Khóa luận Nghiên cứu sinh trưởng một số loài cây bản địa tại mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

pdf 71 trang thiennha21 19/04/2022 3130
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu sinh trưởng một số loài cây bản địa tại mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_sinh_truong_mot_so_loai_cay_ban_dia_tai.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu sinh trưởng một số loài cây bản địa tại mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THÚY QUỲNH NGHIÊN CỨU SINH TRƯỞNG MỘT SỐ LOÀI CÂY BẢN ĐỊA TẠI MÔ HÌNH KHOA LÂM NGHIỆP TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Quản lý tài nguyên rừng Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2015 - 2019 Thái Nguyên, năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THÚY QUỲNH NGHIÊN CỨU SINH TRƯỞNG MỘT SỐ LOÀI CÂY BẢN ĐỊA TẠI MÔ HÌNH KHOA LÂM NGHIỆP TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Quản lý tài nguyên rừng Lớp : K47 - QLTNR Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2015 – 2019 Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Trần Quốc Hưng Thái Nguyên, năm 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Quốc Hưng Các số liệu kết quả nghiên cứu trong khóa luận của tôi hoàn toàn trung thực và chưa hề công bố hoặc sử dụng để bảo vệ học vị nào. Nội dung khóa luận có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí, đã được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thái Nguyên, tháng năm 2019 Giáo viên hướng dẫn Sinh viên PGS.TS Trần Quốc Hưng Hoàng Thúy Quỳnh XÁC NHẬN CỦA GV CHẤM PHẢN BIỆN Xác nhận sinh viên đã sửa theo yêu cầu của hội đồng chấm Khóa luận tốt nghiệp (Ký, họ và tên)
  4. ii LỜI CẢM ƠN Thực hiện tốt nghiệp là một giai đoạn cần thiết và hết sức quan trọng của mỗi sinh viên, đó là thời gian để sinh viên tiếp cận với thực tế, nhằm củng cố và vận dụng kiến thức mà mình đã học được trong nhà trường. Được sự nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường, giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Lâm nghiệp – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, em tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu sinh trưởng một số loài cây bản địa tại mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”. Sau một thời gian nghiên cứu và thực tập tốt nghiệp, bản báo cáo thực tập tốt nghiệp của em đã hoàn thành. Vậy em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã giảng dạy và hướng dẫn chúng em. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS Trần Quốc Hưng đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài. Em xin cảm ơn nhà trường và khoa Lâm nghiệp đã tạo điều kiện giúp em trong quá trình thực tập để hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này. Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn động viên giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Hoàng Thúy Quỳnh
  5. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1: Tỷ lệ sống của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa 29 Bảng 4.2: Sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa 32 Bảng 4.3: Sinh trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình 38 Bảng 4.4: Tình hình sâu bệnh của 5 loài cây bản địa 44
  6. iv DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1: Cây Nghiến 18 Hình 2.2: Cây Ngọc am 19 Hình 2.3: Lim xanh 21 Hình 2.4: Cây Thông tre 22 Hình 2.5: Cây Giổi xanh 23 Hình 4.1: Đo đường kính gốc cây 31 Hình 4.2: Kết quả đường kính D(00) của 5 loài cây bản địa 33 Hình 4.3: Đo chiều cao Hvn 37 Hình 4.4: Kết quả sinh trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa 39 Hình 4.5: Sâu ăn lá trên Thông tre 43 Hình 4.6: Sâu ăn lá trên Nghiến 43
  7. v DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT D00 Đường kính gốc Hvn Chiều cao vút ngọn S Sai tiêu chuẩn S% Hệ số biến động TB Trung bình LB Nghiến Cu Ngọc am LE Lim xanh Pn Thông tre Mi Giổi xanh
  8. vi MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC HÌNH iv DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT v MỤC LỤC vi PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3 1.3. Ý nghĩa của đề tài 3 1.3.1. Ý nghĩa trong học tập 3 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất 3 PHẦN 2. TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU 4 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 4 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 5 2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 5 2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 8 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 16 2.3.1. Đất đai 17 2.3.2. Đặc điểm khí hậu, thời tiết 17 2.4. Khái quát chung về đặc điểm sinh thái của các loài cây nghiên cứu: 18 2.4.1. Nghiến (Burretiodendron hsienmu) 18 2.4.2. Ngọc am (Cupressus funebris) 19 2.4.3. Lim xanh (Erythrophleum fordii) 20 2.4.4. Thông tre (Podocarpus neriifolius) 22
  9. vii 2.4.5. Giổi xanh (Michelia meduocris dandy) 23 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24 3.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 24 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 24 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 24 3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 24 3.3. Nội dung nghiên cứu 24 3.4. Phương pháp nghiên cứu 25 3.4.1. Phương pháp chăm sóc 25 3.4.2. Nghiên cứu sinh trưởng 25 3.4.3. Xử lý số liệu 26 PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29 4.1. Đánh giá tình hình sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng trong mô hình vườn cây bản địa tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 29 4.1.1. Kết quả tỷ lệ sống của 5 loài cây nghiên cứu 29 4.1.2. Kết quả sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa 31 4.1.3. Kết quả đặc điểm sinh trưởng chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa 37 4.2. Đánh giá tình hình sâu bệnh hại 43 4.3. Hoàn thiện các bước trong xây dựng mô hình vườn cây bản địa tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 45 4.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm mục đích phát triển mô hình vườn cây bản địa 48 4.4.1. Về kỹ thuật 48 4.4.2. Về nguồn lực 49
  10. viii PHẦN 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 50 5.1. Kết luận 50 5.2. Tồn tại 51 5.3. Kiến nghị 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO 52 PHỤ LỤC
  11. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá đối với nước ta. Ngoài việc đem lại giá trị về gỗ và lâm sản ngoài gỗ, rừng còn là yếu tố địa lý không thể thiếu trong tự nhiên giúp điều hòa khí hậu bảo vệ đất đai chống sói mòn. Chính vì vậy rừng không chỉ có chức năng kinh tế - xã hội, mà rừng còn mang giá trị sinh thái cảnh quan, bảo vệ môi trường, du lịch, bảo tồn, Mặc dù thời gian đã có những nỗ lực không ngừng của các cấp các ngành trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng nhưng nhìn chung kết quả đạt được chưa toàn diện, thiếu vững chắc .Tình trạng phá rừng khai thác và sử dụng đất lâm nghiệp trái phép vẫn diễn ra ở nhiều nơi ,đặc biệt ở các địa phương còn nhiều rừng tự nhiên .Nhiều băng nhóm phá rừng chuyên nghiệp ,đường dây buôn bán lâm sản chưa dược theo dõi ,phát hiện và bắt giữ kịp thời.Nhiều điểm nóng về phá rừng nghiêm trọng kéo dài chưa được giả quyết triệt để. Theo Tổng cục Lâm Nghiệp (Bộ NN&PTNT) chỉ hơn 5 năm (2012- 2017), diện tích rừng tự nhiên bị mất do chuyển mục đích sử dụng rừng tại các dự án được duyệt chiếm 89% tổng diện tích rừng giảm; còn lại là do phá rừng trái pháp luật làm mất 11%. Vấn đề bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Nhà nước đã có nhiều chương trình xúc tiến đẩy mạnh quá trình trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc và trồng rừng kinh tế với hiệu quả ban đầu tương đối khả quan. Nhưng do chạy theo xu thế phát triển kinh tế, vốn đầu tư còn hạn chế nên các chương trình trồng rừng ở nước ta mới chỉ tập trung vào các loài cây mọc nhanh như: Keo, Bạch đàn, Bồ đề,.v.v những loài cây này mới chỉ đáp ứng được mục tiêu kinh tế là chính, tính bền vững chưa cao.
  12. 2 Trong chiến lược phát triển Lâm nghiệp, nghành Lâm nghiệp đã chú trọng đến việc bảo tồn và phát triển các loài cây bản địa đang ngày càng bị thu hẹp lại về cả diện tích cũng như số loài do những hiểu biết về chúng ngày càng nhiều. những lợi ích to lớn mà các loài cây bản địa mang lại, không chỉ đơn thuần là cung cấp lâm đặc sản mà chúng còn là những loài cây "của tự nhiên", có sự phát sinh và tiến hoá trong thời gian dài nên có khả năng thích nghi cao với điều kiện nơi mọc và có tính bền vững cao, "thân thiện với môi trường sinh thái". Ngoài ra, chúng mang những ý nghĩa nhân văn to lớn trong đời sống của các cộng đồng dân cư sống gần rừng, gắn liền với kiến thức bản địa và phong tục tập quán của họ, do vậy việc đem gây trồng chúng cũng sẽ có nhiều phần lợi hơn. Khoa Lâm Nghiệp Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên đã tiến hành gây trồng mô hình trồng một số loài cây bản địa , Theo đánh giá ban đầu, các mô hình này đã đạt được những thành công nhất định. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu định lượng cụ thể nào nhằm đánh giá tình hình sinh trưởng của các loài cây bản địa này mà mới chỉ có điều tra sơ bộ để đánh giá và chọn ra một số loài có triển vọng tại khu rừng trồng. Trước những thực trạng trên, để bảo vệ hợp lý tài nguyên rừng nói chung và một số loài cây bản địa nói riêng, để nâng cao hiệu quả bảo tồn một số loài cây bản địa tại mô hình trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên, việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu sinh trưởng một số loài cây bản địa tại mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên” là thực sự cần thiết để đưa ra những đánh giá, giải pháp phù hợp trong việc phát triển, bảo vệ các loài cây bản địa hiệu quả.
  13. 3 1.2. Mục tiêu nghiên cứu - Đánh giá được tình hình sinh trưởng của 5 loài cây bản địa (Nghiến, Giổi, Thông tre, Ngọc am, Lim xanh) trồng trong mô hình vườn cây bản địa tại Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. - Đánh giá được tình hình sâu bệnh hại tới 5 loài cây bản địa trong mô hình nghiên cứu. - Nghiên cứu xây dựng và tạo ra mô hình rừng cây bản địa, nhằm mục đích tạo cảnh quan sinh thái và vườn thực vật cây bản địa, tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đề xuất được một số biện pháp kỹ thuật trồng các loài cây bản địa trong việc nhân rộng địa bàn trồng của vườn thực vật đến nhiều nơi khác nữa. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa trong học tập - Giúp củng cố lại kiến thức đã học, có thêm cơ hội kiểm chứng những lý thuyết đã học trong nhà trường đúng theo phương châm học đi đôi với hành. - Tích lũy thêm được nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tế trong việc nghiên cứu xây dựng và tạo ra mô hình rừng cây bản địa. Đây là những kiến thức rất cần cho quá trình nghiên cứu, học tập và làm việc sau này. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất Kết quả nghiên cứu góp phần lựa chọn được một vài loài cây như: Nghiến, Giổi, Thông tre, Ngọc am, Lim xanh tốt nhất để đưa vào mô hình tạo cảnh quan sinh thái và vườn thực vật cây bản địa cho trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
  14. 4 PHẦN 2 TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu - Đánh giá sinh trưởng cây rừng nói chung và đánh giá sinh trưởng các loài cây bản địa nói riêng là nội dung rất quan trọng, cần thiết trong việc gây trồng ở địa điểm mới, nhằm đưa ra được kết quả chúng có phù hợp với khu vực để đưa các loài cây này vào công tác xây dựng vườn thực vật và đồng thời mở rộng diện tích và cả quy mô. - Vườn thực vật chuyển vị nơi chứa đựng rất nhiều loài cây quý hiếm và có tên trong các danh lục đỏ hay nghị định đang đứng trên bờ vực nguy hiểm, với mục đích bảo tồn về nguồn gen và xây dựng nơi nghiên cứu khoa học cho mọi người thì việc xây dựng vườn thực vật rất cần thiết với thực trạng hiện nay. - Khái niệm về biển pháp chuyển vị: Là một trong những biện pháp quan trọng và có hiệu quả trong bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học. Biện pháp bảo tồn ngoại vi là chuyển dời và bảo tồn các loài hoặc các nguyên liệu sinh học của chúng trong môi trường mới không phải là nơi cư trú tự nhiên vốn có của chúng. Bảo tồn ngoại vi bao gồm bảo quản giống, loài, nuôi cấy mô, thu thập các cây để trồng và các loài động vật để nuôi nhằm duy trì vốn gen quý hiếm cho sự nghiên cứu khoa học, nâng cao dân trí và giáo dục lòng yêu thiên nhiên cho mọi tầng lớp nhân dân. - Trên cơ sở đang xây dựng 1 vườn thực vật trong mô hình khoa Lâm nghiệp giống như hình thành 1 tế bào nhỏ và sẽ nuôi tế bào ấy lớn mạnh theo thời gian để các loài cây bản địa luôn được giữ và bảo tồn. Đó cũng là 1 trong những mục tiêu để phát triển rừng một cách bền vững.
