Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản nuôi tại trại Nguyễn Thanh Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

pdf 71 trang thiennha21 20/04/2022 1870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản nuôi tại trại Nguyễn Thanh Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_ap_dung_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_tri.pdf

Nội dung text: Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản nuôi tại trại Nguyễn Thanh Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ÂU DƯƠNG TÚ Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN TẠI TRẠI NGUYỄN THANH LỊCH XÃ BA TRẠI HUYỆN BA VÌ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2016 – 2020 Thái Nguyên, năm 2020
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ÂU DƯƠNG TÚ Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN TẠI TRẠI NGUYỄN THANH LỊCH XÃ BA TRẠI HUYỆN BA VÌ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi Thú y Lớp: K48 - Chăn nuôi Thú y - N01 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2016 - 2020 Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thu Quyên Thái Nguyên, năm 2020
  3. i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, tôi đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn, sự giúp đỡ của các thầy cô giáo Khoa Chăn nuôi Thú y và trại lợn Nguyễn Thanh Lịch - huyện Ba Vì - thành phố Hà Nội. Với tình cảm sâu sắc, chân thành: Trước hết tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y cùng toàn thể thầy cô giáo khoa Chăn nuôi Thú y đã tạo điều kiện thuận lợi và cho phép tôi thực hiện khóa luận này. Tôi xin cảm ơn tới lãnh đạo Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch và các kỹ sư, cùng toàn thể công nhân trong trang trại đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập. Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thu Quyên đã rất tận tình và trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện thành công khóa luận này. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân cùng bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ động viên tôi trong thời gian hoàn thành khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng năm 2020 Sinh viên Âu Dương Tú
  4. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1. Kết quả sản xuất của trại 6 Bảng 3.1. Lịch sát trùng trại lợn nái 34 Bảng 3.2. Khẩu phần ăn của lợn nái chửa 35 Bảng 3.3. Khẩu phần ăn của lợn nái đẻ 36 Bảng 3.4. Lịch tiêm phòng vắc xin tại trại 37 Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn của trại 41 Bảng 4.2. Số lượng nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập 42 Bảng 4.3. Tình hình sinh sản của đàn lợn nái nuôi tại trại 43 Bảng 4.4. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại 44 Bảng 4.5. Kết quả tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại 46 Bảng 4.6. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn nái tại trại 47 Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái tại trại 51 Bảng 4.8. Kết quả thực hiện một số công tác khác 53
  5. iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CP: Charoen Pokphand cs: Cộng sự MMA: Mastitis - Metritisa - Agalacti L11: Landrace 11 PED: Porcine Epidemic Diarrhoea TT: Thể trọng
  6. iv MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv Phần 1: MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2 1.2.1. Mục tiêu của đề tài 2 1.2.2. Yêu cầu của đề tài 2 Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trại 4 2.1.3. Cơ sở vật chất của trại 4 2.1.4. Đối tượng và các kết quả sản xuất của trang trại 6 2.1.5. Thuận lợi và khó khăn của trại 7 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 7 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 7 2.2.2. Những hiểu biết về công tác phòng và trị bệnh cho lợn nái sinh sản 11 2.2.3. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 15 2.2.4. Những hiểu biết về một số bệnh thường gặp tại cơ sở 19 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 28 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước 28 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 29 Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN 32 3.1. Đối tượng, phạm vi thực hiện 32
  7. v 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 32 3.3. Nội dung thực hiện 32 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 32 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 32 3.4.2. Phương pháp thực hiện 32 3.4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi 40 Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 41 4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại lợn Nguyễn Thanh Lịch trong 3 năm (2017 - 11/2019) 41 4.2. Thực hiện biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng trên đàn lợn nái nuôi tại trang trại 42 4.2.1. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại 42 4.2.2 Tình hình sản xuất của đàn lợn nái nuôi tại trại Nguyễn Thanh Lịch xã Ba Trại, huyện Ba Vì Hà Nội 43 4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng và trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại. 44 4.3.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh trên đàn lợn nái tại trại . 44 4.3.2. Kết quả tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại 46 4.3.3. Kết quả chẩn đoán một số bệnh cho đàn lợn nái tại trại 47 4.3.4. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Nguyễn Thanh Lịch, Ba Vì - Hà Nội. 51 4.4. Kết quả thực hiện một số công tác khác 53 Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 55 5.1. Kết luận 55 5.2. Đề nghị 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
  8. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Việt Nam là một nước nông nghiệp với bề dày hàng ngàn năm lịch sử có những lợi thế về tiềm năng đất đai, lao động, môi trường sinh thái, cho phép phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt là ngành chăn nuôi, không chỉ cung cấp khối lượng lớn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, nguồn đạm động vật như: Thịt, sữa, các sản phẩm từ trứng, sữa mà còn là nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, dược phẩm và là nguồn cung cấp phân hữu cơ cho ngành trồng trọt. Lợn là loại gia súc được nuôi nhiều và được sử dụng để làm thực phẩm giàu giá trị dinh dưỡng không thể thiếu trong đời sống con người. Theo Bộ NN&PTNT, tình hình chăn nuôi lợn năm 2019 gặp nhiều biến động, đặc biệt là sự xuất hiện của dịch tả lợn Châu Phi đã khiến giá thịt lợn tăng cao, giá lợn hơi hiện ở mức 80.000 - 90.000 đồng/kg, cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Nguyên nhân giá lợn hơi phi mã được Bộ NN&PTNT lý giải là do sự thiếu hụt nguồn cung do dịch tả lợn châu Phi và tốc độ tái đàn chậm. Trước thực trạng trên, được sự đồng ý của khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và sự hướng dẫn của cô giáo TS. Nguyễn Thu Quyên, em đã thực hiện chuyên đề “Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản nuôi tại trại Nguyễn Thanh Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội’’ nhằm tìm hiểu và góp phần nâng cao năng suất sinh sản cho đàn lợn nái, cung cấp cho thị trường giống lợn có năng suất, chất lượng tốt nhất. Đồng thời bổ sung thêm tài liệu nguyên cứu về lĩnh vực sinh sản của giống lợn ngoại nhập.
  9. 2 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục tiêu của chuyên đề - Đánh giá được thực trạng chăn nuôi lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại địa phương. - Thực hiện quy trình chăn nuôi lợn nái sinh sản và phòng trị bệnh cho đàn lợn con theo mẹ. - Áp dụng những phương pháp, biện pháp để đẩy mạnh chăn nuôi lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ. - Kết quả góp phần đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất. - Hình thành phong cách làm việc sáng tạo, công nghiệp. 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề - Đáp ứng nhu cầu thực tiễn, nâng cao năng xuất đàn lợn giống, góp phần vào sự phát triển kinh tế. - Thực hiện được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại Nguyễn Thanh Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. - Xác định được tình hình mắc bệnh, áp dụng và đánh giá hiệu quả điều trị bệnh ở lợn nái và lợn con.
  10. 3 Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch nằm tại xã Ba Trại - một trong bảy xã miền núi của huyện Ba Vì - thành phố Hà Nội, nằm trong vùng bán sơn địa. - Phía Đông giáp với xã Tản Lĩnh. - Phía Tây giáp xã Thuần Mỹ. - Phía Bắc giáp xã Cẩm Lĩnh. 2.1.1.2. Điều kiện khí hậu Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu miền Bắc, bị chi phối bởi các yếu tố vĩ độ Bắc, cơ chế gió mùa. Sự phối hợp giữa cơ chế gió mùa và vĩ độ tạo nên khí hậu nhiệt đới ẩm, có sự khác biệt rõ rệt giữa mùa nóng và mùa lạnh nên có thể phân ra làm 4 mùa. Mùa đông lạnh, hanh khô có kèm theo gió mùa, mưa ít. Mùa hè nóng, mưa nhiều. Giữa hai mùa đó lại có hai thời kỳ chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10), còn được gọi là mùa xuân và mùa thu. Đó là một trong những yếu tố khách quan tác động đến quá trình sinh trưởng, phát triển của vật nuôi và phẩm chất của nông sản. Lượng mưa: Lượng mưa trung bình năm 2.500mm, phân bố không đều trong năm, tập trung nhiều vào tháng 7, tháng 8. Nhiệt độ: Nhiệt độ bình quân năm là 23,400C. Mùa nóng bắt đầu từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 9, khí hậu nóng ẩm và mưa nhiều rồi mát mẻ, khô ráo vào tháng 10. Mùa lạnh bắt đầu từ giữa tháng 11 đến hết tháng 3. Từ cuối tháng 11 đến tháng 1 rét và hanh khô, từ tháng 2 đến hết tháng 3 lạnh và mưa phùn kéo dài từng đợt. Trong khoảng tháng 9 đến tháng 11, có những ngày thu với tiết trời mát mẻ và sẽ đón từ hai đến ba đợt không khí lạnh yếu tràn về.
  11. 4 Độ ẩm: Độ ẩm không khí trung bình năm: 86,1%. Vùng thấp thường khô hanh vào tháng 12, tháng 1. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trại Trại gồm có 21 người trong đó có : 01: chủ trại 01: quản lý 01: đầu bếp 02: kỹ sư 02: tổ trưởng (1 chuồng bầu, 1 chuồng đẻ) 06: công nhân 08: sinh viên thực tập Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau như tổ chuồng đẻ, tổ chuồng bầu. Mỗi tổ thực hiện công việc hàng ngày một cách nghiêm túc, đúng quy định của trại. 2.1.3. Cơ sở vật chất của trại Trang trại chăn nuôi Nguyễn Thanh Lịch nằm trên địa bàn xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Trại có diện tích đất là 2ha, được thành lập và đi vào sản xuất từ năm 2010 với số vốn đầu tư lên tới 18 tỷ đồng, trang trại chuyên nuôi lợn sinh sản cho công ty cổ phần thức ăn chăn nuôi CP Việt Nam (chi nhánh của Tập đoàn CP Thái Lan) cung cấp giống lợn con của cái Landrace - Yorkshire với đực Pietrain - Duroc và cái Landrace - Yorkshire với đực Duroc. Khu sản xuất gồm 6 dãy chuồng đẻ và 1 chuồng bầu, 4 chuồng cách ly, nuôi 1.237 lợn nái, 160 lợn nái hậu bị, 18 lợn đực khai thác (số liệu tháng 7/2017). Lợn sau khi sinh 21 ngày thì được cai sữa. Mỗi năm trang trại cho xuất ra thị trường khoảng 25.000 - 30.000 lợn con. Trại được xây dựng cách xa đường lớn, xa trường học và nơi ít dân cư sinh sống, bao quanh trại chủ yếu là đồi cây và cách xa trại là cánh đồng lúa. Trại nằm trên địa hình khá cao ráo dễ thoát nước vào mùa mưa nhiều. Xung quanh các chuồng nuôi được trồng cây tạo bóng râm mát cho mùa hè.
