo của thầy cô cũng như các bạn đọc khác để khóa luận được hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 10 tháng 06 năm 2019 Nguyễn Minh Hiếu
  5. iii DANH LỤC BẢNG Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng một số dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và điều trị bệnh 26 Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu 30 Bảng 4.2. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ 33 Bảng 4.3. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) 34 Bảng 4.4. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu . 36 Bảng 4.5. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu 38 Bảng 4.6. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận 40 Bảng 4.7. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc 42 Bảng 4.8. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc 44 Bảng 4.9. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể 45 Bảng 4.10. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Vú Chó và cây Khổ sâm cho lá 48
  6. iv DANH LỤC HÌNH Hình 3.1: Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài 27 Hình 4.1: Hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 32 Hình 4.2. Tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 37 Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 38 Hình 4.4: Hình ảnh hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết 49
  7. v MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i DANH LỤC BẢNG iii DANH LỤC HÌNH iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vii PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài 2 1.3.1. Ý nghía khoa học 2 1.3.2. Ý nghĩa thực tiến 2 PHẦN 2: TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 3 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 3 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới 3 2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước 11 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 21 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 21 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 23 PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 24 3.2. Nội dung nghiên cứu 24 3.3. Phương pháp nghiên cứu 25 PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 30 4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai 30 4.1.1. Đa dạng các bậc taxon 30
  8. vi 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc 35 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc 37 4.1.4 Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Nậm Pung, huyện Bát xát, tỉnh Lào Cai 40 4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại khu vực nghiên cứu 42 4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc 42 4.2.2. Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc 45 4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Dao ở khu vực nghiên cứu 48 PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO 52 PHỤ LỤC
  9. vii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ đầy đủ Cc Cả cây Đ Sống ở đồi Ha Quả, hoa HTKK Hoạt tính kháng khuẩn KVNC Khu vực nghiên cứu KH&CN Khoa học & công nghệ L Lá Lp Dây leo Me Cây gỗ trung bình Mi Cây gỗ nhỏ Na Cây bụi Nghiên cứu tài nguyên & môi NCTN & MT trường NĐ - CP Nghị định Chính phủ R Rễ R Sống ở rừng ST & TNSV Sinh thái & tài nguyên sinh vật Th Thân thảo/thân UBND Ủy ban nhân dân V Vỏ KBT Khu bảo tồn Vs Sống ven sông ven suối Vu Sống ở vườn
  10. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [21]. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng cộng đồng dân tộc thiểu số đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri thức dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc chữa bệnh. Bát Xát là huyện có tài nguyên rừng tương đối phong phú và đa dạng so với các huyện khác của tỉnh Lào Cai. Huyện có diện tích rừng là 46.421,2ha chiếm 33,7% tổng diện tích rừng toàn tỉnh, chủ yếu là rừng hệ thứ sinh. Hệ sinh thái ở Bát Xát còn tương đối tốt, nhiều động thực vật quý hiếm còn tồn tại đặc biệt là ở vùng cao Ý Tý, Dền Sáng, Sàng Ma Sáo, Trung Lèng Hồ và Nậm Pung. Huyện Bát Xát có 23 đơn vị hành chính gồm 1 thị trấn và 22 xã. Người dân ở đây chủ yếu là các đồng bào dân tộc thiểu số gồm 14 dân tộc nhưng chủ yếu là Dao, H’Mông, Dao, Hà Nhì, Dáy. Trong đó đời sống người H’Mông và người Dao có quan hệ mất thiết với tài nguyên thiên nhiên. Mỗi dân tộc lại mang bản sắc và kinh nghiệm chữa bệnh bằng thực vật làm thuốc rất đa dạng. Trong đó, cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai cũng có nhiều kinh nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng cây thuốc. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng khai thác tài nguyên rừng (Cây thuốc, cây cảnh, rau rừng, ) của người dân địa phương bán cho các thương lái Trung Quốc và khách du lịch, tham quan dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm. Mặt khác những bài thuốc được cộng đồng dân
  11. 2 tộc thiểu số sử dụng từ lâu đời trong việc phòng và trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở khoa học của các bài thuốc chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con đường khoa học. Vì vậy, để cung cấp các cơ sở khoa học góp phần bảo vệ nguồn gen cây thuốc, bảo tồn và phát triển các bài thuốc của một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tôi đề xuất ý tưởng đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”. 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài - Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. - Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai sử dụng trong phòng và trị bệnh. - Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện có ở khu vực nghiên cứu. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa khoa học - Xác định được tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai. - Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao tại khu vực nghiên cứu. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
  12. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu Phòng và chữa bệnh bằng các loài thảo dược đã được con người sử dụng từ hàng ngàn năm nay. Nó vẫn đang tồn tại và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hàng năm, con người đã tìm ra được những hoạt chất quý trong các loài thảo dược có thể phòng và chữa trị được những căn bệnh từ đơn giản hàng ngày như cảm cúm, ho sốt đến những căn bệnh nan y như ung thư, bệnh tim, suy thận, hay những căn bệnh nhiệt đới nguy hiểm như dịch cúm A H5N1, H1N1, Các cây thuốc và bài thuốc có được nhờ kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ giờ đây đang dần mất đi theo thời gian. Do đó việc gìn giữ vốn kiến thức quý báu trong việc sử dụng cây thuốc và bài thuốc từ thảo dược là việc hết sức cần thiết. Theo tổ chức y tế thế giới WHO, khoảng 80% dân số hiện nay trên thế giới vẫn dựa vào thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng (Nguyễn Hoàng Sơn, 2014) [76]. Trong tuyên ngôn Alma Ata năm 1978 và “Hướng dẫn đánh giá y học cổ truyền” năm 1991, WHO luôn khuyến nghị dùng các thuốc cổ truyền vào chăm sóc sức khỏe ban đầu (Nguyễn Hoàng Sơn, 2014) [76]. Vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và bài thuốc cho thế hệ hôm nay và mai sau. 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới Tổ tiên loài người từ khi xuất hiện đã gắn bó với thiên nhiên, trải qua quá trình đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật để sinh tồn. Trong quá trình đó, tổ tiên chúng ta ngay từ khi còn là các tộc người đã sớm phát hiện ra những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, đồng thời trong cuộc sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc và phương pháp chữa bệnh.
  13. 4 Khoảng 60.000 năm trước đây, bằng chứng về sự tồn tại của các loài thực vật được sử dụng cho mục đích chữa bệnh đã tìm thấy trong ngôi mộ cổ của người Neanderthal có 8 loài cây thuốc (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, 2016) [73]. Đóng góp quan trọng về mô tả cây thuốc đã được thực hiện bởi Dioscorides, một bác sĩ trong quân đội La Mã đã viết “De materia medica” trong khoảng những năm tác giả 60 tuổi. Bộ sách này được viết bằng tiếng Hy Lạp mô tả nguồn gốc, đặc điểm và công dụng của khoảng 500 loài thực vật và quy trình sử dụng 1.000 loại thuốc đơn giản (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, 2016) [73]. Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên thế giới: Ở Châu Á: Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như: Sanjay Kr Uniyal và cộng sự (2006) [63] khi nghiên cứu về sử dụng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc giữa các cộng đồng của vùng Chho Bhangal, phía Tây dãy Hymalaya đã tìm thấy 35 loài thực vật thường được người dân địa phương sử dụng trong việc chữa các bệnh khác nhau. Yanchun Liu và cộng sự (2009) [69], đã ghi nhận và thu thập 68 loài cây thuốc trong 64 chi thuộc 40 họ được người Tây Tạng sử dụng để chữa các bệnh khác nhau. Manju Panghal và cộng sự (2010) [53] khi nghiên cứu kiến thức bản địa về cây thuốc được sử dụng ở cộng đồng Saperas của làng Khetawas, quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã tìm thấy 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên
  14. 5 cứu này cây thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ Fabaceae. Arshad Abbasi và cộng sự (2013) [38] khi thẩm định về thực vật học và các giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học của Lesser dãy Hymalaya đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38 chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và tiêu thụ. Mi-Jang Song và cộng sự (2013) [57] khảo sát cây thuốc ở đảo Jeju, Hàn Quốc đã tìm thấy 171 loài thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, 777 cách sử dụng các loài cây thuốc của người dân bản địa được ghi lại. Auemporn Junsongduang và cộng sự (2013) [39] nghiên cứu về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã chỉ ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng nhiều nhất. Naveed Akhtar và cộng sự (2013) [61] nghiên cứu về đa dạng và sử dụng cây thuốc dân tộc trong khu vực Swat, Bắc Pakistan đã ghi nhận 106 loài thực vật thuộc 54 họ được người dân bản địa sử dụng để điều trị bệnh. Homervergel G. Ong và Young - Dong Kim (2014) [50] nghiên cứu về thực vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippin đã tìm thấy 142 loài cây dược liệu thuộc 55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh. Tahira Bibia và cộng sự (2014) [65] nghiên cứu thực vật dân tộc của cây thuốc ở quận Mastung của tỉnh Balochistan, Pakistan đã chỉ ra 102 loài thực vật thuộc 47 họ được người dân sử dụng cho mục đích điều trị các loại bệnh khác nhau.
  15. 6 Mi-Jang Song và cộng sự (2014) [58] khi điều tra và phân tích các kiến thức truyền thống về cây thuốc được sử dụng bởi các cư dân tại Vườn quốc gia (VQG) Gayasan, Hàn Quốc đã điều tra và thống kê 200 loài thực vật thuộc 168 chi và 87 họ được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau như: rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết cắt vết thương. Dol Luitel và cộng sự (2014) [45] khi nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal đã tìm thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau. Ở Châu Âu: Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ (Evidence-Based Complementary và cộng sự, 2012) [72]. Những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân bản địa được thực hiện: Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự (2014) [52] khi nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc trong công viên tự nhiên của Sera de Saox Mamede, Bồ Đào Nha đã cung cấp thông tin của 165 loài thực vật được sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Maria Leporatti và cộng sự (2007) [54] khi nghiên cứu về một số công dụng của cây thuốc trong khu vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền Nam nước Ý đã chỉ ra 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da, bệnh về đường hô hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp.