  15. 5 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước Do trồng rừng thuần loài đã bộc lộ nhiều nhược điểm nên nhiều nhà khoa học trên thế giới đã quan tâm nghiên cứu nhằm tạo lập các lâm phần rừng trồng hỗn loài bằng nhiều loài cây khác nhau trong đó đa số là sử dụng cây bản địa. Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu thử nghiệm và trồng rừng hỗn loài thành công bằng loài cây này. Sau đây là một số công trình nghiên cứu điển hình: 2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới *Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa: Đứng trước những yếu tố đó nên con người đã xây dựng nên các vườn thực vật nhằm giải quyết vấn đề về sự suy giảm số lượng lớn các loài thực vật nói chung và các loài thực vật quý hiếm nói riêng, bên cạnh đó kết hợp tham quan giải trí và lồng ghép giáo dục về thiên nhiên thay đổi nhận thức và là cơ sở cho con người học tập, nghiên cứu. Tại Malaysia, năm 1999 trong dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã giới thiệu cách thiết lập mô hình rừng hỗn loài trên 3 đối tượng: Rừng tự nhiên, rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) 10 – 15 tuổi và 2 – 3 tuổi. Dự án đã sử dụng 23 loài cây bản địa có giá trị, trồng theo băng 30m trong rừng tự nhiên, trên mỗi băng người ta có thể trồng 6 hàng cây bản địa và trồng 14 loài cây bản địa dưới tán rừng Keo tai tượng. Thí nghiệm đối với rừng Keo tai tượng dự án chia thành 2 khu: Khu chặt theo băng: Mở băng 10m trồng 3 hàng cây bản địa; Mở băng 20m trồng 7 hàng cây bản địa; Mở băng 40m trồng 15 hàng cây bản địa; Khu chặt theo hàng: Chặt 1 hàng Keo trồng 1 hàng cây bản địa; Chặt 2 hàng Keo trồng 2 hàng cây bản địa;
  16. 6 Chặt 4 hàng Keo trồng 4 hàng cây bản địa; Kết quả cho thấy, trong các loài cây bản địa được trồng trong các băng có 3 loài cây gồm: Shorea roxburrghii; S.ovalis; S.leprosula có khả năng sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất. Tỷ lệ sống giữa các công thức khôngkhác biệt, sinh trưởng chiều cao cây trồng trong băng 10m và băng 40m tốt hơn băng 20m. Kết quả thí nghiệm trồng theo hàng đã chỉ ra rằng trồng 1 hàng cho tỷ lệ sống, khả năng sinh trưởng chiều cao cao hơn nơi trồng từ 2 – 4 hàng. Về khả năng sinh trưởng đường kính lại tốt ở công thức trồng 6 hàng và 16hàng. Dự án cònvạch ra kế hoạch điều chỉnh các công thức trồng tại những thời điểm 2, 8, 12, 18, 28, 34, 41, 47 năm sau khi trồng (dẫn theo Lê Minh Cường, 2007) [5]. Tại Đan Mạch, thông qua nghiên cứu sinh trưởng của Jensen (1983) cho thấy rằng Vân sam (Abies) trồng hỗn giao với Linh sam bạc (Abies alba) có sản lượng cao hơn chính nó trồng thuần loài. Tương tự, Bulô hỗn giao với Thông tốt hơn Bulô thuần loài. Hỗn giao giữa Betula pendula với Abies theo tỷ lệ 25-50% đã làm tăng sản lượng của Abies ở tất cả các tuổi (dẫn theo Nguyễn Đức Thế, 2007) [16]. Tại Costa Rica, ba kiểu rừng trồng, mỗi kiểu rừng trồng là hỗn giao của 4 loài cây bản địa chịu bóng khác nhau trong vùng đất thấp ẩm ướt cho thấy từ 2 - 4 6 năm tuổi, đường kính ngang ngực trong các quần thụ hỗn giao lớn hơn trong các quần thụ thuần loài của những loài mọc nhanh (dẫn theo Nguyễn Đức Thế, 2007) [16]. Một nghiên cứu khác tại Costa Rica, Haggar.J và J.Ewel (1995) đã trồng hai loài cây Hyeronima alchorneoides và Cordia alliodora ở vùng đất thấp theo hai phương thức khác nhau là thuần loài và hỗn loài. Các tác giả đã nhận định rằng cả hai loài trồng hỗn giao với nhau đều sinh trưởng tốt hơn trồng thuần loài. Hơn nữa, hai loài cây này trồng phối hợp với nhau khá thích
  17. 7 hợp. Bởi vì, sự phân bố của hệ thống rễ cũng như tán lá ở các vị trí khác nhau trong không gian tạo nên sự phối hợp hỗ trợ lẫn nhau nhiều hơn là cạnh tranh không gian dinh dưỡng. Cũng hai tác giả này, khi nghiên cứu về khả năng sinh trưởng của loài Cordia alliodora trong rừng hỗn loài ở Costa Rica thì thấy loài này sinh trưởng nhanh hơn so với các quần thụ thuần loài (7,9m trong hỗn giao và 4,9m trong thuần loài ở giai đoạn 2 năm tuổi) (dẫn theo Nguyễn Đức Thế, 2007) [16]. Không chỉ có vậy, khi nghiên cứu trồng rừng hỗn loài cũng cần lưu ý đến cấu trúc tầng thứ. Vì thế, nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng cũng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Trong lĩnh vực này điển hình là tác giả Bennar Dupuy (1995), tác giả cho thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng hỗn loài phụ thuộc vào đặc tính sinh học và tính hợp quần của các loài cây trong trong lâm phần (Dẫn theo Hoàng Văn Thắng, 2007) [14]. Điều này cho thấy, để tạo được các mô hình rừng trồng hỗn loài có cấu trúc hợp lý, tận dụng được tối đa không gian dinh dưỡng thì cần phải dựa vào khả năng sinh trưởng cũng như phải quan tâm đến mối quan hệ qua lại giữa các loài cây để lựa chọn các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là cơ sở quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của các mô hình rừng trồng hỗn loài *Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây lá kim với cây bản địa lá rộng Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cây lá kim phục vụ cho công tác trồng rừng như ở Anh, Pháp, Úc, Canada, Đan Mạch . Đa số các công trình tập trung chủ yếu là nghiên cứu các quy luật phân bố, quy lụât tăng trưởng, cấu trúc, đặc tính cơ lý gỗ, một số tính chất lý hoá học đất, tính chất hoá học của nhựa Về trồng rừng hỗn loài giữa cây lá kim và cây lá rộng bản địa đã có một số nước nghiên cứu về vấn đề này song chưa nhiều.
  18. 8 Nghiên cứu trồng cây lá kim hỗn giao với cây bản địa điển hình là ở Đài Loan và một số nước Châu Á. Sau khi trồng phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng cây lá kim đã tiến hành gây trồng cây bản địa dưới tán. Kết quả cho thấy đã tạo ra những mô hình rừng hỗn giao bền vững, đạt năng suất cao, có tác dụng tốt trong việc bảo vệ chống xói mòn đất. Tóm lại, các kết quả nghiên cứu về cây bản địa và trồng rừng hỗn loài trên thế giới tuy chưa nhiều, song với những thông tin thu thập được về cách lợi dụng độ tàn che tầng cây cao, cách sử dụng cây phù trợ và các phương thức bố trí loài cây trong các mô hình thí nghiệm và với những thông tin về tiểu hoàn cảnh rừng là những tài liệu tham khảo và bài học kinh nghiệm có giá trị. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước * Nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa: Rất nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu thử nghiệm các phương pháp trồng cây và chăm sóc khác nhau nhằm mang lại hiệu quả tốt trong trồng rừng nhất. Việt Nam là 1 quốc gia được đánh giá rất cao về tính đa dạng loài cả trong khu vực cũng như trên Thế Giới. Nhất là hệ thực vật với khí hậu nhiệt đới mưa ẩm đã tạo giúp cho Việt Nam có những khu rừng rộng lớn với nhiều loài, nhưng do nhu cầu đáp ứng cuộc sống của chính chúng ta mà dẫn đến suy thoái sự đa dạng này. Chính vì vậy, Nhà nước đã có nhiều chương trình dự án hỗ trợ để xây dựng các vườn hỗn loài, khu bảo tồn nhằm bảo vệ được tính đa dạng nguồn gen của những loài cây bản địa vừa phục vụ mục đích học tập và nghiên cứu khoa học. Trong giai đoạn 1930-1980 có rất ít các công trình nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài và nghiên cứu chọn loài cây trồng cũng chỉ tập trung cho một số loài cây thuộc họ Dầu. Từ năm 1985 đến nay, việc nghiên cứu trồng rừng
  19. 9 hỗn loài bằng các loài cây bản địa được triển khai nhiều hơn kể cả số lượng loài cây và diện tích rừng trồng. Trong giai đoạn này nhiều loài cây lá rộng bản địa đã được lựa chọn để nghiên cứu cho các vùng sinh thái trong cả nước. Các loài cây lá rộng bản địa được lựa chọn để nghiên cứu trồng rừng hỗn loài chủ yếu là các loài có giá trị kinh tế cao. Một số loài cây bản địa được lựa chọn cho vùng Tây nguyên và Nam bộ như: Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Cẩm lai (Dalbergia oliveri), Căm xe (Xylia xylocarpa), Tếch (Tectona grandis) và được trồng chủ yếu tại các trạm thực nghiệm Trảng Bom tỉnh Đồng Nai, Lang Lanh và Măng Linh tỉnh Lâm Đồng, Ekmat tỉnh Đắc Lắc, Tân Tạo Thành Phố Hồ Chí Minh. Ở miền Bắc, các loài cây chủ yếu được lựa chọn để trồng rừng hỗn loài là Lim xanh (Erythurophleum fordii), Lim xẹt (Peltophorum tonkinnensis), Giổi xanh (Mechelia mediocris), Re gừng (Cinamomum ilcidioides), Mỡ (Manglietia conifera), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Lát hoa (Chukrasia tabularis), Ràng ràng mít (Ormosia balansae), Xoan đào (Prunus arborea), Vạng trứng (Endospermum chinense) Trần Ngũ Phương (2000) [12], cũng đã nghiên cứu xây dựng các mô hình trồng rừng hỗn loài tạo ra rừng nhiều tầng tán nhằm mục đích cho phòng hộ và sản xuất thông qua các phương thức hỗn loài khác nhau nhờ hỗn loài giữa cây cao với cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ kết quả của các công trình nghiên cứu các quy luật chủ yếu ở rừng tự nhiên ở miền Bắc Việt Nam, tác giả đã chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nước ta đều phân thành nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chưa kể tầng cây nhỡ và thảm tươi. Dựa trên quy luật đó tác giả đã đề xuất mô hình trồng rừng hỗn loài đáp ứng mục tiêu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó có 2 mô hình hỗn loài nổi bật là mô hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và rừng sản xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.
  20. 10 Năm 1962, các nhà lâm học Học viện Nông lâm đã tiến hành thí nghiệm trồng rừng hỗn loài, lấy cây Mỡ (Manglietia glauca) làm đối tượng chính của rừng hỗn loài và dùng các loài cây bạn theo từng cặp: Mỡ (Manglietia glauca) + Lim Xanh (Erythrophloeum); Mỡ (Manglietia glauca) + Xà cừ (Khay senegalensis), Mỡ (Manglietia glauca) + Tếch (Tectona grandis). Mỗi loài trồng 1 hàng, hàng cách hàng 2m, cây cách cây 2m, kết quả cho thấy Xà cừ và Tếch không thích hợp với phương thức trồng này nên tốc độ sinh trưởng chậm và bị các loài cây khác cạnh tranh, cuối cùng chỉ còn Mỡ thuần loài. Đối với Lim xanh, 2 năm đầu sinh trưởng kém, nhưng giai đoạn tiếp theo Lim xanh phát triển chiều cao nhanh hơn, đến tuổi 10 – 12 Lim xanh đã vươn lên cùng tầng với Mỡ. Trần Nguyên Giảng đã nhận xét rằng Lim xanh có khả năng trồng hỗn loài với Mỡ nhưng chưa tìm được tỷ lệ thích hợp. Xét về mặt cải thiện đất, cây Lim xanh có thể là cây cải tạo đất khá tốt, nhưng Xà cừ và Tếch thể hiện tác dụng này chưa rõ. Nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996) [7], Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1996) [11], đã xây dựng 20 khu nghiên cứu định vị ở Tây Nguyên dưới các dạng thảm thực vật có cấu trúc khác nhau. Đây là những công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về xói mòn đất rừng ở nước ta, đặc biệt là đã làm rõ vai trò phòng hộ chống xói mòn và điều tiết nước của rừng. Các nghiên cứu của Võ Đại Hải cho thấy khi giảm độ tàn che từ 0,7 - 0,8 xuống mức 0,3 - 0,4 thì dòng chảy mặt tăng 30,4% đối với rừng tự nhiên và 33,8% đối với rừng Le. Khi độ dốc tăng lên thì thì lượng dòng chảy cũng tăng lên. Chẳng hạn khi độ dốc tăng lên 2 lần thì lượng dòng chảy mặt tăng lên 58,1%. Từ năm 1980 trở lại đây, việc phục hồi rừng bằng các loài cây bản địa lá rộng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Nổi bật là công trình nghiên cứu phục hồi rừng vùng Sông Hiếu thông qua việc xây dựng cấu trúc hỗn loài Lát hoa với một số loài cây khác của Nguyễn Bá Chất (1994)[3].
  21. 11 Tác giả đã trồng hỗn loài Lát hoa (Chukrasia tabularis) với một số loài cây lá rộng bản địa như: Lim xẹt (Peltophorum tonkinense), Giổi xanh (Michelia mediocris), Thôi chanh (Alangium barbatum), Lõi thọ (Gmelina Arborea), Ràng ràng (Orosia Pinnata) nhằm tạo được một cấu trúc rừng hợp lý. Mô hình này được theo dõi đến năm thứ 10 kết quả cho thấy khả năng sinh trưởng rừng Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn rừng Lát hoa trồng thuần loài . Nguyễn Bá Chất (1996) đã nhận thấy việc chọn loài phối hợp với Lát hoa đang còn khoảng trống cơ sở lý luận và thực tiễn. Thí nghiệm trồng hỗn giao Lát hoa với các loài Trai (Garcinia fagraeo), Nghiến (Burretiodendron 13 tonkinense), Bứa (Garcinia oblongifolia) ở tuổi 5 chưa thấy có ảnh hưởng đến sinh trưởng của Lát hoa [3]. Khi đánh giá một số mô hình trồng rừng hỗn loài giữa cây bản địa với Keo tai tượng ở các tỉnh phía Bắc, Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) [15] đã có nhận xét rằng hầu hết cây trồng chính trong các mô hình rừng hỗn loài đều đã và đang bị cây phù trợ (Keo tai tượng) lấn át mạnh. Nhưng đối với mô hình trồng rừng hỗn loài trong nghiên cứu đã điều chỉnh được cây phù trợ kịp thời nên bước đầu đã tạo điều kiện cho cây trồng chính sinh trưởng tốt, tỷ lệ sống cao từ 80 – 93%. Tỷ lệ sống chung cho cả lâm phần đạt trên 90%. Tác giả còn đề xuất được 2 mô hình có triển vọng nhất đó là mô hình trồng hỗn loài với thảm che Keo tai tượng 7 tuổi ở Ngọc Lặc - Thanh hóa và mô hình trồn hỗn loài với cây phù trợ Keo tai tượng trồng trước 1 năm ở Cầu Hai – Phú Thọ. Khi nghiên cứu trồng rừng hỗn loài giữa các loài cây lá rộng bản địa với cây ngoại nhập (Eucalyptus urophylla) ở Đoan Hùng – Phú Thọ, Nguyễn Đức Thế (2007)[16] đã cho thấy cây Giổi xanh (Michelia mediocris) trồng xen với Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) có khả năng sinh trưởng cao gấp 1,5 lần so với trồng thuần loài.