  12. 5 Với việc chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp, các biện pháp phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi của trại được thực hiện chủ động và tích cực. Vệ sinh phòng bệnh nhằm nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn luôn là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với việc vệ sinh thức ăn, nước uống, vật nuôi, dụng cụ chăn nuôi, sinh sản, thì việc vệ sinh chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi luôn được cán bộ thú y và đội ngũ công nhân kỹ thuật thực hiện chặt chẽ. Chuồng trại được thiết kế và xây dựng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Sau mỗi lứa lợn, chuồng trại đều được tẩy uế bằng phương pháp: rửa sạch ô nhốt lợn, để khô sau đó phun thuốc sát trùng như Fam flus, Vikon S và để trống chuồng nuôi tối thiểu là 3 ngày mới đưa lợn nái chờ đẻ khác lên. Với lợn con tuyệt đối không tắm rửa để tránh lạnh và ẩm ướt, định kỳ tiêu độc ở các chuồng nuôi lợn nái, lợn đực sản xuất bằng thuốc sát trùng, trại còn thường xuyên tiến hành vệ sinh môi trường xung quanh như việc dọn cỏ, phát quang bụi rậm, diệt chuột, thu dọn phân hằng ngày ở các ô chuồng. Hiện nay, trại áp dụng quy trình chăn nuôi “cùng vào - cùng ra”, trong đó một chuồng hoặc cả một dãy chuồng được đưa vào để nhốt đồng loạt cùng một loại lợn (có thể tương đồng về khối lượng, tuổi). Sau một thời gian nhất định số lợn này được đưa ra khỏi chuồng, lúc đó chuồng trại được rửa sạch, phun thuốc sát trùng và để trống ít nhất 6 ngày trước khi đưa đàn lợn mới lên đẻ. Như vậy quy trình này có tác dụng phòng bệnh do vệ sinh chuồng trại thường xuyên, định kỳ mỗi khi xuất hết lợn, do đó hạn chế được khả năng lan truyền các mầm bệnh từ lô này sang lô khác. Hệ thống thông thoáng đối với chăn nuôi lợn công nghiệp rất quan trọng, ngoài việc cung cấp đủ oxy cho quá trình hô hấp của lợn, nó còn giúp giải phóng khí độc do phân, nước tiểu gây ra. Chính vì vậy, trại đã sử dụng hệ thống làm mát và chống nóng ở mỗi dãy chuồng vào mùa hè và hệ thống sưởi ấm vào mùa đông. Bên cạnh đó các dãy chuồng được sắp xếp theo hướng Đông Nam để đảm bảo ấm áp vào mùa đông, thoáng mát về mùa hè.
  13. 6 Đặc biệt vào mùa hè, thời tiết rất nóng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sinh sản của đàn lợn nái cũng như sự sinh trưởng và phát triển của lợn con. Do đó trại đã lắp đặt hệ thống chống nóng gồm hệ thống quạt gió ở cuối mỗi dãy chuồng có tác dụng hút không khí có hơi nước từ hệ thống dàn mát trên đầu chuồng tạo luồng khí mát, thông thoáng. Hai dãy tường chuồng được phủ một tấm lưới cách nhiệt và có tác dụng giữ ẩm. Chính vì vậy không khí trong chuồng lợn luôn mát và nhiệt độ luôn duy trì trong khoảng 28oC - 30oC. Trại trang bị hệ thống lồng úm bên trong có treo một bóng đèn sợi đốt 100W (mùa hè) hoặc 200W (mùa đông) với lợn sau cai sữa cũng có một đèn sưởi hoặc tấm sưởi ở mỗi ô chuồng, đảm bảo luôn duy trì nhiệt độ thích hợp cho lợn con. 2.1.4. Đối tượng và các kết quả sản xuất của trang trại 2.1.4.1. Đối tượng sản xuất Trang trại chuyên nuôi lợn sinh sản, cung cấp 3 giống lợn là Landrace - Yorkshire và Duroc, lợn sau khi sinh 21 - 23 ngày thì được xuất chuồng. 2.1.4.2. Kết quả sản xuất của cơ sở trong những năm gần đây Trang trại chăn nuôi của ông Nguyễn Thanh Lịch là một trong những trang trại có quy mô công nghiệp, với số vốn đầu tư lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, trại luôn đạt kết quả sản xuất cao. Dưới đây là một số chỉ tiêu mà trại đã đạt được trong 3 năm gần đây: Bảng 2.1. Kết quả sản xuất của trại Số lợn qua các năm Chỉ tiêu 2017 2018 11/2019 Nái hậu bị (con) 120 162 362 Nái sinh sản (con) 1.268 1.123 1.058 Số lứa đẻ/nái/năm (con) 2,3 2,36 2,4 Lợn con chết và loại sau sinh (%) 10 10 10 Tổng số lợn con xuất (con) 36.455 33.577 31.634 (Nguồn: Kỹ sư trại)
  14. 7 Qua bảng 2.1. có thể thấy: Kết quả sản xuất của trại lợn trong những năm gần đây tương đối tốt. So với các năm 2018, 2018, thì năng suất của năm 2019 có giảm đi so với những năm trước. Tuy nhiên, năm 2019 là một năm khó khăn với ngành chăn nuôi lợn do đại dịch xảy ra trên đàn lợn. Hầu hết các trang trại đều bị thiệt hại nặng nề do dịch tả lợn Châu Phi. Tuy nhiên, trang trại vẫn làm tốt công tác phòng chống dịch do đó cũng không bị ảnh hưởng và vẫn duy trì được số đầu nái trong khoảng 1000 – 1200 nái. Để đạt được những kết quả như trên, ngoài việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, trang trại đã tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu vệ sinh thú y, với phương châm “phòng dịch hơn dập dịch”. 2.1.5. Thuận lợi và khó khăn của trại - Thuận lợi: + Trại được xây dựng cách xa khu dân cư, xung quanh là đồi núi bao bọc, nên hạn chế được dịch bệnh và không làm ảnh hưởng đến các hộ dân xung quanh. + Đội ngũ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân của trại có năng lực, năng động, nhiệt tình và có trách nhiệm trong công việc. + Trại được xây dựng theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị hiện đại, do đó rất phù hợp với điều kiện chăn nuôi lợn công nghiệp hiện nay. - Khó khăn: + Trại nằm trong vùng nhiệt đới khí hậu gió mùa, thời tiết diễn biến phức tạp nên khâu phòng trừ dịch bệnh còn gặp nhiều khó khăn. + Tình hình giá lợn vừa qua từ đợt tháng 02/2017 giảm thấp ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất và lợi nhuận của trang trại. 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 2.2.1.1. Sự thành thục về tính và thể vóc * Sự thành thục về tính: Tuổi thành thục về tính là tuổi mà con vật bắt đầu có phản xạ tính dục và có khả năng sinh sản. Khi gia súc đã thành thục về tính, bộ máy sinh dục
  15. 8 đã phát triển hoàn thiện, con vật bắt đầu xuất hiện các phản xạ về sinh dục. Con cái có hiện tượng động dục, con đực có phản xạ giao phối. Sự thành thục về tính của lợn sớm hay muộn phụ thuộc vào: giống, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, khí hậu, chuồng trại, + Giống: Các giống khác nhau thì thời gian thành thục về tính cũng khác nhau: những giống thuần hóa sớm hơn thì tính thành thục sớm hơn những giống thuần hóa muộn, những giống có tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn những giống có tầm vóc lớn. Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ, (2003) [6]: Tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng khi khối lượng đạt từ 20 - 25kg. Ở lợn nái lai tuổi động dục lần đầu muộn hơn sơ với lợn nội thuần, ở lợn lai F1 (có sẵn máu nội) động dục bắt đầu lúc 6 tháng tuổi khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55kg. Ở lợn ngoại động dục muộn hơn so với lợn lai, tức là lúc động dục 6 - 7 tháng khi lợn có khối lượng 60 - 80kg. Tuỳ theo giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý mà có tuổi động dục lần đầu khác nhau. Lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 - 5 tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi) các giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace) có tuổi động dục lần đầu muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi. - Chế độ dinh dưỡng: John Nichl (1992) [17], đã chỉ rõ chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn cái. Thường những lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì tuổi thành thục về tính sớm hơn những lợn được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém. Lợn nái được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng tốt sẽ thành thục ở độ tuổi trung bình 188,5 ngày (6 tháng tuổi) với khối lượng cơ thể trung bình là 80kg. Nếu hạn chế thức ăn thì sự thành thục về tính sẽ xuất hiện lúc 234,8 ngày (trên 7 tháng tuổi) và khối lượng cơ thể trng bình là 48kg. Dinh dưỡng thiếu làm chậm sự thành thục về tính, tác động xấu lên tuyến yên và sự tiết kích tố hướng dục, nếu thừa dinh dưỡng cũng ảnh hưởng không tốt tới sự thành thục do sự tích luỹ mỡ
  16. 9 xung quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục làm giảm chức năng bình thường của chúng, mặt khác béo quá, ảnh hưởng tới hàm lượng các hormone oestrogen và progesterone trong máu, làm cho trong cơ thể không đạt mức cần thiết để thúc đẩy sự thành thục. - Mùa vụ và thời kì chiếu sáng: Theo Dwane R. Zimmernan Edepurkhiser, (1992) [4], mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng là yếu tố ảnh hưởng rõ rệt tới tuổi động dục. Mùa Hè lợn nái hậu thành thục chậm hơn so với mùa Thu - Đông. Điều này có thể là do ảnh hưởng của nhiệt độ trong chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng của cơ thể. Những con được chăn thả tự do thì xuất hiện thành thục sớm hơn những con nuôi nhốt trong chuồng 14 ngày (mùa Xuân) và 17 ngày (mùa Thu). Mùa Đông, thời gian chiếu sáng trong ngày thấp hơn so với các mùa khác trong năm, bóng tối làm chậm tuổi thành thục về tính so với những biến động ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày. - Tuổi thành thục về tính của gia súc: Tuổi thành thục về tính thường sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc, nghĩa là sau khi con vật đã thành thục về tính thì vẫn tiếp tục sinh trưởng lớn lên, đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi. Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ, (2003) [6] cho rằng: không nên cho phối giống ở lần động dục đầu tiên vì ở thời kỳ này cơ thể lợn chưa phát triển hoàn thiện, chưa đủ điều kiện tốt nhất cho quá trình mang thai. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con cái lâu bền cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục lần đầu rồi mới cho phối giống. * Sự thành thục về thể vóc: Theo Nguyễn Đức Hùng và cs (2003) [10], tuổi thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, tầm vóc ổn định. Tuổi thành thục về thể vóc thường chậm hơn so với tuổi thành thục về tính. Thành thục về tính được đánh dấu bằng hiện tượng động dục lần đầu tiên. Lúc này sự sinh trưởng và phát dục của cơ thể vẫn còn tiếp tục, trong
  17. 10 giai đoạn lợn thành thục về tính mà ta cho giao phối ngay sẽ không tốt, vì lợn mẹ có thể thụ thai nhưng cơ thể mẹ chưa đảm bảo cho bào thai phát triển tốt, nên chất lượng đời con kém, đồng thời cơ quan sinh dục, đặc biệt là xương chậu vẫn còn hẹp dễ gây hiện tượng khó đẻ. Điều này ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái sau này, do đó không nên cho phối giống quá sớm. Đối với lợn nái nội khi được 7 - 8 tháng tuổi khối lượng đạt 40 - 50kg mới cho phối, đối với lợn ngoại khi được 8 - 9 tháng tuổi, khối lượng đạt 100 - 110kg mới nên cho phối. 2.2.1.2. Chu kỳ động dục Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể đã phát triển hoàn hảo, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng có quá trình phát triển của noãn bao, noãn bao thành thục, trứng chín và thải trứng. Song song với quá trình thải trứng thì toàn bộ cơ thể nói chung đặc biệt là cơ quan sinh dục có hàng loạt các biến đổi về hình thái cấu tạo và chức năng sinh lý. Tất cả các biến đổi đó được lặp đi, lặp lại có tính chất chu kỳ nên gọi là chu kỳ tính. Theo Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993) [30], chu kỳ tính của lợn nái thường diễn ra trong phạm vi 19 - 21 ngày. Thời gian động dục thường kéo dài khoảng 3 - 4 ngày (lợn nội) hoặc 4 - 5 ngày (lợn lai, lợn ngoại), và được chia làm ba giai đoạn: giai đoạn trước khi chịu đực (bắt đầu), giai đoạn chịu đực (phối giống), giai đoạn sau chịu đực (kết thúc). + Giai đoạn trước khi chịu đực: Lợn nái kêu rít, âm hộ xung huyết, chưa cho phối và lợn chưa chịu đực. Thời gian rụng trứng khi có hiện tượng trên đối với lợn ngoại và lợn nái lai là 35 - 40 giờ, với lợn nội là 25 - 30 giờ. + Giai đoạn chịu đực: Lợn kém ăn, mê ì, lợn đứng yên khi ấn tay lên lưng (gần mông), âm hộ giảm độ sưng, nước nhờn chảy ra, dính, đục, đứng yên khi có đực đến gần và cho đực nhảy. Giai đoạn này kéo dài 2 ngày, nếu được phối giống lợn sẽ thụ thai, lợn nội có thời gian ngắn hơn 28 - 30 giờ.
