Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai

pdf 85 trang thiennha21 20/04/2022 3700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_tri_thuc_ban_dia_su_dung_cay_thuoc_cua.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  VÀNG VĂN TRUNG NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC H’MÔNG TẠI XÃ TRUNG LÈNG HỒ, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Quản lý Tài nguyên rừng Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2015 – 2019 Thái Nguyên, năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  VÀNG VĂN TRUNG NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC H’MÔNG TẠI XÃ TRUNG LÈNG HỒ, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Quản lý Tài nguyên rừng Lớp : K46 - QLTNR Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn : 1. Th.S Đào Hồng Thuận 2. T.S Nguyễn Thị Thu Hiền Thái Nguyên, năm 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đay là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là quá trình điều tra trên thực địa hoàn toàn trung thực, chưa công bố trên các tài liệu, nếu có gì sai tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn. Thái Nguyên, tháng 06 năm2019 XÁC NHẬNCỦA GVHD Người viết cam đoan Vàng Văn Trung XÁC NHẬN CỦA GV CHẤM PHẢN BIỆN Xác nhận đã sửa chữa sai sót sau khi Hội đồng đánh giá chấm
  4. ii LỜI CẢM ƠN Được sự phân công của Nhà trường, Khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sau 5 tháng thực tập em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc H’ Mông tại xã Trung Lèng Hồ, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai”. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân còn có sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, bạn bè, cô chú, anh chị tại địa bàn xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Xin cảm ơn cô giáo – TS. Nguyễn Thị Thu Hiền, Ths. Đào Hồng Thuận người đã hướng dẫn cho em trong suốt thời gian thực tập đã chỉ dẫn, định hướng đi cho em để em hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xin cảm ơn sự giúp đỡ của cán bộ Ủy ban Nhân dân xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và cán bộ Kiểm lâm Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, cùng sự chỉ bảo tận tình của các thầy lang, bà mế thuộc xã Trung Lèng Hồ. Đồng thời xin cảm ơn thầy cô giáo Khoa Lâm nghiệp, các bộ phận liên quan thuộc Trường và người thân trong gia đình cùng bạn bè thân thiết đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, tuy nhiên do hạn chế về kinh nghiệm cũng như về thời gian và trình độ nghiên cứu nên khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý, chỉ bảo của thầy cô cũng như các bạn đọc khác để khóa luận được hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019 Sinh viên Vàng Văn Trung
  5. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu 25 Bảng 4.1: Số loài cây thuốc đã phát hiện được ở KVNC 29 Bảng 4.2. Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan 30 Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ 32 Bảng 4.4. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số loài của từng họ trong hệ hệ thực vật Việt Nam (2) 33 Bảng 4.5. Thống kê các chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc 33 Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 35 Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu 37 Bảng 4.8. danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận 40 Bảng 4.9. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng đồng dân tộc H’Mông 41 Bản 4.10. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng đồng dân tộc H’Mông 43 Bảng 4.11. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể 45 Bảng 4.12. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Dây nối xươngvà Sâm quy đá 48
  6. iv DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài 26 Hình 4.1. Hình tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu. 37 Hình 4.2. Hình Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc tại khu vực nghiên cứu. 39 Hình 4.3. Hình đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng đồng dân tộc H’Mông 43 Hình 4.4.Hình đa dạng tần số các bộ phận cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc H’Mông tại khu vực nghiên cứu. 44 Hình 4.5. Hình ảnh hoạt tính ức chế S. aureus và E. coli của cây Sâm đá và cây Dây nối xương 49
  7. v DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ đầy đủ Cc Cả cây Đ Sống ở đồi Ha Quả, hoa HTKK Hoạt tính kháng khuẩn KBT Khu bảo tồn KVNC Khu vực nghiên cứu KH&CN Khoa học & công nghệ L Lá Lp Dây leo Me Cây gỗ trung bình Mi Cây gỗ nhỏ Na Cây bụi NCTN & MT Nghiên cứu tài nguyên & môi trường NĐ - CP Nghị định Chính phủ Pp Kí sinh và bán kí sinh R Rễ R Sống ở rừng ST & TNSV Sinh thái & tài nguyên sinh vật Th Thân thảo/thân UBND Ủy ban nhân dân V Vỏ Vs Sống ven sông ven suối Vu Sống ở vườn
  8. vi MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC HÌNH iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v MỤC LỤC vi PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài 3 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học 3 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3 PHẦN 2. TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 4 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 5 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới 5 2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước 12 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 19 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 19 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu[26] 22 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23 3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu 23 3.2. Nội dung nghiên cứu 23 3.3. Phương pháp nghiên cứu 24
  9. vii 3.3.1. Phương pháp kế thừa 24 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng 24 3.3.3. Phương pháp thu mẫu 25 3.3.4.Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc 26 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp 27 3.3.6. Phương pháp nghiên cứuhoạt tính kháng khuẩn 27 PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29 4.1. Đa dạng nguồn cây thuốc sử dụng trong cộng đồng dân tộc H,Mông tại xã Trung Lèng Hồ, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai 29 4.1.1. Đa dạng các bậc taxon 29 4.1.2 Đa dang về dạng sống của nguồn cây thuốc 35 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của nguồn cây thuốc 37 4.1.4. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã được ghi nhận được tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. 39 4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân dộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai 41 4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc. 41 4.2.2. Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc 44 4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc H’Mông khu vực nghiên cứu. 47 Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 50 5.1. Kết luận 50 5.2. Tồn tại 51 5.3. Kiến nghị 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO 53 PHỤ LỤC
  10. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng cộng đồng dân tộc đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri thức dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc chữa bệnh. Cây thuốc dân gian từ lâu đời đã được nhiều người quan tâm đến, đây là một nguồn tài nguyên thực vật có giá trị thiết thực cho các cộng đồng địa phương trong việc phòng chữa bệnh, ngoài ra nó còn có giá trị trong việc bảo tồn nguồn gen, cũng cấp cho lĩnh vực dược học. Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng và phong phú, trong đó có nguồn tài nguyên cây thuốc, đặc biệt là khu vực Trường Sơn. Thêm vào đó với những kinh ghiệm đã được tích lũy qua 4000 năm lịch sử, đã sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ co nhu cầu cuộc sống từ ăn, mặc, ở, chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh, của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Đó là một ưu thế lớn trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thực vật trong đó có nguồn tài nguyên cây thuốc góp phần nâng cao đời sống và sức khỏe của mọi người đặc biệt là các cộng đồng Dân tộc thiểu số ở các vùng sau, vùng xa nơi cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên trong đó có rừng . Bằng những kinh nghiệm dân gian của những người làm thuốc trong mỗi dân tộ, những tri thức về cây thuốc được truyền miệng và lưu truyền cho con cháu đời sau, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trải qua thời gian, các bài thuốc
  11. 2 có tính độc đáo và trở nên thông dụng trong vuệc chăm sóc sức khỏe người dân của cộng đồng mình và những dân tộc xung quanh. Vì vậy, đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc cũng như bảo tồn tri thức y học dân gian được tiến hành và mang lại giá trị khoa học và thực tiễn. Xã Trung Lèng Hồ thuộc vùng lõi của Khu bảo tồn thiên nhiên huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, là một vùng đất giàu tài nguyên, khí hậu nhiệt đới ẩm, có thảm thực vật rất đa dạng và phong phú, Trong đó, cộng đồng dân tộc H’Mông ở xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai cũng có nhiều kinh nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng cây thuốc, Tuy nhiên, hiện nay điều kiện kinh tế còn thiếu thốn, khó khăn, tri thức người dân chưa cao, và diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tình trạng khai thác, mua bán diễn ra một cách phức tạp, dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm. Mặt khác những bài thuốc được cộng đồng dân tộc H’Mông sử dụng từ lâu đời trong việc phòng và trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở khoa học của các bài thuốc chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con đường khoa học. Vì vậy, để cung cấp các cơ sở khoa học góp phần bảo vệ nguồn gen cây thuốc, bảo tồn và phát triển các bài thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ - huyện Bát Xát, tôi đề xuất ý tưởng đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”. 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài - Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. - Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai sử dụng trong phòng và trị bệnh.
  12. 3 - Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện có ở khu vực nghiên cứu. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học - Xác định tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. - Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao tại khu vực nghiên cứu. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
  13. 4 PHẦN 2 TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu Cây làm thuốc đã được con người biết đến và sử dụng từ rất lâu đời. với các loài cây có sẵn trong tự nhiên, bằng những kinh nghiệm đúc rút từ đời này ra đời khác con người đã để lại cho hiện tại một kho tàng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc hết sức phong phú và hiệu quả. Trong xa hội phát triển hiện nay, các thuốc có nguồi gốc tổng hợp hóa học đã phát huy được thế mạnh trong phòng và điều trị bệnh. Xong các loại thuốc này thường có độc tính và gây nhiều tác dụng phụ không mong muốn. chính vì vậy con người có xu hướng tìm trở lại các loại thuốc có nguồn gốc thảo mộc mà cơ thể con người dễ hấp thụ và đào thải. Ngày nay cây thuốc (Cây dược liệu) được sử dụng như là những vị thuốc, phương thuốc chữa bệnh hiệu nhiệm, thậm trí chữa các bệnh hiểm nghèo, nan y. Theo tổ chức y tế Thế giới, 80% dân số ở các nước đang phát triển việc chăm sóc sức khỏe ít nhiều liên quan đến Y học cổ truyền hoặc thuốc từ dược thảo truyền thống để bảo vệ sức khỏe. Trong vài thập kỷ gần đây, các nước trên Thế giới đang đẩy mạnh việc nghiên cứu, bào chế và sản xuất các chế phẩm có nguồn gốc thiên nhiên từ cây thuốc để hố trợ, phòng ngừa và điều trị bệnh. Theo thống kê của WHO, ở Trung Quốc doanh số thi trường thuốc từ dược liệu đạt 26 tỷ USD (2008, tăng trưởng hàng năm đạt 20 %),Mỹ đạt 17 tỷ USD (2004), Nhật Bản đạt 1,1 tỷ USD (2006), Hàn Quốc 250 triệu USD (2007), Châu Âu đạt 4,55 tỷ Euro (2004), Tính trên toàn Thế Giới, hàng trăm doanh thu thuốc từ dược liệu ước đạt khoảng trên 80 tỷ USD. Cây thuốc (Cây Dược Liệu) ngày càng có vị trí quan trọng không những trong y học đẻ chữa bệnh và bồi bổ sức khỏe cho con người mà giá trị kinh tế của cây thuốc cũng ngầy càng có vị thế và được xem như là “ Cây công nghiệp cao cấp ”.