  16. 7 Montse Parada và cộng sự (2009) [60] nghiên cứu thực vật dân tộc của khu vực Alt Empordaf, Catalonia, bán đảo Iberia đã tìm thấy trên 518 loài thực vật thuộc 335 chi và 80 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Maria Leporatti và Kamel Gheddira (2009) [71] khi phân tích so sánh các cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền tại Ý và Tunisia đã ghi nhận 153 loài thực vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị các bệnh khác nhau. Ugur Cakilcioglu và cộng sự (2011) [67] khi khảo sát cây thuốc ở Maden, Elazig, Thổ Nhĩ Kỳ đã tìm thấy 88 loài thực vật thuộc 41 họ được sử dụng cho mục đích điều trị bệnh. Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) [41] nghiên cứu về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo đã ghi nhận 98 loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae. Seyid Ahmet Sargin và cộng sự (2013) [70] nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương của Alasehir, Manisa, Thổ Nhĩ Kỳ đã thu thập được 137 loài thực vật được người dân bản địa sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Gorka Menedez-Baceta và cộng sự (2014) [49] nghiên cứu về cây dược liệu truyền thống được sử dụng ở phía Tây Bắc của xứ Basque, bán đảo Iberia đã chỉ ra 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng để điều trị bệnh, trong đó các cây được sử sụng nhiều nhất thuộc họ Asteraceae. Ở Châu Mĩ: Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng được thực hiện:
  17. 8 Rainer W Bussmann và Douglas Sharon năm (2006) [62] nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cổ truyền ở miền Bắc Peru đã ghi nhận 510 loài thực vật được người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh, các cây thuộc các họ được sử dụng nhiều nhất là: Asteraceae, Fabaceae, Lamiaceae, Solanaceae, Euphorbiaceae và Poaceae. Cecilia Almeida và cộng sự (2006) [43] nghiên cứu cây thuốc phổ biến được sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần. Gabriele Volpato và cộng sự (2009) [47] nghiên cứu sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra 123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Gaia Luziatelli và cộng sự (2010) [48] nghiên cứu cây thuốc của cộng đồng Ashaninka (một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki, Junin, Peru đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae. Yadav Uprety và cộng sự (2012) [68] nghiên cứu sử dụng cây thuốc trong rừng phương Bắc của Canada đã điều tra và thống kê 546 loài cây thuốc được sử dụng bởi những người thổ dân của rừng phương bắc Canada, các loại cây thuốc này được sử dụng để điều trị 28 bệnh và triệu chứng rối loạn khác nhau, trong đó các cây thuốc được sử dụng để chữa bệnh rối loạn dạ dày – ruột, rối loạn cơ xương là chủ yếu.
  18. 9 Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón và cộng sự, 2014) [46]. Nghiên cứu “Cây thuốc trong bối cảnh văn hóa của một cộng đồng Mapuche – Tehuelche trong thảo nguyên Datagonia Argentina” đã chỉ ra 121 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến tiêu hóa, hô hấp, tim mạch, giảm đau, chống viêm, sản khoa, phụ khoa và sinh dục (Soledad Molares và Ana Ladio, 2014) [64]. Ở Châu Phi: Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú (Cây thuốc Châu Phi, 2013) [36]: Rainer W Bussmann (2006) [66] nghiên cứu về thực vật dân tộc của Samburu ở Nam Turkana, Kenya đã thống kê được 448 loài thực vật mà người dân bản địa sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Tilahun Teklehaymanot và Mirutse Giday (2007) [64] nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc được sử dụng bởi người dân ở Zegie Peninsula, Tây Bắc Ethiopia đã ghi nhận 67 loài cây thuốc thuộc 64 chi và 42 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến rối loạn tiên hóa, kí sinh trùng và nhiễm trùng. Woldu và Tilahun Teklehaymanot (2009) [59] nghiên cứu về kiến thức cây thuốc của dân tộc Bench ở Ethiopia đã tìm thấy 35 loài thực vật được sử dụng để làm thuốc, trong đó 32 loài được sử dụng để điều trị các bệnh cho người và 3 loài được sử dụng để điều trị các bệnh cho cả người và gia súc.
  19. 10 Theo nghiên cứu của David J Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc, Cameroon”, đã xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae (David J Simbo, 2010) [44]. “Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cộng sự, 2011) [37]. “Nghiên cứu cây thuốc của Otwal và Ngãi ở quận Oyam, Bắc Uganda”, đã chỉ ra 71 loài thực vật thuộc 41 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae (Maud M Kamatenesi và cộng sự, 2011) [55]. Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển Agnalazaha Đông Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi nhận 8 loài được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan đến tình dục như bệnh lậu và giang mai (Mendrika Razafindraibe và cộng sự, 2013) [56]. Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cộng sự, 2014) [42]. Kết quả nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền bởi những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia, đã thống kê được 49
  20. 11 loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [40]. Ở Châu Úc: Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được thực hiện ở châu Úc còn rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales, Australia, đã ghi nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị các bệnh (Joanne Packera và cộng sự, 2012) [51]. Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ rất lâu đời. Trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật. Từ những buổi đầu sơ khai, từ khi con người còn sống theo lối nguyên thủy, trong quá trình tìm tòi thức ăn, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra công dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một quãng thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng ta đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của các loài cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [21]. Thế kỷ thứ XI (TCN), Người dân Việt Nam ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm miệng, uống nước chè xanh cho mát và nụ vối cho dễ tiêu, điều đó nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Từ xa xưa, thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã biết nấu rượu, biết dùng Thủy ngân để ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ đã biết
  21. 12 chữa bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [21]. Thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông khi bị điên đã được lương y Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm nước Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [21]. Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên trồng và bán các loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện dược liệu, 1993) [27]. Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tôn trọng, gọi là “Ông thánh thuốc Nam”. Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không lấy tiền và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt dùng thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Thời kỳ nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện, có lương y chăm lo việc chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt phòng và chống dịch bệnh cho nhân dân. Trong giai đoạn này có làng thuốc ở thôn Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [21].
  22. 13 Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791) đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh dương an toàn trạch” gọi tắt là “Lãn Ông Y Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008) [19]. Suốt 30 năm của cuộc dời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị và dược liệu. Ngoài các bộ sách nêu trên, còn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm” của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam dược” với 620 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [21]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh, là những danh y nổi tiếng thời này, đã góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về phương thuốc dân gian. Thời kỳ Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số hoạt động như: Thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng chữa bệnh, tổ chức triển lãm y học cổ truyền, (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [21]. Đến đầu thế kỷ XX, đã cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam
  23. 14 dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người Việt góp công nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược tính hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc. Công trình nghiên cứu của Crévót, Pétélot. Pétélot đã cho xuất bản bộ “Catalogue des produits de L’Indochine” (1928 – 1935), trong đó tập V (Produits medicinaux, 1928) đã mô tả 368 cây thuốc và vị thuốc là các loài thực vật có hoa. Năm 1952, tác giả đã cho bổ sung và xây dựng thành bộ “Les plantes de médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam”, gồm 4 tập và thống kê được 1.482 vị thuốc thảo mộc ở ba nước Đông Dương (Lê Thị Thanh Hương, 2007) [12]. Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210 TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau: “Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá trị, phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ Văn Chi, 1996) [5]. Chính vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ sách “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên soạn năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập. Trong đó, tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam (Nguyễn Tập, 2007) [15]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và trrong những năm từ 1962 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những
  24. 15 cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các loài cây thuốc trong các công trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản nhiều lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm 2003. Lần tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [12]. Bộ sách của ông đã mang lại giá trị khoa học và giá trị thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại. Trong những năm này, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [11]; Trần Đình Lý với cuốn “1900 loài cây có ích” năm 1995, đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [12]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Võ Văn Chi là một nhà thực vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu về các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [8]. Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [8]. Từ những năm 2000 cho đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan
  25. 16 tâm tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [13]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [1] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [2]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược” (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [8]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [11]; “cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cộng sự (2000) [16] đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến, Đồng thời, có nhiều công trình nghiên cứu về cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng Quang Châu đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau (Đặng Quang Châu, 2011) [4]. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải khi điều tra các loài cây của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ (Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải, 2003) [3]. Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương Lưu Đàm Cư và cộng sự (2004) [7] khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng: cây lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H’mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc. Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [20] đã xây dựng các mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 năm 2011 tại Hà Nội, đã có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài
  26. 17 cây thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam được công bố như: một số kết quả nghiên cứu “Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến đã chỉ ra 65 loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường sử dụng làm thuốc chữa bệnh về thận (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Đánh giá đa dạng nguồn gen cây thuốc của người Sán Chí ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và cộng sự đã xác định được 90 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 82 chi, 50 họ thực vật của 2 ngành thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân tộc Sán Chí ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên dùng làm thuốc (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận đã thu được 35 loài thuộc 27 chi, 21 họ của 2 ngành thực vật bậc cao được sử dụng làm thuốc chữa bệnh thay thế mật gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Nghiên cứu thực vật có giá trị làm thuốc của dân tộc Thái trong Khu bảo tồn Pù Luông – Thanh Hóa” của tác giả Đậu Bá Thìn và cộng sự (2011) [9] đã điều tra, thu thập và phân loại được 226 loài cây có giá trị làm thuốc của đồng bào dân tộc Thái. “Cây thuốc truyền thống của đồng bào dân tộc Thái ở hai huyện Quỳ Hợp và Quế Phong, miền núi tỉnh Nghệ An” của tác giả Phạm Hồng Ban và Nguyễn Thượng Hải (2013) [10] đã xác định được 287 loài thuộc 204 chi, 87
  27. 18 họ của 4 ngành thực vật bậc cao được đồng bào dân tộc Thái sử dụng làm thuốc. “Tri thức sử dụng các loài cây thuốc của công đồng dân tộc Cơ Tu và Vân Kiều tại vùng đệm Vườn Quốc gia Bạch Mã” của tác giả Ninh Khắc Bản và cộng sự (2013) [10] qua điều tra đã ghi nhận được 249 loài cây thuốc thuộc 82 họ, 178 chi được người Cơ Tu sử dụng, người Vân Kiều với 27 loài cây thuốc thuộc 21 họ, Nguyễn Xuân Hoà, Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Nguyễn Nhật Như Thuỷ (2013) khi nghiên cứu hiện trạng hệ sinh thái rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở khu vực đầm thuỷ triều tỉnh Khánh Hoà đã cho thấy thành phần loài cây khá nghèo nàn với 26 loài được xác định, trong đó có 16 loài cây ngập mặn thực sự và 10 loài cây tham gia rừng ngập mặn. Nguyễn Thị Kim Oanh (2015) [28], Khi nghiên cứu tri thức bản địa và sử dụng tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao tại khu rừng du lịch văn hóa xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã xác định được 73 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được tương đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học, gồm 43 họ thực vật thuộc 3 ngành thực vật. Tác giả còn thống kê được 15 bài thuốc với 36 loài cây được sử dụng trong bài thuốc xác định được bộ phận cây thuốc mà người dân thường dùng và cách pha chế của mỗi bài thuốc. Trong đó xác định được 8 bài thuốc cần được lưu giữ bảo tồn: chữa bệnh tim, chữa băng huyết, tắm cho bà đẻ, chữa khớp và toái hóa cột sống, trị cảm và đau bụng, giúp dễ sinh, chữa mất ngủ, chữa sỏi thận và đái vàng, đây là các bài thuốc được người dân sử dụng phổ biến và có hiệu quả cao trong chữa trị bệnh. Bùi Thị Ngân (2018) [29] khi nghiên cứu tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Tày tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã thống kê được 108 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Tày và đã được xác định tương đối về tên phổ thông, tên địa phương, tên khoa học của các loài thực vật.