  18. 11 + Giai đoạn sau chịu đực: Lợn trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở, đuôi cụp và không chịu đực. - Thời điểm phối giống thích hợp Theo Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993) [30], trứng rụng tồn tại trong tử cung từ 2 - 3 giờ và tinh trùng sống trong âm đạo lợn cái từ 30 - 48 giờ. Thời điểm phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4 tính từ lúc bắt đầu động dục. Đối với lợn nái nội nhanh hơn một ngày tức là vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 do thời gian động dục ở lợn nái nội ngắn hơn. Thời điểm phối giống có ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu thai và sai con. Phối sớm hoặc phối chậm đều đạt kết quả kém nên cho nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm tối ưu. 2.2.2. Những hiểu biết về công tác phòng và trị bệnh cho lợn nái sinh sản 2.2.2.1. Phòng bệnh Như ta đã biết ‘‘Phòng bệnh hơn chữa bệnh’’‚ nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Do vậy, việc phòng bệnh cũng như trị bệnh phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau. - Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt: Theo Nguyễn Ngọc Phụng (2004) [23], bệnh xuất hiện trong một đàn lợn thường do nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm hoặc không truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh trên đàn lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn.
  19. 12 Theo Lê Văn Tạo và cs (1993) [26], vi khuẩn E.coli gây bệnh ở lợn là vi khuẩn tồn tại trong môi trường, đường tiêu hoá của vâṭ chủ. Khi môi trường quá ô nhiễm do vê ̣sinh chuồng trại kém, nước uống, thức ăn bi ̣nhiễm vi khuẩn, điều kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bi ̣cảm nhiễm E.coli, bệnh sẽ nổ ra, vì vậy mà khâu vê ̣sinh, chăm sóc có một ý nghĩa to lớn trong phòng bệnh. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vê ̣sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiêṭ độtrong chuồng phải đảm bảo 27 - 30˚C đối với lợn sơ sinh và 28 - 30˚C với lợn cai sữa chuồng phải luôn khô ráo, không thấm ướt. Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ kín, ấm áp vào mùa Đông và đầu Xuân. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con phân trắng mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [22], từ 3 - 5 ngày trước dự kiến đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như crezin 5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước khi đẻ. - Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi, chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng mát mùa Hè, ấm áp mùa Đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: rửa sạch, để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 15 ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Với những chuồng nuôi lưu cữu hoặc chuồng nuôi có vật nuôi bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để: Sau khi đưa hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý theo hướng dẫn của thú y, cần phun sát trùng kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch) toàn bộ chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để
  20. 13 khô và dọn, rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học; chất thải lỏng, nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra môi trường. Cần phun sát trùng 1 - 2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 30 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng nuôi. - Phòng bệnh bằng vắc xin: Phòng bệnh bằng vắc xin là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [11], vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền như ARN, AND, ) đã được làm giảm độc lực hay vô hoạt bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ mới - vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ứng. Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch. 2.2.2.2. Điều trị bệnh Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [11], nguyên tắc để điều trị bệnh là: + Toàn diện: phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. + Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan. + Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng.
  21. 14 + Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. + Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa. + Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa. Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [11], các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: + Hộ lý: cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó. Cho gia súc ăn, uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh. + Dùng kháng huyết thanh: chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). + Dùng hóa dược: phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn. + Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng
  22. 15 kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây: - Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. - Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. - Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh. - Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. - Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, tiêm nước sinh lý, 2.2.3. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 2.2.3.1. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái đẻ Mục đích chăn nuôi lợn nái đẻ nhằm đảm bảo cho lợn đẻ an toàn, lợn con có tỷ lệ sống cao, lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con Chính vì vậy quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe lợn mẹ và lợn con. - Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [22], thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng
  23. 16 sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái. - Quy trình chăm sóc Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Theo Võ Trọng Hốt và cs (2000) [12], cần phải theo dõi thường xuyên sức khỏe lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện các trường hợp bất thường để có biện pháp xử lý kịp thời. Trước khi lợn đẻ 10 - 15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 - 5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh lợn nái sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người, dùng khăn thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy có thể tránh được nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái, chúng ta chuyển nhẹ nhàng từ chuồng chửa sang chuồng đẻ để lợn quen dần với chuồng mới.
  24. 17 Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và quan trọng đó là việc chuẩn bị ô úm lợn cho lợn con. Theo Trần Thị Thuận và Vũ Đình Tôn (2005) [27], ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào những tháng mùa đông. Ngoài ra, ô úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng ăn vào ô úm cho lợn con lúc 7 - 10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức ăn của lợn con. Vào ngày dự kiến đẻ của lợn nái, cần chuẩn bị xong ô úm cho lợn con. Kích thước ô úm: 1,2m x 1,5m. Ô úm được cọ rửa sạch, phun khử trùng và để trống từ 3 - 5 ngày trước khi đón lợn con sơ sinh. 2.2.3.2. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con - Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [22], thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn bổ sung đạm động vật, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin, Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối, mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 Kcal, protein 15%, Ca từ 0,9 - 1,0%, phospho 0,7%. Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Theo Nguyễn Quang Linh (2005) [20] trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau:
  25. 18 - Đối với lợn nái ngoại: + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 3kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến khi cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức ăn/nái/ngày = 2kg + (số con x 0,35kg/con). + Số bữa ăn trên ngày: 2 bữa (sáng và chiều). + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5kg thức ăn/ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2kg rau xanh ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh). + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%. + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. - Quy trình chăm sóc Theo Nguyễn Quang Linh (2005) [20], vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có khi vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. Ngoài ra yêu cầu đối với chuồng trại của lợn nái nuôi con là phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không ẩm ướt, vì vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [22], chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 200C, độ ẩm 70 - 75%.
  26. 19 2.2.4. Những hiểu biết về một số bệnh thường gặp tại cơ sở 2.2.4.1. Bệnh viêm tử cung Bệnh viêm tử cung xảy ra trên các giống lợn nội, ngoại khác nhau. Lợn nái đẻ ít lứa, nhiều lứa hay đang nuôi con đều có thể mắc bệnh song tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào yếu tố vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng. Khi gia súc sinh đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao, thường gây viêm tử cung. * Nguyên nhân bệnh viêm tử cung Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Theo các tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [1]; Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [19], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. - Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khoẻ. - Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. - Lợn nái sau khi đẻ xong bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung.
  27. 20 - Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, Phó thương hàn, bệnh Lao, gây viêm. - Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm. Theo Đoàn Kim Dung và Lê Thị Tài (2002) [7] cho biết, nguyên nhân gây viêm tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), Liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgaris, Klebriella, E. Coli, Lê Văn Năm (1999) [15] cho rằng, có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại cảnh gây bệnh như: thức ăn nghèo dinh dưỡng, can thiệp đỡ đẻ bằng dụng cụ hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến phá hủy hoặc kết tủa chất nhày muxin cơ quan sinh dục, kết hợp với việc chăm sóc nuôi dưỡng bất hợp lý và thiếu vận động đã làm chậm quá trình thu teo sinh lý của dạ con (trong điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về khối lượng kích thước ban đầu khoảng 3 tuần sau đẻ), đây là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây bệnh. Biến chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây lên trong thời gian động đực (vì lúc đó tử cung mở) và do thụ tinh nhân tạo sai kỹ thuật. Bệnh còn xảy ra do thiếu sót về dinh dưỡng và quản lý: Khẩu phần thiếu hay thừa protein, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm tử cung. Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột gây đẻ khó, viêm tử cung do xây xát. Khoáng chất, vitamin cũng ảnh hưởng đến viêm tử cung. * Triệu chứng Theo Lê Minh và cs. (2017) [14], tùy theo mức độ tổn thương, loại vi khuẩn, mức độ phát triển và hoạt động của vi khuẩn, sự rối loạn chức năng sinh lý và nội tiết tử cung mà tử cung có biểu hiện các triệu chứng lâm sàng khác nhau.