  14. 5 Hiện nay, mạc dù việc trồng, chế biến và sử dụng cây thuốc (Cây dược liệu) ở Việt Nam ngày càng phát triển rộng dãi do nhu cầu gia tăng, nhưng kỹ thuật trồng cây thuốc ở các vùng sản xuất chủ yếu mang tính kinh nghiệm. Việc sử dụng giống phân bón, thuốc bảo vệ thức vật, nguồn nước tưới Còn tùy tiện. công tác tuyển trọn giống cây thuốc chưa được quan tâm và thiếu chuyên gia nên năng suất và chất lượng chưa tốt. để khắc phục và những bất cập này rất cần đến đội ngũ cán bộ kỹ thuật được đào tạo bài bản là cơ sỏ vững chắc giúp ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sảng xuất cây dược liệu và là hướng đi tất yếu giúp các vùng sản xuất cây dược liệu tăng nhanh sản lượng và chất lượng dược liệu đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng xã hội. Vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và bài thuốc cho thế hệ hôm nay và mai sau. 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới Tổ tiên loài người từ khi xuất hiện đã gắn bó với thiên nhiên, trải qua quá trình đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật để sinh tồn. Trong quá trình đó, tổ tiên chúng ta ngay từ khi còn là các tộc người đã sớm phát hiện ra những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, đồng thời trong cuộc sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc và phương pháp chữa bệnh. Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên thế giới: Ở Châu Á: Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như:
  15. 6 Sanjay Kr Uniyal và cộng sự (2006) [62] khi nghiên cứu về sử dụng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc giữa các cộng đồng của vùng Chho Bhangal, phía Tây dãy Hymalaya đã tìm thấy 35 loài thực vật thường được người dân địa phương sử dụng trong việc chữa các bệnh khác nhau. Yanchun Liu và cộng sự (2009) [69], đã ghi nhận và thu thập 68 loài cây thuốc trong 64 chi thuộc 40 họ được người Tây Tạng sử dụng để chữa các bệnh khác nhau. Manju Panghal và cộng sự (2010) [51] khi nghiên cứu kiến thức bản địa về cây thuốc được sử dụng ở cộng đồng Saperas của làng Khetawas, quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã tìm thấy 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên cứu này cây thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ Fabaceae. Arshad Abbasi và cộng sự (2013) [35] khi thẩm định về thực vật học và các giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học của Lesser dãy Hymalaya đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38 chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và tiêu thụ. Mi-Jang Song và cộng sự (2013) [56] khảo sát cây thuốc ở đảo Jeju, Hàn Quốc đã tìm thấy 171 loài thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, 777 cách sử dụng các loài cây thuốc của người dân bản địa được ghi lại. Auemporn Junsongduang và cộng sự (2013) [36] nghiên cứu về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lanđã chỉ ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng nhiều nhất.
  16. 7 Naveed Akhtar và cộng sự (2013) [59] nghiên cứu về đa dạng và sử dụng cây thuốc dân tộc trong khu vực Swat, Bắc Pakistan đã ghi nhận 106 loài thực vật thuộc 54 họ được người dân bản địa sử dụng để điều trị bệnh. Homervergel G. Ong và Young - Dong Kim (2014) [48] nghiên cứu về thực vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippin đã tìm thấy 142 loài cây dược liệu thuộc 55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh. Tahira Bibia và cộng sự (2014) [65] nghiên cứu thực vật dân tộc của cây thuốc ở quận Mastung của tỉnh Balochistan, Pakistan đã chỉ ra 102 loài thực vật thuộc 47 họ được người dân sử dụng cho mục đích điều trị các loại bệnh khác nhau. Mi-Jang Song và cộng sự (2014) [57] khi điều tra và phân tích các kiến thức truyền thống về cây thuốc được sử dụng bởi các cư dân tại Vườn quốc gia (VQG) Gayasan, Hàn Quốc đã điều tra và thống kê 200 loài thực vật thuộc 168 chi và 87 họ được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau như: rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết cắt vết thương. Dol Luitel và cộng sự (2014) [43] khi nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepalđã tìm thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau. Ở Châu Âu: Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ (Evidence-Based Complementary và cộng sự, 2012) [40]. Những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân bản địa được thực hiện:
  17. 8 Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự (2004) [49] khi nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc trong công viên tự nhiên của Sera de Saox Mamede, Bồ Đào Nha đã cung cấp thông tin của 165 loài thực vật được sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Maria Leporatti và cộng sự (2007) [52] khi nghiên cứu về một số công dụng của cây thuốc trong khu vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền Nam nước Ý đã chỉ ra 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da, bệnh về đường hô hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp. Montse Parada và cộng sự (2009) [58] nghiên cứu thực vật dân tộc của khu vực Alt Empordaf, Catalonia, bán đảo Iberia đã tìm thấy trên 518 loài thực vật thuộc 335 chi và 80 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Maria Leporatti và Kamel Gheddira (2009) [53] khi phân tích so sánh các cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền tại Ý và Tunisia đã ghi nhận 153 loài thực vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị các bệnh khác nhau. Ugur Cakilcioglu và cộng sự (2011) [67] khi khảo sát cây thuốc ở Maden, Elazig, Thổ Nhĩ Kỳ đã tìm thấy 88 loài thực vật thuộc 41 họ được sử dụng cho mục đích điều trị bệnh. Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) [38] nghiên cứu về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo đã ghi nhận 98 loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae. Seyid Ahmet Sargin và cộng sự (2013) [63] nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương của Alasehir, Manisa, Thổ Nhĩ
  18. 9 Kỳ đã thu thập được 137 loài thực vật được người dân bản địa sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Gorka Menedez-Baceta và cộng sự (2014) [47] nghiên cứu về cây dược liệu truyền thống được sử dụng ở phía Tây Bắc của xứ Basque, bán đảo Iberiađã chỉ ra 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng để điều trị bệnh, trong đó các cây được sử sụng nhiều nhất thuộc họ Asteraceae. Ở Châu Mĩ: Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng được thực hiện: Rainer W Bussmann và Douglas Sharon năm (2006) [61] nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cổ truyền ở miền Bắc Peru đã ghi nhận 510 loài thực vật được người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh, các cây thuộc các họ được sử dụng nhiều nhất là: Asteraceae, Fabaceae, Lamiaceae, Solanaceae, Euphorbiaceae và Poaceae. Cecilia Almeida và cộng sự (2006) [41] nghiên cứu cây thuốc phổ biến được sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần. Gabriele Volpato và cộng sự (2009) [45] nghiên cứu sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra 123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Gaia Luziatelli và cộng sự (2010) [46] nghiên cứu cây thuốc của cộng đồng Ashaninka (một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki, Junin, Peru đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu
  19. 10 thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae. Yadav Uprety và cộng sự (2012) [68] nghiên cứu sử dụng cây thuốc trong rừng phương Bắc của Canada đã điều tra và thống kê 546 loài cây thuốc được sử dụng bởi những người thổ dân của rừng phương bắc Canada, các loại cây thuốc này được sử dụng để điều trị 28 bệnh và triệu chứng rối loạn khác nhau, trong đó các cây thuốc được sử dụng để chữa bệnh rối loạn dạ dày – ruột, rối loạn cơ xương là chủ yếu. Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón và cộng sự, 2014) [44]. Nghiên cứu “Cây thuốc trong bối cảnh văn hóa của một cộng đồng Mapuche – Tehuelche trong thảo nguyên Datagonia Argentina” đã chỉ ra 121 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến tiêu hóa, hô hấp, tim mạch, giảm đau, chống viêm, sản khoa, phụ khoa và sinh dục (Soledad Molares và Ana Ladio, 2014) [64]. Ở Châu Phi: Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú (Cây thuốc Châu Phi, 2013) [35]: Rainer W Bussmann (2006) [60] nghiên cứu về thực vật dân tộc của Samburu ở Nam Turkana, Kenya đã thống kê được 448 loài thực vật mà người dân bản địa sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Tilahun Teklehaymanot và Mirutse Giday (2007) [66] nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc được sử dụng bởi người dân ở Zegie Peninsula,
  20. 11 Tây Bắc Ethiopia đã ghi nhận 67 loài cây thuốc thuộc 64 chi và 42 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến rối loạn tiên hóa, kí sinh trùng và nhiễm trùng. Theo nghiên cứu của David J Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc, Cameroon”, đã xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae (David J Simbo, 2010) [42]. “Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cộng sự, 2011) [34]. “Nghiên cứu cây thuốc của Otwal và Ngãi ở quận Oyam, Bắc Uganda”, đã chỉ ra 71 loài thực vật thuộc 41 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae (Maud M Kamatenesi và cộng sự, 2011) [54]. Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển Agnalazaha Đông Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi nhận 8 loài được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan đến tình dục như bệnh lậu và giang mai (Mendrika Razafindraibe và cộng sự, 2013) [55]. Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cộng sự, 2014) [39].
  21. 12 Kết quả nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền bởi những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia, đãthống kê được 49 loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [37]. Ở Châu Úc: Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được thực hiện ở châu Úc còn rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales, Australia, đã ghi nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị các bệnh (Joanne Packera và cộng sự, 2012) [50]. Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu. Hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật. Ngay từ những buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thủy, trong quá trình tìm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra công dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng ta đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Thế kỷ thứ XI (TCN), nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm miệng, uống nước chè xanh cho mát, nụ vối cho dễ tiêu, Điều đó nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc (Lê Trần Đức, 1997) [11].
  22. 13 Từ thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã biết nấu rượu, biết dùng Thủy ngân để ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ đã biết chữa bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông bị điên được lương y Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm nước Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên trồng và bán các loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện dược liệu, 1993) [30]. Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [10]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tôn trọng, gọi là “Ông thánh thuốc Nam”. Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không lấy tiền và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt dùng thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức, 1997) [11]. Thời kỳ nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện, có lương y chăm lo việc chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt phòng và chống dịch bệnh cho nhân dân. Trong giai đoạn này có làng thuốc ở thôn Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26].
