Đề tài Mối quan hệ giữa thông tin phi tài chính trên báo cáo thường niên và kết quả hoạt động theo kế toán, giá thị trường của các công ty niêm yết Việt Nam

pdf 92 trang yendo 5240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Mối quan hệ giữa thông tin phi tài chính trên báo cáo thường niên và kết quả hoạt động theo kế toán, giá thị trường của các công ty niêm yết Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_tai_moi_quan_he_giua_thong_tin_phi_tai_chinh_tren_bao_cao.pdf

Nội dung text: Đề tài Mối quan hệ giữa thông tin phi tài chính trên báo cáo thường niên và kết quả hoạt động theo kế toán, giá thị trường của các công ty niêm yết Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN TÊN CÔNG TRÌNH: MỐI QUAN HỆ GIỮA THÔNG TIN PHI TÀI CHÍNH TRÊN BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG THEO KẾ TOÁN, GIÁ THỊ TRƯỜNG CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT VIỆT NAM THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả dưới sự cố vấn của người hướng dẫn khoa học. Đây là đề tài dự thi giải thưởng nghiên cứu khoa học sinh viên, thuộc nhóm ngành kế toán. Các số liệu và kết quả nêu trong đề tài là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 31tháng 03 năm 2014 Tác giả
  3. MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài I 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài I 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài II 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài II 5. Ý nghĩa của đề tài II 6. Kết cấu của đề tài III CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Đo lường thành quả hoạt động bằng thước đo tài chính và thước đo phi tài chính 1 1.1.1. Thước đo tài chính 2 1.1.1.1. Đặc điểm 2 1.1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm 3 1.1.2. Thước đo phi tài chính 5 1.1.2.1. Đặc điểm 5 1.1.2.2. Ưu điểm và nhược điểm 7 1.1.3. Thông tin phi tài chính và vấn đề đánh giá hoạt động 11 1.2. Công bố thông tin phi tài chính về thành quả hoạt động 13 1.2.1. Mối quan hệ giữa lý thuyết thông tin bất cân xứng và việc công bố thông tin phi tài chính 13 1.2.2. Vấn đề công bố thông tin phi tài chính về thành quả hoạt động 15 1.2.2.1. Trên thế giới 15 1.2.2.2. Tại Việt Nam 19 1.3. Mối quan hệ giữa công bố thông tin phi tài chính và kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán. 19 1.4. Mối quan hệ giữa công bố thông tin phi tài chính và giá thị trường của doanh nghiệp 20 Tóm tắt chương 1 22
  4. CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu 23 2.2. Tổng quan quy trình nghiên cứu 25 2.2.1. Phân loại các thước đo phi tài chính 25 2.2.2. Mô hình ước lượng 28 2.2.3. Phương pháp hồi quy 29 2.3. Thu thập dữ liệu và đo lường các biến số trong giả thuyết nghiên cứu 30 Tóm tắt chương 2 38 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU – BẰNG CHỨNG TỪ CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM 3.1. Kết quả thống kê mô tả đặc điểm của mẫu nghiên cứu 39 3.2. Kiểm định vi phạm các giả thuyết của mô hình hồi quy 40 3.2.1. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi 40 3.2.2. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến 41 3.2.3. Kiểm định hiện tượng tự tương quan. 43 3.3. Kết quả phân tích hồi quy 44 3.4. So sánh kết quả công bố thông tin phi tài chính giữa các phương diện quản lý và giữa các ngành 50 Tóm tắt chương 3 53 CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHO NHÀ QUẢN TRỊ 4.1. Kết luận 54 4.2. Hàm ý cho nhà quản trị 55 4.3. Hạn chế của đề tài 61 4.4. Các hướng nghiên cứu tiếp theo 61 Tóm tắt chương 4 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO i PHỤ LỤC 1: v PHỤ LỤC 2: vi PHỤ LỤC 3: viii PHỤ LỤC 4: xii
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH BẢNG Bảng 1.1: Yêu cầu công bố thông tin CSR tại một số quốc gia trên thế giới 18 Bảng 2.1: Bảng tổng hợp kỳ vọng giả thuyết về tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc 37 Bảng 3.1: Bảng thống kê mô tả các biến 39 Bảng 3.2: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập 42 Bảng 3.3: Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến 43 Bảng 3.4: Kết quả hồi quy – Biến phụ thuộc: ROE, ROA 46 Bảng 3.5: Kết quả hồi quy – Biến phụ thuộc P/E 48 Bảng 3.5: Mức độ công bố thông tin phi tài chính trung bình theo từng ngành và theo từng phương diện quản lý 51 HÌNH: Hình 1.1: Nguồn thông tin phi tài chính 7 Hình 1.2: Tỷ lệ doanh nghiệp công bố báo cáo CSR 18 Hình 2.1: Sơ đồ tổng quát lý thuyết nghiên cứu 24
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT CSR Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp FEM Mô hình tác động cố định GAAP Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi HOSE Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh HNX Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hà Nội REM Mô hình tác động ngẫu nhiên TTCK Thị trường chứng khoán
  7. – I – PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Thị trường chứng khoán là một kênh đầu tư và huy động vốn quan trọng của nền kinh tế. Trên lý thuyết, tại đây doanh nghiệp có thể tiếp cận được các nguồn vốn với chi phí thấp nếu như tính minh bạch và hiệu quả của thị trường được duy trì, mà việc tuân thủ các điều kiện niêm yết và công bố thông tin đầy đủ là một trong những nhân tố quyết định. Ngoài ra, đứng ở góc độ nhà quản trị, việc công bố các thông tin bao gồm các thông tin đánh giá hoạt động của doanh nghiệp cũng giúp nhà quản trị duy trì hiệu quả công tác quản trị. Tuy nhiên, chưa có đề tài nghiên cứu nào khẳng định được tầm quan trọng cũng như những tác động của thông tin phi tài chính đối với kết quả hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam. Trước thực trạng bất cân xứng thông tin trên TTCK Việt Nam, yêu cầu thông tin ngày càng phong phú từ nhà đầu tư cũng như những hạn chế của thông tin tài chính, đề tài nghiên cứu khoa học của tác giả mong muốn kiểm định giá trị thực tiễn của thông tin phi tài chính công bố trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu này, tác giả tiếp cận nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa thông tin phi tài chính trên báo cáo thường niên với kết quả hoạt động theo kế toán, giá thị trường của các công ty niêm yết Việt Nam”. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục tiêu chung: Công trình tập trung nghiên cứu tác động của công bố thông tin phi tài chính đến các chỉ số tài chính của kế toán và biến động giá trị thị trường của doanh nghiệp đồng thời kỳ vọng phát hiện được sự thay đổi theo thời gian của các mối tương quan kể trên. Mục tiêu cụ thể: - Hệ thống hóa lý thuyết và các nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới về vai trò của thông tin phi tài chính và tính hữu dụng của công bố các thông tin này, từ đó hình thành các cơ sở lý thuyết về tác động của công bố thông tin phi tài chính đánh giá hoạt động đến kết quả hoạt động của kế toán và giá trị thị trường của doanh nghiệp. - Thống kê sơ bộ về tình trạng công bố thông tin phi tài chính trong phạm vi những dữ liệu được thu thập trong nghiên cứu này.
  8. – II – - Sử dụng các mô hình hồi quy với dữ liệu bảng để đánh giá tác động của công bố thông tin phi tài chính, sự thay đổi theo thời gian của các mối tương quan, so sánh với cơ sở lý thuyết nhằm phát hiện khác biệt. Tìm hiểu lý do cho những khác biệt này. - Trình bày một số gợi ý đối với nhà quản trị các công ty niêm yết cho vấn đề công bố thông tin phi tài chính và cho những đề tài sau này liên quan đến hướng nghiên cứu về thông tin phi tài chính. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng phân tích là các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam, bao gồm doanh nghiệp niêm yết trên cả hai sàn HOSE và HNX. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các thông tin phi tài chính và tài chính được công bố trong báo cáo thường niên của các doanh nghiệp. Các thông tin được thu thập trong phạm vi ba năm, từ năm 2010 đến năm 2012. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng thống kê mô tả để trình bày về thực trạng công bố thông tin phi tài chính của các công ty trong mẫu và phương pháp định lượng dữ liệu bảng với kỹ thuật hồi quy theo mô hình hồi quy tác động cố định (FEM) và mô hình hồi quy ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) để tìm hiểu mối tương quan trọng tâm của nghiên cứu. Tác giả sử dụng phần mềm Eview 7.0 và Stata 12 để phân tích dữ liệu. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các doanh nghiệp niêm yết trong mẫu, được công bố trên trang web chứng khoán. Dữ liệu sau khi thu thập được trình bày dưới dạng bảng cân đối (Panel balanced) theo hai chiều không gian và thời gian. 5. Ý nghĩa của đề tài Đề tài mang lại một số ý nghĩa cho các nhà nghiên cứu, các nhà quản trị trong doanh nghiệp và sinh viên như sau: Một là, kết quả nghiên cứu này góp phần bổ sung vào cơ sở lý luận về thông tin phi tài chính. Bởi lẽ, vấn đề nghiên cứu trung tâm là mức độ công bố thông tin phi tài chính, vẫn là một nội dung nghiên cứu còn chưa được phổ biến tại thị trường chứng khoán Việt Nam hay Đông Nam Á.
  9. – III – Hai là, kết quả kiểm định trong đề tài sẽ khẳng định được vai trò của thông tin phi tài chính ảnh hưởng như thế nào đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, giá trị thị trường của doanh nghiệp thông qua việc nhà đầu tư sử dụng thông tin này để ra quyết định. Từ đó, giúp nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của thông tin phi tài chính trong quá trình kiểm soát hoạt động và công bố ra bên ngoài. Ba là, kết quả nghiên cứu gợi mở giải pháp quản lý cho nhà quản trị. Nhà quản trị xem xét xây dựng thước đo phi tài chính như thế nào hợp lý để có được thông tin phi tài chính phục vụ quá trình kiểm soát, cải thiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cuối cùng là, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng viên, sinh viên về lý thuyết thông tin phi tài chính. Kết quả nghiên cứu sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho những dẫn chứng của các công trình nghiên cứu kế tiếp. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, kết cấu của đề tài được chia thành bốn chương. Chương 1 trình bày cơ sở lý thuyết về thông tin phi tài chính và tác động của nó đến kết quả hoạt động theo kế toán và giá trị thị trường của doanh nghiệp. Chương thứ hai tác giả trình bày phương pháp thu thập, xử lý dữ liệu, kiểm định và lựa chọn mô hình. Chương thứ ba trình bày kết quả mô hình hồi quy và các kiểm định khuyết tật của mô hình. Chương cuối cùng tóm tắt kết quả nghiên cứu, trình bày những đề xuất của tác giả đối với nhà quản trị và đề xuất các hướng nghiên cứu tiếp theo. Tên của các chương như sau: - Chương 1: Cơ sở lý thuyết - Chương 2: Phương pháp nghiên cứu - Chương 3: Kết quả kiểm định – bằng chứng từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - Chương 4: Kết luận và hàm ý cho nhà quản trị
  10. – 1 – CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Đo lường thành quả hoạt động bằng thước đo tài chính và thước đo phi tài chính Môi trường kinh doanh của Việt Nam luôn thay đổi trong suốt những năm gần đây. Các nhà quản lý doanh nghiệp phải đối mặt với một môi trường cạnh tranh ngày càng cao và phức tạp. Vì vậy, yêu cầu cần phải có những đổi mới trong việc quản lý và kinh doanh, đặc biệt là công việc đánh giá thành quả hoạt động của doanh nghiệp. “Mục đích cơ bản đằng sau mọi phép đo lường đánh giá là để cải thiện kết quả và nâng cao hiệu quả. Các phép đo lường đánh giá mà không trực tiếp cải thiện hiệu quả thì cũng là phương tiện để đạt được mục đích cuối cùng đó” (Banker, 2000). “Chỉ khi nào bạn đo lường được những điều bạn nói và thể hiện nó trên con số, bạn mới hiểu đôi điều về nó.” (Bushman, 1996) “Bạn chỉ có thể quản lý được những gì bạn đo lường được.” (Amir, 1996) Hai câu nói trên nêu lên được tầm quan trọng của đánh giá thành quả hoạt động. Trong quá trình không ngừng hoàn thiện mình của một tổ chức, đánh giá thành quả hoạt động đóng vai trò quan trọng giúp nhận diện và theo dõi tiến trình hiện thực hóa mục tiêu của tổ chức, nhận diện những cơ hội để cải thiện kết quả, so sánh kết quả của tổ chức với các tiêu chuẩn nội bộ và bên ngoài. Từ đó, có thể thấy việc đánh giá thành quả hoạt động nhằm phục vụ nhiều mục tiêu như: - Chúng là một phần của chiến lược mỗi tổ chức, giúp nhận định mức độ hoàn thành mục tiêu chiến lược. - Chúng được sử dụng bởi nhà quản trị khi ra quyết định phân bổ nguồn lực và xác định mức độ hoạt động phù hợp. - Đánh giá thành quả hoạt động giúp tập trung các nỗ lực của tổ chức vào mục tiêu được ưu tiên, giám sát các nỗ lực đó. - Là một kênh thông tin giúp chiến lược của tổ chức thông suốt qua các cấp.