  28. 19 Khi nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Dao ở xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên của Nguyễn Minh Hiếu và cộng sự (2018) [30] đã thu được 71 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan có 67 loài thuộc 60 chi và 42 họ, thuộc ngành Dương sỉ với 2 loài thuộc 2 chi và 2 họ , ngành Mộc tặc có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ , thuộc ngành Thạch tùng có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dây gắm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ có công dụng làm thuốc. Nông Thái Hòa (2018) [31] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên xác định được 137 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan thuộc 129 chi và 72 họ có công dụng làm thuốc. Số họ thực vật làm thuốc là 72 họ, Trong đó, họ nhiều loài nhất là họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) với 10 loài; họ Cúc (Asteraceae) và họ Hòa thảo (Poaceae) với 7 loài. Trong 129 chi, có tới 13 chi có 2 loài được sử dụng làm thuốc. Dương Văn Hưng (2018) [32] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã thu được 149 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Thông có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dương xỉ có 3 loài thuộc 3 chi và 3 họ, thuộc ngành Mộc lan có 145 loài thuộc 133 chi và 70 họ có công dụng làm thuốc. Ma Văn Khiêm (2018)[33] khi nghiên cứu tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Tân An, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã thống kê được 73 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được tương đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học. Phát hiện được 18 bài thuốc trong tổng số hơn 22 loài cây được sử dụng trong bài
  29. 20 thuốc, xác định được bộ phận cây thuốc mà người dân thường dùng và cách pha chế của mỗi bài thuốc. Vàng A Lả (2018) [34] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã xác định được 183 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Dương xỉ có 2 loài thuộc 2 họ và 2 chi. Thuộc ngành Nấm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, Thuộc ngành Mộc Lan có 180 loài thuộc 156 chi và 87 họ có công dụng làm thuốc chữa bệnh. Lục Thanh Sắc (2018) [35] Khi nghiên cứu về tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã thống kê được 85 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được tương đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học. Ngoài ra, Tác giả còn phát hiện ra 22 bài thuốc trong tổng số hơn 57 loài cây được sử dụng trong bài thuốc, xác định được bộ phận cây thuốc mà người dân thường dùng và cách pha chế của mỗi bài thuốc. Việt Nam là một nước có tài nguyên rừng rất đa dạng và phong phú nhưng vì ở trong những khu rừng hay gần rừng lại thường tập trung nhiều cộng đồng các dân tộc sinh sống, có nhiều nền văn hóa đặc sắc khác nhau, tri thức bản địa trong việc sử dụng cây làm thuốc cũng rất đa dạng và phong phú, mỗi dân tộc có các cây thuốc và bài thuốc riêng biệt, cách pha chế và sử dụng khác nhau. Nên hiện nay, nguồn tài nguyên rừng của chúng ta đang bị giảm sút nghiêm trọng, kéo theo sự đa dạng sinh học cũng bị suy giảm trong đó có cả một số cây thuốc bản địa có giá trị chưa kịp nghiên cứu cũng đã mất dần, vậy việc nghiên cứu phát hiện và bảo tồn sử dụng tài nguyên cây thuốc bản địa là một việc rất cần thiết. Các cộng đồng dân tộc thiểu số, họ có những bài thuốc kinh nghiệm rất hay và đơn giản nhưng lại chữa bệnh hiệu quả rất cao. Lào Cai cũng là một tỉnh tập trung nhiều dân tộc thiểu số sinh sống đặc biệt là
  30. 21 huyện Bát Xát, nơi có khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát và nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống trong khu bảo tồn và gần khu bảo tồn, trong đó có dân tộc Dao. Vì vậy, đây là một nơi lý tưởng cho nghiên cứu kiến thức bản địa về khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc, các bài thuốc dân gian từ thiên nhiên của cộng đồng dân tộc địa phương nơi đây. Việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc, các bài thuốc không những mang lại những giá trị khoa học, giá trị thực tiễn sâu sắc mà còn đóng góp và công tác bảo tồn nguồn dược liệu nước nhà, bảo tồn những bài thuốc hay. Nhằm góp phần, bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu * Vị trí địa lý Xã Nậm Pung cách trung tâm huyện Bát Xát 40 km về phía Tây Nam, vị trí địa lý có các mặt tiếp giáp như sau: - Phía Bắc giáp, xã Mường Hum - Phía Nam giáp xã Tả Giàng Phìn, Huyện Sa Pa - Phía Đông giáp xã Pa cheo - Phía Tây giáp xã Trung Lèng hồ Nền địa hình của xã Nậm Pung được kiến tạo bởi nhiều dãy núi cao có độ chia cắt lớn, phức tạp nhất là hai mạch núi chính phía Tây Nam và Đông Nam của xã. * Địa hình, địa mạo Địa hình: Toàn bộ nền địa hình xã Nậm Pung được kiến tạo bởi nhiều dải núi cao, nổi bật là hai dải núi chính tạo nên các hợp thủy: Suối Nậm Vấn. điểm cao nhất có độ cao 2.050m, điểm thấp nhất có độ cao 145m. Kiến tạo địa hình xã Nậm Pung hình thành hai khu vực. Tuy nhiên, cả hai khu vực (vùng thấp gồm 3 thôn và vùng cao gồm 2 thôn) đều có chung
  31. 22 một đặc điểm: Vùng núi cao độ chia cắt lớn, thung lũng hẹp khe sâu, độ dốc lớn. Vùng thấp là nơi tập trung các sườn đồi, chủ yếu bà con nhân dân khai hoang và canh tác ruộng ở khu vực thấp. * Địa chất, thổ nhưỡng Theo báo cáo tổng kết của UBND xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai năm 2018 [22] đã thống kê được như sau: Tổng diện tích đất tự nhiên: 3,932,99 ha; Diện tích nhóm đất nông nghiệp: 2,730,66 ha; Diện tích nhóm đất phi nông nghiệp: 124,30 ha; Diện tích nhóm đất chưa sử dụng: 1,078,03 ha. * Đặc điểm khí hậu Xã Nậm Pung nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều. Do ảnh hưởng của địa hình chủ yếu là đồi núi cao, đất rừng chiếm 85% tổng diện tích tưu nhiên toàn xã. Do ảnh hưởng của địa hình núi cao, độ chia cắt lớn nên khí hậu vùng núi mang tính chất của khí hậu cận nhiệt đới và ôn đới ẩm. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình cả năm cao nhất 22,70c đến 270c. Lượng mưa hàng năm phân bố không đều, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Cao điểm mùa khô hanh là từ tháng 2 đến tháng 3 hàng năm có thể xuất hiện gió lào tần xuất 2 lần/năm và đây cũng là thời vụ bắt đầu làm nương rẫy nên nguy cơ xảy ra cháy rừng là cao nhất trong năm. Lượng mưa trung bình năm 1600  1800mm, chủ yếu tập trung vào tháng 5 đến tháng 10. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau có lượng mưa thấp nhất. Độ ẩm trung bình năm 90,5%.
  32. 23 * Chế độ thủy văn Hệ thống suối chính: Suối Nậm Vấn chảy theo Kin Chu Phìn 2 là con suối lớn bắt nguồn từ phía Tây Bắc chảy xuôi theo hướng Đông Bắc đổ ra suối Mường Hum. Trên địa bàn xã chủ yếu có hai con suối chính, là Nậm Vấn và suối Tả giàng phìn đây là nguồn cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn xã và xã Mường Hum, Nậm Pung. * Hiện trạng thảm thực vật Do điều kiện sinh thái và địa hình xã Nậm Pung nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên bát xát nên thảm thực vật chủ yếu ở trên địa bàn xã là rừng tự nhiên. 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu * Dân cư, dân tộc Toàn xã Nậm Pung gồm 4/4 thôn bản có 5 dân tộc cùng sinh sống, cả xã có 361 hộ, 1898 khẩu trong đó dân tộc Dao là 223 hộ =1129 khẩu, dân tộc hà nhì 134 hộ = 754 khẩu, dân tộc kinh 4 hộ =12 khẩu, mông 2 khẩu, giáy 1 khẩu. * Kinh tế Cuộc sống của đồng bào dân tộc tại địa phương gắn với sản xuất nông lâm nghiệp, đặc biệt là gắn với cây lúa, rừng và đất rừng. Các hoạt động sinh kế truyền thống chính là khai thác sản phẩm tự nhiên (sản phẩm từ rừng kết hợp canh tác dưới tán rừng như thảo quả), canh tác lúa nước, nương rẫy, chăn nuôi. Rừng và đất rừng là nguồn tài nguyên đặc biệt quan trọng đối với sinh kế, cuộc sống của đồng bào người Hà nhì và Dao.
  33. 24 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Các loài thực vật được cộng đồng dân tộc Dao tại xã Nậm Pung sử dụng làm thuốc chữa bệnh; kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã tại xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai. * Phạm vi nghiên cứu: - Địa điểm nghiên cứu: + Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại 3 thôn Tà Chảy, Nậm Pung và Kin Chu Phìn 1 của xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai. + Nghiên cứu thực nghiệm (xác định hoạt tính khánh khuẩn) được tiến hành tại phòng thí nghiệm Khoa công nghệ sinh học - trường Đại học Khoa học Thái nguyên. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2019 đến tháng 05/2019. - Nghiên cứu tri thức dân tộc thiểu số: Dân tộc Dao 3.2. Nội dung nghiên cứu * Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng tại xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai: - Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi. - Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc. - Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc. - Xác định những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn: Đánh giá ở mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu.
  34. 25 * Đánh giá về tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc ở khu vực nghiên cứu: (i) đa dạng về bộ phận sử dụng; (ii) đa dạng về cách chế biến cây thuốc; (iii) đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc. * Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn một số loài cây thuốc có giá trị cao được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Dao ở khu vực nghiên cứu. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được các kết quả gắn với các nội dung nghiên cứu trên, cách thức và giải pháp thực hiện ý tưởng bao gồm như sau: * Phương pháp kế thừa - Kế thừa những những tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở khu vực nghiên cứu và các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các ông lang, bà mế người dân tộc Dao ở khu vực nghiên cứu. * Phương pháp điều tra thực địa - Điều tra phỏng vấn thu thập cây thuốc: tại khu vực nghiên cứu, phỏng vấn các ông lang, bà mế, người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc và sử dụng các bài thuốc gia truyền của cộng đồng dân tộc Dao tại địa bàn nghiên cứu. Mẫu phiếu điều tra dựa theo: phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc gian dân (Viện Dược liệu, Bộ Y tế) [28]. - Thu thập đầy đủ các thông tin cây thuốc gồm: tên phổ thông, tên dân tộc Dao; số hiệu mẫu/ảnh cây thuốc; dạng sống; môi trường sống; bộ phận sử dụng làm thuốc (thân, rễ, hoa, quả, hạt, nhựa, vỏ); công dụng. Đồng thời ghi chép những đặc điểm dễ nhận biết của cây ngoài thiên nhiên, ghi rõ thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin.
  35. 26 - Định danh tên cây: định danh loài cây theo các bước: (i) định danh tại thực địa; (ii) sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố giám định lại. + Bước 1: xác định sơ bộ tên địa phương, tên thường gọi được thực hiện ngay ở lần điều tra đầu tiên. Đối với những loài chưa chắc chắn thì ghi chú để kiểm định lại ở bước sau. Các loài không biết tên cần phải lấy mẫu (lá, hoa, quả, ) và ghi vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2, để giám định. + Bước 2: tất cả các cây được thẩm định lại tên cây, lập danh mục cây thuốc bằng sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia về thực vật và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố gồm: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 2000) [10], Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 2012) [6], Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005) [14], Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2001 – 2005) [26]. Danh sách tên cây thuốc sẽ được hoàn thiện ở bước này. Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng một số dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và điều trị bệnh Thời gian điều tra: Người điều tra: Địa điểm điều tra: Địa chỉ điều tra: TT Tên Tên địa Số Dạng Môi Bộ Cách Công Cán bộ được phỏng phổ phương hiệu cây trường phận sử dụng vấn thông mẫu/ sống sử dụng Họ Địa Điên ảnh dụng tên chỉ thoại (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) . . . . . . * Phương pháp thu thập mẫu: Đối với loài cây chưa xác định được tên ở ngoài thực địa và loài cần giám định lại tên.