  22. 12 Ngoài các công trình nghiên cứu tạo lập các lâm phần rừng trồng hỗn loài bằng các loài cây lá rộng còn có một số công trình nghiên cứu tạo ra rừng hỗn loài giữa cây lá kim với cây lá rộng, giữa các loài cây ngoại nhập với nhau. Điển hình là công trình nghiên cứu của Phùng Ngọc Lan (1986)[10] đã cho thấy rừng hỗn loài ở Núi Luốt (Trường Đại học Lâm nghiệp – Xuân Mai) giữa Thông đuôi ngựa với Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) và Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis) theo các tỷ lệ, mật độ, phương thức, thời điểm khác nhau. Kết quả cho thấy sau 2 năm sinh trưởng của Thông trồng hỗn loài tốt hơn so với Thông trồng thuần loài. Tỷ lệ hỗn giao chưa có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của Thông trên các công thức thí nghiệm. Đất dưới tán rừng được cải thiện tốt hơn, giun đất phát triển nhiều hơn so với nơi trồng thuần loài. Điều này chứng tỏ đất dước các mô hình trồng rừng hỗn loài thì các tính chất của đất đã được cải thiện rõ rệt. Với thí nghiệm trên sau 2 năm, kết quả cho thấy khả năng sinh trưởng chiều cao của Thông trồng thuần loài đạt 2,53m trong khi đó chiều cao Thông được trồng hỗn loài với Keo theo tỷ lệ 1:1 là 2,8m và tỷ lệ 1:2 là 2,72m. Sinh trưởng đường kính của Thông trồng hỗn loài với Keo theo tỷ lệ 2:1 cũng lớn hơn và nhanh hơn. * Các nghiên cứu về trồng cây bản địa: Trong những năm gần đây, đã có nhiều tác giả đi sau nghiên cứu bảo tồn và phát triển một số loài cây bản địa ở Việt Nam. Nguyễn Minh Đức (1998) [6] nghiên cứu sinh trưởng loài Lim xanh tại vườn quốc gia Bến En – Thanh Hóa đã nhận xét: sự thay đổi cường độ ánh sáng dẫn tới sự thay đổi nhiệt độ từ đó làm thay đổi ẩm độ dưới tán rừng và điều này có ảnh hưởng đến sinh trưởng 12 của cây rừng đặc biệt là cây tái sinh [10].
  23. 13 Lê Anh Tuấn (1999) [18] đã nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu kỹ thuật gây trồng và sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng thử nghiệm tại Vườn thực vật - Vườn Quốc gia Cúc Phương”. Kết quả tìm ra một số loài có sinh trưởng nhanh như Tai Chua, Chò đãi, Trầm hương Phạm Xuân Hoàn (2002) [8] đã đề xuất 10 loài cây bản địa gồm: Gội trắng (Aphanamixis grandifolia), Re hương (Cinnamomum iners), Nhội (Bischofia trifoliate), Trám (Cinnamomum sp), Sấu (Dracontomelon duperreanum), Lát hoa (Chukrasia tabularis), Lim xanh (Erythrophloeum), Lim xẹt (Peltophorum tonkinense), Dẻ (Castanopsis) và Kim giao (Podocarpus fleurgi) để trồng dưới tán các lâm phần Keo lá tràm (A. auriculiformis) và Keo tai tượng (A. mangium) ở Vườn quốc gia Cát Bà - Hải Phòng theo phương thức trồng hỗn giao theo hàng. Tác giả đã nhận thấy rằng dưới tán rừng Keo tai tượng các loài cây bản địa sinh trưởng kém hơn dưới tán rừng Keo lá tràm. Tỷ lệ sống của các loài cây bản địa trồng hỗn giao dưới tán Keo tai tượng đạt 79,1%, thậm chí loài Sấu chết hoàn toàn. Trong khi đó, ở dưới tán Keo lá tràm tỷ lệ sống đạt tới 95,3%. Lượng tăng trưởng thường xuyên và tăng trưởng bình quân của cây bản địa dưới tán Keo lá tràm cũng cao hơn so với dưới tán rừng Keo tai tượng. Ví dụ như Gội trắng có lượng tăng trưởng bình quân về đường kính gốc 0,61cm, tăng trưởng bình quân về chiều cao vút ngọn đạt 0,45m và tăng trưởng đường kính tán lá đạt 0,8 m. Tác giả cho rằng tầng cây cao là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của các loài cây bản địa trồng dưới tán. Hoàng Vũ Thơ (1998) cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái đến sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythrophloeum) trồng dưới tán rừng, kết quả cho thấy Lim xanh sinh trưởng tốt nhất ở độ tàn che tầng cây cao từ 0,1- 0,4.
  24. 14 Việt Nam là một nước đa dạng về hệ thực vật, song đó là sự khai thác các loài thực vật cũng rất lớn đã đẩy sự đa dạng của Việt Nam đang giảm dần, vì vậy nhà nước cũng đẩy mạnh việc xây dựng mới các vườn thực vật hoặc bổ sung mở rộng diện tích các vườn thực vật đã được xây dựng từ lâu như Thảo cầm viên xây dựng từ năm 1864, Thảo Cầm Viên có 1800 cây gỗ thuộc 260 loài, không những thực vật mà còn có cả động vật khoảng 26 loài với diện tích hiện nay khoảng 17 hecta. Bên cạnh đó thì một số vườn thực vật được xây dựng ngay trong các khu bảo tồn vừa phục vụ bảo tồn lại vừa lồng ghép tham quan giải trí, giáo dục đem lại nguồn kinh tế ví dụ như vào năm 2012 vườn thực vật tại thôn Cà Đâng, xã Tà Bhinh diện tích xây dựng vườn thực vật này khoảng 50,3 ha trên khu đất nương rẫy trồng cây hàng năm. Vườn thực vật Phong Nha - Kẻ Bàng có diện tích trên 40ha. Cùng với đó chúng ta đã xây dựng các vườn thực vật ngay trong trường giúp học sinh-sinh viên có nơi học tập ngoài giờ lý thuyết khô khan, tất nhiên đồng thời vẫn có thể bảo tồn các loài thực vật như vào năm 2008 trường tiểu học Lương Thế Vinh (Thủ Đức) có diện tích khoảng 300m2 với hơn 100 các loại cây và các trường tiểu học khác gần vùng lân cận trong địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Dù trên thế giới hay trong nước thì sự cấp thiết của việc bảo tồn các loài thực vật đang có nguy cơ tuyệt chủng là việc cấp bách, bên cạnh đó ta có thể tạo nơi học tập nghiên cứu, tham quan giải trí cho mọi người với thực trạng hiện nay thì việc xây dựng thêm các vườn thực vật đảm bảo cho việc bảo tồn, tăng sự đa dạng sinh học, và hoàn toàn có thể thu được nguồn lợi từ các vườn thực vật như nguồn tri thức, kinh tế và rất nhiều giá trị vô vàn nữa. Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lamb) Thực tế đã chứng minh rằng rừng trồng thuần loài, nhất là rừng trồng một số loài Thông ở nước ta trong những năm qua rất kém bền
  25. 15 vững, dịch sâu róm thông thường xuyên xuất hiện không những hạn chế sinh trưởng và khả năng cung cấp nhựa mà còn làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái khá rõ cụ thể như: Từ năm 1937 sâu róm thông đã phá hoại mạnh trên nhiều diện tích trồng Thông thuộc dẫy núi Nham Biền (Yên Dũng - Bắc Giang). Tháng 8 - 1958 sâu róm thông phá hại nghiêm trọng ở Phú Nham, Phú Điền, Sơn Viện thuộc tỉnh Thanh Hoá, diện tích bị sâu ăn trụi lá Thông khoảng gần 100 ha. Năm 1958 và 1959 ở Bắc Giang, sâu róm thông lại phát dịch đã gây hại 160 ha rừng Thông đuôi ngựa tại dãy núi Neo thuộc huyện Yên Dũng, sâu còn ăn cả cây con mới đem trồng được 2 năm, làm thiệt hại khá nhiều cho công tác trồng rừng nơi đây. Từ năm 1959 - 1960 ở Nghệ An đã phát sinh nạn dịch sâu róm thông rất lớn làm trụi 515 ha rừng Thông. Không chỉ có sâu hại thông mà còn thường xảy ra các loại bệnh dịch nguy hiểm như: Bệnh khô xám thông, bệnh rơm lá thông, bệnh khô ngọn thông đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hàng ngàn ha rừng và sản xuất lâm nghiệp ở nước ta. Để khắc phục vấn đề này, gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu trồng một số loài cây bản địa dưới tán rừng Thông nhằm chuyển hóa rừng Thông thuần loài thành rừng hỗn loài, điển hình là một số công trình nghiên cứu sau đây: Tại Núi Luốt – Đại học Lâm Nghiệp – Xuân Mai, Phạm Xuân Hoàn (2002)[8] đã nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông đuôi ngựa và Keo lá tràm. Hai loài cây này được sử dụng để tạo lập hoàn cảnh ban đầu từ năm 1985, khi độ tàn che của rừng đạt 0,7 – 0,8 vào các năm 1990 – 1991 thì các loài cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng. Tại khu thực nghiệm này, số loài cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng Keo và Thông là 165 loài khác nhau. Dưới tán rừng Thông trồng gồm 27 loài, dưới tán rừng Keo trồng gồm 21 loài, số còn lại được trồng dưới tán rừng hỗn loài
  26. 16 Thông – Keo lá tràm, Thông – Keo tai tượng và Bạch đàn Kết quả sau 10 năm trồng cây bản địa dưới tán cho thấy tỷ lệ sống của cây bản địa dưới tán rừng Thông đạt 93,2% và dưới tán rừng Keo lá tràm đạt 91,2%. Tăng trưởng thường xuyên và tăng trưởng bình quân của cây bản địa có sự phân hóa rõ rệt ở các loài. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là một số loài cây thường được đánh giá là sinh trưởng chậm như Đinh thối, Re hương, Lim xanh, Sưa nhưng ở giai đoạn chịu bóng dưới tán rừng Thông và Keo lại có tăng trưởng khá nhanh, cụ thể là: Re hương có ZDoo = 0,5cm, ZHvn = 0,5m, ZDt = 0,2m; Lim xanh có ZDoo = 0,5cm, ZHvn = 0,45m, ZDt = 0,15m. Tác giả còn nhận xét khả năng sinh trưởng và phát triển các loài cây bản địa trên chịu sự chi phối, ảnh hưởng rất lớn của các nhân tố độ tàn che của tầng cây cao (giai đoạn chịu bóng ), cường độ ánh sáng, đất đai Cũng tại Trường Đại Học Lâm nghiệp - Xuân Mai đã xây dựng vườn thực vật với gần 300 loài cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus massoniana), và Keo tai tượng (A. mangium). Sau nhiều năm nghiên cứu đã tìm ra một số loài cây thích hợp trồng dưới tán rừng như: Đinh thối (Fernandoa brilletii), Máu chó (Knema pierrei), Tai chua (Garcinia cowa), Re hương (Cinnamomun camphora) Ngoài ra, ở đây cũng đã xác định được một số loài không thích nghi trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ (dẫn theo Lê Minh Cường, 2007)[6]. Nghiên cứu về đặc điểm sinh lý, sinh thái của một số loài cây gỗ bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm tại Núi Luốt – Trường Đại học Lâm Nghiệp - Xuân Mai. 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu Vườn thực vật được xây dựng trong mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
  27. 17 2.3.1. Đất đai Đất đai của xã Quyết Thắng được hình thành do hai nguồn gốc: Đất hình thành tại chỗ do phong hoá đá mẹ và đất hình thành do phù sa bồi tụ. Nhóm đất phù sa chiếm tỷ lệ ít, là nhóm đất ở địa hình bằng, được bồi đắp bởi sản phẩm phù sa của dòng chảy của các suối và do thời tiết, thời gian được chia thành. Đất phù sa không được bồi tụ hàng năm trung tính ít chua, thành phần cơ giới chủ yếu là thịt trung bình đất phù sa ít được bồi hàng năm trung tính ít chua, thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ. Nhóm đất xám bạc màu: phát triển trên đất phù sa cổ có sản phẩm Feralitic trên nền cơ giới nặng, đây là đất bạc màu có thành phần cơ giới nhẹ, dễ bị xói mòn, rửa trôi. Nhóm đất Feralit: Phân bố chủ yếu ở địa hình đồi núi, được phát triển trên phù sa cổ, dăm cuội kết và cát kết, loại đất này diện tích khá lớn. Đất khu vực vườn ươm là đất tụ pha cát lẫn với đá nhỏ, đất có màu xám đen, hàm lượng dinh dưỡng trong đất thấp do đã sử dụng nhiều năm. Đất là đất feralit, nguồn gốc của đất xuất phát từ đá sa thạch, độ pH của đất thấp, đất nghèo mùn. Đất có độ màu mỡ thấp nên cây con sinh trưởng và phát triển mức trung bình, đôi khi có cây phát triển kém. 2.3.2. Đặc điểm khí hậu, thời tiết Mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông lâm nằm trong khu vực xã Quyết Thắng thành phố Thái Nguyên nên mang đầy đủ các đặc điểm khí hậu của thành phố Thái Nguyên. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia làm 4 mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông. Có 2 mùa chính: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
  28. 18 2.4. Khái quát chung về đặc điểm sinh thái của các loài cây nghiên cứu: 2.4.1. Nghiến (Burretiodendron hsienmu) 2.4.1.1. Đặc điểm nhận biết Cây gỗ lớn, cao 30 - 35m, đường kính tới 80 - 90cm. Cành non không có lông. Lá hình trứng rộng, cỡ 10 - 12 x 7 - 10cm; mép nguyên; gân bên 5 - 7 đôi, trong đó có 3 gân gốc; cuống lá dài 3 - 5cm. Hoa đơn tính. Hoa đực có đường kính 1,5cm. Đài hình chuông, ở đầu xẻ 5 thuỳ sâu, dài 1,5cm. Cánh hoa 5, dài 1,3cm. Nhị khoảng 25, xếp thành 5 bó; chỉ nhị dài 1 - 1,3cm; bao phấn hình bầu dục, dài 3 mm. Quả khô hình 5 cạnh (giống quả Khế), tự mở, đường kính 1,8cm. Hình 2.1: Cây Nghiến 2.4.1.2. Đặc điểm sinh học và sinh thái Ra hoa tháng 3 - 4, có quả tháng 8 - 10. Cây ưa sáng, mọc rải rác trong rừng thường xanh mưa mùa ẩm ở vùng núi đá vôi, ở độ cao dưới 800m, tái sinh bằng hạt, cây mạ và cây con gặp khá phổ biến dưới tán rừng. 2.4.1.3. Phân bố địa lý Trong nước: Sơn La (Thuận Châu, Sông Mã, Mộc Châu), Hà Giang, Tuyên Quang (Chiêm Hoá), Cao Bằng (Quảng Hoà, Trùng Khánh, Hạ Lang, Thạch An), Bắc Kạn (Chợ Đồn, Ba Bể), Lạng Sơn (Hữu Liên, Bắc Sơn), Quảng Ninh, Bắc Giang, Hoà Bình (Mai Châu, Pà Cò). Thế giới: Trung Quốc.
