Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Lê Duy Hiếu xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên liên kết với công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh

pdf 64 trang thiennha21 19/04/2022 2020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Lê Duy Hiếu xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên liên kết với công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_phong_tri.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Lê Duy Hiếu xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên liên kết với công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGUYỄN MINH CÔNG Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG, PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN TẠI TRẠI LỢN LÊ DUY HIẾU, XÃ CÁT NÊ, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN LIÊN KẾT VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN DINH DƯỠNG HẢI THỊNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Thái Nguyên - năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGUYỄN MINH CÔNG Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG, PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN TẠI TRẠI LỢN LÊ DUY HIẾU, XÃ CÁT NÊ, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN LIÊN KẾT VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN DINH DƯỠNG HẢI THỊNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi Thú y Lớp: CNTY 47 N02 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Hoan Thái Nguyên - năm 2019
  3. i LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hướng tới thành công của mỗi con người luôn có sự giúp đỡ, hỗ trợ của những người xung quanh. Và để có được kết quả của ngày hôm nay ngoài sự cố gắng nỗ lực của chính bản thân, em đã nhận được sự chỉ bảo giúp đỡ của các thầy cô giáo khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của trại chăn nuôi Lê Duy Hiếu, công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh. Vì vậy em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới: Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, ban chủ nhiệm khoa cùng quý thầy cô Khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt quá trình học tập tại trường. Xin chân thành cảm ơn trại chăn nuôi Lê Duy Hiếu xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh đã tạo điều kiện giúp đỡ và chỉ bảo nhiều kiến thức thực tế, giúp em hoàn thành tốt quá trình thực tập tại trại. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Trần Thị Hoan đã luôn động viên, giúp đỡ và hướng dẫn chỉ bảo em tận tình trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Và cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, những người luôn ở bên và ủng hộ em, giúp đỡ em hoàn thành tốt nhất khóa luận tốt nghiệp. Thái Nguyên, ngày 22 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Minh Công
  4. ii MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i MỤC LỤC ii DANH MỤC CÁC BẢNG iv DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT v Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 2 1.2.1. Mục đích của chuyên đề 2 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề 2 Phần 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện của cơ sở 3 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 6 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 6 2.2.2. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái sinh sản 10 2.2.3. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi 19 2.2.4. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản 23 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 34 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước 34 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 36 Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 37 3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian thực hiện 37 3.2. Nội dung thực hiện 37 3.3. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 37 3.3.1. Các chỉ tiêu thực hiện 37 3.3.2. Phương pháp thực hiện 37
  5. iii 3.3.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi 38 Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 39 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại Lê Duy Hiếu xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên qua 2 năm từ năm 2018 đến tháng 5/2019 39 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn tại trang trại 39 4.2.1. Kết quả quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản tại trại 39 4.2.2. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con 42 4.3. Kết quả thực hiện quy trình vệ sinh phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại 44 4.3.1. Kết quả thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh 44 4.3.2. Kết quả phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho lợn nái và lợn con 45 4.4. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Lê Duy Hiếu 47 4.4.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Lê Duy Hiếu 47 4.4.2. Kết quả điều trị bệnh trên lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ 48 Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 51 5.1. Kết luận 51 5.2. Kiến nghị 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO 53 PHỤ LỤC
  6. iv DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Những biểu hiện khi lợn nái sắp đẻ 12 Bảng 4.1. Quy mô chăn nuôi của trại Lê Duy Hiếu trong 2 năm gần đây (2018 – T5/2019) 39 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái và lợn con theo mẹ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại trong thời gian tháng thực tập 40 Bảng 4.3. Kết quả thực hiện thao tác đỡ đẻ cho lợn tại trang trại 41 Bảng 4.4. Kết quả thực hiện các thao tác xử lý trên đàn lợn con 43 Bảng 4.5. Lịch sát trùng trại lợn nái 45 Bảng 4.6. Kết quả tiêm thuốc và vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại 46 Bảng 4.7. Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại 48 Bảng 4.8. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại 49
  7. v DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Cs.: Cộng sự E. coli: Escherichia Coli kg: Kilogram LMLM: Lở mồm long móng MMA: Metritis Mastitis Agalactia ml: Mililit mg: Miligram Nxb: Nhà xuất bản TT: Thể Trọng Tr: Trang
  8. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn đã chuyển từ phương thức chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung trang trại, từ đó đã giúp cho ngành chăn nuôi lợn phát triển không ngừng cả về chất lượng và số lượng. Để đạt hiệu quả kinh tế cao cần đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào cải thiện giống, thức ăn, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng Đặc biệt chú trọng đến công tác giống, giống tốt thì vật nuôi tăng trọng nhanh, khả năng hấp thụ thức ăn tốt, thích nghi và chống chịu bệnh cao. Để ngành chăn nuôi lợn phát triển hơn nữa ở nước ta, một trong những khâu quan trọng góp phần quyết định đến sự thành công trong ngành chăn nuôi lợn là chăn nuôi lợn nái. Đặc biệt là trong việc chăn nuôi lợn nái ở nước ta để có đàn con nuôi thịt sinh trưởng và phát triển tốt, cho tỷ lệ nạc cao, và đây cũng chính là mắt xích quan trọng để tăng nhanh đàn lợn cả về số lượng và chất lượng. Để cung cấp giống cho nhu cầu chăn nuôi của các trang trại thì việc phát triển đàn lợn nái sinh sản cần đặc biệt được quan tâm. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả năng sinh sản của lợn nái đang nuôi ở các trang trại hiện nay là bệnh còn xảy ra rất nhiều, do khả năng thích nghi của những giống lợn nái ngoại với khí hậu nước ta còn kém, đặc biệt là bệnh như: viêm tử cung, viêm vú, đẻ khó và bại liệt sau đẻ Các bệnh này do nhiều yếu tố như điều kiện vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng kém, thức ăn, nước uống không đảm bảo vệ sinh, do vi khuẩn, virus gây nên Chính vì vậy mà việc nghiên cứu các quy trình chăm sóc và tìm hiểu về những bệnh thường gặp trên đàn lợn nái sinh sản là rất cần thiết. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng với sự
  9. 2 giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và cơ sở thực tập chúng em thực hiện chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Lê Duy Hiếu xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên liên kết với công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh”. 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục đích của chuyên đề - Thực hiện quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản. - Biết cách phòng và trị một số bệnh hay xảy ra đối với lợn nái sinh sản. 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề - Ðánh giá được tình hình chăn nuôi lợn tại trại Lê Duy Hiếu, xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Áp dụng được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái nuôi tại trại Lê Duy Hiếu, xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Xác định được tình hình nhiễm bệnh trên đàn nái sinh sản hiệu quả của phác đồ điều trị bệnh.
  10. 3 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện của cơ sở 2.1.1.1. Vị trí địa lý Trang trại chăn nuôi Lê Duy Hiếu nằm tại xã Cát Nê thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Xã nằm ở phía nam của huyện Đại Từ và dựa lưng vào dãy Tam Đảo. Xã nằm cách hồ Núi Cốc không xa. Tuyến tỉnh lộ 261 kết nối hai huyện Phổ Yên và Đại Từ đi qua địa bàn xã. Xã Cát Nê giáp với xã Ký Phú ở phía tây và tây nam; phía nam giáp với xã Quân Chu, phía đông nam giáp với thị trấn Quân Chu tất cả đều thuộc huyện Đại Từ. Xã Cát Nê có diện tích là 2689,8 ha (26,9 km²) và dân số là 4.013 người, mật độ dân số là 149,2 người/km² (số liệu năm 2011). Trại bắt đầu hoạt động từ năm 2015 là trại tư nhân và do anh Lê Duy Hiếu làm chủ trại. 2.1.1.2. Đặc điểm khí hậu Cát Nê là một xã thuộc huyện Đại Từ, nằm ở tỉnh Thái Nguyên, trong vùng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có bốn mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nhiệt độ: Trại có nhiệt độ cao, chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hạ khá lớn. Nhiệt độ trung bình hàng năm là: 23 - 240C, nhiệt độ cao nhất vào tháng 7 là 390C, nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1 là 100C. Có nét đặc trưng nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè, hanh khô và lạnh kéo dài về mùa đông. Tổng số giờ nắng trung bình hàng năm khoảng: 1450 giờ Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 1400-1700mm nhưng lượng mưa phân bố không đều trong năm, phân thành hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa và mùa khô.
  11. 4 + Mùa mưa: Từ tháng 4-tháng 10, lượng mưa chiếm từ 80 - 82% tổng lượng mưa của cả năm. Lượng mưa bình quân là 75mm/tháng. + Mùa khô: Từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mùa khô trùng với các tháng có nhiệt độ thấp trong năm. Lượng mưa bình quân là 25mm/tháng. Độ ẩm không khí ở trại tương đối cao, trung bình từ 83 - 85%, tháng cao nhất là 88% (tập trung vào các tháng 3 và tháng 4), tháng thấp nhất là: 65% (tập trung vào tháng 12). - Chế độ gió mùa: hướng gió chủ đạo về mùa đông là Đông - Bắc, về mùa hè là Đông – Nam, vận tốc gió trung bình năm là 2,4 m/s. Vận tốc gió cực đại có thể xảy ra theo chu kỳ thời gian 5 năm là 25 m/s; 10 năm là 32 m/s; 2.1.1.3. Tình hình chăn nuôi, phòng và trị bệnh tại cơ sở * Quá trình thành lập Trại lợn Lê Duy Hiếu được thành lập năm 2015, trang trại có cán bộ kỹ thuật của công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh tư vấn kỹ thuật. * Cơ cấu tổ chức của trang trại Cơ cấu tổ chức gồm : - Chủ trại: Là người làm chủ và điều hành công việc chung. - 2 Công nhân: Trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn. - Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm các chuồng khác nhau như: chuồng nái, chuồng cai sữa và chuồng thịt. Mỗi chuồng đều thực hiện công việc hàng ngày một cách nghiêm túc, đúng quy định của trại. * Cơ sở vật chất của trang trại Trang trại có tổng diện tích là 3ha, nằm trên địa bàn xã Cát Nê, có địa hình chủ yếu là đồi núi nhưng đường giao thông đã được nâng cấp, thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển. Để đảm bảo công tác phát triển sản xuất chăn nuôi và sinh hoạt của công nhân, trại được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật gồm:
  12. 5 Khu nhà điều hành, khu nhà ở công nhân, bếp ăn, các công trình phục vụ cho công nhân và các hoạt động khác của trại. Khu chăn nuôi có hàng rào bao bọc xung quanh và có cổng vào riêng. Chuồng trại được quy hoạch, bố trí xây dựng phù hợp với hướng chăn nuôi công nghiệp, hệ thống chuồng nuôi lồng, nền sàn bê tông cho lợn nái, lợn đực, sàn nhựa cho lợn con cùng với hệ thống vòi nước tự động và máng ăn: Trong khu chăn nuôi được quy hoạch bố trí xây dựng hệ thống chuồng trại cho 100 nái: bao gồm 1 chuồng đẻ tiếp giáp với chuồng bầu có vách ngăn tường bê tông, có 26 ô chia làm 2 dãy, 1 chuồng bầu có 85 ô chia làm 2 dãy. Có 3 ô lợn đực giống, 2 chuồng thương phẩm có sức chứa nuôi 450 lợn thịt + Phòng tinh, kho cám, kho thuốc có trang thiết bị vật tư đầy đủ, kho cám xây ở cuối trại cạnh chuồng nái. Có tủ lạnh đựng vắc xin và tủ đựng tinh riêng, có tủ đựng thực phẩm phục vụ cho sinh hoạt ăn uống tại trại. * Thuận lợi và khó khăn của trại - Thuận lợi + Trại xây dựng cách xa khu dân cư, nên hạn chế được dịch bệnh và không làm ảnh hưởng đến các hộ xung quanh. + Vị trí của trại được xây gần với trục đường giao thông chính. + Trại được xây theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị còn mới, hiện đại thuận lợi cho công tác chăn nuôi. - Khó khăn + Trại đang trong quá trình hoàn thiện nên còn hạn chế về quy mô và các trang thiết bị. + Giá thức ăn chăn nuôi cao, giá lợn trên thị trường gần đây liên tục giảm mạnh gây ảnh hưởng khá lớn tới hoạt động chăn nuôi của trang trại.