  28. 21 Theo Nguyễn Văn Thanh (2010) [29], khi lợn nái bị viêm tử cung, các chỉ tiêu lâm sàng như: thân nhiệt, tần số hấp đều tăng. Lợn bị sốt theo quy luật: sáng sốt nhẹ 39 - 39,5oC, chiều 40 - 41oC. Con vật ăn kém, sản lượng sữa giảm, có khi con vật cong lưng rặn như rặn đái. Từ cơ quan sinh dục chảy ra niêm dịch nhiều lợn cợn, mùi hôi tanh, có màu trắng đục, hồng hay nâu đỏ. Khi nằm lượng niêm dịch chảy ra nhiều hơn. Trong trường hợp thai chết lưu âm đạo sưng tấy, đỏ, có chứa dịch tiết màu vàng sẫm, nâu có mùi hôi thối. Xung quanh âm hộ và mép đuôi có dính bết niêm dịch, có khi niêm dịch khô đóng thành vẩy trắng, lợn nái mệt mỏi đi lại khó khăn. * Hậu quả của bệnh viêm tử cung Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8]; Trần Thị Dân (2004) [5], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: - Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai. Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều Prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng, nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
  29. 22 - Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu. Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu. - Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc. - Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone. Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được. - Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng. * Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung: Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động dục, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml
  30. 23 cho tới 200ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu máu cá. Người ta, thấy rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mãn tính thường gặp trong thời kì cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung. Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra. Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động đực thì có thể bị nhầm lẫn. Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm từ đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất. * Điều trị Chữa bệnh viêm tử cung bằng cách: sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao: streptomycin 0,25g, penicillin 500.000 UI, dung dịch MgSO4 1% 40ml + vitamin C (Smith và cs 1995) [30]. Popkov (1999) [25] đã sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái bị viêm tử cung, điều trị đạt kết quả cao. Streptomycin: 0,25g.
  31. 24 Penicillin: 500.000 UI. Dung dịch MgSO4 1% 40 ml + vitamin C. Khi lợn bị viêm âm đạo, âm hộ, Mikhailov N. đã dùng phương pháp rửa không sâu (qua ống thông) trong âm đạo bằng dung dịch nước etacridin 1/1.000 và 1/5.000, furazolidon 1/1.000. Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [9], đối với lợn nái viêm tử cung nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm amoxi 15% 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao. Đối với lợn nái sau khi đẻ, sảy thai và viêm nặng: Thụt rửa tử cung bằng dung dịch iodine 10% pha 10ml/2 lit nước, thụt rửa 2 lần/ngày trong 2 ngày đầu và thụt rửa 1 lần/ ngày từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 sau khi đẻ. Sau khi thụt rửa bơm thuốc kháng sinh O.T.C 10% (5ml thuốc pha 20ml nước sinh lý) hay 4g streptomycin + 40.000 UI penicillin ngày 1 lần trong 3 ngày liên tiếp vào tử cung. Đồng thời tiêm Oxytocin liều 10 - 15 UI (2 ống 5ml/1lần) nhiều lần trong ngày để tử cung co bóp tống dịch sản ra ngoài. Tiêm kháng sinh phổ rộng chống viêm như: Tetramycin- LA, amoxi 15% 3 lần liên tiếp mỗi lần cách nhau 48 giờ. Ngoài ra, tiêm các loại thuốc bổ trợ như: Urotropin giúp tăng cường bài tiết độc tố, thuốc hạ sốt, vitamin C liều cao và canxi hỗ trợ co bóp tử cung, các thuốc kháng viêm như Ketoprofen 50mg, 2.2.4.2. Bệnh viêm vú * Nguyên nhân gây bệnh viêm vú Trần Minh Châu (1996) [3] cho biết, khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây viêm vú. Một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm vú ở lợn nái là thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm
  32. 25 khẩu phần thức ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập và gây viêm. + Do kế phát từ một số bệnh: Sát nhau, viêm tử cung, bại liệt sau đẻ, viêm bàng quang, khi lợn nái bị những bệnh này vi khuẩn theo máu về tuyến vú cư trú tại đây và gây bệnh. + Lợn nái tốt sữa, lợn con bú không hết hoặc lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng vú còn lại căng sữa. Lợn con bú làm xây xát bầu vú hoặc lợn con bị bệnh không bú, sữa xuống nhiều bầu vú căng dễ dẫn đến viêm (Trương Lăng, 2000) [18]. + Do quá trình chăm sóc nuôi dưỡng kém, chất độn chuồng và ổ đẻ bẩn, sau khi đẻ bầu vú không được vệ sinh sạch, hàng ngày không vệ sinh bầu vú, thời tiết quá ẩm kéo dài dẫn đến viêm. * Triệu chứng Theo Nguyễn Thị Ngân và cs. (2016) [16], đo thân nhiệt là một biện pháp không thể thiếu được trong chẩn đoán bệnh. Thân nhiệt cao hay thấp hơn bình thường được coi là triệu chứng bệnh quan trọng. Bình thường bệnh viêm vú xảy ra sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 5 - 7 ngày có khi đến một tháng. Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [28], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng, đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng, ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42˚C kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% (Lê Hồng Mận, 2002) [13]. Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn
  33. 26 cợn, đôi khi có máu. * Hậu quả của bệnh viêm vú Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ. - Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [21], bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con. - Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [1] cũng khẳng định: Mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau. * Điều trị Trong nhiều trường hợp viêm vú do nhiều nguyên nhân gây ra nên việc điều trị cần phải tiến hành kết hợp giữa kháng sinh và phong bế giảm đau. Một số kháng sinh thường dùng: streptomycin: 10mg/kg TT.
  34. 27 2.2.4.3. Bệnh sát nhau Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. * Nguyên nhân Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [29] cho biết, sau khi tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Ca và P. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức cũng có thể dẫn đến sat nhau. + Kế phát sau các bệnh khó đẻ khác. + Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt bệnh Brucellosis (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của nhau. * Triệu chứng Căn cứ vào mức độ sát nhau người ta chia ra làm 2 loại: + Sát nhau hoàn toàn: Toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc thường là có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn. + Sát nhau không hoàn toàn: Ở động vật đơn thai một phần màng nhau còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ. Theo Trương Lăng (2000) [18], biểu hiện triệu chứng khi lợn nái bị sát nhau: Con vật đứng nằm không yên, thân nhiệt hơi tăng, thích uống nước, sản dịch chảy ra màu nâu. Để dễ phát hiện có sát nhau hay không khi đỡ đẻ cho lợn người ta thường gom toàn bộ nhau lại cho đến khi lợn đẻ xong, đếm số nhau ra và số lợn con sẽ phát hiện lợn con có sót nhau hay không.
  35. 28 * Điều trị Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm Oxytoxin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục (Trịnh Đình Thâu và cs, 2010 [29]). 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [19], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Nguyễn Xuân Bình (2000) [1] cho biết, ở những nái bị viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt nặng). Theo tác giả Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng Oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [6] cho biết: Trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho lợn nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1h đẻ, cắt răng nanh
  36. 29 lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Viêm tử cung là một quá bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ 2004 [21]). Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh viêm tử cung của nái là do: thiếu về dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe, kích dục tố, nhiễm trùng sau khi sinh. Từ những yếu tố đó ta có thể đề ra phương pháp phòng bệnh viêm tử cung. Do nhiễm vi khuẩn Staphylococcus, Streptococcus vì các nguyên nhân như lợn con có răng nanh làm xây xát vú mẹ tạo điều kiện vi trùng xâm nhập. Lợn nái nhiều sữa con bú không hết làm sữa đọng nhiều tạo môi trường cho vi trùng sinh sản gây viêm vú. Lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng còn lại căng sữa quá nên viêm. 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thê giới đang rất phát triển, các nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Tuy
  37. 30 nhiên vấn đề hạn chế bệnh sinh sản là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết, đặc biệt là bệnh viêm đường sinh dục. Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh viêm đường sinh dục và đã đưa ra các kết luận giúp cho người chăn nuôi lợn nái sinh sản hạn chế được bệnh này. Tuy vậy, tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục trên đàn lợn nái sinh sản vẫn rất cao. Theo Bilkei (1994) [2], viêm tử cung thường sảy ra trong lúc sinh do nhiễm vi khuẩn E.coli gây dung huyết và các vi khuẩn gram dương. Theo Urban và cs (1983) [35]; Bilkei (1994) [2], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcus, Streptococcus. Tuy nhiên, các nghiên cứu của các tác giả khác lại ghi nhận các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm vi sinh vật hiếu khí có mặt ở nền chuồng, lúc lợn nái sinh cổ tử cung mở, vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh. Do đó theo Gardner và cs (1990) [33], Smith và cs (1995) [32]; Taylor (1995) [34], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Ở Pháp các tác giả Pierre brouillt và Bernarrd faroult (2003) [24] đã nghiên cứu và kết luận: Điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả, xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của 30 phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược động học cho phép đáp ứng tốt hơn cách điều trị.
  38. 31 Các nghiên cứu của Trekaxova A.V. và cs (1983) [31], về chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 - 40ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 8 - 10cm. Dung dịch novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3lần.
  39. 32 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN 3.1. Đối tượng, phạm vi thực hiện - Đàn lợn nái nuôi tại trang trại Nguyễn Thanh Lịch, Ba Vì - Hà Nội. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Thời gian: Từ 20/5/2019 đến 25/11/2019. - Địa điểm: Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch, Ba Vì - Hà Nội. 3.3. Nội dung thực hiện - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Nguyễn Thanh Lịch trong 3 năm (2017 - 11/2019). - Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại. - Áp dụng các biện pháp phòng và trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại. 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi - Tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại Nguyễn Thanh Lịch trong 3 năm (2017 - 11/2019). - Cơ cấu đàn lợn nái tại trại trong 3 năm. - Tình hình sinh sản của đàn lợn nái tại trang trại. - Một số chỉ tiêu kỹ thuật của đàn lợn nái tại trại. - Biện pháp vệ sinh phòng bệnh. - Tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại. - Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái tại trại. - Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái tại trại. 3.4.2. Phương pháp thực hiện 3.4.2.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại Nguyễn Thanh Lịch, Ba Vì – Hà Nội. Để đánh giá được tình hình chăn nuôi lợn tại trại Nguyễn Thanh Lịch em tiến hành thu thập thông tin thông qua sổ sách của trại kết hợp với theo dõi trực tiếp về tình hình thực tế trên đàn lợn nái của trại.