  29. 19 2.4.1.4. Giá trị Gỗ quý, màu nâu đỏ, cứng, thớ thẳng, vân đẹp, ít co rút, dùng đóng thuyền, làm bệ máy và để xây dựng; cũng thường được dùng làm thớt, làm bệ các tượng mỹ nghệ cao cấp. 2.4.2. Ngọc am (Cupressus funebris) 2.4.2.1. Đặc điểm hình thái Cây gỗ Ngọc am còn được biết đến với cái tên là cây Hoàng đàn có xuất xứ ở vùng trung và tây nam của Trung Quốc. Cây gỗ Ngọc am là một loại cây thân gỗ có chiều cao từ 20 - 25m, đường kính khoảng gần 2m. Cây Ngọc am có tán lá rậm rạp, thường có các cành nhỏ sắp xếp thành mặt phẳng, rủ lòng thòng bao gồm các chồi non màu xanh lục tươi, rất mảnh dẻ, hơi dẹt. Các lá áp ép dày đặc, dài 1 – 2 mm, nhọn đầu, nhưng tới 5 mm tại các chồi to, các đôi lá bên gập lại mặt đối mặt, đè lên các phần cuống của các đôi lá mặt, gợn lằn xa trục. 2.4.2.2. Đặc điểm sinh học và sinh thái Cây Ngọc am thường được trồng xung quanh các chùa chiền, đền miếu hay trong các khu vực vườn, đôi khi còn được trồng làm cây cảnh tạo các khu vực ôn đới ấm áp khác, đôi khi được dày bán làm cây trông trong nhà tại các khu vực lạnh giá hơn. Hình 2.2: Cây Ngọc am 2.4.2.3. Phân bố địa lý Tại Việt Nam, nó mọc rải rác tại các tỉnh Hà Giang và Lạng Sơn, trong các khu rừng nhiệt đới xanh và có mưa mùa ẩm, chủ yếu ở đai núi thấp trên
  30. 20 núi đá vôi ở độ cao 400 - 1500m. Ở Hà Giang gỗ Ngọc am thường mọc ở khu vực núi cao hiểm trở, có độ cao lên tới 1000m cách xa mực nước biển. 2.4.2.4. Giá trị Gỗ Ngọc am có nhiều tác dụng đối với sức khỏe của con người, tắm bằng gỗ ngọc am giúp cơ thế giải độc, lưu thông khí huyết, ngăn ngừa rôm sảy, giúp tinh thần tỉnh táo, mùi thơm từ gỗ Ngọc am xua đuổi côn trùng tạo mùi thơm dễ chịu đặc trưng nếu để trong phòng, theo quan niệm xưa, việc đặt gỗ Ngọc am trong nhà giúp xua đuổi tà ma, đón rước may mắn và tài lộc, gỗ Ngọc am được sử dụng rất nhiều trong phật giáo như tạc tượng, làm tràng hạt, điêu khắc Tinh dầu Ngọc am có công dụng là chậm quá trình lão hóa nên nó cũng được dùng để cải thiện và hạn chế nám da. Tinh dầu Ngọc am hòa vào nước tắm giúp da dẻ hồng hào, giúp cơ thể thoải mái, tinh dầu Ngọc am có thể bôi vào chỗ sưng do ngã, diệt khuẩn, khử mùi, xua đuổi côn trùng, giúp tinh thần sảng khoái. 2.4.3. Lim xanh (Erythrophleum fordii) 2.4.3.1. Đặc điểm hình thái Cây gỗ lớn, cao 37 - 45m, đường kính có khi tới 2 - 2,5m, thường xanh. Gốc có bạnh vè, thân tròn, phân cành nhánh lớn, tán lá hình ô, dày, rộng. Vỏ màu nâu, bong vảy lớn, khi non có nhiều bì khổng, cây mọc lẻ thường phân cành thấp, cành non màu xanh lục. Lá kép lông chim 2 lần với 3 - 5 đôi cuống thứ cấp và mỗi cuống mang 9 - 15 lá chét hình trái xoan, đầu nhọn, gốc tròn dài 4,5 - 6cm, rộng 3 - 3,5cm, hai mặt nhẵn bóng. Gân lá nổi rõ ở cả hai mặt.
  31. 21 Hoa tự kép hình bông, dài 20 - 30cm, hoa nhỏ, màu hoa trắng xanh, hoa lưỡng tính gần đều, đài 5 cánh hợp hình chuông, tràng màu xanh vàng 5 cánh hẹp và dài, nhị 10, chỉ nhị rời, bầu phủ nhiều lông. Quả đậu hình trái xoăn thôn dài, dài 20 - 25 cm, rộng 3,5 - 4 cm. Hạt dẹt màu nâu đen, xếp lập lên nhau, vỏ hạt cứng, dây rốn dày và to gần bằng hạt. Hình 2 .3: Lim xanh 2.4.3.2. Đặc điểm sinh học và sinh thái Cây mọc chậm, tốc độ thay đổi theo từng giai đoạn tuổi và vùng phân bố. Tăng trưởng trung bình 10 năm đầu 0,5 – 0,7m về chiều cao và 0,5 – 0,7cm về đường kính trong 1 năm, sau đó có thể mọc nhanh hơn. Mùa ra hoa tháng 3 - 5, quả chín tháng 10 - 11. Cây ưa sáng nhưng khi còn nhỏ chịu bóng. Mọc tốt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới mưa mùa nơi có nhiệt độ trung bình năm 22,4 - 24,10C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối 42,30C, thấp nhất tuyệt đối -1,40C. Lượng mưa trung bình hàng năm 1500 - 2859 mm. Năm có 3 - 9 tháng khô. 2.4.3.3. Phân bố địa lý Là cây đặc hữu của Việt Nam, phân bố ở đai thấp vùng có lượng mưa 1500 - 3000 mm/năm, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Huế, Quảng Nam tới Bình Thuận. 2.4.3.4. Giá trị Giác gỗ màu xám vàng nhạt khá dày, lõi màu xanh vàng sau nâu sẫm, dăm thô, thớ xoắn, nặng và chịu được ngoài mưa nắng. Giác dễ bị mối mọt. Có thể dùng gỗ để làm các công trình lớn, làm nhà, đóng tàu, đóng bàn ghế, làm tà vẹt. Than Lim cho nhiệt lượng cao. Vỏ chứa nhiều chất chát dùng để nhuộm.
  32. 22 2.4.4. Thông tre (Podocarpus neriifolius) 2.4.4.1. Đặc điểm hình thái Cây gỗ nhỡ, có thể cao tơi 25 – 30m, với đường kính ngang ngược tới 1m; thân tron, dáng thẳng với tán trái rộng; vỏ màu nâu nhạt; lá mọc cách thường nhọn dần ở đầu lá, dài 7 – 15cm và rộng tới 2 cm (lá non có thể tích đến 20 cm), gân giữa nổi rõ ở cả hai mặt. Non phần tính khác gốc. Cấu trúc mang hạt đơn độc, cuống lá dài Hình 2.4: Cây Thông tre 1 – 2 cm, để có đường kính tới 10 mm, gốc dẹt có hai lá bắc ở gốc, màu tím đỏ khi chín, phần quanh hạt màu đỏ hồng khi chín. Nõn đực đơn độc hay cụm 2 -3 ở nách, thường không cuống và dài tới 5cm; hạt hình trứng, dài tới 1,5cm với đầu nhọn hay tròn. 2.4.4.2. Phân bố dịa lý Việt Nam: Điện Biên, Lào Cai, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Vinh Phúc, Hòa Bình, Hà Tây (cũ), Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên Huê, Quảng Nam, Kon Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai, Kiên Giang. Rải rác ở tất cả cách tỉnh vùng núi cao của việt nam Thế giới: Đông Bắc và Đông Nam Ấn Độ, Bangladesh, Nyanma, Nam Trung Quốc (Vân Nam), Thái Lan, Lào, Combodia, Malaysia, Iddoneessia, Philipine, và papua New Guinea. 2.4.4.3. Giá trị Trong danh lục đỏ của IUCN do có phân bố rộng nên loài này được xếp ở vùng ít nguy cấp (LR), cho dù cây đang càng ngày trở nên hiếm hơn tại nhiều địa điểm phân bố của loài, chủ yếu là do nhưng thay đổi sinh cảnh.
  33. 23 2.4.5. Giổi xanh (Michelia meduocris dandy) 2.4.5.1. Đặc điểm hình thái Cây Giổi xanh là cây thân gỗ lớn, thường xanh, cao trung bình 30 - 40m, đường kính của cây đạt khoảng 90 - 100cm. Cây thân thẳng, gỗ tròn, ra cành ở rất cao. Cành non có lông, vỏ cây màu xám, nhẵn, bóng mịn, lá đơn hình bầu dục dài, mọc cách, bóng, dài 10 - 15cm, rộng 4 - 6cm. Hình 2.5: Cây Giổi xanh Gân bên 8 - 15 đôi. Hoa đơn độc mọc đầu cành, cuống có lông, cánh hoa màu trắng sữa. Quả kép dài 5 - 8cm, gồm nhiều hạt hình bầu dục hay dẹp. Hạt khi đến độ già màu đỏ. Giổi xanh sống và phát triển tốt với địa hình và đất đai, khí hậu nước ta như: đất feralit, đất bazan , khí hậu tiêu biểu nước ta nhiệt đới ẩm gió mùa. Cây ưa sáng, sinh trưởng phát triển nhanh, cây tái sinh nhiều tái sinh nhanh nhờ phát tán hạt tốt. Cây có thể sống xen kẽ với các loài cây khác nhau trong một quần thể cây thực vật. 2.4.5.2. Đặc điểm sinh học và sinh thái Cây sinh trưởng trung bình, mùa hoa tháng 4-5, mùa quả tháng 9-10. Cây Giổi có biên độ sinh thái rộng, thích hợp trồng ở mọi khu vực đồi núi ở Việt Nam. Sau 6 - 8 năm trồng ta thu được quả và 20 năm được thu gỗ khoảng 1m khối /1 cây. So với trồng các loại cây lâm nghiệp khác thì cây Giổi đem lại giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều. 2.4.5.3. Phân bố địa lý Mọc rải rác tong rừng lá rộng thường xanh ở các tỉnh thuộc Bắc và Trung Bộ. 2.4.5.4. Giá trị Giác gỗ màu vàng nhạt, lõi màu nâu, thớ thẳng, kết cấu mịn, dễ làm, không nứt, không bị mối mọt, thường được dung đóng đồ quý.
  34. 24 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu Là 5 loài cây trồng trong vườn tại mô hình khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên - Nghiến (Burretiodendron hsienmu) - Giổi (Michelia mediocris Dandy) - Thông tre (Podocarpus Neriifoliu) - Ngọc am (Cupresrus funebris) - Lim xanh (Erythrophlem fordii) 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu Tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính gốc, chiều cao, tình hình sâu bệnh hại của cây. 3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu - Địa điểm: Vườn thực vật tại mô hình Khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. - Thời gian tiến hành: Từ tháng 07/ 2018 đến tháng 05/2019. 3.3. Nội dung nghiên cứu - Đánh giá tình hình sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng trong mô hình vườn cây bản địa tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đánh giá tình hình sâu bệnh hại. - Hoàn thiện các bước trong xây dựng mô hình vườn cây bản địa tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đề xuất một số giải pháp nhằm mục đích phát triển mô hình vườn cây bản địa.
