Khóa luận Khảo sát kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại Bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017

pdf 52 trang thiennha21 18/04/2022 4251
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Khảo sát kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại Bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_khao_sat_kien_thuc_va_thuc_hanh_ve_an_toan_truyen.pdf

Nội dung text: Khóa luận Khảo sát kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại Bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ KHOA DƯỢC – ĐIỀU DƯỠNG TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG MÃ SỐ: 51720501 KHẢO SÁT KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ AN TOÀN TRUYỀN MÁU CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2017 Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện Ths. TRẦN TRÚC LINH ĐOÀN THỊ TRÚC LY MSSV: 13D720501021 LỚP: ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG 8 Cần Thơ, năm 2017
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ KHOA DƯỢC – ĐIỀU DƯỠNG TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG MÃ SỐ: 51720501 KHẢO SÁT KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ AN TOÀN TRUYỀN MÁU CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2017 Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện Ths. TRẦN TRÚC LINH ĐOÀN THỊ TRÚC LY MSSV: 13D720501021 LỚP: ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG 8 Cần Thơ, năm 2017
  3. LỜI CẢM TẠ Để hoàn thành tiểu luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn: Quý thầy cô trong Ban Giám hiệu, phòng Đào tạo, khoa Dược - Điều dưỡng, các phòng ban của trường Đại học Tây Đô đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện tiểu luận này. Cô Ths. Trần Trúc Linh, người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện tiểu luận. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám đốc, Bác sĩ và Điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thu thập số liệu. Các bạn đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã động viên, ủng hộ tôi trong quá trình học cũng như thực hiện tiểu luận này. Sinh viên Đoàn Thị Trúc Ly i
  4. LỜI CAM KẾT Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số liệu thu được trong tiểu luận là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Sinh viên Đoàn Thị Trúc Ly ii
  5. TÓM TẮT An toàn truyền máu là một trong những yêu cầu cơ bản của truyền máu. An toàn truyền máu là một quy trình khép kín từ việc chỉ định truyền máu đúng, sử dụng đúng máu và các chế phẩm phù hợp, theo dõi và xử trí tốt các biểu hiện trong quá trình truyền máu, theo dõi các tai biến có thể xảy ra trong và sau khi truyền nhằm hạn chế và phòng ngừa các phản ứng bất lợi có thể ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân cũng như sức khỏe của bệnh nhân về sau. An toàn truyền máu ngày nay được hiểu theo nghĩa rộng là an toàn cho người cho máu, an toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu và an toàn cho người nhận máu. Hiện nay, tại các cơ sở điều trị, công tác truyền máu thường do điều dưỡng đảm nhận, do đó người điều dưỡng giữ vai trò hết sức quan trọng, cuối cùng của việc thực hiện truyền máu an toàn. Vì vậy, yêu cầu người điều dưỡng cần có đầy đủ kiến thức và kỹ năng về an toàn truyền máu là điều rất cần thiết tại cơ sở y tế. Xuất phát từ thực tế trên nên đề tài: “Khảo sát kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017” được tiến hành nghiên cứu. Đề tài được tiến hành nhằm 2 mục tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đúng về an toàn truyền máu tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017. 2. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có thực hành đúng về an toàn truyền máu tại bệnh viện đa khoa Thành phồ Cần Thơ năm 2017. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Kết quả: kiến thức và thực hành của điều dưỡng về an toàn truyền máu còn rất hạn chế, điều dưỡng có kiến thức đúng đạt chiếm 21,1%, điều dưỡng có thực hành đúng đạt chiếm 42,2%; còn 9,2% điều dưỡng thỉnh thoảng hoặc không làm phản ứng chéo tại giường trước khi truyền máu; 87,2% điều dưỡng có thực hiện phản ứng vi sinh vật khi truyền máu; 42,2% điều dưỡng không nhớ thời gian làm nguội máu trước khi truyền; có 55% điều dưỡng biết được nhiệt độ thích hợp để bảo quản máu là 2-6 0C; hơn 85% điều dưỡng biết được các chỉ định truyền máu và 99,1% điều dưỡng biết truyền máu cùng nhóm là tốt nhất; đa số các điều dưỡng biết được các vấn đề cần theo dõi trong suốt quá trình truyền máu chiếm gần 80% và có 94,5% điều dưỡng biết ngừng truyền máu ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường; có 64,2% điều dưỡng biết được thể tích máu cần giữ lại trong túi máu khi kết thúc truyền máu, . Kết luận: việc nâng cao kiến thức và thực hành an toàn truyền máu cho điều dưỡng là rất quan trọng, vì vậy cần tăng cường tập huấn và giám sát thường xuyên quy trình truyền máu nhằm đảm bảo an toàn cho người bệnh. iii
  6. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CẢM TẠ i LỜI CAM KẾT ii TÓM TẮT iii MỤC LỤC iv DANH MỤC BẢNG vi DANH MỤC CÁC HÌNH vii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT viii CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỂN MÁU 3 2.1.1. Lịch sử phát triển truyền máu của thế giới 3 2.1.2. Lịch sử phát triển truyền máu của Việt Nam 4 2.2. KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ AN TOÀN TRUYỂN MÁU 5 2.2.1. Định nghĩa 5 2.2.2. Các trường hợp được và không được truyền máu 6 2.2.3. Nguyên tắc trong truyền máu 7 2.2.4. Ý nghĩa trong thực hành truyền máu 8 2.3. TAI BIẾN THƯỜNG GẶP DO TRUYỀN MÁU VÀ BIỆN PHÁP XỬ TRÍ 8 2.3.1. Các tai biến truyền máu do miễn dịch 8 2.3.2. Các tai biến truyền máu do nhiễm trùng 9 2.3.3. Tai biến do truyền máu khối lượng lớn 9 2.3.4. Tai biến khác 10 2.4. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ AN TOÀN TRUYỀN MÁU 10 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 12 3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 12 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 12 3.1.2. Tiêu chuẩn chọn mẫu 12 3.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ 12 3.1.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 12 3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 12 3.2.1. Thiết kế nghiên cứu 12 3.2.2. Cỡ mẫu 12 iv
  7. 3.2.3. Phương pháp chọn mẫu 12 3.2.4. Nội dung nghiên cứu 12 3.2.5. Phương pháp thu thập số liệu 15 3.2.6. Phương pháp sai lệch 15 3.2.7. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 15 3.3. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU 15 CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 17 4.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 17 4.2. THẢO LUẬN 24 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 30 5.1. KẾT LUẬN 30 5.2. ĐỀ NGHỊ 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC v
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức về an toàn truyền máu 13 Bảng 3.2. Nội dung đánh giá kiến thức 13 Bảng 3.3. Tiêu chuẩn đánh giá thực hành về an toàn truyền máu 14 Bảng 3.4. Nội dung đánh giá thực hành 14 Bảng 4.1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu 17 Bảng 4.2. Y lệnh truyền máu tại khoa 17 Bảng 4.3. Nguồn tiếp nhận thông tin về an toàn truyền máu 18 Bảng 4.4. Số nguồn tiếp nhận thông tin 18 Bảng 4.5. Các chỉ định truyền máu 19 Bảng 4.6. Nhóm máu truyền được an toàn 19 Bảng 4.7. Sơ đồ truyền máu hệ ABO 19 Bảng 4.8. Số máu tối đa khi truyền máu khác nhóm 20 Bảng 4.9. Nhiệt độ thích hợp khi bảo quản máu 20 Bảng 4.10. Các tai biến xảy ra khi truyền máu 20 Bảng 4.11. Thực hiện phản ứng chéo tại giường 21 Bảng 4.12. Thực hiện phản ứng sinh vật học trước khi truyền máu 21 Bảng 4.13. Thời gian cần thiết để làm nguội máu trước khi truyền 22 Bảng 4.14. Nhiệm vụ theo dõi bệnh nhân trong suốt quá trình truyền máu 22 Bảng 4.15. Việc làm đầu tiên khi có dấu hiệu bất thường 22 Bảng 4.16. Thể tích cần giữ lại trong túi máu khi kết thúc truyền máu 22 Bảng 4.17. Những vấn đề cần theo dõi khi truyền máu 23 vi
  9. DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1. Sơ đồ truyền máu hệ ABO 7 Hình 4.1. Đánh giá kiến thức về an toàn truyền máu 18 Hình 4.2. Đánh giá thực hành về an toàn truyền máu 21 vii
  10. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ATTM An toàn truyền máu ĐD Điều dưỡng NM Nhóm máu SK Sức khỏe AT An toàn TM Truyền máu BN Bệnh nhân TB Tai biến viii
  11. CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU Trong thực hành y khoa, máu rất quan trọng và cần thiết cho việc điều trị nội khoa, cấp cứu ngoại khoa và sản khoa; đồng thời nó cũng rất cần trong việc triển khai nhiều kỹ thuật cao như ghép tạng, mổ tim, Nhờ có máu mà nhiều bệnh nhân đã được cứu sống. Tuy nhiên, việc truyền máu có thể gây ra nhiều tai biến nghiêm trọng nếu không được bảo đảm và tuân thủ các nguyên tắc về an toàn truyền máu [9]. Truyền máu là một phương pháp điều trị không thể thiếu trong rất nhiều chuyên khoa. Bên cạnh việc cứu sống bệnh nhân, mang lại hiệu quả điều trị mà chưa có một dược phẩm nào thay thế được, các phản ứng miễn dịch của truyền máu có thể gây tử vong trước mắt và ảnh hưởng sức khỏe người bệnh về sau nếu việc truyền máu không tuân thủ đúng quy chế truyền máu [14]. Hàng năm toàn thế giới (176 nước) có trên 100 triệu đơn vị máu được thu thập để truyền cho người bệnh, tuy nhiên con số này so với nhu cầu điều trị vẫn còn rất thiếu. Mỗi năm có khoảng 500.000 phụ nữ chết khi sinh con, hầu hết những phụ nữ này thuộc các nước đang phát triển và trong số các trường hợp trên có 25% người mẹ sinh con bị chết vì mất máu nặng. Máu quan trọng như vậy nhưng truyền máu cũng có thể làm lây truyền một số bệnh từ người cho máu sang người bệnh nếu các nguyên tắc về an toàn truyền máu không được tôn trọng [6]. Báo cáo hàng năm tại Anh cho thấy việc không xác định nhóm máu và các thành phần của nó, xác định sai bệnh nhân và không kiểm soát bệnh nhân trong quá trình truyền máu là nguyên nhân chính xảy ra các nguy cơ sai lầm nghiêm trọng của việc truyền máu [17]. Tại Việt Nam, vấn đề về an toàn truyền máu chưa được xác định đầy đủ. Có rất ít tài liệu và giám sát về an toàn truyền máu được công bố. Tình hình ở nước ta nhu cầu máu rất lớn, với gần 80 triệu dân, với số lượng người bệnh hàng năm chúng ta cần khoảng 400.000 lít máu [14]. Năm 2013, tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ sử dụng hơn 7.000 đơn vị máu để điều trị cho người bệnh cùng với sự phát triển các chuyên khoa sâu, theo dự đoán số lượng máu sử dụng sẽ tăng hơn nữa vào những năm mới. An toàn truyền máu là một chuỗi các hoạt động gắn kết chặt chẽ và đan xen với nhau; bất kỳ một mắc xích nào trong chuỗi hoạt động này không được thực hiện bảo đảm đúng nguyên tắc quy định thì sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người bệnh [9]. Hiện nay, tại các cơ sở điều trị, công tác truyền máu thường do điều dưỡng đảm nhận, do đó người điều dưỡng giữ vai trò hết sức quan trọng, cuối cùng của việc thực hiện truyền máu an toàn. Vì vậy, yêu cầu người điều dưỡng cần có đầy đủ kiến thức và kỹ năng về an toàn truyền máu là điều rất cần thiết tại cơ sở y tế [14]. Xuất phát từ thực tế trên nên đề tài: “Khảo sát kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều 1