  36. 27 - Tiến hành thu mẫu ở thực địa: Mỗi cây thuốc thu từ 3 đến 10 mẫu và được gắn nhãn ghi rõ các thông tin về ký hiệu mẫu, địa điểm,thời gian và người thu mẫu (các mẫu cùng cây đánh số cùng số hiệu mẫu). - Dụng cụ thu mẫu: bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, dây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép, máy ảnh (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997) [17]. Hình 3.1: Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài * Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc Để đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại khu vực nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [18]: - Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài. - Đa dạng về dạng sống: kí sinh, dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi. - Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối. - Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, nhựa, cả cây.
  37. 28 - Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương, * Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007) [23], Nghị định 32/2006/NĐ-CP (Chính phủ nước Việt Nam, 2006) [24], Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) [15]. * Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn - Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 900C đến khối lượng không đổi. - Nguyên liệu sau khi sấy khô được nghiền trong máy xay đa năng loại nhỏ thành bột dạng mịn, bảo quản nơi khô ráo để sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo. - Bước 2: Tạo cao chiết Nguyên liệu được tách chiết theo phương pháp ngâm nóng. Nguyên liệu dạng bột khô được đem đi chiết với tỷ lệ 10 g/100 ml bằng dung môi methanol, sau đó cho vào máy lắc với tần số 200 vòng/phút (để các chất có hoạt tính sinh học tan đều trong dung môi) ở các điều kiện thời gian 24 giờ, sau đó tiến hành lọc qua giấy lọc, 80 ml dịch lọc được đem đi cô đặc bằng máy cô quay (hoặc sấy khô) đến khi có khối lượng khô không đổi và được bảo quản ở 40C để sử dụng trong các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn. - Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn Sử dụng 2 chủng vi khuẩn gồm 1 chủng gram dương là S.a (Staphylococcus aureus) và 1 chủng gram âm là E.coli (Escherichia coli), lấy
  38. 29 từ phòng thí nghiệm Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. Bảo quản giống trên môi trường thạch nghiêng: vi sinh vật được hoạt hóa trong môi trường LB, sau đó được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng, nuôi 24 giờ ở 370C, giữ trong tủ lạnh để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. Cấy chuyển giữ giống trên thạch nghiêng định kỳ 3 tháng một lần. - Bước 4: Thử khả năng kháng khuẩn Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của cao chiết bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch, thí nhiệm được bố trí 3 lần nhắc lại trên một chủng vi khuẩn 3 đĩa petri trên 1 lần nhắc lại. Pha cao chiết của toàn thân cây thuốc với nước ở nồng độ 100 mg/ml sau đó dùng cao đã pha để thử hoạt tính kháng khuẩn. Các thao tác được thực hiện trong tủ cấy vô trùng. Khi mật độ vi khuẩn đạt đến nồng độ 106 tế bào/ml, lắc đều ống nghiệm chứa vi khuẩn. Môi trường LB đã được hóa lỏng trong lò vi sóng, khi còn lỏng đổ đều môi trường vào các đĩa Petri, sau đó để nguội để môi trường đông đặc lại tạo thành mặt phẳng. Dùng micropipet hút 100μl dịch vi khuẩn vào giữa đĩa thạch chứa môi trường LB (Thành phần của môi trường LB là như sau (g/l): Peptone - 10; Cao nấm men - 5; NaCl -10; pH: 7,0), dùng que cấy tam giác trang đều cho đến khi mặt thạch khô. Sau 15 phút đục giếng trên môi trường thạch với đường kính 6 mm, đục 2 giếng, mỗi giếng cách nhau 2 – 3 cm. Mỗi giếng thạch nhỏ 100μl dịch cao chiết cần nghiên cứu bằng micropipet, sử dụng đối chứng dương là kháng sinh Kanamycin và Akamicin với nồng độ 5mg/ml để so sánh, để các đĩa thạch trong tủ lạnh 30 phút để dịch cao chiết khuếch tán ra môi trường nuôi cấy vi khuẩn, sau đó nuôi cấy trong tủ ấm 370C, sau 24h mang ra đo kích thước vòng kháng khuẩn. Hoạt tính kháng khuẩn được xác định bằng cách đo kích thước vùng kháng khuẩn (BK) bằng công thức: BK = D - d, trong đó D là đường kính vòng kháng khuẩn, d là đường kính giếng thạch.
  39. 30 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai 4.1.1. Đa dạng các bậc taxon 4.1.1.1. Đa dạng về bậc ngành Kết quả điểu tra, nghiên cứu cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Dao tại khu vực nghiên cứu đã ghi nhận được 75 loài thực vật thuộc 3 ngành đó là: Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), ngành Dương sỉ (Pteridophyta) và ngành Thạch tùng (Lycopodiophyta) được đồng bào dân tộc Dao ở đây sử dụng làm thuốc, thuộc 73 chi, 47 họ. Các loài cây này đều là những cây mọc phổ biến quanh làng bản, ở đồi và ở rừng, cũng là những loài mà người dân thường gặp, nên họ đã lựa chọn để làm thuốc nhiều hơn các loài thực vật khác. Kết quả được tổng hợp tại Bảng 4.1. Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu Số Số Số TT Ngành thực vật họ chi loài 1 Ngành Dương sỉ (Pteridophyta) 2 2 2 2 Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) 44 69 71 2.1 Lớp Một lá mầm (Liliopsida) 8 11 11 2.2 Lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) 36 58 60 3 Ngành Thạch tùng (Lycopodiophyta) 1 2 2 Tổng 47 73 75 Kết quả bảng 4.1 cho thấy, Ngành Ngọc lan (Magoliophyta) có số loài được sử dụng làm thuốc tối ưu hơn 2 ngành còn lại, Ngành Ngọc lan có 44 họ, (chiếm 93,62% tổng số họ), có 69 chi (chiếm 94,52% tổng số chi), có 71 loài, (chiếm 94,67% tổng số loài). Trong ngành Ngọc lan thì lớp Hai lá mầm (Magnoliosida) có số họ, chi, loài được dùng làm thuốc ưu thế hơn hẳn lớp Một lá mầm.
  40. 31 Lớp Hai lá mầm trong ngành Ngọc lan có 36 họ (chiếm 76,60%), 58 chi (chiếm 79,80%) và 60 loài (chiếm 80%), chi và loài điều tra được). Trong lớp này có những loài có giá trị như: Docynia indica (Wall.) Decne (Táo mèo) dùng để chữa đau bụng, Callerya speciosa (Champ. ex Benth.) Schot (Cát sâm) dùng để chữa bệnh về xương khớp, Callerya speciosa (Champ. ex Benth.) Schot (Giảo cổ lam) dùng để chữa bệnh nóng ruột, Lớp Một lá mầm (Liliopsida) chỉ có 11 loài, chiếm tỷ lệ 14,67%; 11 chi, chiếm tỷ lệ 15,07% và 8 họ, chiếm tỷ lệ 17,02% so với tổng số loài, chi, họ điều tra được. Dù có tỉ lệ số loài, chi và họ kém ưu thế hơn lớp Hai lá mầm nhưng ở lớp Một lá mầm vẫn có những loài cây có giá trị như: Anoectochilus setaceus Blume (Lan kim tuyến) có tác dụng chữa bệnh về hệ thần kinh; Amomum aromaticum Roxb (Thảo quả) chữa ho, cảm và viêm họng, Tóm lại, Các loài cây trong ngành Ngọc lan, nhất là các loài thuộc lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) chiếm một tỷ lệ lớn và đóng vai trò quan trọng trong các loài thực vật làm thuốc được cộng đồng dân tộc Dao ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh. Một nghiên cứu khác của Nông Thái Hòa (2018) trong khi nghiên cứu cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đã thu được 137 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan thuộc 129 chi và 72 họ có công dụng làm thuốc. Như vậy cho thấy người dân ở xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên có tri thức bản địa về sử dụng cây thuốc đa dạng hơn tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của người dân ở xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai về họ, chi và loài, nhưng lại kém đa dạng hơn về ngành thực vật có công dụng làm thuốc. Dưới đây là một số hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu:
  41. 32 A. Mạch môn đông B. Cúc chỉ thiên (Elephantopus (Ophiopogon japonicus (L. f.) scaber L) Ker-Gawl) C. Cát Sâm (Callerya speciosa D. Khổ sâm cho lá (Croton (Champ. ex Benth.) Schot) tonkinensis Gagnep) E. Thạch xương bồ ( Acorus F. Cây vú chó (Ficus gramineus Soland) simplicissima Lour) Hình 4.1: Hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu
  42. 33 4.1.1.2. Đa dạng bậc họ Số lượng họ cây thuốc thu được ở khu vực nghiên cứu bao gồm 47 họ. Sự phân bố các họ trong các lớp như sau: Bảng 4.2. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ > 10 loài 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Ngành thực vật và < loài loài loài loài loài loài loài loài loài 15 loài Pteridophyta 2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Magnoliophyta 33 7 2 2 0 0 0 0 0 1 Liliopsida 7 0 0 1 0 0 0 0 0 0 Magnoliopsida 26 7 2 1 0 0 0 0 0 1 Lycopodiophyta 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 Tổng số họ 34 8 2 2 0 0 0 0 0 1 Tỷ lệ số họ/ tổng số họ 72,34 17,02 4,26 4,26 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 2,13 (%) Số loài 34 16 6 8 0 0 0 0 0 11 Tỷ lệ số loài/ tổng số 45,33 21,33 8,00 10,67 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 14,67 loài (%) Kết quả Bảng 4.2 cho thấy, có 1 họ có trên 10 loài là họ Cúc (Asteraceae) với tỷ lệ chiếm 2,13% tổng số họ và chiếm 14,67% tổng số loài. Có 2 họ có 4 loài là họ Hòa thảo (Poaceae) - lớp Một lá mầm và họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) - lớp Hai lá mầm, chiếm 10,67% số loài so với tổng số loài, số họ chiếm 4,26% so với tổng số họ điều tra được. 2 họ 3 loài là họ Ô rô (Acanthaceae) và họ Bạc hà (Lamiaceae), chiếm 4,26% so với tổng số họ được điều tra, cả 2 họ đều thuộc lớp hai lá mầm, và cả 2 họ có 3 loài này chiếm 8% so với số loài điều tra được, có 8 họ 2 loài chiếm 17,02% trong tổng số họ và chiếm 21,33% trong tổng số loài điều tra được, trong đó có 1 họ thuộc ngành Thạch tùng đó là họ Thạch tùng có 2 loài đó là loài Móng lưng rồng và loài Thông đất. Có 34 họ có 1 loài chiếm 72,34% so với tổng số họ và chiếm 45,33% trong tổng số loài điều tra được, trong đó có 2 họ thuộc ngành Dương sỉ đó là họ Mộc tặc và họ Bòng bong.