  40. 33 3.4.2.2. Phương pháp áp dụng quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc cho đàn lợn nái nuôi tại trại * Lịch sát trùng tại trang trại Trong những năm gần đây cũng như hiện tại, tình hình dịch bệnh trên đàn lợn ở nước ta diễn biến rất phức tạp, các loại dịch bệnh như lở mồm long móng, tai xanh, Đặc biệt là dịch tả lợn Châu Phi (AFS) liên tục phát triển và lây lan nhanh chóng, nguyên nhân chủ yếu để dịch bệnh xảy ra đó là khâu vệ sinh chuồng trại chưa được kiểm soát chặt chẽ, các quy trình phòng bệnh không được thực hiện đầy đủ. Chính vì vậy việc sát trùng luôn được trại quan tâm và có lịch cụ thể trong cả một tuần. Đặc biệt trong thời gian hiện nay, an toàn sinh học trong chăn nuôi là biện pháp kỹ thuật và quản lý được áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế sự lây nhiễm của các tác nhân gây bệnh có khả năng gây hại đến con người, gia súc và môi trường nuôi. Trong bối cảnh hiện nay, dịch tả lợn Châu Phi (AFS) diễn biến rất phức tạp, nguy hiểm vì chưa có vắc xin phòng ngừa. Vì vậy, việc thực hiện tốt an toàn sinh học là chìa khóa duy nhất, biện pháp hàng đầu giúp bảo vệ trang trại, đẩy lùi dịch bệnh lây lan. An toàn sinh học là tất cả các công việc ngăn chặn mầm bệnh từ bên ngoài trại cũng như bên trong. Các khu vực như nhà sát trùng xe, nhà sát trùng nhân viên và khách tham quan ra vào, khu vực xuất lợn, đã được tăng cường vệ sinh sát trùng hằng ngày. Riêng khu vực xung quanh trại việc phun sát trùng được thực hiện 2 lần/ngày. Ngoài ra trong 1 tuần ở khu vực đường đi xung quanh trại được rắc vôi bột 2 lần/tuần. Trong chuồng lợn nái chửa, nái đẻ và cách ly cũng được thực hiện phun sát trùng đều đặn 2 lần/ngày. Cũng như việc ra vào trại đã được hạn chế thấp nhất có thể. Bên cạnh đó, trang trại đã mua lưới quây xung quanh khu vực chuồng nuôi, xung quanh kho cám, đường đi, nhà ăn, để hạn chế ruồi muỗi bay
  41. 34 vào. Phun thuốc diệt ruồi muỗi thường xuyên. Diệt chuột định kỳ hàng tuần bằng thuốc diệt chuột, đóng tôn vào tường để không cho chuột từ ngoài đồng chèo được vào trong trại. Lịch sát trùng của được trình bày tại bảng 3.1. Bảng 3.1. Lịch sát trùng trại lợn nái Trong chuồng Ngoài khu Ngoài Thứ Chuồng nái Chuồng vực chăn Chuồng đẻ Chuồng chửa cách ly nuôi Phun sát Phun sát Chủ Phun sát trùng + rắc Phun sát trùng trùng nhật trùng vôi đường đi Phun sát Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 2 trùng + xả trùng + rắc Phun sát trùng trùng toàn trùng vôi gầm vôi đường đi bộ khu vực Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 3 trùng + rắc Phun sát trùng trùng trùng vôi đường đi Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 4 trùng + xả vôi Phun sát trùng trùng trùng gầm Phun sát Rắc vôi + Thứ 5 Tổng vệ sinh Tổng vệ sinh Tổng vệ sinh trùng toàn Phun sát bộ khu vực trùng Phun sát Phun sát trùng + rắc Phun sát Thứ 6 trùng + xả Phun sát trùng vôi đường đi trùng vôi gầm Phun sát Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 7 trùng + Xả Phun sát trùng trùng toàn trùng trùng vôi gầm bộ khu vực (Nguồn: Kỹ sư trại) Từ bảng 3.1 có thể thấy được việc sát trùng và phòng chống bệnh rất quan trọng, nó góp phần ngăn chặn nguồn dịch bệnh lây lan trên đàn lợn nái. Bên cạnh đó nó cũng góp phần giúp môi trường trong chuồng nuôi luôn sạch sẽ giảm nguy cơ gây bệnh cho lợn con giúp đàn lợn phát triển tốt.
  42. 35 * Khẩu phần ăn cho lợn nái - Khẩu phần ăn cho nái chửa Lợn nái chửa được nuôi ở chuồng lợn nái chửa, cho ăn thức ăn 566F, 567SF với khẩu phần ăn phân theo tuần chửa, thể trạng lứa đẻ. Bảng 3.2. Khẩu phần ăn của lợn nái chửa Khẩu phần ăn Tuần chửa Loại thức ăn Số lần cho ăn (kg/con/ngày) 1 - 12 566F 2 - 2,5 1 13 - 14 566F 2,5 - 3,5 1 15 trở lên 567SF 2 - 3,5 1 (Nguồn: Kỹ sư trại) Đối với nái chửa từ tuần 1 đến tuần chửa 12 cho ăn thức ăn 566F với tiêu chuẩn 2 - 2,5kg/con/ngày, cho ăn một lần trong ngày. Đối với nái chửa từ tuần 13 đến tuần chửa 14 cho ăn thức ăn 566F với tiêu chuẩn 2,5 - 3,5kg/con/ngày, cho ăn một lần trong ngày. Đối với nái chửa từ tuần 15 trở đi cho ăn thức ăn 567SF với tiêu chuẩn 2 - 3,5kg/con/ngày, cho ăn một lần trong ngày. Tùy vào thể trạng của lợn nái mà ta tự điều chỉnh thức ăn cho hợp lí. Đối với lợn nái hậu bị thì lượng thức ăn sẽ ít hơn so với nái dạ và lợn nái gầy sẽ cần lượng thức ăn nhiều hơn. - Khẩu phần ăn cho nái đẻ (nái nuôi con) Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng nái đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng nái đẻ, chuồng phải được dọn dẹp, rửa sạch sẽ và vệ sinh sát trùng. Lợn chuyển lên phải được tắm rửa, có thẻ nái kẹp ở bảng đầu mỗi ô chuồng và được ghi đầy đủ thông tin lên bảng. Thức ăn cho lợn chờ đẻ là 567SF với tiêu chuẩn 2,5 - 3kg/con/ngày.
  43. 36 Trước ngày đẻ 3 ngày cho ăn với tiêu chuẩn 2 - 2,5kg/con/ngày. Trước ngày đẻ 2 ngày cho ăn với tiêu chuẩn 1,5 - 2kg/con/ngày. Trước ngày đẻ 1 ngày cho ăn với tiêu chuẩn 1,5kg/con/ngày. Ngày đẻ cho ăn 1,5kg/con/ngày. Sau ngày đẻ tiêu chuẩn thức ăn của lợn nái tăng lên 1kg/con /ngày. Từ sau 6 ngày đẻ đến cai sữa cho lợn ăn với lượng thức ăn được tính theo công thức: 1/100P mẹ +0,4*số con (trong đó: P là thể trọng của lợn mẹ) Bảng 3.3. Khẩu phần ăn của lợn nái đẻ Giai đoạn đẻ Lợn hậu bị Lợn nái dạ 3 ngày 2kg 2,5kg Trước ngày đẻ 2 ngày 1,5kg 2kg 1 ngày 1,5kg 1,5kg Ngày đẻ 1,5kg 1,5kg 1 ngày 2,5kg 2,5kg 2 ngày 3,5kg 3,5kg 3 ngày 4,5kg 4,5kg Sau ngày đẻ 4 ngày 5,5kg 5,5kg 5 ngày 6kg 6kg 6 ngày 6,5kg 6,5kg Cai sữa 1/100P mẹ +0,4*số con (Nguồn: Kỹ sư trại ) Chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản là phải giữ chuồng trại luôn sạch sẽ, cho lợn nái ăn đúng bữa và đủ lượng thức ăn theo quy định. Lợn nái chửa kỳ cuối, nái đẻ và nuôi con được cho ăn 3 lần/ngày. Ta cần lưu ý các điểm sau: + Cách cho ăn: ăn đúng 3 bữa vào 7h sáng, 13h30 và 16h chiều, ăn theo khẩu phần ăn trên bảng cám đã được chính sửa liên tục theo ngày
  44. 37 + Nhu cầu dinh dưỡng trong từng thời kỳ: trước đẻ 3 ngày lượng thức ăn sẽ giảm dần 0,5kg/con/ngày, sau đẻ lượng thức ăn sẽ tăng dần từ 1 - 1,5kg/con/ngày tuỳ thuộc vào giai đoạn mang thai, thể trạng lợn nái, tình trạng sức khoẻ, nhiệt độ môi trường, chất lượng thức ăn, * Quy trình tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái Bảng 3.4. Lịch tiêm phòng vắc xin tại trại Liều Loại Tên chủng Đường Tuổi Phòng bệnh lượng lợn vắc xin tiêm (ml) 1 tuần sau nhập Tai xanh PRRS Tiêm bắp 2 2 tuần sau nhập Khô thai Parvo Tiêm bắp 2 3 tuần sau nhập Dịch tả SFV Tiêm bắp 2 Lợn LMLM + 2 4 tuần sau nhập FMD + AD Tiêm bắp hậu bị Giả dại 2 5 tuần sau nhập Tai xanh PRRS Tiêm bắp 2 6 tuần sau nhập Khô thai Parvo Tiêm bắp 2 LMLM + 2 7 tuần sau nhập FMD + AD Tiêm bắp Giả dại 2 10 tuần Lợn Dịch tả SFV Tiêm bắp 2 mang thai nái 12 tuần LMLM FMD Tiêm bắp 2 sinh mang thai sản 4 tháng 1 Giả dại AD tổng đàn Tiêm bắp 2 lần(4,8,12) (Nguồn: Kỹ sư trại) Việc phòng bệnh bằng vắc xin được trang trại rất chú trọng và theo đúng quy trình của công ty CP. Tỷ lệ tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn của trại hàng năm đạt 100% và được tiêm vào thứ 4 trong tuần.
  45. 38 Lợn hậu bị được nhập vào trại (khoảng 5,5 tháng tuổi), sau 1 tuần khi lợn đã ổn định trại tiến hành tiêm vắc xin phòng bệnh tai xanh, sau 2 tuần tiến hành tiêm vắc xin phòng bệnh khô thai, sau 3 tuần tiêm vắc xin phòng bệnh dịch tả và 4 tuần sau nhập tiêm vắc xin phòng bệnh lở mồm long móng và giả dại. Các tuần 5, 6, 7 sau khi nhập tiến hành tiêm nhắc lại vắc xin phòng bệnh tai xanh, khô thai, lở mồm long móng và giả dại. Đối với lợn nái sinh sản, sau 10 tuần mang thai tiến hành tiêm vắc xin phòng bệnh dịch tả, sau 12 tuần mang thai tiêm vắc xin lở mồm long móng. Đối với vắc xin giả dại trại tiến hành tiêm tổng đàn 4 tháng 1 lần (tháng 4, 8, 12). 3.4.2.3. Phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản của trại Để xác định được tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản tại trại, hàng ngày, em tiến hành theo dõi, quan sát về những biểu hiện của đàn lợn nái thông qua các bước sau:  Kiểm tra tình trạng ăn uống bằng cách trực tiếp quan sát, theo dõi con vật hàng ngày. - Trạng thái cơ thể bình thường: con vật ăn uống bình thường, vận động nhanh nhẹn. - Trạng thái bệnh lý: ăn uống giảm hoặc bỏ ăn.  Kiểm tra thân nhiệt: - Quan sát, cảm nhận bằng tay: + Trạng thái bình thường: toàn thân lợn nái có màu bình thường, không đỏ, dùng mu bàn tay sờ không nóng. + Trạng thái bệnh lý: toàn thân đỏ ửng, dùng mu bàn tay sờ thấy nóng ran. - Đo thân nhiệt qua trực tràng bằng nhiệt kế 430C: + Trước khi đo nhiệt độ phải vẩy nhiệt kế cho cột thủy ngân tụt xuống hết thang độ. + Cho từ từ nhiệt kế vào trực tràng theo hướng hơi xiên xuống dưới để tránh niêm mạc bị tổn thương.