  12. dưỡng tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017” được tiến hành nghiên cứu. Đề tài được tiến hành nhằm 2 mục tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đúng về an toàn truyền máu tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017. 2. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có thực hành đúng về an toàn truyền máu tại bệnh viện đa khoa Thành phồ Cần Thơ năm 2017. 2
  13. CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỀN MÁU 2.1.1. Lịch sử phát triển truyền máu thế giới Thời cổ xưa, khi hệ thống các nhóm máu (NM) chưa được phát hiện, con người đã phải chứng kiến một thực tế phũ phàng là người thân (bệnh nhân) của họ đã phải chết do mất máu nặng mà họ không làm gì được. Đã có thời kỳ con người dùng máu súc vật truyền cho người với hy vọng cứu sống được người thân của mình, nhưng họ đã thất bại thảm hại [12]. Tất cả thành công của truyền máu (TM) đều được bắt đầu ở thế kỷ XIX và phát triển mạnh ở thế kỷ XX. Nền tảng cho nghiên cứu về TM được bắt đầu từ kết quả nghiên cứu giải phẩu của Williams Harvey ông đã chứng minh rằng máu chảy trong hệ tuần hoàn, có hai hệ thống: động mạch đẩy máu đi và tĩnh mạch đưa máu trở lại tim. Nhờ vậy có thể lấy máu ra khỏi cơ thể và cũng có thể đưa máu vào hệ tuần hoàn qua hệ thống mạch máu [6]. - Sang thế kỷ thứ XIX: năm 1818 Blundell (1790-1977) đã làm sống lại TM. Ông đã tiến hành TM trực tiếp từ người sang người. Blundell đã TM người cho 10 người khác bằng xilanh, 5 người sống và 5 người tử vong. Các bệnh nhân (BN) đều được ghi chép tỉ mỉ và ông kết luận rằng, TM động vật cho người là không được, TM người cho người có kết quả ở một số BN. Kết quả này phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có yếu tố kỹ thuật, máu đông, bơm tiêm TM và sự khác nhau giữa các cá thể trong cùng một loài .Đây là kết quả rất quan trọng cho nghiên cứu tiếp theo [6]. - Tới thế kỷ XX: vấn đề bí ẩn của truyền máu đã được mở ra: + Năm 1900, Karl Landsteiner phát hiện ra hệ nhóm máu ABO, mở đầu cho kỷ nguyên TM. Thoạt nhiên, K.Landsteiner xác định 2 kháng nguyên A và B, cùng với hai kháng thể tương ứng là Anti-A và Anti-B, từ đó có 3 nhóm hồng cầu A, B và O [13]. Ông đã mở ra các điều bí ẩn TM người cho người gây tử vong và tạo dựng các hướng nghiên cứu mới: miễn dịch huyết học, miễn dịch ghép, di truyền, nguồn gốc loài người và y học pháp lý [6]. + Năm 1940, Landsteiner và Wiener đã tiến hành một thực nghiệm trên khỉ Macacus Rhesus, và đã phát hiện ra hệ nhóm máu Rh. Sự phát triển ra nhóm máu hệ Rh đã giải thích được những trường hợp vàng da tan máu ở trẻ sơ sinh. Khác với NM hệ ABO, hệ Rh chỉ có kháng nguyên mà không có kháng thể tự nhiên. Kháng nguyên đầu tiên của hệ Rh được phát hiện là kháng nguyên D, người có kháng nguyên D trên bề mặt hồng cầu được gọi là người có NM Rh dương và người không có kháng nguyên D trên bề mặt hồng cầu được gọi là người có NM Rh âm [8]. Đây là tiến bộ mới, được coi như công trình thế kỷ trong công tác bảo vệ sức khỏe (SK) con người. 3
  14. + Do nhu cầu máu trong điều trị ngày càng tăng, Braxton (1869) đưa ra dung dịch chống đông bằng phosphate. Sau đó Weil (1915) đã đưa ra dung dịch citrate, dung dịch này dùng suốt thời gian đại chiến thứ nhất. Loutit (1943) đã phát hiện ra công thức ACD (acide - citrate - dextrose) để chống đông lượng máu lớn. Năm 1970 do nhu cầu bảo quản máu lâu hơn nên ACD được thay thế bằng CPD (citrate - phosphate - dextrose). + Ngân hàng máu đầu tiên được xây dựng tại một bệnh viện ở Chicago (1936). Năm 1940 ở Mỹ, nước đầu tiên đã tổ chức chương trình thu gom máu qua Hội Chữ Thập đỏ [6]. Năm 1947 Cohn đã thành công nghiên cứu tách các thành phần huyết tương bằng ethanol lạnh (cold ethanol). Cuối thế kỷ XX, vai trò bạch cầu trong an toàn truyền máu (ATTM) đã được đề cập, bạch cầu trong máu bảo quản tạo ra nhiều chấ gây sốt, gây dị ứng ứng như prostaglandin, histamine, làm cho chất lượng máu bị thay đổi. + Một trong các thành tựu lớn của thế kỷ XX và đang được phát triển của thế kỷ XXI là vấn đề tế bào gốc (Stam cells) ứng dụng trong điều trị bệnh. Từ những năm 70 của thế kỷ trước cùng với các hiểu biết củ kháng nguyên bạch cầu HLA, các chất ức chế miễn dịch và các cytokin tạo máu, ghép tủy tế bào gốc sinh máu đã phát triển thêm một bước mới [6]. 2.1.2.Lịch sử phát triển truyền máu của Việt Nam - Ở Việt Nam, TM được bắt đầu áp dụng từ các năm đầu thập kỷ 40 tại các bệnh viện ở Hà Nội, Sài Gòn. Phương pháp lúc đó là truyền trực tiếp từ người cho sang người nhận qua máy Touvolet hay một cách thụ động hơn qua các bơm tiêm cỡ lớn [12]. - Cuối năm 1945, trung tâm TM đầu tiên được hình thành ở Viện Grall Sài Gòn. Sau đó một là một trung tâm mới được xây dựng tại Gò Vấp, Sài Gòn. Trung tâm TM đầu tiên ở Hà Nội được thành lập từ tháng 7-1948 tại Viện Pasteur Hà Nội. Do nhu cầu cầu quân đội Pháp nên hai trung tâm TM ở Nam Định (tháng 4-1951) và Hải Phòng (tháng 10-1953) được thành lập thêm [12]. - Từ năm 1993-2005: truyền máu Việt Nam phát triển toàn diện theo hướng phát triển của truyền máu hiện đại của khu vực và thế giới. + Vận động cho máu tình nguyện quy mô toàn quốc bắt đầu từ 24/01/1994. Một năm sau (1995) Bộ Y tế và Hội Chữ Thập đỏ quyết định lấy ngày 6/1 là ngày bầu cử khóa quốc hội đầu tiên 1946 làm ngày động viên toàn dân tham gia hiến máu, tới năm 2000 Chính phủ quyết định đổi sang ngày 7/4 ngày SK toàn cầu giành cho ATTM làm ngày cổ động hiến máu toàn quốc [6]. + Tháng 01/1995 Bộ Y tế - Tài chính - Kế hoạch đã xây dựng giá tiền cho một đơn vị máu. Đổi mới trang thiết bị thu gom và bảo quản máu từ chai thay bằng túi dẻo, thay giường bằng ghế lấy máu, xây dựng tủ lạnh bảo quản máu và huyết tương. Sàng lọc đủ 4
  15. 5 bệnh nhiễm trùng theo yêu cầu của Tổ chức y tế thế giới: HIV, giang mai, sốt rét, HBV, HCV. - Truyền máu luôn được coi là một trong những chiến lược ưu tiên hàng đầu do dịch HIV/AIDS ngày càng lan rộng trong cộng đồng và tỷ lệ nhiễm HIV từ 5-10% trên toàn thế giới thông qua truyền máu và các chế phẩm máu. Việc lây nhiễm này có thể được loại trừ nếu biết phối hợp và thực hiện tốt chương trình Truyền máu quốc gia [3]. - Ở Việt Nam, TM là một bộ phận của hệ thống huyết học và truyền máu [1]. Tại trung ương Viện huyết học - truyền máu được đặt tại bệnh viện Bạch Mai, tại tuyến tỉnh, thành phố bộ phận TM này thường được đặt trong khoa huyết học và truyền máu. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của hệ thống y tế trong toàn quốc, công tác TM cũng ngày càng được củng cố và nâng cao nhờ sự quan tâm của Nhà nước nói chung và của ngành y tế nói riêng [1]. 2.2. KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ AN TOÀN TRUYỀN MÁU 2.2.1. Định nghĩa 2.2.1.1. Máu Máu là một tổ chức di động được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế bào (hồng cấu, bạch cầu, tiểu cầu) và huyết tương. Chức năng chính của máu là cung cấp các chất nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức cũng như loại bỏ các chất thải trong quá trình chuyển hóa của cơ thể như khí carbonic và acid lactic. Máu cũng là phương tiện vận chuyển của các tế bào và các chất khác nhau như amino acid, lipid, hormone giữa các tổ chức và cơ quan trong cơ thể. 2.2.1.2. Truyền máu Theo quy chế TM (2007), TM lâm sàng là các hoạt động liên quan đến việc đưa máu và các chế phẩm máu vào trong mạch máu của người nhận [2]. TM là một khâu trọng yếu của hệ thống cấp cứu và điều trị thương bệnh binh, BN và nạn nhân. Muốn TM hiệu quả và an toàn (AT), điều cấp thiết là phải có đủ số lượng máu và đảm bảo đúng chất lượng [7]. TM được sử dụng trong nhiều tình huống, nhiều chuyên khoa nhằm bổ sung cho sự thiếu hụt một hoặc nhiều thành phần trong máu của người bệnh. BN thiếu máu có thể được TM toàn phần hoặc các chế phẩm như: khối hồng cầu, khối bạch cầu, khối tiểu cầu, các chế phẩm huyết tương, tùy thuộc vào tình trạng bệnh [10]. 2.2.1.3. An toàn truyền máu ATTM là một trong những yêu cầu cơ bản của truyền máu [10]. ATTM là một quy trình khép kín từ việc chỉ định truyền máu đúng, sử dụng đúng máu và các chế phẩm phù hợp, theo dõi và xử trí tốt các biểu hiện trong quá trình TM, theo dõi các tai biến (TB) có thể xảy ra trong và sau khi TM nhằm hạn chế và phòng ngừa các phản ứng bất lợi có thể ảnh hưởng đến tính mạng BN cũng như SK của BN về sau [14]. ATTM 5