  11. – 2 – Công tác đánh giá thành quả hoạt động được thực hiện bằng cách xác định và đo lường các chỉ tiêu phù hợp với đặc điểm hoạt động và mục tiêu của tổ chức. Các chỉ tiêu này phản ánh nhân tố quyết định đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp và có thể nằm dưới dạng các thước đo tài chính và phi tài chính. 1.1.1. Thước đo tài chính 1.1.1.1. Đặc điểm Các thước đo tài chính là những chỉ tiêu đánh giá có thể trình bày bằng đơn vị tiền tệ hoặc là những hệ số tài chính được tính toán từ những chỉ tiêu tiền tệ. Khi nhắc đến các chỉ tiêu đo lường hoạt động bằng đơn vị tiền tệ của một doanh nghiệp, chúng ta có thể thấy hầu hết những chỉ tiêu đó đều nằm trong báo cáo tài chính và bắt buộc công bố trong GAAP trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, những chỉ tiêu tiền tệ về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình lưu chuyển tiền tệ đều được yêu cầu trình bày đầy đủ trong bộ báo cáo tài chính định kỳ của doanh nghiệp. Có thể kể đến những chỉ tiêu mà người sử dụng thông tin thường quan tâm như tổng tài sản, vốn luân chuyển, vốn chủ sở hữu, doanh thu, lợi nhuận, cổ tức và lợi nhuận chưa phân phối Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các hệ số tài chính được phân thành nhiều nhóm chỉ tiêu đặc trưng, phản ánh nội dung cơ bản theo mục tiêu phân tích của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung có 4 nhóm chỉ tiêu cơ bản sau: - Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán: Nhóm chỉ tiêu này thể hiện được năng lực thanh toán của doanh nghiệp. Đây là nhóm chỉ tiêu được nhiều người quan tâm như: các nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp nguyên vật liệu, bởi lẽ họ luôn đặt ra câu hỏi là hiện doanh nghiệp có đủ khả năng trả các món nợ tới hạn không. Nhóm chỉ số này bao gồm các chỉ tiêu như: hệ số khả năng thanh toán hiện hành, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán nợ dài hạn, hệ số khoản phải thu trên khoản phải trả, hệ số khả năng thanh toán lãi vay. - Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư: Các doanh nghiệp luôn thay đổi tỷ trọng các loại vốn theo xu hướng hợp lý (kết cấu tối ưu). Nhưng kết cấu này luôn bị phá vỡ do tình hình đầu tư. Vì vậy nghiên cứu cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu tài sản, tỷ suất tự tài trợ sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Các hệ số tài chính trong nhóm này bao gồm: hệ số nợ, hệ số
  12. – 3 – vốn chủ sở hữu (tỷ suất tự tài trợ), tỷ suất đầu tư vào tài sản dài hạn, tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định, tỷ suất đầu tư vào tài sản ngắn hạn - Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động: Các chỉ số này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của một doanh nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại tài sản khác nhau. Nằm trong nhóm này gồm có các chỉ tiêu: số vòng quay hàng tồn kho, số ngày dự trữ hàng tồn kho, số vòng quay các khoản phải thu, kỳ thu tiền bình quân, số vòng quay tài sản ngắn hạn, hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn, số vòng quay tổng tài sản. - Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời: Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Khi phân tích, lợi nhuận được đặt trong tất cả mối quan hệ với doanh thu, tài sản, vốn chủ sở hữu Mỗi góc độ phân tích đều cung cấp cho nhà phân tích một ý nghĩa cụ thể trong việc ra quyết định. Tùy theo từng góc độ phân tích mà nhà phân tích có thể sử dụng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Ngoài bốn nhóm chỉ tiêu trên, thông tin tài chính của doanh nghiệp còn được sử dụng như các chỉ tiêu đánh giá khi so sánh theo chiều ngang (đánh giá tăng trưởng, biến động qua thời kỳ) hay theo chiều dọc (so sánh cơ cấu từng bộ phận trên tổng thể toàn công ty, công ty so với đối thủ hay toàn ngành). Hay các hệ số trong nhóm chỉ tiêu sinh lời được tổng hợp trong mô hình phân tích Dupont giúp tiếp cận, chỉ ra các nguyên nhân của hiện tượng đó thông qua phân tích một tỷ lệ sơ cấp (phản ánh hiện tượng), thành tích của các tỷ lệ thứ cấp (phản ánh nguyên nhân). Doanh nghiệp có thể chuyển hóa các thông tin này thành hệ số phục vụ cho từng mục tiêu trong công tác đánh giá hoạt động của mình. 1.1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm Ưu điểm của thước đo tài chính: Thước đo tiền tệ và các hệ số tài chính có lợi thế chính là có tính so sánh được cao, không chỉ có khả năng đánh giá tính hiệu quả và năng lực của những bộ phận khác nhau trong cùng một tổ chức (như marketing, sản xuất, kỹ thuật ) mà còn có thể giúp so sánh các công ty hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau, từ những doanh nghiệp bán lẻ đến các công ty bưu chính viễn thông hay các hãng lữ hành
  13. – 4 – Cũng chính nhờ lợi thế đồng nhất này, thông tin tài chính có thể được biến tấu thành nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng rất đa dạng để phục vụ công tác đánh giá thành quả cũng như phân tích hoạt động của doanh nghiệp. Nhược điểm của thước đo tài chính: Thứ nhất, thước đo tài chính truyền thống không cung cấp đầy đủ các thông tin để đo lường, đánh giá thành quả hoạt động doanh nghiệp. Đánh giá thành quả hoạt động của doanh nghiệp theo thước đo tài chính truyền thống được thể hiện qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, báo cáo tài chính được xây dựng trên những chứng từ và dữ liệu của các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh. Do đó, các báo cáo tài chính chỉ thể hiện được những thành quả trong quá khứ của doanh nghiệp, không phản ánh được tiềm năng của doanh nghiệp trong tương lai để đánh giá đúng tiềm năng và triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai. Bên cạnh đó, báo cáo tài chính chỉ đưa ra kết quả cuối cùng mà rất hạn chế để thấy được những nguyên nhân dẫn đến kết quả đó. Từ đó, nhà quản trị gặp khó khăn khi họ hoạch định chiến lược trong tương lai. Thứ hai, thước đo tài chính truyền thống thường dẫn đến xu hướng quá chú trọng vào lợi ích ngắn hạn mà bỏ qua hoặc thậm chí đánh đổi lợi ích trong dài hạn. Đôi khi, các thông tin kế toán có thể bị bóp méo để phục vụ những mục đích tài chính ngắn hạn. Những thước đo tài chính truyền thống mà đa phần người sử dụng thông tin – các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp – được lấy từ báo cáo tài chính do doanh nghiệp đó cung cấp. Trong nhiều trường hợp, vì những mục tiêu ngắn hạn như muốn thu hút nhà đầu tư bằng một EPS cao, hay chứng minh doanh nghiệp hoạt động hiệu quả bằng cách cắt giảm chi phí để có ROE cao mà doanh nghiệp đã thực hiện nhiều biện pháp vô tình gây tổn thương cho các mục tiêu dài hạn. Cụ thể, trong một doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong thị trường cạnh tranh, muốn “làm đẹp” báo cáo tài chính để có thể thu hút đầu tư, doanh nghiệp cắt giảm chi phí nhân công hay các chi phí bán hàng (khuyến mãi, marketing, ), chi phí nghiên cứu phát triển Với hành động trên, doanh nghiệp đã đẩy mức lợi nhuận lên cao nhằm thu hút đầu tư. Tuy nhiên, về lâu dài nhân công chán nản với mức sống thấp, lượng tiêu thụ hàng hóa giảm do không có chính sách kích thích tiêu thụ và bị thu hẹp thị phần hay sản phẩm không có những cải tiến. Rõ ràng, những hành động này ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích doanh nghiệp lâu dài. Một trường hợp khác, khi doanh nghiệp muốn
  14. – 5 – vay ngân hàng, nhà quản trị có thể cố tình bóp méo số liệu bằng những thủ thuật của kế toán để tạo ra báo cáo tài chính đủ sức thuyết phục. Cuối cùng, khi lợi nhuận doanh nghiệp tạo nên không đủ để bù đắp chi phí lãi vay, giá trị nội tại của doanh nghiệp sẽ suy giảm do những khoản thiệt hại ăn mòn vốn. Thứ ba, giá trị thực đơn vị tiền tệ của thước đo tài chính có thể biến động theo thời gian do ảnh hưởng của các nhân tố như lạm phát, suy thoái và tỷ giá hối đoái. Chính lý do này khiến việc so sánh giữa các tổ chức và so sánh thành quả hoạt động qua thời gian có thể bị bóp méo. Hiện nay, tại Việt Nam chưa có chuẩn mực kế toán cho ảnh hưởng của lạm phát. Trên thế giới, chuẩn mực kế toán số 29 về Báo cáo tài chính trong những nền kinh tế có mức lạm phát cao đã được công bố từ tháng 1 năm 1990. Tuy nhiên, chuẩn mực chỉ yêu cầu báo cáo tài chính của công ty phài điều chỉnh lại hoàn toàn khi tỷ lệ lạm phát trong 3 năm gần nhất vượt mức 100%. Trong bài nghiên cứu “Exploring the effect of Inflation on Financial Statements through Ratio Analysis”, Itner (2000) đã so sánh báo cáo tài chính được điều chỉnh theo lạm phát với báo cáo không được điều chỉnh của một công ty giả định với các dòng sự kiện liên quan đến tình hình tài chính của công ty trong 3 năm, với chỉ số lạm phát 2%/ tháng tương đương 26,82%/ năm. Itner (2000) nhận thấy những chỉ tiêu phi tiền tệ và hệ số tính toán từ các chỉ tiêu phi tiền tệ trên báo cáo tài chính như doanh thu, giá vốn hàng bán, tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, hệ số vốn luân chuyển đều tăng. Trong khi các chỉ tiêu như hệ số thanh toán nhanh, đòn bẩy tài chính, số vòng quay tài sản giảm nhẹ do mẫu số có chứa các chỉ tiêu phi tiền tệ. Tất cả các chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận như lợi nhuận biên, ROE, ROA đều giảm mạnh do lạm phát đã xóa đi gần hết lợi nhuận của công ty. Nghiên cứu cũng kết luận rằng lạm phát càng cao thì các tài sản tiền tệ càng mất giá trị và chỉ tiêu tiền tệ càng suy yếu. Các công ty dự trữ nguồn tiền càng dồi dào thì càng bị ảnh hưởng mạnh bởi lạm phát. Kể cả khi tiến hành áp dụng mô hình nghiên cứu tại nền kinh tế có chỉ số lạm phát thấp như Canada (chỉ số lạm phát sau 3 năm là 6.2%), nghiên cứu cho thấy lạm phát cũng làm suy giảm lợi nhuận của các công ty. 1.1.2. Thước đo phi tài chính 1.1.2.1. Đặc điểm Thước đo phi tài chính là những thông tin không được trình bày bằng đơn vị tiền tệ hay được tính toán từ các đơn vị tiền tệ. Với nguồn gốc và mối quan hệ mật
  15. – 6 – thiết tới các chu trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các thước đo phi tài chính có khả năng phản ánh một chính xác, khách quan, trực tiếp mọi mặt của doanh nghiệp, bao gồm cả giá trị các nguồn lực hay kết quả hoạt động kinh doanh. Mặt khác, các thước đo phi tài chính vô cùng đa dạng cả về phương pháp đo lường, tính toán, đơn vị đo lường được sử dụng Mặc dù có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, nhưng vấn đề công bố các thước đo phi tài chính còn nhiều hạn chế. Theo yêu cầu công bố thông tin của Ủy ban Châu Âu đối với các doanh nghiệp, thước đo phi tài chính mà nhà đầu tư quan tâm có thể chia làm ba loại chính: (i) nhóm thước đo mô tả tình hình quản trị và chính sách hoạt động của công ty, (ii) nhóm thước đo trình bày kết quả hoạt động và (iii) nhóm thước đo trình bày rủi ro và các biện pháp quản trị rủi ro của doanh nghiệp. Bài nghiên cứu này tập trung nghiên cứu những thước đo phi tài chính trình bày và đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Các thước đo phi tài chính trong đánh giá thành quả hoạt động thường nằm trong một số phương diện đánh giá hoạt động nhất định. Tham khảo hai nghiên cứu trước đây về các thước đo phi tài chính bao gồm Barcons (1999), Boesso (2004) có thể thấy các tác giả đều đặt trọng tâm nghiên cứu vào các phương diện mà người sử dụng thông tin quan tâm như thông tin về nhà đầu tư, khách hàng, nhà cung cấp, thông tin về học hỏi và phát triển, quy trình nội bộ, người lao động và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Các mô hình nghiên cứu đa phần được phát triển từ lý thuyết bảng điểm cân bằng – một công cụ đánh giá thành quả doanh nghiệp hữu hiệu, được xây dựng bởi Kaplan và Norton (1996). Ngoài phương diện tài chính, mô hình bảng điểm cân bằng bao gồm 3 phương diện phi tài chính: khách hàng, quy trình nội bộ, học hỏi và phát triển. Theo nghiên cứu về thị trường của Eurosif và Ủy ban hỗ trợ đầu tư bền vững toàn cầu – Global Sustainable Investment Alliance, đến năm 2011, giá trị của các tài sản được đánh giá bằng các thông tin phi tài chính trên phạm vi toàn cầu đã vượt mức 10.5 nghìn tỷ. Trong cuộc khảo sát năm 2013 trên 94 nhà đầu tư đến từ 18 quốc gia của Hiệp hội kế toán công chứng Anh, kết quả thống kê cho thấy 89% nhà đầu tư đánh giá trách nhiệm xã hội là thước đo phi tài chính quan trọng, 25% nhà đầu tư thường xuyên quan tâm tới các thước đo phi tài chính, 92% nhà đầu tư cho rằng những thông tin phi tài chính được công bố hiện nay không mang tính so sánh. Khảo
  16. – 7 – sát cũng cho thấy nguồn thông tin phi tài chính quan trọng nhất là từ báo cáo trách nhiệm xã hội/ báo cáo phát triển bền vững và báo cáo thường niên. Hình 1.1. Những nguồn thông tin phi tài chính Nguồn: Nghiên cứu của ACCA (2013). 1.1.2.2. Ưu điểm và nhược điểm Ưu điểm của thước đo phi tài chính Ưu điểm đầu tiên của những thước đo đánh giá thành quả phi tài chính là khả năng lý giải mối liên hệ hay các sự kiện không được trình bày rõ ràng trong báo cáo tài chính. Ví dụ, báo cáo tài chính không cho thấy bức tranh về quan hệ của doanh nghiệp với môi trường, với cộng đồng địa phương, hay sự phát triển công nghệ, mức độ hài lòng của người lao động, vấn đề an toàn lao động và môi trường Đồng thời, báo cáo tài chính cũng không cung cấp cho người sử dụng nhiều thông tin về lợi thế cạnh tranh hay những điểm mạnh, điểm yếu của công ty so với đối thủ, thị phần, sự hài lòng của khách hàng, tốc độ phát triển các dòng sản phẩm mới hay công tác quản lý chất lượng, phát triển thương hiệu và nhiều vấn đề quan trọng khác Ưu điểm thứ hai của các thước đo phi tài chính là chúng chỉ ra và có thể giúp giải quyết những yếu kém của hệ thống kế toán truyền thống mà đa phần chỉ ghi nhận và báo cáo các chỉ tiêu tài chính. Lịch sử kế toán từ thế kỷ thứ 14, trải qua hai
  17. – 8 – cuộc cách mạng công nghiệp, cho thấy kế toán truyền thống đóng vai trò quan trọng trong suốt thời kỳ đầu cách mạng tư bản khi hai nguồn lực sản xuất quan trọng nhất là nguyên vật liệu và sức lao động. Trong nghiên cứu “Performances measures for Managerial Decision Making: Performance Measurement Sygnergies in Multi- Attribute Performance Measurement Systems”, Robert (2010) đã kết luận sau khi tổng kết các nghiên cứu trước đây về lịch sử phát triển của kế toán truyền thống: “kết quả của việc các doanh nghiệp phụ thuộc vào hệ thống đánh giá hoạt động dựa trên kế toán chi phí truyền thống chính là các nhà quản lý doanh nghiệp trở nên lệ thuộc và đánh giá hoạt động dựa trên các con số kế toán thay vì quan tâm đến hoạt động và chu trình đằng sau những con số đó”. Với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng về tỷ trọng tài sản trí tuệ và tài sản vô hình trong cơ cấu tài sản doanh nghiệp, khiến cho khả năng đo lường giá trị của những thước đo kế toán truyền thống đang suy giảm dần. Giá trị hiện tại của những lợi ích kinh tế trong tương lai mà các tài sản này mang lại rất khó ghi nhận, và nếu theo chuẩn mực kế toán quốc tế hiện hành, đa phần những tài sản vô hình chỉ có thể được ghi nhận trong báo cáo tài chính và sổ sách kế toán khi diễn ra quá trình chuyển nhượng, sáp nhập và hợp nhất. Đồng thời, cũng có nhiều nghiên cứu quan tâm đến vấn đề kế toán nguồn nhân lực và liệu giá trị của chúng có nên được trình bày trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp hay không và trình bày như thế nào. Theo Barcons và cộng sự (1999), kế toán nguồn nhân lực hiện nay chỉ được tiếp cận dưới hai góc độ: kế toán tài chính với đa phần các tài khoản liên quan là nợ phải trả và chi phí; và kế toán quản trị khi nó được ghi nhận tương quan với giá trị gia tăng do nguồn nhân lực tạo ra. Trong nghiên cứu “Kinh tế tri thức và sự cần thiết của kế toán nguồn nhân lực trong doanh nghiệp” (2012), Phạm Đức Hiếu đã viết: “Hệ thống kế toán hiện tại đã bỏ qua vai trò quan trọng của các giá trị nguồn nhân lực, vì thế các nhà quản lý không có được những thông tin cần thiết để đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả trong đầu tư cho nguồn nhân lực. IASB đã ứng xử đối với hầu hết các chi phí liên quan đến nguồn nhân lực như là các chi phí thời kỳ thay vì vốn hóa các chi phí này như tài sản, vì thế công ty càng đầu tư nhiều cho nguồn nhân lực thì lợi nhuận kế toán lại càng giảm. Ở khía cạnh này, kế toán truyền thống đã không khuyến khích các nhà quản lý đầu tư cho các nguồn nhân lực của họ”.