  46. 39 + Để nhiệt kế ở trực tràng từ 5 - 10 phút, rồi lấy ra xem nhiệt độ trên thang nhiệt kế. + Trạng thái bình thường: thân nhiệt bình thường, ổn định ở 38 - 40 0C. + Trạng thái bệnh lý: hơi sốt hoặc sốt cao 41 - 42 0C. + Dùng bông cồn lau nhiệt kế trước và sau khi sử dụng.  Quan sát bên ngoài cơ quan sinh dục: - Trạng thái bình thường: màu sắc âm hộ bình thường, không sưng, không sung huyết hay thủy thũng. - Trạng thái bệnh lý: âm hộ sưng, sung huyết, thủy thũng, có dịch viêm chảy ra từ âm hộ, gốc đuôi có dính nhiều dịch viêm.  Kiểm tra âm đạo: - Rửa sạch và sát trùng mép âm môn. - Dùng mỏ vịt có hệ thống đèn soi đã được vô trùng để kiểm tra. + Trạng thái bình thường: con vật không đau, màu sắc niêm mạc âm đạo, màu và mùi niêm dịch bình thường. + Trạng thái bệnh lý: con vật đau đớn, niêm mạc âm đạo đỏ, tổn thương, niêm dịch đục, có mùi tanh, hôi.  Kiểm tra nước tiểu: + Trạng thái bình thường: nước tiểu trong, mùi khai tự nhiên, không có mùi tanh, hôi thối. + Trạng thái bệnh lý: nước tiểu đục, lẫn tổ chức hoại tử, dịch viêm, mùi tanh, hôi thối. Trên cơ sở biểu hiện lâm sàng khác thường của lợn nái chúng em tiến hành ghi số tai hoặc đánh dấu từng con bằng cách phun sơn màu đỏ, sau đó tiến hành chẩn đoán lâm sàng, ghi rõ tuổi, thân nhiệt, triệu chứng lâm sàng và ghi vào sổ nhật ký thực tập. Từ những triệu chứng thu thập được chúng em tiến hành điều trị cho lợn nái bị bệnh theo sự hướng dẫn của kỹ sư phụ trách tại trại.
  47. 40 3.4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi - Tỷ lệ khỏi:  số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%) = x 100  số con điều trị - Tỷ lệ lợn mắc bệnh:  số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100  số lợn theo dõi
  48. 41 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại lợn Nguyễn Thanh Lịch trong 3 năm (2017 - 11/2019) Hiện nay đàn lợn nái của trại trung bình đẻ được 2,36 - 2,46 lứa/năm. Số con sơ sinh trung bình là 11,95 con/lứa, số con cai sữa là 11,25 con/lứa. Theo đánh giá của công ty chăn nuôi CP Việt Nam, tình hình sản xuất của trại vào mức khá. Tại trại, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, một số ít đàn được nuôi đến 26 ngày tuổi thì tiến hành cai sữa và chuyển sang các trại lợn giống của công ty. Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn của trại ĐVT STT Loại lợn (con) 2017 2018 11/2019 (con) 1 Lợn nái sinh sản Con 1.268 1.123 1.058 2 Lợn hậu bị Con 120 162 362 3 Lợn đực giống Con 21 21 19 4 Lợn con Con 29.164 32.565 32.362 Tổng Con 30.573 33.871 33.801 (Nguồn: kỹ sư trại) Qua bảng 4.1. ta có thể nhìn thấy, số lượng giữa các loại lợn nuôi ở trại là rất khác nhau. Đặc biệt là số lợn nái sinh sản và lợn con là cao nhất vì trang trại chỉ sản xuất lợn giống, do đó cơ cấu của trại chủ yếu là lợn nái và lợn con theo mẹ. Số lượng lợn nái có xu hướng giảm dần qua các năm, đặc biệt lợn nái hậu bị giảm số lượng lớn ở đầu năm 2019 do lúc đó dịch tả lợn Châu Phi có chiều hướng lây lan vào nước ta nên trại hạn chế việc nhập lợn hậu bị cũng như lợn đực giống. Hàng tháng trại vẫn tiến hành loại thải lợn đực giống kém, lợn nái già sinh sản kém nên số lượng lợn nuôi ở trang trại cũng giảm đi.
  49. 42 4.2. Thực hiện biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng trên đàn lợn nái nuôi tại trang trại 4.2.1. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại Trong thời gian thực tập, được sự phân công của kỹ sư, em được thực tập 4 tháng tại chuồng lợn đẻ, 2 tháng ở chuồng lợn chửa. Kết quả trình bày tại bảng 4.2. Bảng 4.2. Số lượng nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập Nái chửa Nái nuôi con Tháng theo dõi (con) (con) 6 0 56 7 0 56 8 0 56 9 0 56 10 86 0 11 90 0 Tổng 176 224 Kết quả bảng 4.2. cho ta thấy: trong 6 tháng thực tập em được tạo điều kiện làm tại 2 chuồng là chuồng nái chửa và nái nuôi con. Trong quá trình thực tập em đã trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 176 nái chửa và 224 nái nuôi con. Quá trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái chửa và nái nuôi con được thực hiện theo đúng quy trình của công ty CP. Trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng em học hỏi được rất nhiều kiến thức về cách cho ăn, lượng thức ăn phù hợp cho lợn nái ở từng giai đoạn, cách nhận biết và điều trị một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái của trại.
  50. 43 4.2.2 Tình hình sản xuất của đàn lợn nái nuôi tại trại Nguyễn Thanh Lịch xã Ba Trại, huyện Ba Vì Hà Nội Để đánh giá về quá trình sinh đẻ của đàn lợn nái nuôi tại cơ sở, chúng em đã thu thập số liệu và theo dõi thông tin của đàn lợn nái sinh sản tại trại. Kết quả trình bày tại bảng 4.3. Bảng 4.3. Tình hình sinh sản của đàn lợn nái nuôi tại trại Số nái đẻ Số nái đẻ khó Số nái đẻ Tỷ lệ Tỷ lệ Tháng bình thường phải can thiệp (con) (%) (%) (con) (con) 6 56 55 98,21 1 1,78 7 56 53 94,64 3 5,36 8 56 55 98,21 1 1,78 9 56 54 96,42 2 3,57 Tính 224 217 96,87 7 3,12 chung Qua bảng 4.3. cho thấy: Số lượng lợn đẻ mỗi tháng, số nái đẻ bình thường và số nái đẻ phải can thiệp tại cơ sở. Tỷ lệ nái đẻ phải can thiệp thấp, dao động chỉ từ 1,78 - 5,36%, trung bình là 3,12%. Số lợn nái đẻ phải can thiệp với tỷ lệ thấp là do trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng đã thực hiện đúng quy trình về thức ăn cho lợn nái mang thai và kỹ thuật chăm sóc lợn nái đẻ. Số lợn nái đẻ khó chủ yếu tập trung nhiều ở nái đẻ lứa đầu, cổ tử cung chưa giãn nở, một số ít là do lợn mẹ trong quá trình mang thai quá béo, ít vận động làm ảnh hưởng đến quá trình đẻ. Ngoài ra trường hợp đẻ khó còn do các nguyên nhân khác như chiều hướng, tư thế của bào thai không bình thường, thai quá to, thai dị hình. Trong quá trình đỡ đẻ cho lợn nái, em rút ra được một số bài học kinh nghiệm đó là: Việc ghi chép chính xác ngày phối giống cho lợn nái là rất quan trọng, sẽ giúp cho người chăn nuôi xác định được thời điểm lợn sắp đẻ để có kế hoạch chuẩn bị các dụng cụ hỗ trợ quá trình đẻ, chuẩn bị ổ úm cho lợn con. Trong thời gian lợn sắp đẻ thì phải thường xuyên theo dõi, quan sát lợn,
  51. 44 không nên để lợn tự đẻ vì lợn mẹ có thể sẽ đè con, cắn con hoặc khi lợn mẹ đẻ khó sẽ không kịp thời xử lý. Khi đỡ đẻ cho lợn người thực hiện phải thao tác nhẹ nhàng, khéo léo, để tránh làm tổn thương cơ quan sinh dục của lợn mẹ, toàn bộ dụng cụ, tay của người thực hiện đỡ đẻ phải được sát trùng, người đỡ đẻ cho lợn không được để móng tay dài có thể làm tổn thương cơ quan sinh dục của lợn nái trong quá trình can thiệp đẻ khó. 4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng và trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại 4.3.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh trên đàn lợn nái tại trại Việc vệ sinh sát trùng chuồng trại có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Vệ sinh bao gồm nhiều yếu tố: vệ sinh môi trường xung quanh, vệ sinh đất, nước, vệ sinh chuồng trại, Sau đây là kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực tập tại trại của em. Bảng 4.4. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại Số lần Số lần thực Tỷ lệ STT Công việc yêu cầu hiện được (%) (lần) (lần) 1 Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 180 150 83,33 Phun sát trùng định kỳ xung 2 15 15 100 quanh chuồng trại 3 Phun sát trùng trong chuồng 150 135 90 4 Quét và rắc vôi đường đi 150 120 80 5 Xả vôi gầm chuồng 25 25 100 Dội vôi hành lang đường đi 6 16 16 100 giữa các chuồng 7 Phun thuốc diệt muỗi 6 6 100