  43. 34 Trong quá trình điều tra về nguồn tài nguyên cây thuốc ở đây, tôi đã thu được những loài cây thuốc nằm trong những họ có nhiều loài nhất ở Việt Nam. Số lượng thống kê và so sánh được thể hiện ở bảng 4.3: Bảng 4.3. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) TT Họ nhiều loài 1 2 Tỷ lệ % giữa (1) và (2) 1 Asteraceae - họ Cúc 11 380 2,89 2 Poaceae - họ Hòa thảo 4 610 0,66 3 Euphorbiaceae - họ Thầu dầu 4 477 0,84 4 Acanthaceae - họ Ô rô 3 227 1,32 5 Lamiaceae - họ Bạc hà 3 157 1,91 Chú thích: (2) theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006) Kết quả Bảng 4.3 cho thấy, có 5 họ có nhiều loài được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng làm thuốc phòng và chữa trị bệnh. Tỷ lệ số loài trong cùng một họ có nhiều loài được sử dụng làm thuốc tại khu vực nghiên cứu so với tổng số loài trong cùng họ đó có tại Việt Nam có sự chênh lệch rất lớn, cụ thể tỷ lệ của từng họ là: với họ có nhiều loài được sử dung làm thuốc nhất là Cúc (Asteraceae) có các loài như: Cỏ hôi (Ageratum Conyzoides L) có tác dụng cầm máu; Ngải cứu (Artemisia vulgaris L.) chữa đau đầu, chiếm tỷ lệ 2,89% (11/380) so với số loài trong cùng họ đó có tại Việt Nam; họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) và họ Hòa thảo (Poaceae) cùng có 4 loài, chiếm tỷ lệ lần lượt là 0,84% (4/477) và 0,66% (4/610). Họ Ô rô (Acanthaceae) và họ Bạc hà (Lamiaceae) cùng có 3 loài được sử dụng làm thuốc, chiếm tỷ lệ lần lượt là 1,32% (3/227) 1,91% (3/157). Như vậy, số loài được sử dụng làm thuốc còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với số lượng loài trong cùng một họ đó có tại Việt Nam, nên khả năng phát hiện ra thêm nhiều loài có thể sử dụng làm thuốc là rất lớn.
  44. 35 4.1.1.3. Đa dạng bậc chi Qua kết quả điều tra nghiên cứu cho thấy có 2 chi có nhiều loài nhất đó là chi Phyllanthus thuộc họ Thầu dầu và chi Ampelopsis thuộc họ Nho, mỗi chi này đều có 2 loài được sử dụng làm thuốc. Một số cây thuốc giá trị được người dân sử dụng trong 2 chi này, như: chi Phyllanthus có cây Chó đẻ răng cưa (Phyllanthus amarus Schum) có tác dụng chữa dạ dày, cây Phèn đen (Phyllanthus reticulatus Poir) có tác dụng chữa bệnh ngoài da; chi Ampelopsis có cây Nho rừng (Ampelopsis heterophylla (Thunb.) Sieb. & Zucc) và cây Chè dây (Ampelopsis cantoniensis (Hook. & Arn.) Planch) có tác dụng chữa dạ dày và an thần; Như vậy, trong tổng số 73 chi thì số lượng chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc chỉ chiếm 2,73% (2/73) trong khu vực nghiên cứu. Còn lại chủ yếu là các chi có số lượng loài là 1 loài, chiếm một tỷ lệ cao với 97,27%. Điều này đã thể hiện sự phong phú trong việc sử dụng cây cỏ làm thuốc của đồng bào dân tộc Dao xã Nậm Pung bởi sự phân bố đồng đều các cây trong các chi, cũng như trong các họ cây thuốc. Một công trình khác khi nghiên cứu về tri thức bản địa của người dân tại xã Yên Ninh, Huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên của Dương Văn Hưng (2018) [32] cho thấy các chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc tại khu xã Yên Ninh phong phú hơn ở địa bàn xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai. Cụ thể là ở xã Yên Ninh có 9 chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc, còn ở xã Nậm Pung chỉ có 2 chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc. 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc Sự đa dạng về dạng sống của loài thực vật làm thuốc tại khu vực nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 4.4 như sau:
  45. 36 Bảng 4.4. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu Thân Cây Gỗ trung Dạng sống Dây leo Gỗ nhỏ thảo bụi bình Số lượng 37 12 4 18 4 Tỷ lệ (%) 49,33 16,00 5,33 24,00 5,33 Bảng kết quả 4.4 cho thấy, phần lớn các cây thuốc được cộng đồng dân tộc Dao ở xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai sử dụng là dạng cây thân thảo (Th), với 37/75 chiếm 49,33% so với tổng số các loài cây thuốc thu được và đa số nằm trong họ Hòa thảo, dạng thân thảo có các cây như: Lan kim tuyến (Anoectochilus setaceus Blume) chữa bệnh về hệ thần kinh và bệnh gan; cây Mạch môn đông (Ophiopogon japonicus (L. f.) Ker- Gawl) chữa ho; cây Hàm ếch (Saururus chinensis (Lour.) Hort. ex Loud) chữa bệnh xương khớp; Có 2 dạng sống cũng được sử dụng nhiều là cây bụi, dây leo với tỷ lệ lần lượt là 24,00% (18/75), 16% (22/75) có các cây như: loài Ké hoa đào (Urena lobata L) chữa viêm mũi; cây Khổ sâm cho lá (Croton tonkinensis Gagnep) chữa bệnh tiêu chảy và bệnh dạ dày; Dạng cây gỗ trung bình và gỗ nhỏ chiếm tỷ lệ nhỏ so với các dạng cây còn lại với tỷ lệ bằng nhau là 5,33% (4/75) bao gồm các cây như: Vối thuốc (Schima wallichii (DC.) Korth) có tác dụng làm mát gan; loài Dâu da đất (Lansium domesticum Correa) được bà con xã Nậm Pung sử dụng để chữa bệnh mụn nhọt;
  46. 37 5,33% Thân thảo 24% Dây leo 49,33% Gỗ nhỏ 5,33% Cây bụi Gỗ trung bình 16% Hình 4.2. Tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu Như vậy, các dạng sống chủ yếu của thực vật được sử dụng làm thuốc tại khu vực nghiên cứu là thân thảo, dây leo và cây bụi. Vì các dạng sống này mọc rất phổ biến quanh nhà, quanh làng bản, rất dễ mọc và dễ trồng nên các dạng sống này cũng rất dễ thu hái để sử dụng. Như vậy dựa vào nghiên cứu khoa học điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên cho thấy các dạng sống của các cây thuốc ở xã Nậm Pung kém đa dạng hơn các dạng sống ở xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc Để phục vụ cho công tác bảo tồn các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu, tôi đã tiến hành đánh giá sự đa dạng về môi trường sống của các loài cây thuốc. Việc phân chia các loại môi trường sống được căn cứ vào địa hình, đất đai, khí hậu, nơi mà cây thuốc đó phát triển. Có các dạng môi trường sau: Sống ở đồi (Đ): Cây sống ở đồi, đồi hoang, trảng bụi, chân đồi. Sống ở vườn (Vu): Cây sống ở vườn, bờ ao, quanh làng bản. Sống ở rừng (R): Cây sống ở rừng rậm, rừng thứ sinh, ven rừng.
  47. 38 Sống ở ven suối (Vs): Cây sống ở gần nơi nước chảy, ven khe suối, sông, nơi ẩm ướt. Bảng 4.5. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu TT Môi trường sống Số loài Tỷ lệ % 1 Sống ở vườn 41 54,67 2 Sống ở đồi 31 41,33 3 Sống ở rừng 30 40 4 Sống ở ven sông ven suối 7 9,33 (Ghi chú: Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sống ở nhiều môi trường khác nhau ) 9,33% Sống ở rừng (R) 40% 41,33% Sống ở vườn (Vu) Sống ở đồi (Đ) 54,67% Sống ở ven sông ven suối (Vs) Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu Kết quả Bảng 4.5 và hình 4.3 cho thấy, có 4 môi trường sống chính của cây thuốc ở KVNC là: sống ở vườn (Vu), sống ở đồi (Đ), sống ở rừng (R) và sống ở ven sông ven suối (Vs). Tỷ lệ số loài sống ở từng môi trường so với tổng số loài điều tra được: sống ở vườn với tỷ lệ 54,67% với (41/75) loài bao
  48. 39 gồm các loài đơn giản như: Chuối (Musa acuminata Colla) chữa mụn nhọt; Dâu tằm (Morus alba L) chữa đứt gân; Đu đủ (Carica papaya L) chữa rắn cắn; Chanh (Citrus aurantifolia (Christm. & Panzer) Swingle) chữa dạ dày và gan; Sống ở rừng có tỷ lệ 40% với 30/75 loài, có các loài như: Thòng bong ( Lygodium japonicum Thunb. Sw) chữa gãy xương và phù thúng gan, thận; Lá ngón (Gelsemium elagans (Gardn. & Champ.) Benth) chữa bệnh gan; Rong rừng (Phrynium placentarium (Lour.) Merr) có tác dụng giải độc; Sống ở đồi có tỷ lệ 41,33% với 31/75 loài được bà con sử dụng như: Thông đất (Lycopodiella cernua) chữa rắn cắn; Cơm cháy (Sambucus javanica Reinw. ex Blume) dùng để tắm cho phụ nữ sau khi sinh; .Chỉ có 7/75 loài sống ven sông ven suối với tỷ lệ khá ít 9,33% gồm các loài ưa ẩm như: Cỏ tháp bút (Equisetum debile Roxb) dùng để tắm; Thạch xương bồ (Acorus gramineus Soland) có tác dụng chữa bệnh dạy dày; Như vậy, môi trường sống chủ yếu của cây thuốc là ở vườn, với hơn nửa số loài điều tra được sống tại vườn. Người dân tại địa bàn nghiên cứu đã ý thức được giá trị, tầm quan trọng của cây thuốc khi đem cây thuốc về vườn nhà trồng, và cũng để thuận lợi cho việc thu hái cây thuốc. Tuy nhiên, số lượng cây thuốc sống trong rừng vẫn còn nhiều, nhưng theo người dân nơi đây cây thuốc trong rừng giờ rất khó tìm, phải vào sâu trong rừng mới tìm được cây thuốc như ý muốn, trong đó có những loài quý hiếm như Cát Sâm (Callerya speciosa (Champ. ex Benth.) Schot) chữa xương khớp; Bình vôi tán ngắn (Stephania sinica Diels) chữa bệnh ngoài da và đau bụng, nằm trong nhóm IIA trong Nghị định 32 Chính phủ). Số lượng loài cây thuốc sống ở đồi chiếm tỷ lệ cao hơn một chút khoảng 1% so với số lượng loài cây thuốc sống ở môi trường sống ở rừng, nhiều loài mọc hoang ở môi trường này đều đã
  49. 40 được người dân đem về vườn nhà trồng. Tuy nhiên, các cây thuốc điều tra được tại địa phương thì không có loài nào là đặc hữu của Việt Nam. 4.1.4 Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Nậm Pung, huyện Bát xát, tỉnh Lào Cai Kết quả điều tra đã xác định các loài cây thuốc thuộc diện cần bảo vệ ở khu vực xã Nậm Pung được ghi tại Bảng 4.6. Bảng 4.6. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận Cấp quy định NĐ TT Tên phổ thông Thuộc họ SĐVN DLĐCT 32/2006/ 2007 2007 NĐ-CP Lan kim tuyến - EN 1 Anoectochilus Fabaceae - họ IA A1a,c,d setaceus Blume Lan Bình vôi tán ngắn Menispermaceae 2 - Stephania sinica IIA - họ Tiết dê Diels Cát sâm - Callerya speciosa Orchidaceae - VU 3 (Champ. ex họ Đậu A1a,c,d Benth.) Schot Giảo cổ lam - Gynostemma Cucurbitaceae - EN 4 pentaphyllum họ Bí A1a,c,d (Thunb.) Makino Ghi chú: SĐVN: Sách đỏ Việt Nam; EN – Nguy cấp – Endangered; 32/NĐ – CP: Nghị định 32 của chính phủ; VU- Sắp nguy cấp – Vulnerable; DLĐCT: Danh lục đỏ cây thuốc Ở khu vực nghiên cứu có 4 loài cây thuốc quý hiếm, bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam, thuộc 4 chi, 4 họ của một ngành thực vật bậc cao là ngành Ngọc lan (Magnoliophyta). Trong đó: 3 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam (2007), 2 loài trong Nghị định 32 và 0 loài trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam. Dựa vào bảng trên đã thống kê được:
  50. 41 - Cấp VU - Sắp nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam năm 2007 có 1 loài là Cát sâm - Callerya speciosa (Champ. ex Benth.) Scho thuộc họ Đậu, có tác dụng chữa bệnh xương khớp. - Cấp EN - nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam năm 2007 có 1 loài đó là loài Lan kim tuyến - Anoectochilus setaceus Blume thuộc họ Lan có tác dụng chữa bệnh hệ thần kinh và bệnh Gan. - Nghị định 32/NĐ-CP có 2 loài: + Lan kim tuyến - Anoectochilus setaceus Blume thuộc họ Lan, chữa bệnh hệ thần kinh và bệnh gan. + Bình vôi tán ngắn - Stephania sinica Diels thuộc họ Tiết dê, có tác dụng chữa bệnh ngoài da và đau bụng. - Cấp EN – Đang nguy cấp trong Danh lục đỏ cây thuốc có 1 loài đó là Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino thuộc họ Bí có tác dụng chữa bệnh đường ruột. Trong quá trình thực hiện đề tài ở xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai tôi nhận thấy có 4 loài cây thuốc thuộc diện đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam. Chính vì vậy, cần phải nâng cao ý thức bảo vệ của mọi người để bảo tồn nguồn gen quý hiếm, phục vụ cho công tác chữa bệnh lâu dài của người dân nơi đây. Theo kết quả nghiên cứu của công trình “điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên” của nhóm sinh viên NCKH Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên năm 2018 cho thấy loài cây thuốc cần được bảo vệ ở xã Nậm Pung còn nhiều hơn và đa dạng hơn loài cây thuốc có ở xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Cụ thể là ở xã Liên Minh chỉ phát hiện được 2 loài cần bảo tồn, còn ở xã Nậm Pung phát hiện được 4 loài cần bảo tồn.