  35. 25 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp chăm sóc Ở giai đoạn đầu của việc trồng cây con, cây vẫn rất yếu nên cần sự chăm sóc đặc biệt. Hơn thế nữa giai đoạn trồng vườn thực vật đang trong giai đoạn nắng nóng đỉnh điểm của miền bắc nên càng cần sự chăm sóc chu đáo hơn cho cây con. Do địa điểm trồng cây xa nguồn nước nên đã áp dụng phương pháp đào hố nước dải tấm bạt sau đó dòng dây nước vào để bơm nước vào hố để giữ nước trong mô hình tiện cho việc lấy nước đem tưới cho từng cây. Mỗi ngày định kỳ tưới nước 1 lần vào lúc 4 giờ chiều trong vòng 1 tháng đầu để đảm bảo cây đủ lượng nước vượt qua giai đoạn nắng nóng và sự thích nghi ở môi trường mới trong mô hình. Bên cạnh việc tưới nước thì theo định kỳ làm cỏ 1 tháng 1 lần nhằm giảm sự xâm lấn dinh dưỡng của cỏ với các loài cây bản địa. Hình thức làm cỏ bằng cách sử dụng máy cắt cỏ, cắt cỏ bên ngoài cách gốc cây 1 mét sau đó sử dụng cuốc để cuốc cỏ và vun gốc. 3.4.2. Nghiên cứu sinh trưởng Đo đếm đường kính gốc và chiều cao của 5 loài nghiên cứu tại khu vực mô hình. Các loại cây: - Nghiến: LB - Giổi xanh: Mi - Thông Tre: Pn - Ngọc am: Cu - Lim Xanh: LE * Thời gian đo đếm 30 ngày đo đếm sinh trưởng/1 lần. Các bảng đo đếm:
  36. 26 Bảng 3.1: Đo D00. Đơn vị (cm) STT Lần đo 1 Lần đo 2 Lần đo 3 Lần đo 4 Cây 1 Cây 2 Cây 3 Bảng 3.2: Đo Hvn. Đơn vị (cm) STT Lần đo 1 Lần đo 2 Lần đo 3 Lần đo 4 Cây 1 Cây 2 Cây 3 * Theo dõi tình hình sâu bệnh hại 15 ngày /lần. Bảng 3.3: Tình hình sâu bệnh hại. Đơn vị(%) STT Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Cây 1 Cây 2 Cây 3 3.4.3. Xử lý số liệu  Thu thập số liệu Trong quá trình điều tra số liệu để dễ dàng hơn cho việc thu thập và điều tra.
  37. 27 Đường kính gốc (D00), được đo bằng thước kẹp cơ khí, đo theo 2 chiều Đông – Tây và Nam – Bắc rồi tính trị số bình quân. Chiều cao vút ngọn (Hvn) được đo bằng thước dây. Dùng bút xóa trắng kẻ 1 đường làm mốc ở gốc cây làm chuẩn rồi dùng thước đo từ điểm chuẩn đến đỉnh ngọn sinh trưởng của cây. Theo dõi động thái của sâu bệnh hại cây. Quá trình thu thập số liệu được chia làm 11 đợt đó là:  Đợt 1: Ngày 10/07/2018  Đợt 2: Ngày 10/08/2018  Đợt 3: Ngày 10/09/2018  Đợt 4: Ngày 10/10/2018  Đợt 5: Ngày 10/11/2018  Đợt 6: Ngày 10/12/2018  Đợt 7: Ngày 10/01/2019  Đợt 8: Ngày 10/02/2019  Đợt 9: Ngày 10/03/2019  Đợt 10: Ngày 10/04/2019  Đợt 11: Ngày 10/05/2019  Xử lý số liệu Phương pháp xử lý số liệu: Sau khi tiến hành điều tra ta thu được bảng số liệu thô. Từ bảng số liệu ta tiến hành xử lý số liệu: Sử dụng phương pháp thống kê toán học với sự trợ giúp của phần mềm Excel để phân tích đánh giá kết quả nghiên cứu. (Nguyễn Văn Cường 2017) Bước 1: Click Tool\Data Analynis\ Descriptive Statistics\OK Tính tỷ lệ sống : 퐧 C% = x 100 푵
  38. 28 Trong đó: C%: Tỷ lệ sống N: Số cây sống N: Tổng số cây trồng trong mô hình - Đường kính TB của cây ở mỗi lần đo: ∑퐝 D00TB = 푴 Trong đó: D00TB: Đường kính trung bình của cây ∑d: Tổng số đo đường kính các cây M: Tổng số cây - Chiều cao trung bình của cây ở mỗi lần đo: ∑퐡 HvnTB = 푴 Trong đó: Hvn TB: Chiều cao trung bình của cây ∑h: Tổng số đo chiều cao các cây M: Tổng số cây - Xác định số trung bình mẫu: 풙̅ = ∑풏 풙풊 풏 - Tính sai tiêu chuẩn: 1 n S =  xi x 2 n 1 1 Trong đó: xi: Trị số điều tra như đường kính (D00) và chiều cao (Hvn) ̅ : Trung bình mẫu - Hệ số biến động: 푠 S % = x 100 ̅ Trong đó: S: Sai tiêu chuẩn ̅: Trung bình mẫu - Tỷ lệ cây bị sâu bệnh hại: P%= n.100/N Trong đó: n là số cây bị sâu bệnh N là tổng số cây điều tra
  39. 29 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đánh giá tình hình sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng trong mô hình vườn cây bản địa tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 4.1.1. Kết quả tỷ lệ sống của 5 loài cây nghiên cứu Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ sống của 5 loài đến đợt đo cuối đạt được như trong bảng 4.1. Bảng 4.1: Tỷ lệ sống của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa Số cây Số cây lần Số cây lần Số cây Tỷ lệ STT Tên loài (T5/ đo đầu đo cuối chết cây sống 2018) (T7/ 2018) (T5/2019) 1 Giổi xanh 25 16 8 8 50% 2 Ngọc am 18 12 10 2 83,33% 3 Thông tre 19 15 11 4 73,33% 4 Lim xanh 29 23 20 3 86,9% 5 Nghiến 30 25 23 2 92% Cây được trồng vào tháng 10/2017. Tính đến thời điểm lấy số liệu cuối thì các loài cây bản địa đã trồng được 19 tháng, do thời điểm trồng có thời tiết thuận lợi có mưa nhiều và độ ẩm cao nên cây sinh trưởng rất tốt. Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2018 đến tháng 7/2018 chưa có sự tiếp nhận và chăm sóc theo dõi nên cây đã bị sụt giảm về số lượng cây trong khu mô hình như sau: Giổi xanh 16 cây, Ngọc am 12 cây, Thông tre 15 cây, Lim xanh 23 cây, Nghiến 25 cây.
  40. 30 Hiện tại cả 5 loài cây bản địa có tỷ lệ sống như sau: Giổi xanh là 50%, trong đó vào những tháng đầu tháng 7,8,9 của quá trình chăm sóc cây giổi xanh sinh trưởng tốt nhưng tới tháng 10 do tình hình thời tiết khô hanh ít mưa nên cây có bị ảnh hưởng dẫn tới tháng 10 chết 3 cây, tháng 11-1 mỗi tháng chết 1 cây nguyên nhân 1 phần do cỏ phát triển mạnh xâm lấn cây, tháng 4-5 do thời tiết mùa hè nắng gắt nhiều đợt nóng nhiệt độ lên tới 40ºC, không có sự che bóng nào mà cây Giổi tại mô hình lại nhỏ được trông ở chỗ điều kiện lập địa có nhiều đá cây sinh trưởng không tốt nên đã bị chết thêm 2 cây. Cây Ngọc am là 83,33% tháng 7,8 cây sinh trưởng đều không còn cây nào bị chết, nhưng đến tháng 9,10 do thời tiết lạnh hanh khô nên mỗi tháng bị chết 1 cây, các tháng sau cây ổn định và không bị chết cây nào. Thông tre là 73,33% 3 tháng đầu không thấy sự thay đổi gì, tháng 10,11,12 mỗi tháng cây lại giảm đi 1 cây do có sự xâm lấn của dây leo quấn thân cây dẫn đến mất cây, tháng 4,5 do ngắng nóng mưa ít đất khó giữ nước làm cho cây chết. Lim xanh 86,9% không có sự thay đổi về tỷ lệ sống chết trong tháng 9,10 có chết 2 cây do có sự xâm lấn của dây leo rất nhanh đã làm cây không phát triển dẫn đến chết. Nghiến là 92% cây sinh trưởng ổn định tháng 9 và tháng 11 bị giảm đi 1 cây do có cỏ xâm lấn, do thời tiết khô nóng. Số lượng cây so với thời điểm đo đầu đã giảm đi do trong quá trình cây sinh trưởng chịu nhiều yếu tố môi trường và sinh vật tác động. Sinh trưởng cây bản địa không những chịu sự tác động của yếu tố ngoại cảnh mà còn chịu sự ảnh hưởng bởi chính đặc điểm sinh học của mỗi loài cây. Kết quả cho thấy 5 loài cây bản địa đều mang lại lại tỷ lệ sống tốt với điều kiện trong vườn cây bản địa. Một trong những đặc điểm sinh học được quan tâm nhiều nhất trong nghiên cứu sinh trưởng cây trồng là quy luật sinh trưởng theo thời gian. Đề tài chủ yếu quan tâm đến hai chỉ tiêu sinh trưởng là sinh trưởng đường kính (D00), chiều cao (Hvn).
  41. 31 4.1.2. Kết quả sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa Hình 4.1: Đo đường kính gốc cây
  42. 32 Sinh trưởng đường kính: Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng đường kính gốc (D00) được trình bày tại bảng 4.2. Bảng 4.2: Sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa Tăng Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 5 Lần 6 Lần 7 Lần 8 Lần 9 Lần 10 Lần 11 Chỉ Tăng trưởng STT Loài Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tiêu trưởng bình 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 5 quân 1 Giổi Xanh D00(cm) 0.68 0.72 0.75 0.87 0.91 1.0 1.13 1.16 1.19 1.39 1.48 0.80 0.08 S% 0.13 0.13 0.14 0.16 0.17 0.20 0.22 0.22 0.22 0.24 0.29 2 Ngọc am D00(cm) 0.29 0.32 0.36 0.37 0.39 0.43 0.44 0.47 0.51 0.61 0.69 0.40 0,04 S% 0.05 0.05 0.05 0.06 0.06 0.06 0.06 0.06 0.06 0.08 0.10 3 Thông tre D00(cm) 0.92 0.95 1.01 1.10 1.13 1.20 1.29 1.37 1.44 1.56 1.63 0.71 0,07 S% 0.04 0.04 0.04 0.05 0.05 0.05 0.07 0.08 0.12 0.19 0.11 4 Lim xanh D00(cm) 1.16 1.2 1.25 1.33 1.38 1.46 1.56 1.67 1.74 1.97 2.11 0.95 0,09 S% 0.05 0.05 0.06 0.06 0.06 0.07 0.07 0.07 0.08 0.10 0.10 5 Nghiến D00(cm) 0.75 0.78 0.81 0.83 0.84 0.86 0.87 0.88 0.91 0.93 0.93 0.18 0,02 S% 0.02 0.03 0.03 0.03 0.03 0.03 0.03 0.03 0.03 0.03 0.03 (Nguồn: Kết quả nghiên cứu 2019) Trong đó S% là hệ số biến động
  43. 33 2.5 đo lần 1 2 đo lần 2 đo lần 3 đo lần 4 1.5 đo lần 5 đo lần 6 1 đo lần 7 đo lần 8 0.5 đo lần 9 đo lần 10 đo lần 11 0 D00 Giổi xanh D00 Ngọc am D00 Thông tre D00 Lim xanh D00 Nghiến Hình 4.2: Kết quả đường kính D(00) của 5 loài cây bản địa Từ kết quả tại bảng 4.2 và hình 4.2 cho thấy: Đường kính gốc của 5 loài cây bản địa tăng trưởng tốt với điều kiện môi trường mới cụ thể như sau: + Giổi xanh: Có sự tăng trưởng về đường kính gốc có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo với nhau do ảnh hưởng bởi thời tiết. Từ lần đo 1-2 bình quân tăng được 0,04cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 3-4 tăng được 0,12cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân tăng được 0,04cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng được 0,09cm/tháng; lần đo 6-7 bình quân tăng được 0,13cm/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 9-10 bình quân tăng được 0,20cm/tháng; lần đo 10-11 bình quân tăng được 0,09cm/tháng. Trong đó tháng sinh trưởng mạnh nhất là tháng 3 do xuất hiện mưa đều trong tháng, kịp thời làm cỏ là điều kiện thuận lợi cho cây. Tháng sinh trưởng thấp nhất là tháng 8, 1, 2 do điều kiện lập địa khu vực cây Giổi xanh chủ yếu là đá nghèo mùn. Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Giổi xanh đạt 0,8cm, tăng trưởng bình quân mỗi tháng là 0,08cm.