  52. 45 Trong thời gian thực tập chúng em đã thực hiện tốt quy trình vệ sinh trong chăn nuôi như sau: + Buổi sáng trước khi vào chuồng làm việc kỹ sư, công nhân cũng như sinh viên thực tập tất cả đều phải đi qua phòng sát trùng sau đó tắm, gội đầu sạch sẽ mặc quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. Đồ dùng cá nhân, sổ sách phải để ở tủ UV trước khi mang vào chuồng. + Khi đi vào chuồng trong các chuồng hay từ trong các chuồng đi ra em phải giẫm chân vào chậu sát trùng ở mỗi đầu, cuối cửa chuồng. Chậu sát trùng được thay 2 lần/ngày. + Kiểm tra nhiệt độ của chuồng nuôi. + Khi giao nhận ca với ca trực đêm thì phải kiểm tra một lượt chuồng xem có lợn con bị chết do bệnh hay bị lợn mẹ đè lên không và phải ký giao bàn giao số lượng lợn con. + Cho lợn nái ăn, cào phân tránh lợn mẹ đè lên phân sau đó gom phân vào các bao đựng phân và quét sạch đường đi xung quanh chuồng. Nếu lợn mẹ đè lên phân thì phải tiến hành lau mông ngay. + Bắt nhốt lợn con vào lồng úm rồi lau sàn. + Xả gầm chuồng 1 lần/ngày. + Quét lối đi xung quanh chuồng sau đó rắc vôi bột. + Lau máng tập ăn cho lợn con. + Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ và được tiêu độc bằng thuốc sát trùng Ommicide 2 lần/ngày vào 10h trưa và 13h30 chiều. Thuốc sát trùng được pha với tỷ lệ 320ml/1000 lít nước. + Rửa máng ăn lợn nái: chuồng nái đẻ thì tiến hành rửa vào ngày thứ hai trong tuần. Chuồng lợn chửa ngày xịt rửa 1 lần. + Xả vôi gầm 2 lần/tuần. Đối với chuồng đẻ xả vôi gầm vào thứ 4,7. Còn đối với chuồng lợn chửa xả vôi gầm vào thứ 2 và thứ 6. + Vào thứ 5 hàng tuần tiến hành tổng vệ sinh toàn trại. Té nước vôi hành lang giữa các chuồng, dọn rác xung quanh trại, hót hố gas ở cuối các chuồng, dọn cỏ khu vực xung quanh các ô chuồng,
  53. 46 + Phun thuốc diệt ruồi muỗi 2 lần/tuần. + Đánh chuột 1 lần/tuần. 4.3.2. Kết quả tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại Mầm bệnh có ở khắp mọi nơi, mọi lúc và sẵn sàng xâm nhập vào cơ thể lợn khi có được điều kiện thích hợp để gây bệnh. Do đó, bên cạnh việc vệ sinh phòng bệnh, thì phòng bệnh bằng vắc xin luôn được trại coi trọng và đặt lên hàng đầu với mục tiêu phòng bệnh hơn chữa bệnh. Do đặc thù của trại là sản xuất lợn giống nên việc theo dõi và thực hiện lịch tiêm phòng phải chính xác nghiêm ngặt. Kết quả tiêm phòng vắc xin cho lợn nái tại trại được thể hiện ở bảng 4.5. Bảng 4.5. Kết quả tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại Số Số lợn Tên vắc Đường Liều con Tỷ lệ Phòng được Loại lợn xin đưa lượng tiêm tiêm bệnh giao tiêm thuốc (ml/con) (con) (%) (con) Tai xanh PRRS Tiêm bắp 2 10 10 100 Khô thai Parvo Tiêm bắp 2 15 15 100 Lợn hậu bị Dịch tả Coglapest Tiêm bắp 2 8 8 100 LMLM + Aftopor + Tiêm bắp 2 16 16 100 Giả dại Begonia Dịch tả Coglapest Tiêm bắp 2 25 25 100 Lợn nái LMLM Aftopor Tiêm bắp 2 40 40 100 sinh sản Giả dại Begonia Tiêm bắp 2 35 35 100 Kết quả bảng 4.5 cho thấy: trong thời gian thực tập, tất cả các công tác tiêm phòng vắc xin cho lợn nái, bản thân em đều tham gia đầy đủ và hoàn
  54. 47 thành công việc mà kỹ sư trại giao cho với tỷ lệ đạt 100%. Quá trình tiêm vắc xin được trại thực hiện theo đúng quy định. Do trại có nhiều sinh viên thực tập nên thay nhau để tiêm phòng, vì thế số lượng tiêm được sẽ bị hạn chế. Đối với lợn hậu bị trại tiến hành tiêm vắc xin tai xanh, khô thai, dịch tả, lở mồm long móng và giả dại. Đối với lợn nái trại tiêm vắc xin dịch tả, lở mồm long móng và giả dại. Như vậy, 100% lợn tại trại được tiêm phòng vắc xin theo đúng quy định của công ty CP. Qua quá trình tiêm vắc xin cho lợn tại trại em rút ra được một số kinh nghiệm cho bản thân như sau: Vắc xin phải được bảo quản trong tủ lạnh, sau khi lấy vắc xin trong tủ lạnh ra phải được bảo quản trong thùng giữ lạnh. Khi tiến hành tiêm vắc xin lợn cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ theo đúng tiêu chuẩn, đảm bảo vệ sinh và sát trùng cẩn thận. Số lượng kim tiêm phải được chuẩn bị đầy đủ 1 kim cho 1 con nái. Dụng cụ tiêm phải được đựng trong khay sạch và để trong thùng đá không để trực tiếp trong thùng đá sẽ làm kim tiêm và xilanh bị nhiễm bẩn. Tiêm vắc xin cho lợn đúng kỹ thuật để lợn đủ vắc xin miễn dịch 100% trong quá trình tiêm. 4.3.3. Kết quả chẩn đoán một số bệnh cho đàn lợn nái tại trại Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại (từ 11/2018 – 5/2019), em đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với kỹ sư của trại. Qua đó, chúng em đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Sau đây là kết quả của công tác chẩn đoán bệnh trên đàn lợn nái tại trại trong thời gian thực tập. Bảng 4.6. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn nái tại trại
  55. 48 Số nái Số nái Tỷ lệ mắc STT Tên bệnh theo dõi mắc bệnh (%) (con) (con) 1 Viêm tử cung 224 25 11,16 2 Sát nhau 224 8 3,57 3 Viêm vú 224 5 2,23 4 Viêm phổi 224 10 4,46 5 Khó đẻ 224 7 3,13 Kết quả bảng 4.6 cho thấy số lợn mắc bệnh viêm tử cung là cao nhất chiếm 11,16% trong tổng số con mắc bệnh. Theo em sở dĩ tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái nuôi tại trại cao là do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi với điều kiện của nước ta, như nuôi dưỡng, chăm sóc chưa thật tốt và thời tiết không thuận lợi. Đây chính là nguyên nhân cơ bản gây nên bệnh viêm tử cung của lợn nái tại trại. Mặt khác, do trong quá trình phối giống cho lợn nái bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Đồng thời, do quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai làm cho vi khuẩn từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập vào gây viêm. Số lợn nái mắc bệnh viêm vú là 5 con chiếm 2,23% trong tổng số con mắc bệnh, theo em thấy nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, vi khuẩn theo máu đến vú gây viêm vú, ngoài ra còn có thể do trong quá trình mài nanh ở lợn con sơ sinh chưa tốt,
  56. 49 trong quá trình lợn con bú sữa gây tổn thương đầu núm vú lợn mẹ. Số lợn nái mắc bệnh sát nhau là 8 con chiếm 3,57% tổng số con mắc bệnh, nguyên nhân gây nên bệnh này có thể là lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết. Can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau thai bị đứt và sót lại hoặc bào thai quá to, dịch thai nhiều, tử cung co bóp kém, có thể do lợn nái quá già, đẻ nhiều lứa đuối sức nên không đẩy được nhau thai ra được. Ngoài ra, cũng có thể do trong thời gian có thai lợn mẹ ít vận động, nhất là giai đoạn cuối thai kỳ, khẩu phần ăn thiếu khoáng, nhất là canxi. Như vậy, tại trại Nguyễn Thanh Lịch đàn lợn nái thường mắc một số bệnh như: viêm tử cung, sát nhau, viêm vú, viêm phổi, khó đẻ. Để hạn chế điều này theo em cần thực hiện một số biện pháp phòng bệnh sau đây: - Trước khi heo nái sinh phải sát trùng kỹ chuồng trại. Dùng biodine pha loãng với tỷ lệ 5ml/lít nước, phun thật kỹ vào nền, vách chuồng để tiêu diệt vi trùng. - Tắm cho heo nái thật kỹ trước khi cho vào chuồng sinh. - Nái phải được giảm khẩu phần (khoảng 50%) trước ngày đẻ và nhịn ăn vào ngày đẻ để phòng viêm vú. Thức ăn phải đầy đủ dinh dưỡng, phẩm chất tốt (tránh hiện tượng thiếu canxi). - Kiểm tra và thu nhặt hết số nhau thai, không để cho heo mẹ ăn vì sẽ sinh ra chứng sốt sữa. - Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ trước và sau khi đẻ. - Tay người đỡ đẻ và dụng cụ đỡ đẻ phải được sát trùng thật kỹ. - Sau khi đẻ phải thụt rửa tử cung khoảng 5 - 6 lần, trong vòng 3 ngày. - Thức ăn phải đầy đủ chất dinh dưỡng.
  57. 51 4.3.4. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Nguyễn Thanh Lịch, Ba Vì - Hà Nội. Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái tại trại Số nái Số nái Thời Số nái loại khỏi Tỷ lệ Liệu lượng Đường gian TT Tên bệnh điều trị Tên thuốc thải bệnh (%) (ml) tiêm điều (con) (con) (con) trị Viêm Amoxinject 1ml/10 - Tiêm 3 - 5 1 25 23 92,00 2 tử cung LA 15kg TT bắp ngày Hitamox 1ml/10 - Tiêm 3 – 5 2 Sát nhau 8 6 75,00 2 LA 15kgTT bắp ngày Vetrimoxin 1ml/10 – 15 Tiêm 3 - 5 3 Viêm vú 5 5 100 0 LA kgTT bắp ngày 1ml/10 - Tiêm 3 - 5 4 Viêm phổi 10 9 90,00 Tylosin 1 15kgTT bắp ngày Tiêm 1ml/10 – Amoxinject bắp + Trong 5 Khó đẻ 7 7 100 15kg TT + 0 + Oxytocin Mép ngày 2ml/con hoa lợn Qua bảng 4.7 ta thấy: Bệnh viêm tử cung: Em đã điều trị 25 lợn nái bị bệnh viêm tử cung trong quá trình thực tập, điều trị khỏi 23 nái, đạt 92%. Để đạt được kết quả cao trong điều trị em có dùng thêm thuốc bổ trợ như: - Oxytocin với liều 3ml/con tiêm vào mép âm môn với mục đích, kích thích tử cung co bóp đẩy các chất dịch bẩn dư thừa trong tử cung ra bên ngoài.