  51. 42 4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại khu vực nghiên cứu Trong quá trình thực tập tại khu vực nghiên cứu, tôi nhận thấy kinh nghiệm sử dụng các loại cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của dân người đồng bào dân tộc Dao tại xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai khá phong phú và đặc sắc. 4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc Để thấy rõ được tính đa dạng và phong phú về việc sử dụng các bộ phận khác nhau của cây để chữa bệnh của người dân tộc Dao ở khu vực nghiên cứu,kết quả được tổng hợp tại Bảng 4.7. Bảng 4.7. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc TT Bộ phận sử dụng Số loài Tỷ lệ % 1 Cả cây 33 44 2 Lá 24 32 3 Thân 14 18,67 4 Rễ 11 14,67 5 Vỏ 5 6,67 6 Quả 3 4 7 Nhựa 3 4 (Ghi chú: Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc) Kết quả Bảng 4.7 cho thấy, đã xác định được có 7 bộ phận cây thuốc được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng trong chữa trị bệnh cho người dân, trong đó có 2 bộ phận được sử dụng nhiều nhất lần lượt là cả cây và lá. Cụ thể như sau: Cây sử dụng bộ phận cả cây (Cc) làm thuốc là nhiều nhất với 33 loài, chiếm tỷ lệ 44% trong tổng số loài thu được, có các loài như: Riếp cá
  52. 43 (Houttuynia cordata Thumb) chữa Ho và hen; Móng lưng rồng (Selaginella involvens (Sw.) Spring) có tác dụng giải độc rắn cắn; Tiếp đến là các cây thuốc sử dụng bộ phận lá (L) với số lượng 24 loài, chiếm 32% với cây dùng lá, việc sử dụng lá làm thuốc sẽ giúp cho cây thuốc được sử dụng lâu dài, không bị giảm và bảo vệ được số lượng cây thuốc, bao gồm các loài như: Khổ sâm cho lá (Croton tonkinensis Gagnep) chữa dạ dày; Lạc tiên (Passiflora foetida L) có tác dụng chữa mất ngủ; Đối với cây dùng thân (Th) là 14 loài bao gồm các loài như: Dây máu (Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. & Wils) có tác dụng bổ máu; loài Cát sâm (Callerya speciosa (Champ. ex Benth.) Schot) có tác dụng chữa bệnh xương khớp; với tỷ lệ 18,67% so với tổng số loài thu được. Nhưng thu hái cả cây, lấy thân (Th) hay rễ (R) làm thuốc sẽ rất bất lợi trong công tác bảo tồn, khi số lượng loài lấy rễ cũng khá lớn với 11 loài chiếm 14,67%. Đồng thời, trong các bài thuốc của người dân tộc Dao nơi đây, việc sử dụng cả cây, lá ,thân và rễ là phổ biến, hầu hết là các bài thuốc để chữa các bệnh về xương khớp, hệ tiêu hóa và chữa những bệnh nan y như bệnh gan, bệnh thận, Vì vậy, cần phải có biện pháp gây trồng các loài cây thuốc sử dụng cả cây, thân hoặc rễ để chữa bệnh nhằm bảo tồn và phát triển bền vững nguồn dược liệu. Những cây sử dụng vỏ (V) làm thuốc có 5 loài, chiếm 6,67% so với tổng số loài điều tra được, trong đó có loài Táo mèo (Docynia indica (Wall.) Decne) sử dụng để chữa đau bụng. Sử dụng bộ phận hoa, quả (Ha) và sử dụng nhựa (Nh) để làm thuốc cùng có 3 loài và cùng chiếm 4% trong tổng số loài thu được. Có sự phân bố không đồng đều trong các bộ phận sử dụng là thuốc là do đặc tính về thời vụ, do quan niệm chữa bệnh , do loại bệnh và do hạn chế về số lượng các loài cây thuốc. Ngoài việc sử dụng các bộ phận khác nhau của từng loài cây thuốc để chữa bệnh thì tần số sử dụng các bộ phận trên cây cũng có sự khác nhau. Kết quả được thể hiện ở Bảng 4.8:
  53. 44 Bảng 4.8. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc TT Số lượng sử dụng Số loài tham gia Tỷ lệ % 2 Cả cây 33 44,00 1 1 bộ phận 25 33,33 3 2 bộ phận 16 21,33 4 3 bộ phận 1 1,33 Tùy thuộc vào từng loại bệnh mà thầy thuốc sử dụng các bộ phận khác nhau của cây thuốc, bởi vì trên cùng một cây thuốc, các bộ phận khác nhau thì có tác dụng dược tính khác nhau. Người ta có thể dùng cả cây (đa số là cây thảo) như cây: Cây Bạc hà (Mentha arvenis L) chữa ho; Cây Mã đề (Plantago major L) chữa ho, đau khớp và thận; Hoặc 3 bộ phận như cây Ý dĩ (Coix chinensis Todaro ex Bal) dùng được cả thân, rễ và hạt để chữa xương khớp, tiêu chảy; hoặc 2 bộ phận (thân - rễ, thân - lá, vỏ - lá, ) như cây Thạch xương bồ (Acorus gramineus Soland) dùng rễ và lá để chữa bệnh dạ dày; Hàm ếch (Saururus chinensis (Lour.) Hort. ex Loud) dùng thân và lá để chữa xương khớp; cây Si (Ficus benjamina L.) dùng nhựa và vỏ có công dụng chữa bệnh huyết áp cao; và loài dùng 1 bộ phận (lá, thân, rễ, thân, ), có các loài dùng kết hợp với các thứ khác như rễ, thân ngâm rượu xoa bóp, nấu canh để ăn với cơm, nước vo gạo, Trong bài thuốc của đồng bào dân tộc Dao để chữa 1 bệnh không chỉ dùng 1 bộ phận của 1 loài mà phải kết hợp giữa nhiều loài với nhau để chữa trị. Và họ thường dùng cả cây để làm thuốc có 33 cây chiếm tỷ lệ 44%. Tuy nhiên, việc sử dụng 1 bộ phận để chữa bệnh không phải là ít, với 25 loài, chiếm 33,33%; tiếp đến sử dụng cây 2 bộ phận là cũng không phải là ít nhất so với sử dụng 3 bộ phận với tỷ lệ 21,33% với 16 cây, và cuối cùng chiếm tỷ lệ ít nhất ( chỉ chiếm 1,33% so với tổng số loài điều tra được) là cây sử dụng 3 bộ phận chỉ với 1 loài điều tra được đó là loài Ý dĩ (Coix chinensis Todaro ex Bal) thuộc họ hòa thảo của lớp Một lá mầm ngành Ngọc Lan.