  18. – 9 – Ưu điểm thứ ba, thông tin phi tài chính mang tính khách quan và khó có thể bị bóp méo so với thông tin tài chính. Thông tin tài chính bị điều chỉnh bởi những nguyên tắc kế toán như cơ sở dồn tích, tính phù hợp và thận trọng. Những nguyên tắc ghi nhận doanh thu và chi phí của kế toán tài chính dẫn tới sự chậm trễ trong thông tin và khả năng phù phép thông tin trên báo cáo tài chính. Trong khi đó thông tin phi tài chính có thể phản ánh trực tiếp và trung thực kết quả hoạt động qua các thước đo phi tài chính mà không cần quá nhiều những qui định ghi nhận. Thông tin phi tài chính có thể được cung cấp gần như ngay lập tức, thậm chí ngay khi quá trình sản xuất đang diễn ra. Ưu điểm cập nhật và kịp thời này làm gia tăng tính hữu ích của thông tin phi tài chính. Việc theo dõi đồng thời các thông tin phi tài chính bên cạnh các chỉ tiêu tài chính giúp ngăn chặn những hành vi điều chỉnh lợi nhuận hay hành vi làm đẹp báo cáo tài của chính nhà quản trị. Ngoài ra, khi thảo luận về các ưu điểm của thước đo phi tài chính, các nghiên cứu của Itner và cộng sự (1998), Banker (2000), Pangakar và Kirkwood (2006) đều đồng ý rằng những thước đo phi tài chính tốt hơn, và thậm chí còn là những chỉ tiêu dự báo kết quả tài chính tương lai tốt hơn so với những thước đo tài chính. Tuy nhiên, vẫn cần có thêm nhiều bằng chứng cụ thể hơn nữa về việc liệu những chỉ tiêu đánh giá phi tài chính có phản ánh được giá trị lợi ích kinh tế tương lai thuộc về doanh nghiệp hay không. Hiện nay, đây vẫn là vấn đề gây nên nhiều tranh cãi đối với những chuyên gia nghiên cứu kế toán. Nhược điểm của thước đo phi tài chính Việc thiết kế, phát triển và áp dụng một mô hình đánh giá hoạt động sử dụng các thước đo phi tài chính trong doanh nghiệp có thể gặp một số khó khăn. Bất lợi đầu tiên của các thước đo phi tài chính đã được nhắc đến trên đây: chúng có thể không phản ánh được hiện giá của sản phẩm, dịch vụ trong tương lai hay những lợi ích kinh tế công ty có thể nhận được dưới dạng số tuyệt đối hoặc phản ánh được các mối quan hệ trong tương lai qua các tỷ số. Thông tin phi tài chính là những dữ liệu mang tính mô tả (ví dụ như sự hài lòng của khách hàng) hay những tỷ số của những chỉ tiêu khác biệt về bản chất (ví dụ số lượng khiếu nại của khách hàng tính trên 1.000 sản phẩm bán ra), do đó, tính hữu dụng của thông tin phi tài chính bị giới hạn. Chúng được thiết kế nhằm giải thích theo cách phi tài chính những mối quan hệ đặc thù mà ta không thể trình bày rõ ràng bằng các thước đo tài chính của kế
  19. – 10 – toán truyền thống. Theo lý thuyết, các thước đo phi tài chính thậm chí có thể thay thế cho những thước đo tài chính, tuy nhiên điều này chỉ thực tế khi mối quan hệ giữa các sự kiện, các yếu tố, các lợi ích kinh tế trong tương lai được phản ánh trong thước đo phi tài chính và giá trị của chúng có thể được trình bày rõ ràng. Nhược điểm thứ hai của thước đo phi tài chính là chúng không có khả năng (ít nhất là không trực tiếp) tác động đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mặc dù có những chỉ tiêu kết quả hoạt động bị ảnh hưởng bởi các giá trị mà những thước đo phi tài chính đo lường (ví dụ như sự hài lòng của khách hàng và nhà cung cấp, số lượng khiếu nại ). Về tổng thể, các thước đo phi tài chính chỉ có thể giúp giải thích được biến động của những chỉ tiêu này. Ví dụ, kết quả hoạt động của một công ty có thể phụ thuộc vào thị phần và mức độ hài lòng của khách hàng. Tuy nhiên, khả năng phản ánh giá trị này còn bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi cách tiếp cận để đánh giá cho từng lợi ích kinh tế. Các thước đo phi tài chính phản ánh sự thỏa mãn khách hàng chỉ có thể giải thích được biến động trong doanh số nếu như được sử dụng phối hợp với doanh thu được đo lường bởi thước đo tài chính. Nhược điểm thứ ba là mức độ tin cậy của thông tin phi tài chính cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp nếu chúng được trình bày trong các báo cáo. Mỗi công ty và mỗi ngành đều có những thang đo khác nhau và nội dung mà chúng phản ánh rất khác biệt. Bởi vậy, các kiểm toán viên độc lập không thể đảm bảo tính đáng tin cậy của số lượng lớn các thang đo này do những hạn chế cả về hiểu biết chuyên môn lẫn áp lực về khối lượng công việc. Itner và cộng sự (2000) đã trình bày về tính đang tin cậy về mặt thống kê của thước đo phi tài chính. Các thước đo phi tài chính tham gia vào hệ thống đánh giá có thể được tổng kết từ các cuộc khảo sát như sự hài lòng của khách hàng hay mức độ nhận biết thương hiệu. Tuy nhiên, nếu mẫu lựa chọn không đủ lớn hay bảng câu hỏi khảo sát không đủ chi tiết, thì các thước đo phi tài chính sẽ không có độ tin cậy về mặt thống kê cao, làm giảm khả năng nhận diện được sự thành công của doanh nghiệp cũng như khả năng dự đoán kết quả kinh doanh trong tương lai. Cuối cùng, một vấn đề cần quan tâm khi trình bày thước đo phi tài chính chính là mối liên hệ mật thiết của chúng với hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này tạo nên nỗi lo lắng về việc thông tin phi tài chính khi trình bày ra bên ngoài liệu các đối tượng bên ngoài có sử dụng những thông tin này với mục đích
  20. – 11 – không có lợi cho doanh nghiệp hay không. Do đó, các doanh nghiệp có xu hướng công bố những thông tin không cụ thể hoặc không cập nhật về hoạt động của mình. Việc sử dụng không đúng đắn các thước đo phi tài chính và không hiểu rõ mối liên hệ giữa các thước đo có thể làm chệch hướng quan tâm của nhà quản trị và kết quả là các nỗ lực cải thiện không mang lại hiệu quả như mong muốn. Và cuối cùng, Itner và cộng sự (2000) đánh giá rằng đo lường thành quả hoạt động sử dụng những thước đo phi tài chính làm tốn nhiều thời gian và công sức hơn so với các thước đo tài chính hiện nay. 1.1.3. Thông tin phi tài chính và vấn đề đánh giá hoạt động Có nhiều nghiên cứu và tài liệu khẳng định sự hữu dụng và tính cấp thiết cần phải sử dụng thước đo phi tài chính vào hệ thống đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. Trong hai nghiên cứu của Kaplan và Norton (1992), Bushman (1996), về tổng quát, các nhà nghiên cứu trên đều phê bình việc đánh giá thành quả hoạt động chỉ dựa trên các chỉ tiêu tài chính lấy từ thông tin kế toán. Thông tin phi tài chính đang trở thành một yếu tố ngày càng được quan tâm trong hoạt động đánh giá thành quả. Vì vậy, trong mục 1.1.3, tác giả trình bày tóm tắt một số nghiên cứu chứng minh cho tính hiệu quả khi sử dụng thông tin phi tài chính để đánh giá hoạt động. Kaplan (1983) đã nghiên cứu các công ty sản suất tại Mỹ và so sánh năng suất của họ so với các công ty sản xuất tại Nhật và Châu Âu. Khi tìm hiểu lý do năng suất sản suất cao hơn tại Nhật và Châu Âu, Kaplan nhận thấy các công ty Mỹ cần phải phát triển các chỉ tiêu đánh giá phi tài chính để có một cái nhìn rõ ràng hơn về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu khuyến khích sự quan tâm của nhà quản lý chuyển từ những chỉ tiêu đánh giá ngắn hạn và là những con số tổng cộng sang những chỉ tiêu đánh giá phi tài chính liên quan tới mục tiêu dài hạn, ví dụ như năng suất, tiêu chuẩn chất lượng Amir và Lev (1996) đã nghiên cứu về giá trị của những thông tin phi tài chính trong đánh giá hoạt động của ngành công nghiệp mạng không dây. Amir và Lev chỉ ra rằng những thông tin tài chính không quan trọng trong lĩnh vực này và cho rằng những thông tin phi tài chính, chủ yếu về tài sản vô hình, lại quan trọng và phù hợp hơn. Họ thừa nhận rằng trong ngành công nghiệp viễn thông di động, thay vì quan tâm đến những thông tin tài chính, nhà đầu tư lại coi trọng chỉ số thuê bao tiềm năng, hay còn gọi chỉ số thâm nhập. Họ xem đây là thước đo sự thành công của
  21. – 12 – doanh nghiệp về hoạt động và cạnh tranh. Một chỉ tiêu phi tài chính khác mà họ sử dụng là số thuê bao trung bình tính trên một lao động của công ty. Mô hình hồi quy biến động thị trường, biến động lợi nhuận và giá trị sổ sách cho thấy giá thị trường không tương quan với các chỉ tiêu tài chính. Kết luận đưa ra là đối với các doanh nghiệp viễn thông di động, phân tích thông tin tài chính sẽ có ý nghĩa hơn khi có những chỉ tiêu phi tài chính đi kèm. Nghiên cứu cũng ghi nhận tương quan thuận chiều giữa các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Tháng 5 năm 2001, Ủy ban chuẩn mực báo cáo tài chính của Hiệp hội kế toán Hoa kỳ cũng đã nghiên cứu và khẳng định sự hữu dụng của các chỉ tiêu phi tài chính khi báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo sau khuyến cáo này, Itner và cộng sự (2000) cũng đã tổng kết các nghiên cứu về lĩnh vực kế toán quản trị và thống kê theo thời gian các phương pháp đánh giá hoạt động trong thực hành kế toán. Itner và cộng sự công bố rằng bắt đầu từ giữa những năm 1990, đối tượng nghiên cứu kế toán quản trị là những nhân tố tài chính và phi tài chính tạo nên giá trị cho nhà đầu tư, và do đó cho rằng bảng điểm cân bằng (BSC) là mô hình đánh giá thành quả rất lý tưởng vì kết hợp cả thước đo tài chính và thước đo phi tài chính. Tại Việt Nam, trong thời gian gần đây, tuy chưa có nghiên cứu hay thống kê chính thức nào về vấn đề sử dụng thước đo phi tài chính trong đánh giá hoạt động, nhưng các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp niêm yết cũng đang hướng sự quan tâm vào vấn đề thông tin phi tài chính. Trong hội thảo “Các vấn đề phi tài chính của doanh nghiệp thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư” năm 2010 được tổ chức bởi Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) với sự tham gia của 40 doanh nghiệp niêm yết, đại diện Sở giao dịch chứng khoán Singapore, City Bank, McKinsey & Co và hãng Morgan Stanley, các chuyên gia đã khẳng định nếu quản lý tốt các vấn đề phi tài chính của doanh nghiệp, sẽ đóng vai trò “bệ đỡ” cho sự phát triển bền vững bởi nó giúp các nhà đầu tư tiềm năng yên tâm hơn khi cân nhắc việc đầu tư vào doanh nghiệp. Khi tầm quan trọng của thước đo phi tài chính đã được khẳng định và được khuyến khích đưa vào hệ thống đánh giá hoạt động, nhưng các thước đo phi tài chính vẫn còn nhiều bất cập khi vận dụng trong thực tế, ngay tại những nước có hệ thống kế toán và tài chính phát triển mạnh mẽ. Tính hữu dụng của các thước đo đánh giá hoạt động phi tài chính được kiểm nghiệm trong nghiên cứu của Stivers (1998).
  22. – 13 – Stivers (1998) khảo sát 253 giám đốc điều hành của các công ty trong danh sách Fortunes 500 tại Mỹ và Canada Post 300. Câu hỏi đặt ra cho những người tham gia khảo sát là nhận định tầm quan trọng của mỗi chỉ tiêu trong tập hợp 21 chỉ tiêu đánh giá hoạt động phi tài chính trên năm phương diện: dịch vụ khách hàng, giá trị thị trường, học hỏi và phát triển, hiện thực hóa mục tiêu và đóng góp của người lao động. Kết quả cho thấy hai hạn chế chủ yếu: 1) Khoảng cách về mức coi trọng trong đánh giá hoạt động: mặc dù những thước đo phi tài chính được đánh giá là quan trọng, chúng có thể không được thực hiện (ví dụ: 63.2% các công ty đánh giá phương diện học hỏi và phát triển là quan trọng, nhưng chỉ có 21.8% công ty đánh giá phương diện này). 2) Khoảng cách về mức sử dụng thông tin phi tài chính: kể cả khi các thước đo phi tài chính được thiết kế để đánh giá hoạt động, nhưng chúng thậm chí không được sử dụng để ra quyết định (ví dụ: có 83.8% công ty đánh giá chỉ tiêu chất lượng giao hàng, nhưng chỉ 71.1% xác nhận có sử dụng chúng cho mục đích lên kế hoạch). Cuối cùng, theo một hướng nghiên cứu khác, Itner và cộng sự (1997) đã tìm hiểu về các nhân tố tác động đến sự lựa chọn giữa các chỉ tiêu đánh giá thành quả hoạt động tài chính và chỉ tiêu phi tài chính. Nghiên cứu phát hiện ra rằng, một công ty chỉ thực sự coi trọng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động phi tài chính khi: (1) hoạt động trong các ngành chịu sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan chức năng, nhất là về vấn đề báo cáo; (2) sử dụng chiến lược tập trung vào phát minh, cải tiến, (3) áp dụng chiến thuật lấy chất lượng là tôn chỉ hàng đầu. 1.2. Công bố thông tin phi tài chính về thành quả hoạt động 1.2.1. Mối quan hệ giữa lý thuyết thông tin bất cân xứng và việc công bố thông tin phi tài chính Khái niệm về thông tin bất cân xứng: Thông tin bất cân xứng là một khái niệm trong chuyên ngành kinh tế học mô tả tình huống mà trong đó những người tham gia tương tác trên thị trường nắm được những thông tin khác nhau về giá trị hoặc chất lượng của một tài sản hay dịch vụ đang được giao dịch (trao đổi) trên thị trường đó.