  44. 34 + Ngọc am: Có sự tăng trưởng về đường kính gốc có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo với nhau. Từ lần đo 1-2 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng được 0,04cm/tháng ; lần đo 3-4 tăng được 0,01cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân tăng được 0,02cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng được 0,04cm/tháng; lần đo 6-7 bình quân tăng được 0,01cm/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được 0,04cm/tháng; lần đo 9-10 bình quân tăng được 0,10cm/tháng; lần đo 10-11 bình quân tăng được 0,08cm/tháng. Tháng cây tăng về đường kính cao nhất là tháng 3 do mưa diễn ra đều, làm cỏ đúng lúc. Tháng thấp nhất là tháng 9, 12 do thời tiết khá khô hanh, cây chủ yếu sinh trưởng trên đất ít mùn, nhiều đá. Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Ngọc am đạt 0,4 cm, tăng trưởng bình quân mỗi tháng của Ngọc am là 0,04 cm. + Thông tre: Có sự tăng trưởng về đường kính gốc có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo với nhau. Từ lần đo 1-2 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng được 0,06cm/tháng; lần đo 3-4 tăng được 0,09cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng được 0,07cm/tháng; lần đo 6-7 bình quân tăng được 0,09cm/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng được 0,08cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được 0,07cm/tháng; lần đo 9-10 bình quân tăng được 0,12cm/tháng; lần đo 10-11 bình quân tăng được 0,07cm/tháng. Tháng cây có đường kính cao nhất là tháng 3 do đặc tính sinh học thích nghi tốt với môi trường, cây cũng được cho thêm phân bón khi thời tiết có mưa nên sinh trưởng tốt nhất. Tháng cây sinh trưởng về đường kính kém nhất là tháng 7, 10 do do thời tiết khô nóng ít mưa làm cho đường kính phát triển chậm hơn. Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Thông tre đạt 0,71 cm, tăng trưởng bình quân mỗi tháng của Thông tre là 0,07cm.
  45. 35 + Lim xanh: Có sự tăng trưởng về đường kính gốc có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo với nhau. Từ lần đo 1-2 bình quân tăng được 0,04cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng được 0,05cm/tháng; lần đo 3-4 tăng được 0,08cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân tăng được 0,05cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng được 0,08cm/tháng; lần đo 6-7 bình quân tăng được 0,10cm/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng được 0,11cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được 0,07cm/tháng; lần đo 9-10 bình quân tăng được 0,23cm/tháng; lần đo 10-11 bình quân tăng được 0,14cm/tháng. Tháng cây có đường kính cao nhất là tháng 3 do đặc tính sinh học thích nghi tốt với môi trường, cây trồng trên đất pha cát lượng mưa ổn định phân bố đều trong tháng nên đường kính sinh trưởng tốt nhất. Tháng cây sinh trưởng về đường kính kém nhất là tháng 7 là tháng đo đầu tiên sau khi làm cỏ tiến hành đo nắng và ít mưa làm cho đường kính phát triển chậm hơn. Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Lim xanh đạt 0,95cm, vậy tăng trưởng bình quân mỗi tháng của Lim xanh là 0,09cm. + Nghiến: Có sự tăng trưởng về đường kính gốc có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo với nhau. Từ lần đo 1-2 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 3-4 tăng được 0,02cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân tăng được 0,01cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng được 0,02cm/tháng; lần đo 6-7 bình quân tăng được 0,01cm/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng được 0,01cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được 0,03cm/tháng; lần đo 9-10 bình quân tăng được 0,02cm/tháng; lần đo 10-11 bình quân tăng được 0cm/tháng. Tháng cây có đường kính cao nhất là tháng 7, 8, 2 do sau khi mưa có tiến hành bón phân (NPK) thời tiết mát mẻ nên đường kính sinh trưởng tốt nhất. Tháng cây sinh trưởng về đường kính kém nhất là tháng 4 do đây là loài cây sinh trưởng chậm lại trồng ở khu vực đất ít mùn làm cho đường kính phát triển chậm hơn. Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Nghiến đạt 0,18cm, tăng trưởng bình quân mỗi tháng là 0,02cm.
  46. 36 Từ kết quả trên, cho thấy trong 5 loài bản địa cho thấy tăng trưởng trung bình về đường kính D(00) cao nhất ở loài Lim xanh 0,95cm, sau đó là Giổi xanh với tăng trưởng trung bình là 0,8cm, Thông tre là 0,71cm, Ngọc am đạt 0,40cm và thấp nhất ở cây Nghiến là 0,18cm. Mặc dù có chút chênh lệch giữa các lần đo do ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh như đất đai, nhiệt độ và lượng mưa nhưng nhìn chung kết quả trên cho thấy sau khi vườn cây bản địa hoàn thành ở giai đoạn trồng thì các loài cây bản địa vẫn sinh trưởng về đường kính gốc tốt tại điều kiện lập địa trong mô hình vườn cây bản địa tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Ngoài ra còn có một số nghiên cứu khác như: - Theo nghiên cứu của Phạm Văn Toản[17] "Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che sáng đến sinh trưởng của cây Giổi xanh (Michelia mediocris dandy) ở giai đoạn vườn ươm" được tiến hành tại vườn ươm của Trung tâm nghiên cứu Lâm Nghiệp vùng núi phía Bắc Việt Nam. Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ, gồm 5 công thức ( không che sáng, che sáng 25%, che 75%, che 100%), mỗi công thức lập 3 lần, mỗi lần lặp có 30 cây. Chỉ tiêu thứ 1 về đường kính gốc, kết quả cho thấy sau 3 tháng thí nghiệm không có sự sai khác rõ rệt giữa các công thức và số lần lặp lại. Tuy nhiên đường kính gốc đạt cao nhất tại chế độ che sáng 75%. Nhận xét: So sánh cây Giổi xanh được trồng tại khu mô hình của khoa Lâm nghiệp so với cây Giổi xanh trong vườn ươm khoa Lâm Nghiệp, ta có thể khẳng định rằng cây Giổi trong giai đoạn vườn ươm cũng như giai đọan cây còn bé trong mô hình bản địa, rất cần có sự che bóng nó là điều kiện quyết định tới khả năng sinh trưởng hay khả năng sót của Cây Giổi ngoài tự nhiên. - Một nghiên cứu khác của Nguyễn Anh Hoàng [9]" Ảnh hưởng của bón phân và che bóng đến sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythropholeum fodii Oliver) tại vườn ươm trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên". Kết quả
  47. 37 theo dõi về khả năng sinh trưởng của cây Lim xanh sau 3 tháng. Trong đó, ở công thức III (tưới NPK) luôn luôn có khả năng sinh trưởng lớn nhất sau 3 tháng sinh trưởng đường kính gốc đạt 4,93mm, xếp thứ 2 là công thức II (tưới nước phân nước sông Gianh), Xếp thứ 3 là công thức I (phân NTT) và kém nhất là công thức IV (đối chứng) sau 3 tháng sinh trưởng đường kính gốc đạt 3,09 mm. Nhận xét: Với nghiên cứu này bón thúc là một trong những biện pháp kỹ thuật lâm sinh quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống cũng như khả năng sinh trưởng của cây con trong giai đoạn vườn ươm nói riêng và cây trồng nói chung. Chúng ta khẳng định phân bón NPK rất phù hợp với cây Lim xanh nói riêng hay các loài cây bản địa khác nói chung. Trong mô hình cây chúng em tiến hành nghiên cứu cũng đã sử dụng loại phân này vào 2 đợt là tháng 10 và tháng 2 được bón thúc sau khi trời mưa ẩm và đã đem lại hiệu qua ngay trong tháng đo tiếp theo. 4.1.3. Kết quả đặc điểm sinh trưởng chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa Hình 4.3: Đo chiều cao Hvn Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng chiều cao vút ngọn (Hvn) được trình bày tại bảng 4.7.
  48. 38 Bảng 4.3: Sinh trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình Tăng Lần 5 Lần 6 Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 7 Lần 8 Lần 9 Lần 10 Lần 11 Tăng trưởng STT Loài Chỉ Tiêu Tháng Tháng Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 trưởng bình 11 12 quân 1 Giổi Xanh Hvn(cm) 19.14 20.21 20.62 22.23 23.72 25.76 27.02 27.67 31.23 39.56 42.81 23.67 2,37 S% 4.77 4.82 4.89 5.93 6.46 7.32 9.30 9.41 10.37 13.28 14.04 2 Ngọc am Hvn(cm) 17.62 18.58 19.95 20.10 20.8 21.56 22.35 24.10 27.05 31.10 35.2 17.58 1,76 S% 2.62 2.65 3.0 3.38 3.38 3.51 3.58 3.68 4.14 5.68 6.10 3 Thông tre Hvn(cm) 61.13 63.67 66.67 76.77 80.15 85.17 90.25 94.0 101.0 107.91 112.32 51.19 5,12 S% 6.30 6.40 6.51 5.44 5.25 6.42 6.31 6.26 8.53 10.22 10.66 4 Lim xanh Hvn(cm) 48.95 50.43 51.81 56.85 59.95 64.70 69.60 73.45 76.45 81.80 86.40 37.45 3,74 S% 3.52 3.56 3.64 3.55 3.80 4.01 4.30 4.48 4.24 4.81 5.48 5 Nghiến Hvn(cm) 48.12 48.72 50.37 51.37 52.96 54.11 54.96 55.37 55.85 56.22 56.76 8.64 0,86 S% 1.46 1.45 1.38 1.35 1.42 1.49 1.52 1.53 1.53 1.59 1.71 (Nguồn: Kết quả nghiên cứu 2019) Trong đó S% là hệ số biến động.
  49. 39 120 đo lần 1 100 đo lần 2 đo lần 3 80 đo lần 4 đo lần 5 60 đo lần 6 đo lần 7 40 đo lần 8 đo lần 9 20 đo lần 10 đo lần 11 0 Hvn Giổi xanh Hvn Ngọc am Hvn Thông tre Hvn Lim Xanh Hvn Nghiến Hình 4.4: Kết quả sinh trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa Từ kết quả tại bảng 4.7 và Hình 4.4 cho thấy: Sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa sinh trưởng rất tốt, chiều cao của cả 5 loài cây bản địa tăng trưởng rõ rệt qua các lần đo, cụ thể như sau: + Giổi xanh: Có sự tăng trưởng về chiều cao vút gọn có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo cụ thể như sau: Từ lần đo 1-2 bình quân đạt được 1,07cm/tháng; 2-3 đạt 0,41cm/tháng; 3-4 tăng 1,61cm/tháng; 4-5 đạt 1,49cm/tháng; 5-6 tăng 2,04 cm/tháng; 6-7 tăng 1,26cm/tháng; 7-8 tăng 0,65cm/tháng; 8-9 tăng 3,56 cm/tháng; 9-10 tăng 8,33cm/tháng; 10-11 tăng 3,25cm/tháng. Tháng có chiều cao phát triển mạnh nhất là tháng 4 do sau bón phân ( NPK) mưa nhiều cây phát triển tốt về chiều cao. Tháng có chiều cao kém phát triển nhất là tháng 8 do nắng nóng ít mưa cũng như đường kính cây sinh trưởng kém. Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Giổi xanh đạt 23,67cm, tăng trưởng bình quân về chiều cao của Giổi xanh là 2,37cm.