  13. 6 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 2.2.1.1. Sự thành thục về tính và thể vóc * Sự thành thục về tính Tuổi thành thục về tính là: tuổi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và khả năng sinh sản. Khi gia súc đã hoàn thiện về tính, bộ máy sinh dục đã phát triển hoàn thiện. Dưới tác dụng của thần kinh và nội tiết con vật bắt đầu có những phản xạ về sinh dục. Con cái có hiện tượng động dục, con đực có phản xạ giao phối. Tuy nhiên lần động dục này chỉ là báo hiệu cho khả năng có thể sinh sản của lợn cái. * Biểu hiện của lợn cái khi thành thục về tính: - Cơ thể đã phát triển đầy đủ, bộ máy sinh dục tương đối hoàn thiện, con cái xuất hiện chu kỳ động dục lần đầu, con đực sinh tinh. Lúc này, tinh trùng và trứng gặp nhau có khả năng thụ thai. - Xuất hiện các đặc điểm sinh dục thứ cấp: bẹ vú phát triển và lộ rõ hai hàng vú, âm hộ to lên hồng hào. - Xuất hiện các phản xạ sinh dục: lợn có biểu hiện nhảy lên nhau, con cái động dục, con đực có phản xạ giao phối. - Thời điểm thành thục về tính: lợn cái bắt đầu khoảng 6 tháng tuổi (từ 4 - 8 tháng tuổi). Các giống gia súc khác nhau thời gian thành thục về tính là khác nhau, ở lợn nội thường từ 4 - 5 tháng (120 - 150 ngày), lợn ngoại 6 - 7 tháng (180 - 210 ngày). * Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thành thục về tính Tuổi thành thục về tính phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giống, di truyền, thời tiết, khí hậu, mùa vụ, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng
  14. 7 + Các yếu tố di truyền Các giống khác nhau thì có tuổi thành thục về tính khác nhau. Thời điểm rụng trứng lần đầu tiên xảy ra vào lúc 3 - 4 tháng tuổi đối với các giống lợn thành thục sớm (lợn nội và một số giống lợn Trung Quốc) và 6-7 tháng tuổi đối với hầu hết các giống lợn phổ biến ở các nước phát triển. Lợn lai F1 bắt đầu động dục lúc 6 tháng tuổi, khi khối lượng cơ thể đạt 50-55 kg. Lợn ngoại động dục lần đầu muộn hơn so với lợn lai vào lúc 6-7 tháng tuổi, khi lợn có khối lượng 65-68 kg. Còn đối với lợn nội tuổi thành thục về tính từ 4 - 5 tháng tuổi. + Các yếu tố ngoại cảnh Bên cạnh yếu tố di truyền, các yếu tố ngoại cảnh như chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, mùa vụ, khí hậu, nhiệt độ tất cả đều có ảnh hưởng tới sự thành thục của lợn nái. * Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng: Ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn cái. Thường những lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì tuổi thành thục về tính sớm hơn những lợn nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém. Nhu cầu dinh dưỡng đối với lợn cái hậu bị cần chú ý đến cách thức nuôi dưỡng. Cho ăn tự do đến khi khối lượng đạt 80 - 90 kg, sau đó cho ăn hạn chế đến lúc phối giống (chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3) 2 kg/ ngày (14% protein thô). Điều chỉnh mức ăn hợp lý để khối lượng đạt 120 - 140 kg ở chu kỳ động dục thứ 3 và được phối giống. Trước phối giống 14 ngày, cho ăn chế độ kích dục, tăng từ từ lượng thức ăn (1 - 2,5 kg), bổ sung thêm khoáng và chất điện giải sẽ kích thích lợn cái ăn nhiều hơn và tăng số trứng rụng từ 2 -2,1 trứng/lợn cái. Trong quá trình nuôi dưỡng chăm sóc cần điều chỉnh chế độ ăn hợp lý để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho lợn cái. Sau khi phối giống cần chuyển chế độ ăn hạn chế và thay thế bằng mức năng lượng trung bình để hạn chế tối thiểu tỷ lệ chết phôi, chết thai làm giảm số con sinh ra/ổ.
  15. 8 - Mùa vụ và thời gian chiếu sáng Ở những lợn cái hậu bị được sinh ra trong mùa đông và mùa xuân thì động dục lần đầu chậm hơn lợn cái hậu bị được sinh ra trong các mùa khác trong năm. Ngoài ra, sự thành thục về tính bị chậm là do nhiệt độ trong ngày cao hay thấp hoặc ngày quá ngắn. Do vậy cần tạo điều kiện để lợn cái hậu bị được sống trong điều kiện nhiệt độ không quá cao hoặc quá thấp. Thời gian chiếu sáng là một phần ảnh hưởng của mùa vụ tới tuổi thành thục về tính. Bóng tối hoàn toàn làm chậm thành thục so với ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày. - Mật độ nuôi nhốt Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt với mật độ cao trên 1 đơn vị diện tích trong suốt thời gian phát triển sẽ làm chậm tuổi động dục. Tuy nhiên, nếu nuôi tách biệt từng cá thể cũng sẽ làm chậm sự thành thục về tính so với nuôi nhốt theo nhóm. Bên cạnh đó, đực giống cũng ảnh hưởng tới sự động dục của lợn cái. * Sự thành thục về thể vóc Thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể vóc đạt mức độ hoàn chỉnh, xương cốt hóa hoàn toàn, tầm vóc ổn định. Thời gian thành thục về thể vóc thường chậm hơn thành thục về tính, nghĩa là sau khi sinh, con vật được thành thục về tính thì vẫn tiếp tục lớn lên. Đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi không nên cho gia súc sinh sản quá sớm vì khi đó cơ thể mẹ chưa phát triển đầy đủ về thể vóc sẽ gây ảnh hưởng xấu như: trong thời gian mang thai có sự phân tán chất dinh dưỡng, ưu tiên phát triển cho bào thai ảnh hưởng xấu đến sự phát triển cơ thể mẹ và cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của bào thai. Kết quả là mẹ yếu, con nhỏ. Mặt khác, khung xương chậu chưa phát triển hoàn toàn, nhỏ hẹp làm con vật khó đẻ. Cho nên việc quy định tuổi và khối lượng phối giống lần đầu rất có ý nghĩa trong chăn nuôi. Các nhà khoa học khuyến cáo với lợn ngoại
  16. 9 nên bỏ qua 1 đến 2 chu kỳ động dục đầu, nên phối ở chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3 tùy thuộc vào khối lượng đạt được. Với lợn ngoại khoảng 8 - 9 tháng tuổi và đạt 110 - 120 kg, lợn nội 6 - 7 tháng tuổi đạt 40 - 50kg (Lê Xuân Cương (1986) [1]). Khi lợn cái đã thành thục đầy đủ về tính đồng thời với sự thành thục về thể vóc ở mức độ nhất định, đây là lúc phối giống thích hợp nhất. Việc xác định thời gian phối giống thích hợp cho lợn cái nhằm tăng thời gian nuôi hữu ích (giảm thời gian không sản xuất trước khi đẻ lứa đầu) không làm ảnh hưởng đến năng suất của con vật ở giai đoạn sau. 2.2.1.2. Chu kỳ động dục Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể đã phát triển hoàn hảo, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng có quá trình phát triển của noãn bào, noãn bào thành thục, trứng chín và thải trứng. Song song với quá trình thải trứng thì toàn bộ cơ thể nói chung đặc biệt là cơ quan sinh dục có hàng loạt các biến đổi về hình thái cấu tạo và chức năng sinh lý. Tất cả các biến đổi đó được lặp đi, lặp lại có tính chất chu kỳ nên gọi là chu kỳ tính. Theo Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993) [24], chu kỳ động dục của lợn nái là 19 - 21 ngày. Thời gian động dục thường kéo dài khoảng 3 - 4 ngày (lợn nội) hoặc 4 - 5 ngày (lợn lai, lợn ngoại), và được chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn trước khi chịu đực (bắt đầu), giai đoạn chịu đực (phối giống), giai đoạn sau chịu đực (kết thúc). - Giai đoạn trước khi chịu đực: Lợn nái kêu rít, âm hộ xung huyết, chưa cho phối và lợn chưa chịu đực. Thời gian rụng trứng khi có hiện tượng trên đối với lợn ngoại và lợn nái lai là 35 - 40 giờ, với lợn nội là 25 - 30 giờ. - Giai đoạn chịu đực: Lợn kém ăn, mê ì, lợn đứng yên khi ấn tay lên lưng (gần mông), âm hộ giảm độ sưng, nước nhờn chảy ra, dính, đục, đứng
  17. 10 yên khi có đực đến gần và cho đực nhảy. Giai đoạn này kéo dài 2 ngày, nếu được phối giống lợn sẽ thụ thai, lợn nội có thời gian ngắn hơn 28 - 30 giờ. - Giai đoạn sau chịu đực: Lợn trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở, đuôi cụp và không chịu đực * Thời điểm phối giống thích hợp: Trứng rụng tồn tại trong tử cung 2-3 giờ và tinh trùng sống trong âm đạo lợn cái 30-48 giờ. Thời điểm phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4 tính từ lúc bắt đầu động dục. Đối với lợn nái nội hơn một ngày vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 do thời gian động dục ở lợn nái nội ngắn hơn. Thời điểm phối giống có ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu thai và sai con. Phối sớm hoặc phối chậm đều đạt kết quả kém, vì vậy việc cho nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm tối ưu sẽ nâng cao hiệu quả phối giống. 2.2.2. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái sinh sản 2.2.2.1. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ - Quy trình nuôi dưỡng: Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [17], thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai gây ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5 kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ
  18. 11 có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái. - Quy trình chăm sóc: Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Chuồng trại phải được vệ sinh sạch sẽ. Trước khi lợn đẻ 10 - 15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 - 5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Chuồng đẻ cần phải trải đệm lót, có che chắn và thiết bị sưởi ấm trong những ngày mùa đông giá rét. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh lợn nái sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người, dùng khăn thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy tránh được nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái, chúng ta chuyển nhẹ nhàng từ chuồng bầu sang chuồng đẻ để lợn quen dần với chuồng mới. Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan trọng đó là việc chuẩn bị ô úm lợn cho lợn con. Ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào những tháng mùa đông. Ngoài ra, ô úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng ăn vào ô úm cho lợn con lúc 7 - 10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức
  19. 12 ăn của lợn con. Theo dõi thường xuyên sức khỏe của lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện sát nhau, sốt sữa hoặc nhiễm trùng và có biện pháp xử lý kịp thời khi xảy ra. Bảng 2.1. Những biểu hiện khi lợn nái sắp đẻ Trước khi đẻ Dấu hiệu 0 - 10 ngày Vú căng lên và cứng, âm hộ xung huyết 2 ngày Bầu vú cương cứng hơn và tiết ra chất lỏng trong 12 - 14 giờ Nái bồn chồn, tuyến vú bắt đầu tiết sữa 6 giờ Sữa tiết ra nhiều hơn qua 2 lỗ tia sữa 2 - 4 giờ Các vú đều có sữa non vọt thành tia dài 30 phút - 2 giờ Tăng nhịp thở, đi lại không yên 15 - 30 phút Âm hộ tiết ra dịch nhầy màu hồng có lẫn phân su Nái nằm nghiêng 1 bên, hơi thở đứt quãng, ép bụng, 15 giây - 5 phút ép đùi, quẩy đuôi rặn đẻ 2.2.2.2. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái nuôi con - Quy trình nuôi dưỡng: Thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có tác động tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mì, các loại thức ăn bổ sung đạm động: đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 kcal, protein 15%, Ca từ 0,9 - 1,0%, phospho 0,7%. Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ,
  20. 13 chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: - Đối với lợn nái ngoại + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1 và 2, cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 kg chia ra làm 2 bữa. + Ngày đẻ thứ 3 đến ngày đẻ thứ 6 cho ăn mỗi ngày tăng thêm 1kg thức ăn hỗn hợp chia làm 3 bữa. + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%. + Ngày cai sữa cho lợn nái ăn 0,5 kg (thức ăn sau khi tách con). - Đối với lợn nái nội: + Công thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/ 1 ngày đêm Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100kg, mức ăn trong 1 ngày đêm được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,2 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg). Thức ăn thô xanh: 0,3 kg. Lợn nái nội có khối lượng cơ thể từ 100kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,4 kg + (số con theo mẹ x 0,18 kg). Thức ăn thô xanh: 0,4 kg. - Quy trình chăm sóc: Vận động và tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh hồi phục sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 -7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều
  21. 14 bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. Chuồng trại của lợn nái nuôi con yêu cầu phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không có mùi hôi thối, ẩm ướt. Do vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 20 0C, độ ẩm 70 - 75%. 2.2.2.3. Đặc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ * Đặc điểm về sinh trưởng, phát dục: Đối với chăn nuôi lợn con nói riêng và gia súc nói chung, thời kỳ gia súc mẹ mang thai được chăm sóc chu đáo thì bào thai sẽ phát triển tốt, sinh con khỏe mạnh. Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [17], so với khối lượng sơ sinh thì khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp 4 lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần, lúc 50 ngày tuổi tăng gấp 10 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần. Lợn con bú sữa sinh trưởng và phát triển nhanh nhưng không đồng đều qua các giai đoạn, nhanh trong 21 ngày đầu sau đó giảm dần. Có sự giảm này là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do lượng sữa mẹ bắt đầu giảm và hàm lượng hemoglobin trong máu của lợn con bị giảm. Thời gian bị giảm sinh trưởng kéo dài khoảng 2 tuần hay còn gọi là giai đoạn khủng hoảng của lợn con. Chúng ta hạn chế giai đoạn khủng hoảng này bằng cách cho ăn sớm. Do lợn con sinh trưởng nhanh nên chúng đẩy mạnh quá trình tích lũy các chất dinh dưỡng Lợn con sau 3 tuần tuổi mỗi ngày có thể tích lũy được 9 - 14 gam protein/1kg khối lượng cơ thể, trong khi đó lợn trưởng thành chỉ tích lũy được 0,3 - 0,4 gam protein/ 1kg khối lượng cơ thể.
  22. 15 Hơn nữa, để tăng 1 kg khối lượng cơ thể ở lợn con tiêu tốn năng lượng ít hơn lợn trưởng thành. Vì vậy, cơ thể của lợn con chủ yếu là nạc, mà để sản xuất ra 1 kg thịt nạc cần ít năng lượng hơn để tạo ra 1 kg mỡ. - Đặc điểm phát triển của cơ quan tiêu hóa Đặc điểm chung về giải phẫu cơ quan tiêu hóa của lợn: Miệng, hầu, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già, hậu môn. Cơ quan tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh nhưng chưa hoàn chỉnh, các tuyến tiêu hóa phát triển chưa đồng bộ, dung tích của bộ máy tiêu hóa còn nhỏ, thời kỳ bú sữa cơ quan phát triển hoàn thiện dần. Dung tích bộ máy tiêu hóa tăng nhanh trong 60 ngày đầu: Dung tích dạ dày lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần, lúc 20 ngày tuổi gấp 8 lần và lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 60 lần so với lúc sơ sinh (dung tích dạ dày lúc sơ sinh khoảng 0,03 lít). Dung tích ruột non lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 6 lần, lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích lúc sơ sinh khoảng 0,12 lít). Còn dung tích ruột già lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 50 lần so với lúc sơ sinh. Sự tăng về kích thước cơ quan tiêu hóa giúp lợn con tích lũy được nhiều thức ăn và tăng khả năng tiêu hóa các chất. Mặc dù vậy, ở lợn con, các cơ quan chưa thành thục về chức năng, đặc biệt là hệ thần kinh. Do đó, lợn con phản ứng rất chậm chạp đối với các yếu tố tác động lên chúng. Do chưa thành thục nên cơ quan tiêu hóa của lợn con cũng rất dễ mắc bệnh, dễ rối loạn tiêu hóa. Một đặc điểm cần lưu ý ở lợn con là có giai đoạn không có axit HCl trong dạ dày. Giai đoạn này được coi như một tình trạng thích ứng tự nhiên. Nhờ vậy nó tạo được khả năng thẩm thấu các kháng thể có trong sữa đầu của lợn mẹ. Trong giai đoạn này dịch vị không có khả năng phân giải protein mà chỉ có khả năng làm vón sữa đầu và sữa. Còn huyết thanh chứa albumin và globulin được chuyển xuống ruột và thẩm thấu vào máu.
  23. 16 Ở lợn con từ 14 - 16 ngày tuổi, tình trạng thiếu axit HCl ở dạ dày không còn gọi là trạng thái bình thường nữa. Việc tập cho lợn con ăn sớm có tác dụng thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn thiện. Vì thế sẽ rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl. Bởi vì khi được bổ sung thức ăn thì thức ăn sẽ kích thích tế bào vách dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị (giai đoạn con non khác với con trưởng thành là chỉ tiết dịch vị khi thức ăn vào dạ dày). Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) [21] cho rằng: lợn con dưới 1 tháng tuổi, dịch vị không có HCl tự do, lúc này lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng kết hợp với dịch nhầy của dạ dày, hiện tượng này gọi là hyperhydric. Do dịch vị chưa có HCl tự do nên men pepsin trong dạ dày lợn chưa có khả năng tiêu hóa protein của thức ăn. Vì HCl tự do có tác dụng kích hoạt men pepsinogen không hoạt động thành men pepsin hoạt động và men này mới có khả năng tiêu hóa protein. Enzym trong dịch vị dạ dày lợn con đã có từ lúc mới đẻ, tuy nhiên lợn trước 20 ngày tuổi không thấy khả năng tiêu hóa của dịch vị có enzym, sự tiêu hao của dịch vị tăng theo tuổi một cách rõ rệt khi cho ăn các loại thức ăn khác nhau, thức ăn hạt kích thích tiết ra dịch vị mạnh. Hơn nữa dịch vị thu được khi cho thức ăn hạt kích thích HCl nhiều hơn và sự tiêu hóa nhanh hơn dịch vị thu được khi cho uống sữa. Đây là cơ sở cho việc bổ sung sớm thức ăn và cai sữa sớm cho lợn con. Thực nghiệm còn xác nhận rằng nhiều loại vi khuẩn đường ruột đã sinh ra các chất kháng sinh ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh, khi lợn con sinh ra hệ vi sinh vật đường ruột chưa phát triển đầy đủ số lượng vi khuẩn có lợi, chưa có khả năng kháng lại vi khuẩn gây bệnh nên rất dễ nhiễm bệnh đường tiêu hóa. Vi khuẩn gây bệnh phó thương hàn, vi khuẩn gây thối rữa ở lợn con mới sinh.
  24. 17 - Đặc điểm về cơ năng điều tiết của lợn con Cơ năng điều tiết thân nhiệt của lợn con chưa hoàn chỉnh vì vỏ đại não của lợn con chưa phát triển hoàn thiện. Do đó việc điều tiết thân nhiệt và năng lực phản ứng kém, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường (nhiệt độ, độ ẩm). Theo Từ Quang Hiển và cs. (2001) [6] ở lợn con, khả năng sinh trưởng và phát triển nhanh, yêu cầu về dinh dưỡng ngày càng tăng cao. Trong khi đó sản lượng sữa của lợn mẹ tăng dần đến 2 tuần sau khi đẻ và sau đó giảm dần cả về chất và lượng. Đây là mâu thuẫn giữa nhu cầu dinh dưỡng của lợn con và khả năng cung cấp sữa của lợn mẹ. Nếu không kịp thời bổ sung thức ăn cho lợn con thì lợn sẽ thiếu dinh dưỡng dẫn đến sức đề kháng yếu, gầy còm, nhiều lợn con mắc bệnh. Vì vậy nên tiến hành cho lợn con tập ăn sớm để khắc phục tình trạng khủng hoảng trong thời kỳ 3 tuần tuổivà giai đoạn sau cai sữa. Lợn con dưới 3 tuần tuổi cơ năng điều tiết thân nhiệt chưa hoàn chỉnh nên thân nhiệt chưa ổn định, nghĩa là sự thải nhiệt và sinh nhiệt chưa đạt cân bằng. Khi còn là bào thai, các chất dinh dưỡng được mẹ cung cấp qua nhau thai, điều kiện sống tương đối ổn định. Lợn con sơ sinh gặp điều kiện sống hoàn toàn mới, nếu chăm sóc không tốt rất dễ mắc bệnh, còi cọc và chết. Ngoài ra lớp mỡ dưới da của lợn con còn mỏng, lượng mỡ glycogen dự trữ trong cơ thể lợn còn thấp, trên cơ thể lợn con lông còn thưa, mặt khác diện tích bề mặt cơ thể so với khối lượng cơ thể chênh lệch tương đối cao nên lợn con dễ bị mất nhiệt và khả năng cung cấp nhiệt cho lợn con chống rét còn thấp dẫn đến lợn con rất dễ mắc bệnh khi thời tiết thay đổi. Ở điều kiện nhiệt độ thấp, độ ẩm không khí cao gây ra hiện tượng tăng tỏa nhiệt ở lợn con bằng phương thức bức xạ. Vì thế ở nước ta vào cuối mùa đông đầu mùa xuân, khí hậu lạnh và ẩm, lợn con sẽ bị tỏa nhiệt theo phương thức này, làm cho nhiệt lượng cơ thể mất đi, lợn bị lạnh. Đây là điều kiện thuận lợi dẫn đến phát sinh bệnh, nhất là bệnh đường tiêu hoá.