  23. 14 Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791) đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh dương an toàn trạch” gọi tắt là “Lãn Ông Y Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008) [16]. Suốt 30 năm của cuộc dời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị và dược liệu. Ngoài các bộ sách trên, còn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm” của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam dược” với 590 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê Trần Đức, 1997) [11]. Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh, là những danh y nổi tiếng thời này, đã góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về phương thuốc dân gian. Trong thời Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số hoạt động như: thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng chữa bệnh, tổ chức triển lãm y học cổ truyền, (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Đến đầu thế kỷ XX, đã cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người
  24. 15 Việt góp công nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược tính hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc. Công trình nghiên cứu của Crévót, Pétélot. Pétélot đã cho xuất bản bộ “Catalogue des produitsde L’Indochine” (1928 – 1935), trong đó tập V (Produits medicinaux, 1928) đã mô tả 368 cây thuốc và vị thuốc là các loài thực vật có hoa. Năm 1952, tác giả đã cho bổ sung và xây dựng thành bộ “Les plantes de médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam”, gồm 4 tập và thống kê được 1.482 vị thuốc thảo mộc ở ba nước Đông Dương (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [10]. Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210 TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau: “Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá trị, phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ Văn Chi, 1996) [32]. Vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ sách “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam”gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên soạn năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập. Trong đó, tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam (Nguyễn Tập, 2007) [17]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và trrong những năm từ 1959 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách
  25. 16 này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các loài cây thuốc trong các công trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản nhiều lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm 2003. Lần tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [10]. Bộ sách của ông đã mang lại giá trị khoa học và giá trị thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại. Trong những năm này, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [22]; Trần Đình Lý với cuốn “1900 loài cây có ích” năm 1995, đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [10]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [11]. Võ Văn Chi là một nhà thực vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu về các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [18]. Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [20]. Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [1]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương
  26. 17 thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [24] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [25]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược” (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [20]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [22]; “cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cộng sự (2000) [23] đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến, Đồng thời, có nhiều công trình nghiên cứu về cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng Quang Châu đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau (Đặng Quang Châu, 2011) [5]. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải khi điều tra các loài cây của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ (Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải, 2003) [6]. Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương Năm 2004, Lưu Đàm Cư và cộng sự khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng: cây lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc, các tác giả đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H’mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc (Lưu Đàm Cư và cộng sự, 2004) [12]. Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [19] đã xây dựng các mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 (21/10/2011) tại Hà Nội, đã có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài cây thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam được công bố như: “Một số kết quả điều tra nguồn tài nguyên cây thuốc tại xã San
  27. 18 Sả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai” của Nguyễn Thị Minh Hải và cộng sự đã ghi nhận 321 loài thuộc 252 chi, 94 họ thuộc 6 ngành thực vật; trong đó có tới 16 loài cây thuộc diện cần được bảo vệ và 9 loài cây đang bị khai thác mạnh ở xã San Sả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai (Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4, 2011) [9]. “Các loài thực vật được đồng bào dân tộc H’mông tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên – Văn Bàn sử dụng làm thuốc trị bệnh gan” của tác giả Trần Văn Hải và cộng sự đã xác định được 31 loài thực vật được đồng bào dân tộc H’mông tại Khu bảo tồn thiên nhiên Văn Bàn sử dụng làm thuốc chữa các bệnh về gan (viêm gan, bổ gan, giải độc gan và sơ gan) (Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [9]. “Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến đã chỉ ra 65 loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường sử dụng làm thuốc chữa bệnh về thận (Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [9]. “Đánh giá đa dạng nguồn gen cây thuốc của người Sán Chí ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và cộng sự đã xác định được 90 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 82 chi, 50 họ thực vật của 2 ngành thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân tộc Sán Chí ở xă Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên dùng làm thuốc (Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [9]. “Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận đã thu được 35 loài thuộc 27 chi, 21 họ của 2 ngành thực vật bậc cao được sử dụng làm thuốc chữa bệnh thay thế mật gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên (Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [9]. “Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại
  28. 19 các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [9]. Dương Văn Hưng (2018) [4] khi nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã thu được 149 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc Ngành Thông có 1 loài, thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dương sỉ có 3 loài thuộc 3 chi và 3 họ, thuộc ngành Ngọc lan có 145 loài thuộc 133 chi và 70 họ có công dụng làm thuốc. Nông Thái Hòa (2018) [13] khi Nghiên cứ cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ. Tỉnh Thái Nguyên đã thu được 137 loài thực vật bậc cao thuộc ngành Ngọc Lan, thuộc 129 chi và 72 họ có công dụng làm thuốc. Vàng A Lả (2018) [29] khi Nghiên cứ cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, Tỉnh Thái Nguyên đã thu được 138 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Dương sỉ có 2 loài thuộc 2 họ và 2 chi. Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc, các bài thuốc không những mang lại những giá trị khoa học, giá trị thực tiễn sâu sắc mà còn đóng góp và công tác bảo tồn nguồn dược liệu nước nhà, bảo tồn những bài thuốc hay. Nhằm góp phần, bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu * Vị trí địa lý Trung Lèng Hồ là một xã vùng cao, nằm ở phía tây Nam của huyện Bát Xát, cách trung tâm huyện 45 km về phía tây Nam và là xã rộng nhất huyện, cách thành phố Lào Cai 55km theo Tỉnh lộ 269D và Quốc lộ 17. Xã có diện tích tự nhiên là 14748,8 ha, đa số là dân tộc H’Mông và dân tốc khác, sống
  29. 20 sen cạnh trong 6 thôn, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 98% Có vị trí địa lý tiếp giáp với các đơn vị sau. - Phía Đông giáp với xã Nậm Pung, huyện Bát Xát. - Phía Tây giáp với Hồ Thầu, Tà Lèng, huyện Tam Đường và xã Sin Suối Hồ, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. - Phía Nam giáp với xã Bình Lư, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. - Phía Bắc giáp với các xã Sảng Ma Sáo và Mường Hum, huyện Bát Xát. * Địa hình, địa mạo Xã Lèng Hồ chủ yếu là rừng núi đất, trong đó có rừng tự nhiên nhiều tầng tán và có tầng thảm mục. Còn một số là rừng sản xuất, rừng trồng của lâm trường và theo các dự án. * Địa chất, thổ nhưỡng Theo báo cáo tổng kết của UBND xã Trung Lèng Hồ năm 2018 [28] Xã Trung Lèng Hồ có tổng diện tích tự nhiên là 14748,8ha, trong đó nhóm đất nông nghiệp 11727,6 ha, nhóm đất phi nông nghiệp 129,84 ha, đất nuôi trồng thủy sản 1,68ha, đất chưa sử dụng 2891,43 ha. Đất đai của xã được hình thành do sự phong hóa đất mẹ và phù sa bồi lấp. Do đó có thể chia thành các nhóm đất chính sau: - Đất phù sa: Chiếm tỷ lệ ít, là nhóm đất ở địa hình bằng, được bồi đắp bởi sản phẩm phù sa của dòng chảy của các suối và do thời tiết, thời gian được chia thành: + Đất phù sa không được bồi hàng năm trung tính ít chua, thành phần cơ giới chủ yếu là thịt trung bình, loại đất này thích hợp cho việc trồng lúa, raumàu. + Đất phù sa ít được bồi hàng năm trung tính ít chua, thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ, hơi nghèo mùn, đạm tổng số trung bình, lân và kali tổng số nghèo. Phân bố ở địa hình vàn cao nên khá tơi xốp, thoát nước tốt, thích hợp với cây ngô, đậu - Nhóm đất bạc màu:
  30. 21 + Đất bạc màu phát triển trên đất phù sa cổ có sản phẩm Feralitic trên nền cơ giới nặng, đây là đất bạc màu có thành phần cơ giới nhẹ, dễ bị sói mòn, rửa trôi. + Đất bạc màu phát triển trên phù sa cổ có sản phẩm Feralitic, trênthành phần cơ giới trung bình, đất có thành phần cơ giới nhẹ, hàm lượng các chất dinh dưỡng nghèo. - Nhóm đất Feralitic: Phân bố chủ yếu ở địa hình đồi núi, được phát triển trên phù sa cổ, dăm cuội kết và cát kết, các đơn vị đất chính gồm: Đất Feralitic biến đổi do trồng lúa, đất Feralitic nâu tím phát triển trên phiến thạch sét, đất Feralitic vàng đỏ phát triển trên sa thạch, răm kết, đất Feralitic nâu vàng trên phù sa cổ, loại đất này diện tích khá lớn thích hợp với cây công nghiệp lâu năm là cây Chè. * Đặc điểm khí hậu: Trung Lèng Hồ nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều. Do ảnh hưởng của địa hình nên được chia thành hai khu vực khí hậu khác nhau Vùng cao: Do ảnh hưởng của địa hình núi cao, độ chia cắt lớn nên khí hậu vùng núi cao mang tính chất của khí hậu cận nhiệt đới và ôn đới ẩm. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vùng thấp: Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình 1.400 -2.800mm. lượng mưa phân bố không đều vào 2 mùa rõ rệt (mùa mưa và mùa khô). Mưa nhiều nhất vào tháng 6 và tháng 7. Tổng số giờ nắng bình quân trong năm là 1.200h. Trung Lèng Hồ có hai hướng gió chính: Hương Đông nam vào mùa mưa và hướng Đông bắc vào mùa khô. Vận tốc gió trung binh theo hướng Đông bắc đạt 1,2m/s.
  31. 22 * Chế độ thủy văn Khu vực nghiên cứu: Xã Trung Lèng Hồ thuộc địa phận tỉnh Lào Cai (được giới hạn bởi sông Hồng chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam) thuộc địa phận huyện Bát Xát. * Hiện trạng thảm thực vật Do điều kiện sinh thái và địa hình của xã, thảm thực vật ở xã Trung Lèng Hồ khá đa dạng và phong phú, được thể hiện như sau: Rừng tự nhiên: Hiện tại trên địa bàn xã có khoảng 50% rừng tự nhiên chủ yếu là rừng phòng hộ. Rừng trồng: rừng trồng trong khu vực chủ yếu được trồng và quả lý chủ yếu do người dân. Các loại rừng trồng thường gặp là rừng Keo và Mỡ. 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu[28] * Dân cư, dân tộc - Trung Lèng Hồ có diện tích 148,28 km2, dân số toàn xã có 465 hộ với 2. 458 nhân khẩu, phân bố trên địa bàn 06 thôn bản gồm dân tộc Mông là chủ yếu, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 98%. Dân cư phân bố có không đều, tập trung chủ yếu ở các thôn trung hồ, thôn pờ hồ cao, thôn tả tả lé, thôn xéo tả lé, thôn xéo pờ hồ, thôn phìn báo. -Đời sống người dân: Đời sống nhân dân chủ yếu trồng lúa và cây thảo quả làm rừng để phát triển kinh tế. * Kinh tế Khu vực kinh tế nông nghiệp vẫn là ngành chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của xã Trung Liềng Hồ trong những năm qua.
  32. 23 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các loài thực vật được cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ sử dụng làm chuốc chữa bệnh; kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ. * Phạm vi nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: + Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại xã Trung Lèng Hồ thuộc vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. + Nghiên cứu thực nghiệm (xác định hoạt tính kháng khuẩn) được tiến hành tại phòng thí nghiệm Khoa Công nghệ sinh học - Trường Đại học Khoa Học Thái Nguyên. - Thời gian nghiên cứu:Từ tháng 1 đến tháng 5/2019. 3.2. Nội dung nghiên cứu * Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai: - Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi. - Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc. - Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc. - Xác định những cây thuốc quý thuộc diện cần bảo tồn: đánh giá mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu. * Đánh giá về tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu: (i) đa dạng về bộ phận sử dụng; (ii) đa dạng về cách chế biến cây thuốc; (iii) đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc.
  33. 24 *Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được cộng đồng dân tộc H’Mông tại khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài thực hiện tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Để đạt được các kết quả gắn với các nội dung nghiên cứu trên, cách thức và giải pháp thực hiện ý tưởng bao gồm như sau: 3.3.1. Phương pháp kế thừa - Kế thừa những những tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở khu vực nghiên cứu và các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các thầy lang, bà mế người dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu. 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng - Điều tra phỏng vấn thu thập cây thuốc: tại khu vực nghiên cứu, phỏng vấn các thầy lang, bà mế, người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc và sử dụng các bài thuốc gia truyền của cộng đồng dân tộc H’Mông tại địa bàn nghiên cứu. Mẫu phiếu điều tra dựa theo: phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc gian dân (Viện Dược liệu, 1993) [30]. - Thu thập đầy đủ các thông tin cây thuốc gồm: tên phổ thông, tên dân tộc H’Mông; số hiệu mẫu/ảnh cây thuốc; dạng sống; môi trường sống; bộ phận sử dụng làm thuốc (thân, rễ, hoa, quả, hạt); công dụng. Đồng thời ghi chép những đặc điểm dễ nhận biết của cây ngoài thiên nhiên, ghi rõ thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin. - Định danh tên cây: định danh loài cây theo các bước: (i) định danh tại thực địa; (ii) sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố giám định lại. + Bước 1: xác định sơ bộ tên địa phương, tên thường gọi được thực hiện ngay ở lần điều tra đầu tiên. Đối với những loài chưa chắc chắn thì ghi chú để
  34. 25 kiểm định lại ở bước sau. Các loài không biết tên cần phải lấy mẫu (lá, hoa, quả, ) và ghi vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2, để giám định. + Bước 2: tất cả các cây được thẩm định lại tên cây, lập danh mục cây thuốc bằng sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia về thực vật và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố gồm: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 1999) [21], Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 2012) [33], Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005) [8], Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006) [27]. Danh sách tên cây thuốc sẽ được hoàn thiện ở bước này. Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu Thời gian điều tra: Người điều tra: Địa điểm điều tra: Địa chỉ điều tra: Tên loài Môi Bộ Cách Số hiệu Dạng Công TT Phổ Địa Khoa trường phận sử mẫu/ảnh cây sử dụng thông phương học sống dụng dụng (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) 3.3.3. Phương pháp thu mẫu Tiến hành thu mẫu ở thực địa theo nguyên tắc và phương pháp thu mẫu theo Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [15]. Dụng cụ thu mẫu: bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, giây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép, máy theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [14].