  50. 40 + Ngọc am: Có sự tăng trưởng về chiều cao vút gọn có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo cụ thể như sau: Từ lần đo 1-2 bình quân đạt được 0,96cm/tháng; 2-3 đạt 1,37cm/tháng; 3-4 tăng 0,15cm/tháng; 4-5 đạt 0,70cm/tháng; 5-6 tăng 0,76cm/tháng; 6-7 tăng 0,79cm/tháng; 7-8 tăng 1,75cm/tháng; 8-9 tăng 2,95cm/tháng; 9-10 tăng 4,05cm/tháng; 10-11 tăng 4,10cm/tháng. Tháng có chiều cao phát triển mạnh nhất là tháng 5 do sau bón phân ( NPK) mưa nhiều và đa số cây được trồng ở khu vực đất tơi xốp cây phát triển tốt về chiều cao. Tháng có chiều cao kém phát triển nhất là tháng 9 do khô hanh ít mưa chưa được bổ xung phân bón nên cây sinh trưởng kém. Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Ngọc am đạt 17,58cm, tăng trưởng bình quân về chiều cao của Ngọc am là 1,76 cm. + Thông tre: Có sự tăng trưởng về chiều cao vút gọn có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo cụ thể như sau: Từ lần đo 1-2 bình quân đạt được 2,54cm/tháng; 2-3 đạt 3cm/tháng; 3-4 tăng 10,10cm/tháng; 4-5 đạt 3,38 cm/tháng; 5-6 tăng 5,02cm/tháng; 6-7 tăng 5,08cm/tháng; 7-8 tăng 3,75cm/tháng; 8-9 tăng 7.0cm/tháng; 9-10 tăng 6,91cm/tháng; 10-11 tăng 4,41cm/tháng. Tháng có chiều cao phát triển mạnh nhất là tháng 9 trồng ở khu vực đất tơi xốp có được lớp mùn giữ ẩm nên cây phát triển tốt về chiều cao. Tháng có chiều cao kém phát triển nhất là tháng 7 do nắng nóng khô ít mưa nên cây sinh trưởng kém Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Thông tre đạt 51,19cm, tăng trưởng bình quân về chiều cao của Thông tre là 5,12cm. + Lim xanh: Có sự tăng trưởng về chiều cao vút gọn có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo cụ thể như sau: Từ lần đo 1-2 bình quân đạt được 1,48cm/tháng; 2-3 đạt 1,38cm/tháng; 3-4 tăng 5,04cm/tháng; 4-5 đạt 3,10cm/tháng; 5-6 tăng 4,75cm/tháng; 6-7 tăng 4,9cm/tháng; 7-8 tăng 3,85cm/tháng; 8-9 tăng 3.0cm/tháng; 9-10 tăng 5,35cm/tháng; 10-11 tăng
  51. 41 4,6cm/tháng. Tháng có chiều cao phát triển mạnh nhất là tháng 3 cũng giống như thông tre 2 loại được trồng gần nhau trồng ở khu vực đất tơi xốp có được lớp mùn giữ ẩm nên cây phát triển tốt về chiều cao. Tháng có chiều cao kém phát triển nhất là tháng 8 do khô nóng ít mưa nên cây sinh trưởng sẽ kém về chiều cao. Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Lim xanh đạt 37,45cm, tăng trưởng bình quân về chiều cao của Lim xanh là 3,74cm. + Nghiến: Có sự tăng trưởng về chiều cao vút gọn có sự khác biệt rõ rệt giữa các lần đo cụ thể như sau: Từ lần đo 1-2 bình quân đạt được 0,60cm/tháng; 2-3 đạt 1,65cm/tháng; 3-4 tăng 1cm/tháng; 4-5 đạt 1,59cm/tháng; 5-6 tăng 0,15cm/tháng; 6-7 tăng 0,85cm/tháng; 7-8 tăng 0,41cm/tháng; 8-9 tăng 0,48cm/tháng; 9-10 tăng 0,37cm/tháng; 10-11 tăng 0,54cm/tháng. Tháng có chiều cao phát triển mạnh nhất là tháng 8 do tháng 7 đã được làm cỏ, cây không bị che bóng nên cây phát triển tốt về chiều cao. Tháng có chiều cao kém phát triển nhất là tháng 4 do nghiến là cây sinh trưởng chậm, trên đất lẫn đá nhỏ dễ bị trai cứng việc hấp thụ chất dinh dưỡng là khó khăn nên cây sinh trưởng sẽ kém về chiều cao. Tăng trưởng trung bình từ lần đo đầu đến lần đo cuối của Nghiến đạt 8,64cm, tăng trưởng bình quân về chiều cao của Nghiến là 0.86cm. Từ kết quả trên cho thấy trong 5 loài cây bản địa, loài cây có sinh trưởng bình quân về chiều cao vút gọn cao nhất là Thông tre đạt 51,19 cm, tiếp sau đó là Lim xanh đạt 37,45cm, Giổi xanh đạt 23,67cm, Ngọc am đạt 17,58cm và thấp nhất là Nghiến với 8,64cm. Kết quả trên cho thấy với điều kiện lập địa hoàn toàn mới và được trồng hoàn toàn bằng cây con thì mức độ tăng trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn thực vật như vậy là rất cao và sẽ tiếp tục sinh trưởng tốt với các giai đoạn sau. Ngoài ra còn có một số nghiên cứu khác như: - Theo nghiên cứu của Phạm Văn Toản[17] "Nghiên cứu ảnh hưởng
  52. 42 của chế độ che sáng đến sinh trưởng của cây Giổi xanh (Michelia mediocris dandy) ở giai đoạn vườn ươm" được tiến hành tại vườn ươm của Trung tâm nghiên cứu Lâm Nghiệp vùng núi phía Bắc Việt Nam. Chỉ tiêu thứ 2 về chiều cao, qua nghiên cứu ta thấy rằng mức độ che sáng 50% ánh sáng trực xạ là cao nhất, lần đo thứ nhất Hvn=4,9cm và lần đo thứ hai Hvn=5,6cm. Tuy nhiên sự sai khác giữa các công thức, số lần lặp lại và số lần đo không lớn vì thế tỷ lệ tăng trưởng rất đồng đều. Nhận xét: Từ các kết quả trên ta có thể khẳng định mức độ che bóng có ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng của Giổi xanh. Điều này chứng tỏ cây Giổi xanh cũng có thể trồng và sinh trưởng tốt ở điều kiện tại mô hình chúng tôi nghiên cứu nếu giaai đoạn mới trồng và cây còn bé có biện pháp che bóng thích hợp. - Một nghiên cứu khác của Nguyễn Anh Hoàng[9] " Ảnh hưởng của bón phân và che bóng đến sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythropholeum fodii Oliver) tại vườn ươm trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên". Kết quả theo dõi về khả năng sinh trưởng của cây Lim xanh sau 3 tháng. Đối với công thức bón phân ảnh hưởng tới chiều cao của cây Lim xanh ở giai đoạn vườn ươm sau khi định kỳ tưới phân với 4 công thức. Mức độ sinh trưởng chiều cao của cây có sự thay đổi rõ rệt là ở những lần đo cuối. Trong đó, ở công thức III ( tưới NPK) luôn luôn có khả năng sinh trưởng lớn nhất sau 3 tháng sinh trưởng chiều cao Hvn đạt 15,89cm xếp thứ 2 là công thức II ( tưới nước phân nước sông Gianh), Xếp thứ 3 là công thức I ( phân NTT) và kém nhất là công thức IV ( đối chứng) sau 3 tháng sinh trưởng chiều cao Hvn đạt 12,53cm. Đối với thí nghiệm 2 ảnh hưởng của độ che sáng 50% đối với lim xanh cũng có sự khác biệt Hvn cao nhất cũng là công thức III và thấp nhất cũng là công thức IV nhưng sự khác biệt là không đáng kể.
  53. 43 Nhận xét: Từ kết quả nghiên cứu này có thể khẳng định biện pháp bón thúc mà tôi đã sử dụng trong qua trình chăm sóc các loài cây trong mô hình bản địa là hoàn toàn đúng. Nhận xét chung: Đất khu vực vườn ươm là đất dốc tụ pha cát lẫn với đá nhỏ, đất có màu xám đen, hàm lượng dinh dưỡng trong đất thấp do đã sử dụng nhiều năm. Đất là đất feralit, nguồn gốc của đất xuất phát từ đá sa thạch, độ pH của đất thấp, đất nghèo mùn. Đất có độ màu mỡ thấp nên có một số cây con sinh trưởng và phát triển mức như vậy là tốt còn một số loài cây sinh trưởng bình thường. Từ các nghiên cứu như trên ta có thể khẳng định để cho cây bản địa nói riêng hay cây trồng nói chung để chúng phát triển một cách đồng đều cần chú ý tới việc chăm sóc che bóng khi cây ở giai đoạn nhỏ trong thời tiết nắng gắt và cung cấp cho nó đủ chất dinh dưỡng, nước cần thiết thì cây mới phát triển tốt được. 4.2. Đánh giá tình hình sâu bệnh hại Hình 4.5: Sâu ăn lá trên Thông tre Hình 4.6: Sâu ăn lá trên Nghiến
  54. 44 Bảng 4.4: Tình hình sâu bệnh của 5 loài cây bản địa Tỷ lệ Thời Số STT Tên loài Bệnh cây cây bị Mức độ Biện pháp gian lượng bệnh - Mức độ - Biện pháp Thông tre - Xuất hiện Tháng sâu hại nhẹ, 1 3 27% thủ công dùng (Podocarpus pilgeri) sâu ăn lá 3-4 chỉ xuất tay để bắt sâu. hiện ít - Biện pháp thủ công dùng - Mức độ tay để bắt sâu. Nghiến Tháng sâu hại nhẹ, - Chăm sóc 2 (Burretiodendron - Xuất hiện 4 16.6% 3-4 chỉ xuất làm cỏ và bón hsienmu) sâu ăn lá hiện ít phân giúp cây nhanh chóng phục hồi. Từ bảng 4.4 có thể nhận thấy nhìn chung hầu hết các loài đều không bị sâu bệnh gây hại, riêng chỉ có 2 loài có xuất hiện sâu bệnh hại, trong đó cả 2 đều bị gây hại bởi sâu ăn lá đó là Thông tre và Nghiến. Sâu ăn lá thuộc họ Ngài đêm (Noctuidae), bộ cánh vảy (Lepidotera), sâu non mới nở sống trên lá cây, ăn phần mô lá tạo nên những vết thủng trên bề mặt lá. Ban ngày sâu ẩn nấp dưới mặt đất ngay dưới gốc cây, ban đêm chui lên ăn lá non. Phát sinh vào khoảng thời gian mưa nhiều sau, khi kết thúc quãng thời gian mưa nhiều ẩm ướt, trời nắng lên thì số lượng lá bị hại lại giảm xuống và dần ít đi. Đối với Thông tre qua điều tra thu được tỷ lệ cây bị sâu hại là 27% chiếm 3 trên tổng số 11 cây còn sống. Vì loại sâu hại này ít ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển của Thông tre, số cây bị hại không nhiều và rải rác nên xếp vào cấp II mức độ gây hại nhẹ. Cây nghiến qua điều tra thấy được tỷ lệ số cây nhiễm
  55. 45 bệnh là 16.6% Chiếm 4 trên tổng số 23 cây còn sống xếp nào cấp I mức độ hại không đáng kể. Tôi chỉ tiến hành điều tra, phòng trừ bằng biện pháp cơ giới như: Ngắt bỏ lá bị bệnh, làm cỏ sạch sẽ, đối với sâu hại bắt giết vào sáng sớm và chiều tối và không xử lý bằng phương pháp hóa học. Sau 5 ngày vào kiểm tra 1 lần thấy tình trạng sâu hại đã giảm dần do phát hiện và có biệ pháp kịp thời. Còn lại 3 loài bản địa khác đều sinh trưởng đều và tốt không có dấu hiệu sâu bệnh. 4.3. Hoàn thiện các bước trong xây dựng mô hình vườn cây bản địa tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Trong quá trình trồng và chăm sóc các loài cây bản địa việc áp dụng biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý là hết sức quan trọng. Ở từng giai đoạn sinh trưởng nên áp dụng các biện pháp khác nhau cho phù hợp. Bước 1: Xử lý thực bì Công việc này đòi hỏi người trồng phải tìm hiểu rõ loại đất trồng, tính chất đất cho phù hợp với cây trồng. Việc xử lý thực bì chính là phát dọn tất cả các loài cây bụi, thảm tươi có khả năng ảnh hưởng đến việc cạnh tranh dinh dưỡng với các loài cây bản địa được trồng. Sau đó san ủi lấp hố lấy lại mặt phẳng. Bước 2: Quy hoạch phân lô trồng Do các điều kiện đất cát, sỏi đá lẫn và trơ nền đá mẹ nên sau khi lấp, nhóm nghiên cứu đã xem xét các điều kiện đất để chia khu trồng cho phù hợp theo từng nhóm loài cây như là tầng đất, nơi có khả năng tiếp cận nước, , mật độ. Thiết kế trồng cây theo hàng, theo thiết kế thì mỗi hàng sẽ tương ứng 1 loài cây. Cây được trồng theo hàng, mỗi loài là một hàng trải dọc theo mô hình với mật độ hàng cách hàng 3 mét và cây cách cây 2 mét (3x2).
  56. 46 m 3 2 m Bước 3: Đào hố bón phân chuẩn bị trồng. - Dùng cuốc đào hố với kích thước 40x40x60 - Rắc khoảng 1 – 3 kg phân chuồng hoai mục xuống gốc làm phân lót cho cây. Bước 4: Tiến hành trồng cây Dùng cây con, chủ yếu đã được nuôi dưỡng trong vườn ươm một thời gian, làm nguyên liệu để trồng rừng, đây là phương pháp được áp dụng phổ biến hiện nay. Cây con có đủ rễ, thân, lá nên có sức đề kháng cao, tiết kiệm hạt giống và giảm số lần chăm sóc rừng. Nên trồng cây vào lúc chiều mát sẽ đảm bảo được tỷ lệ sống cao nhất. Cách trồng như sau: 1: Rạch bỏ vỏ bầu và rắc phân lót Một tay cầm bầu, tay kia cầm dao rạch vỏ bầu 1 đường từ trên xuống. 2: Đặt cây xuống hố Đặt cây ngay ngắn giữa hố, mặt bầu thấp hơn mặt hố từ 2-4cm. 3: Lấp đất lần 1 Lấp đất nhỏ phủ kín 2/3 chiều cao bầu, dùng 2 bàn tay nén đất quanh bầu theo chiều thẳng đứng.
  57. 47 4: Lấp đất lần 2 Lấp đất nhỏ phủ kín bầu, nén đất lần 2 tương tự lần 1. 5: Lấp đất lần 3 Lấp đất phủ kín mặt hố (trên cổ rễ cây 1-2cm), vun đất vào gốc cây theo hình mâm xôi. Bước 5: Theo dõi sinh trưởng Trong quá trình điều tra số liệu để dễ dàng hơn cho việc thu thập và điều tra, đã sử dụng biện pháp gắn mã số thẻ cho từng cây, gắn biển cây cho mỗi hàng trong mô hình giúp việc thu thập số liệu tốt hơn. Dùng bút xóa trắng kẻ 1 đường làm mốc ở gốc cây làm chuẩn rồi dùng thước đo từ điểm chuẩn đến đỉnh ngọn sinh trưởng của cây. Tiến hành theo dõi định kỳ cứ 30 ngày đo D00 và Hvn một lần và 15 ngày đối với sâu bệnh hại. Cần theo dõi tình hình sinh trưởng của cây để đảm bảo cây sinh trưởng đều, có kế hoạch trồng dặm khi cây bị chết. Bước 6: Chăm sóc cây trồng Tưới nước: tưới nước đều trong giai đoạn đầu vì là cây non, ngày nào cũng tưới trong 30 ngày đầu. Làm cỏ nhằm trừ bỏ hệ rễ và thân cành lá của cây cỏ dại, do đó loại bỏ khả năng tranh dành nước, chất dinh dưỡng, ánh sáng của cây cỏ dại với cây trồng. Nhìn chung cây cỏ dại là có hại cho cây trồng, cần phải diệt tận gốc. Xới đất: Làm cho đất tơi xốp, phá vỡ mặt đất bị đóng váng, giảm bốc hơi nước tạo điều kiện cho đất giữ và thấm nước tốt hơn ở nước ta hầu hết đất trồng rừng đều khô hạn, chặt cứng, cho nên khi chăm sóc phải xới đất. Làm cỏ, xới đất là hai công việc thường được tiến hành cùng một lúc. Làm cỏ xới đất có thể tiến hành theo phương thức toàn diện hoặc cục bộ. Phương thức toàn diện được áp dụng ở nơi có địa hình bằng phẳng hoặc độ dốc dưới 50, nơi trồng nông lâm kết hợp.