  16. ngày nay được hiểu theo nghĩa rộng là AT cho người cho máu, AT cho nhân viên làm công tác TM và AT cho người nhận máu [9]. Những yêu cầu của ATTM là: - An toàn về số lượng: đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, thường xuyên, ổn định máu và các chế phẩm máu có chất lượng cho điều trị, cấp cứu, dự phòng thảm họa. Đảm bảo về số lượng máu bao gồm đảm bảo cơ số theo từng chế phẩm máu cần cho điều trị và theo các NM (hệ ABO, hệ Rh, ) [10]. - An toàn về chất lượng: máu được lấy từ người hiến máu tự nguyện [10]. Phải được ưu tiên lấy máu ở vùng có nguy cơ thấp nhất để tránh giai đoạn cửa sổ, lấy máu phải được khám xét cẩn thận để tìm ra được các yếu tố bất thường, để chăm sóc SK và tư vấn cho người hiến máu [7]. Máu và các chế phẩm của máu có chất lượng được cung cấp cho các cơ sở y tế mọi khu vực nhằm đảm bảo công bằng cho người dân trong hưởng thụ dịch vụ TM. - An toàn cho người hiến máu: người hiến máu phải được tư vấn, khám lâm sàng, xét nghiệm tuyển chọn, chăm sóc và hướng dẫn đầy đủ chu đáo trong quá trình hiến máu nhằm giảm các TB. Người hiến máu là người khỏe mạnh, có đủ điều kiện theo quy định và tự nguyện hiến máu toàn phần hay một số thành phần của máu [2]. - An toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu: được trang bị đầy đủ các kiến thức về ATTM, được bảo hộ lao động và đảm bảo các vấn đề pháp lý. - An toàn cho người nhận máu: đảm bảo AT về số lượng máu, đảm bảo mọi nhu cầu về máu khi người bệnh cần, đảm bảo về chất lượng máu và thực hiện đầy đủ quy định và quy trình về TM. Tuy nhiên, những năm gần đây, ngày càng xuất hiện nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng tới ATTM như: sự xuất hiện các mầm bệnh lây qua đường TM, sự xuất hiện và bùng phát cá vụ dịch với các dạng biến thể của các chủng virus làm nguồn người hiến máu có xu hướng bị thu hẹp. Do đó, việc áp dụng các biện pháp nhằm đảm bảo ATTM ở mỗi quốc gia càng trở nên cấp thiết [10]. 2.2.2. Các trường hợp được và không được truyền máu 2.2.2.1. Các trường hợp được truyền máu Có nhiều lý do mọi người được TM bao gồm phẩu thuật, bệnh tật, thương tích và bệnh tật. Tùy vào nguyên nhân mà người nhận được TM toàn phần hay các chế phẩm của máu. - Phẫu thuật, chấn thương hay bệnh thiếu máu: mất máu trong khi phẫu thuật hoặc chấn thương có thể yêu cầu truyền những gì được gọi là “đóng gói các tế bào máu đỏ”, có nghĩa là máu nhất định có chứa một nồng độ của các tế bào máu chủ yếu là màu đỏ. Ngoài ra, thiếu máu là khi có các tế bào máu quá ít màu đỏ, có thể yêu cầu truyền các tế bào máu đỏ đóng gói. 6
  17. - Xuất huyết: cần TM để bù lại lượng máu đã mất đồng thời cung cấp thêm các yếu tố đông máu [4]. - Giảm tiểu cầu, thiếu hụt các yếu tố đông máu bẩm sinh hay mắc phải. - Ung thư: ung thư có thể làm giảm sản xuất các tế bào máu đỏ, các tế bào bạch cầu và tiểu cầu của cơ thể bằng cách tác động đến các cơ quan có ảnh hưởng đến máu, chẳng hạn như thận, tủy xương và lách. Thuốc được sử dụng trong hóa trị liệu cũng có thể làm giảm các thành phần của máu như vậy trong các loại bệnh ung thư thì rất cần phải TM. - Nhiễm trùng, suy gan hoặc các vết bỏng nặng: có thể cần truyền huyết tương là một phần chất lỏng của máu. - Các rối loạn máu: những người có bệnh về máu và những người cấy ghép tế bào gốc có thể được truyền các tế bào hồng cầu và tiểu cầu. 2.2.2.2. Các trường hợp không được truyền máu Bên cạnh những trường hợp nhất thiết phải truyền máu thì cũng có một số trường hợp không nên trường máu vì sẽ rất nguy hiễm cho tính mạng của người nhận máu như: - Phù phổi cấp - Viêm tắc động mạch hay tĩnh mạch 2.2.3. Nguyên tắc trong truyền máu - Truyền cùng NM đề tránh kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau gây ra hiện tượng các hồng cầu kết dính với nhau (ngưng kết). - Ngoài việc xác định NM của người cho và người nhận máu, cần phải làm phản ứng chéo bằng cách trộn hồng cầu của người cho với huyết thanh của người nhận và ngược lạ, trộn hồng cầu của người nhận với huyết thanh của người cho. Nếu không có hiện tượng ngưng kết hồng cầu thì máu đó mới được truyền cho người nhận. - Kiểm tra chất lượng máu: nhóm máu, số lượng, màu sắc, vô khuẩn. Theo dõi quá trình TM, dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân, dây TM, tốc độ chảy [4]. - Trong trường hợp cấp cứu không có máu cùng nhóm thì truyền máu khác nhóm theo quy tắc sau đây và số lượng ít hơn 2 đơn vị máu. Hình 2.1. Sơ đồ truyền máu hệ ABO 7
  18. 2.2.4. Ý nghĩa trong thực hành truyền máu - Truyền máu để nuôi dưỡng các tế bào và cơ quan trong cơ thể nhằm duy trì sự sống của con người - Bất kỳ lý do nào gây ra thiếu máu nhiều thì đều phải truyền máu. Truyền máu cũng là để chống chảy máu ngoài hoặc sâu trong cơ thể hoặc ở khớp như trong bệnh máu khó đông và các bệnh rối loạn đông cầm máu. Truyền máu còn để phục hồi các chứng suy dinh dưỡng. - Tùy theo thể trạng cụ thể mà bác sĩ sẽ dùng khối hồng cầu hoặc huyết tương hoặc khối tiểu cầu. Ngày nay truyền máu là cách điều trị tốt nhất trong cấp cứu và điều trị nội, ngoại, sản, nhi và các chuyên khoa khác. Không có một chất nào có thể thay thế máu. 2.3. TAI BIẾN THƯỜNG GẶP DO TRUYỀN MÁU VÀ BIỆN PHÁP XỬ TRÍ 2.3.1. Các tai biến truyền máu do miễn dịch 2.3.1.1. Phản ứng tan máu cấp do truyền máu - Thường gặp do truyền máu toàn phần hoặc khối hồng cầu không tương đồng về nhóm máu ABO. - Biểu hiện lâm sàng: kích thích, lo lắng, đỏ da, buồn nôn, nôn, đau vị trí truyền máu, đau bụng, đau lưng, sốt/rét run, mạch nhanh, hạ huyết áp, chảy máu không cầm, nước tiểu sẫm màu [5]. - Xử trí: lập tức ngừng truyền máu, điều trị ức chế phản ứng miễn dịch - dị ứng, nâng huyết áp, duy trì đường thở phù hợp và đảm bảo lọc máu bằng dịch truyền, thuốc lợi tiểu, chạy thận nhân tạo khi cần [6]. 2.3.1.2. Phản ứng tan máu muộn do truyền máu - Do hiện tượng miễn dịch thứ phát chống lại các đồng kháng nguyên hồng cầu. Kháng thể bắt đầu tạo ra sau khi người bệnh tiếp xúc với kháng nguyên lạ trong máu truyền 1- 2 tuần [6]. - Biểu hiện lâm sàng: không có biểu hiện lâm sàng đặc hiệu mà chỉ giảm nồng độ hemoglobin. Trường hợp nặng hơn có thể có các biểu hiện đặc trưng như sốt rét run, vàng da, thiếu máu, - Xử trí: do mức độ này thường nhẹ nên không cần điều trị tích cực chỉ điều trị triệu chứng, chống vô niệu, suy thận. 2.3.1.3. Phản ứng sốt sau truyền máu không do tan máu Đây là phản ứng phổ biến, nhưng thường không phải là nghiêm trọng. Khi một cơn sốt phát triển nhanh chóng trong quá trình truyền hoặc ngay sau khi truyền nó được gọi là sốt phản ứng. - Nguyên nhân là do không phù hợp nhóm bạch cầu và tiểu cầu của người cho và người nhận. 8
  19. - Biểu hiện lâm sàng: sốt đơn thuần không quá 1,5 0C so với trước truyền, có thể kèm theo rét run, đau đầu, buồn nôn [5]. - Xử trí: tạm ngưng truyền, sử dụng paracetamol 10 mg/kg uống hoặc tiêm truyền. 2.3.1.4. Phản ứng sốc phản vệ - Thường xuất hiện ngay sau khi bắt đầu truyền - Biểu hiện lâm sàng: khó thở, tụt huyết áp, nôn, đau bụng, vã mồ hôi, đại tiểu tiện không tự chủ, co thắt khí - phế quản, . - Xử trí: hỗ trợ hô hấp, thở oxy, chống co thắt khí - phế quản, truyền dịch, adrenalin, dopamine, corticoic, 2.3.1.5. Các phản ứng dị ứng do truyền máu Mặc dù sẽ được cung cấp máu phù hợp với nhóm máu, nó vẫn còn có thể có một phản ứng dị ứng với các thành phần của máu được truyền. - Mề đay: do các dị nguyên có trong huyết tương và các chế phẩm máu khác có chứa huyết tương dẫn đến giải phóng histamine từ các mastocyt bị kháng thể (IgG, IgE) bao phủ [6]. - Bệnh nhân nổi sẩn ngứa khắp người. - Xử trí bằng cách tạm ngưng truyền máu và điều trị chống dị ứng bằng cách dùng các loại thuốc kháng histamin. 2.3.2. Các tai biến truyền máu do nhiễm trùng 2.3.2.1. Viêm gan do truyền máu - Biểu hiện lâm sàng: thường gặp viêm gan không có hoặc có ít biểu hiện vàng da. Bệnh nhân có thể mệt mỏi, kém ăn, rối loạn tiêu hóa, đau khớp, sốt nhẹ, . Trường hợp vàng da thường biểu hiện lâm sàng nặng hơn [6]. - Xử trí: chủ yếu là điều trị nâng đỡ. 2.3.2.2. Nhiễm ký sinh trùng sốt rét - Tác nhân gây bệnh: P.falciparum, P.malariae, P.vivax, P.ovale. - Biểu hiện lâm sàng: bệnh nhân thường bị bệnh sốt rét - Xử trí: sử dụng phác đồ điều trị sốt rét để điều trị. 2.3.2.3. Nhiễm xoắn khuẩn giang mai - Tác nhân gây bệnh: Treponema pallidum - Biểu hiện lâm sàng: giống giang mai giai đoạn 2 (sẩn lan tỏa và tổn thương hạch bạch huyết) - Xử trí: sử dụng phác đồ điều trị giang mai để điều trị. 2.3.3. Tai biến do truyền máu khối lượng lớn 2.3.3.1. Quá tải tuần hoàn - Do truyền một khối lượng lớn máu với tốc độ nhanh gây quá tải tuần hoàn nhất là trên các bệnh nhân sẵn có bệnh tim hoặc phổi. 9
  20. - Biểu hiện lâm sàng: ho, khó thở, xanh tím, phồng tĩnh mạch cảnh, đâu đầu, nhịp nhanh; có thể suy tim, phù phổi cấp [5]. - Xử trí: ngừng truyền máu, đặt bệnh nhân ở tư thế nữa ngồi, thở oxy, dùng thuốc lợi tiểu. 2.3.3.2. Quá tải citrat - Do tác dụng phụ của citrate dùng để chống đông máu truyền vào như giảm calci máu [6]. - Biểu hiện lâm sàng: rối loạn chức năng tim do giảm calci máu. - Xử trí: không truyền trên 1 đơn vị máu mỗi 5 phút. Bù calci bằng clorua calci hoặc gluconat calci nếu có biến chứng do giảm calci. 2.3.4. Tai biến khác Truyền máu quá nhiều có thể dẫn đến quá nhiều chất sắt trong máu. Điều này có thể làm hỏng các bộ phận của cơ thể, bao gồm cả gan và tim. Những người có tình trạng quá tải sắt có thể được điều trị bằng liệu pháp chelation sắt, trong đó sử dụng thuốc để loại bỏ dư thừa. Quá tải sắt sẽ dẫn đến xạm da, rối loạn chức năng tụy nội tiết, gan, tim xử trí bằng cách thải sắt. 2.4. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ AN TOÀN TRUYỀN MÁU Ngày nay mặc dù kiến thức về ATTM ngày càng cao và các biện pháp nhằm đảm bảo ATTM ngày càng được tăng cường, song ATTM vẫn chưa được đảm bảo. Ở nhiều nước trên thế giới, việc tuân thủ về ATTM vẫn còn thấp. Đánh giá kiến thức của các điều dưỡng về truyền máu để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân năm 2017 của Asmaa Hamed Abd Elhy và Zeinab Abdel Aziz Kasemy tại bệnh viện đại học Menoufia cho thấy có 61,2% điều dưỡng có kiến thức đạt về truyền máu [15]. Theo điều tra kiến thức về an toàn truyền máu của Jordan 2012 ghi nhận được kết quả: 95,3% hoàn thành bảng câu hỏi về kiến thức TM với số điểm trung bình là 51,3%. Đa số các điều dưỡng thiếu kiến thức liên quan đến việc chuẩn bị BN trước khi truyền máu. Ngoài ra, có 92% sử dụng các phương pháp không hợp lệ gây nguy hại làm tan máu [16]. Khảo sát kiến thức truyền máu của các điều dưỡng (ĐD) tại các trung tâm đào tạo y khoa của đại học Shahrekord năm 2004 của Kobra Noryan, Shanhram Etemadyfar và Yosef Aslain cho thấy 81,2 % ĐD không biết thời gian thích hợp để truyền máu và các chế phẩm của máu khi nhận từ ngân hàng máu. Ngoài ra, có 21,4% ĐD có kiến thức tốt, 66,7% có kiến thức trung bình và 12% có kiến thức kém về truyền máu [17]. 10