  23. – 14 – Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có nhiều thông tin hơn một bên khác. Điển hình là người bán biết nhiều về sản phẩm hơn đối với người mua hoặc ngược lại. Thông tin bất cân xứng được đề cập trong một bài báo kinh điển xuất bản vào năm 1970 của nhà kinh tế học người Mỹ George Akerlof: “The Market of Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism”. Trong đó, có một ví dụ kinh điển, George Akerlof đã áp dụng thị trường xe hơi cũ tại Mỹ để minh họa cho vấn đề bất đối xứng thông tin khi mà người bán xe biết rất rõ hiện trạng của chiếc xe mình muốn bán còn người mua thì không. Giả thiết là hai bên không thể trao đổi thông tin với nhau. Ban đầu người bán sẽ ra giá 8.000 USD cho một chiếc xe cũ. Nhưng vì người mua không biết giá trị thật của nó là bao nhiêu nên chỉ chấp nhận với mức giá trung bình là 4.000 USD. Với mức giá đó, tất cả những ai bán xe biết rằng giá trị của chiếc xe mình cao hơn 4.000 USD sẽ rút ra khỏi thị trường, thị trường xe chỉ còn những xe có giá dưới 4.000 USD. Đến lúc này, do thiếu thông tin, người mua lại chỉ ước đoán giá trị thật của chiếc xe này phải dưới 4.000 USD, họ sẽ trả giá 2.000 USD. Và từ đó, những người bán xe biết rõ xe mình có giá trị cao hơn 2.000 USD sẽ rút lui. Cứ như thế, thị trường sẽ còn lại những chiếc xe rất xấu và tệ hại nhất mà theo tiếng lóng của người Mỹ là những quả chanh. Qua nhiều năm, lý thuyết bất cân xứng thông tin đã khẳng định được vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế, nhất là trong các lĩnh vực hoạt động đầu tư. Mối quan hệ giữa thông tin bất cân xứng và việc công bố thông tin phi tài chính: Tham khảo một số nghiên cứu về thông tin bất cân xứng tại Việt Nam và trên thế giới, bao gồm “Bất cân xứng thông tin, công bố thông tin doanh nghiệp và thị trường vốn: một quan sát thực tế về lý thuyết công bố” – Paul, Krishna và Palepu (2010), “Thông tin trên thị trường chứng khoán” – Hồ Thái Khánh (2012), các tác giả đều nhất trí rằng (1) bằng cách xây dựng kênh cung cấp thông tin đầy đủ, tin cậy, chính xác và (2) phát triển các hình thức cũng như nội dung công bố thông tin, vấn đề thông tin bất cân xứng có thể được giải quyết. Thông tin phi tài chính nhờ những ưu điểm kịp thời, khách quan và khả năng bù đắp những hạn chế của thông tin tài chính, hoàn toàn có thể trở thành công cụ hiện thực hóa hai giải pháp nói trên. Như đã đề cập, thông tin phi tài chính được cung cấp kịp thời, khó có thể bị phù phép và
  24. – 15 – cung cấp cho người sử dụng cái nhìn về nhiều khía cạnh mà thông tin tài chính không thể phản ánh được. Ngoài những tính chất giúp hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin kể trên, bản chất đa dạng của thông tin phi tài chính đủ để phát triển các hình thức và nội dung công bố thông tin chuyên biệt theo từng ngành hoạt động hay từng nhóm doanh nghiệp. Thông tin phi tài chính nếu được sử dụng đúng cách và khai thác tối đa những lợi thế vốn có, sẽ trở thành nhân tố quan trọng đảm bảo lòng tin và sự công bằng cho các nhà đầu tư trên TTCK. Tóm lại, sự tham gia của các thông tin phi tài chính vào hệ thống công bố thông tin giúp nguyên tắc công khai minh bạch trên thị trường, đó là một nguyên tắc quan trọng nhất của TTCK. Nếu nguyên tắc này được đảm bảo ở mức độ cao hơn, sẽ gia tăng độ tín nhiệm của nhà đầu tư và kết quả cuối cùng là một thị trường tài chính vận hành hiệu quả. Weil (2008) lại đề xuất một khuôn khổ cho việc đánh giá xem liệu các hệ thống công bố thông tin cơ bản tại Mỹ có được cải tiến qua thời gian không – liệu có sự cải thiện về độ chính xác và phạm vi công bố thông tin cho người sử dụng thông tin hay không. Trong đó, Weil cũng đánh giá chi phí và lợi ích công bố thông tin và sự gia tăng minh bạch từ quan điểm của cả doanh nghiệp công bố và người sử dụng thông tin. Weil (2008) cho rằng nếu chỉ công bố thông tin theo yêu cầu pháp luật sẽ tạo nên bất cân xứng thông tin giữa nhà quản lý doanh nghiệp – người có quyền truy cập vào những nguồn thông tin nội bộ và những người sử dụng thông tin bên ngoài không thể tiếp cận được những nguồn thông tin đó. 1.2.2. Vấn đề công bố thông tin phi tài chính về thành quả hoạt động 1.2.2.1. Trên thế giới Các thông tin phi tài chính của doanh nghiệp có thể là những thông tin về quy trình sản xuất, hoạt động đầu tư nghiên cứu, những nguồn lực doanh nghiệp sở hữu và những thông tin liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Do đặc điểm liên quan mật thiết tới hoạt động sản xuất kinh doanh, những thông tin này đã được đưa vào hệ thống đánh giá hoạt động và được công bố từ rất lâu. Theo bài viết “Non-financial Company Reporting” trên trang thông tin cho người lao động tại EU – worker-partcipation.eu, các thông tin về trách nhiệm xã hội đã bắt đầu được quan tâm và công bố từ những năm 1970. Tuy nhiên, yêu cầu công bố ngày càng cao hơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu, các vấn đề về điều kiện lao động gia tăng do ảnh
  25. – 16 – hưởng của toàn cầu hóa và gia tăng cạnh tranh cùng với những thất bại trong quản trị các doanh nghiệp. Áp lực đòi hỏi đầu tư có đạo đức và trách nhiệm hơn cũng thúc đẩy nhu cầu hiểu biết về các hoạt động của công ty và những rủi ro tiềm tàng mà nó và chuỗi cung ứng đang phải đối mặt, bao gồm cả những rủi ro về danh tiếng. Vấn đề công bố thông tin về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trên thế giới đến thời điểm này không mang tính chất tự nguyện nữa, nhiều quốc gia trên thế giới đều đã đưa ra những yêu cầu công bố bắt buộc đối với thông tin này. Bảng dưới đây trình bày một thống kê nhỏ những yêu cầu công bố thông tin về CSR của chính phủ và các cơ quan quản lý niêm yết tại một số quốc gia: Yêu cầu công bố CSR của Quốc gia Yêu cầu công bố CSR của Chính phủ Cơ quan quản lý niêm yết Anh 2010: Các công ty sử dụng hơn 6.000 2009: Đưa vào hoạt động sàn MWh mỗi năm phải báo cáo về tất cả giao dịch chứng khoán Xã hội lượng khí thải liên quan đến sử dụng (SSE). năng lượng. 2001: London Stock 2006: Công ty niêm yết trên thị trường Exchange cho ra mắt chỉ số chứng khoán London phải công bố thông FTSE4Good Index tin về các vấn đề môi trường, điều kiện làm việc, những ảnh hưởng hoạt động kinh doanh đến cộng đồng và xã hội. 2000: Nhà quản lý quỹ hưu trí phải cung cấp một bản tuyên bố đưa ra phạm vi những cân nhắc về xã hội, môi trường hoặc đạo đức được xem xét trong quyết định đầu tư. Hoa Kỳ 2010: Công bố thông tin bắt buộc theo 2013: Sàn NYSE Euronext qui định trong luật khí thải nhà kính, cam kết tham gia sáng kiến thường được gọi là 40 CFR Phần 9, yêu xây dựng các sàn giao dịch cầu doanh nghiệp có lượng lớn khí thải chứng khoán bền vững (SSE) phải báo cáo dữ liệu liên quan đến phát của Liên Hợp Quốc (SSE).
  26. – 17 – thải khí nhà kính của họ với cơ quan chức 2003: NYSE thông qua quy năng. tắc quản trị doanh nghiệp yêu 2002: Đạo luật Sarbanes-Oxley (SarbOx) cầu các công ty niêm yết yêu cầu các giám đốc điều hành, giám “thông qua và công bố một bộ đốc tài chính của công ty niêm yết xác quy tắc ứng xử và đạo đức nhận các báo cáo thường niên đã trình trong kinh doanh.” bày hợp lý tình hình hoạt động. Liên minh 2013: Ban Pháp chế Nghị viện châu Âu Châu Âu đã thông qua một dự thảo luật về báo cáo EU phi tài chính của doanh nghiệp, yêu cầu các công ty lớn phải công bố thông tin về tác động môi trường, xã hội và nhân viên liên quan, cũng như chính sách không phân biệt đối xử của họ. 2013: Nghị viện châu Âu đã thông qua một đạo luật yêu cầu các công ty dầu, khí đốt, khai thác mỏ và khai thác gỗ phải công bố các khoản thanh toán giúp họ có được quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên trong tất cả các quốc gia mà họ hoạt động. 2002: Trong xác nhận báo cáo thường niên và hàng quý, giám đốc điều hành và giám đốc tài chính của công ty niêm yết phải rà soát các công bố thông tin về môi trường có ảnh hưởng đến giá trị tài sản. Ấn Độ 2013: Chính phủ Ấn Độ đi đầu với việc 2011: Ủy ban chứng khoán và ban hành Luật công ty bắt buộc đối với hối đoái Ấn Độ yêu cầu các một số loại doanh nghiệp nhất định có lợi công ty niêm yết phải chuẩn nhuận phải chi tiền cho các hoạt động bị và công bố báo cáo về môi phúc lợi xã hội. trường, xã hội và quản trị
  27. – 18 – 2013: Luật công ty 2012 buộc các công ty doanh nghiệp theo hướng dẫn với giá trị thuần trên 500 triệu rupee, công bố tự nguyện quốc gia. hoặc doanh thu trên 1.000 triệu Rs phải áp dụng chính sách trách nhiệm xã hội. Trung 2009: Chính sách “Chứng khoán xanh" Quốc của chính phủ yêu cầu các công ty niêm yết công bố thêm thông tin về hoạt động môi trường của họ. 2008: Các công ty được yêu cầu phải công bố về các hoạt động CSR và sử dụng tài nguyên môi trường. Bảng 1.1. Yêu cầu công bố thông tin CSR tại một số quốc gia trên thế giới Về mặt công bố thông tin tự nguyện, các doanh nghiệp ngày càng coi trọng báo cáo về trách nhiệm xã hội hơn khi áp lực từ cộng đồng xã hội và yêu cầu minh bạch thông tin trên thị trường tài chính ngày càng cao. Viện quản trị và trách nhiệm – “Gorvenance & Accountability Institute” báo cáo rằng 19% các công ty trong danh sách S&P 500 công bố các báo cáo trách nhiệm xã hội và con số này tăng lên 53% trong năm 2012. Khảo sát của KPMG 2011 về báo cáo trách nhiệm xã hội cũng đưa ra kết luận tương tự. Kết quả khảo sát tại 3 nước trong năm 2008 và 2011 được trình bày trong biểu đồ dưới. 100 90 80 70 60 50 2008 40 2011 30 20 10 0 Hoa kỳ Canada Anh Hình 1.2. Tỷ lệ doanh nghiệp công bố báo cáo CSR
  28. – 19 – Những thay đổi này minh chứng cho việc các doanh nghiệp đang đáp ứng tốt hơn yêu cầu công bố thông tin và sự thay đổi trong quan điểm của nhà đầu tư và xã hội về hoạt động của các tập đoàn và hệ thống tài chính nói chung. Những thay đổi này đầy hứa hẹn, nhưng cũng làm nổi lên sự cần thiết cho những nỗ lực tiếp tục công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp và khuyến khích những thay đổi trong văn hóa kinh doanh. 1.2.2.2. Tại Việt Nam Hiện nay, tại Việt Nam, vấn đề công bố thông tin phi tài chính về thành quả hoạt động vẫn còn khá mới, chưa được tiếp cận trực diện và là trọng tâm trong bất kỳ nghiên cứu nào. Trong nghiên cứu “Kinh tế tri thức và sự cần thiết của kế toán nguồn nhân lực trong doanh nghiệp” được thực hiện bởi Phạm Đức Hiếu (2012), tác giả đã tìm thấy những thống kê khá hữu ích. Nghiên cứu đã khảo sát báo cáo thường niên cho năm tài chính 2011 của 30 doanh nghiệp niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán TP.HCM trong danh sách VN30. Thông tin công bố trên báo cáo thường niên được chia thành 3 nhóm: thông tin tài chính (15 biến), thông tin về quản trị công ty (9 biến) và thông tin về trách nhiệm xã hội, nguồn nhân lực (8 biến). Các biến được đo lường theo thang đo nhị phân: 1-nếu xuất hiện, 0-nếu không xuất hiện. Kết quả thống kê cho thấy các doanh nghiệp công bố khá đầy đủ các thông tin tài chính (trung bình 9.81, độ lệch chuẩn 1.51). Trong khí đó, thông tin phi tài chính được công bố chủ yếu về quản trị công ty (bao gồm kiểm soát chất lượng, đánh giá các hoạt động đầu tư, đảm bảo thực hiện nghị quyết và kế hoạch công ty, thay đổi trong bộ máy quản trị ) với trung bình 7.75, độ lệch chuẩn 1.43. Các thông tin phi tài chính như trách nhiệm xã hội, nguồn nhân lực bị xem nhẹ, thậm chí không hề có trên báo cáo thường niên (trung bình 3.81, độ lệch chuẩn 1.56). Điều này chứng tỏ, công bố thông tin của doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ dừng lại ở mức độ đảm bảo chấp hành theo các quy định của pháp luật và cơ quan chức năng – những thông tin về tình hình quản trị, và doanh nghiệp chưa công bố đầy đủ thông tin phi tài chính trên báo cáo thường niên. 1.3. Mối quan hệ giữa công bố thông tin phi tài chính và kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán Kết quả hoạt động kinh doanh mà nhà đầu tư quan tâm nhất chính là lợi nhuận của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này lại phụ thuộc hoàn toàn vào biến động trong doanh