  35. 26 Nguyên tắc thu mẫu: mỗi cây thuốc thu từ 3 – 10 mẫu và được gắn nhãn ghi rõ các thông tin về kí hiệu mẫu, thời gian, địa điểm và người thu mẫu (các mẫu cùng cây đánh số cùng một số hiệu mẫu). Mẫu thu thập sẽ được xử lý theo phương pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [15] như sau: + Bước 1: sau mỗi ngày thu mẫu, mẫu vật sẽ được mang về nơi ở, xếp mẫu ngay ngắn vào một tờ báo cỡ 28 x 42 cm, để mẫu ở trạng thái tự nhiên, có lá sấp – lá ngửa, vuốt cho thẳng mẫu và đeo etyket cho mẫu. + Bước 2: xếp khoảng 15 – 20 mẫu thành một chồng, dùng dây dứa buộc lại. + Bước 3: cho mẫu vào túi nilon và tẩm cồn cho chồng mẫu để bảo quản. Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài 3.3.4.Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc Để đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, đề tài sử dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [14]: - Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài. - Đa dạng về dạng sống: kí sinh, dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi. - Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối hoạc nơi ẩm ướt. - Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, nhựa, cả cây. - Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương,
  36. 27 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007) [2], Nghị định 32/2006/NĐ-CP (Chính phủ nước Việt Nam, 2006) [2], Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) [17]. 3.3.6. Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn - Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu. Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 900C đến khối lượng không đổi. - Nguyên liệu sau khi sấy khô được nghiền trong máy xay đa năng loại nhỏ thành bột dạng mịn, bảo quản nơi khô ráo để sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo. - Bước 2: Tạo cao chiết Nguyên liệu được tách chiết theo phương pháp ngâm nóng. Nguyên liệu dạng bột khô được đem đi chiết với tỷ lệ 20g/100ml bằng dung môi methanol, sau đó cho vào máy lắc với tần số 200 vòng/phút (để các chất có hoạt tính sinh học tan đều trong dung môi) ở các điều kiện thời gian khác nhau (24h, 48h, 72h), sau đó tiến hành lọc qua giấy lọc, 80ml dịch lọc được đem đi cô đặc bằng máy cô quay (hoặc sấy khô) đến khi có khối lượng khô không đổi và được bảo quản ở 40C để sử dụng trong các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn. - Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn Sửdụng 2 chủng vi khuẩn gồm 1 chủng gram dương là S.a (Staphylococcus aureus),và 1 chủng gram âm là, E.coli (Escherichia coli), lấy từ phòng thí nghiệm Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. Bảo quản giống trên môi trường thạch nghiêng: vi sinh vật được hoạt hóa trong môi trường LB, sau đó được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng, nuôi
  37. 28 24 giờ ở 370C, giữ trong tủ lạnh để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. Cấy chuyển giữ giống trên thạch nghiêng định kỳ 2 tuần một lần. - Bước 4:Thử khả năng kháng khuẩn Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của các loại dịch chiết bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch, thí nghiệm được bố trí 3 lần nhắc lại trên 1 chủng vi khuẩn 3 đĩa petri trên 1 lần nhắc lại. Pha các cao chiết của toàn thân cây thuốc với nước ở nồng độ 100mg/ml sau đó dung cao pha để thử hoạt tính kháng khuẩn. Các thao tác được thực hiện trong tủ cấy vô trùng. Khi mật độ vi khuẩn đạt đến nồng độ 108 tế bào/ml, lắc đều ống nghiệm chứa vi khuẩn. Môi trường LB đã được hóa lỏng trong lò vi sóng, khi còn lỏng đổ đều môi trường vào các đĩa Petri, sau đó để nguội để môi trường đông đặc lại tạo thành mặt phẳng. Dùng micropipet hút 100μl dịch vi khuẩn vào giữa đĩa thạch chứa môi trường LB (Thành phần của môi trường LB là như sau (g/l): Peptone - 10; Cao nấm men - 5; NaCl -10; pH: 7,0), dùng que cấy tam giác trang đều cho đến khi mặt thạch khô. Sau 15 phút đục giếng trên môi trường thạch với đường kính 6mm, đục 5 giếng, mỗi giếng cách nhau 2-3cm. Mỗi giếng thạch nhỏ 100μl các dịch chiết cần nghiên cứu bằng micropipet, sử dụng đối chứng dương là kháng sinh kanamicin và Akamicin với nồng độ 5mg/ml để so sánh, để các đĩa thạch trong tủ lạnh 30 phút để dịch chiết khuếch tán ra môi trường nuôi cấy vi khuẩn, sau đó nuôi cấy trong tủ ấm 370C, sau 24h mang ra đo kích thước vòng kháng khuẩn. Hoạt tính kháng khuẩn được xác định bằng cách đo kích thước vùng kháng khuẩn (BK) bằng công thức: BK=D-d, trong đó D là đường kính vòng kháng khuẩn, d là đường kính giếng thạch.
  38. 29 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đa dạng nguồn cây thuốc sử dụng trong cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai 4.1.1. Đa dạng các bậc taxon 4.1.1.1.Đa dạng bậc Ngành, Lớp Kết quả điều tra, nghiên cứu cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc H’Mông tại khu vực nghiên cứu đã tìm được 90 loài thực vật bậc cao có mạch được cộng đồng H’Mông sử dụng làm thuốc thuộc 81 chi, 53 họ. Kết quả được tổng hợp trong Bảng 4.1 sau: Bảng 4.1: Số loài cây thuốc đã phát hiện được ở KVNC TT Ngành thực vật Số họ Số chi Số loài 1 Magnoiliphyta – Ngành Ngọc lan 52 80 89 Magnoliopsida – Lớp Hai lá mầm 40 60 69 Liliopsida – Lớp Một lá mầm 12 20 20 2 Pteridophyta – Ngành Dương sỉ 1 1 1 Tổng 53 81 90 Các loài cây thuốc chủ yếu thuốc nhóm thực vật bậc thấp có mạch thuốc ngành Dương sỉ (Pteridophyta) thu được 1 loài có công dụng làm thuốc là Lygodium japonicum Thunb. Sw (Thòng bong), chiếm 1,01% tổng số loài. Ngành Ngọc lan (Magnoilipphyta) hay còn gọi là ngành Hạt kín (Angiospermae) đã phát hiện được 89 loài (chiếm 98,88 % tổng số loài), thuộc 80 chi (chiếm 98.76% tổng số chi) và 52 họ (chiếm 98,11 % loài). Điều này có thể được giải thích là hệ thực vật ở xã Trung Lèng Hồ bao gồm chủ yếu là các đại diện nằm trong ngành Ngọc lan. Chúng là những cây mọc xung quanh thôn xóm, đồi và rừng. Vì vậy, đây là những loài cây thuốc được bà con đồng bào dân tộc sử dụng làm thuốc nhiều hơn các loài thực vật khác.
  39. 30 Các loài trong ngành Ngọc lan chiếm vai trò quan trọng trong các loài được sử dụng làm thuốc và để phân tích sâu hơn về thành phần các bậc taxon trong 2 lớp của ngành Ngọc lan là: lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) và lớp Một lá mầm (Liliopsida) thể hiện qua số lượng và tỷ lệ phần trăn cụ thể trong Bảng 4.2. Trong hai lớp của ngành Ngọc lan thì lớp hai lá mầm (Magnoiliopsida) có số họ, chi, loài được sử dụng làm thuốc chiếm ưu thế hơn hẳn so với lớp một lá mầm. Lớp hai lá mầm có 69 loài chiếm tỷ lệ 77,53%. Có 60 chi, chiếm tỷ lệ 75% và 40 họ, chiếm tỷ lệ 76,92% so với tổng số họ, chi, loài trong ngành. Trong số này có những loài có giá trị như: Homalomena occulta (Thiên niên kiện), Angelica sinensis (Oliv.) Diels (Đương quy) chữa xương khớp, Bảng 4.2. Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan Họ Chi Loài Magnoiliphyta Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ (Ngành Ngọc Lan) lượng % lượng % lượng % Magnoiliopsida 40 76,92 60 75 69 77,53 (Lớp Hai lá mầm) Liliopsida 12 23,08 20 25 20 22,47 (Lớp Một lá mầm) Tổng 52 100 80 100 89 100 Lớp Một lá mầm (Liliopsida) chỉ có 20 loài, chiếm tỷ lệ 22,47%;20 chi, chiếm tỷ lệ 25%;và 12 họ, chiếm tỷ lệ 23,08%so với tổng số loài, chi, họ trong ngành Ngọc lan. Tuy là lớp một lá mầm chiếm tỷ lệ không lớn, nhưng lớp này cũng có một số loài có giá trị như: Amomum villosum Lour (Sa nhân), Belamcanda chinensis (L.) DC (Rẻ quạt), chữa ho, tiêu chảy, Adenosma caeruleum R. Br (Nhân trần), chữa bệnh gan, giải nhiệt, hạ huyết áp, . Như vậy, chúng ta có thể thấy được các loài thuốc trong ngành Ngọc lan, nhất là loài thuốc trong lớp hai lá mầm (Magnoiliopsida) chiếm tỷ lệ lớn và đóng vai trò quan trong các loài thực vật làm thuốc được đồng bào dân tộc H’Mông tại địa phương sử dụng.
  40. 31 Dưới đây là một số hình ảnh một số loài thuốc ở khu vực nghiên cứu: A. Ba kích B. Sa nhân (Amomum villosum Lour) (Morinda officinalis How) C. Sâm quy đá (Angelica sinensis D. Dây nối xương (Tinospora sinensis (Oliv.) Diels) (Lour.) Merr E. cây Ý dĩ F. Lan kim tuyến (Anoectochilus (Coix chinensis Todaro ex Bal) setaceus Blume)
  41. 32 4.1.1.2.Đa dạng bậc họ Số lượng họ cây thuốc thu được ơ khu vực nghiên cứu bao gồm 52 họ. Sự phân bố các họ trong các ngành như sau: Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ > 10 loài Ngành thực vật 1loài 2loài 3loài 4loài 5loài 6loài 7loài 8loài 9loài và < 15 loài Pteridophyta 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Polyodpiopsida 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Magnoliophyta 34 10 4 3 0 0 1 0 0 0 Magnoliopsida 24 10 3 3 0 0 1 0 0 0 Liliopsida 10 0 1 0 0 0 1 0 0 0 Tổng số họ 34 10 4 3 0 0 2 0 0 0 Tỷ lệ số họ/ tổng 64,15 18,87 7,55 5,66 0,00 0,00 3,77 0,00 0,00 0,00 số họ (%) Số loài 34 20 12 11 0 0 14 0 0 0 Tỷ lệ số loài/ 37,36 21,98 13,19 12,09 0,00 0,00 15,38 0,00 0,00 0,00 tổng số loài (%) Kết quả cho ta thấy, Có 34 họ chiếm 1 loài, (chiếm 64,15%tổng số họ và chiếm 37,36% tổng số loài) trong đó có 24 họ phân bố ở lớp hai lá mầm, 10 họ phân bố ở lớp một lá mầm. 10 họ có 2 loài,(chiếm 18,87 tổng số họ và 21,98% tổng số loài),có 10 loài phân bố ở lớp hai lá mầm. Có 4 họ có 3 loài, (chiếm 7,55 % so với tổng số họ, và 13,19%), trong đó có 1 họ phân bố ở lớp một lá mầm, 2 họ phân bố ở lớp hai lá mầm. Có 3 họ có 4 loài(chiếm 5,66 so với tổng số họ và 12,09% tổng số loài), có 3 họ phân bố ở lớp hai lá mầm. Có 1 họ chiếm 7 loài, (chiếm 3,77% tổng số họ và chiếm 15,38 % tổng số loài), có 1 loài phân bố ở lớp Một lá mầm.