  25. 18 - Đặc điểm về khả năng miễn dịch của lợn con Phản ứng miễn dịch là khả năng đáp ứng của cơ thể. Phần lớn các chất lạ là mầm bệnh. Mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể lợn con tương đối dễ dàng, do chức năng của các tuyến chưa hoàn chỉnh. Ở lợn con lượng enzym tiêu hoá và lượng HCl tiết ra còn ít, chưa đủ để đáp ứng cho quá trình tiêu hoá, gây rối loạn trao đổi chất, dẫn tới khả năng tiêu hoá kém, hấp thu kém. Trong giai đoạn này các loại mầm bệnh (Salmonella spp, E. coli ) dễ dàng xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá và gây bệnh. Lợn con mới đẻ ra trong cơ thể hầu như chưa có kháng thể. Lượng kháng thể tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu của lợn mẹ. Cho nên khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ sữa đầu của lợn mẹ. Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [17] trong sữa đầu của lợn mẹ hàm lượng protein rất cao. Những ngày đầu mới đẻ, hàm lượng protein trong sữa chiếm 18 - 19%, trong đó lượng γ - globulin chiếm số lượng khá lớn (30 - 35%). Nó có tác dụng tạo sức đề kháng, vì vậy sữa đầu có vai trò quan trọng đối với khả năng miễn dịch của lợn con. Lợn con hấp thu lượng γ - globulin bằng con đường ẩm bào. Quá trình hấp thu nguyên vẹn nguyên tử γ - globulin giảm đi rất nhanh theo thời gian. Nó chỉ có khả năng hấp thu qua ruột non của lợn con rất tốt trong 24 giờ đầu sau khi đẻ ra nhờ trong sữa đầu có kháng men antitrypsin làm mất hoạt lực của men trypsin tuyến tụy đồng nhờ khoảng cách tế bào vách ruột của lợn con khá rộng, cho nên 24 giờ sau khi được bú sữa đầu, hàm lượng γ - globulin trong máu lợn con đạt tới 20,3 mg/100 ml máu. Sau 24 giờ, lượng kháng men trong sữa đầu giảm dần và khoảng cách giữa các tế bào vách ruột của lợn con hẹp dần, sự hấp thụ γ - globulin kém hơn, hàm lượng γ - globulin trong máu lợn con tăng lên chậm hơn. Đến 3 tuần tuổi chỉ đạt khoảng 24mg/100ml máu (máu bình thường của lợn trưởng thành có khoảng 65 mg/100 ml máu), do đó lợn con cần được bú sữa đầu càng sớm
  26. 19 càng tốt. Nếu lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi mới có khả năng tự tổng hợp kháng thể, những lợn con không được bú sữa đầu thì sức đề kháng kém, dễ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao. 2.2.3. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi 2.2.3.1. Phòng bệnh Với phương châm: “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”‚ nên khâu phòng bệnh luôn được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Do vậy, việc phòng và trị bệnh phải được thực hiện cùng nhau để hạn chế tối đa dịch bệnh. - Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt: Theo Nguyễn Ngọc Phục (2005) [18] bệnh xuất hiện trong một đàn lợn thường do nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm, hoặc không truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh tật trên đàn lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn. Theo Lê Văn Tạo và cs. (1993) [19], vi khuẩn E. coli gây bệnh ở lợn là vi khuẩn tồn tại trong môi trường, đường tiêu hoá của vật chủ. Khi môi trường quá ô nhiễm do vê ̣sinh chuồng trại kém, nước uống thức ăn bi ̣nhiễm vi khuẩn, điều kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bi ̣cảm nhiễm E. coli, bệnh sẽ nổ ra. Vì vậy, khâu vê ̣sinh, chăm sóc có một ý nghĩa to lớn trong phòng bệnh. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vê ̣sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt đô ̣trong chuồng phải đảm bảo 27 - 300C đối với lợn sơ sinh và 28 - 300C với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không ẩm ướt, việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ kín, ấm áp vào
  27. 20 mùa đông và đầu xuân là cần thiết. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con phân trắng mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [17] từ 3 - 5 ngày trước dự kiến đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như Crezin 5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước khi đẻ. - Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi: Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng mát mùa hè, ấm áp mùa đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: rửa sạch, xả vôi để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 7 ngày với vật nuôi thương phẩm, 10 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Với những chuồng nuôi có vật nuôi bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để bằng cách: Sau khi đưa hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý theo hướng dẫn của thú y, cần phun sát trùng kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch) toàn bộ chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô và dọn, rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học, chất thải lỏng, nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra ngoài môi trường. Cần phun sát trùng 1 - 2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 10 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng nuôi. - Phòng bệnh bằng vắc xin: Đây là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Theo Nguyễn Bá Hiên và cs. (2012) [7], vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền
  28. 21 như ARN, ADN ) đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ mới, vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ứng. Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch. 2.2.3.2. Điều trị bệnh Theo Nguyễn Bá Hiên và cs. (2012) [7] - Nguyên tắc để điều trị bệnh là: + Toàn diện: Phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. + Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán chính xác bệnh để sớm khỏi bệnh và hạn chế lây lan. + Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng. + Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể có khả chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. + Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa. + Những bệnh nguy hiểm cho người không có thuốc chữa thì không nên chữa. - Các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: + Hộ lý: Cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp,
  29. 22 phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh. + Dùng kháng huyết thanh: Chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường dùng để can thiệp trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). + Dùng hóa dược: Phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng và một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn. + Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên, sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần lưu ý những nguyên tắc sau đây: - Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. - Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. - Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh.
  30. 23 - Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. - Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm các vitamin, tiêm nước sinh lý 2.2.4. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản * Bệnh bại liệt sau đẻ Là bệnh mà lợn mẹ mất khả năng vận động sau thời gian sổ thai. * Nguyên nhân gây bệnh - Do thai quá to, tư thế và chiều hướng của thai không bình thường. - Quá trình thủ thuật kéo thai quá mạnh hay không đúng thao tác Từ đó gây tổn thương thần kinh tọa hoặc ảnh hưởng đến đám rối hông khum dẫn đến lợn mẹ bị bại liệt. * Biểu hiện bệnh - Lúc đầu lợn mẹ đi lại khó khăn, về sau không đứng lên được mà nằm bẹp 1 chỗ. - Bệnh thường kế phát với 1 số bệnh ở hệ tiêu hóa, hô hấp như: chướng bụng đầy hơi, viêm phế quản cấp. - Nếu bệnh kéo dài, con vật dễ bị loét từng mảng da phía tiếp xúc với nền chuồng. - Sau 3 - 4 tuần con vật gầy dần và chết. - Triệu chứng: Ban đầu lợn nái không có triệu chứng toàn thân, không thấy vết thương cục bộ nhưng đi lại khó khăn hay nằm bẹp một chỗ. Nếu bệnh kéo dài thì lợn mẹ không đứng dậy được, rất có thể bị loét da do tiếp xúc với nền chuồng, nếu kéo dài 3 - 4 tuần lợn gầy dần rồi chết. * Biện pháp khắc phục Tiêm bắp, điều trị liên tục 3 - 5 ngày. - Thao tác can thiệp kịp thời, đúng kỹ thuật.
  31. 24 - Hằng ngày trở mình cho lợn mẹ, tránh bầm huyết, hoại tử da và kế phát với chướng bụng, đầy hơi. - Tăng cường thức ăn có bổ sung nguyên tố vi lượng nhất là canxi và photpho. - Tiêm Mg - calcium cho lợn. Đồng thời kết hợp với châm cứu. Theo Ngô Đức (2018) [5] Trường hợp bệnh xảy ra có thể thực hiện các bước sau: Tiêm calcifore vào tĩnh mạch tai lợn, liều 5 - 10ml/ 20kg thể trọng, ngày tiêm 1 lần, liên tục từ 3 - 5 ngày. Lợn nái sau khi sinh có biểu hiện sốt, nên sử dụng thuốc hạ sốt và kháng sinh chống phụ nhiễm như: Anagin 25%: liều 1ml/ 15kg thể trọng, ngày tiêm 1 lần. Navet-anagin 30%: liều 1ml/10 - 15kg TT, ngày tiêm 1 lần. Navet-anagin C: liều 1ml/15kg TT, ngày tiêm 1 lần. Navet-amoxy 15: liều 1ml/10kg TT, ngày tiêm 1 lần liên tục từ 3 - 5 ngày để phòng những bệnh nhiễm trùng gây bại liệt sau khi sinh và các bệnh viêm vú, viêm tử cung, mất sữa. * Biện pháp phòng bệnh Bổ sung vitamin AD3E trong thời gian mang thai, các trại nên đưa vào quy trình tiêm cho heo nái mang thai vitaject ade liều 1-6ml/con Cung cấp đầy đủ nhu cầu Calci, phospho trong giai đoạn mang thai, bổ sung vào thức ăn vitacalcium liều 10g/con/ngày cho ăn liên tục trong một tuần lễ, mỗi tháng lặp lại 1 lần trong suốt quá trình mang thai. Cẩn thận trong việc di chuyển heo trong giai đoạn mang thai, nền chuồng phải sạch, tránh trơn trượt dễ gây liệt chân trong thời gian mang thai. Nên có ánh sáng vào chuồng trại. Tiêm phòng đầy đủ các bệnh do virus và vi trùng. * Hiện tượng đẻ khó Lợn đẻ mà thời gian sổ thai kéo dài nhưng thai vẫn không được đẩy ra ngoài. Bệnh biểu hiện dưới nhiều hình thức, diễn biến khác nhau. Nó không
  32. 25 những gây tổn thương cho cơ quan sinh dục lợn mẹ mà còn dẫn đến hiện tượng vô sinh, thậm chí cả lợn mẹ và lợn con có thể chết. * Nguyên nhân - Đẻ khó do nguyên nhân cơ thể mẹ: khi chăm sóc, nuôi dưỡng không tốt, thức ăn không đầy đủ, chất dinh dưỡng thiếu so với nhu cầu của lợn mang thai dẫn đến cơ thể mẹ suy nhược, sức khỏe kém. Trong quá trình đẻ, sức rặn đẻ của lợn yếu, thậm chí không rặn đẻ, cổ tử cung co bóp yếu nên không đẩy thai ra ngoài. hoặc do, lợn mẹ ăn quá nhiều tinh bột, protein dẫn đến béo cũng gây ra bệnh đẻ khó. Lợn quá gầy cũng dẫn đến đẻ khó. - Do cấu tạo tổ chức các phần mềm như: cổ tử cung, âm đạo giãn nở không bình thường có chỗ giãn quá mạnh, chỗ lại không giãn nên việc đẩy con ra ngoài gặp khó khăn. Khung xoang chậu bị biến dạng, khớp bán động háng phát triển không bình thường, vôi hóa cột sống hay xoang chậu hẹp. Trong quá trình đẻ độ giãn nở kém, thai bị mắc trước cửa xoang chậu không ra được. Khi quá trình rặn đẻ kéo dài, sức co bóp lớn ép lợn con bị chết. Ở thời gian có thai kỳ cuối, thai quá to, lợn nái vận động mạnh, chèn ép tử cung làm tử cung bị xoắn vặn lại, tư thế tử cung thay đổi, đường sinh dục trở nên không bình thường cũng gây đẻ khó. Do rối loạn hormone tuyến sinh dục cái: kích tố nhau thai relaxin lúc đẻ tiết ra ít nên không làm mất lớp canxi ở bán động háng, không giãn dây chằng xương chậu (không sụt mông) hoặc prostaglandin tiết ít không đủ gây co bóp tử cung nên không tống thai ra ngoài được. Chế độ dinh dưỡng không phù hợp hoặc do quá ít thai, làm thai quá to không phù hợp với kích thước của xương chậu và đường sinh dục của lợn mẹ. Thai bị dị hình hay quái thai. Đẻ khó do nguyên nhân bào thai thường chiếm 3/4, những nguyên nhân và loại hình đẻ khó có thể xảy ra đơn độc hoặc kết hợp lại với nhau như bào
  33. 26 thai quá to mà xương chậu lại quá nhỏ, thai to cộng với tư thế thai không bình thường khi rặn đẻ thai bị kẹt không ra được. * Triệu chứng Lợn nái đến ngày đẻ, nước ối vỡ ra, trong nước ối có lẫn phân su nhưng không thấy thai ra. Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng thai vẫn không ra. Do thời gian rặn đẻ mạnh và kéo dài mà thai vẫn không ra làm cho lợn nái mệt mỏi. Nếu để lâu có thể dẫn đến hiện tượng thai bị ngạt mà chết. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to hoặc ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu. * Hậu quả Tử cung co bóp mạnh mà thai không ra, thai bị chèn ép, bị ngạt thở dẫn đến lợn con bị chết. Nếu mổ để lấy thai ra ngoài thì lợn mẹ hay bị chết hoặc không thể dùng sinh sản lứa sau. Do lợn nái rặn đẻ mạnh và kéo dài làm lợn nái mệt mỏi, kéo dài thời gian đẻ, sức co bóp của tử cung giảm, gây ra hiện tượng sót nhau, sót con dẫn đến viêm đường sinh dục. Khi dùng biện pháp can thiệp không đúng cách, gây xây xát niêm mạc tử cung, hoặc dụng cụ thủ thuật không đảm bảo vệ sinh làm lợn bị nhiễm một số bệnh: viêm tử cung, viêm vú, sảy thai truyền nhiễm khi đó, niêm mạc sẽ có những vết sẹo gây cản trở cho quá trình thụ thai, thai làm tổ dẫn đến sảy thai, tiêu thai, đẻ non ở những lần sinh sản tiếp theo, thậm chí là vô sinh. * Bệnh viêm tử cung Bệnh viêm tử cung có thể xảy ra trên tất cả các giống lợn nội và ngoại. Lợn nái đẻ ít lứa, nhiều lứa hay đang nuôi con đều có thể mắc bệnh song tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào yếu tố vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng. Khi gia súc sinh đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ,
  34. 27 niêm mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao thường gây viêm tử cung. * Nguyên nhân bệnh viêm tử cung Do lợn nái chửa thiếu vận động, chuồng nuôi bẩn; do dinh dưỡng không hợp lý (lợn quá béo hoặc quá gầy), thiếu vitamin A, D, E và các nguyên tố vi lượng cần thiết; do công tác vệ sinh, chăm sóc quá trình sau đẻ không đảm bảo kỹ thuật. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2002) [9], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng, khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. - Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác (đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo) truyền sang cho lợn khoẻ. - Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật, gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. - Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung. - Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao gây viêm. - Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm. Theo Đoàn Thị Kim Dung và Lê Thị Tài (2002) [3], nguyên nhân gây viêm tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebriella, E. coli .