  29. – 20 – thu và chi phí. Như vậy, công bố thông tin phi tài chính hoàn toàn có thể giúp giải thích sự biến động của doanh thu, chi phí của doanh nghiệp. Công bố thông tin phi tài chính và doanh thu, chi phí là một công bố chỉ tiêu đánh giá hoạt động toàn diện – bao gồm cả các thước đo phi tài chính và thước đo tài chính. Đầu tiên, trong hầu hết các trường hợp, chất lượng sản phẩm khá khó để khách hàng quan sát và nhận biết trước khi mua, vì vậy một chính sách trình bày rộng rãi thông tin phi tài chính về tiêu chuẩn sản phẩm, dịch vụ có thể coi như một dấu hiệu về chất lượng sản phẩm. Ví dụ như doanh nghiệp tuân theo các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế như ISO 9001:2008, HACCP, về việc sản xuất theo một dây chuyền công nghệ tiên tiến Do đó, công bố thông tin phi tài chính rõ ràng và minh bạch giúp tăng trưởng doanh thu thông qua tăng số lượng khách hàng được cung cấp đầy đủ thông tin, tăng số lượng tiêu thụ trên mỗi khách hàng. Thứ hai, việc báo cáo rộng rãi về thông tin phi tài chính có thể tạo nên một thương hiệu mạnh, một dấu hiệu tốt cho sản phẩm và dịch vụ của công ty. Với một thương hiệu mạnh, công ty có thể đưa ra sản phẩm và dịch vụ mới hay tiếp cận thị trường mới một cách dễ dàng hơn. Do đó, tác giả cho rằng phạm vi công bố thông tin phi tài chính có mối tương quan thuận chiều với doanh thu, tăng trưởng doanh thu, và độ ổn định của doanh thu qua các năm, những nhân tố mà tận cùng sẽ mang lại một lợi nhuận cao hơn và chất lượng lợi nhuận tốt hơn. Công bố thông tin phi tài chính giúp giảm thiểu chi phí: Công bố thông tin phi tài chính toàn diện và minh bạch cũng giúp giảm chi phí thông qua (a) tăng cường năng lực mặc cả với nhà cung cấp so với đối thủ cùng ngành không có hệ thống thông tin phi tài chính hỗ trợ, (b) tiêu hao ít hơn cho các hoạt động tiếp thị bằng cách thiết lập mối quan hệ vững chắc với các nhà phân phối thông qua chủ động cung cấp thông tin, mang hình ảnh của mình đến các bên liên quan một cách rõ ràng hơn và (c) có thể tiếp cận các nguồn vốn giá rẻ hơn khi trở thành đối tượng ít rủi ro trên thị trường vốn. 1.4. Mối quan hệ giữa công bố thông tin phi tài chính và giá thị trường của doanh nghiệp Giá trị nội tại của một công ty phụ thuộc vào nhiều nhân tố, và chỉ có một vài nhân tố có thể đo lường được bằng thước đo tài chính. Trong thị trường cạnh tranh ngày nay, các công ty nắm giữ vô số nguồn lực đóng góp đáng kể vào giá trị nội tại
  30. – 21 – của nó nhưng lại nằm ngoài những con số tài chính: nguồn lực nhân sự (trình độ người lao động), tài sản vô hình (dữ liệu, tài sản trí tuệ, bản quyền) và nguồn lực khách hàng (thương hiệu, danh sách khách hàng), để cá biệt hóa bản thân khỏi các đối thủ cạnh tranh. Đây chính là những lợi thế cạnh tranh quan trọng doanh nghiệp cần để tồn tại và phát triển mà thông tin phi tài chính hoàn toàn có khả năng phản ánh. Fama và French (1992, 1995) cho rằng có hai trường phái trong nghiên cứu tài chính về việc xác định giá cổ phiếu của một công ty. Một trường phái giả định rằng thị trường chứng khoán hiệu quả, và bất kỳ thông tin mới nào cũng sẽ được phản ánh gần như ngay lập tức trong giá chứng khoán. Theo trường phái này, những công bố thông tin phi tài chính sẽ có tác động trực tiếp đến giá chứng khoán ngay lập tức. Với trường phái còn lại, cho rằng thị trường hoạt động không hiệu quả và rằng giá chứng khoán bị tác động bởi cả các yếu tố tài chính, như chi phí giao dịch và thuế , ví dụ như kỳ vọng của các chuyên gia và nhà đầu tư. Theo quan điểm này, cung cầu thị trường cho một loại chứng khoán cụ thể nào sẽ xác định giá chứng khoán đó, và cung, cầu này lại bị ảnh hưởng bởi kỳ vọng và hành vi của nhà đầu tư. Do đó, công bố thông tin rộng rãi và minh bạch – bao gồm các thông tin phi tài chính có thể tác động đến giá trị nội tại của doanh nghiệp và thông qua kênh này tác động tới giá chứng khoán. Tóm lại, dù xét trong bối cảnh hiệu quả của thị trường ra sao, lý thuyết tài chính và kế toán đều đưa ta tới kết luận tích cực về ảnh hưởng của công bố thông tin phi tài chính tới giá trị thị trường của doanh nghiệp.
  31. – 22 – TÓM TẮT CHƯƠNG 1 Chương 1 trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước đây về thước đo phi tài chính trong đánh giá hoạt động và mối quan hệ giữa công bố các thông tin đó với kết quả về kế toán và biến động giá thị trường của doanh nghiệp. Nhìn chung các thước đo phi tài chính bù đắp được những thiếu sót của thước đo tài chính. Về mặt lý thuyết, thông tin phi tài chính mang lại giải pháp căn bản cho vấn đề bất cân xứng thông tin. Tuy nhiên, hiệu quả đánh giá hoạt động sẽ đạt tối ưu nếu phối hợp cả thước đo tài chính và phi tài chính. Vận dụng các lý thuyết tài chính về thị trường hiệu quả, lý thuyết kế toán đưa ta tới kết luận về sự tồn tại mối tương quan thuận chiều giữa công bố các thông tin phi tài chính với tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh cũng như giá trị thị trường của doanh nghiệp. Trước khi kết thúc phần trình bày về tổng quan lý thuyết, tác giả muốn khẳng định rằng bởi vì không thể xác định trước được các vấn đề được mô tả trong thông tin phi tài chính diễn ra trước hay các kết quả kế toán và thị trường diễn ra trước, cũng như tính phức tạp trong quy trình sản xuất kinh doanh và công tác đánh giá hoạt động tại các doanh nghiệp, nghiên cứu của tác giả chỉ dừng lại ở việc kiểm nghiệm mối tương quan, chứ không nhằm xác định mối quan hệ nguyên nhân – kết quả của ba vấn đề trên. Chương tiếp theo sẽ giới thiệu mô hình, giả thuyết nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Bên cạnh đó, chương 2 sẽ trình bày việc đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu. Chương 2 cũng sẽ trình bày kỳ vọng của tác giả về mối tương quan giữa các biến số nghiên cứu.
  32. – 23 – CHƯƠNG 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của mức độ công bố thông tin phi tài chính trên thị trường chứng khoán với kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán và biến động giá trị thị trường của doanh nghiệp. Giả thuyết nghiên cứu chính bao gồm mức độ công bố thông tin phi tài chính có tác động thuận chiều lên kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán của doanh nghiệp (H1) và mức độ công bố thông tin phi tài chính có tác động thuận chiều lên biến động giá trị thị trường của doanh nghiệp (H2). 2.1. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu Như đã phân tích trong chương 1, lý thuyết tài chính, lý thuyết kinh tế và kế toán đưa chúng ta đến nhận định về tương quan thuận chiều giữa mức độ công bố thông tin phi tài chính và kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán và biến động thị trường của doanh nghiệp. Từ đó tác giả xây dựng hai giả thuyết cho từng mối quan hệ. Trong phần 1.3, tác giả đã trình bày về cơ sở lý thuyết của mối tương quan này. Bắt đầu bằng việc phạm vi công bố thông tin phi tài chính rộng rãi làm tăng cường minh bạch thông tin, giúp tăng cường các nhân tố quyết định thành công của doanh nghiệp, sau đó tác động dẫn truyền khiến doanh thu tăng, giảm thiểu một số chi phí. Kết quả là lợi nhuận tăng, chất lượng lợi nhuận và chất lượng tăng trưởng được cải thiện, giảm thiểu rủi ro kinh doanh – rủi ro lợi nhuận của doanh nghiệp suy giảm do những biến động trong doanh số. Những thước đo tài chính đánh giá hoạt động như lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận biên, lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) cũng sẽ di chuyển theo hướng tích cực hơn. Theo một hướng khác, công bố thông tin phi tài chính có thể tác động đến giá trị nội tại của doanh nghiệp khi nó phản ánh được chính xác những nguồn lực quan trọng hình thành nên giá trị nội tại của doanh nghiệp không được trình bày trong báo cáo tài chính như nguồn nhân lực, trình độ quản lý, cơ sở khách hàng
  33. – 24 – Cuối cùng, nhờ những tín hiệu tích cực từ kết quả kế toán và tăng cường giá trị nội tại, giá trị thị trường của công ty cũng sẽ gia tăng kể cả khi công ty hoạt động trong một thị trường không hiệu quả. Còn nếu doanh nghiệp hoạt động trong thị trường hiệu quả, mọi thông tin được công bố, dù là thông tin tài chính hay phi tài chính đều sẽ ảnh hưởng ngay lập tức tới giá cổ phiếu của công ty trên thị trường. Giá trị thị trường – Các chỉ tiêu biến động giá cổ đánh giá phiếu Công bố thông hoạt động tin phi tài trên cơ sở chính rộng rãi kế toán: và đầy đủ ROE ROA Hình 2.1. Sơ đồ tổng quát lý thuyết nghiên cứu Từ những lý luận trên, tác giả đặt 2 giả thuyết cho nghiên cứu này: Giả thuyết 1: H1: Mức độ công bố thông tin phi tài chính tương quan với kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán của doanh nghiệp. Có thể thấy đây chính là bước thứ 1 trong mô hình trình bày ở trên. Kết quả hoạt động kế toán bao gồm các chỉ tiêu tài chính được theo dõi trong hệ thống kế toán hay những hệ số tài chính tính toàn từ các chỉ tiêu kế toán đó. Trong phạm vi bài nghiên cứu này các thang đo tài chính mà tác giả quan tâm bao gồm: ROA, ROE. Đây là những thang đo phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và rất được nhà đầu tư quan tâm. Giả thuyết 2: H2: Mức độ công bố thông tin phi tài chính tương quan với biến động giá trị thị trường của doanh nghiệp.
  34. – 25 – Giả thiết này được minh họa trong bước thứ 2 của mô hình tổng quát trên. Biến động giá trị thị trường được đo lường bằng biến động trong hệ số giá thị trường trên thu nhập cổ phiếu (P/E). Thống kê số liệu trong năm 2013 cho thấy, khối lượng giao dịch bình quân ngày trên cả hai sàn HOSE và HNX đạt 64,48 triệu chứng khoán với tổng giá trị 1.060 tỷ đồng, giá cổ phiếu chính là thước đo phản ánh sự đánh giá của giá thị trường về chất lượng và tiềm năng của công ty tại một thời điểm nhất định. Tuy nhiên, hệ số giá trên thu nhập mới là chỉ số phản ánh kỳ vọng của thị trường về sự tăng trưởng cổ phiếu trong tương lai hơn là kết quả làm ăn đã qua. Một công ty có chỉ số P/E càng cao thì kỳ vọng của thị trường vào lợi nhuận của công ty càng cao, do đó thu hút được càng nhiều các nhà đầu tư. Còn ngược lại khi họ ít hoặc không kỳ vọng vào khả năng sinh lời lớn của công ty thì mức giá họ sẵn sàng bỏ ra khi mua cổ phiếu thấp, dẫn đến chỉ số P/E thấp, biểu hiện giá cổ phiếu này đang trên xu hướng giảm. 2.2. Tổng quan quy trình nghiên cứu 2.2.1. Phân loại các thước đo phi tài chính Các thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động có thể là thước đo tài chính hoặc phi tài chính, tuy nhiên khi mà các Chuẩn mực kế toán và Ủy ban chứng khoán đã yêu cầu doanh nghệp công bố hầu hết các chỉ số tài chính trọng yếu, bài nghiên cứu của tác giả hướng trọng tâm vào các thước đo đánh giá phi tài chính. Bài nghiên cứu này đánh giá mối tương quan giữa việc công bố các thông tin phi tài chính với kết quả hoạt động kế toán và giá trị thị trường của doanh nghiệp. Tham khảo những nghiên cứu trước đây cùng với việc vận dụng mô hình đánh giá thành quả bằng Bảng điểm cân bằng (BSC) của Kaplan và Norton (1996), tác giả đã lựa chọn 7 phương diện. Danh sách cụ thể những thước đo phi tài chính được lựa chọn thống kê gồm có: Phương diện nhà đầu tư: 1. Trình bày của Ban quản trị về các nhân tố chiến lược quyết định thành công của công ty thông qua BSC, Mục tiêu chiến lược, Thành tựu 2. Phân tích (không bắt buộc theo luật quy định) về tình hình tài chính của công ty. 3. Miêu tả kết quả thực hiện theo khu vực địa lý, hoạt động xuất nhập khẩu của
  35. – 26 – công ty ra thị trường thế giới. 4. Cung cấp thông tin về tài sản trí tuệ. 5. Cung cấp thông tin về cơ cấu, sự biến động số lượng cổ đông, ty lệ sở hữu nhà nước, nước ngoài, cá nhân Cung cấp thông tin về các công ty con, các bên có liên quan. Phương diện nhân viên 1. Kế hoạch đào tạo nhân viên. 2. Phân tích cơ cấu nhân viên theo trình độ, tay nghề, tuổi 3. Phân tích số vòng quay nhân viên trong công ty, xu hướng tăng giảm nhân viên trong tương lai. 4. Phân tích năng suất lao động của nhân viên. 5. Sự hài lòng của nhân viên, mức độ cam kết giữa nhân viên với công ty và ngược lại. Phương diện khách hàng 1. Công bố danh mục khách hàng chính, năng lực thương lượng của công ty với khách hàng, mối quan hệ với khách hàng. 2. Công bố tình hình gia tăng hay sụt giảm lượng khách hàng, hay trong 1 nhóm khách hàng nào đó. 3. Phân tích thị phần hiện tại, thị phần tiềm năng, điểm mạnh hơn so với đối thủ cạnh tranh. 4. Đánh giá thương hiệu công ty, thương hiệu sản phẩm. 5. Đánh giá sự hài lòng của khách hàng với công ty. Phương diện nhà cung cấp 1. Công bố danh mục nhà cung cấp chính. 2. Phân tích chi phí của nhà cung cấp theo khu vực địa lý, theo chính sách mua hàng. 3. Đánh giá uy tín, chất lượng của nhà cung cấp
  36. – 27 – 4. Đánh giá năng lực thương lượng của công ty với nhà cung cấp (ví dụ: có phụ thuộc nhiều vào một vài nhà cung cấp chính ) 5. Đánh giá mối quan hệ với nhà cung cấp (ví dụ: mức độ duy trì, sự hài lòng của nhà cung cấp) Phương diện quy trình nội bộ 1. Phân tích năng lực hoạt động, lợi ích của các hoạt động thu mua, sáp nhập, các hoạt động đầu tư 2. Miêu tả bản chất về ngành nghề hoạt động: cấu trúc vốn, đặc điểm thời vụ, đặc điểm về quy trình công nghệ. 3. Trình bày chu kỳ sản xuất, quản lý quy trình hiệu quả, xây dựng hệ thống kiểm soát chặt chẽ 4. Công bố thông tin về kiểm soát chất lượng. 5. Miêu tả các hoạt động outsourcing, công nghệ hóa dây chuyền sản xuất, ứng dụng công nghệ quốc tế. Phương diện học hỏi và phát triển 1. Công bố những cải tiến quy trình, đạt được các bằng sáng chế, chứng nhận sở hữu trí tuệ. 2. Xu hướng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển. 3. Miêu tả những sản phẩm mới được tung ra trong năm và những dòng sản phẩm dự kiến. 4. Phân tích chu kỳ sống của sản phẩm, thời gian cho ra một dòng sản phẩm mới. 5. Sự phát triển của công ty trong ngành và so với đối thủ cạnh tranh. Phương diện trách nhiệm xã hội 1. Miêu tả các hoạt động từ thiện, dự án cộng đồng, hoạt động tài trợ cho giáo dục. 2. Trình bày vấn đề tuân thủ đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp.