  21. Nghiên cứu kiến thức và thực hành về ATTM của ĐD tại bệnh viện đa khoa Tiền Giang năm 2009 của Trịnh Xuân Quang và các cộng sự đã ghi nhận được kết quả: kiến thức và thực hành của ĐD về ATTM còn hạn chế; 58,9% điều dưỡng không biết nhiệt độ bảo quản máu, 20% điều dưỡng không làm phản ứng chéo tại giường trước khi truyền máu, 50% ĐD không nhớ thời gian làm nguội máu trước khi truyền, 79,2% ĐD không thực hiện phản ứng vi sinh vật khi truyền máu [14]. Khảo sát kiến thức về ATTM của ĐD tại bệnh viện Đa khoa Khu vực Định Quán năm 2014 của ĐD Phan Thị Kim Hoa - Hứa Hồng Tài kết quả cho thấy rằng: có 79% đối tượng trả lời sai về chỉ định truyền máu trong chấn thương sọ não (một kỹ thuật mới mà bệnh viện đã triển khai và đạt nhiều kết quả khả quan), có 7% nhân viên được hỏi không biết tắc mạch là một TB thường xảy ra do kỹ thuật tiêm truyền của người điều dưỡng; trong thực hành truyền máu, thực hiện phản ứng vi sinh vật khi truyền máu là một yêu cầu bắt buộc phải làm nhưng chỉ có 66% nhân viên trả lời có làm, 34% không làm, chỉ có 88% nhân viên trả lời đúng thời gian làm nguội máu trước khi truyền, 18% nhân viên không nhớ [11]. 11
  22. CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là điều dưỡng đang làm việc tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017. 3.1.2. Tiêu chuẩn chọn mẫu Điều dưỡng đang làm việc tại khoa nội và khoa ngoại của bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ trong thời điểm tiến hành nghiên cứu. Điều dưỡng có thời gian công tác từ 1 năm trở lên tính từ thời điểm nghiên cứu. Điều dưỡng đồng ý tham gia nghiên cứu. 3.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ Những điều dưỡng đi công tác dài hạn hoặc đang đi học, nghỉ hậu sản, nghỉ ốm trong thời điểm nghiên cứu. Những điều dưỡng làm việc hành chánh. 3.1.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu Địa điểm: khoa nội và khoa ngoại của bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ. Thời gian: từ tháng 3 năm 2017 đến tháng 4 năm 2017. 3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. 3.2.2. Cỡ mẫu Chọn 109 điều dưỡng đang công tác tại khoa nội và khoa ngoại của bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ. 3.2.3. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện tất cả các điều dưỡng đang làm việc tại khoa nội và khoa ngoại của bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ. 3.2.4. Nội dung nghiên cứu 3.2.4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu - Tuổi: tính tuổi theo năm dương lịch của điều dưỡng, được chia làm 3 nhóm 40 tuổi. - Giới tính: chia thành 2 nhóm nam và nữ. - Chuyên khoa làm việc: chia làm 2 nhóm khoa nội và khoa ngoại. - Thâm niên làm việc: tính từ lúc điều dưỡng bắt đầu làm việc tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ, được chia làm 4 nhóm 20 năm. - Trình độ chuyên môn: được chia làm 3 nhóm trung học, cao đẳng và cử nhân. 12
  23. 3.2.4.2. Kiến thức về an toàn truyền máu * Kiến thức chung về an toàn truyền máu: Đánh giá kiến thức về an toàn truyền máu dựa trên số điểm đạt được khi trả lời đúng các nội dung liên quan về an toàn truyền máu. Mỗi nội dung trả lời đúng được 1 điểm, trả lời không đúng 0 điểm. Thang điểm đánh giá kiến thức về an toàn truyền máu của điều dưỡng có 2 mức độ: đạt và chưa đạt. Bảng 3.1. Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức về an toàn truyền máu Mức độ kiến thức (% điểm đạt) Số điểm đạt được Đạt (80-100%) 13-16 điểm Chưa đạt (<80%) ≤12 điểm Điểm tối đa 16 điểm * Kiến thức về an toàn truyền máu: Bảng 3.2. Nội dung đánh giá kiến thức Nội dung đánh giá kiến thức Kiến thức đúng Điểm Liệt kê đủ 7 chỉ định: - Thiếu máu nặng - Sốc mất máu - Nhiễm khuẩn, nhiễm độc nặng Chọn 1 chỉ - Các bệnh lý về máu định là 1 1. Chỉ định trong truyền máu - Viêm cơ tim, các bệnh van tim điểm, tối đa 7 - Xơ cứng động mạch não, cao điểm huyết áp - Chấn thương sọ não, viêm não, não úng thủy 2. Nhóm máu truyền được Chọn câu: cùng nhóm 1 điểm an toàn Vẽ đúng sơ đồ: 3. Sơ đồ truyền máu 1 điểm 13
  24. Liệt kê đủ 5 tai biến: - Tán máu cấp Chọn 1 tai - Phản ứng quá mẫn 4. Tai biến trong truyền máu biến 1 điểm, - Nhiễm khuẩn tối đa 5 điểm - Phù phổi cấp do quá tải tuần hoàn - Tắc mạch 5. Đơn vị tối đa khi Chọn câu: 2 đơn vị 1 điểm truyềnmáu khác nhóm 6. Nhiệt độ bảo quản máu Chọn câu: 2-6 0C 1 điểm 3.2.4.3. Thực hành về an toàn truyền máu * Thực hành chung về an toàn truyền máu Đánh giá thực hành về an toàn truyền máu dựa trên số điểm đạt được khi thực hành đúng các nội dung liên quan về an toàn truyền máu. Mỗi nội dung trả lời đúng được 1 điểm, trả lời không đúng 0 điểm. Thang điểm đánh giá thực hành về quy trình an toàn truyền máu của điều dưỡng có 2 mức độ: đạt và chưa đạt. Bảng 3.3. Tiêu chuẩn đánh giá thực hành về an toàn truyền máu Mức độ thực hành (% điểm đạt) Số điểm đạt được Đạt (80-100%) 10-12 điểm Chưa đạt (<80%) ≤9 điểm Điểm tối đa 12 điểm * Thực hành về an toàn truyền máu Bảng 3.4. Nội dung đánh giá thực hành Nội dung đánh giá thực hành Thực hành đúng Điểm 1.Thực hiện phản ứng chéo Chọn câu: luôn luôn 1 điểm tại giường 2.Thực hiện phản ứng sinh Chọn câu: có 1 điểm vật học 3.Thời gian làm nguội máu Chọn câu: không quá 30 phút 1 điểm 4.Nhiệm vụ theo dõi bệnh Chọn câu: cả bác sĩ và điều dưỡng nhân trong truyền máu 1 điểm 14
  25. Liệt kê đủ 6 vấn đề: - Theo dõi dấu hiệu sinh tồn 15 phút - Phản ứng tán huyết - Theo dõi tình trạng người bệnh Chọn 1 vấn 5.Vấn đề cần theo dõi trong như lạnh run, nổi mề đai đề 1 điểm, tối truyền máu - Theo dõi và điều chỉnh tốc độ máu đa 6 điểm chảy đúng y lệnh - Ủ ấm cho người bệnh khi truyền máu - Phù phổi cấp 6.Việc làm đầu tiên khi có Chọn câu: ngưng truyền máu ngay 1 điểm dấu hiệu bất thường. 7.Thể tích giữ lại trong túi Chọn câu: 5-10 ml 1 điểm máu 3.2.5. Phương pháp thu thập số liệu Sử dụng bộ câu hỏi để thực hiện thu thập số liệu bằng cách phỏng vấn trực tiếp kết hợp với điền câu trả lời của người được phỏng vấn. Các bước tiến hành thu thập số liệu: Quá trình thu thập số liệu được tiến hành tại các khoa của bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ. Trình tự thực hiện gồm: - Lập danh sách điều dưỡng làm việc tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ. - Lập danh sách mẫu nghiên cứu gồm 109 điều dưỡng. - Tiếp xúc với từng đối tượng: giới thiệu bản thân, giới thiệu về nội dung và mục đích nghiên cứu, thời gian thực hiện nội dung phỏng vấn khoảng 15-30 phút. - Sau khi điều dưỡng đồng ý tham gia, phỏng vấn viên tiến hành phỏng vấn theo trình tự các câu hỏi trong bộ câu hỏi có sẵn. 3.2.6. Phương pháp sai lệch Phương pháp thu thập số liệu trên sẽ giúp: - Hạn chế việc đối tượng nghiên cứu không nộp lại bộ câu hỏi đã trả lời. - Đối tượng nghiên cứu an tâm trả lời trung thực, chính xác các câu hỏi vì đã được hướng dẫn giải thích rõ ràng trước và bộ câu hỏi không cần ghi những thông tin liên quan ảnh hưởng cá nhân. 3.2.7. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu - Dữ liệu được thu thập và xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. - Tính tần số, tỷ lệ phần trăm (%). 15
  26. 3.3. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Tất cả các đối tượng tham gia nghiên cứu điều được giải thích cụ thể về nội dung và mục đích nghiên cứu để đối tượng tham gia tự nguyện và cung cấp thông tin chính xác. Khi tiến hành phỏng vấn trên đối tượng không cần phải ghi cụ thể tên và địa chỉ. Thông tin thu thập chỉ phục vụ cho quá trình nghiên cứu, không sử dụng cho mục đích khác. Nghiên cứu được tiến hành dưới sự cho phép của bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ. 16
  27. CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: 4.1.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Bảng 4.1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu Đặc điểm chung n % 40 03 2.8 Nam 30 27.5 Giới tính Nữ 79 72.5 Nội 62 56.9 Chuyên khoa Ngoại 47 43.1 Trung học 58 53.2 Trình độ chuyên môn Cao đẳng 33 30.3 Cử nhân 18 16.5 20 01 0.9 Nhận xét: Nhóm tuổi từ 25 đến 40 tuổi chiếm đa số (72,5%) và nhóm tuổi trên 40 tuổi chỉ chiếm 2,8%. Điều dưỡng nữ chiếm 72,5%. Điều dưỡng khoa nội chiếm 56,9%. Về trình độ chuyên môn, hầu hết điều dưỡng có trình độ trung học chiếm 53,2% và có 16,5% điều dưỡng có trình độ cử nhân. Đa số các điều dưỡng có thâm niên công tác dưới 5 năm chiếm 54,1% và trên 20 năm chiếm 0,9%. Bảng 4.2. Y lệnh truyền máu tại khoa Y lệnh truyền máu n % Không có 02 1.8 Ít khi 70 64.3 Thường xuyên 37 33.9 Tổng 109 100 Nhận xét: Có 64,3% điều dưỡng các khoa ít khi có nhận y lệnh truyền máu và chỉ có 1,8% điều dưỡng các khoa không có y lệnh truyền máu. 17
  28. Bảng 4.3. Nguồn tiếp nhận thông tin về an toàn truyền máu Nguồn tiếp nhận thông tin n % Nhà trường 81 74.3 Tập huấn, hội thảo 84 77.1 Tự đọc tài liệu 40 36.7 Nhận xét: Phần lớn nguồn thông tin được tiếp nhận từ tập huấn, hội thảo (77,1%), có ít điều dưỡng tự đọc tài liệu (36,7%). Bảng 4.4. Số nguồn tiếp nhận thông tin Số nguồn tiếp nhận thông tin n % 1 43 39.4 2 37 33.9 3 29 26.6 Nhận xét: Đa số điều dưỡng có một nguồn tiếp nhận thông tin chiếm 39,4%. Có ít điều dưỡng có ba nguồn tiếp nhận thông tin (26,6%). 4.1.2. Kiến thức về an toàn truyền máu Hình 4.1. Đánh giá kiến thức về an toàn truyền máu Nhận xét: Phần lớn điều dưỡng có kiến thức về an toàn truyền máu chưa đạt chiếm 78,9% và có ít điều dưỡng có kiến thức đạt (21,1%). 18
  29. Bảng 4.5. Các chỉ định truyền máu Các chỉ định truyền máu n % Thiếu máu nặng 108 99.1 Sốc mất máu 89 81.7 Nhiễm khuẩn, 53 48.6 nhiễm độc nặng Các bệnh lý về máu 86 78.9 Viêm cơ tim, 33 30.3 các bệnh van tim Xơ cứng động mạch, 28 25.7 cao huyết áp Chấn thương sọ não, 33 30.3 viêm não, não úng thủy Nhận xét: Đa số các điều dưỡng biết được các chỉ định truyền máu: thiếu máu nặng (99,1%), sốc mất máu (81,7%), các bệnh lý về máu (78,9%). Chỉ có 25,7% điều dưỡng biết xơ cứng động mạch, cao huyết áp. Bảng 4.6. Nhóm máu truyền được an toàn Nhóm máu truyền được an toàn n % Cùng nhóm 108 99.1 Khác nhóm 1 0.9 Tổng 109 100 Nhận xét: Hầu hết các điều dưỡng biết rằng truyền cùng nhóm máu được an toàn chiếm 99,1% và chỉ có 0,9% điều dưỡng không biết. Bảng 4.7. Sơ đồ truyền máu hệ ABO Sơ đồ truyền máu n % Đúng 47 43.1 Sai 62 56.9 Tổng 109 100 Nhận xét: Chỉ có 43,1% điều dưỡng vẽ đúng sơ đồ truyền máu hệ ABO và có đến 56,9% điều dưỡng vẽ không đúng. 19
  30. Bảng 4.8. Số máu tối đa khi truyền máu khác nhóm Đặc điểm chung n % 1 đơn vị 48 44.0 2 đơn vị 49 45.0 Số đơn vị 3 đơn vị 6 5.5 4 đơn vị 6 5.5 Nhận xét: Có 45% điều dưỡng biết khi truyền máu khác nhóm số lượng máu truyền tối đa là 2 đơn vị. Bảng 4.9. Nhiệt độ thích hợp khi bảo quản máu Đặc điểm chung n % 0-40C 6 5.5 2-60C 60 55.0 Nhiệt độ 4-60C 18 16.5 4-80C 25 22.9 Nhận xét: Có 55% điều dưỡng biết được nhiệt độ thích hợp để bảo quản máu là 2-60C. Bảng 4.10. Các tai biến xảy ra khi truyền máu Tai biến xảy ra khi truyền máu n % Tán máu cấp 98 89.9 Phản ứng quá mẫn 95 87.2 Nhiễm khuẩn 53 48.6 Phù phổi cấp do quá tải tuần hoàn 72 66.1 Tắc mạch 44 40.4 Nhận xét: Hầu hết các điều dưỡng biết được các tai biến có thể xảy ra trong quá trình truyền máu: tán máu cấp (89,9%), phản ứng quá mẫn (87,2%), phù phổi cấp do quá tải tuần hoàn (66,1%). Chỉ có 48,6% biết được tai biến nhiễm khuẩn và 40,4% biết được tai biến tắc mạch. 20
  31. 4.1.3. Thực hành về an toàn truyền máu Hình 4.2. Đánh giá thực hành về an toàn truyền máu Nhận xét: Chỉ có 42,2% điều dưỡng thực hành đúng quy trình về an toàn truyền máu, còn lại 57,8% điều dưỡng chưa đạt. Bảng 4.11. Thực hiện phản ứng chéo tại giường Phản ứng chéo tại giường n % Luôn luôn 99 90.8 Thỉnh thoảng 09 8.3 Không làm 01 0.9 Tổng 100 100 Nhận xét: Hầu hết các điều dưỡng luôn luôn làm phản ứng chéo tại giường khi truyền máu chiếm 90,8%, còn 1 phần nhỏ điều dưỡng thỉnh thoảng hoặc không làm phản ứng chéo chiếm 9,2%. Bảng 4.12. Thực hiện phản ứng sinh vật học trước khi truyền máu Phản ứng sinh vật học n % Có 95 87.2 Không 14 12.8 Tổng 100 100 Nhận xét: Đa số các điều dưỡng có thực hiện phản ứng sinh vật học trước khi truyền máu chiếm 87,2%. 21
  32. Bảng 4.13. Thời gian cần thiết để làm nguội máu trước khi truyền Thời gian làm nguội máu n % Không quá 15 phút 37 33.9 Không quá 30 phút 63 57.8 Không quá 45 phút 05 4.6 Không quá 1 giờ 04 3.7 Tổng 109 100 Nhận xét: Có 75,8% điều dưỡng biết đúng thời gian cần thiết để làm nguội máu trước khi truyền là không quá 30 phút. Bảng 4.14. Nhiệm vụ theo dõi bệnh nhân trong suốt quá trình truyền máu Nhiệm vụ theo dõi bệnh nhân n % Bác sĩ 2 1.8 Điều dưỡng 39 35.8 Cả bác sĩ và điều dưỡng 68 62.4 Tổng 109 100 Nhận xét: Có 62,4% điều dưỡng biết là cùng với bác sĩ có nhiệm vụ theo dõi bệnh nhân trong suốt quá trình truyền máu. Bảng 4.15. Việc làm đầu tiên khi có dấu hiệu bất thường Việc làm đầu tiên n % Ngưng truyền máu ngay 103 94.5 Báo cho bác sĩ 5 4.6 Đo mạch, huyết áp, nhịp thở 1 0.9 Cho người bệnh thở oxy 0 0 Tổng 109 100 Nhận xét: Đa số các điều dưỡng biết được việc làm đầu tiên là ngưng truyền máu ngay chiếm 94,5% khi phát hiện dấu hiệu bất thường xảy ra. Bảng 4.16. Thể tích cần giữ lại trong túi máu khi kết thúc truyền máu Thể tích cần giữ lại n % 5-10 ml 70 64.2 10-15 ml 35 32.1 15-20 ml 04 3.7 Tổng 109 100 22
  33. Nhận xét: Có 64,2% điều dưỡng biết được thể tích máu cần giữ lại trong túi máu khi kết thúc truyền máu. Bảng 4.17. Những vấn đề cần theo dõi khi truyền máu Vấn đề cần theo dõi n % Theo dõi dấu hiệu sinh tồn 15 phút 105 96.3 Phản ứng tán huyết 77 70.6 Theo dõi tình trạng người bệnh 99 90.8 như lạnh run, nổi mề đai Theo dõi và điều chỉnh tốc độ 85 78.0 máu chảy đúng y lệnh Ủ ấm cho người bệnh khi 50 45.9 truyền máu Phù phổi cấp 55 50.5 Nhận xét: Đa số các điều dưỡng biết được các vấn đề cần theo dõi trong suốt quá trình truyền máu: theo dõi dấu hiệu sinh tồn 15 phút (96,3%), phản ứng tán huyết (70,6%), theo dõi tình trạng người bệnh như lạnh run, nổi mề đai (90,8%), theo dõi và điều chỉnh tốc độ máu chảy đúng y lệnh (78%), ủ ấm cho người bệnh khi truyền máu (45,9%), phù phổi cấp (50,5%). 23
  34. 4.2. THẢO LUẬN Qua nghiên cứu trên 109 đối tượng là điều dưỡng ở các khoa ngoại chấn thương, ngoại niệu, ngoại lồng ngực, ngoại tổng hợp, ngoại thần kinh, nội tổng hợp, nội thận, nội thần kinh - cơ xương khớp, nội tim mạch và nội tiêu hóa. Từ kết quả nghiên cứu, xin đưa ra bàn luận như sau: 4.2.1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu Đa số điều dưỡng trong nghiên cứu là nữ (72,5%), có thể do đặc thù của nghề điều dưỡng là đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ và cẩn thận trong nghề mà nữ giới thì thường đáp ứng được những yêu cầu trên, nên đa số điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ là nữ giới. Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Jordan năm 2012 về điều tra kiến thức về truyền máu của điều dưỡng cho thấy có 62% điều dưỡng là nữ giới [16]. Trong nghiên cứu độ tuổi 25-40 chiếm đa số (72,5%), điều này cho thấy lực lượng nhân viên của bệnh viện là lực lượng trẻ, phù hợp với tình hình đang phát triển của bệnh viện và thâm niên công tác dưới 10 năm chiếm đa số (89%) cũng là tất yếu. Trình độ của nhân viên ngày càng được nâng cao, trong những năm vừa qua, bệnh viện chú trọng đào tạo và tuyển dụng nhân viên có trình độ cao, trong đó lực lượng cao đẳng và đại học chiếm 46,8%, tuy nhiên trình độ trung học vẫn chiếm khá cao 53,2%. Kết quả này tương đương với nghiên cứu Phan Thị Kim Hoa và Hứa Hồng Tài tại bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán năm 2014 với độ tuổi 21-41 (90%), thâm niên công tác dưới 10 năm (86%), trình độ cao đẳng và đại học (23%) [11]. Trong nghiên cứu này, các điều dưỡng đang công tác ở khoa nội chiếm 56,9% còn lại là khoa ngoại chiếm 43,1%. Kết quả này trái ngược với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang tại bệnh viện đa khoa Tiền Giang năm 2009 với các điều dưỡng công tác khối khoa ngoại chiếm 54,4% còn lại 45,6% là công tác khối khoa nội và chuyên khoa [14] nguyên nhân là do bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ tiếp đón nhiều bệnh nhân điều trị hướng nội khoa nên số điều dưỡng khoa nội cũng tăng lên để đáp ứng đủ nhu cầu được chăm sóc của bệnh nhân, ngược lại bệnh viện đa khoa Tiền Giang điều trị bệnh nhân thuộc hướng ngoại nhiều hơn hướng nội khoa nên số điều dưỡng công tác ở khoa ngoại cũng nhiều hơn số điều dưỡng công tác khoa nội là điều tất yếu. Kết quả nghiên cứu cho thấy về công tác truyền máu do đặc thù ở mỗi nơi làm việc khác nhau nên có 33,9% điều dưỡng là có thực hiện y lệnh truyền máu thường xuyên và 1,8% điều dưỡng cho rằng không có y lệnh truyền máu tại khoa họ đang công tác. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang tại bệnh viện đa khoa Tiền Giang là có 55,4% điều dưỡng cho rằng nơi công tác có thực hiện y lệnh truyền máu thường xuyên và 11,9% điều dưỡng không có y lệnh về truyền máu tại khoa đang công tác [14]. Nguyên nhân của sự khác biệt đó là do trong nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang thì điều dưỡng công tác khoa ngoại nhiều hơn, có nghĩa là bệnh nhân ở 24
  35. hệ ngoại cũng nhiều hơn, nên y lệnh truyền máu cũng thường xuyên hơn; còn trong nghiên cứu của chúng tôi thì điều dưỡng công tác khoa nội nhiều hơn, nên y lệnh truyền máu thường xuyên cũng ít hơn nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang. Nguồn kiến thức về an toàn truyền máu được các điều dưỡng học từ nhà trường (74,3%), từ tập huấn, hội thảo (77,1%), điều đáng mừng là có 36,7% điều dưỡng tự tìm đọc tài liệu về an toàn truyền máu. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Phan Thị Kim Hoa - Hứa Hồng Tài tại bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán năm 2014 là nguồn kiến thức về an toàn truyền máu có được là từ nhà trường (51%), tập huấn, hội thảo (33%), tự đọc tài liệu (16%) [11]. Đa số điều dưỡng đều có một nguồn tiếp nhận thông tin về an toàn truyền máu (39,4%), chỉ có 26,6% điều dưỡng là có ba nguồn tiếp nhận thông tin; điều này cho thấy bệnh viện nên tổ chức đào tạo cho nhân viên, đồng thời động viên tinh thần tự học nâng cao trình độ, nhằm phục vụ tốt cho công tác chăm sóc sức khỏe người bệnh. 4.2.2. Kiến thức về an toàn truyền máu 4.2.2.1. Đánh giá kiến thức chung Truyền máu là một phương pháp điều trị không thể thiếu trong rất nhiều chuyên khoa [14]. Tuy nhiên, truyền máu cũng có thể dẫn đến nhiều hệ lụy cho người bệnh (nhiễm khuẩn, tắc mạch, ) nếu an toàn truyền máu không được đảm bảo. Vì thế, mỗi nhân viên y tế có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu các nguy cơ do truyền máu gây ra, đảm bảo cập nhật kiến thức và kỹ năng liên tục cho bản thân để phục vụ cho quá trình chăm sóc người bệnh. Đa số các điều dưỡng có kiến thức chưa đạt về an toàn truyền máu chiếm 78,9%, chỉ có 21,1% điều dưỡng được khảo sát có kiến thức đúng về an toàn truyền máu. Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Kobra Noryan về kiến thức truyền máu của y tá tại trung tâm đào tạo y khoa trường đại học Shahrekord năm 2004 với kiến thức tốt là 16,2%, trung bình là 59%, còn lại 24,8% là có kiến thức kém về truyền máu [17]. Kiến thức không tốt của điều dưỡng về an toàn truyền máu sẽ làm ảnh hưởng đến thực hành truyền máu lâm sàng trong quá trình khám chữa bệnh. Tuy nhiên, một nghiên cứu của Asmaa Hamed Abd Elhy và Zeinab Abdel Aziz Kasemy về đánh giá kiến thức của các điều dưỡng về truyền máu tại bệnh viện đại học Menoufia năm 2017 cho thấy có tới 61,2% điều dưỡng có kiến thức đạt về truyền máu [15]. Kết quả này cao hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi, có sự chênh lệch này có thể do kiến thức của các điều dưỡng ở bệnh viện Menoufia, Ai Cập cao hơn nhiều so với kiến thức của các điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ. 4.2.2.2. Các chỉ định về truyền máu Việc chỉ định máu đúng là vấn đề cần phải chú ý vì máu và các chế phẩm từ máu có thể được xem là một loại thuốc điều trị. Vì vậy, cũng như tất cả các loại thuốc, việc chỉ 25