  58. 48 Làm cỏ xới đất theo hố là làm cỏ xới đất xung quanh gốc cây trồng với đường kính từ 0.6 đến 1.2m, độ sâu xới đất tốt nhất nên sâu hơn hệ rễ cỏ dại, không được làm tổn thương đến hệ rễ cây trồng. Làm cỏ xới đất thường kết hợp vun gốc, thông thường vun cao 10-20cm Bón thúc: Bón thúc thường kết hợp với các lần chăm sóc, tuỳ theo mức độ thâm canh mà số lần bón, liều lượng bón mỗi lần có khác nhau. Thông thường có thể sử dụng các lại phân bón với liều lượng như sau: Phân chuồng hoai 1-3 kg/cây, Phân NPK 0.1 – 0.2 kg/cây, Phân vi sinh 0.1 – 0.2 kg/cây Có thể bón phối hợp các loại phân trên. Phương pháp bón là bón tập trung vào gốc cây. Cần áp dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, phòng trừ bằng biện pháp cơ giới như: Ngắt bỏ lá bị bệnh, làm cỏ sạch sẽ, đối với sâu hại bắt giết vào sáng sớm và chiều tối và không xử lý bằng phương pháp hóa học. Sau khi tiến hành các biện pháp cứ 5 ngày vào kiểm tra 1 lần tình trạng sâu hại. 4.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm mục đích phát triển mô hình vườn cây bản địa 4.4.1. Về kỹ thuật - Tạo hố trồng sâu tại các khu vực có nhiều sỏi đá 40x40x80cm khoảng cách trồng giữa các hố trồng là 3m x 2m, có thể xa hơn tùy vào địa hình và bón nhiều phân hữu cơ trước khi trồng tại các khu đất nhiều sỏi đá, đất cát nhiều tầng đất mỏng. - Nên trồng cây họ đậu xen kẽ để hạn chế cỏ dại xấm lấn cũng như cải tạo đất tăng dinh dưỡng cho cây (lạc dại, đậu đỗ các loại ) - Tạo hệ thống tưới nước đầy đủ để hạn chế tác động thời tiết khô hạn và khô hanh. - Bón phân chu kỳ hàng tháng bằng phân bón thúc NPK vào 2 đợt tháng 10 và tháng 2 sau đợt mưa ẩm.
  59. 49 - Xây dựng hàng dào để hạn chế sự xâm nhập của người dân và cả gia súc của người dân chăn thả gần đó. Giải pháp tạo nên một hiệu quả rất cao do cây được bảo vệ tốt đồng nghĩa sẽ có thể sinh trưởng một cách toàn vẹn nhất. 4.4.2. Về nguồn lực Cần duy trì công tác chăm sóc bảo vệ thường xuyên làm cỏ theo định kỳ, bón phân tưới nước, thường xuyên theo dõi tình hình sâu bệnh hại. Đặc biệt là mô hình gần khu dân cư cần có phải kiểm tra nhằm hạn chế sự mất mát số lượng cây. Với diện tích mô hình rộng đòi hỏi người chăm sóc phải có thời gian, chăm chỉ mới hoàn thành được.
  60. 50 PHẦN 5 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Qua những nghiên cứu, đánh giá sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng trong mô hình vườn cây bản địa tại Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, đề tài rút ra một số kết luận sau đây: - Sinh trưởng về đường kính sát gốc D(00) của 5 loài bản địa dao động từ 0,18cm đến 0,95cm cao nhất ở loài Lim xanh 0,95cm, sau đó là Giổi xanh với tăng trưởng trung bình là 0,80cm, Thông tre là 0,71cm, Ngọc am là 0,40cm và thấp nhất ở cây Nghiến là 0,18cm. - Sinh trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa sau điều tra số liệu, dao động từ 8,64cm đến 51,19cm và chiều cao vút gọn cao nhất là Thông tre đạt 51,19cm, tiếp sau đó là Lim xanh đạt 37,45cm, Giổi xanh đạt 23,67cm, Ngọc am đạt 17,58cm và thấp nhất là Nghiến với 8,64cm. Các khâu chăm sóc và thời điểm trồng cây phù hợp do có lượng mưa và độ ẩm cao tốt cho cây sinh trưởng ở trong các giai đoạn. Từ những kết quả trên cho thấy các loài cây bản địa đang sinh trưởng tốt trong môi trường lập địa của mô hình vườn thực vật. Đã có thể sử dụng cho mục đích học tập và nghiên cứu cho sinh viên trong trường nhất là khoa Lâm Nghiệp. Nhìn chung hầu hết các loài đều không bị sâu bệnh gây hại, riêng chỉ có 2 loài có xuất hiện sâu bệnh hại, trong đó cả 2 đều bị gây hại bởi sâu ăn lá đó là Thông tre và Nghiến. Đối với Thông tre qua điều tra thu được tỷ lệ cây bị sâu hại là 27% chiếm 3 trên tổng số 11 cây còn sống. Vì loại sâu hại này ít ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển của Thông tre, số cây bị hại không
  61. 51 nhiều và rải rác nên xếp vào cấp II mức độ gây hại nhẹ. Cây nghiến qua điều tra thấy được tỷ lệ số cây nhiễm bệnh là 16.6% Chiếm 4 trên tổng số 23 cây còn sống xếp nào cấp I mức độ hại không đáng kể. Tôi chỉ tiến hành điều tra, phòng trừ bằng biện pháp cơ giới như: Ngắt bỏ lá bị bệnh, làm cỏ sạch sẽ, đối với sâu hại bắt giết vào sáng sớm và chiều tối và không xử lý bằng phương pháp hóa học. Còn lại 3 loài bản địa khác đều sinh trưởng đều và tốt không có dấu hiệu sâu bệnh. 5.2. Tồn tại Do đối tượng là cây bản địa và thời gian sinh trưởng chậm nên để nhìn thấy kết quả hoàn toàn của đề tài trong một khoảng thời gian ngắn là rất khó. Do các loài cây bản địa được sưu tầm về từ các nơi khác nhau, trong thời điểm nhiệt độ nóng đỉnh điểm của miền bắc và còn được trồng tại vị trí cao, xa nguồn nước trong mô hình nên việc chăm sóc ở giai đoạn đầu gặp rất nhiều khó khăn. Do lứa tuổi của các loài cây bản địa nhỏ nên việc chăm sóc và bảo vệ gặp nhiều khó khăn như: Phòng tránh xâm lấn của cỏ và có thể là gia súc của người dân chăn thả gần đó. 5.3. Kiến nghị Cần mở rộng thêm các nghiên cứu để tiếp tục điều tra sinh trưởng của các loài cây bản địa nói riêng và các loài cây bản địa khác trong mô hình nói chung. Cần thêm kinh phí để thực hiện việc làm hàng rào bảo vệ ngăn cách giữa vườn thực vật và khu dân cư sống gần mô hình. Cần thêm kinh phí để thực hiện biện pháp ngăn chặn việc xâm lấn của cỏ đối với các loài cây bản địa và các loài cây bản địa khác trong vườn thực vật.
  62. 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Bộ NN&PTNT (2004), Cẩm nang ngành Lâm nghiệp, NXB Thống kê. 2. Bộ NN&PTNT (2010), Quyết định số 2140/QĐ – BNN – TCLN, ngày 9/8/2010 về việc công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2009, Hà Nội. 3. Nguyễn Bá Chất (1996), “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm học và biện pháp kỹ thuật gây trồng loài lát hoa”, Luận án Tiến sỹ khoa học Lâm Nghiệp. 4. Lê Minh Cường (2007), “ Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số loài cây lá rộng bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ ở Đại Lải – Vĩnh Phúc làm cơ sở để chuyển hóa rừng trồng thuần loài thành rừng hỗn loài”, Luận văn thạc sĩ khoa học Lâm nghiệp, Trường Đại Học Lâm Nghiệp, Hà Tây. 5. La Quang Độ. Bài giảng thực vật rừng 6. Nguyễn Minh Đức (1998) nghiên cứu sinh trưởng loài Lim xanh tại vườn quốc gia Bến En – Thanh Hóa 7. Võ Đại Hải (1996), Nghiên cứu các dạng cấu trúc hợp lý cho rừng phòng hộ đầu nguồn ở Việt Nam. Luận án phó tiến sỹ khoa học nông nghiệp. 8. Phạm Xuân Hoàn (2002), “ Đặc điểm một số nhân tố tiểu hoàn cảnh của rừng trồng thí nghiệm hỗn giao cây lá rộng nhiệt đới tại phân khu phục hồi sinh thái Vườn quốc gia Cát Bà - Hải Phòng, Trường Đại Học Lâm Nghiệp, Hà Tây”. 9. Nguyễn Anh Hoàng (2013), " Ảnh hưởng của bón phân và che bóng đến sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythropholeum fodii Oliver) tại vườn ươm trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên" 10. Phùng Ngọc Lan (1986) đã cho thấy rừng hỗn loài ở Núi Luốt (Trường Đại học Lâm nghiệp – Xuân Mai) giữa Thông đuôi ngựa với Keo lá tràm
  63. 53 (Acacia auriculiformis) và Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis) theo các tỷ lệ, mật độ, phương thức, thời điểm khác nhau. 11. Nguyễn Ngọc Lung, Võ Đại Hải (1996), Kết quả bước đầu nghiên cứu tác dụng phòng hộ nguồn nước của một số thảm thực vật chính và các nguyên tắc xây dựng rừng phòng hộ . NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 12. Trần Ngũ Phương (2000), Một số vấn đề về rừng nhiệt đới ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Hồ Ngọc Sơn, (2015) Giáo trình Nguyên lý bảo tồn, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên 14. Hoàng Văn Thắng (2007), “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng hỗn loài cây lá rộng bản địa cung cấp gỗ lớn ở Ngọc Lặc – Thanh Hóa và Cầu Hai – Phú Thọ”, Luận văn thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp, Trường Đại học Lâm Nghiệp, Hà Tây. 15. Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005), “Nghiên cứu đánh giá rừng trồng hỗn giao dự án KFW ở Bắc Giang và Lạng Sơn”. 16. Nguyễn Đức Thế (2007), “Nghiên cứu sinh trưởng của Lát hoa, Trám trắng, Giổi xanh và Bạch đàn trồng thí nghiệm hỗn giao tại Đoan Hùng - Phú Thọ, Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy, Phú Thọ”. 17. Phạm Văn Toản (2012), "Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che sáng đến sinh trưởng của cây Giổi xanh (Michelia mediocris dandy) ở giai đoạn vườn ươm" được tiến hành tại vườn ươm của Trung tâm nghiên cứu Lâm Nghiệp vùng núi phía Bắc Việt Nam. 18. Lê Anh Tuấn (1999) đã nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu kỹ thuật gây trồng và sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng thử nghiệm tại Vườn thực vật - Vườn Quốc gia Cúc Phương”. 19. Tên cây rừng Việt Nam. Nhà xuất bản nông nghiệp năm 2000.
  64. 54 20. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam - Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (2000), Sử dụng cây bản địa vào trồng rừng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, HN. II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH 21. Julian Evans (1982), Plantation Forestry in the tropics, Oxford University Press 22. The Multi - Storied Forest Management in Malaysia, 1999.
  65. PHỤ LỤC 1. Biểu theo dõi sinh trưởng của cây Tên cây Giổi Ngọc am Thông tre Lim xanh Nghiến STT D00 Hvn D00 Hvn D00 Hvn D00 Hvn D00 Hvn 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
  66. Bảng thu thập số liệu từng chỉ tiêu cho từng loài Bảng thu thập số liệu đường kính sát gốc D00 Tên Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần loài 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Cây 1 Cây 2 Cây 3 Cây 4 Cây 5 Cây 6 Cây 7 Cây 8 Cây 9 Cây 10 Cây 11 Cây 12 Cây 13 Cây 14
  67. Bảng thu thập số liệu chiều cao Hvn Tên Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần Lần loài 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Cây 1 Cây 2 Cây 3 Cây 4 Cây 5 Cây 6 Cây 7 Cây 8 Cây 9 Cây 10 Cây 11 Cây 12 Cây 13 Cây 14 .
  68. Bảng theo dõi đánh giá tình hình sâu bệnh hại STT Tên loài Triệu chứng Đánh giá Giổi xanh (Magnolia 1 hypolampra) 2 3 . . 4 . 5 6
  69. Danh sách các loài cây trồng trong mô hình khoa lâm nghiệp STT Tên loài Tên danh pháp Số lượng Ngày trồng 1 Sao đen Hopea odorata 45 18/10/2017 2 Long não Cinnamamun camphora 19 18/10/2017 Michelia mediocris 3 Giổi 18 18/10/2017 Dandy 4 Ngọc am Cupressus funebris 21 18/10/2017 5 Bách xanh Calocedrus macrolepis 8 18/10/2017 6 Xoan Melia azedarach 39 18/10/2017 7 Lát hoa Chukrasia tabularis 30 18/10/2017 8 Dẻ Castanea sativa 12 18/10/2017 Cinnamomum 9 Re hương 30 18/10/2017 parthenoxylon Cinamomum balansae 10 Gù hương 38 18/10/2017 lecomte 11 Đinh hương Syzygium aromaticum 128 18/10/2017 12 Thông tre Fodocarpus neriifolius 20 18/10/2017 13 Chò chỉ Parashorea chinensis 30 18/10/2017 14 Trai lí Fagraea fragrans 17 18/10/2017 15 Lim xanh Erythrophleum fordii 28 18/10/2017 16 Sưa đỏ Dalbergia tonkinensis 9 18/10/2017 Burretiodendron 17 Nghiến 29 18/10/2017 hsienmu 18 Kim giao Nageia fleuryi 20 18/10/2017 19 Cẩm lai Dalbergia bariaensis 16 18/10/2017 Aphanamixis 20 Gội nước 17 18/10/2017 polystachya
  70. Mô hình trồng cây bản địa 2. Dụng cụ đo: Thước dây và thước kẹp