  35. 28 Theo Lê Văn Năm và cs.(1999) [13], có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại cảnh gây bệnh như: do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ bằng dụng cụ hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật, dẫn đến các cơ quan sinh dục bị phá hủy, kết hợp với việc chăm sóc, nuôi dưỡng bất hợp lý và thiếu vận động đã làm chậm quá trình thu teo sinh lý của dạ con (trong điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về khối lượng kích thước ban đầu khoảng 3 tuần sau đẻ). Đây là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây bệnh. Biến chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động dục (vì lúc đó tử cung mở) và do thụ tinh nhân tạo sai kỹ thuật. Bệnh còn xảy ra do thiếu sót về dinh dưỡng và quản lý: khẩu phần thiếu hay thừa protein, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm tử cung. Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột gây đẻ khó, viêm tử cung do xây xát. Khoáng chất, vitamin cũng ảnh hưởng đến viêm tử cung. * Triệu chứng Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4 - 5 ngày, cá biệt tới 6 - 7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang vàng hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có thể có màu đen, hôi thối, mùi tanh rất khó chịu. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể: + Thể cấp tính: con vật sốt 41 - 420C, trong vài ngày đầu âm môn sưng tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục, đôi khi có máu lờ lờ. + Thể mãn tính: không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch nhầy trắng đục tiết ra từ âm đạo, dịch nhầy thường không liên tục mà chỉ chảy ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử cung lan sang thai làm chết thai.
  36. 29 * Hậu quả Theo Trần Thị Dân (2004) [2], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: + Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn đến sảy thai Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng, nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng, vì vậy gia súc chửa dễ bị sảy thai. + Lợn mẹ bị viêm tử cung thì bào thai cũng phát triển kém hoặc thai bị chết lưu. + Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. + Theo Trần Thị Dân (2004) [2], lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. + Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA (viêm tử cung, viêm vú và mất sữa), từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.
  37. 30 * Biện pháp phòng bệnh Theo Nguyễn Tài Năng và cs. (2016) [14], vệ sinh chuồng trại sạch sẽ một tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi 20% sau đó rửa sạch bằng nước thường, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú. Theo Lê Văn Năm (2009) [13], trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát trùng kĩ bằng cồn, xoa trơn tay bằng vaseline hoặc dầu lạc. Cho lợn nái chửa vận động, đảm bảo ăn uống đầy đủ, vệ sinh sạch sẽ. Kiểm tra nghiêm ngặt đảm bảo dụng cụ dẫn tinh đúng quy định và không để bị nhiễm khuẩn. Không sử dụng lợn đực bị nhiễm khuẩn đường sinh dục để nhảy trực tiếp hoặc lấy tinh. Phòng bệnh truyền nhiễm Leptospirosis, Brucellosis bằng cách dùng vắc xin đúng quy định, đúng thời gian cho đàn lợn sinh sản tránh những trường hợp bị sốt đột ngột gây sẩy thai. - Điều trị + Điều trị cục bộ Bơm rửa tử cung ngày 1 - 2 lần, mỗi lần 2 - 4 lít nước đun sôi để nguội pha thuốc tím 0,1% hay nước muối sinh lý 0,9%, sau đó bơm hoặc đặt kháng sinh như: penicilin 2 - 3 triệu UI; tetramycine hay sulfanilamid 2 - 5g hoặc clorazol 4 - 6 viên vào tử cung để chống viêm. + Điều trị toàn thân Tiêm thuốc hạ sốt analgin 2 - 3 ống/ngày. Tiêm kháng sinh Phác đồ 1: tiêm tetramycin, tiêm bắp liều 10 - 15mg/kg thể trọng, liên tục 3 - 4 ngày. Kết hợp tiêm septotryl tiêm bắp hoặc tĩnh mạch 1 ml/ 10 - 15 kg thể trọng/ ngày. Liên tục 3 - 4 ngày.
  38. 31 Phác đồ 2: tylan + polysul: tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch 1 ml/ 5 - 10 kg thể trọng/ ngày. Liên tục 3 - 4 ngày. Tiêm thuốc giảm viêm: hydrocortisone, dectancyl, prednisolone Tiêm thuốc trợ sức: vitamin B1, C, B12. Lưu ý khi pha thuốc tiêm vitamin C không dùng chung với kháng sinh peniciline, sulfamid và vitamin B12 Tiêm thuốc tạo sữa: Thyroxine ngày 1 - 2 ống, liên tiếp 2 - 3 ngày, chỉ dùng khi nhiệt độ cơ thể đã hạ xuống bình thường. * Bệnh viêm khớp - Nguyên nhân: Streptococcus suis là vi khuẩn gram (+), Streptococcus suis gây viêm khớp lợn cấp và mãn tính ở mọi lứa tuổi. Bệnh này thường gây ra trên đàn lợn con từ 1 - 6 tuần tuổi. Vi khuẩn xâm nhập qua đường miệng, rốn, vết thương trên da, đầu gối khi trà xát trên nền chuồng. - Triệu chứng: Lợn đi khập khiễng, khớp chân sưng lên. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn chân. Lợn ăn ít, hơi sốt, có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ, sưng, sờ nắn vào có phản xạ đau. - Điều trị: + Shotapen. LA liều 1ml/ 10kg TT hoặc Genta - tylo liều 1ml/ 10kg TT. + Tiêm analgin: 1ml/ 10kg TT/ 1 lần/ ngày. + Vitamin B1: 1,5ml/ 10kg TT Tiêm bắp, điều trị liên tục trong 3 ngày. * Bệnh viêm vú - Nguyên nhân: Trầy xước vú do sàn, nền chuồng gồ ghề sắc nhọn, vi trùng xâm nhập vào tuyến sữa. Hai loài vi trùng chính gây bệnh là Staphylococcus aureus và Streptococcus agalactiae. Ngoài ra còn các nguyên nhân gây viêm như số con
  39. 32 quá ít không bú hết lượng sữa sản xuất, kế phát từ viêm tử cung nặng hoặc do kỹ thuật cạn sữa không hợp lý trong trường hợp cai sữa sớm. Do vệ sinh không đảm bảo, chuồng trại quá nóng hoặc quá lạnh. Do lợn mẹ sát nhau, lợn con khi sinh ra không được bấm răng nanh ngay. Lợn mẹ ăn quá nhiều thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao làm sữa tiết ra quá nhiều, ứ đọng lại trong vú tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển mạnh mẽ về số lượng và độc lực (Nguyễn Như Pho, 2002 [16]). Triệu chứng: Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [22], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa, kêu la, chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú. Lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy sọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% (Lê Hồng Mận, 2002 [14]). Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu. Theo Nguyễn Thị Liễu Kiều (2018) [8], lợn sau khi sinh 2 ngày xuất hiện những vú sưng đỏ, thường thấy đối xứng giữa 2 hàng vú, sờ vào có cảm giác nóng, ấn vào vú lợn mẹ có biểu hiện đau. Nếu viêm nặng thì lợn bỏ ăn, không muốn cho con bú, sốt 40,5 – 420C, vắt sữa ở những vú viêm thấy vón cục. Vú viêm lây sang các vú khác rất nhanh. Nếu điều trị không kịp thời, lợn sẽ bị mất sữa. Trường hợp hàm lượng canxi huyết thấp sau khi sinh dẫn đến nái bị sốt sữa thì tất cả các vú đều bị viêm, sưng đỏ. - Hậu quả Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều dịch viêm, mủ, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn
  40. 33 con bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau. - Điều trị Nếu điều trị kịp thời lợn sẽ khỏi trong vòng 3 - 5 ngày. Các loại kháng sinh thường dùng: dufamox 15% LA, ampicilline, cephalexine, gentamycine, norfloxacine và có thể dùng corticoide để giảm viêm kết hợp với vitamin. Ngoài ra trong trường hợp nái đẻ bị viêm nặng chúng ta có thể chườm cát nóng kết hợp xoa bóp bầu vú. * Bệnh sót nhau. - Nguyên nhân: Theo Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [23], sau khi đẻ tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai, nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động đầy đủ. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là canxi và phốt pho. Tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, hiện tượng khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. Do viêm niêm mạc tử cung trước lúc đẻ làm dính nhau với tử cung hoặc nhau chưa ra hết thì người đỡ đẻ đã kéo đứt còn lại một ít sót lại trong tử cung. Do lợn con còn sót lại ở trạng thái nằm sai vị trí làm tắc đường ra của nhau. - Triệu chứng: Sau khi đẻ 4 - 5 giờ không thấy nhau ra hoặc ra không hết là bị sót nhau. Lợn nái rặn nhiều, đôi khi bỏ ăn, sốt cao liên tục 40 - 410C trong vòng 1 - 2 ngày, lợn mẹ cắn con, không để cho con bú, niêm dịch chảy ra màu đục, lẫn máu.
  41. 34 - Điều trị: Theo Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [23], can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh gây tổn thương. Tiêm oxytoxin để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục . 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về bệnh sinh sản trên lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con. Nguyễn Văn Thanh và cs. (2015) [20], bệnh viêm tử cung ở gia súc nói chung là một quá trình bệnh lý phức tạp được thể hiện dưới nhiều thể khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới hiện tượng rối loạn sinh sản, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản của gia súc cái sinh sản. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2002) [9], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacillus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Theo Lê Minh và cs. (2017) [12], tùy theo mức độ tổn thương, loại vi khuẩn, mức độ phát triển và hoạt động của vi khuẩn, sự rối loạn chức năng sinh lý và nội tiết tử cung mà tử cung có biểu hiện các triệu chứng lâm sàng khác nhau.
  42. 35 Theo Nguyễn Thị Ngân và cs. (2016) [15], đo thân nhiệt là một biện pháp không thể thiếu được trong chẩn đoán bệnh. Thân nhiệt cao hay thấp hơn bình thường được coi là triệu chứng bệnh quan trọng. Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [10], viêm tử cung là một bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm làm ảnh hưởng đến các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung làm rối loạn sinh sản ở gia súc cái, gây ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần, dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung. Đồng thời cũng có nhiều tác giả đã có những tổng kết về tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở lợn: Theo Nguyễn Như Pho (2002) [16], lợn Yorkshire, Landrace trong giai đoạn nuôi con mắc bệnh viêm tử cung chiếm tỷ lệ 15%, chữa kịp thời có thể khỏi 100%, song ảnh hưởng đến sức khỏe của lợn nái. Phần lớn nguyên nhân là do những trường hợp đẻ khó dẫn tới viêm tử cung. Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [10], lợn nái sau khi sinh bị viêm tử cung chiếm tỷ lệ 42,4%. Viêm tử cung trên nhóm thuần chiếm 25,48%; trên nhóm lai chiếm 50,48%. Viêm tử cung xảy ra cao nhất là ở lứa 1 và lứa 2. Tỷ lệ chậm động dục ở nhóm lợn bị viêm tử cung cao nhiều hơn so với nhóm lợn không bị viêm tử cung. Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [4], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái sinh sản chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó cơ quan ngoài chiếm 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Tỷ lệ viêm tử cung sau đẻ ở lợn nái ngoại cũng cao từ 1,82 - 23,33%.
  43. 36 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thế giới đang rất phát triển, các nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Jose Bento và cs. (2012) [26] cho biết năng suất sinh sản của đàn lợn Landrace ở Thụy Điển thu được từ 19 đàn hạt nhân bao gồm 20,27 lứa đẻ và 6,9 nái thuần từ giai đoạn 1994 - 1997 như sau: số con sơ sinh/ổ là 11,61; số con sơ sinh còn sống/ổ: 10; thời gian từ cai sữa đến phối giống: 5,6; tỷ lệ đẻ là 82,8%; tuổi đẻ lứa đầu là 335,6 ngày. Tuy nhiên vấn đề hạn chế bệnh sinh sản là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết, đặc biệt là bệnh viêm đường sinh dục. Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh viêm đường sinh dục và đã đưa ra các kết luận giúp cho người chăn nuôi lợn nái hạn chế được bệnh này. Tuy vậy, tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục trên đàn lợn nái sinh sản vẫn rất cao. Nguyên nhân của bệnh viêm đường sinh dục là do đường sinh dục bị tổn thương, do hiện tượng sát nhau. Bệnh phát triển là do nuôi dưỡng không tốt, do những dụng cụ, chất kích thích đẻ phá hoại hoặc làm kết tủa chất nhầy ở bộ máy sinh dục. Theo Trekaxova và cs. (1983) [25], chữa bệnh viêm vú cho lợn nái cần sử dụng các phương pháp chữa bệnh kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 - 40 ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 8 - 10 cm. Dung dịch novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần.
  44. 37 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian thực hiện - Đàn lợn nái sinh sản - Địa điểm: Trang trại lợn Lê Duy Hiếu, xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Thời gian tiến hành: từ ngày 18/11/2018 - 18/5/2019. 3.2. Nội dung thực hiện - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại Lê Duy Hiếu, xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Thực hiện quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản. - Áp dụng biện pháp phòng và trị bệnh cho lợn nái sinh sản. 3.3. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 3.3.1. Các chỉ tiêu thực hiện - Tình hình sinh sản của đàn lợn nái nuôi tại trại Lê Duy Hiếu. - Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái sinh sản nuôi tại trại Lê Duy Hiếu. - Kết quả tiêm vắc xin của lợn nái tại cơ sở. - Tình hình mắc bệnh của lợn nái tại cơ sở. - Hiệu quả điều trị bệnh cho lợn nái của một số phác đồ. 3.3.2. Phương pháp thực hiện - Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại Lê Duy Hiếu: để đánh giá tình hình chăn nuôi tại cơ sở chúng em tiến hành thu thập thông tin từ cơ sở, kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại cơ sở. - Trực tiếp thực hiện các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn tại cơ sở. - Phương pháp xác định các chỉ tiêu về số lượng: trực tiếp theo dõi và thông qua hệ thống sổ sách theo dõi của trại.
  45. 38 - Phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn: Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, tiến hành theo dõi lợn thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ thể, bộ phận sinh dục ngoài, dịch rỉ viêm, phân ghi chép vào nhật ký thực tập. Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn. - Phương pháp hiệu quả điều trị bệnh cho lợn: Xác định hiệu quả của các phác đồ điều trị bệnh cho lợn con theo mẹ bằng cách: theo dõi triệu chứng lâm sàng của lợn, sau đó dùng thuốc theo đúng liệu trình (tùy từng bệnh cụ thể), khi dùng hết liệu trình, quan sát lại những triệu chứng của lợn để đánh giá và kết luận hiệu quả của các phác đồ. 3.3.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi Số liệu thu được được xử lý trên phần mềm Microsoft Excel 2010 với các tham số như sau: - Tỷ lệ lợn mắc bệnh: ∑ số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 ∑ số lợn theo dõi - Tỷ lệ lợn khỏi: Σ số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%) = x 100 Σ số con điều trị
  46. 39 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại Lê Duy Hiếu xã Cát Nê, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên qua 2 năm từ năm 2018 đến tháng 5/2019 Trong thời gian thực tập em đã tìm hiểu được một số thông tin về tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 2 năm từ năm 2018 đến tháng 5 năm 2019 được trình bày cụ thể trong bảng 4.1. Bảng 4.1. Quy mô chăn nuôi của trại Lê Duy Hiếu trong 2 năm gần đây (2018 – T5/2019) Năm STT Loại lợn 2018 T5/2019 1 Lợn đực giống 1 1 2 Lợn nái sinh sản 54 60 3 Lợn nái hậu bị 7 5 4 Lợn con 1342 544 Qua bảng 4.1 cho thấy, số lợn đực giống, lợn nái sinh sản và lợn nái hậu bị gần như ổn định trong 2 năm, do số liệu mới theo dõi từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2019 nên số lượng lợn con thấp hơn so với năm 2018. 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn tại trang trại Trong sáu tháng thực tâp, em được phân công theo dõi, chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn tại chuồng lợn nái đẻ. Dưới đây là các kết quả thống kê liên quan đến số lượng lợn nái và lợn con em đã trực tiếp chăm sóc tại cơ sở trong sáu tháng thực tập. 4.2.1. Kết quả quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản tại trại Trong sáu tháng thực tập, từ 18/11/2018 đến 18/05/2019 em được tiếp nhận vào trại, vệ sinh bên ngoài chuồng trại thực hiện khâu cách ly, sau đó em
  47. 40 thực tập trong chuồng lợn bầu. Đến 01/12/2018 em được phân công thực tập tại chuồng nái đẻ. Trong thời gian thực tập tại chuồng lợn nái đẻ em đã ghi chép lại số lượng lợn nái và lợn con theo mẹ tại chuồng đẻ do em trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Kết quả được trình bày lần lượt tại bảng 4.2 và bảng 4.3. Bảng 4.2. Số lượng lợn nái và lợn con theo mẹ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại trong thời gian tháng thực tập Lợn con theo mẹ Tháng Nái đẻ (con) (con) 12/2018 10 119 01/2019 9 107 02/2019 11 136 03/2019 10 121 04/2019 9 110 05/2019 6 70 Tổng 55 663 Trung bình 9,16 110,5 (con/ tháng) Số liệu bảng 4.2 cho biết số lợn nái đẻ, nái nuôi con và số lợn con theo mẹ em trực tiếp chăm sóc trong quá trình thực tập tại cơ sở. Trong thời gian thực tập em làm việc ở chuồng đẻ đã trực tiếp chăm sóc 55 con lợn đẻ trung bình 9,16 nái/tháng và trung bình 110,5 lợn con/tháng. Quá trình chăm sóc lợn nái và lợn con theo mẹ được thực hiện theo sự hướng dẫn của chủ trại và kĩ sư của trại. Trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn, em đã được hướng dẫn để thực hiện quy trình chăm sóc lợn nái và lợn con giai đoạn theo mẹ như cách cho ăn, loại thức ăn cho từng loại lợn, khẩu phần ăn của lợn nái trong từng thời kỳ, các thao tác kỹ thuật để chăm sóc tốt lợn mẹ và lợn con.
  48. 41 Qua quá trình làm việc em cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm như: đối với lợn nái sau khi tách con cần áp dụng chế độ ăn tăng để tăng số trứng rụng và tăng số con đẻ ra trên lứa; chuồng trại phải sạch sẽ, thoáng mát, không nên tắm cho lợn vào những ngày lạnh, ẩm ướt vì sẽ làm ẩm chuồng, độ ẩm không khí tăng, vi sinh vật dễ phát triển trong môi trường làm lợn nái dễ nhiễm bệnh: Những ngày trời rét phải chuẩn bị ổ, bóng úm và thảm lót cho lợn con. Đối với lợn mẹ sau khi đẻ phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, giữ cho chuồng trại luôn khô ráo, sạch sẽ, giữ ấm và tuyệt đối không tắm cho lợn . Bảng 4.3. Kết quả thực hiện thao tác đỡ đẻ cho lợn tại trang trại Đẻ bình Số con đẻ khó Tỷ lệ Tháng/năm Số con đẻ Tỷ lệ (%) thường phải can thiệp (%) 12/2018 10 9 90,00 1 10,00 01/2019 9 8 88,88 1 11,12 02/2019 11 11 100 0 0 03/2019 10 10 100 0 0 04/2019 9 9 100 0 0 05/2019 6 6 100 0 0 Tổng 55 53 96,36 2 3,64 Bảng 4.3 cho thấy trong 55 lợn nái đẻ theo dõi có 2 nái đẻ bình thường chiếm tỷ lệ 96,36%, có 2 nái đẻ khó phải can thiệp chiếm tỷ lệ 3,64%. Lợn nái đẻ khó phải can thiệp là do lợn đẻ ở những lứa đầu, do lợn ăn nhiều vào kỳ cuối của thai kỳ làm thai quá to, do ngôi thai không thuận, do lợn mẹ ít được vận động và do sức khỏe của lợn mẹ không tốt. Tỷ lệ đẻ khó trung bình trong sáu tháng chỉ 3,64% tỷ lệ này ở mức thấp cho thấy trong quá trình nuôi dưỡng đã thực hiện đúng quy trình về thức ăn, kỹ thuật chăm sóc cho lợn nái sinh sản được thực hiện tốt
  49. 42 Khi đỡ lợn đẻ cần chuẩn bị tốt ô úm, vệ sinh sàn và vùng mông lợn nái trước khi lợn đẻ. Người trực tiếp đỡ đẻ cần cắt ngắn móng tay, chú ý quan sát biểu hiện của lợn nái khi đẻ và thời gian đẻ để kịp thời hỗ trợ can thiệp khi lợn đẻ khó bằng cách tiêm oxytocin, xoa bóp bầu vú, kéo thai ra. Người thực hiện tháo tác kéo thai cần vệ sinh tay sạch sẽ, bôi trơn, tháo tác đúng kỹ thuật. 4.2.2. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con Trong thời gian thực tập tại trại, em vừa tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái đẻ vừa được học và làm một số các thao tác trên đàn lợn con như đỡ lợn đẻ, mài nanh, cắt đuôi, thiến lợn đực. * Đỡ đẻ lợn con: thao tác đỡ đẻ cho lợn con được em thực hiện như sau: - Sau khi lợn mẹ đẻ, lấy lợn con chuồng từ trong ra. - Vuốt hết dịch vùng đầu và mặt. Vỗ nhẹ vào thân để kích thích hô hấp. - Vuốt hết màng bọc và nhớt ở phần thân và chân lợn. Dùng bột lăn rắc lên lợn, lợn con phải khô và sạch trước khi cắt dây rốn. - Cầm lợn con và dây buộc rốn, thắt dây rốn ở vị trí cách cuống rốn 2,5cm, dùng kéo cắt phần bên ngoài nút thắt một đoạn bằng 1/2 bên trong nút buộc khoảng 1,5 cm. Sát trùng dây rốn, vùng cuống rốn bằng cồn iod. - Cho lợn con vào lồng úm, nhiệt độ từ 33 – 350C. - Trước khi cho lợn con ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ, lót thảm cho lợn con ra bú. - Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết, lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú. * Thao tác mài nanh, cắt đuôi và tiêm chế phẩm Fe-B12 cho lợn con: lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt hơn, cứng cáp hơn sẽ được tiến hành mài nanh, cắt đuôi, tiêm chế phẩm Fe-B12. Thường thì chế phẩm Fe-B12 sẽ được tiêm vào từ 1 đến 3 ngày tuổi sau khi lợn con sinh với liều lượng 2ml/con, nhưng để tránh gây stress cho lợn con và tiện cho các thao tác kỹ thuật thì trại
  50. 43 thực hiện các công việc đó cùng một lúc. Sắt sẽ được tiêm bổ sung lần 2 vào 7 - 10 ngày tuổi nếu thấy cần thiết. * Thiến lợn đực: đối với lợn đực nuôi thịt ta cần thiến càng sớm càng tốt. Thông thường, trong chăn nuôi lợn nái sinh sản người ta thường thiến lợn vào 4-6 ngày tuổi. Nhưng thực tế trại chúng thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 5 sau khi sinh. Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: dao thiến, cồn sát trùng, panh, kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xi - lanh tiêm và thuốc kháng sinh. Thao tác: đầu tiên là tiêm cho lợn con 1ml/con kháng sinh (amoxicillin). Sau đó người thiến ngồi ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 đùi sao cho đầu của lợn con hướng xuống dưới. Một tay nặn sao cho dịch hoàn nổi rõ, tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn. Dùng 2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp thừng dịch hoàn vào giật dịch hoàn ra, dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn, bôi cồn vào vị trí thiến. Trong thời gian thực tập tại trang trại em đã được tham gia chăm sóc và nuôi dưỡng lợn con giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa. Kết quả một số chỉ tiêu của đàn lợn và khối lượng công việc thực hiện được trình bày tại bảng 4.4. Bảng 4.4. Kết quả thực hiện các thao tác xử lý trên đàn lợn con Số lượng Kết quả Nội dung công việc (con) An toàn (con) Tỷ lệ (%) Hộ lý lợn con mới sinh 673 663 98.51 Bấm nanh, cắt đuôi 663 663 10 Thiến lợn đực 320 320 100 Bảng 4.4 phản ánh khối lượng các thao tác kỹ thuật trên đàn lợn con tại trang trại trong quy trình chăm sóc nuôi dưỡng mà em đã thực hiện trong thời gian thực tập. Trực tiếp đỡ đẻ và hộ lý tại chỗ con mới sinh, số lượng 673 con trong đó 663 con được xử lý an toàn đạt tỷ lệ 98,51%, có 10/673 lợn con bị
  51. 44 chết chiếm tỉ lệ 1,49%. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do lợn đẻ khó, ngôi thai nghịch, nên một số lợn con bị chết ngạt do mắc kẹt lâu trong đường sinh dục lợn mẹ. Để khắc phục tình trạng trên, chúng ta cần phải chú ý đến khâu chăm sóc, theo dõi sức khỏe, thể trạng của lợn bầu từ đó đưa ra khẩu phần ăn phù hợp để giảm hiện tượng khó đẻ. Công việc bấm nanh, bấm đuôi con sinh được thực hiện sau khi lợn ra 12-24 giờ nhằm tránh gây tổn thương núm vú lợn mẹ khi bú sữa và cơ thể lợn con khi chúng cắn nhau, số lượng được thực hiện là 663 an toàn 100%. Tiến hành thiến lợn đực khi được 5 ngày tuổi, số lượng đã thực hiện 320 con lợn đực, an toàn 100%. 4.3. Kết quả thực hiện quy trình vệ sinh phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại 4.3.1. Kết quả thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh Công tác vệ sinh phòng bệnh giữ vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Vệ sinh hướng đến nhiều yếu tố: vệ sinh môi trường xung quanh, vệ sinh nguồn nước, vệ sinh chuồng trại Trong thời gian sáu tháng thực tập tại trang trại chúng em đã tuân thủ thực hiện nghiêm quy trình vệ sinh trong chăn nuôi. Hàng ngày, chúng em được phân công thực hiện thu gom phân thải, rửa chuồng, quét lối đi lại giữa các dãy chuồng. Định kỳ tiến hành phun thuốc sát trùng, quét vôi, phun thuốc diệt muỗi, quét mạng nhện trong chuồng và rắc vôi bột ở cửa ra vào chuồng. Khi rắc vôi bột dọc hành lang, đường trong chuồng tiến hành rắc ngược từ hướng quạt thông gió tới giàn mát để tránh bột vôi bay lên bám vào người, gây sặc. Sử dụng các dụng cụ bảo hộ như khẩu trang, găng tay để bảo vệ đường hô hấp, hạn chế tổn thương da cho người thực hiện. Việc vệ sinh, phun sát trùng được thực hiện vào cuối buổi sáng hoặc cuối buổi chiều thường xuyên theo lịch vệ sinh chuồng trại. Khi lượng người ra vào trại để thực hiện các công việc tăng lên hoặc khu vực chăn nuôi lân cận có dịch bệnh thì việc phun sát trùng sẽ được tăng cường.
  52. 45 Bảng 4.5. Lịch sát trùng trại lợn nái Trong chuồng Ngoài khu Thứ Chuồng nái Chuồng Ngoài vực chăn Chuồng đẻ chửa cách ly chuồng nuôi Phun sát Phun sát Quét hoặc rắc Phun sát trùng Phun sát Thứ 2 trùng toàn bộ trùng toàn vôi đường đi + rắc vôi trùng khu vực bộ khu vực Phun sát trùng + Quét hoặc Thứ 3 Phun sát trùng quét vôi đường rắc vôi - - đi đường đi Xả vôi xút Thứ 4 Phun sát trùng - Rắc vôi Rắc vôi gầm Phun sát trùng Thứ 5 Phun ghẻ - - - + xả vôi xút gầm Phun sát trùng Phun sát Phun sát Thứ 6 Phun sát trùng Phun sát trùng + rắc vôi trùng trùng Thứ 7 Phun sát trùng Phun sát trùng - - - Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Chủ nhật - chuồng chuồng chuồng khu Những việc em đã tham gia vào vệ sinh phòng bệnh theo lịch sát trùng của trại là: phun sát trùng chuồng đẻ, rắc vôi đường đi, đường lấy phân, đường tra cám, xả vôi gầm và quét dọn vệ sinh toàn chuồng. Chủ nhật hàng tuần sau khi đã làm xong các công việc trong chuồng, em cùng mọi người tiến hành tổng vệ sinh bên trong và bên ngoài chuồng. 4.3.2. Kết quả phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho lợn nái và lợn con Quy trình phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho đàn lợn tại trang trại được thực hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra trong cơ thể chúng một sức miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Trong sáu tháng thực
  53. 46 tập em đã tham gia vào công tác tiêm thuốc và vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn nái và lợn con tại trang trại. Kết quả thu được trình bày tại bảng 4.6. Bảng 4.6. Kết quả tiêm thuốc và vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại Số lượng Số lợn an Thời điểm Tỷ lệ Loại lợn Bệnh được phòng con tiêm toàn sau phòng bệnh (%) (con) tiêm (con) Lợn nái 65 - 75 ngày Dịch tả 10 10 100 trước đẻ 85 - 95 ngày Lở mồm long móng 25 25 100 Lợn nái 10 - 15 ngày Sảy thai truyền nhiễm 28 28 100 sau đẻ 20 - 23 ngày Tẩy ký sinh trùng + ADE 5 5 100 Tiêm chế phẩm Fe - B12 3 ngày tuổi 663 663 100 phòng bệnh thiếu máu Cầu trùng Lợn con 3 ngày tuổi 663 663 100 (cho uống) 18 - 21 ngày Mycoplasma + còi cọc 390 390 100 tuổi Bảng 4.6 là quy trình phòng bệnh cho đàn lợn con và lợn nái bằng vắc xin của trại. Lợn con từ 3 ngày tuổi sẽ được tiêm chế phẩm Fe - B12 để phòng bệnh thiếu máu ở lợn con, đồng thời tăng sức đề kháng cho lợn con và 100% số lợn con ở trại đều phải được tiêm sắt và cho uống thuốc cầu trùng . Trong thời gian thực tập, em đã tiêm Fe-B12 và cho uống cầu trùng được 663 con lợn con đạt tỷ lệ là 100% tổng số lợn con trực tiếp chăm sóc. Lợn con 18 - 21 ngày tuổi sẽ được tiêm vắc xin respisure 1one phòng bệnh suyễn lợn và vắc xin fostera PCV, em đã tiêm được cho 390 con. Nhưng để tránh stress cho lợn con tại trại em tiến hành tiêm vắc xin phòng suyễn và vắc xin còi cọc cùng một lúc ở 2 bên hốc tai lợn. Đối với lợn nái, lợn nái chửa 85 - 95 vắc xin ngày tiêm phòng bệnh lở mồm long móng, nái chửa 65 - 75 ngày tiêm vắc xin pest-vac phòng dịch tả.
  54. 47 Lợn nái nuôi con được 10 - 15 ngày sẽ được tiêm vắc xin sảy thai truyền nhiễm, em đã được tiêm 28 con. Lợn nái được 20 - 23 ngày sẽ được tiêm thuốc tẩy cầu trùng, em đã được tiêm 5 con. Việc sử dụng vắc xin để phòng bệnh được thực hiện nghiêm túc theo đúng lịch tiêm vắc xin của công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh. Nhờ đó mà khả năng miễn dịch của lợn được tăng lên, tỷ lệ số nái mắc các bệnh về sinh sản giảm, số con sinh ra nhiều, lợn con đẻ ra khỏe mạnh ít bị bệnh, nâng cao hiệu quả kinh tế. 4.4. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Lê Duy Hiếu 4.4.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợn Lê Duy Hiếu Trong thời gian sáu tháng thực tập tại trại em đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với chủ trại và kỹ sư của Công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh. Qua đó chúng em đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Sau đây là kết quả của công tác chẩn đoán bệnh dựa trên biểu hiện lâm sàng của con vật. * Đẻ khó Triệu chứng: Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng thai vẫn không ra. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to hoặc ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu. * Bệnh viêm tử cung Triệu chứng: sau khi lợn đẻ 2 - 3 ngày, lợn sốt nhẹ 40,5 - 420C, giảm ăn hay bỏ ăn, có dịch nhầy chảy ra từ âm hộ, màu trắng đục hoặc màu phớt vàng. Lợn nái bỏ ăn, mệt mỏi. Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh được trình bày ở bảng 4.7
  55. 48 Bảng 4.7. Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại Số con Số con Đối Chỉ tiêu theo dõi Tỷ lệ theo dõi mắc bệnh tượng Tên bệnh (%) (con) (con) Lợn mẹ Baị liệt sau đẻ 55 1 1,81 Đẻ khó 55 2 3,64 Viêm tử cung 55 3 5,45 Lợn con Tiêu chảy 663 258 39,92 Bảng 4.7 cho thấy, số lợn mắc bệnh viêm tử cung với tỷ lệ 5,45%. Nguyên nhân mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái nuôi tại trại cao do trong thời gian đầu thực tập sinh viên chưa có kinh nghiệm, các thao tác can thiệp hỗ trợ lợn đẻ trong trường hợp đẻ khó chưa tốt dẫn tới viêm nhiễm đường sinh dục. Lợn đẻ khó với tỉ lệ 3,64%, do lợn nái ít được vận động, ngôi thai không thuận, thai quá to, sức khỏe lợn mẹ yếu Tỷ lệ mắc các bệnh bại liệt sau đẻ và viêm khớp của đàn lợn nái tại trại là 1,81%. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện nuôi nhốt tập chung ít được vận động, thiếu ánh sáng. Một phần do yếu tố cá thể lợn hấp thu dinh dưỡng kém nên gầy yếu, thiếu hụt canxi dẫn tới dễ bị viêm khớp, bại liệt. Ngoài ra do quá trình sinh đẻ chiều hướng thai không bình thường và quá trình can thiệp hỗ trợ lợn đẻ khó chưa đúng kỹ thuật làm tổn thương dây thần kinh, lợn mẹ tụt giảm canxi huyết trong thời gian nuôi con dẫn tới bại liệt. Tỷ lệ lợn con bị tiêu chảy chiếm 39,92%. Nguyên nhân chủ yếu do thay đổi thời tiết và do lợn mẹ kém sữa. 4.4.2. Kết quả điều trị bệnh trên lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ Công tác điều trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con tại trang trại được tiến hành dựa trên những nguyên tắc khoa học dưới sự chỉ dẫn của chủ trại và kĩ sư trên cơ sở đảm bảo tính kinh tế.
  56. 49 Kết quả công tác điều trị được trình bày tại bảng 4.8. Bảng 4.8. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại Chỉ tiêu Kết quả Thời gian Thuốc điều Liều Đường Số con Số con dùng Tỷ lệ trị lượng tiêm điều trị khỏi thuốc (%) (con) (con) (ngày) Tên bệnh Oxytocin 2ml/con Viêm tử 1 ml/20 Tiêm bắp 3 - 5 3 3 100 cung Amoxgen kg TT Bệnh bại liệt Calcium 15 ml/con Tiêm bắp 2 - 3 1 1 100 Đẻ khó Oxytocin 1,5 ml Tiêm bắp 1 2 2 100 Ampicolistin Tiêm bắp 0,5 - 2 và truyền Tiêu chảy 2 - 3 258 243 94,18 Atropin ml/con xoang bụng Qua bảng 4.8 cho thấy: trong 3 con mắc bệnh viêm tử cung điều trị khỏi 3 con đạt tỷ lệ 100% do bệnh được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Có 1 con mắc bệnh bại liệt sau sinh điều trị khỏi 1 con đạt tỷ lệ khỏi là 100%. Do khi lợn đã mắc bệnh, khả năng phục hồi cơ xương rất khó nên khả năng đi lại, vận động kém hoặc mất khả năng vận động dẫn đến bị hoại tử phần tiếp xúc với nền sàn chuồng, nếu để lâu lợn mẹ gầy yếu dẫn đến chết. Có 2 lợn bị đẻ khó, can thiệp thành công 2 con, tỷ lệ khỏi đạt 100%.
  57. 50 Với bệnh bại liệt sau sinh trại dùng Calcium với liều 15ml/con, tiêm bắp, điều trị trong 2 - 3 ngày kết hợp với kiểm tra thức ăn, hỗ trợ con vật trở mình thường xuyên và vệ sinh sạch sẽ nền chuồng để tránh chỗ nằm lâu bị thối loét. Những con lợn con bị tiêu chảy do lợn mẹ kém sữa hoặc do thay đổi thời tiết làm lợn con bị tiêu chảy. Với bệnh tiêu chảy lợn con trại dùng thuốc Enrotil và nước muối sinh lý pha atropin. Có 258 con mắc bệnh, được điều trị khỏi 243 con chiếm tỷ lệ là 94,18%. Số lợn con bị tiêu chảy điều trị không khỏi là 15 con, do bị bệnh quá nặng, bỏ bú, gầy còm dẫn tới thể trọng quá nhỏ nên em đã chủ động loại thải
  58. 51 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Qua sáu tháng thực tập tốt nghiệp tại trại chăn nuôi Lê Duy Hiếu, em có một số kết luận về trại như sau : - Về hiệu quả chăn nuôi của trại: + Hiệu quả chăn nuôi của trại khá tốt. + Do năm nay giá lợn giảm mạnh nên việc xuất bán lợn bị chậm lại - Về công tác thú y của trại: + Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại luôn thực hiện nghiêm ngặt, với sự giám sát chặt chẽ của chủ trại. Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Tỷ lệ tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn đạt an toàn 100%. - Những chuyên môn đã được học tại trại: Qua sáu tháng thực tập tại trang trại em đã được chủ trang trại truyền đạt kiến thức và hướng dẫn các thao tác kỹ thuật trong quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn. Những công việc em đã được hướng dẫn và thực hiện gồm có: + Đỡ đẻ cho 55 con lợn + Mài nanh, cắt đuôi, tiêm sắt và cho uống thuốc cầu trùng 663 con an toàn 100%. + Thiến lợn đực cho 320 con an toàn 100% + Tham gia công tác vệ sinh phòng bệnh tại trang trại + Tham gia vào công tác tiêm thuốc và vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn. + Tham gia công tác điều trị bệnh cho 3 con lợn nái bị viêm tử cung, 1 con bị bại liệt sau đẻ, can thiệp 2 ca khó đẻ cho đàn lợn nái tại trang trại và điều trị cho 258 con lợn con bị tiêu chảy.
  59. 52 5.2. Kiến nghị + Cần thực hiện tốt hơn công tác vệ sinh trước, trong và sau khi đẻ. + Trang trại cần phải quản lý người ra vào trại chặt chẽ hơn, yêu cầu thực hiện công tác vệ sinh sát trùng nghiêm ngặt. + Xây dựng và tuân thủ phác đồ điều trị khoa học để nâng cao hiệu quả điều trị và đề phòng hiện tượng kháng thuốc có thể xảy ra. + Tăng cường công tác quản lý lợn con để hạn chế thấp nhất tình trạng lợn con chết do bị đè và rơi xuống gầm. + Hướng dẫn cho công nhân chi tiết về các kỹ thuật cơ bản trong chăn nuôi, nhất là có công nhân mới. + Cần chú ý tới việc sử dụng nước trong chuồng để chuồng luôn khô ráo làm giảm tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc bệnh tiêu chảy.
  60. 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Lê Xuân Cương (1986), Năng suất sinh sản của lợn nái, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 2. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp, tp Hồ Chí Minh. 3. Đoàn Thị Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Ngô Đức (2018), Bệnh bại liệt trên heo nái, Báo Nông Nghiệp Việt Nam. 6. Từ Quang Hiển, Phan Đình Thắm, Ngôn Thị Hoán (2001), Giáo trình thức ăn và dinh dưỡng học gia súc - gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 7. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Văn Lãnh, Đỗ Ngọc Thúy (2012), Giáo trình bệnh truyền nhiễm thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Nguyễn Thị Liễu Kiều (2018), Bệnh thường gặp trên heo nái sau sinh, Trung tâm khuyến nông TP.HCM 9. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, Trang 44 - 52. 10. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 12. Lê Minh, Nguyễn Văn Quang, Phan Thị Hồng Phúc, Đỗ Quốc Tuấn, La Văn Công (2017), Giáo trình thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
  61. 54 13. Lê Văn Năm (2009), Hướng dẫn điều trị một số bệnh ở gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp. 14. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên (2016), Giáo trình Dược lý học thú y, Nxb Đại học Hùng Vương. 15. Nguyễn Thị Ngân, Phan Thị Hồng Phúc, Nguyễn Quang Tính (2016), Giáo trình chẩn đoán bệnh gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Nguyễn Như Pho (2002), ”Ảnh hưởng của việc tăng cường điều kiện vệ sinh đến hội chứng MMA và năng suất sinh sản heo nái”, Khoa học kỹ thuật thú y, tập IX (số 1), Tr 60 - 65. 17. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 18. Nguyễn Ngọc Phục (2005), Công tác vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn, Nxb lao động xã hội, Hà Nội. 19. Lê Văn Tạo, Khương Bích Ngọc, Nguyễn Thị Vui, Đoàn Băng Tâm (1993), “Nghiên cứu chế tạo vắc xin E. coli uống phòng bệnh phân trắng lợn con”, Tạp chí Nông nghiệp Thực phẩm, số 9, Tr 324 - 325. 20. Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Thị Thương, Giang Hoàng Hà (2015), Bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản chăn nuôi theo mô hình gia trại, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học động vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 22. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội. 23. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010),” Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí khoa học kỹ thuật Thú y tập 17.
  62. 55 24. Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993), Thụ tinh nhân tạo cho lợn ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 25. Trekaxova A.V, Đaninko L.M, Ponomareva M.I, Gladon N.P (1983), Bệnh của lợn đực và lợn nái sinh sản, (Nguyễn Đình Chí dịch), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tài liệu tiếng nước ngoài 26. Jose Bento S., Ferraz and Rodger K., Johnson (2012), “Animal Model Estimation of Genetic Pamaeters and Response to Selection. For Litter Size and Weight, Growth, and Backfat in Closed Seedstock Populations of Large White and Landrace Swine”, Department of Animal Science, December 4, 2012, University of Nebraska, Linciln 68583 - 0908.
  63. PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Hình 1: Buộc chỉ rốn cho lợn con Hình 2: Thiến lợn đực Hình 3: Cắt đuôi cho lợn con Hình 4 : Cắt nanh cho lợn con
  64. Hình 5: Tiêm vắc-xin suyễn cho Hình 6: Xịt rửa lồng úm lợn con Hình 7: Đàn lợn con mới sinh Hình 8: Đàn lợn con 10 ngày tuổi