  58. 52 - Thụt rửa tử cung bằng Gynapax ta pha 6 gói cho 5 lít nước cất. Mỗi con thụt rửa từ 2 - 3 lít để sát khuẩn, tạo lại môi trường tốt cho tử cung. - Các loại thuốc trợ sức, trợ lực tiêm bắp: Vitamin C (5ml/con/ngày), vitamin B1 (5ml/con/ngày). Bệnh viêm phổi: em điều trị 10 lợn nái bằng Tylosin có kết hợp thêm thuốc hạ sốt và kháng viêm là Analgine + C (1ml/10 - 15kg thể trọng) thì 9 lợn nái viêm phổi đã khỏi, đạt 90%. Qua quá trình điều trị em nhận thấy sử dụng thuốc Tylosin để điều trị tương đối hiệu quả. Bệnh sát nhau: Trong thời gian thực tập, em đã điều trị cho 8 lợn nái bị bệnh, điều trị khỏi 6 con, hiệu quả điều trị đạt 75%. Trước khi điều trị bằng kháng sinh, em dùng tay được sát trùng và bôi trơn đưa tay vào tử cung lợn nái để kiểm tra độ sát nhau nhiều hay ít, để có thể kết hợp dùng thêm thuốc hỗ trợ như Oxytocin (3ml/con) giúp kích thích tử cung co bóp đẩy hết nhau thai còn sót ra bên ngoài, cũng có thể dùng tay kiểm tra và bóc nhẹ nhàng màng nhau sót ra rồi thụt rửa tử cung bằng dung dịch Gynapax (2 – 3lít/con). Như vậy thuốc điều trị sát nhau được dùng nhiều tại trại là Hitamox, hiệu quả điều trị khá cao. Bệnh viêm vú: em đã trực tiếp điều trị cho 5 con và cả 5 con đều khỏi, đạt tỷ lệ 100%. Thuốc được sử dụng để điều trị là Vetrimoxin LA, cho thấy, hiệu quả điều trị đạt hiệu quả rất cao. Ngoài ra, em có hộ lý trong qua trình điều trị là chườm vú bằng cách dùng khăn sạch ngâm trong nước nóng rồi chườm lên bầu vú giúp cho không bị tắc tia sữa, thường xuyên xoa bóp bầu vú từ 5 - 10 phút trước khi vắt sữa để sữa được lưu thông. Bệnh khó đẻ: em đã trực tiếp điều trị cho 7 con và 7 con đều khỏi, đạt tỷ
  59. 53 lệ 100%. Thuốc em sử dụng để điều trị kháng viêm là Amoxinject (1ml/10 – 15kg thể trọng), ngoài ra em còn sử dụng Oxytocin (2ml/con) giúp kích thích tử cung co bóp đẩy lợn con ra, ngoài ra em còn can thiệp bằng tay đã sát trùng và bôi trơn đưa tay vào tử cung để lấy thai ra ngoài. Như vậy điều trị khó đẻ với hai loại thuốc Amoxinject và Oxytocin có hiệu quả điều trị cao. 4.4. Kết quả thực hiện một số công tác khác Ngoài việc chăm sóc nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho đàn lợn nái, em còn tham gia vào một số công việc như: đỡ đẻ, mài nanh, cắt đuôi, bấm tai, điều trị bệnh cho lợn con, tiêm sắt cho lợn con, thiến lợn con. Ngoài ra em còn tham gia công tác vệ sinh bên ngoài chuồng nuôi. Kết quả thực hiện một số công tác khác được trình bày ở bảng 4.8. Bảng 4.8. Kết quả thực hiện một số công tác khác Số lượng Kết quả Tỷ lệ STT Công tác khác (con) (con) (%) 1 Đỡ đẻ 25 25 100 2 Mài nanh, cắt đuôi, bấm số tai 180 180 100 3 Điều trị tiêu chảy lợn con 392 392 100 4 Điều trị viêm phổi lợn con 16 16 100 5 Điều trị viêm khớp lợn con 5 5 100 6 Điều trị viêm rốn cho lợn con 325 325 100 6 Tiêm sắt cho lợn con 180 180 100 7 Thiến lợn con 65 65 100 8 Đuổi lợn cai sữa về chuồng lợn chửa 1lần/tháng 1 lần/tháng
  60. 54 Kết quả bảng 4.8 cho thấy, em đã thực hiện 25 ca đỡ đẻ đạt tỷ lệ 100%. Mài nanh, cắt đuôi, bấm số tai em thực hiện 180 con đạt được kết quả 100%. Điều trị 392 lợn con bị tiêu chảy, tỷ lệ khỏi 100%. Điều trị viêm phổi lợn con số lượng 16, em điều trị khỏi 100%. Viêm khớp ở lợn con gồm 5 con điều trị khỏi 100%. Điều trị viêm rốn cho lợn con em điều trị 325 tất cả đều khỏi 100%. Tiêm sắt em tiêm 180 con, tất cả đều được tiêm 100%. Thiến lợn em thiến 65 con đạt tỷ lệ 100%. Trong quá trình thực tập 6 tháng tại trại em đã được học hỏi rất nhiều các kỹ thuật trong quy trình chăm sóc, quản lý lợn nái sinh sản. Em đã được học hỏi và thành thạo một số thao tác như đỡ đẻ, mài nanh, cắt đuôi, bấm số tai, thiến lợn. Hiểu rõ một số bệnh thường gặp trên lợn con, thời kỳ mắc bệnh và phác đồ điều trị cho đàn lợn con.
  61. 55 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trại lợn Nguyễn Thanh Lịch, em có một số kết luận sơ bộ về trại như sau: - Về hiệu quả chăn nuôi của trại: + Hiệu quả chăn nuôi của trại khá tốt. + Lợn con luôn được xuất bán thường xuyên hàng tuần, bình quân 600 con/tuần. + Tỷ lệ lợn sơ sinh sống trung bình (11,95 con/lứa) và lợn con cai sữa (11,25 con/lứa) của trại cũng đã tăng lên cao hơn so với thời gian đầu. - Về công tác thú y của trại: + Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại sản xuất lợn giống luôn thực hiện nghiêm ngặt, với sự giám sát chặt chẽ của kỹ thuật viên công ty chăn nuôi CP Việt Nam. + Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. + Việc thực hiện quy trình nuôi dưỡng chăm sóc lợn nái sinh sản được tiến hành nghiêm ngặt theo quy định với vệ sinh chuồng trại hàng ngày là 120 lần, phun thuốc sát trùng định kỳ xung quanh chuồng trại là 15 lần, phun thuốc sát trùng trong chuồng là 135 lần, quét và rắc vôi đường đi là 120 lần, xả vôi gầm chuồng là 25 lần, té nước vôi hành lang đi giữa các chuồng là 16 lần, phun thuốc diệt muỗi 6 lần. + Đàn nái sinh sản tại trại thường mắc một số bệnh: viêm tử cung tỷ lệ mắc 11,16%; viêm vú 2,23%; sát nhau 3,57%; viêm phổi 4,46%. Tỷ lệ khỏi của từng bệnh lần lượt là: viêm tử cung 92%; viêm vú 100%; sát nhau 75%; viêm phổi 90%. Lợn con theo mẹ thường mắc một số bệnh như tiêu chảy, viêm rốn, viêm khớp và viêm phồi.
  62. 56 5.2. Đề nghị Trong thời gian thực tập tại trại lợn Nguyễn Thanh Lịch em thấy có một số tồn tại cần phải khắc phục, vì vậy em có một số ý kiến đề xuất như sau: - Trại lợn cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái để giảm tỷ lệ lợn nái mắc các bệnh về sinh sản nói riêng và bệnh tật nói chung. - Thực hiện tốt công tác vệ sinh trước, trong và sau khi đẻ, có thao tác đỡ đẻ khoa học để giảm bớt tỷ lệ mắc các bệnh về đường sinh sản ở lợn nái. - Cán bộ kĩ thuật viên trong trại cần hướng dẫn chu đáo hơn cho công nhân cách phát hiện lợn ốm kịp thời. - Tiếp tục áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. - Công tác tiêm phòng và vệ sinh phòng bệnh cần thực hiện tốt hơn nữa. - Trong quá trình điều trị các bệnh trên đàn lợn nái cần chú trọng thêm về các công tác biện pháp hỗ trợ, trợ sức, phục hồi sức khỏe cho đàn lợn nái trước, trong và sau khi điều trị để đạt kết quả cao.
  63. 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Bilken (1994), Quản lý lợn nái và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Trần Minh Châu (1996), Một trăm câu hỏi về bệnh trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Dwane R.Zimmernan Edepurkhiser (1992), Quản lý lợn nái, lợn hậu bị để có hiệu quả, Nxb Bản đồ. 5. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp TpHCM. 6. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ. 10. Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huê Viên, Phan Văn Kiểm (2003), Giáo trình Truyền giống nhân tạo vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Đình Phùng, Phạm Hồng Sơn (2012), Giáo trình bệnh truyền nhiễm thú y, Nxb đại học Nông nghiệp, Hà Nội. 12. Võ Trọng Hốt, Trần Đình Miên, Võ Văn Sư, Vũ Đình Tôn (2000), Giáo
  64. 58 trình Chăn nuôi Lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 14. Lê Minh, Nguyễn Văn Quang, Phan Thị Hồng Phúc, Đỗ Quốc Tuấn, La Văn Công (2017), Giáo trình thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Lê Văn Năm (1999), Cẩm nang bác sĩ thú y hướng dẫn phòng và trị bệnh lợn cao sản, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Nguyễn Thị Ngân, Phan Thị Hồng Phúc, Nguyễn Quang Tính (2016), Giáo trình chẩn đoán bệnh gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 17. John Nichl (1992), Quản lý lợn nái và hậu bị để sinh sản có hiệu quả, Hà Nội. 18. Trương Lăng (2000), Hướng dẫn điều trị các bệnh lợn, Nxb Đà Nẵng. 19. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp. 20. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình Kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 22. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 23. Nguyễn Ngọc Phụng (2004), Công tác vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn, Nxb lao động xã hội, Hà Nội. 24. Pierre brouillt, Bernarrd farouilt (2003), Điều trị viêm vú lâm sàng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 25. Popkov (1999), “Điều trị viêm tử cung”, Tạp chí Khoa học Thú y, tập XII (số 5), tr. 9 - 15. 26. Lê Văn Tạo, Khương Bích Ngọc, Nguyễn Thị Vui, Đoàn Băng Tâm (1993), “Nghiên cứu chế tạo vắc xin E. coli uống phòng bệnh phân trắng
  65. 59 lợn con”, Tạp chí Nông nghiệp Thực phẩm, số 9. 27. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 28. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), ”Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập 17. 29. Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993), Thụ tinh nhân tạo cho lợn ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 30. Trần Thị Thuận, Vũ Đình Tôn (2005), Giáo trình Chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 31. Trekaxova A.V., Đaninko L.M., Ponomareva M.I., Gladon N.P. (1983), Bệnh của lợn đực và lợn nái sinh sản, (Nguyễn Đình Chí dịch), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tài liệu tiếng nước ngoài 32. Smith, B.B. Martineau, G., Bisaillon, A. (1995), “Mammary gland and lactaion problems”, In disease of swine, 7th edition, Iowa state university press, pp. 40- 57. 33. Gardner J.A.A., Dunkin A.C., Lloyd L.C. (1990), “Metritis - Mastitis - Agalactia”, Pig production in Australia. Butterworths, Sydney. 34. Taylor D.J. (1995), Pig diseases 6th edition, Glasgow university. 35. Urban, V.P., Schnur, V.I., Grechukhin, A.N. (1983), “The metritis, mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik selskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69 - 77.
  66. PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ Ảnh 1: Đỡ đẻ cho lợn nái Ảnh 2: Vệ sinh mông lợn Ảnh 3: Cào phân, hót phân Ảnh 4: Rắc vôi
  67. Ảnh 5: Quét đường đi Ảnh 6: Xịt gầm chuồng Ảnh 7: Thuốc Norflox 100 điều trị Ảnh 8: Viêm tử cung ở lợn nái viêm tử cung, viêm vú
  68. Ảnh 9: Lợn con bị tiêu chảy Ảnh 10: Cho lợn uống thuốc phân trắng chống co thắt ruột Ảnh 11: Thuốc phòng bệnh Ảnh 12: Thuốc Norfloxacin cầu trùng
  69. Ảnh 13: Tiêm vắc xin cho lợn Ảnh 14:Vắc xin Mycoplasma và Circo Ảnh 15: Thuốc tiêm sắt cho lợn con Ảnh 16: Thiến lợn đực