  42. 33 Bảng 4.4. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số loài của từng họ trong hệ hệ thực vật Việt Nam (2) Tỷ lệ % giữa TT Họ nhiều loài 1 2 (1) và (2) 1 Asteraceae - Họ Cúc 7 380 1,84 2 Euphorbiaceae - Họ Thầu dầu 4 477 0,84 3 Zingiberaceae - Họ Gừng 3 135 2,22 4 Piperaceae - Họ Hồ tiêu 2 50 4,00 Chú thích : Trung tâm nghiên cứu Tài Nguyên và Môi Trường, Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Sinh Thái& Tài Nguyên sinh vật, Viện Hàn Lâm Việt Nam (2006). Danh lục các loài thưc vật Việt Nam. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, tập 2-3. Kết quả trên cho ta thấy, các loài cây thuốc được đồng bao dân tộc H’Mông ở xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai sử dụng chiếm tỷ lệ tương đối cao so với hệ thực vật Việt Nam. Có những họ nhiều loài như: Asteraceae (7 loài) chiếm 1,84% Euphorbiaceae (4loài) chiếm 0.84%, Zingiberaceae (3 loài) chiếm 2,22%, Piperaceae (2 loài) chiếm 4.00% so với số loài trong từng họ của cả nước, Đây cũng là một trong những họ có số loài lớn trong hệ cây thuốc Việt Nam. 4.1.1.3. Đa dạng ở bậc chi Sự đa dạng và phong phú về thực vật làm thuốc ở xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai không chỉ thể hiện sự đa dạng ở bậc họ mà sự phong phú về các chi cũng khá rõ. Điều này được thể hiện ở Bảng 4.5 Bảng 4.5. Thống kê các chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc TT Chi có nhiều loài Thuộc họ Số lượng loài 1 Eupatorium Asteraceae - Họ Cúc 7 2 Phyllanthus Euphorbiaceae - Họ Thầu dầu 4 3 Amomun Zingiberaceae – Họ Gừng 3 4 Piper Piperaceae - Họ Hồ Tiêu 2 5 Tổng 16
  43. 34 Kết quả ở Bảng 4.5 cho thấy ở khu vực nghiên cứu có 4 chi có số loài được sử dụng nhiều nhất. Trong đó chi Eupatorium đa dạng nhất có 7 loài, đứng thứ hai là chi Phyllanthus có 4 loài, đứng thứ 3 là chi Amomun có 3 loài, đứng thứ 4 là chi Piper có 2 loài . Một số loài cây thuốc có giá trị sử dụng phổ biến trong các chi này như sau: Chi Eupatorium (7loài) có Ngải cứu (Artemisia vulgaris L.) giải độc; Sài đất (Wedelia chinensis (Osbeck) Merr) chữa ho, mụn nhọt; Cỏ ngọt (Stevia rebaudiana (Bert.) Hemsl) chữa tiểu đường, dạ dày; cây nhọ nồi (Eclipta prostrata (L.) L) chữa sỏi thận; cây hoa asito (Cynara scolymus) chữa gan; Đại bi (Blumea balsamifera (L.) DC) chữa cảm cúm, đau lưng, Bạch đầu ông (Anaphalis margaritacea (L.) Benth.& Hook. F) chữa cao huyết áp, Chi Phyllanthus có (4 loài) Diệp hạ châu (Phyllanthus amarus Schum) chữa bệnh gan; Khổ sâm (Croton tonkinensis Gagnep)chữa tiêu hóa; Phèn đen (Phyllanthus reticulatus Poir) chữa thủy đậu; Thầu dầu (Ricinus communis L) chữa xương khớp, Chi Amomum có (3 loài) Sa Nhân (Amomum villosum Lour) chữa tiêu chảy; Nghệ đen (Curcuma zedoaria (Berg.) Rosc) chữa dạ dày khớp; Thảo quả (Amomum aromaticum Roxb) chữa đau bụng, sốt rét, Chi Piper có (2 loài), Lá lốt (Piper lolot C. DC) chữa bệnh trĩ, Trầu dại (Piper chaudocanum C. DC) chữa gãy xương, Như vậy trong tổng số 81 chi thì số lượng chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc chỉ chiếm 4,9 % (4/81) trong khu vực nghiên cứu, còn lại chủ yếu là các chi có số lượng loài là một hoặc hai loài, chiếm tỷ lệ cao so với 95,1%. Điều này đã thể hiện sự phong phú trong việc sử dụng cây cỏ làm thuốc của người dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ. Một nghiên cứu khác của Nông Thái Hòa [13] khi Nghiên cứ cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đã thu được 137 loài thực vật bậc cao thuộc ngành Ngọc Lan, thuộc 129 chi và 72 họ có công dụng
  44. 35 làm thuốc, như vậy tri thức bản địa của xã Hoàng Nông đa dạng hơn tri thức bản địa ở địa bàn xã Trung Lèng Hồ. 4.1.2 Đa dang về dạng sống của nguồn cây thuốc Kết quả điều tra nghiên cứu đã thu thập được 90 loài cây thuốc với sự phong phú về các kiểu dạng sống khác nhau. Dưới đây là bảng thống kê số lượng các dạng sống của cây thuốc được thầy lang, bà mế, dân địa phương dân tộc H’ Mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh: Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu Dạng sống Số lượng loài Tỷ lệ % Thân thảo 54 60 Dây leo 16 17,78 Cây bụi 10 11,11 Gỗ nhỏ 8 8,89 Gỗ trung bình 1 1,11 Cây ký sinh 1 1,11 Tổng 90 100 Từ kết quả ở Bảng 4.6 cho ta thấy: Phần lớn các cây thuốc được đồng bao dân tộc H’Mông sử dụng là dạng cây thân thảo đạt (54/90 loài, (chiếm 60% so với tổng số các loài cây thuốc thu được) và tập trung chủ yếu trong một số họ như: họ Cúc (Asteraceae), họ Gừng (Zingiberaceae), có những loài chữa bệnh đặc trưng như cây Sa nhân (Amomum villosum Lour), chữa tiêu chảy, cây Thảo quả (Amomum aromaticum Roxb), chữa đau bụng, sốt rét, cây Bạch đàu ông (Anaphalis margaritacea (L.) Benth. & Hook. F). Dây leo xếp thứ 2 sau Thân thảo, với 16/90 loài, (chiếm tỷ lệ 17,78%). Dạng cây này chủ yếu trong các cây thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae), họ Nho (Vitaceae), Những cây chữa bệnh đặc trưng như cây Lưỡng luân chân vịt
  45. 36 (Diploccyclos palmatus (L.) C. Jeffrey) chữa bệnh gan; Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino) chữa bệnh tiểu đường, tim mạch, Chè dây (Ampelopsis cantoniensis (Hook. & Arn.) Planch), chữa bệnh dạ dày, mất ngủ, Tiếp đến là cây Bụi có số loài 10/90 loài, (chiếm 11,11%) , Dạng cây này tập chung chủ yếu trong các cây thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), những loài cây dung để chữa trị các bệnh thuộc nhóm này có thể kể đến như cây, diệp hạ châu (Phyllanthus amarus Schum) có tác dụng chữa gan, cây Khổ sâm (Croton tonkinensis Gagnep) có tắc dụng chữa tiêu hóa, cây phèn đen (Phyllanthus reticulatus Poir) chữa thủy đâu, Tiếp đến là dạng Gỗ nhỏ, có 8/90 loài (chiếm 8,89%, so với tổng số loài cây thuốc), chủ yếu tập chung ở lớp Hai lá mầm, đại diện cho họ Trám (Burseraceae), một số loài thuộc họ Sim (Myrtaceae), như cây Tram đỏ (Canarium subulatum Guillaum), có tác dụng chữa đông máu, tan máu, cây ổi (Psidium guajava L) có tác dụng chữa tiêu chảy, Dạng Gỗ trung bình có 1/90 loài, chiếm 1,11%, tập trung ở họ Cưu Lý Hương (Rutaceae), được dung để chữa bệnh như, Cảm cúm, đau bụng , tiếp là dạng Cây ký sinh được người dân H’Mông sử dụng làm thuốc, có 1/90 loài và chiếm 1,11%, so với tổng số loài khác, có 1 loài thuộc họ Tơ hồng (Cuscutaceae), được sử dụng chữa bệnh tan máu, Dạng cây ký sinh và dạng Gỗ trung bình là 1 loại cây chiếm tỷ lệ thấp nhất so với tổng số loài khác. Như vậy, việc sử dụng các cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của người dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai là rất phong phú và đa dạng. Việc sử dụng cây thuốc này chủ yếu tập chung vào những cây dễ thu hái nhưng cây thân thảo, Dây leo,cây bụi thấp, và cây Gỗ nhỏ, với tỷ lệ khác nhau trong tổng số cây thuốc thu được.
  46. 37 1,11% 1,11% 8,89% Thân thảo (Th) 11,11% Dây leo (Lp) 17,78% 60,00% Cây bụi (Na) Gỗ nhỏ (Mi) Gỗ trung bình (Me) Cây kí sinh (PP) Hình 4.1. Hình tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu. 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của nguồn cây thuốc Để thuận lợi cho công tác bảo tồn các loại cây thuốc ở khu vực nghiên cứu, Tôi đã đánh giá sự đa dạng về môi trường sống của các loài cây thuốc. Việc phân chia các loài môi trường sống, căn cứ vào địa hình, đất đai, khi hậu, nơi mà cây thuốc đó phát triển. Có các dạng môi trường sau: Sống ở đồi:Cây sống ở đồi, đồi hoang, trảng bụi, chân đồi. Sống ở vườn: Cây sống ở vườn, bờ ao, quanh thôn xóm. Sống ở rừng : Cây sống ở rừng rậm, rừng thứ sinh, ven rừng. Sốngở suối: Cây sống ở gần nơi nước chảy, ven khe suối, sông, nơi ẩm ướt. Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu TT Môi trường sống Số loài Tỷ lệ % 1 Sống ở vườn 45 50 2 Sống ở rừng 28 31,11 3 Sống ở đồi 14 15,56 4 Sống ở ven sông ven suối 3 3,33 Chú thích: Tỷ lệ % trong bảng hơn 100% do một số loài có thể sống ở nhiều môi trường khác nhau
  47. 38 Kết quả Bảng 4.7 cho ta thấy, môi trường sống của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu là rất đa dạng và phong phú, trong đó những cây thuốc phân bố ở quanh thôn, xóm, vườn, bờ ao,được các thầy lang, bà mế mang về trồng trong vườn nhà là chủ yếu, chiếm 50%. Ý thức được giá trị của các loài cây thuốc và do quá trình khai thác, buôn bán đã làm cho nguồn tài nguyên cây thuốc bị cạn kiệt, đặc biệt là khai thác để bán sang Trung Quốc, các ông lang, bà mế đã chủ động tìm và mang về trồng ở vườn để bảo vệ loài và nguồn gen cây thuốc. Theo lời nói của các ông lang, bà mế cho biết thì trước kia vào rừng gặp nhiều thuốc quý. Nhưng giờ những cây thuốc quý rất hiếm, muốn tìm thì phải vào tận rừng sâu mới có, những cây như: Glycyrrhiza uralensis Fisch. ex DC (Cam thảo), chữa vẩy nến, viêm da,Isodon lophanthoides (D. Don) Hara (Cỏ mật gấu), dùng chữa xương khớp, giả độc gan. Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk (Hoàn ngọc trắng), chữa bệnh táo bón, đau bụng. Portulaca oleracea L (Rau sam), chữa bệnh trĩ, sỏi thận. Ixora chinensis Lamk(Đơn lá đỏ) dùng để giải độc, Với thực trạng hiện nay, do việc khai thác, chặt phá rừng làm cho số lượng cây thuốc ở trong rừng, ngày càng suy giảm đi, số lượng các loài cây thuốc phân bố trong rừng ở khu vực nghiên cứu là 28 loài, (chiếm 31,11%, so với tổng các loài đã thu được), tuy số lượng ít nhưng phần lớn chúng đều là những loài cây có giá trị chữa bệnh cao, được bà con dân tộc H’Mông sử dụng nhiều như:Stephania sinica Diels (Bình vôi tán ngắn) dùng để chữa Dạ dày, loài Stretocaulon juventas (Lour.) Merr) (Hà thủ ô), dùng để chữa bổ máu, xương khớp. Ananas comosus (L.) Merr (Cây dứa rừng), dùng để chữa bệnh gan. Ananas comosus (L.) Merr (Kim ngân) dùng để chữa dị ứng, sốt. Gymnema sylvestre (Retz.) R. Br. ex Schult (Dây thìa canh) dùng để chữa tiểu đường, dạ dày, Tiếp đến là các cây song ở đồi, với số lượng 14 loài, (chiếm 15,56%, so với tổng số loài đã thu được). Với địa hình đồi núi hiện nay của khu vực nghiên cứu thì diện tích rừng tự nhiên suy giảm do chặt phá trồng
  48. 39 rừng và diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, thay vào đồi bỏ hoang, nên phần lớn các cây loài cây thuốc mọc hoang trên đồi như: Mimosa pudica L (cây trinh nữ) dùng để chữa viêm khớp, Adenosma caeruleum R. Br (Nhân trần), dùng để chữa bệnh gan, giải nhiệt, hạ huyết ap, Abutilon indicum (L.) Sweet (cây cối xay) dùng để giải độc, Diplocyclos palmatus (L.) C. Jeffrey (Lưỡng luân chân vịt) dùng để chữa bệnh gan, Số lượng cây thuốc sống ở môi trường ven sông, suối, có 3 loài, chiếm 3,33%. Đây chủ yếu là các loài cây ưa ẩm như: Angelica sinensis (Oliv.) Diels (Sâm quy đá) dùng để chữa xương khớp. Scirpus juncoides Roxb (Cỏ ống) dùng để chữa sỏi thận. Clerodendrum chinense (Osbeck) Mabb (Mò trắng) dùng để chữa ho, Qua đó cho thấy sự đa dạng và phong phú trong vấn đề sử dụng thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông, cây thuốc được sử dụng có khu vực phân bố rộng rãi thể hiện tính thích nghi cao và rộng rãi 3,33% Sống ở vườn (Vu) 15,56% 50,00% Sống ở rừng (R) 31,11% Sống ở đồi (Đ) Sống ở ven sông ven suối (Vs) Hình 4.2. Hình Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc tại khu vực nghiên cứu. 4.1.4. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã được ghi nhận được tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Kết quả nghiên cứu đã được thống kê được các loài cây thuốc thuộc diện hiếm quý và cần bảo vệ tại Bảng 4.8.