  54. 45 Với kết quả đạt được ở trên cho thấy, việc sử dụng bộ phận cả cây, rễ hay thân làm thuốc sẽ rất bất lợi trong công tác bảo tồn nguồn gen cây thuốc, vì vậy chúng ta cần phải xây dựng và thực hiện các biện pháp gây trồng các loài cây thuốc mà có bộ phận sử dụng làm thuốc là cả cây, rễ hoặc thân để nhằm bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc trên địa bàn xã Nậm Pung nói riêng, ở tỉnh Lào Cai và ở Việt Nam nói chung. 4.2.2. Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc Kết quả nghiên cứu đã thống kê được 11 nhóm bệnh mà cộng đồng dân tộc Dao ở khu vực nghiên cứu đã sử dụng cây thuốc để phòng và chữa bệnh. Kết quả chi tiết được ghi tại Bảng 4.9: Bảng 4.9. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể Số Tỷ lệ STT Nhóm bệnh chữa trị loài % 1 Bệnh hệ tiêu hóa (đau bụng, dạ dày, trĩ, 17 22,67 Xương khớp (phong thấp, đau lưng, đau xương, thấp 2 15 20,00 khớp, 3 Bệnh thời tiết (ho, sốt, cảm, đậu lào, ) 12 16,00 4 Chữa lành vết thương, viêm nhiễm, giảm đau, bỏng, 11 14,67 5 Bệnh Gan (sơ gan, giải độc gan, viêm gan, ) 9 12,00 6 Thanh nhiệt, giải độc, 7 9,33 7 Bệnh Thận (sỏi thận, suy thận, lợi tiểu, ) 6 8,00 8 Thuốc bổ, suy nhược, 5 6,67 9 Thuốc tắm 5 6,67 10 Chữa bệnh hệ tuần hoàn (mỡ máu, huyết áp, tim, ) 4 5,33 11 Bệnh sinh lý, bệnh phụ nữ, vô sinh, hậu sản, 4 5,33 Theo kết quả điều tra thì người dân Dao nơi đây sử dụng cây thuốc để chữa trị 11 nhóm bệnh khác nhau. Có những căn bệnh nan y như bệnh gan,
  55. 46 thận, tim, Trong đó, số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung phần lớp vào 4 nhóm bệnh là: Bệnh hệ tiêu hóa với số lượng là 17/75 loài chiếm tỷ lệ 22,67%. Các loài cây ở nhóm này thuộc các họ như: Y dĩ (Coix chinensis Todaro ex Bal) chữa bệnh tiêu chảy; loài Cúc tần (Pluchea indica (L.) Less) chữa bệnh trĩ; Kim ngân (Lonicera macrantha (D. Don) Spreng) chữa dạ dày; Xăng xê (Sanchezia nobilis Hook. F) chữa dạ dày; Sài đất (Wedelia chinensis (Osbeck) Merr) chữa nóng ruột; Tiếp đến là các bệnh về xương khớp với 15 loài có tỷ lệ 20% tập trung vào các họ như: họ Đậu(Fabaceae); họ Cúc (Asteraceae) cả 2 họ này đều thuộc ngành Ngọc lan lớp Hai lá mầm. Một số loài phổ biến ở nhóm này có thể kể đến như: loài Thòng bong ( Lygodium japonicum Thunb. Sw); loài Củ gió (Tinospora sagittata (Oliv.) Gagnep); loài Huyết dụ (Cordyline fruticosa (L.) Goepp); loài Hàm ếch (Saururus chinensis (Lour.) Hort. ex Loud); Bệnh thời tiết với 12 loài chiếm tỷ lệ 16% tổng số loài điều tra được. Các loài cây trong nhóm này tập chung vào các họ như: Lamiaceae (Họ Bạc hà), Zingiberaceae (họ Gừng); Với các loài như: loài Thảo quả (Amomum aromaticum Roxb) dùng để chữa ho và viêm họng; loài Hoắc hương (Agastache rugosa (Fisch. et May.) Kuntze) chữa cảm cúm; hay loài Bạc hà (Mentha arvenis L) dùng để chữa bệnh ho; Có 11/75 loài cây được phát hiện có công dụng chữa các bệnh về vết thương, viêm nhiễm, giảm đau chiếm 14,67%. Các loài này phân bố chủ yếu trong các họ như: Musaaceae (họ Chuối); Commelinaceae (họ Thài lài); Marantaceae (họ Hoàng tinh); Malvaceae (họ Cẩm quỳ); Một số loài cây có thể kể đến trong nhóm này như: Kalanchoe pinnata (Lamk.) Pers (Cây bỏng); Urena lobata L (Ké hoa đào; Plantago major L (Mã đề); Lansium domesticum Correa ( Dâu da đất);
  56. 47 Có 9/75 loài cây được phát hiện có công dụng chữa các bệnh về gan, chiếm 12%. Có các họ như: Rutaceae (họ cam quýt); Orchidaceae (họ Lan); Asteraceae (họ cúc); Nhóm bệnh này có sự đóng góp của các loài như: Crassocephalum crepidioides (Benth.) S. Moore (Rau tàu bay) chữa bệnh Gan; Pandanus tectorius Parkins ex J. P. du Roi (Dứa dại) dùng để chữa bệnh gan; Helicteres hirsuta Lour ( Tố kén lông) có tác dụng bệnh chữa sơ gan; Có 7/75 loài cây được phát hiện có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chiếm 9,33% tập chung chủ yếu ở họ Lycopodiaceae (họ Thạch tùng) có 100% số loài điều tra được trong họ này có công dụng thanh nhiệt giải độc như: loài Selaginella involvens (Sw.) Spring (Móng lưng rồng) có tác dụng chữa giải độc rắn cắn; Lycopodiella cernua (Thông đất) chữa rắn cắn. Ngoài ra còn có các loài thuộc các họ khác như: Plantaginaceae (họ Mã đề) có loài Plantago major L (Mã đề) có tác dụng thanh nhiệt; Có 6/75 loài cây được phát hiện có công dụng chữa các bệnh về thận, chiếm 8%. Các loài thuộc nhóm này như: loài Lygodium japonicum Thunb. Sw (Thòng bong); loài Lophathrum gracile Brongn. in Duperr (Cỏ lá tre); Elephantopus scaber L (Cúc chỉ thiên); Nhóm bệnh về thuốc bổ, suy nhược và thuốc tắm đều được phát hiện có 5/75 loài cây có công dụng chữa các bệnh, chiếm 6,67%. Một số loài có tác dụng làm thuốc bổ có thể kể đến một số loài như: Ficus benjamina L. (Cây si); Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. & Wils (Dây máu); Ampelopsis cantoniensis (Hook. & Arn.) Planch (Chè dây); Tương tự loài có tác dụng làm thuốc tắm có thể kể đến như: Herba Equiseti debili Roxb (Cỏ tháp bút); Camellia sinensis (L.) Kuntze (Trà); Sambucus javanica Reinw. ex Blume (Cơm cháy); Có thể thấy đồng bào dân tộc Dao nơi đây rất độc đáo trong việc phối trộn các cây thuốc để làm thuốc tắm có tác dụng tăng cường sức khỏe, phòng và chống một số bệnh.
  57. 48 Cuối cùng là nhóm bệnh về hệ tuần hoàn và nhóm bệnh về phụ nữ, sinh lý, vô sinh, hậu sản, đều được phát hiện có 4/75 loài cây có công dụng chữa các bệnh, chiếm 5,53%. Nhóm bệnh về phụ nữ, sinh lý, vô sinh, hậu sản, có sự đóng góp của các loài như: Boehmeria nivea (L.) Gaudich (cây lá gai); Conyza canadensis (L.) Cronq (Ngải dại); Nhóm bệnh về hệ tuần hoàn có các loài như: Anoectochilus setaceus Blume (Lan kim tuyến); Ficus benjamina L. (Cây si); Từ những kết quả ở trên đã chứng minh được rằng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao ở xã Nậm Pung, huyện Bát Xát khá phong phú và đa dạng. 4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Dao ở khu vực nghiên cứu Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc ở khu vực nghiên cứu trong việc phòng và điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn, tôi tiến hành lựa chọn cây Vú chó (Ficus simplicissima Lour) và cây Khổ sâm cho lá (Croton tonkinensis Gagnep) để tiến hành đánh giá hoạt tính kháng khuẩn (HTKK) của cây. Kết quả thể hiện ở Bảng 4.10 và Hình 4.4: Bảng 4.10. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Vú Chó và cây Khổ sâm cho lá Đơn vị tính: mm Đối Cao chiết Đối chứng Đối chứng chứng Vú Chó Khổ sâm dương dương âm (Ba lá) (Dung Vi khuẩn (Amikacin) (Kanamicin) môi) S. aureus 19,8±0,6 23,7±1,1 21±0,5 25,2±1,2 0 E. coli 17,1±0,5 22,5±0,7 19,2±1,3 25,2±1,2 0 Qua Bảng 4.10 cho thấy, hai loài khảo sát (Ba lá và Khổ sâm) đều có hoạt tính ức chế đối với vi khuẩn gây bệnh. Và cả 2 loài Ba lá và Khổ Sâm đều có hoạt tính cao ức chế với cả 2 vi khuẩn gây bệnh Gram dương (S.
  58. 49 Aureus) và Gram âm (E. coli) với vòng ức chế đạt được với loài Ba lá là 19,8mm với vi khuẩn Gram dương (S. aureus) và 17,1mm với vi khuẩn Gram âm (E. Coli). Với loài Khổ sâm là 23,7mm với vi khuẩn Gram dương (S.aureus) và 22,5 với vi khuẩn Gram âm (E. Coli) . So sánh giữa hai loài cho thấy loài Khổ sâm có hoạt tính kháng khuẩn mạnh hơn loài Ba lá. Cả hai loài này có hoạt tính kháng khuẩn khá mạnh, tuy nhiên vẫn yếu hơn so với kháng sinh Amikacin và kháng sinh Kanamicin cùng so sánh, nhưng yếu hơn không đáng kể. So với dung môi đối chứng âm thì cả 2 loài Ba lá và Khổ sâm đều có tính kháng khuẩn, ngược lại dung môi đối chứng âm không có tính kháng khuẩn đối với 2 vi khuẩn gây bệnh Gram dương (S. Aureus) và Gram âm (E. coli). Từ kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn tôi đề xuất, có thể sử dụng cây Ba lá và cây Khổ Sâm để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và E. coli gây ra. Kết quả này là một bằng chứng khoa học chứng minh kinh nghiệm sử dụng các cây thuốc này trong việc phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn của cộng đồng dân tộc Dao ở xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Hình 4.4: Hình ảnh hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết Ghi chú: TVC: S. aureus; Ecoli: E. coli; ĐC: Đối chứng âm (Dung môi); KS1: Đối chứng dương (Amikacin); KS2: Đối chứng dương (Kanamicin); BL: Cây Ba lá; KhS: Cây Khổ sâm
  59. 50 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Dao ở xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, tôi đã thu được những kết quả sau: - Xác định được 75 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan có 71 loài thuộc 69 chi và 44 họ, thuộc ngành Dương sỉ với 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Thạch tùng có 2 loài thuộc 2 chi và 1 họ có công dụng làm thuốc. Số họ thực vật làm thuốc là 47 họ. Trong đó, họ nhiều loài nhất là họ Cúc (Asteraceae) với 11 loài, họ Hòa thảo (Poaceae) và họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) với 4 loài. Trong 64 chi, có 2 chi có 2 loài được sử dụng làm thuốc đó là chi Euphorbiaceae và chi Vitacace. - Dạng cây thuốc được người dân sử dụng nhiều nhất là dạng cây thảo với 37 loài, cây bụi có 18 loài, dây leo có 12 loài, cây gỗ trung bình và gỗ nhỏ có 4 loài. - Nơi sống chủ yếu của cây thuốc là chủ yếu ở vườn với 41 loài, ở đồi với 31 loài, ở rừng 30 loài và ở ven suối là ít nhất 7 loài. - Số lượng cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn có 4 loài chiếm 5,33% tổng số loài cây thuốc thu được, gồm các loài: Bình vôi tán ngắn - Stephania sinica Diels, Lan kim tuyến - Anoectochilus setaceus Blume, Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino, Cát Sâm - Callerya speciosa (Champ. ex Benth.) Schot. - Sử dụng các bộ phận để làm thuốc bao gồm: Cả cây có 33 loài, lá có 24 loài, thân có 14 loài, rễ có 11 loài, vỏ có 5 loài và cuối cùng cả quả và nhựa đều có 1 loài. Sử dụng cả cây có 35 loài, 1 bộ phận để làm thuốc có 30 loài, 2 bộ phận có 3 loài và 3 bộ phận chỉ có 1 loài duy nhất là loài Y dĩ. Đã thống kê được 11 nhóm bệnh khác nhau được dân tộc Dao sử dụng để chữa bệnh.