  37. – 28 – 3. Trình bày và đánh giá các hoạt động vì môi trường của doanh nghiệp. 4. Chính sách công bằng và bình đẳng trong kinh doanh và đối xử với con người. 5. Vấn đề tuân thủ pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Cả bảy phương diện này đều từng được sử dụng trong một nghiên cứu trước đây của Boesso (2004) và được phát triển chủ yếu dựa trên mô hình Bảng điểm cân bằng của Kaplan và Norton. Nếu như mô hình bảng điểm cân bằng chỉ bao gồm 3 phương diện phi tài chính là: khách hàng; học hỏi và phát triển; quy trình nội bộ thì trong nghiên cứu “Báo cáo và công bố tự nguyện các chỉ tiêu hiệu quả cho các đối tượng liên quan tại các công ty niêm yết Mỹ và Italia” năm 2004, Boesso đã lựa chọn bổ sung thêm 4 phương diện. Boesso đã tiến hành nghiên cứu 7 phương diện này để kiểm nghiệm chất lượng truyền đạt thông tin và công bố trên 72 doanh nghiệp niêm yết tại Mỹ và Italia, trong đó Boesso ghi nhận chênh lệch mức độ công bố thông tin là kết quả của khác biệt về văn hóa. Các phương diện bao gồm phương diện nhà đầu tư, phương diện người lao động, phương diện khách hàng, phương diện nhà cung cấp, phương diện trách nhiệm xã hội, phương diện quy trình nội bộ và cuối cùng là phương diện học hỏi và phát triển. Trên quan điểm của tác giả, các phương diện này có thể mang lại cái nhìn tổng quát và toàn diện khi đánh giá hoạt động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Tập hợp các phương diện đánh giá này cụ thể và sâu sắc hơn mô hình bảng điểm cân bằng khi quan tâm tới yếu tố nhà đầu tư, nhà cung cấp, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và tách biệt phương diện người lao động ra khỏi phương diện quy trình nội bộ và phương diện học hỏi và phát triển. 2.2.2. Mô hình ước lượng Các biến độc lập được tác giả sử dụng trong mô hình nghiên cứu là những biến phổ biến căn cứ vào các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và cơ sở lý thuyết được trình bày trong chương 1, bao gồm: chỉ số tuổi (AGE), chỉ số giá trên lợi nhuận mỗi cổ phiếu (PE), chỉ số giá thị trường so với giá trị số sách (PB), chỉ số chi tiêu vốn (CAPEX), chỉ số công bố thông tin phi tài chính (NONFI), tốc độ tăng trưởng doanh thu (SALEG), chỉ số qui mô của doanh nghiệp (SIZE), đòn bẩy tài chính (LVRG), chỉ số tính thanh khoản (LIQUID), hệ số rủi ro (BETA).
  38. – 29 – Nghiên cứu này kiểm định ba hàm hồi quy nhằm đánh giá tác động của mức đô công bố thông tin phi tài chính tới kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán (ROA, ROE) và biến động giá trị thị trường của doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam (P/E), tương ứng với hai giả thuyết như sau: Giả thuyết 1: H1: Mức độ công bố thông tin phi tài chính tương quan với kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán của doanh nghiệp. ROE = ∁ β0AGE + β1BETA + β2CAPEX + β4LVRG+ β5LIQUID + β6NONFI + β7SALEG+ β8SIZE ROA = ∁ β0AGE + β1BETA + β2CAPEX + β4LVRG+ β5LIQUID + β6NONFI + β7SALEG+ β8SIZE Giả thuyết 2: H2: Phạm vi công bố thông tin phi tài chính tương quan với biến động giá trị thị trường của doanh nghiệp. PE= ∁β0AGE + β1BETA + β2CAPEX + β4LVRG+ β5LIQUID + β6NONFI + β7PB + β8ROE + β9SALEG + β10SIZE Các biến trong ba hàm hồi quy được mô tả trong phần 2.3. 2.2.3. Phương pháp hồi quy Bài nghiên cứu này sử dụng dữ liệu dạng bảng cân đối (balanced panel), là dạng dữ liệu gồm chiều không gian (các công ty) và thời gian (3 năm), là sự mở rộng của dữ liệu chéo theo chuỗi thời gian. Dữ liệu dạng này cung cấp thông tin nhiều hơn, biến thiên ít hơn, ít có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến số và cho phép thực hiện những nghiên cứu về sự thay đổi và xu hướng. Do đó trong phần phân tích hồi quy, nghiên cứu này sẽ lần lượt đi qua cả ba mô hình là mô hình hồi quy tuyến tính thông thường – pure pooled OLS, mô hình hồi quy hiệu ứng ngẫu nhiên REM và mô hình hồi quy hiệu ứng cố định FEM để chọn mô hình thích hợp nhất. Để tìm hiểu xem mô hình hồi quy nào là phù hợp nhất trong ba phương pháp trên, tác giả sử dụng hai kiểm định là Likehood Ratio và kiểm định Hausman (Hausman, 1978).
  39. – 30 – Bước đầu tiên, tác giả kiểm tra bộ dữ liệu xem có phù hợp để thực hiện phân tích hồi quy hay không. Đó là công việc dò tìm sự vi phạm các giả định cần thiết trong phân tích hồi quy. Tác giả sẽ kiểm tra giả định phương sai của sai số không đổi, giả định không có sự tương quan giữa các phần dư, giả định không có hiện tượng đa cộng tuyến. Sau đó, để tìm hiểu xem hồi quy theo phương pháp pooling thích hợp hơn hay phương pháp FEM thích hợp hơn. Kiểm định Likelihood với giả thiết H0: Hồi quy theo phương pháp pooling là thích hợp hơn (hay nói cách khác là hệ số chặn giống nhau giữa các công ty nghiên cứu). Nếu hệ số T-statistic của Likelihood test đủ lớn để bác bỏ H0, thì mô hình theo phương pháp FEM thích hợp hơn só với phương pháp pooling. Thứ hai, để kiểm tra hồi quy theo mô hình nào phù hợp hơn giữa phương pháp REM (hiệu ứng ngẫu nhiên) và FEM (hiệu ứng cố định), tác giả sử dụng kiểm định Hausman, với giả thiết H0: Hồi quy theo phương pháp hiệu ứng ngẫu nhiên phù hợp hơn (hay nói cách khác là không có tương quan giữa biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên). Nếu giá trị p của Chi-bình phương trong kiểm định Hausman cho phép bác bỏ H0, thì mô hình hồi quy theo phương pháp FEM phù hợp hơn so với mô hình REM. 2.3. Thu thập dữ liệu và đo lường các biến số trong giả thuyết nghiên cứu Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn nghiên cứu trong 3 năm (2010, 2011, 2012) với 113 công ty niêm yết trên sàn HOSE và HNX hoạt động trong 9 ngành với 339 quan sát. Thời điểm thực hiện đề tài là vào tháng 1/2014 nên báo cáo thường niên và báo cáo tài chính năm 2013 của các công ty niêm yết trên TTCK là chưa có vì vậy, tác giả chỉ khảo sát đến năm 2012. Trong số đó gồm 106 công ty niêm yết trên sàn HOSE và 7 công ty niêm yết trên sàn HNX. Việc lựa chọn các ngành và công ty là hoàn toàn ngẫu nhiên. Tỷ số giá trên lợi nhuận mỗi cổ phiếu (P/E) P/E là tỷ số giữa giá thị trường và lợi nhuận ròng trên mỗi cổ phiếu của một công ty. Chính định nghĩa này đã ngầm định một cách đơn giản để tính toán tỷ số này:
  40. – 31 – Giá trị thị tường của cổ phiếu P/E Thu nhập mỗi cổ phiếu Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu phản ánh mức lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân. Tỷ số này là thước đo đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo được ra bao nhiêu đồng lời và thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty nào. ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông và vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn nhà đầu tư hơn. Công thức tính: Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu bình quân Một công ty có tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu càng cao, chứng tỏ công ty đó sử dụng vốn cổ đông hiệu quả, làm gia tăng giá trị cho công ty và lợi ích cổ đông, từ đó kỳ vọng giá cổ phiếu tăng và P/E tăng. Kỳ vọng về tương quan giữa ROE với P/E đồng biến được ủng hộ bởi nghiên cứu thực nghiệm của Vahir (2012). Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) Tỷ số này phản ánh khả năng sinh lợi trên tổng tài sản. Tương tự như tỷ số ROE, khi ROA cao là tín hiệu tốt giúp công ty thu hút đầu thư bên ngoài. So với ROE, ROA loại trừ ảnh hưởng của việc sử dụng đòn bẩy tài chính trong doanh nghiệp, nó đơn thuần phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản Mức độ công bố thông tin phi tài chính (NONFI) Tác giả đã thu thập các báo cáo thường niên trong ba năm của các công ty được khảo sát nhằm tìm kiếm những thông tin phi tài chính được công bố. Có nhiều nguồn công bố thông tin phi tài chính như các báo cáo trách nhiệm xã hội, trang web
  41. – 32 – công ty, các bài phân tích, các chỉ số xếp hạng của các hãng nghiên cứu thị trường, các tạp chí chuyên ngành, thông tin từ các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, thống kê của cơ quan chức năng Tuy nhiên, nguồn thông tin từ báo cáo thường niên được lựa chọn vì tính phổ biến, đáng tin cậy và khả năng có thể thu thập được. Sử dụng danh sách các chỉ tiêu phi tài chính dùng đánh giá hoạt động trình bày trong phần 2.2.1 của nghiên cứu này, tác giả ghi nhận lại mức độ công bố thông tin phi tài chính của mỗi công ty cho từng phương diện theo điểm từ 0 đến 5. Tập hợp các phương diện đánh giá hoạt động trong nghiên cứu này bao gồm: 1) Phương diện nhà đầu tư 2) Phương diện người lao động 3) Phương diện khách hàng 4) Phương diện nhà cung cấp 5) Phương diện trách nhiệm xã hội 6) Phương diện quy trình nội bộ 7) Phương diện học hỏi và phát triển Theo Barth (2004), chúng ta có hai cách để tiếp cận để tính điểm cho các dữ liệu định tính. Cách tiếp cận đầu tiên, đơn giản là cho điểm theo từng phương diện với điểm tối đa cho mỗi phương diện là bằng nhau, để phản ánh tầm quan trọng của mỗi phương diện là như nhau. Cách tiếp cận thứ hai là sử dụng trọng số cho các đối tượng tương ứng. Trong đề tài, tác giả thực hiện như sau: Sau khi tính điểm cho từng phương diện căn cứ danh sách 35 thước đo chuẩn (đạt được một thước đo trong 35 thước đo trên sẽ được 1 điểm), trên quan điểm thông tin phi tài chính trên tất cả các phương diện quan trọng như nhau. Tác giả không phân biệt và đặt trọng số như nhau cho 7 phương diện để tính toán tổng số điểm của chỉ tiêu NONFI, sau đó chia bình quân lại cho 7 để có giá trị của NONFI. Chỉ số tuổi doanh nghiệp (AGE) Mỗi doanh nghiệp có một lịch sử hình thành riêng, trong bài nghiên cứu này tác giả lựa chọn năm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là năm thành lập. Thông thường các doanh nghiệp thành lập lâu năm sẽ có kết quả kinh doanh trên cơ sở kế toán tốt hơn và giá trị thị trường doanh nghiệp cũng cao hơn. Lý do là thị
  42. – 33 – phần và cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp này đã đi vào ổn định, đồng thời kinh nghiệm quản lý được tích lũy qua nhiều năm cũng giúp kết quả hoạt động của doanh nghiệp khả quan hơn. Chỉ số tuổi của doanh nghiệp được tính bằng nghịch đảo tổng số năm hoạt động của doanh nghiệp cộng thêm 1. Việc đưa biến tuổi và cách tính toán biến này được tham khảo từ nghiên cứu của Jain và Wongchoti (2008) về phân tích mối tương quan theo các quốc gia giữa tuổi của doanh nghiệp và tỷ số giá trị thị trường. Công thức tính toán chỉ số tuổi doanh nghiệp như sau: 1 1 Năm tính toán Năm thành lập Hệ số rủi ro (BETA) Có nhiều cách để thể hiện biến rủi ro cho một chứng khoản: rủi ro hệ thống đo lường bằng beta, và sai lệch chuẩn đo bằng σ . Tuy nhiên, σ sẽ đại diện cho tổng rủi ro (bao gồm rủi ro hệ thống và rủi ro cá biệt), còn beta thì đại diện cho rủi ro hệ thống của công ty và là tỷ lệ bù rủi ro của công ty so với thị trường. Vì rủi ro cá biệt có thể giảm thiểu thông qua đa dạng hóa, nên rủi ro hệ thống có vai trò đại diện cho rủi ro của cơ hội đầu tư. Trong bài nghiên cứu tác giả sử dụng hệ số beta đại diện cho rủi ro công ty. Hệ số beta là hệ số đo lường mức độ biến động hay còn gọi là thước đo rủi ro hệ thống của một chứng khoán hay một danh mục đầu tư trong tương quan với toàn bộ thị trường. Hệ số beta là một tham số quan trọng trong mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Công thức: Covar Ri, Rm Var Rm Trong đó: - Ri: Tỷ suất sinh lời của chứng khoán. - Rm: Tỷ suất sinh lời của thị trường (ở đây là VN-Index). - Var(Rm): Phương sai của tỷ suất sinh lời thị trường. - Covar (Ri, Rm): Hiệp phương sai của tỷ suất sinh lời của chứng khoán và tỷ suất sinh lời của thị trường.