  36. định điều trị đúng, sử dụng hợp lý máu và các chế phẩm từ máu đóng vai trò quan trọng trong an toàn truyền máu [9]. Thông thường việc chỉ định truyền máu thường do bác sĩ đảm nhận, tuy nhiên người điều dưỡng cũng cần phải nắm rõ để phối hợp với bác sĩ nhằm nâng cao hiệu quả điều trị. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số điều dưỡng biết các chỉ định về truyền máu: thiếu máu nặng (99,1%), sốc mất máu (81,7%), các bệnh lý về máu (78,9%), kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang năm 2009 với thiếu máu nặng (92,8%), sốc mất máu (93,5%), các bệnh lý về máu (84,5%) [14]. Trong nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang chỉ có 8,2% điều dưỡng biết các chỉ định về truyền máu như viêm cơ tim, các bệnh lý van tim, xơ cứng động mạch não, cao huyết áp, chấn thương sọ não, viêm não, não úng thủy [14], thì trong nghiên cứu của chúng tôi kết quả cho thấy các điều dưỡng biết được các chỉ định trên cao hơn 10 lần so với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang cụ thể là 86,3%, nguyên nhân là do các điều dưỡng làm việc ở bệnh viện tuyến thành phố có nhiều điều kiện tiếp xúc với nhiều trường hợp truyền máu hơn và được đào tạo thường xuyên hơn so với các điều dưỡng tuyến dưới và cũng có thể là do các điều dưỡng ở tuyến dưới có quá nhiều công việc, không có thời gian để tìm tòi học hỏi thêm những vấn đề mới khác ngoài công việc của mình. Việc điều dưỡng hiểu được các chỉ định và chống chỉ định truyền máu có thể giúp phát hiện các chỉ định chưa đúng, đảm bảo an toàn cho người bệnh [14]. Những sai sót trong việc sử dụng máu và các chế phẩm từ máu có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, thậm chí đe dọa ngay cả tính mạng của người bệnh [9]. 4.2.2.3. An toàn truyền máu Qua nghiên cứu cho thấy có 99,1% điều dưỡng biết rằng truyền máu cùng nhóm với nhóm máu của người bệnh là an toàn. Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Phan Thị Kim Hoa và Hứa Hồng Tài năm 2014 với tỷ lệ điều dưỡng chọn truyền máu cùng nhóm là 100% [11]. Sự hiểu biết của điều dưỡng khi có chỉ định truyền máu, tốt nhất là truyền máu có cùng nhóm máu với người bệnh là an toàn hơn, hạn chế được mức thấp nhất các phản ứng có thể xảy ra, đặc biệt là phản ứng tán huyết cấp [14]. Công tác kiểm soát an toàn truyền máu được ngành y tế chú trọng, nhiều chính sách và hướng dẫn được ban hành nên truyền máu đã đi vào nề nếp; bên cạnh đó, nhiều buổi tập huấn về an toàn truyền máu được bệnh viện tổ chức góp phần nâng cao kiến thức về an toàn truyền máu nên đa số các điều dưỡng đều biết khi truyền máu tốt nhất là truyền cùng nhóm sẽ an toàn hơn là truyền máu khác nhóm. Hiện tại ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới nhu cầu về máu là rất lớn, trong khi đó nguồn cung cấp máu chỉ có hạn. Tuy nhiên, trong những trường hợp cấp cứu cần truyền máu mà lại không có máu cùng nhóm, khi đó bắt buộc phải truyền máu 26
  37. khác nhóm thì phải tuân theo nguyên tắc tối thiểu “hồng cầu người cho không bị ngưng kết bởi huyết thanh người nhận” và phải tuân theo sơ đồ truyền máu. Việc vẽ đúng và hiểu đúng sơ đồ truyền máu giúp cho điều dưỡng nhận biết được truyền máu như thế nào là an toàn cho tính mạng của bệnh nhân (trong trường hợp truyền khác nhóm). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy có 43,1% điều dưỡng là vẽ đúng sơ đồ truyền máu, còn lại 56,9% điều dưỡng vẽ sai sơ đồ. Kết quả này thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Phan Thị Kim Hoa và Hứa Hồng Tài với điều dưỡng vẽ đúng là 99%, còn 1% vẽ sai rơi vào khoa không có y lệnh truyền máu [11]. Điều này có thể do yếu tố chủ quan thuộc về điều dưỡng không có cập nhật kiến thức về truyền máu thường xuyên, yếu tố khách quan là không có đủ điều kiện và thời gian để cập nhật kiến thức, đồng thời tại các khoa làm việc không có dán những tranh ảnh hay poster về sơ đồ truyền máu. Đây là một trong những vấn đề cơ bản nhất trong công tác truyền máu nhưng điều dưỡng thiếu hiểu biết sẽ gây nguy hiểm cho người bệnh. Hiện nay việc khan hiếm máu không còn là vấn đề khó khăn, vấn đề truyền khác nhóm máu là rất hạn chế, theo quy chế truyền máu thì chúng ta vẫn được phép truyền tối đa 2 đơn vị máu khác nhóm. Kết quả cho thấy có 45% điều dưỡng biết được khi truyền máu khác nhóm, số đơn vị máu được truyền tối đa là 2 đơn vị. Kết quả này thấp hơn với kết quả nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang là số đơn vị máu truyền tối đa là 2 đơn vị chiếm 59% [14], có 11% điều dưỡng cho rằng có thể truyền tối đa 3 hoặc 4 đơn vị. Điều dưỡng cần hiểu biết nếu truyền cho người bệnh với số lượng máu hơn 2 đơn vị máu khác nhóm có thể gây ra tai biến cho người bệnh, từ đó điều dưỡng có thể theo dõi và kiểm tra lượng máu truyền cho người bệnh phù hợp để hạn chế tối đa các phản ứng bất lợi cho cơ thể bệnh nhân. Song song với việc truyền máu là vấn đề bảo quản máu trước khi truyền cũng rất quan trọng, đây là một nhiệm vụ của nhân viên khoa xét nghiệm, tuy nhiên các điều dưỡng tại khoa phòng cũng cần phải nắm vững nguyên tắc này để nhận máu từ khoa xét nghiệm. Có 55% điều dưỡng trả lời đúng nhiệt độ để bảo quản máu là 2-6 0C. Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của Phan Thị Kim Hoa và Hứa Hồng Tài tại bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán năm 2014 là có 71% nhân viên trả lời đúng nhiệt độ bảo quản máu. Có sự chênh lệch này có thể là do điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ chưa nắm vững kiến thức về bảo quản máu so với các điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán. Điều dưỡng cần phải lưu ý nhiệt độ thích hợp đề đảm bảo được chất lượng máu. 4.2.2.4. Các tai biến xảy ra khi truyền máu Truyền máu là việc rất hữu ích cứu được nhiều người qua cơn hiểm nghèo. Nhưng cũng do truyền máu mà có người bị nhiễm bệnh hoặc làm bệnh nặng thêm, thậm chí 27
  38. dẫn đến tử vong. Vì vậy, người truyền máu phải nắm vững những tai biến truyền máu để kịp thời xử lý hoặc hạn chế những mặt chưa tốt của truyền máu. Đa số điều dưỡng điều biết về các tai biến này, tán máu cấp (89,9%), phản ứng quá mẫn (87.2%), phù phổi cấp do quá tải tuần hoàn (66,1%), nhiễm khuẩn (48,6%), tắc mạch (40,4%). Kết quả này tương đối phù hợp với nghiên cứu của Phan Thị Kim Hoa với tan máu cấp (86%), phản ứng quá mẫn (97%), phù phổi cấp do quá tải tuần hoàn (72%) [11]. Chỉ có 2 tai biến là cao hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi là nhiễm khuẩn (75%), tắc mạch (93%), có thể do các điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa Định Quán được cập nhật kiến thức về các tai biến khi truyền máu thường xuyên hơn các điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ. Việc biết được các tai biến có thể xảy ra khi truyền máu sẽ giúp điều dưỡng chủ động có những biện pháp theo dõi và phòng ngừa tốt hơn. 4.2.3. Thực hành về an toàn truyền máu 4.2.3.1. Đánh giá thực hành chung Mặc dù các tai biến có thể xảy ra trong quá trình truyền máu, song việc thực hiện tốt và hiệu quả một chương trình an toàn truyền máu tại các cơ sở y tế đều góp phần làm giảm đáng kể các biến chứng trên. An toàn truyền máu là người nhận máu đạt được hiệu quả điều trị mà không bị ảnh hưởng xấu do truyền máu mang lại. Như vậy an toàn cho công tác truyền máu là an toàn cho người cho máu, người nhận máu và nhân viên y tế liên quan. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy có 42,2% điều dưỡng thực hành đạt về quy trình an toàn truyền máu và có 57,8% điều dưỡng chưa đạt qua đó cho thấy bệnh viện cần mở các lớp tập huấn về truyền máu để nâng cao tay nghề cho điều dưỡng góp phần nâng cao hiệu quả điều trị của bệnh nhân. 4.2.3.2. Thực hành về an toàn truyền máu Khi điều dưỡng viên hay kỹ thuật viên đi tiếp nhận máu và các chế phẩm từ máu phải kiểm tra, đối chiếu theo đúng nguyên tắc quy định của quy chế truyền máu. Việc thực hiện định nhóm máu và làm phản ứng chéo có thể tiến hành tại giường bệnh tùy theo chế phẩm máu nhận. Cần theo dõi sát người bệnh trong suốt quá trình truyền máu [9]. Hầu hết các điều dưỡng luôn luôn thực hiện phản ứng chéo tại giường trước khi truyền máu cho bệnh nhân chiếm 90,8%, còn lại 9,2% điều dưỡng thỉnh thoảng hoặc không làm phản ứng chéo. Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang với 80% điều dưỡng làm phản ứng chéo tại giường trước khi truyền máu [14]. Điều này có thể là do trình độ chuyên môn của điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ cao hơn ở bệnh viện đa khoa Tiền Giang lần lượt là 16,5% - 3% và quy trình kiểm tra thực hành phản ứng chéo tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cấn Thơ nghiêm ngặt hơn bệnh viện đa khoa Tiền Giang nên các điều dưỡng ở đây hầu hết ai cũng thực hiện 28