  60. 51 - Qua kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn, cho thấy có thể sử dụng cây Ba lá (Vú chó) và Khổ sâm để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E. coli gây ra. 5.2. Đề nghị - Cần tiếp tục mở rộng khu vực điều tra và nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc để có kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho tương lai. - Tiếp tục nghiên cứu và đánh giá tính hiệu quả của các loài cây thuốc mà đồng bào dân tộc Dao tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai sử dụng. - Xây dựng những vườn thuốc trong gia đình cho những gia đình lương y hay những gia đình có những người biết sử dụng thuốc ở các thôn bản để bảo vệ nguồn gen quý và hướng dẫn cách trồng hái, chế biến cho phù hợp. - Với những loài cây thuốc thuộc dạng quý hiếm cần hướng dẫn nhân dân nhận biết và tiến hành bảo vệ rừng, hạn chế khai thác một cách cạn kiệt các loài cây thuốc để bán sang Trung Quốc.
  61. 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT. 1. Tào Duy Cần (2001), Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật. 2. Tào Duy Cần (2006), Thuốc bệnh 24 chuyên khoa, Nxb Y học, Hà Nội. 3. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), “Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An”, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 4. Đặng Quang Châu (2011), “Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An”, Tạp chí Sinh học, tập 23. 5. Võ Văn Chi (1996), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội. 6. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, tập 1-2. 7. Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), “Các cây có ích của dân tộc H’mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế”, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 8. Nguyễn Thượng Dong (chủ biên) và nhiều tác giả (2006), “Nghiên cứu thuốc từ thảo dược”, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 9. Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam, trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Phạm Hoàng Hộ (2001), Cây cỏ Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 11. Phạm Hoàng Hộ (2006), Cây có vị thuốc ở Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 12. Lê Thị Thanh Hương (2007), “Điều tra và đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Tày ở một số xã của huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội.
  62. 53 13. Âu Anh Khâm (2001), 577 bài thuốc dân gian gia truyền (sách dịch), Nxb Thanh niên, Hà Nội. 14. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 15. Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam, Nxb Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội. 16. Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương (2000), Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược, Nxb Y học, Hà Nội. 17. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật, Nxb Nông nghiệp, Hà nội. 18. Nguyễn Nghĩa Thìn (2007), Các phương pháp nghiên cứu thực vật, Nxb Đại Học Quốc gia Hà Nội. 19. Nguyễn Nhân Thống (2008), Danh y tuổi tý, Hội Đông y Việt Nam – Tạp chí Đông y – số 405/2008. 20. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh (2004), “Nghiên cứu xây dựng và bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa”, Thái Nguyên, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 21. Trần Thúy, Vũ Nam, Nguyễn Văn Toại (2005), Lý luận Y học cổ truyền, Nxb Y học, Hà Nội. 22. UBND xã Nậm Pung (2018), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019 23. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật. Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 24. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định 32/2006/CP – NĐ về nghiêm cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động thực vật hoang dã.
  63. 54 25. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 26. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội (2006). Danh lục các loài thực vật Việt nam. Nxb Nông nghiệp, Hà nội, tập 2 – 3. 27. Viện Dược Liệu (1993), Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 28. Nguyễn Thị Kim Oanh (2015), “Tri thức bản địa về khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại khu rừng du lịch văn hóa xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 29. Bùi Thị Ngân (2018) “Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Tày tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 30. Nguyễn Minh Hiếu, Vàng Sảo Hai, Lồ Di Mềnh, Giàng A Cắng, Hờ A Bình (2018) “Điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên” 31. Nông Thái Hòa (2018) “nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 32. Dương Văn Hưng (2018) “Nghiên cứu tri thức sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
  64. 55 33. Ma Văn Khiêm (2018) “Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Tân An, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 34. Vàng A Lả (2018) “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 35. Lục Thanh Sắc (2018) “Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. B. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 36. African Ethnobotany (2013), African Medicinal Plants. 37. Ahmad Cheikhyoussef, Martin Shapi, Kenneth Matengu và Hina Mu Ashekele (2011), “Research on the botany of indigenous knowledge of medicinal plants used by traditional healers in the area Oshikoto, Namibia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 38. Arshad Abbasi, Mir Khan, Munir H Shah, Mohammad Shah, Arshad Pervez, Mushtaq Ahmad (20123), “Ethnobotanical appraisal and cultural values of medicinally important wild edible vegetables of Lesser Himalayas - Pakistan”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 39. Auemporn Junsongduang, Henrik Balslev, Angkhana Inta, Arunothai Jampeetong, Prasit Wangpakapattanawong (2013), “Medicinal plants from swidden fallows and sacred forest of the Karen and the Lawa in Thailand”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine.
  65. 56 40. Balcha Abera (2014), “Medicinal plants used in traditional medicine by Oromo people, Ghimbi District, Southwest Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 41. Behxhet Mustafa, Avni Hajdari , Feriz Krasniqi, Esat Hoxha, Hatixhe Ademi, Cassandra L Quave và Andrea Pieroni (2012), “Medical ethnobotany of the Albanian Alps in Kosovo”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 42. Berhane Kidane, Tinde van Andel, Laurentius van der Maesen, Zemede Asfaw (2014), “Use and management of traditional medicinal plants by Maale and Ari ethnic communities in southern Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 43. Cecilia Almeida, Elba de Amorim, Ulysses de Albuquerque, Maria Maia (2006), “Medicinal plants commonly used in the area Xingo - a place in the semi - arid northeastern Brazil”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 44. David J Simbo (2010), “A survey of the botany of medicinal plants in Babungo, northwestern region, Cameroon”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 45. Dol Luitel, Maan B Rokaya, Binu Timsina, Zuzana Münzbergová (2014), “Medicinal plants used by the Tamang community in the Makawanpur district of central Nepal”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 46. Eduardo Estrada-Castillón, Miriam Garza-López, José Villarreal- Quintanilla, María Salinas-Rodríguez, Brianda Soto-Mata, Humberto González-Rodríguez, Dino González-Uribe, Israel Cantú-Silva, Artemio Carrillo-Parra, César CantúAyala (2014), “Ethnobotany in Rayones, Nuevo León, México”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine.
  66. 57 47. Gabriele Volpato, Daimy Godínez, Angela Beyra, Adelaida Barreto (2009), “Use of medicinal plants of Haitian immigrants and their descendants in the province of Camagüey, Cuba”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 48. Gaia Luziatelli, Marten Sørensen, Ida Theilade, Per Mølgaard (2010), “Ashaninka medicinal plants: a case study from the indigenous communities of the Bajo Quimiriki, Junín, Peru”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 49. Gorka Menendez-Baceta, Laura Aceituno-Mata, María Molina, Victoria ReyesGarcía, Javier Tardío, Manuel Pardo-de-Santayana (2014), “Medicinal plants traditionally used in the northwest of the Basque Country (Biscay and Alava), the Iberian Peninsula”, Journal of Ethnopharmacology. 50. Homervergel G. Ong, Young-Dong Kim (2014), “The study of botany quantification of the medicinal plants used by indigenous Ati Negrito groups in the island of Guimaras, Philippines”, Journal of Ethnopharmacology. 51. Joanne Packera, Nynke Brouwera, David Harringtona, Jitendra Gaikwada, Ronald Heronb, Shoba Ranganathana, Subramanyam Vemulpada, Joanne Jamiea (2012), “An ethnobotanical study of medicinal plants used by indigenous communities Yaegl in northern New South Wales, Australia”, Journal of Ethnopharmacology. 52. Joana Camejo-Rodrigues, Lia Ascensão, M Angels Bonet, Joan Valles (2004), “An ethnobotanical study of medicinal plants and aromatic in nature park of "Serra de São Mamede" (Portugal)”, Journal of Ethnopharmacology.
  67. 58 53. Manju Panghal, Vedpriya Arya, Sanjay Yadav, Sunil Kumar, Jaya Yadav (2010), “Indigenous knowledge of medicinal plants used by the community Saperas Khetawas, District Jhajjar, Haryana, India”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 54. Maria Leporatti and Massimo Impieri (2007), “Ethnobotanical notes about some uses of medicinal plants in Alto Tirreno Cosentino area (Calabria, Southern Italy)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 55. Maud M Kamatenesi, Annabel Acipa, Hannington Oryem-Origa (2011), “Medicinal Plants of Otwal and Ngai in Oyam District, Northern Uganda”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 56. Mendrika Razafindraibe, Alyse R Kuhlman, Harison Rabarison, Vonjison Rakotoarimanana, Charlotte Rajeriarison, Nivo Rakotoarivelo, Tabita Randrianarivony, Fortunat Rakotoarivony, Reza Ludovic, Armand Randrianasolo, Rainer W Bussmann (2013), “Medicinal plants used by women from Agnalazaha coastal forests (Southeast Madagascar)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 57. Mi-Jang Song, Hyun Kim, Brian Heldenbrand, Jongwook Jeon, Sanghun Lee (2013), “Ethnopharmacological survey of medicinal plants in Jeju Island, Korea”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 58. Mi-Jang Song, Hyun Kim, Byoung-Yoon Lee, Heldenbrand Brian, Chan-Ho Park, Chang-Woo Hyun (2014), “Analysis of traditional knowledge of medicinal plants from residents in Gayasan National Park (Korea)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 59. Mirutse Giday, Zemede Asfaw, Zerihun Woldu, Tilahun Teklehaymanot (2009), “Knowledge of medicinal plants of the nation's Bench Ethiopia: an ethnobotanical survey”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine.
  68. 59 60. Montse Parada, Esperança Carrió, Maria Bonet, Joan Valles (2009), “Ethnobotany of the Alt Empordà region (Catalonia, Iberian Peninsula): Plants used in traditional medicine man”, Journal of Ethnopharmacology. 61. Naveed Akhtar, Abdur Rashid, Waheed Murad, Erwin Bergmeier (2013), “Diversity and use of ethno-medicinal plants in the region of Swat, North Pakistan”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 62. Rainer W Bussmann, Douglas Sharon (2006), “Use of traditional medicinal plants in northern Peru: tracking two thousand years of healthy culture”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 63. Sanjay Kr Uniyal, KN Singh, Pankaj Jamwal, Brij Lal (2006), “Using traditional medicinal plants among the community of Chhota Bhangal, Western Himalaya”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 64. Soledad Molares, Ana Ladio (2014), “Medicinal plants in the cultural landscape of a Mapuche-Tehuelche community in arid Argentine Patagonia: an eco-sensorial approach”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 65. Tahira Bibia, Mushtaq Ahmada, Rsool Bakhsh Tareenc, Niaz Mohammad Tareenc, Rukhsana Jabeenb, Saeed-Ur Rehmanc, Shazia Sultanaa, Muhammad Zafara, Ghulam Yaseena (2014), “Ethnobotany of medicinal plants in Mastung district of Balochistan province, Pakistan”, Journal of Ethnopharmacology. 66. Tilahun Teklehaymanot, Mirutse Giday (2007), “Research on the botany of medicinal plants used by people in Zegie Peninsula, Northwestern Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 67. Ugur Cakilcioglu, Selima Khatun, Ismail Turkoglu, Sukru Hayta (2011), “Ethnopharmacological survey of medicinal plants in Maden (Elazig- Turkey)”, Journal of Ethnopharmacology.