  43. – 34 – Lý thuyết tài chính luôn nhắc đến sự đánh đổi giữa rủi ro và khả năng sinh lời. Nếu như Beta của một công ty càng cao, thì nhà đầu tư đòi hỏi công ty phải có ROE và ROA cao. Trong tình hình cân bằng của thị trường chứng khoán, các cổ phiếu có beta thấp có giá cao và tỷ lệ lợi tức trung bình thấp. Ngược lại, các cổ phiếu có beta cao hơn làm tăng thêm rủi ro của danh mục đầu tư của những nhà đầu tư thì sẽ chỉ bán được chúng có giá thấp và tỷ suất lợi tức trung bình cao để có thể bù đắp cho những đặc điểm rủi ro không mong muốn của chúng. Ủng hộ lý thuyết này, trong bài nghiên cứu của Michele, Leonardo & Fabrizio (2003) thực hiện trên 201 cố phiếu các công ty Mỹ và 245 cổ phiếu các công ty tại châu Âu, các tác giả đã kết luận hệ số rủi ro Beta tác động nghịch chiều lên P/E. Chỉ số chi tiêu vốn (CAPEX) Chỉ số chi tiêu vốn trong năm tương quan với tổng giá trị tài sản, sẽ phản ánh được mức độ tiếp tục đầu tư của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ở thời điểm khởi đầu kinh doanh thì tổng giá trị tài sản thường không cao nhưng lại có xu hướng đầu tư nhiều hơn, còn những doanh nghiệp đã đi vào hoạt động ổn định phần lớn sẽ giảm chi tiêu vốn. Chi phí có thể phát sinh ngay nhưng lợi ích của những tài sản dài hạn từ các khoản chi tiêu vốn xuất hiện sau một độ trễ nhất định, vì vậy, giả thuyết kỳ vọng chỉ số chi tiêu vốn sẽ tương quan nghịch chiều với kết quả hoạt động kế toán do chi phí sẽ tăng trong những năm đầu chi tiêu đầu tư vốn. Giá trị của một cổ phiếu trên thị trường chứng khoán bao gồm cả những cơ hội tăng trưởng trong tương lai vì đây là thị trường đầu tư các công cụ vốn dài hạn. Đầu tư vào máy móc thiết bị, tài sản cố định có thể tăng cường năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm hay cải thiện hệ thống phân phối của doanh nghiệp, từ đó mang lại những cơ hội tăng trưởng và sẽ được phản ánh trong giá trị cổ phiếu trên một thị trường hiệu quả. Vấn đề này đã được đề cập trong bài nghiên cứu “Agency problem and capital expenditure Annoucement” của Timothy và Daniel (2004), tiến hành khảo sát trên 122 công ty tại Australia. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định mối tương quan thuận chiều giữa giá thị trường trên lợi nhuận mỗi cổ phiếu (P/E) so với công bố chi tiêu vốn (dòng tiền chi đầu tư) khi xem xét thông qua biến trung gian là cơ hội tăng trưởng của doanh nghiệp (đo lường bằng biến P/B). Công thức tính toán chỉ số này như sau:
  44. – 35 – Chi tiêu vốn trong năm Tổng giá trị tài sản Trong đó, chi tiêu vốn trong năm được lấy từ chỉ tiêu tiền chi cho đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, tài sản cố định trong dòng tiền đầu tư của báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Chỉ số tính thanh khoản (LIQUID) Biến này thể hiện năng lực trong việc đáp ứng các cam kết vay nợ (trả lãi và nợ gốc định kỳ). Thiếu hụt thanh khoản sẽ dẫn đến tình trạng kiệt quệ và có khả năng phá sản, bởi vì công ty phải chật vật với các khoản nợ ngắn hạn và làm ảnh hưởng đến uy tín tín dụng công ty. Biến LIQUID là tỷ số giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn: Tổng tài sản ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn Chỉ số này đại diện cho sức khỏe tài chính của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư trên thị trường thường bị thu hút bởi những doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, sử dụng vốn luân chuyển một cách hiệu quả. Đồng thời chỉ tiêu này cũng cho thấy khả năng quản lý vốn lưu động hiệu quả, giúp gia tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Đòn bẩy tài chính (LVRG) Chỉ số này được tính bằng cách lấy tổng nợ (bao gồm cả nợ ngắn hạn và dài hạn) của doanh nghiệp chia cho giá trị tổng tài sản trong cùng kỳ. Công thức tính: Tổng nợ Tổng giá trị tài sản Đòn bẩy tài chính thể hiện mức độ rủi ro tài chính mà doanh nghiệp gánh chịu. Đòn bẩy tài chính càng cao thì rủi ro tài chính càng cao. Việc sử dụng nguồn vốn nợ trong kinh doanh giúp doanh nghiệp giảm được suất sinh lợi yêu cầu và gia tăng lợi nhuận cho cổ đông, qua đó làm gia tăng giá trị của công ty. Tuy nhiên, việc gia tăng sử dụng vốn nợ liên tục sẽ gây ra rủi ro phá sản cho công ty, vì vậy mỗi doanh nghiệp cần xác định cơ cấu vốn thích hợp để đòn bẩy tài chính nằm trong mức hiệu quả nhất.
  45. – 36 – Tỷ số giá trị thị trường trên giá sổ sách (P/B) Tỷ số giá trị thị trường trên giá trị ghi sổ dùng để so sánh giá trị thị trường với giá trị ghi sổ của cổ phiếu đó. Công thức tính như sau: Giá trị thị trường của cổ phiếu / Giá trị ghi sổ của cổ phiếu Tỷ số này thể hiện được giá trị kỳ vọng mà công ty tạo ra cho tài sản của mình theo đánh giá thị trường. P/B cũng đại diện cho mức tăng trưởng của tài sản là bao nhiêu so với giá trị quá khứ của nó, cho thấy mức hấp dẫn của cổ phiếu trên thị trường. Sự khác biệt càng lớn giữa giá trị thị trường và giá trị bút toán thể hiện công ty đã tạo ra giá trị cho cổ đông lớn thông qua kỳ vọng lợi nhuận trong tương lai cao. Do đó, kỳ vọng về sự tương quan giữa P/E và P/B là đồng biến, giả thuyết này được ủng hộ bởi Kulling & Lundberg (2007) và Võ Thị Hồng Hương (2013). Tốc độ tăng trưởng doanh thu (SALEG) Tốc độ tăng trưởng doanh thu chính là tỷ lệ % chênh lệch doanh thu thuần giữa hai kỳ hoạt động liên tiếp của doanh nghiệp. Công thức tính như sau: Doanh thu năm sau – Doanh thu năm trước Doanh thu năm trước Số liệu doanh thu trong đề tài là doanh thu thuần của năm quan sát. Theo lý thuyết tài chính, trong những nguồn tăng trưởng của doanh nghiệp, tăng trưởng doanh thu là bền vững nhất. Tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp có thể bắt nguồn từ tăng sản lượng tiêu thụ, tăng giá bán hay đa dạng hóa loại hình sản phẩm, dịch vụ và có thể dẫn đến tăng trưởng lợi nhuận, tăng trưởng thu nhập, nguồn lợi ích trực tiếp của nhà đầu tư. Những doanh nghiệp có mức độ tăng trưởng thu nhập trên cổ phiếu ổn định ở mức cao luôn được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm. Lý thuyết này dẫn tới giả thuyết tương quan thuận chiều giữa tăng trưởng doanh thu với lợi nhuận kế toán cũng như với biến động giá trị thị trường doanh nghiệp. Giả thiết này được ủng hộ bởi các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới như Vahir (2012), Kulling và Lundberg (2007).
  46. – 37 – Chỉ số quy mô doanh nghiệp (SIZE) Quy mô của doanh nghiệp phản ánh như sau: Chỉ số qui mô của doanh nghiệp (SIZE) = Log (giá trị tổng tài sản) Công thức tính toán này được tham khảo từ nghiên cứu Võ Thị Hồng Hương (2013), trong đó tác giả sử dụng logarit tự nhiên cho tài sản doanh nghiệp để đo lường quy mô của doanh nghiệp nhằm khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi do biến không dừng. Kết quả nghiên cứu của Võ Thị Hồng Hương (2013) cho thấy quy mô doanh nghiệp tác động thuận chiều lên P/E và có ý nghĩa thống kê cao, đồng thời quy mô doanh nghiệp cũng tương quan thuận chiều với biến ROA, ROE. Biến độc lập Dấu theo các nghiên Dầu kỳ vọng của tác cứu thực nghiệm giả ROE ROA PE ROE ROA PE Chỉ số tuổi (AGE) + + + + + + Hệ số rủi ro (BETA) - - - + + - Chỉ số chi tiêu vốn (CAPEX) - - + - - + Chỉ số tính thanh khoản (LIQUID) + + + + + + Đòn bẩy tài chính (LVRG) + + + + + + Tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ + + sách (PB) Mức độ công bố thông tin phi tài + + + + + + chính (NONFI) Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu + + (ROE) Tốc độ tăng trưởng doanh thu + + + + + + (SALEG) Chỉ số quy mô doanh nghiệp (SIZE) + + + + + + Bảng 2.1: Bảng tổng hợp kỳ vọng giả thuyết về tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc
  47. – 38 – TÓM TẮT CHƯƠNG 2 Mở đầu chương này, tác giả đã trình bày về hai giả định: (1) mối tương quan giữa mức độ công bố thông tin phi tài chính với kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán, và (2) mối tương quan giữa công bố thông tin phi tài chính với biến động giá trị thị trường. Tác giả cũng đã trình bày phương pháp chọn mẫu, thu thập, xử lý dữ liệu tài chính và phi tài chính phục vụ cho nghiên cứu. Dữ liệu thu thập được là dạng bảng cân đối (balanced panel), và sử dụng ba mô hình hồi quy là Pooling, FEM và REM. Các mô hình này được kiểm tra hiện tượng tự tương quan, hiện tượng đa cộng tuyến và hiện tượng tương quan chuỗi. Cuối cùng tác giả sử dụng kiểm định Likelihood và kiểm định Hausman để tìm ra mô hình phù hợp. Do một số hạn chế khách quan, nên thông tin thu thập chỉ bắt đầu từ năm 2010 đến năm 2012, và một số thông tin không phù hợp, không thể tiếp cận dẫn tới giảm cỡ mẫu. Tuy nhiên tác giả tin tưởng rằng với số lượng 113 công ty trong 3 năm tương ứng với 339 quan sát, dữ liệu là đầy đủ để tiến hành kiểm định hai giả thuyết trên. Ngoài mối quan hệ chính giữa biến độc lập NONFI và biến phụ thuộc ROA, ROE, P/E, tác giả đã đưa vào một số biến kiểm soát trong mô hình hồi quy là biến AGE, BETA, CAPEX, LIQUID, LVRG, PB, SALEG, SIZE. Từ cơ sở lý thuyêt trong chương 1, tác giả kỳ vọng như sau: - Các biến NONFI, AGE, LIQUID, LVRG, PB, SALEG, SIZE có mối tương quan thuận chiều với chỉ tiêu ROA, ROE và PE. - Biến số BETA có mối tương quan nghịch chiều với P/E nhưng tương quan thuận chiều với ROA, ROE. - Biến số CAPEX có mối tương quan nghịch chiều với ROA, ROE (phản ánh kết quả ngắn hạn) nhưng lại có mối tương quan thuận chiều với biến số PE (phản ánh kết quả dài hạn).
  48. – 39 – CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU – BẰNG CHỨNG TỪ CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM Trong chương này, tác giả sẽ trình bày các kết quả phân tích hồi quy. Tác giả sẽ sử dụng các lý thuyết, kết quả thực nghiệm trước đó đã đề cập cũng như tất các các ràng buộc và nghiên cứu khác để phân tích. Đầu tiên, chương 3 trình tổng quan về mẫu quan sát và các mối liên hệ của chúng với các biến chính sẽ được trình bày. Tiếp theo, chương này sẽ trình bày phần kiểm định và phân tích các giả thuyết. 3.1. Kết quả thống kê mô tả đặc điểm của mẫu nghiên cứu Mẫu nghiên cứu bao gồm 113 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trong mẫu, có 10 công ty ngành bất động sản, 19 công ty ngành xây dựng, 11 công ty trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính, 14 công ty trong lĩnh vực sản xuất, 6 công ty trong lĩnh vực năng lượng – điện – khí gas, 12 công ty ngành nông nghiệp, 11 công ty ngành nhựa – hóa chất, 17 công ty ngành vận tải – dịch vụ và 13 công ty ngành thực phẩm đồ uống. Tóm tắt bảng thống kê mô tả của các biến với kích cỡ 339 quan sát như sau: AGE BETA CAPEX LIQUID LVRG NONFI PB ROE SALEG SIZE Mean 0.112354 0.813127 0.056910 2.232713 0.514035 1.829330 0.862352 0.178444 0.243748 6.271312 Median 0.100000 0.810000 0.029725 1.564685 0.542207 1.714286 0.725851 0.170867 0.207545 6.158038 Maximum 0.500000 2.150000 0.610194 12.44889 0.957444 3.857143 4.416571 0.742554 5.291642 8.702026 Minimum -1.46E-07 -0.780000 1.19E-05 0.217115 0.039012 0.285714 0.070828 -1.889057 -0.983485 5.040583 Std. Dev. 0.048910 0.475146 0.073796 1.927607 0.233390 0.641948 0.592912 0.188896 0.534136 0.763280 Skewness 2.955545 -0.018769 2.683195 2.292654 -0.061707 0.432950 2.409451 -3.647337 3.752662 1.063435 Kurtosis 17.76097 2.558919 14.42448 9.041740 2.038526 3.244161 11.36441 44.27021 31.19090 4.066282 Jarque-Bera 3571.185 2.767953 2250.350 812.5782 13.27276 11.43276 1316.240 24809.75 12021.17 79.95500 Probability 0.000000 0.250580 0.000000 0.000000 0.001312 0.003292 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 Sum 38.08814 275.6500 19.29250 756.8899 174.2579 620.1429 292.3375 60.49258 82.63060 2125.975 Sum Sq. Dev. 0.808558 76.30829 1.840690 1255.897 18.41122 139.2888 118.8222 12.06039 96.43174 196.9173 Observations 339 339 339 339 339 339 339 339 339 339 Bảng 3.1 Bảng thống kê mô tả các biến Nguồn: Tính toán từ chương trình Eview.