  39. phản ứng chéo tại giường trước khi truyền máu cho bệnh nhân. Việc thực hiện phản ứng chéo tại giường là kỹ thuật bắt buộc phải làm trước khi truyền máu, nhằm đề phòng truyền nhằm nhóm máu gây ra phản ứng tán huyết cấp ảnh hưởng đến tính mạng của bệnh nhân. Đồng hành với việc thực hiện phản ứng chéo tại giường là việc thực hiện phản ứng sinh vật học trước khi truyền máu. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 87,2% điều dưỡng là có thực hiện phản ứng sinh vật học khi truyền máu, 12,8% điều dưỡng không làm. Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Phan Thị Kim Hoa tại bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán với 66% điều dưỡng có làm phản ứng sinh vật học, 34% điều dưỡng không làm [11]. Có thể do nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện tại bệnh viện tuyến thành phố, còn nghiên cứu của Phan Thị Kim Hoa chỉ thực hiện ở tuyến huyện và trình độ điều dưỡng cử nhân ở bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ (16,5%) cao hơn bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán(4%) [11] nên trong hai nghiên cứu sẽ có sự khác biệt. Phản ứng sinh vật học cũng là một kỹ thuật bắt buộc phải thực hiện khi truyền máu nhằm phát hiện các biến chứng sớm có thể xảy ra, nhưng các điều dưỡng ở đây thường bỏ qua vì quá nhiều công việc nên không có thời gian làm phản ứng sinh vật học khi truyền máu. Qua đó cho thấy bệnh viện nên tổ chức giám sát chặt chẽ hơn quy trình truyền máu, đặc biệt là giai đoạn thực hiện phản ứng sinh vật học để hạn chế những tai biến không mong muốn do truyền máu gây ra. Việc làm nguội máu trước khi truyền cũng rất quan trọng và chỉ có 57,8% điều dưỡng biết được thời gian làm nguội máu là không quá 30 phút kể từ khi nhận máu từ khoa xét nghiệm về khoa phòng, có 42,2% điều dưỡng không nhớ. Kết quả này tương đương với kết quả của Trịnh Xuân Quang tại bệnh viện đa khoa Tiền Giang năm 2009 với 56,5% biết được thời gian tối đa để làm nguội máu trước khi truyền. Tuy nhiên, gần 50% còn chưa hiểu biết về thời gian này [14]. Trong nghiên cứu cho thấy có 62,4% điều dưỡng biết được rằng nhiệm vụ theo dõi người bệnh trong suốt quá trình truyền máu là của bác sĩ và điều dưỡng và có 35,8% điều dưỡng cho rằng truyền máu là nhiệm vụ của điều dưỡng. Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang với 78,4% điều dưỡng biết là cùng bác sĩ theo dõi người bệnh trong suốt quá trình truyền máu và có 21% điều dưỡng cho rằng truyền máu là nhiệm vụ của điều dưỡng [14]. Nguyên nhân là do ở bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ thì công tác truyền máu thường do điều dưỡng thực hiện nên họ nghĩ rằng trách nhiệm theo dõi bệnh nhân trong truyền máu là của họ, tuy nhiên để quá trình truyền máu được thực hiện tốt, đảm bảo an toàn cho người bệnh thì công tác truyền máu này phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa bác sĩ và điều dưỡng nhằm phát hiện sớm và kịp thời các tai biến xảy ra cho người bệnh. 29
  40. Có 94,5% điều dưỡng biết được việc làm đầu tiên khi có dấu hiệu bất thường khi truyền máu là ngưng truyền máu ngay và có 4,6% điều dưỡng chọn việc làm đầu tiên là báo cho bác sĩ. Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang năm 2009 với 92% điều dưỡng biết việc làm trước tiên khi phát hiện người bệnh có dấu hiệu bất thường là ngưng truyền máu, trong khi đó có 8% điều dưỡng cho rằng phải báo bác sĩ trước [14]. Hầu hết các điều dưỡng điều biết được thể tích cần giữ lại trong túi máu khi kết thúc truyền máu là 5-10 ml. Kết quả này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang tại bệnh viện đa khoa Tiền Giang năm 2009 (90%) [14]. Điều này có thể là do yếu tố chủ quan về phía điều dưỡng không biết được thể tích giữ lại trong túi máu là bao nhiêu, yếu tố khách quan là công việc quá nhiều, không có thời gian đề kiểm tra hết tất cả các túi máu truyền cho người bệnh. Việc giữ lại 5-10 ml khi kết thúc truyền máu là điều hết sức cần thiết để khi xảy ra tai biến cần phải có nhóm máu đối chứng. 4.2.3.3. Những vấn đề theo dõi khi truyền máu Ngoài việc thực hiện phản ứng chéo tại giướng trước khi truyền máu, thực hiện phản ứng sinh vật học khi truyền máu, thì vai trò của người điều dưỡng cần làm là theo dõi sát bệnh nhân trong suốt quá trình truyền máu để phát hiện sớm và xử lý kịp thời những bất thường xảy ra. Đa số các điều dưỡng biết được các vấn đề cần theo dõi trong suốt quá trình truyền máu: theo dõi dấu hiệu sinh tồn 15 phút (96,3%), phản ứng tán huyết (70,6%), theo dõi tình trạng người bệnh như lạnh run, nổi mề đai (90,8%), theo dõi và điều chỉnh tốc độ máu chảy đúng y lệnh (78%), ủ ấm cho người bệnh khi truyền máu (45,9%), phù phổi cấp (50,5%). Kết quả này tương đối phù hợp với nghiên cứu của Phan Thị Kim Hoa tại bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán năm 2014 với theo dõi dấu hiệu sinh tồn 15 phút (98%), phản ứng tán huyết (82%), theo dõi tình trạng người bệnh như lạnh run, nổi mề đai (100%), theo dõi và điều chỉnh tốc độ máu chảy đúng y lệnh (94%), tuy nhiên có hai vấn đề ủ ấm cho người bệnh khi truyền máu (65%), phù phổi cấp (79%) là cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi [11], nguyên nhân có thể do các điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán nắm rõ các vấn đề cần theo dõi bệnh nhân khi truyền máu hơn các điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ, cũng có thể là do các điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ là bệnh viện tuyến thành phố nên có quá nhiều công việc nên các điều dưỡng ở đây ít quan tâm đến các vấn đề đó (ủ ấm cho người bệnh khi truyền máu, phù phổi cấp). Việc theo dõi bệnh nhân trong suốt quá trình truyền máu nhằm phát hiện và xử lý sớm các dấu hiệu bất thường để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân. 30
  41. CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017, rút ra kết luận: Điều dưỡng có kiến thức đúng đạt chiếm 21,1%. Điều dưỡng có thực hành đúng đạt chiếm 42,2%. Đa số điều dưỡng tiếp nhận thông tin về an toàn truyền máu từ nhà trường (74,3%), từ tập huấn, hội thảo (77,1%). Hơn 85% điều dưỡng biết được các chỉ định truyền máu và 99,1% điều dưỡng biết truyền máu cùng nhóm là tốt nhất. Chỉ có 42,3% điều dưỡng vẽ đúng sơ đồ truyền máu hệ ABO. Hơn 80% điều dưỡng biết các tai biến có thể xảy ra khi truyền máu. Có 45% điều dưỡng biết đúng khi truyền máu khác nhóm số đơn vị truyền tối đa là 2 đơn vị. Còn 9,2% điều dưỡng thỉnh thoảng hoặc không làm phản ứng chéo tại giường trước khi truyền máu. Có tới 87,2% điều dưỡng có thực hiện phản ứng vi sinh vật khi truyền máu. 42,2% điều dưỡng không nhớ thời gian làm nguội máu trước khi truyền. 35,8% điều dưỡng thực hiện truyền máu mà không có sự phối hợp của bác sĩ. Đa số các điều dưỡng biết được các vấn đề cần theo dõi trong suốt quá trình truyền máu chiếm gần 80% và có 94,5% điều dưỡng biết ngừng truyền máu ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường. Có 64,2% điều dưỡng biết được thể tích máu cần giữ lại trong túi máu khi kết thúc truyền máu. 31
  42. 5.2. ĐỀ NGHỊ Điều dưỡng cần dành nhiều thời gian hơn để cập nhật, nghiên cứu các nguồn thông tin về chuyên môn nói chung cũng như các vấn đề về an toàn truyền máu nói riêng từ tài liêu, internet, để bổ sung kiến thức. Định kì hàng năm khoa điều dưỡng và khoa xét nghiệm nên tổ chức tập huấn về công tác an toàn truyền máu cho điều dưỡng, đặc biệt là các điều dưỡng mới. Bác sĩ, điều dưỡng cần phối hợp và chịu trách nhiệm theo dõi người bệnh trong suốt thời gian truyền máu. Bác sĩ cần chỉ định truyền máu từng phần để tiết kiệm được nguồn máu khan hiếm, đồng thời giảm các tác dụng không mong muốn có thể xảy ra cho người bệnh. Quy định bắt buộc phải làm phản ứng chéo tại giường là điều cần thiết. Điều dưỡng cần thực hiện đúng phản ứng sinh vật học khi truyền máu. Xây dựng quy trình chuẩn trong thực hành truyền máu. Hàng năm bệnh viện cần đào tạo ra đội ngủ cán bộ y tế có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cao về an toàn truyền máu. Công tác đào tạo phải tiến hành thường xuyền, liên tục và phải có chế độ, chính sách đặc thù cho cán bộ, nhân viên ngành y tế truyền máu. 32
  43. TÀI LIỆU THAM KHẢO * Tiếng Việt 1. Bộ y tế (1999). Điều tra cơ bản về an toàn truyền máu. Nhà xuất bản y học, Hà Nội. Tr. 3-4. 2. Bộ y tế (2007). Quy chế truyền máu (Ban hành kèm theo Quyết định số 06/2007/QĐ - BYT ngày 19/01/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế). 3. Bộ y tế (2012). Báo cáo tóm tắt kết quả khoa học công nghệ đề tài nghiên cứu xây dựng quy hoạch mạng lưới truyền máu ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Tr. 2-12. 4. Bộ y tế (2011). Điều dưỡng cơ bản 2. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Tr. 73-76. 5. Bộ y tế (2015). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh lý huyết học. Tr. 170- 176. 6. Đỗ Trung Phấn (2006). Bài giảng huyết học - truyền máu. Nhà xuất bản y học, Hà Nội. Tr. 298-395. 7. Đỗ Trung Phấn (2009). Kỹ thuật xét nghiệm huyết học và truyền máu ứng dụng trong lâm sàng. Nhà xuất bản y học, Hà Nội. 235-239. 8. Đỗ Trung Phấn (2013). Kỹ thuật xét nghiệm huyết học và truyền máu ứng dụng trong lâm sàng. Nhà xuất bản y học, Hà Nội. Tr. 286. 9. Nguyễn Võ Hinh (2011). An toàn truyền máu, vấn đề cần được quan tâm. 10. Ngô Mạnh Quân (2015). Nghiên cứu thực trạng và đánh giá hiệu quả áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng truyền máu tại hai huyện đảo Cát Hải và Phú Quốc. Luận văn Thạc sĩ của Ngô Mạnh Quân trường Đại học Y Hà Nội chuyên ngành Huyết học - Truyền máu. 11. Phan Thị Kim Hoa, Hứa Hồng Tài (2014). Khảo sát kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán. Đề tài nghiên cứu khoa học của bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán, [Internet], nguồn lấy từ URL duong-tai-benh-vien-dkkv-dinh-quan-nam-2014-dd-phan-thi-kim-hoa-hua-hong-tai 12. Thái Qúy (2002). Máu - truyền máu các bệnh thường gặp. Nhà xuất bản y học. Tr. 54-107. 13. Trịnh Xuân Kiếm (2010). Hòa hợp miễn dịch hồng cầu trong truyền máu hiện đại. Nhà xuất bản y học, Hà Nội. Tr. 40-154. 14. Trịnh Xuân Quang và cộng sự (2009). Khảo sát kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa Tiền Giang. Tạp chí nghiên cứu Y học. * Tiếng Anh
  44. 15. Asmaa Hamed Abd Elhy, Zeinab Abdel Aziz Kasemy (2017). Nurses’ Knowledge Assessment Regarding Blood Transfusion to Ensure Patient Safety. 16. Jordanian (2012). Measuring Knowledge of Blood Transfusion. 17. Kobra Noryan, Shanhram Etemadyfar, Yosef Aslain (2004). Nurses’ knowledge of blood transfusion in medical training centers of Shahrekord University of Medical Science.