  49. 40 Bảng 4.8. danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận Cấp quy định Tên phổ TT Tên khoa học Sách đỏ 32/ NĐ thông DLĐCT Việt Nam - CP 1 Anoectochilus Lan Kim (EN) A1a,c,d setaceus Blume Tuyến 2 Morinda officinalis (EN) A1c,d, Ba Kích How B1+2a,b,c Chú thích: SĐVN: Sách đỏ Việt Nam; EN – Nguy cấp – Endangered; 32/NĐ – CP: Nghị định 32 của chính phủ; DLĐCT: Danh lục đỏ cây thuốc; Trong quá trình điều tra và nghiên cứu cho ta thấy có 2 loài thuốc dạng quý hiếm ở Việt Nam, thuộc 2 họ, 2 chi cảu một ngành thực vật bậc cao là ngànhNgọc lan (Magnoliophyta). Trong đó có 2 loài trong sách đỏ Việt Nam(2017). Dựa vào bảng trên cho ta thấy: Cấp EN – Đang nguy cấp, có 2 loại: +Lan kim tuyến (Anoectochilus setaceus Blume) thuộc họ Họ Hòa Thảo (Poaceae), dùng để chữa bệnh ung thư, máu trắng. + Ba kích (Morinda officinalis How) thuộc họ Họ Cà phê (Rubiaceae), dùng chữa đau lưng, bổ thận. Một nghiên cứu khác của Vàng A Lả [29] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện được 4 loài cần bảo tồn, như vậy có thể thấy số loài cần bảo tồn ở khu vực xã Yên Lạc nhiều hơn số loài cần bảo tồn ở khu vực xã Trung Lèng Hồ. Nhìn chung qua điều tra và nghiên cứu ở xã Trung Lèng Hồ, huyện bát Xát, tỉnh Lào Cai, tôi nhận thấy có 2 loài cây thuốc thuộc dạng bị đe dọa, tuyệt chủng ở Việt Nam. Vì vậy, cần có những giải pháp phù hợp để nâng cao ý thức của mỗi người về công tác bảo tồn các nguồn gen quý hiếm tại đại phương, để phục vụ cho quá trình chữa bệnh lâu dài cho người dân nơi đây.
  50. 41 4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân dộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. 4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc. Việc sử dụng các bộ phận cua các loài thực vật làm thuốc của người dân tộc H’Mông rất đa dạng và phong phú, được thể hiện trong Bảng 4.9 như sau: Bảng 4.9. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng đồng dân tộc H’Mông TT Bộ phận sử dụng Số loài Tỷ lệ % 1 Cả cây 42 46,67 2 Rễ 20 22,22 3 Lá 19 21,11 4 Quả 5 5,56 5 Thân 3 3,33 6 Vỏ 1 1,11 Chú thích:Tỷ lệ % hơn 100 % do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc Kết quả trên cho thấy: Bộ phận cây được sử dụng làm thuốc nhiều nhất là bộ phận cả 42 loài, chiếm 46,15% trong tổng số loài thu được, có thể kể đến một số loài đặc trưng như, Cỏ ống (Scirpus juncoides Roxb) chữa sỏi thận; cây Dứa rừng (Ananas comosus (L.) Merr), chữa bệnh gan; Dây nối xương (Tinospora sinensis (Lour.) Merr) chữa đau xương, nối xương; Cà gai leo (Solanum procumbens Lour) chữa viêm gan B, hạ men gan; Chè dây (Ampelopsis cantoniensis (Hook. & Arn.) Planch) chữa dạ dày, mất ngủ, . Những cây thuốc sử dụng bộ phân rễ làm thuốc có 20 loài, (chiếm 22,22%, so với tổng số loài). Những cây đặc trưng như: cây Đương quy (Angelica sinensis (Oliv.) Diels) chữa xương khớp, thiếu máu; cây Ba kích
  51. 42 (Morinda officinalis How) bổ thận, đau lưng; cây Nghệ đen (Curcuma zedoaria (Berg.) Rosc) chứa dạ dày, khớp; cây Thiên niên kiện (Aglaonema siamense Engl) chữa xương khớp, cây ớt (Capsicum frutescens L), Tiếp đến là các cây thuốc sử dụng bộ phận lá để làm thuốc với số lượng 19 loài, chiếm 21,11%, việc sử dụng lá làm thuốc sẽ giúp cho cây thuốc sử dụng lâu dài, không bị suy giảm và bảo vệ được cây thuốc như cây Sa nhân (Amomum villosum Lour) chữa tiêu chảy; lá Dong (Phrynium placentarium (Lour.) Merr) chữa tai biến, ngộ độc; cây Bìm bịp (Clinacanthus nutans (Brm. f.) Lindau) chữa viêm gan, vàng da; cây Hoàn ngọc trắng (Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk) chữa táo bón, đau bụng; cây Khổ sâm (Croton tonkinensis Gagnep) chữa tiêu hóa, Những cây sử dụng bộ phận cả quả để làm thuốc có 5 loài, chiếm 5,56% trong tổng số loài thu được ở thực địa như cây hoa atiso (Cynara scolymus) chữa gan, cây ý dĩ (Coix chinensis Todaro ex Bal) bồi dưỡng co thể, chuối rừng (Musa acuminata Colla) chữa sỏi thận, cây thầu dầu (Ricinus communis L) chữa xương khớp, cây an xoa (Helicteres hirsuta Lour) chữa giảm mỡ gan, bệnh trĩ, Nhìn chung việc sử dụng các bộ phận rễ và cả cây sẽ rất bất lợi cho việc bảo tồn các loại cây thuốc vì sẽ dẫn đến việc hủy hoại đời sống của các cây thuốc trong khi còn rễ hoặc lây tất cả các bộ phận của cây thuốc đó làm thuốc. Đồng thời, trong các bài thuốc cua người dân tộc H’Mông nơi đây, việc sử dụng cả cây và rễ là phổ biến, hầu hết là các bài thuốc để chữa các bệnh về xương khớp như cây ké hoa đào (Urena lobata L), giải độc như câyĐơn lá đỏ (Ixora chinensis Lamk), Vì vậy cần phải có biện pháp gây trồng các loài cây thuốc sử dụng cả cây và rễ để chữa bệnh nhằm bảo tồn và phát triển bền vững, nguồn tài nguyên cây thuốc.
  52. 43 Loài sử dụng bộ phận vỏ có 1 loài, chiếm 1,10% so với tổng số cây thu được ở thực địa.Do sự phân bố không đồng đều trong các bộ phân sự dụng là thuốc, là do đặc tính về thời vụ, quan niêm chữa bệnh của mỗi người thầy lang, bà mế và do hạn chế về số lượng cây thuốc. Ngoài việc sử dụng các bộ phận khác nhau cảu từng loài cây thuốc để chữa bệnh thì tần số sử dụng các bộ phân trên cây cũng có sự khác nhau. Kết quả đó được thể hiện trong hình sau: 3,33% 5,56% 1,11% Cả cây 21,11% 46,67% Lá Rễ Thân 22,22% Quả Vỏ Hình 4.3. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng đồng dân tộc H’Mông Bản 4.10. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng đồng dân tộc H’Mông TT Số lượng sử dụng Số loài tham gia Tỷ lệ % 1 Cả cây 42 46,67 2 1 bộ phận 32 35,56 3 2 bộ phận 16 17,78 Tổng 90 100 Kết quả trên cho thấy, những thầy lang, bà mế sử dụng cây thuốcvào các bệnh khác nhau, vì trên cùng một cây thuốc, các bộ phận khác nhauthì có
  53. 44 tác dụng khác nhau. Người ta có thể sử dụng cả cây (chủ yếu là cây thân thảo) hoặc hai bộ phận (thân – lá, lá – quả, rễ - lá, ) có những loài chỉ sử dụng một bộ phân, mộtsố loài dung kết hợp để ngâm rượu, hoặc làm bài thuốc chữa bệnh, Trong những bài thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông thì để chữa một thứ bệnh không chỉ dung một loài thuốc mà phải dùng nhiều loài thuốc khác nhau có sự kết hợp giữa các loài thuốc với nhau để chữa trị. Tuy nhiên,sử dụng cả cây để chữa bệnh là chủ yếu, với 42 loài, chiếm 46,67 %; sử dụng một bộ phận để chữa bệnh là 33 loài, chiếm 35,56%; sử dụng 2 bộ phận để chữa bệnh là 16 loài, chiếm 17,78 %. 17,78% 46,67% Cả cây 35.56% 1 bộ phận 2 bộ phận Hình 4.4. Đa dạng tần số các bộ phận cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc H’Mông 4.2.2. Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc Kết quả điều tra, thu thập kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở xã Trung Lèng Hồ, tôi thấy đồng bào dân tộc ở đây có vốn tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc rất phong phú và đa dạng với nhiều loài thuốc khác nhau. Việc sử dụngcây thuốc để chữa bệnh của người H’Mông ở đây có những nét độc đáo, mang tính gia truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
  54. 45 Bảng 4.11. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể Số Tỷ lệ STT Nhóm bệnh chữa trị loài % Xương khớp (phong thấp, đau lưng, đau xương, thấp 1 18 21,95 khớp, 2 Bệnh hệ tiêu hóa (đau bụng, dạ dày, trĩ, 17 20,73 3 Bệnh thời tiết (ho, sốt, cảm, đậu lào, ) 10 12,20 4 Bệnh Gan (sơ gan, giải độc gan, viêm gan, ) 8 9,76 5 Chữa lành vết thương, viêm nhiễm, giảm đau, bỏng, 7 8,54 6 Thanh nhiệt, giải độc, 7 8,54 7 Bệnh thận ((sỏi thận, suy thận, lợi tiểu, ) 5 6,10 8 Tiểu đường 3 3,66 9 Thuốc bổ, suy nhược, 3 3,66 10 Thuốc tắm 1 1,22 11 Chữa bệnh hệ tuần hoàn (mỡ máu, huyết áp, tim, ) 1 1,22 12 Bệnh ung bướu (ung thư, u hạch, ) 1 1,22 Theo kết qua điều tra cho ta thấy cộng đồng dân tộc H’Mông ở khu vực nghiên cứu sử dụng cây thuốc để chữa trị 12 nhóm bệnh khác nhau. Có những căn bệnh nan y như bệnh gan, thận Trong đó, số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung phần lớn vào 6 nhóm bệnh là. Nhóm bệnh Xương khớp có số lượng nhiều nhât với 18 loài, chiếm 21,95% chủ yếu là các loại có trong một số họ như: họ Thài lài (Commelinaceae), họ Cau (Arecaceae), họ Tiết dê (Menispermaceae), họ Ngũ da bì (Araliaceae), Một số loài như: Thài lài (Aclisia secundiflora (Blume) Bakh. F), Thiên niên kiện (Homalomena occulta), Bình vôi tán ngắn (Stephania sinica Diels), Dây nối xương (Tinospora sinensis (Lour.) Merr), Ngũ gia bì Chân Chim (Schefflera heptaphylla (L.) Frodin), cây Đinh lăng (Polyscias fruticosa (L.) Harms). Tiếp đứng thứ hai là nhóm bệnh tiêu hóa là cây thuốc được dùng làm thuốc chữa bệnh hệ tiêu hóa có 17 loài, (chiếm 20,73 % trong số tổng 90 thu
  55. 46 được), chúng thuộc nhiều họ khác nhau như: Zingiberaceae (Họ gừng), Iridaceae (họ Lay ơn), Acanthaceae (họ ô rô), Euphorbiaceae(Họ thầu dầu), Eucomiaceae (Họ đỗ trọng), Một số loài như: cây Đỗ trọng (Eucomia ulmoides Oliv), Khổ sâm (Croton tonkinensis Gagnep), Hoàn ngọc trắng (Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk), Rẻ quạt (Belamcanda chinensis (L.) DC), loài Sa Nhân (Amomum villosum Lour), Thảo quả (Amomum aromaticum Roxb), Đứng thứ ba là nhóm bệnh thời tiết (chiếm 12,20%, gồm 10 loài trong tổng số 90 loài thu được), loài này chủ yếu phân bố ở các họ: (Saururaceae) họ Giấp cá, (Convolvulaceae) họ Khoai lang, (Euphorbiaceae) họ Thầu dầu, Verbenaceae (họ Cỏ roi Ngựa), Rutaceae (họ Cửu lý hương), Asteraceae (họ Cúc), Iridaceae (họ Lay ơn), Một số loài như: (Rẻ quạt)Belamcanda chinensis (L.) DC), (Sài đất) (Wedelia chinensis (Osbeck) Merr), (Cỏ mực), (Eclipta prostrata (L.)L), (Đại bi), (Blumea balsamifera (L.) DC), Cây bưởi, (Citrus grandis (L.) Osb, Mò trắng (Clerodendrum chinense (Osbeck) Mabb), Phèn đen, (Phyllanthus reticulatus Poir. Đứng thứ ba là nhóm bệnh bệnh gan gồm 8 loài, (chiếm tỷ lệ 9,76%, với tổng số loài cây thu được). Số loài cây thuộc các họ: Bromeliaceae (họ Dứa), Asteraceae (họ Cúc), Solanaceae (họ Cà), Acanthaceae (họ Ô rô), Euphorbiaceae (họ Thầu dầu) Lamiaceae (họ Bạc hà), Chenopodiaceae (họ Rau muối), Sterculiaceae (họ Trôm), Với nhứng loài chữa bệnh: Cây an xoa (Helicteres hirsuta Lour), Kinh giới dại (Elsholtzia blanda (Benth.)Benth), Cỏ mật gấu (Isodon lophanthoides (D. Don) Hara), Diệp hạ châu (Phyllanthus amarus Schum), Cây bìm bịp (Clinacanthus nutans (Brm. f.)Lindau), Cà gai leo (Solanum procumbens Lour), cây hoa asito (Cynara scolymus), cây Dứa rưng (Ananas comosus (L.) Merr). Tiếp đến là nhóm bệnh thanh nhiệt – giải độc và nhóm chữa lạnh vết thương đề có 7/90m loài (chiếm 8,54%). Cụ thể một số họ như sau:
  56. 47 Scrophulariaceae (họ Hoa mõm chó), Lamiaceae (họ Bạc hà), Verbenaceae (họ Cỏ roi ngựa), Rubiaceae (họ Cà phê), Malvaceae (họ Cẩm quỳ), Hemerocallidaceae (Hoa hiên), Marantaceae (Hoàng tinh), với loài cây như sau: Lá dong (Phrynium placentarium (Lour.) Merr), Hoa hiên (Hemerocallis fulva L), cây Cối xay (Abutilon indicum (L.) Sweet), Đơn lá đỏ (Ixora chinensis Lank), Lá cách (Premna corymbosa (Burm. f.) et Willd), bênh cạnh đó nhóm bệnh chữa lành vết thương có một số họ như: Crassulaceae (họ Thuốc bỏng), Urticaceae (họ gai (cây gứa), Myrtaceae (họ sim), Mimosaceae (họ trinh Nữ), Acanthaceae (họ Ô rô), Menispermaceae (họ Tiết dê), Plantaginaceae (họ Mã đề), có số loài chữa bệnh như sau: Mã đề (Plantago major L), Dây nối xương (Tinospora sinensis (Lour.)Merr), Thuốc trặc (Justicia gendarussa Burm.F), cây Trinh nữ (Mimosa pudica L), Lá gai (Boehmeria nivea (L.)Gaudich), Một kết quả khác của Dương Văn Hưng (2018) [4] khi nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã thống kê được 24 nhóm bệnh, như vậy tri thức bản địa sử dụng cây thuốc để chữa các nhóm bệnh ở xã Yên Ninh phong phú và đa dạng hơn ở xã Trung Lèng Hồ. Qua kết quả điều tra và thu thập kinh nghiệm chữa bênh của người dân tộc H’Mông ở xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, tôi nhận thấy phương pháp chữa bệnh của người H’Mông rất đa dạng và phong phú, mang lại những giá trị và góp phần vào công tác bảo vệ sức khỏe. Đây là những kinh nghiệm quý báu cần được phát huy, để nâng cao hiệu quả chữa bệnh, đáp ưng nhu cầu của người dân, đặc biệt là những bệnh nan y. 4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc H’Mông khu vực nghiên cứu Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc ở khu vực nghiên cứu trong việc phòng và điều trị bệnh nhiễm
  57. 48 khuẩn, tôi tiến hành lựa chọn cây Dây nối xương (Tinospora sinensis (Lour.) Merr), và cây Sâm quy đá (Angelica sinensis (Oliv.) Diels) để tiến hành đánh giá hoạt tính kháng khuẩn (HTKK) của cây. Kết quả thể hiện ở Bảng 4.12 và hinh 4.5 Bảng 4.12. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Dây nối xươngvà Sâm quy đá Cao chiết Đường kính vòng kháng khuẩn (mm) Đối chứng Đối chứng Đối chứng Sâm Dây nối dương dương âm (Dung xương Vi khuẩn quy đá (Amikacin) (Kanamicin) môi) S. aureus 20,1±0,5 27,5±0,5 23±0,5 29,0±0,5 0 E. coli 20,1±0,3 26,7±0,7 21±0,5 25,5±1,1 0 Chú thích: Đối chứng kháng sinh Amikacin và kanamicin Qua Bảng 4.12 cho ta thấy, hai loài khảo sát (Sâm quy đá và Dây nối xương) đều có hoạt tính ức chế đối với vi khuẩn gây bệnh. Trong đó, loài Sâm quy đá có hoạt tính ức chế với cả vi khuẩngây bệnh Gram âm (E. coli) và Gram dương (S. aureus) với vòng ức chế đạt được là Gram âm (E. coli)20,1 mm và Gram dương (S. aureus) 20,1 mm. Với loài dây nối xương có hoạt tính ức chế vi khuẩn Gram dương (S. aureus) và Gram âm (E. coli), ở hoạt tính kháng khuẩn Gram dương (S. aureus) có vòng ức chế là 27,5 mm, còn ở Gram âm (E. coli) có vòng ức chế là 26,7 mm. So sánh giữa hai loài cho ta thấy Dây nối xương có hoạt tính kháng khuẩn mạnh hơn Sâm quy đá. Tuy nhiên, cả hai loài có hoạt tính kháng khuẩn yếu hơnso với kháng sinh(Amikacin và Kanamicin) Từ kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn chúng tôi đề xuất, có thể sử dụng Sâm quy đá và Dây nối xương để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng). Đồng thời hai loài cây Sâm quy đá
  58. 49 và Dây nối xương để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E. coli gây ra. Kết quả này là một bằng chứng khoa học chứng minh kinh nghiệm sử dụng cây thuốc này trong việc phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn của đồng bào dân tộc ở khu vực nghiên cứu. Hình 4.5. Hình ảnh hoạt tính ức chế S. Aureusvà E. coli của cây Sâm đávà cây Dây nối xương Chú thích: TVC: S. aureus; Ecoli: E. coli; ĐC: Đối chứng âm (Dung môi); KS1: Đối chứng dương (Amikacin); KS2: Đối chứng dương (Kanamicin); SĐ: Sâm đá; DNX: Dây nối xương.
  59. 50 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Trong quá trình điều tra, nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc H’Mông ở xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, tôi đã thu thập được những kết quả như sau: 1. Đa thu được 90loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc Ngành Dương Sỉ có 1 loài thuộc 1 họ và 1 chi. Thuộc Ngành Ngọc lan có 89 loài thuộc 80 chi, 52 họ có công dụng làm thuốc chữa bệnh, trong đó họ Cúc (Asteraceae) có số loài nhiều nhất 7 loài,họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) số loài là 4, Họ Gừng (Zingiberacea) số loài là 3, Họ Hồ Tiêu (Piperaceae) số loài là 2. Trong đó 89 chi, có chi Eupatorium (Asteraceae) có nhiều loài sử dụng nhiều nhất là 7 loài. 2. Dạng cây được người dân tộc H’Mông sử dụng nhiều nhấtlà dạng cây thân thảo với 54 loài, dây leo16 loài, cây bụi 10 loài, Cây gỗ nhỏ 8 loài, Gỗ trung bình 1 loài, cây ký sinh 1 loài. 3. Môi trường sống chủ yếu của cây thuốc là ở vườn là 45 loài, ở rừng là 28 loài,ở đồi là 14 loài, ở ven song, suối là 3 loài. 4. Số lượng cây thuốc thuốc diện quý hiếm cần bảo tồn có 2 loại, chiếm 2,17%, tổng số loài cây thu được, bao gồm loài cây: Lan kim tuyến (Anoectochilus setaceus Blume), Ba kích (Morinda officinalis How) 5. Sử dụng các bộ phận để làm thuốc gồm có: cả cây 42 loài, Lá 19 loài, rễ 20 loài, thân 3 loài, quả 5 loài, vỏ 1 loài. Sử dụng cả cây làm thuốccó 42 loài, một bộ phận có 32 loài, hai bộ phận có 16 loài. Đã thống kê được 12 nhóm bệnh khác nhau được sử dụng đê làm thuốc chữa bệnh. 6. Sau khi thí nghiệm cho ta thấy, loai Sâm quy đá có hoạt tính ức chế với cả vi khuẩn gây bệnh Gram âm (E. coli) và Gram dương (S. aureus) với
  60. 51 vòng ức chế đạt 20,1 mm. Loài dây nối xương có hoạt tính ức chế với vi khuẩn gây bệnh Gram dương (S. aureus)và Gram âm (E. coli). Vòng ức chế với vi khuẩn gây bệnh Gram âm (E. coli) là 27,5 mm, và Gram âm(E. coli) là 26,7 mm. Qua kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn, cho ta thấy có thể sử dụng hai loài cây Sâm quy đá và Dây nối xương để phòng ngừa kiểm soát một số bệnh nhiếm khuẩn so S. aureus (Tụ cầu vàng). Đồng thời Sâm quy đá và Dây nối xương có thể sử dụng để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E. coli gây ra. 5.2. Tồn tại Đề tài nghiên cứu còn mộ số vấn đề tồn tại sau. - Những bài thuốc hứu ích quan trọng không phải ai cũng biết, mà chỉ một số người biết, tuy nhiên đây là những bài thuốc gia truyền nên các ông lang bà mế không muốn nhiều người biết , khi được phỏng vấn họ cung cấp những bài thuốc nhưng trong những bài thuốc đã bớt đi một số loài cây thuốc, điều đó sẽ gây rất kho khăn cho việc phát triển và bảo tồn những bà thuốc. - Chưa xác định được trữ lượng người dân khai thác và sử dụng các loài thựcvật làm thuốc tại khu vực nghiên cứu. - Đối tượng, pham vi nghiên cứu của đề tài mới chỉ dừng ở lại các loài thực vật được cộng đồng dân tộc H’Mông ở xã Trung Lèng Hồ, hyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai sử dụng để chữa bệnh. - Chưa có sự quan tâm đúng mức của các cấp,các ngành chính quyền địa phương về giá trị kiến thức bản địa của cộng đồng dân tộc H’Môngcũng như việc bảo tồn, phát triển, gây trồng và nhân rộng các loài cây thuốc. 5.3. Kiến nghị * Đối với các cấp chính quyền. - Các cáp chính quyền từ tỉnh, huyện, xã càng quan tâm đến đồng bao sống ở gần rừng, tạo điều kiện mở các lớp tuyên truyền về tầm quan trọng của nguồn tài nguyên rừng quan trọng như hế nào đới với Việt Nam và Thế giới,
  61. 52 để người dân nhận thức được và có trách nhiệm cao trong việc bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên thực vật rừng mà mình có. Bênh cạnh đó truyền lại cho họ hững kiến thức về việc gây trồng các loài thực vật rừng làm dược liệu quý mà trong địa bàn có, để duy trì nguồn giống của địa phương mình đang sinh sống. - Chính quyền địa phương cần có những chính sách thích hợp, để hố trợ nguồn giống và giúp đỡ người dân xây dựng vườn hợp lý để gây trồng các nguồn giống cây thuốc có nguy cơ tuyệt chủng và những loài hiện vẫn còn. * Đối với các hộ gia đình - Cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các chính quyền đẻ tránh sự lạm dụng của các phần tử ngoài dẫn tới việc mua bán, thu hái một cách không hợp lý như mong muốn. - Tham gia, tích cực lắng nghe những tuyê truyền mà cán bộ nông lâm nghiệp và các cán bộ các ban ngành khác truyền đạt, để còn tiếp thu nguồn kiến thức hiểu biết cho bản thân để phục vụ trong cuộc sống. - Tích cực tham gia bảo vệ rừng mà mình được các chính quyền giao và các rừng tập thể, phát giác báo cáo nếu phát hiện những ai chặt phá rừng hay khai thác các nguồn thưc vật rừng một cách tự phát. Cần tích cực truyền đạt những kiến thức bản địa mình có vê các bài thuốc các vị thuốc cho con cháu, để chúng luôn được bảo tồn và lưu truyền từ đời này sang đời khác. - Ngoài ra còn mở rộng pham vi nghiên cứu ở nhiều hộ gia đình, thôn xón, làng bản khác tiếp tục có những chuyên đề nghiên cứu sâu rộng hơn về tìm hiểu kiến thức bản địa của các dân tốc ở vùng sâu vùng xa, vừng miền núi sống cạnh rừng.