  49. – 40 – - Giá trị chỉ số tuổi trung bình cho toàn bộ mẫu nghiên cứu là 0.112354 trong đó mức thấp nhất là -0.000000146, cao nhất 0.5. - Hệ số rủi ro Beta (BETA) có giá trị trung bình là 0.81313, nhỏ nhất là - 0.78 và lớn nhất là 2.15. - Chỉ số đầu tư vốn (CAPEX) có giá trị trung bình là 0.05691, nhỏ nhất là 0.0000119 và lớn nhất là 0.61019. - Chỉ số khả năng thanh toán (LIQUID) trong mẫu nghiên cứu có giá trị trung bình là 2.232713, nhỏ nhất là 0.217115 và lớn nhất là 12.44889. - Tỷ số nợ (LVRG) có giá trị trung bình là 0.514035, thấp nhất là 0.039012 và cao nhất là 0.957444. - Chỉ tiêu mức độ công bố thông tin phi tài chính (NONFI) có giá trị trung bình không cao 1.82933 (trong phạm vi từ 1 đến 5), với giá trị thấp nhất là 0.285714 và giá trị cao nhất là 3.85714. - Tỷ số giá thị trường trên giá trị sổ sách (P/B) có giá trị trung bình là 0.862352, nhỏ nhất là 0.725851 và lớn nhất là 4.41657. - Tốc độ tăng trưởng thu nhập (SALEG) có giá trị trung bình là 0.243748, nhỏ nhất là -0.983485 và lớn nhất là 5.29164. - Chỉ số quy mô công ty (SIZE) có giá trị trung bình là 6.27131, nhỏ nhất là 5.04058 và lớn nhất là 8.702026. 3.2. Kiểm định vi phạm các giả thuyết của mô hình hồi quy Để đảm bảo dữ liệu sử dụng là phù hợp có thể thực hiện phân tích hồi quy, trước khi phân tích hồi quy, tác giả tiến hành các kiểm định nhằm phát hiện những khiếm khuyết của mô hình (nếu có). 3.2.1. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi Hiện tương phương sai thay đổi gây nên khá nhiều hậu quả đối với mô hình ước lượng bằng phương pháp OLS. Nó làm cho các ước lượng của các hệ số hồi quy không chệch nhưng không hiệu quả (tức là không phải là ước lượng phù hợp nhất), ước lượng của các phương sai bị chệch làm kiểm định các giả thuyết mất hiệu lực khiến nhà nghiên cứu đánh giá nhầm về chất lượng của mô hình hồi quy tuyến tính. Có nhiều cách phát hiện phương sai thay đổi, trong bài nghiên cứu này, chúng ta sẽ
  50. – 41 – sử dụng kiểm định Wald và kiểm định của Breusch và Pagan Lagrangian để phát hiện hiện tượng phương sai thay đổi. Ở đây, tác giả có cỡ mẫu là 113 công ty cổ phần với các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Do chưa quyết định lựa chọn mô hình hồi quy nào trong ba mô hình hồi quy POOL, FEM và REM, nên tác giả sẽ kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi đối với cả hai mô hình FEM, REM cho ba hàm hồi quy (đương nhiên mô hình POOL sẽ bị hiện tượng phương sai thay đổi nếu hai mô hình FEM và REM bị hiện tượng này). Để kiểm định hiện phương sai thay đổi, tác giả sử dụng kiểm định Wald cho mô hình hồi quy FEM và kiểm định số nhân Breusch and Pagan Lagrangian cho mô hình REM, với giả thuyết: H0: Phương sai sai số không thay đổi. H1: Phương sai sai số thay đổi. Kiểm định Wald được tác giả thực hiện trên phần mềm STATA 12. Kết quả kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi cho hàm hồi quy với ROE, ROA và P/E trên mô hình FEM tham khảo tại phụ lục số 1. Kiểm định số nhân Breusch and Pagan Lagrangian có điều chỉnh được tác giả thực hiện trên phần mềm STATA. Kết quả kiểm định này cho hàm hồi quy với ROE, ROA và P/E trên mô hình REM tham khảo tại phụ lục số 2. Với Prob = 0.000, H0 bị bác bỏ, chấp nhận H1, cả hai phương pháp đều xảy ra hiện tương phương sai thay đổi trong ba hàm hồi quy. Vì vậy, khi chạy hồi quy, tác giả sẽ sử dụng chức năng sẵn có của phần mềm Eview là thuật toán sử dụng trọng số GLS Weight (Cross section weights) để phần mềm tự xử lý giảm bớt tác động của phương sai thay đổi nhằm đạt kết quả hồi quy tối ưu. 3.2.2. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến Mô hình lý tưởng là các biến độc lập không có tương quan với nhau, mỗi biến chứa đựng một số thông tin riêng lẻ về biến phụ thuộc và thông tin đó không có trong biến độc lập khác, khi đó hệ số hồi quy riêng cho biết ảnh hưởng của từng biến độc lập đối với biến phụ thuộc khi giả định các biến độc lập không đổi. Trong trường hợp như vậy, đa cộng tuyến không xảy ra. Tuy nhiên, nếu có trường hợp biến độc lập nào đó có tương quan với một biến độc lập khác, điều đó có nghĩa mô hình xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến. Khi tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến sẽ dẫn tới các
  51. – 42 – tình huống: phương sai và hiệp phương sai của các ước lượng lớn, R-square cao nhưng giá trị thống kê nhỏ (Hoàng Ngọc Nhậm, 2008) Có một số quy tắc kinh nghiệm nhằm phát hiện và đánh giá mức đô đa cộng tuyến như: hệ số tương quan giữa các biến độc lập cao, sử dụng hồi quy phụ, nhân tử phóng đại phương sai VIF, Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn quy tắc kinh nghiệm nhân tử phóng đại phương sai VIF để xem mô hình có xảy ra hiên tượng đa cộng tuyến không. Theo qui tắc kinh nghiệm, hệ số VIF < 5 thì mô hình không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến. Tác giả mô tả ma trận tương quan giữa các biến độc lập như sau: AGE BETA CAPEX LIQUID LVRG NONFI PB SALEG SIZE AGE 1.000000 0.083802 -0.021242 -0.026872 -0.010483 0.023146 0.010314 0.079012 -0.090179 BETA 0.083802 1.000000 -0.135322 -0.106477 0.085438 -0.000587 -0.012410 0.080011 0.070530 CAPEX -0.021242 -0.135322 1.000000 -0.012032 -0.105339 -0.098195 0.165369 0.023831 -0.141153 LIQUID -0.026872 -0.106477 -0.012032 1.000000 -0.656364 0.024670 0.050329 -0.030753 -0.233168 LVRG -0.010483 0.085438 -0.105339 -0.656364 1.000000 0.116926 -0.099585 0.052903 0.512623 NONFI 0.023146 -0.000587 -0.098195 0.024670 0.116926 1.000000 0.038269 0.017571 0.436103 PB 0.010314 -0.012410 0.165369 0.050329 -0.099585 0.038269 1.000000 0.189109 0.197534 SALEG 0.079012 0.080011 0.023831 -0.030753 0.052903 0.017571 0.189109 1.000000 0.074729 SIZE -0.090179 0.070530 -0.141153 -0.233168 0.512623 0.436103 0.197534 0.074729 1.000000 Bảng 3.2 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập Nguồn: Tính toán từ chương trình Eview. Bảng ma trận trên cho thấy hầu hết các biến độc lập có hệ số tương quan lẫn nhau rất thấp, cho thấy mức độ tương quan yếu. Tuy nhiên xuất hiện tương âm mạnh giữa biến hệ số thanh toán (LIQUID) và đòn bẩy tài chính (LVRG) -0.656 và tương quan dương mạnh giữa chỉ số quy mô công ty (SIZE) và đòn bẩy tài chính (LVRG) 0.513, tác giả nghi ngờ có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra trong mô hình và tiến hành kiểm tra lại bằng cách tính VIF thông qua hàm Collin được hỗ trợ bởi phần mềm STATA 12. Tác giả kết luận không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình do VIF của tất cả các mối tương quan đều nhỏ hơn 5. Kết quả được thể hiện ở bảng phân tích đa cộng tuyến như sau:
  52. – 43 – Bảng 3.3. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến Nguồn: Tính toán từ chương trình Stata. 3.2.3. Kiểm định hiện tượng tự tương quan Tự tương quan được hiểu là sự tương quan giữa các thành phần của dãy quan sát theo thời gian (đối với số liệu chuỗi thời gian) hoặc không gian (đối với số liệu chéo). Ở đây, ta sử dụng số liệu bảng kết hợp giữa số liệu chuỗi thời gian và số liệu chéo. Khi có tự tương quan, các ước lượng OLS (phương pháp bình phương tối thiểu) là không hiệu quả. Vì vậy, một trong những giả thuyết quan trọng của mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển là sai số ngẫu nhiên Ui trong hàm hồi quy tổng thể không xảy ra hiện tượng tự tương quan. Theo Baltagi, hiện tượng tự tương quan là vấn đề nghiêm trọng đối với dữ liệu dạng bảng với chuỗi thời gian dài (trên 20 hoặc 30 năm) nhưng không phải là vấn đề quá lớn đối với dữ liệu dạng bảng theo một số ít năm. Để kiểm tra hiện tượng tự tương quan chúng ta có nhiều phương pháp. Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ kiểm định theo phương pháp Durbin – Watson. Tham khảo bảng kết quả hồi quy 3.4 và 3.5, ta thấy hệ số Durbin – Watson của hàm hồi quy đối với P/E là 2.4936 đều thỏa mãn điều kiện 1.5 < d < 2.5, cho thấy mô hình hồi quy không tồn tại hiện tượng tự tương quan. Tuy nhiên trong hàm hồi quy đối với ROA và ROE, do sử dụng trọng số GLS Weight (Cross section weights) đã đề cập ở phần 3.2.1 nên dẫn đến tồn tại hiện tượng tự tương quan trong
  53. – 44 – mô hình. Tuy nhiên do mức vượt giới hạn là nhỏ nên có thể coi tác động của hiện tượng tự tương quan là không đáng kể. 3.3. Kết quả phân tích hồi quy Tác giả thực hiện hồi quy lần lượt theo 3 phương pháp: Pool, random effect (hiệu ứng ngẫu nhiên) và fixed effect (hiệu ứng cố định) cho 3 hàm hồi quy trong giả thuyết. Đầu tiên, để tìm hiểu xem hồi quy theo phương pháp Pool thích hợp hơn hay phương pháp FEM thích hợp hơn, tác giả sử dụng kiếm định Likelihood với giả thiết: H0: Tất cả các hệ số đều không thay đổi theo thời gian và theo các công ty (mô hình Pool phù hợp hơn) H1: Tồn tại hệ số thay đổi theo thời gian và các công ty (mô hình FEM phù hợp hơn). Do Prob của Chi-bình phương đối với cả ba hàm hồi quy đều nhỏ hơn 0.05 nên theo Gujarati (1995), ta bác bỏ H0, chấp nhận H1, mô hình theo phương pháp FEM thích hợp hơn so với phương pháp Pool. (Xem phụ lục 3) Thứ hai, để kiểm tra hồi quy theo mô hình nào phù hợp hơn giữa phương pháp random effect (hiệu ứng ngẫu nhiên) và fixed effect (hiệu ứng cố định), tác giả sử dụng kiểm định Hausman, với giả thiết: H0: Không có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (có thể chọn FEM hoặc REM). H1: Có tương quan giữa các biến giả thích và thành phần ngẫu nhiên (chọn FEM). Theo Hausman (1978) nếu P-value (Cross-section random) nhỏ hơn 0.05, bác bỏ H0, chấp nhận H1. Ngược lại nếu P-value lớn hơn 0.05 thì chấp nhận H0. Do P-value (Cross-section random) của hàm hồi quy đối với ROE và ROA của kiểm định Hausman đều bằng 0.0000 nên mô hình hồi quy theo phương pháp FEM phù hợp hơn so với mô hình REM. (Xem phụ lục 3). Riêng Hàm hồi quy đối với PE, do P-value (Cross-section random) = 0.7523 (Xem phụ lục 3), giả thuyết H0 không bị bác bỏ, mô hình FEM và REM đều phù hợp đối với hàm hồi quy này. Tuy nhiên, theo Gujarati (1995), nếu dữ liệu với thời gian qua nhiều năm, số lượng đơn
  54. – 45 – vị chéo nhỏ thì chọn REM và FEM đều được. Ngược lại, nếu thời gian quan sát một đơn vị chéo là ít năm (< 15 năm), và số lượng đơn vị chéo nhiều, với phương pháp chọn mẫu thuận tiện thì nên chọn mô hình hồi quy FEM. Vì vậy, mặc dù kết quả kiểm định Hausman cho phép chọn giữa mô hình FEM và REM nhưng vì mẫu nghiên cứu chỉ 3 năm với số lượng đơn vị chéo nhiều, nên tác giả quyết định chọn mô hình hồi quy FEM (Gujarati, 1995). Căn cứ trên kết quả kiểm định lựa chọn mô hình hồi quy, tác giả lựa chọn mô hình hồi quy hiệu ứng cố định – Fixed effect model cho cả ba hàm hồi quy. Bảng 3.4 dưới đây trình bày kết quả hồi quy đối với giả thuyết 1. H1: Mức độ công bố thông tin phi tài chính tương quan với kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán của doanh nghiệp. ROE = ∁ βAGE βBETA βCAPEX βLVRG βLIQUID βNONFI βSALEG βSIZE ROA = ∁ βAGE βBETA βCAPEX βLVRG βLIQUID βNONFI βSALEG βSIZE Với dữ liệu nghiên cứu, kết quả hồi quy FEM với biến phụ thuộc là ROE và ROA có kết quả tương đồng nhau. Chỉ số R bình phương hiệu chỉnh cũng cho thấy hai mô hình là phù hợp với các biến tham gia mô hình có khả năng giải thích 95.24% đối với ROE và 98.51% đối với hệ số ROA. Ở mức ý nghĩa 5% kết quả là ROE và ROA tỷ lệ thuận với các biến chỉ số tuổi (AGE), hệ số rủi ro (BETA), tăng trưởng doanh thu (SALEG) và chỉ số quy mô doanh nghiệp (SIZE) và tỷ lệ nghịch với chỉ số chi tiêu vốn (CAPEX), đòn bẩy tài chính (LVRG), hệ số thanh toán (LIQUID). Chỉ tiêu mức độ công bố thông tin phi tài chính (NONFI) chỉ tác động ngược chiều lên ROE ở mức ý nghĩa 5%, đối với ROA tác động không có ý nghĩa thống kê. Như vậy trong trường hợp các yếu tố khác không đổi, tác động của từng biến giải thích lên ROE và ROA là như sau: - Biến AGE tác động lên biến ROE và ROA mạnh nhất trong các biến với hệ số hồi quy là 0.8987 ở mức thống kê 1% và 0.4333 ở mức thống kê 1%. Hệ số tương quan này cho thấy khi chỉ số độ tuổi của doanh nghiệp tăng (giảm) một đơn vị thì ROE sẽ tăng (giảm) 0.8987 đơn vị và ROA sẽ tăng (giảm) 0.4333 đơn vị. Mối quan hệ này phù hợp với giả thuyết nghiên cứu.