  45. PHỤ LỤC Mã số NC: . BỘ CÂU HỎI Nghiên cứu kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017 Anh/chị không cần ghi tên vào bộ câu hỏi này và chúng tôi sẽ tuyệt đối giữ bí mật những thông tin mà anh/chị cung cấp. Thông qua bộ câu hỏi này, mong anh/chị cung cấp cho chúng tôi những thông tin chính xác nhất. Sự đóng góp của anh/chị sẽ góp phần thành công cho đề tài này. Chân thành cảm ơn sự hợp tác của quý anh/chị! Anh/chị đánh dấu chéo (X) tương ứng với câu trả lời mà anh/ chị cho là đúng. I. THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỐI TƯỢNG 1. Anh/chị bao nhiêu tuổi? 2. Giới tính: □ Nam □ Nữ 3. Chuyên khoa anh/chị đang làm việc: □ Nội □ Ngoại 4. Trình độ chuyên môn: □ Trung học □ Cao đẳng □ Cử nhân 5. Thâm niên công tác: (năm) 6. Y lệnh truyền máu tại khoa anh/chị đang công tác: □ Không có □ Ít khi □ Thường xuyên 7. Nguồn tiếp nhận thông tin của anh/chị về an toàn truyền máu từ đâu? (có thể chọn nhiều câu trả lời) □ Nhà trường □ Tập huấn, hội thảo □ Tự đọc tài liệu
  46. II. KIẾN THỨC VỀ AN TOÀN TRUYỀN MÁU 1. Theo anh/chị những trường hợp nào được chỉ định truyền máu? (Có thể chọn nhiều câu trả lời) □ Thiếu máu nặng □ Sốc mất máu □ Nhiễm khuẩn, nhiễm độc nặng □ Các bệnh lý về máu □ Viêm cơ tim, các bệnh van tim □ Xơ cứng động mạch não, cao huyết áp □ Chấn thương sọ não, viêm não, não úng thủy 2. Theo anh/chị nhóm máu truyền được an toàn là như thế nào? □ Cùng nhóm □ Khác nhóm 3. Anh/chị hãy vẽ sơ đồ truyền máu nhóm máu hệ ABO? 4. Theo anh/chị truyền máu sẽ xãy ra những tai biến nào? (Có thể chọn nhiều câu trả lời) □ Tán máu cấp □ Phản ứng quá mẫn □ Nhiễm khuẩn □ Phù phổi cấp do quá tải tuần hoàn □ Tắc mạch
  47. 5. Theo anh/chị khi truyền máu khác nhóm, số máu tối đa được truyền là bao nhiêu? □ 1 đơn vị □ 2 đơn vị □ 3 đơn vị □ 4 đơn vị 6. Theo anh/chị nhiệt độ thích hợp để bảo quản máu là bao nhiêu? □ 0 - 4 0C □ 2 - 6 0C □ 4 - 6 0C □ 4 - 8 0C III. THỰC HÀNH VỀ AN TOÀN TRUYỀN MÁU 1. Anh/chị có thực hiện phản ứng chéo tại giường khi truyền máu hay không? □ Luôn luôn □ Thỉnh thoảng □ Không làm 2. Anh/chị có thực hiện phản ứng sinh vật học trước khi truyền máu hay không? □ Có □ Không 3. Theo anh/chị thời gian cần thiết để làm nguội máu trước khi truyền là bao nhiêu? □ Không quá 15 phút □ Không quá 30 phút □ Không quá 45 phút □ Không quá 1 giờ 4. Theo anh/chị nhiệm vụ theo dõi bệnh nhân trong suốt quá trình truyền máu là của ai? □ Bác sĩ □ Điều dưỡng □ Cả bác sĩ và điều dưỡng
  48. 5. Theo anh/chị những vấn đề nào cần theo dõi trong quá trình truyền máu? (Có thể chọn nhiều câu trả lời) □ Theo dõi dấu hiệu sinh tồn 15 phút □ Phản ứng tán huyết □ Theo dõi tình trạng người bệnh như lạnh run, nổi mề đai □ Theo dõi và điều chỉnh tốc độ máu chảy đúng y lệnh □ Ủ ấm cho người bệnh khi truyền máu □ Phù phổi cấp 6. Theo anh/chị việc làm đầu tiên khi thấy bệnh nhân đang truyền máu có dấu hiệu bất thường là gì? □ Ngưng truyền máu ngay □ Báo cho bác sĩ □ Đo mạch, huyết áp, nhịp thở □ Cho người bệnh thở oxy 7. Theo anh/chị thể tích máu cần giữ lại trong túi máu khi kết thúc truyền máu là bao nhiêu? □ 5-10 ml □ 10-15 ml □ 15-20 ml Cần Thơ, ngày tháng năm 2017 Điều dưỡng đồng ý Người thu thập số liệu cung cấp thông tin (Kí tên và ghi đầy đủ họ tên) (Kí tên và ghi đầy đủ họ tên)
  49. DANH SÁCH ĐỐI TƯỢNG LẤY MẪU STT Mã số Họ và tên Giới tính Tuổi Đơn vị công tác NC 1 L01 Huỳnh Trúc L Nam 33 Khoa ngoại 2 L02 Nguyễn Thanh M Nam 29 Khoa ngoại 3 L03 Nguyễn Thị Như Y Nữ 28 Khoa ngoại 4 L04 Đặng Hoài T Nữ 26 Khoa ngoại 5 L05 Phan Trần Trọng Đ Nam 35 Khoa ngoại 6 L06 Danh T Nam 30 Khoa ngoại 7 L07 Ngô Văn C Nam 32 Khoa ngoại 8 L08 Nguyễn Hoàng H Nam 24 Khoa ngoại 9 L09 Nguyễn Văn V Nam 32 Khoa ngoại 10 L10 Phạm Cẩm T Nữ 23 Khoa ngoại 11 L11 Nguyễn Hồng M Nữ 24 Khoa ngoại 12 L12 Nguyễn Thị Ngọc L Nữ 52 Khoa ngoại 13 L13 Huỳnh Thị Ngọc Y Nữ 23 Khoa ngoại 14 L14 Bùi Lưu Ngọc H Nữ 25 Khoa ngoại 15 L15 Lê Thị Ngọc H Nữ 30 Khoa ngoại 16 L16 Lê Hoàng Tố Q Nữ 22 Khoa ngoại 17 L17 Hứa Minh T Nam 42 Khoa ngoại 18 L18 Trần Thị Ngọc M Nữ 27 Khoa ngoại 19 L19 Diệp Thị Thúy Q Nữ 27 Khoa ngoại 20 L20 Lý Thị Minh T Nữ 29 Khoa ngoại 21 L21 Phan Thị Anh T Nữ 30 Khoa ngoại 22 L22 Lê Thị B Nữ 25 Khoa ngoại 23 L23 Nguyễn Thị Ngọc L Nữ 27 Khoa ngoại 24 L24 Phan Thành T Nam 26 Khoa ngoại 25 L25 Diệp Thị Thanh C Nữ 31 Khoa ngoại 26 L26 Nguyễn Thị Hồng N Nữ 35 Khoa nội 27 L27 Phan Văn P Nam 26 Khoa nội 28 L28 Lê Thành N Nam 27 Khoa nội 29 L29 Nguyễn Thị Kim T Nữ 30 Khoa nội 30 L30 Lý Thị Phương A Nữ 24 Khoa nội 31 L31 Lê Thị T Nữ 29 Khoa nội 32 L32 Nguyễn Thị Anh P Nữ 23 Khoa nội
  50. 33 L33 Phù Thị Mai C Nữ 28 Khoa nội 34 L34 Huỳnh Thị Ngọc T Nữ 26 Khoa nội 35 L35 Nguyễn Thanh L Nam 32 Khoa nội 36 L36 Huỳnh Thúy N Nữ 24 Khoa nội 37 L37 Trần Thị Thanh L Nữ 28 Khoa nội 38 L38 Nguyễn Minh T Nam 31 Khoa nội 39 L39 Phạm Huỳnh Đ Nữ 24 Khoa nội 40 L40 Nguyễn Thị N Nữ 27 Khoa nội 41 L41 Từ Thị Ngọc H Nữ 37 Khoa nội 42 L42 Phạm Thị Ý N Nữ 29 Khoa nội 43 L43 Đinh Kim T Nữ 28 Khoa nội 44 L44 Huỳnh Thị Tố H Nữ 30 Khoa nội 45 L45 Nguyễn Trần Thu T Nữ 29 Khoa nội 46 L46 Châu Kim S Nữ 32 Khoa nội 47 L47 Nguyễn Thị Kiều T Nữ 23 Khoa nội 48 L48 Trần Ngọc H Nữ 24 Khoa nội 49 L49 Nguyễn Thị Chúc L Nữ 25 Khoa nội 50 L50 Vũ H Nam 23 Khoa nội 51 L51 Nguyễn Thị Thúy H Nữ 29 Khoa nội 52 L52 Lê Thị Tiểu P Nữ 23 Khoa nội 53 L53 Trần Thanh L Nam 36 Khoa nội 54 L54 Trần Văn S Nam 26 Khoa nội 55 L55 Nguyễn Thị Thúy H Nữ 28 Khoa nội 56 L56 Lê Thị T Nữ 27 Khoa nội 57 L57 Nguyễn Thị Thúy D Nữ 28 Khoa nội 58 L58 Kha Thị Ngọc T Nữ 29 Khoa nội 59 L59 Từ Phước Minh T Nữ 27 Khoa nội 60 L60 Phùng Thị Mỹ V Nữ 28 Khoa nội 61 L61 Du Kim T Nữ 24 Khoa nội 62 L62 Nguyễn Minh T Nam 23 Khoa nội 63 L63 Phạm Thị Ngọc H Nữ 24 Khoa nội 64 L64 Nguyễn Thị Thanh H Nữ 23 Khoa nội 65 L65 Nguyễn Kim H Nữ 23 Khoa nội 66 L66 Lê Hoàng T Nam 47 Khoa nội 67 L67 Nguyễn Thị T Nữ 25 Khoa nội 68 L68 Hạ Thị Hồng N Nữ 26 Khoa nội
  51. 69 L69 Nguyễn Thanh D Nam 25 Khoa nội 70 L70 Trần Thị L Nữ 30 Khoa nội 71 L71 Huỳnh Minh T Nam 26 Khoa nội 72 L72 Đồng Văn T Nam 24 Khoa nội 73 L73 Châu Thị Lệ N Nữ 32 Khoa nội 74 L74 Phan Mai Đ Nam 27 Khoa nội 75 L75 Mai Thị Bé N Nữ 24 Khoa nội 76 L76 Phùng Thị N Nữ 31 Khoa nội 77 L77 Nguyễn Thị Bình H Nữ 24 Khoa nội 78 L78 Lê Công T Nam 30 Khoa nội 79 L79 Đoàn Thị Diễm T Nữ 24 Khoa nội 80 L80 Đặng Thị Huyền L Nữ 28 Khoa nội 81 L81 Nguyễn Việt T Nam 25 Khoa nội 82 L82 Hoàng Thị T Nữ 29 Khoa nội 83 L83 Trần Ngọc H Nữ 25 Khoa nội 84 L84 Đặng Thị N Nữ 24 Khoa nội 85 L85 Văn Quốc T Nam 33 Khoa nội 86 L86 Võ Thị Hoa L Nữ 25 Khoa nội 87 L87 Võ Thị Như Q Nữ 25 Khoa nội 88 L88 Mân lê Q Nữ 26 Khoa ngoại 89 L89 Nguyễn Ngọc Bảo C Nữ 28 Khoa ngoại 90 L90 Nguyễn Thị Bích V Nữ 34 Khoa ngoại 91 L91 Lê Thị Hạnh D Nữ 23 Khoa ngoại 92 L92 Đặng Thảo Linh Nữ 23 Khoa ngoại 93 L93 Nguyễn Thị N Nữ 23 Khoa ngoại 94 L94 Trần Minh T Nam 27 Khoa ngoại 95 L95 Huỳnh Kim T Nữ 26 Khoa ngoại 96 L96 Nguyễn Thị Bích P Nữ 25 Khoa ngoại 97 L97 Trần Thị T Nữ 25 Khoa ngoại 98 L98 Nguyễn Ngọc Anh T Nữ 25 Khoa ngoại 99 L99 Phạm Tuấn V Nam 23 Khoa ngoại 100 L100 Hồ Thị T Nữ 26 Khoa ngoại 101 L101 Nguyễn Tấn H Nam 27 Khoa ngoại 102 L102 Nguyễn Thị Bích Q Nữ 40 Khoa ngoại 103 L103 Nguyễn Ngọc T Nữ 34 Khoa ngoại 104 L104 Hồ Trung N Nam 36 Khoa ngoại
  52. 105 L105 Nguyễn Thị Mỹ P Nữ 32 Khoa ngoại 106 L106 Nguyễn Thị T Nữ 25 Khoa ngoại 107 L107 Nguyễn Thị Đ Nữ 28 Khoa ngoại 108 L108 Nguyễn Minh T Nam 26 Khoa ngoại 109 L109 Nguyễn Thị Kiều T Nữ 25 Khoa ngoại