  62. 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Âu Anh Khâm (2001), 577 bài thuốc dân gian gia truyền (sách dịch), Nxb. Thanh niên, Hà Nội. 2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật, Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội. 3. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định 32/2006/CP – NĐ về nghiêm cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động thực vật hoang dã. 4. Dương Văn Hưng (2018) khi nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên . 5. Đặng Quang Châu (2011), “Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An”, Tạp chí Sinh học, tập 23. 6. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 7. Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến (2011), Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 9. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Lê Thị Thanh Hương (2007), Điều tra và đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Tày ở một số xã của huyện Định
  63. 54 Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội. 11. Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam, trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 12. Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), Các cây có ích của dân tộc H’Mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 13. Nông Thái Hòa (2018) Nghiên cứ cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. 14. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà nội. 15. Nguyễn Nghĩa Thìn (2007), Các phương pháp nghiên cứu thực vật, Nxb. Đại Học Quốc gia Hà Nội. 16. Nguyễn Nhân Thống (2008), Danh y tuổi tý, Hội Đông y Việt Nam – Tạp chí Đông y – số 405/2008. 17. Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam, Nxb. Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội. 18. Nguyễn Tiến Bân (1997), Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 19. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh (2004), Nghiên cứu xây dựng và bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa, Thái Nguyên, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 20. Nguyễn Thượng Dong (chủ biên) và nhiều tác giả (2006), Nghiên cứu thuốc từ thảo dược, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 21. Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây cỏ Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 22. Phạm Hoàng Hộ (2006), Cây có vị thuốc ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
  64. 55 23. Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương (2000), Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược, Nxb. Y học, Hà Nội. 24. Tào Duy Cần (2001), Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật. 25. Tào Duy Cần (2006), Thuốc bệnh 24 chuyên khoa, Nxb. Y học, Hà Nội. 26. Trần Thúy, Vũ Nam, Nguyễn Văn Toại (2005), Lý luận Y học cổ truyền, Nxb. Y học, Hà Nội. 27. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Sinh thái & Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn Lâm Việt Nam (2006). Danh lục các loài thực vật Việt nam. Nxb. Nông nghiệp, Hà nội, tập 2 – 3. 28. UBND xã Trung Lèng Hồ, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2018 phương hướng nhiệm vụ năm 2019 29. Vàng A Lả (2018) khi Nghiên cứ cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. 30. Viện Dược Liệu (1993), Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 31. Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã (2011), Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 32. Võ Văn Chi (1996), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Y học, Hà Nội. 33. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Hà Nội. Tập 1-2 B. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 34. Ahmad Cheikhyoussef, Martin Shapi, Kenneth Matengu và Hina Mu Ashekele (2011), “Research on the botany of indigenous knowledge of
  65. 56 medicinal plants used by traditional healers in the area Oshikoto, Namibia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 35. Arshad Abbasi, Mir Khan, Munir H Shah, Mohammad Shah, Arshad Pervez, Mushtaq Ahmad (2013), “Ethnobotanical appraisal and cultural values of medicinally important wild edible vegetables of Lesser Himalayas - Pakistan”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 36. Auemporn Junsongduang, Henrik Balslev, Angkhana Inta, Arunothai Jampeetong, Prasit Wangpakapattanawong (2013), “Medicinal plants from swidden fallows and sacred forest of the Karen and the Lawa in Thailand”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 37. Balcha Abera (2014), “Medicinal plants used in traditional medicine by Oromo people, Ghimbi District, Southwest Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 38. Behxhet Mustafa, Avni Hajdari, Feriz Krasniqi, Esat Hoxha, Hatixhe Ademi, Cassandra L Quave và Andrea Pieroni (2012), “Medical ethnobotany of the Albanian Alps in Kosovo”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 39. Berhane Kidane, Tinde van Andel, Laurentius van der Maesen, Zemede Asfaw (2014), “Use and management of traditional medicinal plants by Maale and Ari ethnic communities in southern Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 40. Cassandra L. Quave, Manuel Pardo-de-Santayana, and Andrea Pieroni (2012), “Medical Ethnobotany in Europe: From Field Ethnography to a More Culturally Sensitive Evidence-Based CAM?”.Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine.Volume 2012, Article ID 156846, 17 pages.
  66. 57 41. Cecilia Almeida, Elba de Amorim, Ulysses de Albuquerque, Maria Maia (2006), “Medicinal plants commonly used in the area Xingo - a place in the semi - arid northeastern Brazil”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 42. David J Simbo (2010), “A survey of the botany of medicinal plants in Babungo, northwestern region, Cameroon”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 43. Dol Luitel, Maan B Rokaya, Binu Timsina, Zuzana Münzbergová (2014), “Medicinal plants used by the Tamang community in the Makawanpur district of central Nepal”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 44. Eduardo Estrada-Castillón, Miriam Garza-López, José Villarreal- Quintanilla, María Salinas-Rodríguez, Brianda Soto-Mata, Humberto González-Rodríguez, Dino González-Uribe, Israel Cantú-Silva, Artemio Carrillo-Parra, César CantúAyala (2014), “Ethnobotany in Rayones, Nuevo León, México”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 10:62pp 45. Gabriele Volpato, Daimy Godínez, Angela Beyra, Adelaida Barreto (2009), “Use of medicinal plants of Haitian immigrants and their descendants in the province of Camagüey, Cuba”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 46. Gaia Luziatelli, Marten Sørensen, Ida Theilade, Per Mølgaard (2010), “Ashaninka medicinal plants: a case study from the indigenous communities of the Bajo Quimiriki, Junín, Peru”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 47. Gorka Menendez-Baceta, Laura Aceituno-Mata, María Molina, Victoria ReyesGarcía, Javier Tardío, Manuel Pardo-de-Santayana (2014), “Medicinal plants traditionally used in the northwest of the
  67. 58 Basque Country (Biscay and Alava), the Iberian Peninsula”, Journal of Ethnopharmacology. 48. Homervergel G. Ong, Young-Dong Kim (2014), “The study of botany quantification of the medicinal plants used by indigenous Ati Negrito groups in the island of Guimaras, Philippines”, Journal of Ethnopharmacology. 49. Joana Camejo-Rodrigues, Lia Ascensão, M Angels Bonet, Joan Valles (2004), “An ethnobotanical study of medicinal plants and aromatic in nature park of Serra de São Mamede (Portugal)”, Journal of Ethnopharmacology. 50. Joanne Packera, Nynke Brouwera, David Harringtona, Jitendra Gaikwada, Ronald Heronb, Shoba Ranganathana, Subramanyam Vemulpada, Joanne Jamiea (2012), “An ethnobotanical study of medicinal plants used by indigenous communities Yaegl in northern New South Wales, Australia”, Journal of Ethnopharmacology. 51. Manju Panghal, Vedpriya Arya, Sanjay Yadav, Sunil Kumar, Jaya Yadav (2010), “Indigenous knowledge of medicinal plants used by the community Saperas Khetawas, District Jhajjar, Haryana, India”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 52. Maria Leporatti and Massimo Impieri (2007), “Ethnobotanical notes about some uses of medicinal plants in Alto Tirreno Cosentino area (Calabria, Southern Italy)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 53. Maria Leporatti, Kamel Ghedira (2009), “Comparative analysis of medicinal plants used in traditional medicine in Italy and Tunisia”, Journal of Ethnopharmacology.
  68. 59 54. Maud M Kamatenesi, Annabel Acipa, Hannington Oryem-Origa (2011), “Medicinal Plants of Otwal and Ngai in Oyam District, Northern Uganda”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 55. Mendrika Razafindraibe, Alyse R Kuhlman, Harison Rabarison, Vonjison Rakotoarimanana, Charlotte Rajeriarison, Nivo Rakotoarivelo, Tabita Randrianarivony, Fortunat Rakotoarivony, Reza Ludovic, Armand Randrianasolo, Rainer W Bussmann (2013), “Medicinal plants used by women from Agnalazaha coastal forests (Southeast Madagascar)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 56. Mi-Jang Song, Hyun Kim, Brian Heldenbrand, Jongwook Jeon, Sanghun Lee (2013), “Ethnopharmacological survey of medicinal plants in Jeju Island, Korea”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 57. Mi-Jang Song, Hyun Kim, Byoung-Yoon Lee, Heldenbrand Brian, Chan-Ho Park, Chang-Woo Hyun (2014), “Analysis of traditional knowledge of medicinal plants from residents in Gayasan National Park (Korea)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 58. Montse Parada, Esperança Carrió, Maria Bonet, Joan Valles (2009), “Ethnobotany of the Alt Empordà region (Catalonia, Iberian Peninsula): Plants used in traditional medicine man”, Journal of Ethnopharmacology. 59. Naveed Akhtar, Abdur Rashid, Waheed Murad, Erwin Bergmeier (2013), “Diversity and use of ethno-medicinal plants in the region of Swat, North Pakistan”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 60. Rainer W Bussmann (2006), “Ethnobotany of the Samburu of Mt. Nyiru, South Turkana, Kenya”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine.