Báo cáo Giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình điện tử hoá ngân hàng tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Nội

pdf 88 trang yendo 5161
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình điện tử hoá ngân hàng tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_cao_giai_phap_nham_thuc_day_qua_trinh_dien_tu_hoa_ngan_h.pdf

Nội dung text: Báo cáo Giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình điện tử hoá ngân hàng tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Nội

  1. BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình điện tử hoá ngân hàng tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Nội” 1
  2. MỤC LỤC Lời mở đầu 4 Chương I : Những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử 5 2- Các chức năng chủ yếu của ngân hàng thương mại 6 2.3-Trung gian thanh toán 8 II- Sự hình thành và phát triển ngân hàng điện tử 8 Hình 1 : Internet một kênh phân phối của ngân hàng 13 2- Lợi ích của ngân hàng điện tử 18 3- Mô hình hoạt động và các nghiệp vụ của ngân hàng điện tử. 20 4.1 Mô hình thanh toán tiền điện tử vô danh (Anonymous e-money). . 29 Hình 4 : Mô hình thanh toán điện tử 31 Tổng quan hệ thống : 32 Chương II 40 I - Khái quát về ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. 41 3- Các hoạt động chính. 44 Nguyên nhân chủ quan. 46 Nguyên nhân khách quan. 48 3- Lợi ích của điện tử hoá ngân hàng đối với ngân hàng ĐT&PT Hà Nội.49 5.1.1. Thực trạng về cơ sở hạ tầng nguồn nhân lực CNTT. 53 5.1.2. Thực trạng cơ sở hạ tầng thiết bị. 55 Thiết bị truyền thông và mạng: 56 5.1.3. Hệ thống phần mềm đang sử dụng hoặc đang phát triển. 57 1. Hệ thống sản phẩm nghiệp vụ ngân hàng chủ yếu; 57 2. Hệ thống sản phẩm nghiệp vụ ngân hàng khác liên quan đến hệ thống chủ yếu. 57 3. Hệ thống đang phát triển. 57 4. Các hệ thống hỗ trợ: 57 5.2. Thực trạng triển khai dự án Ngân hàng điện tử tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. 58 Hệ thống chuyển tiền điện tử. 61 6.1. Những thuận lợi của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội 62 6.2. Nhận xét về tiến độ thực hiện của dự án ngân hàng điện tử tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. 64 6.2.1. Các nguyên nhân chủ quan 64 Về hệ thống ứng dụng 64 Về cơ sở dữ liệu. 65 Về nguồn nhân lực. 65 Về trang thiết bị 66 Về hệ thống mạng 66 2
  3. Chương III 70 Kênh cung cấp thông tin gồm: 71 Kênh giao dịch gồm các nghiệp vụ: 72 Kênh cải thiện mối quan hệ khách hàng 72 2.1. Xây dựng lộ trình thực hiện dự án. 74 2.2. Giải pháp đối với hệ thống ứng dụng và hệ thống cơ sở dữ liệu. 75 3. Giải pháp về trang thiết bị. 76 4. Giải pháp về hệ thống mạng. 76 5. Các giải pháp về nguồn nhân lực. 77 6. Giải pháp hỗ trợ. 79 III - Một số kiến nghị 80 1. Kiến nghị đối với chính phủ. 80 1.1. Về khung pháp lý. 80 Ban hành văn bản pháp quy về thanh toán điện tử 80 1.2. Về chính sách ưu đãi đối với sự phát triển công nghệ thông tin. 82 2- Kiến nghị với Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam 82 3- Kiến nghị với ngân hàng NHNN Việt Nam. 83 Tài liệu tham khảo 86 +Consumer's Guide to Electronic Payments 88 3
  4. Lời mở đầu Kể từ khi bước sang thế kỷ mới, nghành ngân hàng Việt Nam đã có nhiều đổi mới để phù hợp với kỷ nguyên của tin học và xu hướng phát triển hiện nay trên thế giới là “ điện tử hoá nền kinh tế”, lấy việc ứng dụng thương mại điện tử làm nòng cốt, xu hướng ấy thể hiện ở việc hình thành các ngân hàng điện tử (Virtual Banking, Internet Banking, E-Banking, Online Banking, ) và được coi là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là những mô hình ngân hàng hiện đại có nhiều ưu điểm hơn so với mô hình ngân hàng thương mại truyền thống, đối với Việt Nam, việc ứng dụng thương mại điện tử còn rất nhiều hạn chế, ngân hàng điện tử đang trong thời kỳ hình thành, còn chưa thông dụng đối với mọi thành phần trong xã hội, tuy nhiên, việc hình thành ngân hàng điện tử ở Việt Nam hiện nay là cần thiết và khách quan, nó đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế và của bản thân các NHTM trong thời kỳ mới. Nắm được sự cần thiết đó, ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Nội đã và đang chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một mô hình ngân hàng mới “ Ngân hàng điện tử”. Tuy nhiên việc tiến hành đang còn gặp rất nhiều khó khăn như : Không nắm rõ ngân hàng điện tử hoạt động ra sao; các bước hình thành, nên áp dụng các nghiệp vụ gì ban đầu, do vậy, qua quá trình thực tập tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội, nhận thức được những khó khăn này, tôi đã chọn đề tài “ Giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình điện tử hoá ngân hàng tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Nội” . Kết cấu của chuyên đề : Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, chuyên đề gồm 3 chương : Chương I : Những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử. Chương II : Thực trạng quá trình điện tử hoá tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Chương III : Một số giải pháp thúc đẩy quá trình điện tử hoá ngân hàng tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. 4
  5. Chương I : Những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử I -Khái niệm về ngân hàng thương mại. 1-Khái niệm . Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại gắn liền với lịch sử và phát triển của nền sản xuất hàng hoá, như vậy, ngân hàng thương mại là một sản phẩm đặc biệt của nền kinh tế hàng hoá, đồng thời là một trong những nghành công nghiệp lâu đời nhất. Xem xét quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại, từ các hoạt động ban đầu là đổi tiền; nhận tiền gửi; cho vay và chi trả hộ, cũng như phát triển theo quy mô và nghiệp vụ như nghiệp vụ bảo lãnh, đặc biệt là phát hành các tín phiếu chứng nhận về tiền gửi được dùng để thanh toán chi trả gần giống như giấy bạc ngân hành hiện nay, nhìn chung ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng và nhiệm vụ, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, nhưng ở đây đặt ra vấn đề là những yếu tố trên luôn luôn thay đổi , thực tế rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và các công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng, và ngược lại, ngân hàng cũng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh(các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác, do vậy cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng đang cung cấp: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và 5
  6. thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Ngược lại, một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu, ở nước ta theo luật các tổ chức tín dụng (1/10/1998) : “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Hay luật các tổ chức tín dụng của nước CHXHCN Việt Nam ghi : “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.” 2- Các chức năng chủ yếu của ngân hàng thương mại 2.1-Trung gian tài chính Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: một là : Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; hai là : Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng, điều tất yếu là tiền sẽ ở nhóm thứ hai chuyển sang cho nhóm thư nhất nếu cả hai cùng có lợi, như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó lại là quan hệ tín dụng, hoặc không thì chỉ là quan hệ cấp phát vốn hoặc là hùn vốn. Việc quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp với thời gian, không gian, quy mô làm cản trở các quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính, do việc chuyên môn hoá, trung gian tài chính có 6
  7. thể làm giảm chi phí giao dịch, tăng thu nhập cho người tiết kiệm, nhờ đó mà khuyến khích tiết kiệm, giảm phí tổn cho người đầu tư, làm khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư nên giải quyết được các mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp, gánh chịu rủi ro và sử dụng các nghiệp vụ kỹ thuật để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch. 2.2-Tạo phương tiện thanh toán. Tiền-vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện lưu trữ, nó trở thành tiền giấy. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy rằng nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo những quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận, thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông(Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn . Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có dùng để mua hàng và dịch vụ, do đó bằng việc cho vay(hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay, khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền cho vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi ) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác, từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn 7
  8. bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng). 2.3-Trung gian thanh toán Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia, thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ . Cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Ngoài ra các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng ngày càng đạt được hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng, vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại ngày càng được các nhà quản lý áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. II- Sự hình thành và phát triển ngân hàng điện tử 1-Sự hình thành ngân hàng điện tử 1.1-Khái niệm về ngân hàng điện tử. Ngân hàng điện tử (E-Banking) hay còn gọi là ngân hàng trực tuyến (Online Banking), ngân hàng mạng (Internet Banking) là một hình thức ngân hàng mà các dịch vụ khách hàng của nó được thực hiện một cách tự động thông qua mạng Internet, và nguyên liệu chính được sử dụng là tiền điện tử (E-Money). 8
  9. Tiền điện tử (Electronic money, Digital Casch, E-casch) là phương tiện biểu hiện giá trị, là sự biểu hiện dưới dạng số hoá của tiền tệ. * Theo định nghĩa của Uỷ ban Châu Âu thì tiền điện tử là một loại tiền: + Được chứa đựng trong các thiết bị điện tử như thẻ điện tử hay bộ nhớ máy tính. + Được chấp nhận như là phương tiện trong thanh toán. + Được phát hành với mục đích chuyển cho người sử dụng để phục vụ như một sự thay thế cho tiền mặt (tiền giấy, tiền xu, ). + Được phát hành để thực hiện thanh toán điện tử cho những thanh toán có giá trị giới hạn. Tiền điện tử (E-money) theo như định nghĩa là một hình thái tiền tệ cho phép khách hàng sử dụng phương tiện truyền thông điện tử để tiếp cận với hệ thống thanh toán. Như vậy tiền chính là thông tin (Infomation) được chuyển giao giữa các thiết bị điện tử giúp cho quá trình thanh toán. Mạng Internet là một hệ thống các máy tính được kết nối với nhau trên phạm vi toàn thế giới. Mạng cho phép các thành viên trao đổi thông tin, dữ liệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các dịch vụ truyền thông, thư tín điện tử, thương mại điện tử Như vậy, ngân hàng điện tử theo như định nghĩa thực chất là việc ứng dụng Internet trong lĩnh vực ngân hàng. Đối tượng của ngân hàng điện tử là các khách hàng sử dụng máy tính cá nhân có nối mạng, toàn bộ các nghiệp vụ đều được thực hiện tại nhà hay bất kỳ nơi nào có kết nối Internet mà trong đó các nghiệp vụ hoàn toàn được tự động hoá, không cần đến sự tham gia của các nhân viên ngân hàng. 1.2-Sự hình thành ngân hàng điện tử. 9
  10. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm ảnh hưởng rất lớn tới lĩnh vực ngân hàng, tài chính và thương mại. Có nhiều quan điểm về nghành công nghiệp ngân hàng sẽ tận dụng được cơ hội thuận lợi do sự phát triển của công nghệ thông tin mang lại hay lại phải đấu tranh để duy trì vai trò cơ bản (principa role) của nó trong nền kinh tế. BillGates, chủ tịch tập đoàn Microsoft, bậc thầy trong lĩnh vực công nghệ tin học, trong buổi gặp gỡ các quan chức ngân hàng Châu Âu (EU) năm 1994 cho rằng các ngân hàng sẽ gặp phải những thách thức không nhỏ để tồn tại trong thời gian tới. BillGates cho rằng : “ Các ngân hàng cũng như loài khủng long, đứng trước nguy cơ của sự lỗi thời và có thể sẽ bị tuyệt chủng”. Một số nhà ngân hàng đã cảm thấy bị xúc phạm bởi câu nói có vẻ như phi lý này của Bill, một số khác lại coi đó như một hồi chuông cảnh báo, một sự thách thức cho giới ngân hàng, hoặc là vươn lên làm chủ công nghệ mới để cung cấp các sản phẩm tài chính và thương mại điện tử trong thế kỷ 21, hoặc bị gạt ra bên ngoài để phục vụ như một kênh bị động cung cấp các thông tin du lịch thông qua công nghệ mà sự phát triển phụ thuộc vào các nghành khách, những nghành có thể sẽ không còn sử dụng các kênh ngân hàng truyền thống. Sự hình thành của ngân hàng điện tử là tất yếu khách quan, cũng giống như các ngân hàng thương mại truyền thống, nó xuất phát từ sự phát triển của tiền và các hình thức thương mại. Tuy nhiên không thể thiếu một nguyên nhân nữa để ngân hàng điện tử ra đời đó là sự phát triển của công nghệ thông tin, cuộc cách mạng công nghệ thông tin là nhân tố quyết định sự phát triển của tiền tệ và các hình thức thương mại, tạo tiền đề cho ngân hàng điện tử ra đời. - Internet cuộc cách mạng công nghiệp thứ ba. Cái mà người ta gọi là cuộc cách mạng công nghiệp không chỉ đơn giản là triển khai thêm một công nghệ nữa mà là sự đảo lộn cơ bản trong cách sản xuất và tiêu dùng, thế giới đã biết đến hai cuộc cách mạng công nghiệp : 10
  11. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất được theo đuổi đến năm 1840, sinh ra ở nước Anh với sự phát minh ra máy hơi nước do James Watt năm 1776, lần đầu tiên người ta đã thành công trong công việc biến nhiệt thành chuyển động mà ứng dụng đầu tiên là chiếc máy kéo sợi bông bằng hơi nước, và trước năm 1830 đã xuất hiện đường sắt đầu tiên, do vậy nước Anh trong những năm 1780 và năm 1860 là khoảng thời gian người dân nước Anh vừa trở nên đông đúc và giầu có hơn, từ một tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn 0,5% đã tăng thêm mức tăng trưởng 2%. Cuộc cách mạng thứ hai là phát minh ra điện của Thomas Edison mở ra năm 1882 ở Mỹ, lần này với những nhà máy điện đã làm cho mức tăng trưởng của nước Mỹ lên tới 4%, đối với công chúng thăm triển lãm quốc tế năm 1881, điện chỉ là chiếc máy khâu hay chiếc xe điện nhỏ do hãng Siemens chế tạo. giúp tới thăm triển lãm, nhưng điều quan trọng hơn là đã mở ra những cơ sở công nghiệp lớn và làm việc theo dây chuyền. Và chúng ta đang ở trong cuộc cách mạng công nghiệp lần ba, là một cuộc cách mạng về công nghệ điện tử và Internet, nguồn gốc của Internet là hệ thống máy tính của Bộ quốc phòng Mỹ, gọi là mạng ARPAnet, một thí nghiệm được thiết kế từ năm 1969 để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác khoa học trong các công trình nghiên cứu quốc phòng. Như vậy, mạng Internet nguyên thuỷ được thiết kế nhằm mục đích phục vụ việc cung cấp thông tin cho giới khoa học nên công nghệ của nó cho phép mọi hệ thống đều có thể liên kết với nó thông qua một cổng điện tử. Theo cách đó, ngày nay có hàng ngàn máy tính cũng như hệ thống dịch vụ thư điện tử đã trở thành thành viên của Internet với khoảng 1 tỷ trang Wed, 375 triệu người dùng mạng Internet đang phát triển với tốc độ bùng nổ. Theo thống kê của báo Internet commrce thì cứ sau 150 ngày số lượng người truy cập Internet lại 11
  12. tăng gấp đôi, Internet thực sự trở thành một cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Nhờ có công nghệ kỹ thuật số và Internet, năng suất lao động của người Mỹ kể từ thập kỷ 90 đã tăng 2,5% hàng năm. Cuộc cách mạng Internet đã trở làm thay đổi cơ bản trong cách sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế. Internet tạo ra một không gian tại đó mọi người có thể gặp gỡ trao đổi thông tin, các doanh nghiệp có thể quảng cáo và bán hàng hóa của mình các ngân hàng có thể phục vụ khách hàng mà không cần giao dịch trực tiếp với khách hàng (hình 1). 12
  13. Kênh phân phối của các tổ chức tài Kênh phân phối Kênh phân trong phối ngoài -Nhân viên tiếp thị -Ngân hàng hội Giao dịch Giao dịch thông trực tiếp qua Phương tiện truyền -Các chi nhánh -Quầy giao Kênh hỗ Thông qua trợ Email Kỹ thuật Tự Kênh Kênh phục vụ viễn điện tử thông - Máy rút - Điện - Internet tiền thoại tự động ATM Hình 1 : Internet một kênh phân phối của ngân hàng Internet được gọi là kênh phân phối điện tử, kết hợp với kênh viễn thông và hệ thống tự phục vụ ( ATM ) tạo nên kênh phân phối kỹ thuật ( Technical chanel ). Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển thì kênh phân phối sử dụng các thiết bị kỹ thuật ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong hệ 13
  14. thống phân phối dịch vụ khách hàng, trong đó kênh Internet hay Ngân hàng điện tử là không thể thiếu được khi thương mại điện tử phát triển. - Sự phát triển của thương mại điện tử Với những ưu điểm của nó, chưa bao giờ Internet lại trở thành một công cụ thương mại hữu hiệu như hiện nay. Những chuyên gia về thị trường từng mơ ước có thể đến riêng từng khách hàng để chào bán hàng của mình thì giờ đây Internet đã giúp họ thực hiện ước mơ đó. Đây là cách tốt nhất để phục vụ khách hàng có một số nhu cầu nhất định. Chỉ cần nhấn vài lệnh trên bàn phím và đợi vài giây là khách hàng có thể vào cửa hàng mà mình ưu thích. Mua sắn trên mạng cũng giúp người tiêu dùng tự tin hơn vì họ có thể tự so sánh giá cả của các cửa hàng khác nhau và mua sắm với giá rẻ nhất. Nhà nước thực hiên các chín h sách Quảng cáo và bán hàng trên Internet Hình 2 : Mô hình tổng quát giao dịch thương mại điện tử 14
  15. Có nhiều phương thức thanh toán trong thương mại điện tử, tuy nhiên chủ yếu thông qua hai hình thức chính là thanh toán trung gian và thanh toán qua ngân hàng. Hình thức thanh toán qua ngân hàng được trình bày tổng quát như hình 2, toàn bộ qua trình đặt hàng, mua hàng và thanh toán được thực hiện trực tuyến qua mạng trên Internet. Theo đó, ngân hàng đóng vai trò trung tâm trong thanh toán điện tủ, thiếu nó, thương mại điện tử không thể thực hiện được. Vì vậy, sự xuất hiện của thương mại điện tử tất yếu dẫn đến sự ra đời của một ngân hàng trên mạng (Online Banking) hay ngân hàng điện tử (E-Banking). Như vậy, thương mại điện tử phát triển làm xuất hiện nhu cầu về thanh toán trực tuyến qua ngân hàng, đó là cơ hội tiềm tàng để các ngân hàng điện tử ra đời và phát triển. Ngược lại, sự ra đời của ngân hàng điện tử thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử, quyết định đến sự phát triển và thành bại của thương mại điện tử. - Sự phát triển của tiền tệ và các tổ chức tài chính phi ngân hàng . Cuộc cách mạng trong lĩnh vực ngân hàng cơ bản dựa trên sự thay đổi trong kênh phân phối của các tổ chức tài chính. Sự xuất hiện của kênh phân phối điện tử lại là kết quả của cuộc cách mạng về khái niệm tiền tệ. Trong nền kinh tế trao đổi hiện vật, khả năng chi trả cho hàng hoá và dịch vụ được phản ánh bằng hàng hoá trao đổi trung gian như cái rìu, thuốc lá, lưỡi câu sau đó, tiền tệ bằng kim loại ra đời và được tạo bởi kim loại đá quý. Tiếp theo là sự xuất hiện của tín tệ. Tín tệ là một loại tiền được chấp nhận trong thanh toán nhưng bản thân nó không có giá trị, tín tệ được phát hành bởi hệ thống ngân hàng, bao gồm tiền giấy và tiền xu. Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển, khả năng chi trả, thanh toán cho hàng hoá và dịch vụ của mỗi cá nhân đơn giản được phản ánh bằng con số trong bản ghi tài khoản khách hàng tại ngân hàng. Điều này dẫn tới một khái niệm mới là tiền điện tử (E-Money, E-Cash) hay tiền số hoá (Dital Cash) mà bản chất của loại thông 15
  16. tin này là thông tin (Information) được chuyển giao giữa các thiết bị điện tử để thanh toán trong nền kinh tế. Cách hiểu mới về tiền tệ này đã dẫn đến cuộc cách mạng điện tử của các tổ chức tài chính. - Cạnh tranh giữa ngân hàng và phi ngân hàng. Sự xuất hiện của tiền tệ điện tử đã mở ra một thị trường đầy tiềm năng cho việc phát triển các dịch vụ thanh toán dựa trên loại tiền mới này. Nhận thức được thị trường tiềm năng này, hàng loạt các công thành viên tài chính (ngân hàng và phi ngân hàng) cạnh tranh nhau trong việc cung cấp các loại tiền điện tử này, mỗi công ty có một loại tiền điện tử riêng và có phương thức thanh toán riêng và có phương thức thanh toán khác nhau. Theo Banking Policy Report trong năm 1997 đến năm 2000 có khoảng 3700 tỷ USD đã được đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết cho thương mại điện tử. Cuộc chạy đua giữa bản thân hệ thống các ngân hàng và đặc biệt là giữa ngân hàng với các tổ chức phi ngân hàng trong việc cung cấp các phương tiện thanh toán (tiền điện tử), diễn ra ngày càng quyết liệt. Các ngân hàng trước đây hoàn toàn nắm giữ quyền kiểm soát về tiền tệ, tuy nhiên cho đến cuối năm 1995, sự phát triển của tiền điện tử đã nằm ngoài kiểm soát của hệ thống ngân hàng, mà đúng hơn là ngân hàng trung ương (Mỹ, Anh, ) như CyberCash, DigiCash, và First Virtual Holdings là 3 công thành viên mạnh nhất về cung cấp các dịch vụ thanh toán điện tử trên mạng vào thời điểm cuối năm 1995 và đầu năm 1996, cả ba công thành viên đều cung cấp những dạng tiền điện tử khác nhau và đều muốn đáp ứng cho khách hàng sự thuận tiện và an toàn trong thanh toán. Đối với các nhà ngân hàng thì áp lực cạnh tranh lớn nhất không phải từ phía các nhà ngân hàng mà từ các hiệp hôi tín dụng, nhà môi giới chứng khoán, đặc biệt là các nhà cung cấp thẻ tín dụng phi ngân hàng như American Express, Discover theo thống kê của Internet Banking và Security : Hiện nay ngân hàng chỉ giữ 20% tài chính của hộ gia đình so với 34% của 20 năm trước, 16
  17. quản lý 30% ký quỹ của các tổ chức kinh doanh so với 7 năm trước là 42%. Những nhà cung cấp thẻ tín dụng phi ngân hàng tấn công vào phần khách hàng của ngân hàng và nắm giữ luôn 25% thị phần so với năm 1994 họ chỉ chiếm được 5%. Thực tế là các ngân hàng đã đi chậm hơn so với các tổ chức phi ngân hàng trong việc cung cấp các phương tiện thanh toán cho thương mại điện tử. Việc suy giảm thị phần này đồng nghĩa với việc các ngân hàng đang mất đi vai trò trung gian tài chính của mình, chức năng cơ bản của ngân hàng là trung gian thanh toán trong nền kinh tế, nhưng chức năng này đang bị cạnh tranh mạnh mẽ, đe doạ tới sự tồn tại của các hệ thống ngân hàng. Câu hỏi ở đây sẽ đặt ra là : Điều gì sẽ xảy ra khi những ngân hàng có những chức năng như các tổ chức phi ngân hàng, nhưng các tổ chức này lại có nhiều thuận lợi hơn các ngân hàng do sự chuyên môn hoá trong công nghệ thanh toán, điều gì sẽ xảy ra nếu như những công ty tin học viễn thông hàng đầu như Microsoft, Netscape, IBM, liên kết với các hiệp hội tín dụng phi ngân hàng để cung cấp các dịch vụ tài chính có tính chất toàn cầu. Rõ ràng, các ngân hàng đã mất đi vị trí độc quyền là trung gian tài chính của mình và nguy cơ bị tụt hậu về công nghệ như Billgate đã cảnh báo là khó tránh khỏi, nếu như các ngân hàng không tự đổi mới hay nói cách khác là để tồn tại và phát triển, ngân hàng buộc phải làm một cuộc cách mạng, mà thực chất của cuộc cách mạng này là sự phát triển của công nghệ thanh toán, hướng tới thanh toán trực tuyến qua mạng Internet để phục vụ cho sự phát triển của thương mại điện tử, hay cuộc cách mạng này chính là sự hình thành nên các ngân hàng điện tử. Tóm lại, dưới sự phát triển của công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ thông tin và thương mại điện tử, sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tài chính thì việc hình thành ngân hàng điện tử là tất yếu và khách quan, hơn nữa, với sự thuận lợi về uy tín, kinh nghiệm trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính, sẽ là cơ hội để các ngân hàng mở rộng thêm kênh phân phối 17
  18. trên mạng. Tuy nhiên để đạt được nhưng mục tiêu trên, các ngân hàng phải mất nhiều thời gian và chi phí. 2- Lợi ích của ngân hàng điện tử Ngân hàng điện tử có rất nhiều lợi ích đối với khách hàng, nền kinh tế cũng như đối với bản thân ngân hàng, theo đó, ngân hàng điện tử có những lợi ích (ưu điểm) sau : * Lợi ích đối với khách hàng bao gồm :  An toàn và hiệu quả. Thanh toán bằng thẻ tín dụng phức tạp hơn nhiều so với thanh toán qua ngân hàng điện tử, ngân hàng điện tử bằng hệ thống thanh toán (BIPS) có tính bảo mật cao, khách hàng không phải khai thông tin về cá nhân và thẻ tín dụng, do đó rất an toàn, hơn hẳn so với phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng và thư tín dụng. Ngân hàng điện tử thích hợp với mọi hình thức thương mại điện tử, đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng ở mọi mức độ và không bị giới hạn bởi số lượng tiền thanh toán như đối với thanh toán bằng thẻ tín dụng.  Tiếp cận mọi lúc, mọi nơi. Với hệ thống kết nối mạng thường trực, khách hàng có thể tiếp cận với ngân hàng 24/24 giờ, vào tất cả các ngày và tại bất cứ địa điểm nào về các loại sản phẩm, dịch vụ, các thủ tục, cách thức vay, trả nợ hay các dịch vụ tư vấn về đầu tư chứng khoán Khả năng tiếp cận với ngân hàng vào bất cứ thời điểm nào rất có ý nghĩa đối với những người không có thời gian đến ngân hàng vào giờ hành chính, đối với cả các doanh nhân thường phải đi xa hay sinh viên du học thì đây là hình thức lý tưởng vì họ có thể tiếp cận với ngân hàng điện tử ở bất cứ nơi nào trên thế giói có kết nối. 18
  19.  Khả năng tự kiểm soát cao. Đối với ngân hàng truyền thống, khách hàng cảm thấy họ không tự kiểm soát được tài khoản của mình. Ngược lại, ngân hàng trực tuyến giúp khách hàng có thể thường xuyên theo dõi và kiểm soát được tình hình tài chính của mình.  Tiết kiệm thời gian, chi phí và các thao tác giao dịch. Khách hàng không còn phải mất thời gian xếp hàng chờ đợi để thực hiện các giao dịch với ngân hàng, công việc này có thể được thực hiện hoàn toàn thông qua máy tính tại nhà hay tại công thành viên. Đặc biệt, ngân hàng điện tử giúp giảm chi phí giao dịch cho khách hàng một cách đáng kể. Nếu trước đây, trong giao dịch ngân hàng truyền thống, khi khách hàng muốn biết về số dư tài khoản của mình thì phải trả gấp 2 lần so với việc sử dụng máy rút tiền tự động ATM, gấp 5 lần nếu sử dụng Home Banking (ngân hàng qua điện thoại) và gấp 10 lần khi sử dụng ngân hàng điện tử.  Khách hàng được hưởng lãi suất vay rẻ hơn nhiều so với lãi suất của ngân hàng truyền thống, nguyên nhân chính là do chi phí giao dịch của ngân hàng điện tử nhỏ, hơn nữa ngân hàng điện tử huy động được nhiều nguồn vốn rẻ hơn thông qua các dịch vụ của mình, đặc biệt là dịch vụ thanh toán. Khách hàng muốn tham gia thanh toán trực tuyến qua ngân hàng đều phải mở tài khoản tại ngân hàng đây sẽ là nguồn vốn rẻ nhất mà ngân hàng có được. * Lợi ích đối với các ngân hàng. Thông qua hoạt động của các ngân hàng đang phát triển, người ta đã rút ra 5 điều nổi trội do ngân hàng điện tử mang lại như sau :  Là cơ hội tốt nhất để mở rộng thị trường hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó sẽ tiếp cận nhanh chóng với nhiều thị trường khác nhau bởi tính chất của loại hình này là không phụ thuộc vào không 19
  20. gian, thời gian, phù hợp với xu thế toàn cầu hoá trong hoạt động ngân hàng.  Khả năng nhạnh bén trong việc thu nhận, xử lý nguồn thông tin giúp cho người quản lý và điều hành kịp thời hạn chế những rủi ro thường do các phương thức hoạt động truyền thông gây ra. Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ cao hơn rất nhiều.  Cung cấp thêm nhiều hình thức dịch vụ cho khách hàng như tư vấn đầu tư, các sản phẩm dựa trên thẻ thông minh (Smart Card-base) tạo điều kiện tăng nguồn vốn, tăng cường tốc độ quay của nguồn vốn, giúp tăng doanh thu ổn định cho ngân hàng thông qua phí dịch vụ ngân hàng, dần dần thay cho nguồn thu từ tín dụng vốn có rủi ro cao.  Có khả năng cung cấp cho khách hàng các dịch vụ với chất lượng tốt hơn, khách hàng thấy chủ động hơn trong việc kiểm soát tài chính của mình, do vậy các ngân hàng có cơ hội củng cố, duy trì và phát triển các mối quan hệ khách hàng mới.  Gọn nhẹ trong tổ chức hệ thống dịch vụ, năng suất lao động tăng lên, không phải đầu tư xây dựng thêm văn phòng giao dịch mới, nhân lực gọn nhẹ, các chi phí liên quan đến giao dịch trực tiếp với khách hàng như giấy tờ, hợp đồng, giảm đáng kể, tạo điều kiện nâng cao lợi nhuận ngân hàng. . 3- Mô hình hoạt động và các nghiệp vụ của ngân hàng điện tử. 4.1-Mô hình hoạt động Xác định rõ mô hình hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây dựng và quản lý một ngân hàng điện tử, mô hình hoạt động còn được sử dụng để đánh giá, xếp hạng sự phát triển của ngân hàng. Nhìn chung, tất cả các ngân hàng trực tuyến đều có chung một mô hình, dù đó là ngân hàng lớn hay nhỏ, 20
  21. ngân hàng ở các nước đang phát triển hay phát triển. Mô hình hoạt động của ngân hàng qua Internet được xác định dựa trên ba cơ hội khác nhau mà công nghệ (Internet) có thể đem lại cho các ngân hàng đó là : - Như một phương tiện cung cấp thông tin khách hàng. - Như một kênh giao dịch chính thức, giống như đối với các chi nhánh giao dịch và rút tiền tự động ATM. - Như một công cụ để cải thiện mối quan hệ khách hàng. Với ba cơ hội trên mà Internet mang lại cho ngân hàng, có thể chia mô hình ngân hàng điện tử thành ba kênh cơ bản : Kênh cung cấp thông tin, kênh giao dịch, và kênh cải thiện mối quan hệ khách hàng. Trong mỗi kênh lại có các nghiệp vụ tương ứng, trong đó, kênh giao dịch bao gồm các nghiệp vụ chính, hai kênh còn lại cung cấp các nghiệp vụ bổ trợ cho việc ra quyết định thực hiện các nghiệp vụ chính trong kênh giao dịch. Mô hình hoạt động và các nghiệp vụ của ngân hàng điện tử được mô tả như sau: Mô hình hoạt động (các nghiệp vụ) Kênh cung cấp Kênh giao dịch Kênh cải thiện thông tin (Các nghiệp vụ quan hệ K/H (nghiệp vụ bổ chính) (N/V bổ trợ) trợ) - Cấp độ - Cấp độ - Cấp độ 1 1 1 - Cấp độ - Cấp độ - Cấp độ 2 2 Hình 3 : Mô hình hoạt động (nghiệp vụ) của ngân hàng ảo. 21
  22. Để so sánh mức độ phát triển của ngân hàng khác nhau, người ta chia mỗi kênh thành 3 cấp độ khác nhau. Cấp độ 1 được gọi là cấp độ cơ bản (basic level). Với cấp độ này, ngân hàng chỉ có thể mô phỏng lại hoạt động của nó cùng với các phương tiện truyền thông khác trên mạng, nó mở ra một phương thức hoạt động mới, tuy vậy lại chưa khai thác hết tiềm năng của phương tiện mới này, nói cách khác, cấp đọ 1 là cấp độ ban đầu, các chức năng sử dụng mang tính giới thiệu, cấp độ này thường gặp ở các ngân hàng trực tuyến mới thanh lập. Cấp độ 2 được gọi là cấp độ trung gian, ở cấp độ này một số lợi thế của Internet được khai thác tốt hơn để cung cấp tốt hơn các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, tuy nhiên các dịch vụ dựa trên các lợi thế của công nghệ này chưa ảnh hưởng nhiều đến cách thức hoạt động truyền thông của ngân hàng. Ngược lại, cấp độ 3 là cấp độ khai thác cao nhất mọi ưu thế của công nghệ, cấp độ này đem lại những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng và mở ra cơ hội cho giao dịch thương mại điện tử. Sau đây là nội dung cơ bản của các kênh trong mô hình ngân hàng điện tử, mỗi phần nội dung đều có số liệu minh hoạ, các số liệu này được rút ra từ cuộc khảo sát hơn 1200 ngân hàng có hoạt động trên mạng năm 2001 tại Mỹ.  Kênh cung cấp thông tin: Các ngân hàng sử dụng Internet như một công cụ cung cấp thông tin bao gồm một số nghiệp vụ bổ trợ được phân chia theo các cấp độ như sau : o ở cấp độ 1 hay cấp độ cơ bản, kênh thông tin của ngân hàng giống như một cuốn sách điện tử, nó cung cấp mọi thông tin liên quan đến ngân hàng và các dịch vụ của ngân hàng. ( 100% các ngân hàng được khảo sát đều cung cấp những thông tin này). Cụ thể cấp độ cơ bản bao gồm các hệ thống thông tin như sau : 22
  23. - Hệ thống thông tin về ngân hàng : Thông tin về lịch sử phát triển của ngân hàng, các thông tin liên hệ đến ngân hàng như địa chỉ, số điện thoại fax, giờ làm việc . của trụ sở và các chi nhánh, vị trí các máy rút tiền tự động - Hệ thống thông tin dịch vụ khách hàng : Bao gồm các thông tin về c dịch vụ khách hàng, hướng dẫn và đăng ký sử dụng sản phẩm dịch vụ như thẻ tín dụng, hướng dẫn xin vay, thông tin lãi suất, các loại phí, kỳ hạn, chế độ ưu đãi, quyền lọi và nghĩa vụ của khách hàng đối với những sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Qua khảo sát cho thấy các ngân hàng nhỏ thường ít đưa thông tin về lãi suất và các loại phí do khó có thể cạnh tranh được với các ngân hàng lớn. - Hệ thống thông tin tài chính như : Thông tin thị trường chứng khoán, thị trường tài chính và hoạt động của nền kinh tế; các bài báo , bài phân tích tài chính và tổng quan nền kinh tế được viết bởi các chuyên gia kinh tế, các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng, mục này nhằm cung cấp thông tin ra quyết định đầu tư cho khách hàng đồng thời tạo uy tín cho ngân hàng, các ngân hàng lớn thường có một tạp chí riêng, được xuất bản hàng tháng và được phổ biến trên trang chủ của mình. - Hệ thống thông tin tuyển dụng : Bao gồm thông tin về cơ hội việc làm, các điều kiện về tuyển dụng, chế độ lương bổng, trợ cấp. Và mẫu đơn xin việc, mục này thường thấy ở các ngân hàng lớn, là một hình thức quảng cáo rất hiệu quả. o Cấp độ 2 hay cấp độ trung gian so với cấp độ trước có thêm các mục sau : - Cung cấp các công cụ tìm kiếm thông tin cho khách hàng (70%). Khách hàng có thể tìm kiếm thông tin cần thiết chỉ sau vài giây sau 23
  24. khi gõ vào một số từ khoá quan trọng, giúp khách hàng tiết kiệm về mặt thời gian, ví dụ : khách hàng muốn biết về thông tin tiền gửi 3 tháng, chỉ cần gõ vào khung tìm kiếm ba chữ “lãi suất, 3”. - Cung cấp các bản báo cáo thường niên, qua đó khách hàng có thể nắm được tình hình tài chính của ngân hàng. Giúp nâng cao uy tín của ngân hàng.(70% các ngân hàng được khảo sát đều có mục này). - Giải đáp các câu hỏi thường gặp, đồng thời cũng có thể trả lời trực tiếp các thắc mắc của khách hàng đối với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng (60%). - Cuối cùng là mục liên kết đến các trang Web khác có liên quan. Chỉ khoảng 50% các ngân hàng được khảo sát có công cụ này, lý do là các ngân hàng muốn trang Web của họ là điểm dừng chân cuối cùng của khách hàng, tuy nhiên đối với một số ngân hàng lớn, đây lại là công cụ cạnh tranh có hiệu quả do khách hàng có thể so sánh các ngân hàng khác nhau. o Cấp độ cao nhất (cấp độ 3), việc cung cấp thông tin chủ yếu tập trung vào các đánh giá của khách hàng về trang Web của ngân hàng và thảo luận theo nhóm để trao đổi về các vấn đề mới đặt ra. Có rất ít ngân hàng sử dụng phương thức này, trong đó có 24% ngân hàng lớn, 10% các ngân hàng trung bình và 4% các ngân hàng nhỏ.  Kênh giao dịch : Với chức năng này, trang Web của ngân hàng đóng vai trò như một cửa sổ giao dịch, khách hàng có thể thực hiện tất cả các nghiệp vụ có thể trên kênh giao dịch. o ở cấp độ thấp nhất, khách hàng có thể thực hiện một số nghiệp vụ thông thường của ngân hàng như mở tài khoản 24
  25. thanh toán, tài khoản tiền gửi tiết kiệm, thẻ tín dụng (và các loại thẻ khác), các khoản vay và đầu tư . Kết quả khảo sát các ngân hàng cho thấy rằng các đơn xin đầu tư gần với các giao dịch thực tế nhất lại chiếm tỷ trọng thấp nhất 20%; các đơn xin vay và mở thẻ tín dụng chiếm 40%; đơn xin mở tài khoản thanh toán tương đối phổ biến (80% trong các ngân hàng được khảo sát). o ở cấp độ thứ 2, Internet đã đóng vai trò tích cực hơn, ở đây, mỗi trang chủ của ngân hàng trên mạng Internet đã được xem như một cửa sổ giao dịch, khách hàng có thể thực hiện các giao dịch thông thường như đối với các ngân hàng truyền thống : - Nghiệp vụ thông thường nhất là kiểm tra tài khoản thanh toán(100%),mặc dù nghiệp vụ này rất phổ biến nhưng vẫn được xếp vào cấp độ thứ hai là vì nó tiếp cận đến nguồn dữ liệu khách hàng của ngân hàng, các dữ liệu này mang tính bảo mật cao, chỉ có những khách hàng có mã khoá (password) được ngân hàng cung cấp khi mở tài khoản mới có thể sử dụng được. Một số ngân hàng còn cho phép khách hàng của mình tiếp cận với các thông tin trên tài khoản tiền gửi hay các khoản vay, đầu tư . Khách hàng có thể nắm được thông tin về tình trạng của các tài khoản này, cùng với việc kiểm tra các tài khoản cá nhân, khách hàng có thể theo dõi được tình hình chi tiêu của mình thông qua bản báo cáo chi tiêu do ngân hàng lập một cách tự động sau mỗi giao dịch của khách hàng. - Các nghiệp vụ khác thường thấy ở cấp độ này như chuyển khoản (bao gồm chuyển tiền giữa các tài khoản của một khách hàng và chuyển khoản giữa các khách hàng) và nghiệp vụ thanh toán hoá đơn 25
  26. trong thương mại điện tử. Theo khảo sát, 60% ngân hàng không thu phí các nghiệp vụ này, số ngân hàng còn lại (40%) chỉ thu phí thanh toán hóa đơn. Đặc điểm của các nghiệp vụ này là thường được sử dụng bởi các cá nhân. - Nghiệp vụ rút tiền mặt : Khi khách hàng cần sử dụng tiền mặt, khách hàng có thể rút tiền tại tất cả các chi nhánh của ngân hàng hoặc tại các máy rút tiền tự động, một ưu điểm của ngân hàng điện tử là khách hàng có thể thanh toán cũng như rút tiền ở khắp mọi nơi trên thế giới với điều kiện các ngân hàng này cũng phải hoạt động trên mạng, một số ngân hàng còn cho phép khách hàng rút tiền tại các máy rút tiền tự động của nước ngoài, số tiền này sẽ được tự động quy đổi sang ngoại tệ theo tỷ giá hiện thời. - Một công cụ thường thấy ở cấp độ trung gian là chương trình hướng dẫn sử dụng (demo) các nghiệp vụ cơ bản, chương trình này sẽ thực hiện một cách tự động các bước của một nghiệp vụ nào đó để làm mẫu cho khách hàng, chỉ có 11% ngân hàng sử dụng công cụ này. o ở cấp độ cao nhất, mọi hoạt động giao dịch của ngân hàng đều được thực hiện trực tuyến trên mạng Internet, nếu như ở 2 mức độ trên đối tượng phục vụ chủ yếu của ngân hàng là khách hàng cá nhân thì mức độ thứ 3, ngân hàng đóng một vai trò rất quan trọng và to lớn trong việc hỗ trợ cho thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp phát triển, có thể tìm thấy ở đây các nghiệp vụ hỗ trợ các doanh nghiệp như mở và thanh toán theo hình thức thư tín dụng (L/C); mở các hợp đồng bảo lãnh, ở cấp độ này, hầu hết mọi ngân hàng cung cấp phương tiện thanh toán điện tử (Ecash) cho khách hàng để sử dụng trong thanh toán thương mại điện tử, trong hơn 120 ngân hàng được khảo sát thì chỉ có 20 ngân hàng 26
  27. thực hiện và đạt đến cấp độ này, trong đó ngân hàng đầu tiên đạt được là First Bank, ngân hàng này hoàn toàn không có các chi nhánh mà hoàn toàn giao dịch trên mạng Internet.  Kênh cải thiện quan hệ khách hàng: Các ngân hàng sử dụng rất nhiều phương pháp khác nhau để thu hút thêm khách hàng mới, đồng thời duy trì và củng cố các mối quan hệ khách hàng đã có. o ở mức độ thấp nhất, thư điện tử (Email) được ngân hàng sử dụng để giữ liên lạc, giải đáp và thông báo các thông tin về sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng cho khách hàng biết một cách thường xuyên, đồng thời qua thư điện tử này (email) khách hàng cũng có thể trao đổi, góp ý kiến về các sản phẩm dịch vụ này, các ý kiến này được tổ chức và phân loại theo chủ đề, từ đó ngân hàng có cơ hội tự động hoá trong việc phản hồi thông tin khách hàng, các ngân hàng lớn, phần trả lời khách hàng được tụ động hoá rất cao. o ở mức độ trung gian, các ngân hàng thường đưa ra một số nghiệp vụ mang tính chất tư vấn như sau : - Nghiệp vụ tư vấn động vì các nghiệp vụ này hoàn toàn được thực hiện một cách tự động theo ý muốn của khách hàng, một ví dụ điển hình là công cụ tính toán (Calculator advise), công cụ này cho kết quả đầu tư sau khi khách hàng đưa vào thông tin cần thiết, kết quả có thể là số tiền thu được sau một khoảng thời gian nhất định với các phương án đầu tư khác nhau ( cụ thể là lãi suất khác nhau ), một số công cụ khác như : công cụ lập kế hoạch (Planner), quản lý ngân quỹ (Microsoft Money, Intuit’s Quicken ) khách hàng có thể sử dụng trực tuyến trên trang chủ của ngân hàng hoặc tải về máy tính cá nhân của mình để thực hiện không cần nối mạng, các công cụ này đều rất hữu ích cho việc ra quyết định tài chính của khách hàng. 27
  28. - Nghiệp vụ quản lý tiền mặt (Cash management) chủ yếu dành cho các doanh nghiệp, nghiệp vụ này thường được các chuyên gia tài chính của ngân hàng thực hiện, theo đó ngân hàng đóng vai trò như một nhà tư vấn tài chính, giúp các doanh nghiệp quản lý tiền mặt, lập kế hoạch tài chính và tư vấn đầu tư Tính đến cuối năm 2001, đã có 30% các ngân hàng hoạt động trên mạng cung cấp dịch vụ này. Cấp độ cao hơn, liên quan đến việc các ngân hàng thu thập các thông tin và nhu cầu từ phía khách hàng để phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, ở cấp độ này có rất nhiều công nghệ hiện đại được sử dụng (như hội thảo trực tuyến), để thu hút khách hàng. Tuy nhiên có rất ít ngân hàng đạt đến trình độ này. Tổng thể mô hình ngân hàng trực tuyến là một khối lượng thống nhất trong đó kênh giao dịch cũng như các dịch vụ của nó đóng vai trò trung tâm, hai kênh còn lại mang tính bổ trợ và cung cấp các thông tin phân tích giúp khách hàng ra quyết định đầu tư cũng như thực hiện các quyết định này ở kênh giao dịch, giữa các kênh đều có sự liên kết với nhau giúp khách hàng thực hiện dễ dàng các nghiệp vụ ở các kênh khác nhau, tuy nhiên trong thực tế có nhiều trường hợp có biên giới giữa các kênh này là không rõ ràng, có sự xen kẽ về chức năng giữa các kênh. 4. Mô hình thanh toán của ngân hàng điện tử. Sự phát triển của thương mại điện tử đòi hỏi các ngân hàng phải phát triển công nghệ thanh toán để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngày càng tăng của khách hàng, kể từ khi ra đời đến nay đã có nhiều mô hình thanh toán được các ngân hàng đưa vào sử dụng như : Thanh toán điện tử vô danh, thanh toán điện tử hữu danh và hệ thống thanh toán BIPS (Bank Internet Payment System).  Tiền điện tử vô danh (Anonymous e-money) là một loại tiền điện tử được ngân hàng tạo ra bằng một phương pháp mã hóa đặc biệt, gọi là tiền vô danh 28
  29. vì nó không chứa đựng thông tin về người sử dụng và do đó không có sự liên quan giữa người sử dụng với tiền của anh ta, người bán và ngân hàng hoàn toàn không biết người đang thực hiện đặt hàng và thanh toán.  Tiền điện tử hữu danh(Identified e-money), là loại tiền trong đó chứa đựng những thông tin về khách hàng, với loại tiền này, ngân hàng có thể theo dõi được quá trình thanh toán của khách hàng. Tuy nhiên, khách hàng hoàn toàn được bảo mật đối với người bán, mô hình này được phát triển bởi trường đại học Nam califonia và được một số tổ chức tài chính sử dụng như NetBank năm 1996-2002. Xét về khía cạnh an toàn, hai mô hình thanh toán được coi là có mức độ bảo mật cao nhất là mô hình thanh toán tiền điện tử vô danh và hệ thống thanh toán mạng ngân hàng (BIPS), trong bài viết này chỉ đề cập đến hai mô hình trên. 4.1 Mô hình thanh toán tiền điện tử vô danh (Anonymous e-money). E-cash là một loại tiền điện tử vô danh đầu tiên được phát triển bởi Digitalmoney và được ngân hàng Mark Twain Bank giới thiệu vào năm 1995, sau đó Ecash được các ngân hàng lớn như DeutscheBank AG và Frankfurt đưa vào sử dụng từ tháng 10/1997, quá trình thanh toán của loại tiền này như sau : Để thanh toán được, trước tiên khách hàng phải mua tiền điện tử của ngân hàng bằng chương trình “ví điện tử” (electronic purse software) được cài đặt sẵn trong hệ thống máy tính, thông qua chương trình này, khách hàng tạo ra những đồng tiền trắng, kèm theo số seri đã được mã hóa rồi gửi tới ngân hàng để xin xác nhận. Ngân hàng sử dụng chương trình đặc biệt gọi là “Blind signature” xác nhận lên những đồng tiền đó, đồng thời trừ tiền trên tài khoản của khách hàng bằng đúng số tiền phát hành rồi gửi lại cho khách hàng, khách hàng giải mã và lưu giữ số tiền này trong ví điện tử. Thực tế, ngân hàng không 29
  30. biết số seri của những đồng tiền này do chúng đã được mã hoá, điều đó đảm bảo tính vô danh của loại tiền này. Khi cần thanh toán, khách hàng gửi Ecash cho người bán (kèm số seri), người bán lập tức gửi số tiền này cho ngân hàng của mình để thực hiện kiểm tra tính hợp lệ, ngân hàng của người bán kiểm tra tính hợp lệ của số tiền này với ngân hàng phát hành, sau đó ghi có cho khách hàng của mình nếu số tiền này là hợp lệ và thông báo cho người bán là quá trình thanh toán đã được thực hiện, cuối cùng, người bán gửi hàng hoá dịch vụ cho người mua. Toàn bộ quá trình thanh toán này được thực hiện trực tuyến và được thể hiện ở hình 4. 1. Người mua gửi tiền trắng + mã số đến ngân hàng yêu cầu mua Ecash. 2. Ngân hàng của người mua xác nhận rồi gửi Ecash lại cho người mua. 3. Người mua giải mã rồi dùng tiền này để mua hàng hoá. 4. Người bán gửi Ecash đến cho ngân hàng của mình. 5. Ngân hàng người bán kiểm tra và thanh toán với ngân hàng phát hành. 6. Ngân hàng người bán thông báo và ghi có cho người bán. 3 Người 2 Người bán mua 4 (Consume 6 1 30
  31. Intern et 6 Ngân hàng Ngân hàng của của người mua người bán Hình 4 : Mô hình thanh toán điện tử Ecash thực chất là một dòng thông tin, do đó nó có thể sao chép và sử dụng lại (double spending). Để tránh hiện tượng này, ngân hàng phát hành ghi lại toàn bộ các seri của các đồng tiền đã được thanh toán, sau đó được sử dụng để đối chiếu trong các thanh toán tiếp theo, nếu thấy trùng seri, thanh toán sẽ không thực hiện được, như vậy, mỗi Ecash chỉ được sử dụng có một lần. ưu điểm : Mô hình này có ưư điểm là an toàn gần như tuyệt đối, ngân hàng và người bán không thể biết được thông tin từ phía khách hàng vì không có sự liên hệ giữa Ecash với khách hàng. Nhược điểm : Mô hình thanh toán này có 4 nhược điểm cơ bản sau : - Khách hàng cần phải cài đặt chương trình này trong máy, việc cài đặt chương trình này nhiều khi phức tạp đối với những người không có kỹ năng về máy tính, hơn nữa vì là tiền điện tử vô danh được chứa đựng trong ổ cứng của máy tính nên khi ổ cứng bị hỏng thì tiền cũng mất theo, không lấy lại được vì ngân hàng không biết số hiệu của khách hàng. - Chi phí cho một lần giao dịch là khá cao, nguyên nhân là do tất cả các bên đều phải cùng đồng thời kết nối trực tuyến để thanh toán, do đó mô hình này không phù hợp với những giao dịch có giá trị nhỏ (micro payments, pico payment) như trả tiền mua báo, vé xem phim. 31
  32. - Để đảm an toàn, ngân hàng cần phải ghi lại các số hiệu của các đồng tiền đã thanh toán, do đó khối lượng dữ liệu này ngày càng lớn dần lên, làm chậm tốc độ thanh toán do phải so sánh quá nhiều với các số hiệu. - Phải có sự phát triển đồng bộ giữa các ngân hàng trong hệ thống, nếu các ngân hàng không đồng thời đổi mới công nghệ thực hiện thanh toán trên mạng thì quá trình thanh toán có thể không thể thực hiện được, do vậy, mô hình này rất tốn kém đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Do những nhược điểm của nó (lớn nhất là không phù hợp với các giao dịch có giá trị nhỏ), mô hình này đang dần dần được hoàn thiện bởi một số tổ chức tài chính như Ecash, Internet Cash. 4.2 Mô hình thanh toán BIPS. BIPS (Bank Internet Payment system) là sản phẩm của tập đoàn công nghệ và dịch vụ tài chính viết tắt là FSTC (Financial Services Technology Consortium) thành viên ban đầu bao gồm các ngân hàng lớn (Citibank, Mellonbank, Glenview State bank) và các tổ chức phát triển công nghệ hàng đầu thế giới (Compaq, GlobeSet, NCR ), đây được coi là mô hình thanh toán tốt nhất dành cho hệ thống ngân hàng hiện nay, mô hình này được giới thiệu vào tháng 10 năm 1998 và được các ngân hàng trong tập đoàn sử dụng rất thành công. Tổng quan hệ thống : Như đã trình bày ở phần trên, nhược điểm của hệ thống thanh toán tiền điện tử là phải có sự đồng bộ trong công nghệ thanh toán của các ngân hàng, một ngân hàng cho phép thanh toán trên mạng, tuy nhiên nó lại gặp khó khăn là các ngân hàng khác chưa cho phép thanh toán trực tuyến thông qua mạng 32
  33. Internet, sự ra đời của hệ thống thanh toán mạng ngân hàng BIPS đã khắc phục được nhược điểm trên, nó cho phép tận dụng tối đa hệ thống thanh toán hiện thời của ngân hàng. BIPS cung cấp cho khách hàng của ngân hàng một cách tiếp cận đơn giản, an toàn và hiệu quả với hệ thống thanh toán hiện thời thông qua mạng Internet, BIPS bao gồm các bộ phận cần thiết để tiếp nhận và xử lý thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng cũng như giữa các ngân hàng với nhau thông qua hệ thống thanh toán hiện thời, quá trình thanh toán thương mại điện tử theo BIPS được thực hiện như sau :  Người mua nối mạng vào trang Web của người bán để mua hàng, sau khi chọn hàng (bấm chọn mặt hàng trên trang Web), hoá đơn thanh toán hiện ra, yêu cầu khách hàng chọn lựa phương thức thanh toán theo BIPS và điền vào những thông tin cần thiết như số lượng hàng cần mua, số tài khoản, địa điểm giao hàng v v. sau đó gửi hoá đơn kèm theo chữ ký điện tử (đã được mã hóa) đến ngân hàng của mình yêu cầu thanh toán. (Khi người mua chon phương thức thanh toán qua BIPS hoá đơn tự động thêm thông tin về ngân hàng của người bán và số tài khoản của người bán tại ngân hàng này).  Nhận được hoá đơn yêu cầu thanh toán của người mua, BIPS kiểm tra chữ ký điện tử của khách hàng, nếu đúng là khách hàng của mình, ngân hàng tiếp tục kiểm tra số dư trên tài khoản thanh toán, nếu đủ tiền để thanh toán, BIPS tự động lựa chọn kênh thanh toán thích hợp (chuyển tiền, thanh toán bù trừ qua mạng SWIFT hay trực tiếp qua mạng Internet) để thanh toán với ngân hàng của người bán, sau đó, BIPS gửi thông báo cho khách hàng là quá trình thanh toán đã được thực hiện, ngân hàng người bán ghi có vào tài khoản của người bán rồi gửi giấy báo có cho người bán để người bán thực hiện chuyển hàng cho người mua. 33
  34. Toàn bộ quá trình thanh toán trực tuyến qua ngân hàng được mô tả như hình 5. Hệ thống thanh toán hiện thời : 4 M ạng, b ù trừ, Ngân hàng Ngân hàng của của người mua người bán 3 5 Interne t Interne t 2 1 Người Người mua bán (Consume Hình 5: Mô hình thanh toán thương mại điện tử theo BIPS. 1. Người mua yêu cầu mua hàng, thông báo là sẽ thanh toán qua ngân hàng. 2. Người bán trình hoá đơn kèm theo số tài khoản tại ngân hàng người bán. 3. Người mua trình hoá đơn cho ngân hàng của mình yêu cầu thanh toán. 4. BIPS thanh toán với ngân hàng người bán thông qua hệ thống thanh toán hiện thời. 5. NH người bán báo có cho người bán để người bán thực hiện chuyển hàng. 34
  35. Nhìn chung các giao dịch (thanh toán, chuyển khoản, ) giữa các khách hàng và ngân hàng (BIPS) được thực hiện qua các bước sau : BIPS Người mua Ngân hàng của Khách hàng của người mua BIPS 1-Soạn yêu cầu thanh toán, ký nhận thanh toán 3-Tiếp nhận và xử lý yêu cầu thanh Gửi hoá đơn yêu toán cầu thanh toán đến ngân hàng qua Internet 4-Kiểm tra tính hợp lệ (chữ ký điện tử, xác nhận của khách hàng). Nhận thông báo -Kiểm tra tài (yêu cầu không hợp khoản. + Không hợp lệ : Hệ thống xử lý Gửi thông báo cho thanh toán K/H. (NH, NHNN) + Hợp lệ, chuyển bước 6. Khách hàng của 6- Chọn kênh BIPS thanh toán thích Nhận thông báo đã hợp, định dạng thực hiện thanh ưu điểm của hệ thống BIPS : BIPS mang lại rất nhiều ưu điểm cho khách hàng và cho cả bản thân ngân hàng và đối với bản thân ngân hàng nhà nước Việt Nam, tuy nhiên, có thể tóm tắt một số lợi ích sau :  ưu điểm lớn nhất là có thể sử dụng được hệ thống thanh toán hiện thời, BIPS kết nối với các hệ thống thanh toán như thanh toán bù trừ qua ngân hàng nhà nước, thanh toán qua mạng SWIFT cho phép khách 35
  36. hàng dễ dàng giao dịch với các khách hàng của ngân hàng có hệ thống thanh toán khác với BIPS, đây sẽ còn là ưu điểm lớn nhất của BIPS khi công nghệ thanh toán của hệ thống ngân hàng chưa hoàn toàn đồng bộ.  An toàn : BIPS thoã mãn được mọi yêu cầu về bảo đảm an toàn của khách hàng và của ngân hàng, hệ thống đảm bảo an toàn của BIPS gồm có : - Xác nhận điện tử (digital cetificates) : công cụ để nhận biết khách hàng của ngân hàng. - Chữ ký điện tử (digital signature) mã khóa cá nhân(provate key ) và mã khoá công cộng (Puplic key): các công cụ này được đính kèm với mọi thông điệp, được sử dụng để đảm bảo tính toàn vẹn của thông điệp gửi đi từ phía khách hàng hay ngân hàng. Mỗi thông điệp có một chữ ký điện tử riêng nó phản ánh nội dung của thông điệp và được mã hoá. Bất cứ một sự thay đổi nào trong nội dung của thông điệp đều bị phát hiện. - Chi phí thấp. Chi phí cho một lần thanh toán rất thấp, khách hàng chỉ phải trả tiền nối mạng, không phải trả tiền dịch vụ thanh toán như đối với một số phương thức thanh toán khác. Chính vì vậy BIPS thoả mãn được các nhu cầu thanh toán vi mô ( micro peyment ) trong thương mại điện tử. Hơn nữa, BIPS không giới hạn mức tiền thanh toán trong mỗi lần giao dịch, khách hàng có thể thanh toán những khoản tiền lớn (macro peyment ) mà vẫn đảm bảo an toàn.  Hiệu quả cao. Quá trình xử lý thanh toán từ việc tiếp nhận thông điệp, lựa chọn kênh thanh toán, thực hiện thanh toán đến phản hồi thông tin khách hàng, tất cả đều được BIPS thực hiện hoàn toàn tự động. Do đó năng suất lao động được nâng cao, bộ máy nhân công gọn nhẹ, tiết 36
  37. kiệm được nhiều chi phí lao động và chi phí giao dịch trung gian Tạo điều kiện nâng cao lợi nhuận ngân hàng. Với những ưu điểm trên, sự ra đời của BIPS đã thật sự là một mốc son trong chặng đường phát triển của Ngân hàng điện tử. Rất nhiều ngân hàng trên thế giới hiện đã và đang nghiên cứu và áp dụng mô hình này. III. Tình hình phát triển của ngân hàng điện tử trên thế giới. 1.Tình hình phát triển của ngân hàng điện tử trên thế giới . Dịch vụ ngân hàng trực tuyến đối với các ngân hàng trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển đã trở thành một kênh không thể thiếu trong hệ thống kênh phân phối dịch vụ tài chính. Uy tín, năng lực cạnh tranh và lợi nhuận của các ngân hàng này phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động trên mạng. Chính vì vậy, ngày nay Internet không chỉ là một kênh bổ sung như trước mà nó được coi là một kênh bán hàng chính thức của khách hàng. Mỹ được coi là nước đi tiên phong trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính thương mại quốc tế cho khách hàng qua Internet . Theo công ty dữ liệu quốc tế IDC ( International Data Corp ), ở Mỹ hiện đã có trên 15 triệu người sử dụng e- banking với con số ngân hàng cung cấp dịch vụ này lên đến khoảng 100.000 ( chiếm 10% ). Trong đó, có khoảng 50 ngân hàng đã đạt đến cấp độ cao nhất, cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính qua mạng. netb@nk là một ngân hàng điện tử điển hình của Mỹ đang có khoảng 66.000 tài khoản khách hàng với lãi suất tiền gửi hấp dẫn hơn nhiều so với các ngân hàng truyền thống khác. Trong vòng một năm từ 1998 đến 1999, tài sản của ngân hàng này tăng gấp ba lần, lên đến 1,3 tỷ USD. Cũng theo IDC, thị phần của hệ thống ngân hàng trong thanh toán thương mại điện tử, tại Mỹ đã tăng lên rất 37
  38. nhanh : từ 6% năm 1998, 42% năm 1999, lên đến 49% năm 2000, dự đoán đến năm 2003, con số này là 70%. Tiếp sau Mỹ trong ứng dụng Internet vào ngân hàng là các nước châu Âu mà điển hình là Anh và Đức. Anh được coi là nước có số người sử dụng mạng nhiều nhất châu Âu ( 39% dân số ), hiện có khoảng 11.000 ngân hàng cung cấp dịch vụ qua Internet. Châu á, tuy đi sau nhưng lại có tốc độ phát triển đáng kinh ngạc. theo một nghiên cứu tiến hành cuối năm 2000 của NetValue, tỉ lệ phần trăm số hộ gia đình châu á kết nối Internet đang tăng nhanh và có xu hướng bắt kịp với Mỹ và Châu Âu, đặc biệt tại ba quốc gia Singapore, Đài Loan và Hàn Quốc. NetValue nhận xét, người dân châu á mặc dù chỉ mới tiếp cận với Internet nhưng họ lại là người tiêu dùng một số lượng giao thức lớn hơn người sử dụng Internet ở Mỹ hay Châu Âu. Mua sắm trên mạng và gởi thư là hai lĩnh vực Châu á có khối lượng tương đương Mỹ. Số người sử dụng Internet ở Hàn Quốc là 34.5% trong đó có 15% số người sử dụng dịch vụ E-Banking. ở Singapore 47,5% số hộ kết nối Internet ( Chỉ sau Mỹ ) trong đó là 10 % có giao dịch thanh toán. Hội đồng tiền tệ của Singapore đã đặt ra kế hoạch là đến năm 2008 thì các ngân hàng và các thương nhân trên quốc đảo này sẽ bắt đầu áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trên phạm vi toàn quốc. Hình thức thanh toán trên được gọi là “Hệ thống thanh toán điện tử” . Với hệ thống này theo luật pháp Singapore thì các thương nhân và các nhà cung cấp dịch vụ trên toàn quốc phải chấp nhận tiền điện tử. Việt Nam chính thức bắt đầu hoà nhập với cộng đồng Internet năm 1998, tuy nhiên cũng đã có những bước tiến đáng kể. Theo ước tính của VDC, Việt Nam hiện có 11.000 thường xuyên sử dụng Internet. Hiện đã có một số chỉ nhánh ngân hàng nước ngoài đã thiết lập các trang chủ và bắt đầu đưa ra 38
  39. nhiều chương chình thu hút khách hàng trên mạng như ngân hàng Thương Mại cổ phần á châu ( ABC ), ngân hàng phát triển châu á (ADB) và Citibank. Chỉ có hai ngân hàng trong nước có trang Web riêng là ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), ngân hàng kỹ thương Việt Nam. Tuy nhiên, hiện tại cả hai trang Web này mới chỉ cung cấp các thông tin thông thường mang tính giới thiệu và cung cấp cho khách hàng khả năng kiểm tra tài khoản cá nhân. Nhìn chung các ngân hàng tại Việt Nam chưa có các giao dịch trên mạng, nguyên nhân chính là do thiếu hệ thống cơ sở pháp lý về thanh toán tiền điện tử và chữ ký điện tử, hiện tại trang web của ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đang sửa chữa để có khả năng giao dịch trên mạng, dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 7/2003. 2 . Xu hướng phát triển ngân hàng điện tử trong tương lai. Hiện nay, cuộc cách mạng CNTT đang chuyển sang giai đoạn thứ năm, giai đoạn trí thức với sự bùng nổ của cách mạng Internet và mạng không dây WAP, di động thế hệ thứ 3, nền kinh tế thế giới dịch chuyển mạnh mẽ theo hai hướng : Sự bùng nổ của thương mại điện tử, và xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, đây là hệ quả tất yếu của cuộc cách mạng CNTT. Internet giờ đây đã trở nên rất phổ biến trên thế giới, việc truy cập Internet được thực hiện nhanh chóng và dễ dàng hơn, trước đây chỉ những người có máy tính cá nhân mới truy cập được Internet thì tại thời điểm này đã có hàng triệu người có thể tiếp cận được thông tin, Việt Nam đã thử nghiệm và đưa vào hoạt động hệ thống truy cập Internet thông qua vô tuyến và đã có nhũng bước thành công bước đầu, dự định này sẽ được đưa vào sử dụng rộng rãi trên toàn quốc vào cuối năm 2005. Sự phát triển của Internet hiện tại và trong tương lai sẽ tạo ta cuộc đổ bộ lên Internet của các tổ chức tài chính, một ngân hàng không thể tồn tại được nếu 39
  40. nó không đáp ứng được khách hàng về nhu cầu thanh toán trực tuyến, trước đây, ngân hàng còn bị cản trở thường xuyên do đường truyền thấp thì ngày hôm nay, với sự xuất hiện của thế hệ thông tin thông tin di động (3G), các ngân hàng hoàn toàn có thể cung cấp cho khách hàng một dịch vụ tài chính hoàn hảo, khách hàng có thể sử dụng điện thoại di động để thanh toán cũng như theo dõi các cuộc hội thảo về tài chính của ngân hàng. Nhìn chung, trong một tương lai không xa, lĩnh vực tài chính và ngân hàng sẽ phát triển sôi động nhất với sự xâm nhập của Internet trên toàn thế giới mà xu hướng đó là sự toàn cầu hoá hệ thống tài chính ngân hàng, một ngân hàng sẽ bị loại bỏ ra khỏi cuộc đua tranh nếu không đáp ứng được nhu cầu của hệ thống, đây cũng chính là thách thức đối với hệ thống ngân hàng ở các nước kém phát triển, trong đó có Việt Nam, nhận biết được xu thế và thách thức đó, ngân hàng thế giới (Wold Bank) đang tích cực viện trợ đầu tư vào hệ thống ngân hàng ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam nhằm đưa hệ thống này hoà nhập với hệ thống tài chính ngân hàng thế giới. Chương II 40
  41. Thực trạng quá trình điện tử hoá tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. I - Khái quát về ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. 1-Quá trình hình thành và phát triển. Thành lập ngày 26-4-1957 theo Nghị Định 117/TTG của thủ tướng chính phủ, có tên giao dịch BIDV, là một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam, kể từ khi thành lập cho tới năm 1981, ngân hàng được mang tên là NH Kiến Thiết Việt Nam, trực thuộc Bộ Tài Chính với nhiệm vụ chủ yếu là nhận vốn đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước để tài trợ cho các dự án phát triển kinh tế kỹ thuật của nhà nước. Ngày 27/7/1957 chi nhánh ngân hàng kiến thiết Hà Nội (tiền thân của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội ) được thành lập nhằm đáp ứng những yêu cầu trước mắt cũng như nhu cầu lâu dài. Đến nay sau 44 năm hoạt động với nhiều giai đoạn phát triển , chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã đạt được những thành công trong hoạt động kinh doanh và cơ cấu bộ máy tổ chức ngày càng hoàn thiện hơn theo hướng phục vụ sự nghiệp kiến thiết thủ đô, thông qua hình thức cấp phát vốn ngân sách nhà nước do các công trình dự án thuộc kế hoạch nhà nước. Sau năm 1991, ngân hàng cấp phát vốn thông qua hình thức tín dụng, tới năm 1995 thì ngân hàng được phép phát triển kinh doanh theo chức năng của một ngân hàng thương mại (chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực đầu tư). Từ ngày 1/1/1995 ngân hàng ĐT&PT Việt Nam nói chung và ngân hàng ĐT&PT Hà Nội nói riêng thật sự hoạt động như ngân hàng thương mại. Chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có nhiệm vụ huy động nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn từ các thành phần kinh tế, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp dân cư, các tổ chức nước ngoài bằng VNĐ và USD để tiến hành cho vay các hoạt động cho vay như ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đối với mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế dân cư. Hiện nay ngân hàng 41
  42. hoạt động như một ngân hàng TM với đặc thù là lĩnh vực kinh doanh chính có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản cũng như khách hàng truyền thống là các đơn vị thuộc khối xây lắp. 2-Mô hình tổ chức. Để thực hiện chức năng mới của mình , chi nhánh có bộ máy tổ chức với 21 đầu mối gồm 14 phòng ban tại trụ sở chính số 4B Lê Thánh Tông và 3 chi nhánh trực thuộc tại các huyện Đông Anh, Thanh Trì, Cầu Giấy. Các chi nhánh có 2 phòng kinh doanh và kế toán ngân quỹ. Riêng tại chi nhánh Đông Anh, Thanh Trì có thêm phòng giao dịch. Chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có 19 đầu mối, hơn 300 cán bộ công nhân viên, mô hình tổ chức của chi nhánh bao gồm : 3 chi nhánh khu vực, 8 phòng ban trong đó có 8 phòng ban chức năng, 8 phòng trục tiếp kinh doanh và 2 phòng giao dịch dưới sự chỉ đạo của ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Bộ máy tổ chức chi nhánh gồm các đơn vị làm nhiệm vụ chức năng, các đơn vị làm nhiệm vụ trực tiếp. Các đơn vị làm nhiệm vụ chức năng bao gồm các phòng : Nguồn vốn kinh doanh, Thẩm định kinh tế kỹ thuật và tư vấn đầu tư, Tài chính kế toán, Kho quỹ, Kiểm tra nội bộ, thông tin điện toán, tổ chức cán bộ, riêng phòng kinh tế đối ngoại và thanh toán quốc tế làm cả nhiệm vụ chức năng và trực tiếp. Các đơn vị trực tiếp gồm : các phòng tín dụng 1,2,3,4 ; phòng giao dịch số 1 và 2; phòng huy động vốn dân cư và các chi nhánh huyện. Bộ máy tổ chức của chi nhánh được tổ chức theo sơ đồ sau : Để có bộ máy tổ chức gọn nhẹ và phục vụ tất cả các quá trình kinh doanh, Giám đốc NHĐT&PT Việt Nam đã ra quyết định và quy chế làm việc của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội, quy chế phân công quyền công tác cán bộ và theo đề nghị của trưởng phòng tổ chức cán bộ của chi nhánh. 42
  43. Ban GĐ Phòng Phòng Chi Phòng NVKD tín nhánh TCCB dụng 1 Thanh PhòngK Phòng Phòng Chi Tnội TĐ-KT bộ tín nhánh dụng 2 Đông Phòng Phòng TTĐT Phòng Chi KTTC tín nhánh dụng 3 Cầu Văn Phòng Phòng Phòng Phòng Ngân tín giao quỹ dụng 4 dịch Phòng Phòng KTĐN-TTQT giao dịch số Quỹ 10 Phòng huy động Trong quy chế này, đã phân công chức năng nhiệm vụ của trưởng phòng, ban rất rõ ràng như lề lối làm việc của giám đốc, các trưởng phòng, các chi nhánh, các đơn vị tổ chức đoàn thể trong chi nhánh, cùng với việc ban hành những quyết định trên, ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã xây dựng cho mình một hệ thống chính trị vững chắc, ngân hàng đã có 4 chi bộ trong Đảng bộ, đồng thời xây dựng một hệ thống công đoàn trong ngân hàng và các chi nhánh Đông Anh, Thanh Trì, Cầu Giấy và các Đoàn thanh niên, trong đó Đoàn cơ sở, các chi đoàn 1, 2, 3, 4 luôn được đánh giá cao trong hệ thống, Đảng bộ từ năm 1993 đến nay luôn là Đảng bộ trong sạch vững mạnh. 43
  44. 3- Các hoạt động chính. - Huy động vốn bằng VNĐ và USD từ dân cư và các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế dưới nhiều hình thức. - Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VNĐ và USD. - Đại lý uỷ thác cấp vốn, cho vay từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức của chính phủ, các nước và các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài đối với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. - Đầu tư dưới hình thức hùn vốn liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế, TCTD trong và ngoài nước. - Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền nhanh, thanh toán trong nước qua mạng thanh toán toàn cầu SWIFT. - Thực hiện thanh toán giữa Việt Nam và Lào. - Đại lý thanh toán các loại thẻ tín dụng quốc tế như : Visa, Mastercard, JCB card, và cung cấp các séc du lịch. - Thực hiện các dịch vụ ngân quỹ : Thu đổi ngoại tệ, thu đổi ngân phiếu thanh toán, chi trả kiều hối, cung ứng tiền mặt đến tận nhà. - Kinh doanh ngoại tệ. - Thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh. - Đại lý cho thuê mua tài chính. - Đại lý các loại hình bảo hiểm phí nhân thọ đối với khách hàng là nhà đầu tư nước ngoài và khách hàng có quan hệ tín dụng với hệ thống ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. - Thực hiện các dịch vụ về tư vấn tài chính. 44
  45. Nhìn chung năm 2002 là năm nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động và phải đối mặt với nhiều khó khăn do ảnh hưởng của các doanh nghiệp còn thấp, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng TM ngày càng gay gắt ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của ngân hàng NN cũng như ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, của Thành uỷ, UBND thành phố Hà Nội, cùng với truyền thống 44 năm hoạt động và phát triển, phát huy sức mạnh nội lực nên năm 2002 chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã có những bước tiến cơ bản đáng kể, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kế hoạch kinh doanh mà ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đã giao, đồng thời trở thành một trong những đơn vị đứng đầu trong hệ thống ngân hàng ĐT&PT Việt Nam trên địa bàn. II-Thực trạng điện tử hoá ngân hàng tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. 1-Sự cần thiết điện tử hoá ngân hàng đối với ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Như đã đề cập ở chương I, sự ra đời của hệ thống ngân hàng truyền thống mang tính quy luật, khi nền kinh tế hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện những người đóng vai trò đổi tiền, giữ tiền, thanh toán hộ, rồi cho vay, đó chính là những nhà ngân hàng đầu tiên trong lịch sử. Tương tự như vậy, sự xuất hiện của ngân hàng điện tử ở các nước phát triển cũng mang tính quy luật. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, đã làm thay đổi căn bản bộ mặt của nền kinh tế thế giới. Công nghệ thông tin tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng (như hiệp hội tín dụng, nhà môi giới chứng khoán, các Công ty cung cấp thẻ tín dụng, bưu điện) bành chướng hoạt động của mình sang lĩnh vực ngân hàng tạo ra môi trường cạnh trnh gay gắt trong nền công nghiệp tài chính, làm suy giảm đáng kể vai trò trung gian của các ngân hàng. Điều đó đã buộc các ngân hàng phải phát triển công nghệ, đưa hoạt động của mình lên mạng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về thương mại điện tử của nền kinh tế. Như vậy, đối với các nước phát 45
  46. triển sự ra đời của ngân hàng trên mạng là một tất yếu khách quan, nó quyết định sự tồn tại của bản thân ngân hàng đó và của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, đối với các ngân hàng Việt Nam nói chung và ngân hàng ĐT&PT Hà Nội nói riêng, sự cần thiết phải ra đời Ngân hàng điện tử không tuân theo quy luật trên. Cũng giống như sự hình thành của hệ thống ngân hàng truyền thống Việt Nam không bắt nguồn từ các nhà thương gia tiền tiền tệ, quá trình phát triển của các ngân hàng Việt Nam bỏ qua giai đoạn phát triển sơ khai của hệ thống ngân hàng. Điều đó là do các điều kiện kinh tế xã hội quy định. Sự ra đời của Ngân hàng điện tử Việt Nam cũng giống như Ngân hàng truyền thống mang tính chất "đi tắt đón đầu". Thực tế, các cơ sở để hình thành Ngân hàng điện tử ở Việt Nam chưa thực sự rõ nét: cơ sở hạ tầng công nghệ còn thấp kém; hoạt động thương mại điện tử chưa sôi nổi: không có sự cạnh tranh gay gắt giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng, không có sự suy giảm vai trò trung gian của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời của Ngân hàng điện tử ở Việt Nam nói chung và ở ngân hàng ĐT&PT Hà Nội nói riêng là cần thiết do những nguyên nhân chủ yêu sau: Nguyên nhân chủ quan.  Ngân hàng điện tử ra đời để thu hút tốt hơn nguồn vốn trong nước và quốc tế phục vụ phát triển kinh tế. Là một ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có nhiệm vụ phải tài trợ phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên nguồn vốn huy động của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội còn rất hạn chế trong khi nhu cầu vay vốn để phát triển là rất lớn, đặc biệt là trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sự ra đời của Ngân hàng điện tử sẽ giúp ngân hàng ĐT&PT Hà Nội giải quyết được phần nào khó khăn trên. Thứ nhất, sự hình thành của Ngân hàng điện tử sẽ thu hút thêm nhiều khách hàng là cơ sở để tăng nguồn vốn. Thứ hai, Ngân hàng điện tử cung 46
  47. cấp một phương tiện quảng cáo hữu hiệu trên phạm vi toàn cầu mà không phải mất nhiều chi phí. Qua đó, ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có thể giới thiệu và kêu gọi tài trợ từ các cá nhân và tổ chức nước ngoài trên toàn thế giới. Đây là nguồn hết sức quan trọng đáp ứng nhu cầu về vốn của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội trong thời kỳ mới.  Hình thành một hệ thống công nghệ thông tin có hiệu quả nói chung và Ngân hàng điện tử nói riêng là một vấn đề có tính cấp thiết và mang lại lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng. Nếu không quan tâm đầu tư vào thời điểm này, ngân hàng ĐT&PT Hà Nội sẽ gặp nhiều bất lợi khi tham gia vào thị trường ngân hàng vốn có tính cạnh tranh cao trong vòng 5 năm tới. Hơn nữa, cùng với việc giá của công nghệ giảm, những bước tiến nhanh chóng của quá trình đổi mới công nghệ sẽ giúp ngân hàng ĐT&PT Hà Nội nâng cao tiềm lực về: + Gia tăng giá trị của các sản phẩm hiện tại: + Cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới; và + Giới thiệu nhiều cơ chế tiếp cận khách hàng đa dạng.  Để phục vụ tốt hơn nhu cầu khách hàng. Ngân hàng điện tử sẽ tạo điều kiện cho khách hàng có thể tiếp cận đến ngân hàng ở mọi nơi, mọi lúc (24/24 giờ). Các ngân hàng ở Việt Nam cũng như ngân hàng ĐT&PT Hà Nội hiện nay chỉ làm việc trong giờ hành chính, và không làm việc vào các ngày nghỉ, ngày lễ. Do tính chất công việc, một số khách hàng không thể đến ngân hàng trong giờ hành chính. Mặt khác, vào các ngày nghỉ, ngày lễ lượng hàng hoá mua sắm thường tăng lên do đó nhu cẩu giao dịch với ngân hàng tăng, tuy nhiên các ngân hàng lại không hoạt động. Đây là cơ hội để ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đáp ứng nhu cầu chính đáng này của khách hàng đối với những người hay đi xa như các nhà doanh nghiệp, sinh viên du học khách hàng có thể tiếp cận với ngân hàng ở bất cứ địa điểm nào 47
  48. trên thế giới. Ngoài ra các yêu cầu về quản lý, giảm chi phí giao dịch, yêu cầu về quản lý rủi ro cũng là những nguyên nhân thúc đẩy sự hình thành ngân hàng điện tử ở ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Nguyên nhân khách quan.  Do sức ép từ phía các tổ chức tài chính quốc tế. Hiệp hội ASEAN đang chuẩn bị thành lập một "Liên minh Ngân hàng ảo của các nước ASEAN". Các đối tác ngân hàng trong liên minh này sẽ có khả năng giải quyết mau lẹ những nhu cầu của chính địa phương mình đồng thời liên minh này cũng giúp cho từng ngân hàng một sức mạnh tập thể để đối chọi với các ngân hàng đa quốc gia. Mặt khác sự hình thành của liên minh sẽ thúc đẩy sự hình thành một đồng tiền chung trong khối ASEAN. Hiệp hội ASEAN đại diện chính là ADB đang yêu cầu các nước thành viên phải thực hiện cải tổ và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Là một ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, ngân hàng ĐT&PT Hà Nội cần phải hiện đại hoá công nghệ để gia nhập liên minh này vì lợi ích của quốc gia và của bản thân ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Một trong những điều kiện ngân hàng ĐT&PT Hà Nội tiếp tục vay vốn của WB và ngân hàng ĐT&PT Hà Nội cần phải tăng cường năng lực tài chính và hiện đại hoá công nghệ để giám sát tốt hơn và do đó nâng cao chất lượng của các khoản cho vay này. Ngân hàng thế giới đã tài trợ cho ngân hàng ĐT&PT Hà Nội 10 triệu để giúp ngân hàng ĐT&PT Hà Nội thực hiện được các điều kiện nói trên.  Để đáp ứng xu hướng toàn cầu hoá trong lĩnh vực tài chính. Sự phát triển của kinh tế và công nghệ thông tin tất yếu dẫn đến xu hướng toàn cầu hoá trong lĩnh vực kinh tế và đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin vừa là thách thức, vừa là cơ hội 48
  49. để Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Nếu không đổi mới, hiện đại hoá hệ thống tài chính, Việt Nam sẽ mất cơ hội phát triển và bị tụt hậu xa hơn so với các nước phát triển. Chính vì vậy hệ thống ngân hàng Việt Nam trong đó ngân hàng ĐT&PT Hà Nội là một thành viên rất quan trọng phải "đi tắt đón đường" để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hiệp hội với nền tài chính quốc tế. 2- Đối tượng khách hàng của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Khách hàng sử dụng các dịch vụ trực tuyến của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội trong thời gian đầu sẽ bao gồm các đối tượng chủ yếu như sau: Bộ phận dân chúng có kết nối mạng Internet chủ yếu là khu vực các thành phố lớn. Đặc biệt những người thường phải làm việc hoặc công tác ở xa, công việc giao dịch không được dự báo trước; học sinh, sinh viên du học Các doanh nghiệp có kết nối Internet, chủ yếu là các doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Các tổng Công ty và các doanh nghiệp Nhà nước. (Phục vụ nhu cầu thanh toán và quản lý của Nhà nước). Các Công ty liên minh hoặc 100% vốn nước ngoài. (để thuận tiện thanh toán và nhu cầu quản lý tài chính của Công ty mẹ ) 3- Lợi ích của điện tử hoá ngân hàng đối với ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Ngân hàng điện tử khi đã đi vào hoạt động sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho ngân hàng ĐT&PT Hà Nội bao gồm cả lợi ích vô hình và lợi ích hữu hình. Hầu hết các lợi ích của hệ thống này vô hình và được liệt kê như sau: Tạo ra nhiều kênh huy động vốn; Giảm số nhân viên dịch vụ; 49
  50. Tăng sức cạnh tranh về giác cả, quảng cáo và bồi thường; Tăng khả năng thích ứng với thị trường; Tăng độ trung thực của thông tin; Giới thiệu một số công nghệ mới nhanh hơn; Tiêu chuẩn hoá phần mềm, báo cáo và các thủ tục; Lợi ích hữu hình từ dự án này sẽ chủ yếu bao gồm hai khía cạnh. Tăng 0,5% doanh thu hàng năm trong giai đoạn đầu (khoảng 25.000 triệu VND). ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có thể thu được lợi ích này năm 2005 trở đi do dự án này được hoàn thành vào thời điểm đầu năm 2004. Tăng 0,5% lợi nhuận biên. Một trong những mục đích chính của dự án này là xây dựng một công cụ có khả năng trợ giúp ban quản lý phân tích các thông tin kinh doanh. Kết quả là tạo ra các quyết định kinh doanh có chất lượng cao hơn. Kết quả này sẽ giúp ngân hàng ĐT&PT Hà Nội trở thành một tổ chức thu nhiều lợi nhuận và mạnh hơn. Điều này được phản ánh bằng việc gia tăng lợi nhuận biên. Lợi nhuận tăng thêm mỗi năm = 0,5% x 200.000 triệu VND = 1.000 triệu VND. 4-Các bước điện tử hoá ngân hàng tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội là một ngân hàng lớn, số lượng chi nhánh lớn (1.468 chi nhánh trên khắp các tỉnh thành trong cả nước). Nên để xây dựng được một Ngân hàng điện tử, ngân hàng ĐT&PT Hà Nội phải tốn nhiều thời gian và chi phí hơn so với THTM khác. Nhìn chung, quá trình xây dựng một Ngân hàng điện tử của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội phải trải qua các bước sau: 50
  51. Bước 1: Xây dựng hệ thống mạng truyền thông hiện đại. Đây là quá trình xây dựng hệ thống mạng để tạo môi trường liên kết các chi nhánh trong hệ thống ngân hàng. hệ thống này phải đảm bảo có tốc độ đường truyền cao và an toàn. Bước 2: Xây dựng hệ thống thanh toán nội bộ và hệ thống kế toán khách hàng. - Xây dựng hệ thống thanh toán nội bộ: Hệ thống này đảm nhiệm chức năng quản lý việc chuyển tiền điện tử giữa các chi nhánh và thông báo thông tin khách hàng về trung tâm điều khiển. Theo đó mọi giao dịch của khách hàng tại chi nhánh được phản ánh ngay về tâm điều khiển (BIPS). - Xây dựng hệ thống kế toán khách hàng: Bao gồm các nghiệp vụ như: + Kế toán tiền gửi + Kế toán tiền vay + Bản lẻ (thanh toán, hối đoái ) + Tín dụng + Chuyển khoản Hệ thống kế toán này phải đảm bảo xử lý tức thời, tin cậy và có tính tự động hoá. Bước 3: Xây dựng hệ thống xử lý thanh toán (BIPS) bao gồm: - Xây dựng giao thức thanh toán mạng NPP (Network Payment Protocol) là công cụ cho phép chuyền đạt thông tin giữa khách hàng và ngân hàng. - Xây dựng trung tâm xử lý thanh toán. (BIP/s server): có chức năng tiếp nhận, xử lý thông tin và thực hiện các giao dịch theo yêu cầu của khách 51
  52. hàng. Trung tâm này kết nối với tất cả các hệ thống thanh toán (ATM, SWIFT, bù trừ ) và hệ thống kế toán của ngân hàng. - Xây dựng chương trình dành cho khách hàng (Client Application), chương trình này dùng để tạo và gửi thông điệp (yêu cầu) cho ngân hàng. Đồng thời, nó còn được sử dụng để tiếp nhận thông điệp từ phía ngân hàng. Các bước trên có thể được thực hiện theo thứ tự hoặc đồng thời tuỳ thuộc vào nguồn lực của ngân hàng. Tuy nhiên, để ngân hàng điện tử ra đời và hd tốt cần phải xây đồng thời phải xây dựng và phát triển các dự án bổ trợ (ATM, SWIFT, hệ thống điện dự phòng ). Kinh nghiệm cho thấy, một Ngân hàng điện tử hoạt động có hiệu quả luôn đi kèm với hệ thống máy rút tiền tự động (ATM) phát triển. 5-Thực trạng triển khai dự án điện tử hoá tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. 5.1. Thực trạng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin. Đánh giá một cách chính xác môi trường công nghệ thông tin hiện tại của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội là rất cần thiết nhằm đưa ra những giải pháp toàn diện về công nghệ và nguồn nhân lực để đáp ứng mô hình Ngân hàng điện tử của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội trong thời gian tới. Mục đích của phần này nhằm cung cấp thông tin cơ bản cần thiết về các nguồn lực công nghệ thông tin (CNTT) hiện đang có tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội trên bốn khía cạnh sau: Tổ chức và đội ngũ nhân viên. Hệ thống phần mềm đang sử dụng hoặc đang trong giai đoạn phát triển. Hệ thống phần cứng hiện hành Hệ thống mạng hiện tại. 52
  53. 5.1.1. Thực trạng về cơ sở hạ tầng nguồn nhân lực CNTT. Đội ngũ nhân viên công nghệ thông tin tương ứng với cơ cấu tổ chức tổng thể của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội được chia thành 4 cấp: Cấp Số nhân viên CNTT Báo cáo lên 1. Hội sở (Trung tâm tin học) 10 nhân viên làm việc Trung tâm tin học cả ngày 2. Các hội sở tại các khu vực: không có nhân viên - Khu vực 1: Hà Nội nào. Trưởng phòng - Khu vực 2: Thành phố Hồ Chí Minh - Khu vực 3: Đà Nẵng 3. Chi nhánh các huyện. (4) không có nhân viên Trưởng phòng nào 4. Chi nhánh giao dịch (52) không có nhân viên Trưởng phòng nào Như vậy, có ngân hàng ĐT&PT Hà Nội tổng số hơn 800 nhân viên công nghệ thông tin được chia thành năm cấp khác nhau trên cả nước. Trong đó quan trọng nhất là 37 nhân viên tại hội sở tin học, đây là thành phần nòng cốt quản lý toàn bộ hệ thống thông tin ngân hàng. Cơ sở và năng lực của đội ngũ nhân viên công nghệ thông tin được tóm tắt ở bảng sau: Chi nhánh/ nhân viên Trình độ Khả năng Nhân viên CNTT tại 70% tốt nghiệp Đại Có khả năng sử dụng phòng điện toán. học chuyên ngành một số ngôn ngữ lập tin học (cả chính quy trình để phát triển và tại chức) ứng dụng khi có yêu 53
  54. 30% không tốt cầu. nghiệp đại học về Có kinh nghiệm CNTT mà từ các trong việc phát triển ngành khác: Điện, và triển khai ứng điện tử, vật lý, kế dụng. toán Nhân viên có kinh nghiệm, tự tin trong việc sửa đổi chương trình hiện tại khi có yêu cầu. Đang có xu hướng chuyển sang công nghệ mũi nhọn (từ Foxpro sang Oracle) Khả năng lập trình tạo trang Web còn hạn chế chưa có kinh nghiệm quản lý mạng Internet. Nhân viên kế toán 20% tốt nghiệp Đại Một số có thể sửa tin học tại chi nhánh học tin học. đổi chương trình các quận huyện. 80% tốt nghiệp từ không quan trọng. các ngành khác, chủ Có khả năng tự phát yếu là kế toán ngân triển các ứng dụng hàng. nhỏ phục vụ cho Các nhân viên không công tác quản lý trực 54
  55. chuyên về CNTT tiếp tại tỉnh. được NH ĐT&PT Quản trị và bảo trì hệ Hà Nội đào tạo căn thống CNTT tại chi bản về CNTT và các nhánh quận huyện. chương trình ứng Tham gia các dự án dụng của ngân hàng. phát triển các ứng dụng khi có yêu cầu. Nhân viên kế toán Không tốt nghiệp Vận hành các hệ tại chi nhánh cấp các trường về thống tại chi nhánh Quận Huyện. CNTT. cấp huyện. Được đào tạo nội bộ Không thể thực hiện chỉ để sử dụng các các sửa đổi trên các hệ thống ngân hàng chương trình hiện trực tiếp tại chi hành của Ngân hàng. nhánh. Chỉ tham gia vào việc phát triển ứng dụng mới với tư cách là người dùng cuối cùng chứ không phải là nhân viên phát triển ứng dụng. 5.1.2. Thực trạng cơ sở hạ tầng thiết bị. Hệ thống phần cứng hiện tại của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội Máy chủ: Tổng số có khoảng 550 máy chủ trên toàn hệ thống. Máy trạm: 5200 máy trạm trên toàn quốc. 55
  56. Máy trạm có rất nhiều loại khác nhau đang được sử dụng trên toàn hệ thống, chủ yếu là các máy tính của các hãng lớn như: Compaq, IBM, Dell, HP. Bên cạnh đó có một số máy chủ do không tương thích với Y2k đã được chuyển thành máy trạm phục vụ cho nhu cầu đào tạo, công việc văn phòng không trực tiếp xử lý nghiệp vụ ngân hàng. Một số nơi vẫn còn máy nhái không rõ xuất xứ. Thiết bị truyền thông và mạng: Router: 4 router của hãng CISCO đang sử dụng. HUb/Switch: Phổ biến nhất là sản phẩm của tháng 3 COM. Modern: Không bắt buộc dùng thống nhất, các nhãn hiệu được dùng nhiều: Netcom, Motorola, US Robotic. Mạng cục bộ kiến trúc hình sao: đây là kiến trúc được ưa thích nhất, được triển khai tại hầu hết các chi nhánh và sở giao dịch trên toàn hệ thống. Mạng cụ bộ kiến trúc đồng trục: Kiến trúc này vẫn được sử dụng ở một số chi nhánh nơi thiết bị không hiện đại. Hệ thống thông tin hiện tại của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đang thực hiện cài đặt mạng xương sống trực tuyến nối tám điểm khác nhau. Mạmg này sẽ được mở rộng để kết nối thêm 30 điểm trong năm 2002. Mạng này có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở trao đổi thông tin dữ liệu giữa các chi nhánh trong cả nước. Hệ thống truyền thông của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội hiện tại chủ yếu được dùng là hệ thống truyền thống Dail up, tốc độ truyền từ 3600 -> 5600 kb. Hiện tại có khoảng 550 Modem được dùng là thiết bị truyền thông. Phần mềm 56
  57. truyền thông là hệ thống Tnet do một Công ty tại Việt Nam viết. Hệ thống truyền thông được coi là hiện đại hiện nay là mạng Leased line được nối từ ngân hàng ĐT&PT TW tới trụ sở chính của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội (4B Lê Thánh Tông) có tốc độ truyền 64kb. 5.1.3. Hệ thống phần mềm đang sử dụng hoặc đang phát triển. Hệ thống phần mềm hiện tại đang sử dụng tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có thể chia làm bốn nhóm: 1. Hệ thống sản phẩm nghiệp vụ ngân hàng chủ yếu; Hệ thống kế toán ngân hàng Hệ thống thanh toán nội bộ ngân hàng Hệ thống thông tin báo cáo. Hệ thống thanh toán ATM. 2. Hệ thống sản phẩm nghiệp vụ ngân hàng khác liên quan đến hệ thống chủ yếu. Hệ thống thanh toán liên hàng. Hệ thống thanh toán SWIFT. 3. Hệ thống đang phát triển. Dự án VANOCO 4. Các hệ thống hỗ trợ: Hệ thông quản lý thiết bị tin học Hệ thống quản lý nhân sự Hệ thống quản lý lương. 57
  58. 5.2. Thực trạng triển khai dự án Ngân hàng điện tử tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Dự án ngân hàng điện tử được ngân hàng ĐT&PT Hà Nội chính thức triển khai vào tháng 11/2000. Tuy nhiên nếu theo các bước đã nêu trên thì thực tế dự án này đã được triển khai từ 1998 với việc xây dựng mạng truyền thông Back bone Nam - Bắc cùng với dự án hiện đại hoá ngân hàng do ngân hàng thế giới tài trợ. Theo đó, thực trạng triển khai các dự án này như sau: Bước 1: Dự án xây dựng mạng truyền thông: Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã thực hiện gần xong bước một với việc xây dựng hệ thống mạng truyền thông Back bone Nam - Bắc. Mạng được xây dựng trên cơ sở mạng Leased line thuê bao của Bưu chính viễn thông Việt Nam với tốc độ 64 ->128 kb cao hơn nhiều so với đường truyền cũ. Tính đến nay (3/2001) ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã thực hiện kết nối được hầu hết các tỉnh thành quan trọng trong cả nước. Tính đến cuối năm 2001 sẽ hoàn thành dự án. Bước 2: Dự án xây dựng hệ thống thanh toán nội bộ và hệ thống thanh toán khách hàng. Đây là một phần của dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán (WB). Dự án WB được đầu tư theo quyết định số 531/TTg ngày 12/7/1997 của Thủ tướng Chính phủ với tổng vốn đầu tư là 49 triệu USD từ nguồn vốn vay của Hiệp hội phát triển quốc tế IDA - World Bank). Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội là một trong 7 ngân hàng thành viên tham gia dự án. Tiểu dự án của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội là một tiểu dự án có giá trị đầu tư là 10 triệu USD - lớn nhất trong các số tiểu dự án của các NHTM thành viên. Là một dự án nằm trong khuôn khổ và phạm vi của dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán Việt Nam. Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội 58
  59. mong muốn xây dựng một hệ thống thanh toán nội bộ ngân hàng và kế toán khách hàng có công nghệ hiện đại, an toàn, chính xác và hiệu quả. Hệ thống thanh toán ngân hàng và kế toán khách hàng của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội phải đáp ứng đầy đủ những yêu cầu và mục tiêu chung của dự án WB, ngoài ra, với tính chất và đặc thù của một ngân hàng hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư , ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã đặt ra những mục tiêu dưới đây cho hệ thống thanh toán ngân hàng và kế toán khách hàng của mình. 1. Xây dựng một hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng, dựa trên công nghệ tiên tiến, đáp ứng được nhu cầu thay đổi và phát triển trong tương lai. 2. Xây dựng một hệ thống thanh toán và nộ bộ kế toán khách hàng có độ tin cậy cao, an toàn và có khả năng thực hiện các giao dịch ngân hàng hữu hiệu nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đang chuyển đổi và tăng trưởng. 3. Tự động hoá hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng. 4. Mở rộng phạm vi hoạt động, phát triển thị phần, tăng lượng khách hàng. 5. Giảm chi phí điều hành, nâng cao năng xuất lao động, tăng khả năng sinh lời. 6. Giảm việc thả nổi, tăng tốc độ và vòng quay của các nguồn vốn và tính hiệu quả của giao dịch ngân hàng. 7. Thiết lập hệ thống thông nghệ thông tin hiện đại để phục vụ nghiệp vụ kinh doanh và quản lý điều hành. 8. Cải tiến và tăng cường công tác kế toán và thủ tục kiểm soát trong nội bộ . 59
  60. 9. Cho phép tích hợp các dịch vụ ngân hàng mới (ATM, ngân hàng điện tử). Đã được hoạch định và hoà nhập với cộng đồng ngân hàng trong khu vực và quốc tế. Triển khai dự án WB của mình, ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã ký hợp đồng dịch vụ tư vấn với Công ty tư vấn Quốc tế. A.T.Kearney chính thức thực hiện giai đoạn tư vấn dự án từ ngày 30/11/1998. Tiểu ban dự án WB của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã phối hợp cùng chuyên gia tư vấn A.T.Kearney tiến hành nghiên cứu chiến lược kinh doanh và phát triển công nghệ tin học của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội làm cơ sở xây dựng hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng trong tương lai cho ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Cùng với sự giúp đỡ của Cục công nghệ thông tin Ngân hàng - NHNNVN, ngân hàng ĐT&PT TW, ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã hoàn thành đấu thầu dự án giai đoạn một và đang gấp rút chuẩn bị và đấu thầu giai đoạn thứ hai, dự kiến vào đầu quý II năm 2003. Bước 3: Xây dựng hệ thống xử lý thanh toán (BIPS): chưa thực hiện các dự án bổ trợ. Dự án ATM: Máy rút tiền tự động cho phép khách hàng khả năng rút tiền ở mọi nơi có máy ATM trong hệ thống ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Ngay sau khi dự án được thực hiện, công việc đòi hỏi lao động trực tiếp sẽ giảm đi đáng kể. Trước mắt là tiết kiệm chi phí về lâu dài giúp cho Ngân hàng khả năng thích ứng với công nghệ hiện đại. Đặc biệt là ATM được coi là hệ thống hỗ trợ đắc lực cho ngân hàng điện tử trong tương lai của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Hiện tại, hệ thống đã bắt đầu được triển khai với việc lắp đặt được 2 máy ATM; 1 đặt tại chi nhánh 4B Lê Thánh Tông và 1 máy đặt tại chi nhánh Cầu Giấy. Có khoảng 640 thẻ đã phát hành, chủ yếu là giành cho cán bộ công nhân viên ngân hàng ĐT&PT Hà Nội, thêm vào đó chương trình IBS đã bộc lộ những điểm yếu như hạn chế về mã số khách hàng, đây là một chương trình 60
  61. phân tán, chỉ hoạt động vào các giờ hành chính các ngày từ thứ 2 đến thứ 6, do đó khi đưa ra giải pháp cho hệ thống mạng ATM hiện nay là vào những giờ IBS làm việc. Hệ thống thanh toán mạng SWIFP: Giúp hệ thống ngân hàng ĐT&PT Hà Nội thanh toán với các ngân hàng quốc tế thông qua mạng SWIFP quốc tế. SWIFP bắt đầu vận hành tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội từ tháng 3/1995. Hiện tại đã có 35 chi nhánh trên toàn quốc của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã được thực hiện nối mạng SWIFP. Mỗi ngày có khoảng 160 giao dịch tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của hệ thống này là được xây dựng trên cơ sở dữ liệu FOXPRO . Đây là điểm cần khắc phục với mô hình ngân hàng điện tử trong tương lai. Hệ thống chuyển tiền điện tử. Tháng 10/1998 ngân hàng ĐT&PT Hà Nội xây dựng đề án chuyển tiền điện tử nhằm thay thế cho hệ thống thanh toán và đối chiếu liên hàng được phát triển trên hệ quản trị cơ sở dữ liệu FOXPRO hiện tại. Hệ thống này được phát triển trên cơ sở dữ liệu ORACLE và hệ điều hành UNIX mang truyền thông trực tiếp Lease Line dựa trên hệ thống mạng Backbone. Tính đến nay dự án này đã được triển khai trên hầu hết những tỉnh thành quan trọng. Như vậy, việc chuyển khai dự án ngân hàng điện tử của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội về cơ bản đã hoàn thành bước 1 và đang trong giai đoạn đầu của bước 2 là xây dựng hệ thống thanh toán nội bộ và hệ thống thanh toán khách hàng. Bước 3 Ngân hàng hoàn toàn chưa thực hiện. Tuy nhiên ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã bước đầu thực hiện thành công 3 dự án bổ trợ quan trọng là hệ thống máy rút tiền tự động ATM, hệ thống chuyển tiền điện tử và thanh toán mạng quốc tế SWIFT. 6-Một số nhận xét về quá trình điện tử hoá NH của NH ĐT&PT Hà Nội. 61
  62. 6.1. Những thuận lợi của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội.  Tận dụng được kinh nghiệm của các nước phát triển: các ngân hàng ở Việt Nam cũng như ngân hàng ĐT&PT Hà Nội là các ngân hàng đi sau so với ngân hàng trên thế giới trong việc hình thành và phát triển ngân hàng điện tử. Điều này giúp cho ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có thể học tập được kinh nghiệm, đồng thời tránh được những lỗi mà các ngân hàng đi trước mắc phải trong quá trình thành và phát triển mô hình ngân hàng điện tử. Một kinh nghiệm có thể rút ra ngân hàng ĐT&PT Hà Nội không nên phát hành thẻ tín dụng hữu danh (Credit Card) để phục vụ thanh toán vì loại thẻ này có nhược điểm và không an toàn và tiết lộ thông tin khách hàng. Trước đó, các ngân hàng ở một số nước phát triển đã đầu tư vào loại thẻ này và phải tốn rất nhiều chi phí. Tuy nhiên hiện nay hình thức thanh toán qua thẻ tín dụng đang giảm dần. Điều này làm cho một số ngân hàng đứng trước nguy cơ không thu hồi đủ vốn đầu tư.  Được sự quan tâm giúp đỡ của các tổ chức tài chính quốc tế và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Là một ngân hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam, không những được sự quan tâm của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng ĐT&PT Hà Nội còn được sự quan tâm giúp đỡ của rất nhiều tổ chức tài chính quốc tế mà đặc biệt là Ngân hàng thế giới (World Bank) và ngân hàng phát triển Châu á (ADB) với mục đích nâng cao năng lực tài chính và công nghệ cho ngân hàng ĐT&PT Hà Nội, WB và ADB đã và đang tài trợ cả về kỹ thuật và vốn cho ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Một số dự án lớn được tài trợ chính hiện nay là: Dự án "Tăng cường quản trị doanh nghiệp tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội " do ADB tài trợ; và dự án "Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống 62
  63. thanh toán" do ngân hàng thế giới tài trợ (trị giá 10 triệu đôla Mỹ). Đây sẽ là thuận lợi lớn mà ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có thể khai thác để đạt được mục tiêu của mình.  Đã có nền tảng tương đối vững chắc và hệ thống ứng dụng ngân hàng: Hệ thống chuyển tiền điện tử là một bộ phận của chiến lược công nghệ của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã được chuyển khai toàn quốc và sẽ phát triển theo hướng tự động hoá cao vào giai đoạn 2000 - 2005, đã và đang thực sự đem lại lợi ích cho khách hàng vào ngân hàng. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ tin học ngân hàng "Hệ thống ứng dụng chuyển tiền điện tử qua ngân hàng ĐT&PT Hà Nội là một hệ thống ứng dụng hoàn hảo nhất hiện nay ngân hàng ĐT&PT Hà Nội không chỉ thành công về thực hiện chương trình hiện đại hoá nghiệp vụ ngân hàng mà còn thành công lớn về phát triển các ứng dụng tin học trong hoạt động ngân hàng trên nền tảng công nghệ hiện đại". Hỗ trợ cho việc vận hành hệ thống ứng dụng chuyển tiền điện tử và hệ thống rút tiền tự động ATM (Auto Teller Machine) của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã được triển khai trên hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là công cụ phục vụ đắc lực cho hệ thống ngân hàng điện tử của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội trong tương lai Thanh toán nối mạng SWIFT đã được triển khai trên tất cả các chi nhánh quan trọng trong cả nước và bước đầu đạt được những thành công lớn, danh số thanh toán qua hệ thống này liên tục tăng lên. (Phục lục 2) mỗi ngày có khoảng 60 giao dịch, tổng giao dịch của cả năm 2002 là 3872 giao dịch đạt doanh thu 2,3 tỷ đồng, số phí thu được là 11 triệu và tính đến 19/2/2003 có 87 thẻ được phát hành, số lượng giao dịch là 1307 đạt doanh thu 1,1 tỷ đồng, số 63
  64. phí thu được là 2,6 triệu đồng. Đây là cơ sở phát triển ngân hàng điện tử ngân hàng ĐT&PT Hà Nội.  Có số lượng khách hàng tiềm năng lớn: Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội được coi là một trong những ngân hàng lớn nhất trong hệ thống ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Với 4 Chi nhánh ở tất cả các quận huyện, có quan hệ với gần 6000 doanh nghiệp, hơn 7 triệu hộ sản xuất trong nước, có quan hệ đại lý và quan hệ quốc tế với 600 ngân hàng nước ngoài Đây sẽ là lợi thế về nguồn khách hàng cho mô hình ngân hàng điện tử của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. 6.2. Nhận xét về tiến độ thực hiện của dự án ngân hàng điện tử tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Quá trình triển khai ngân hàng điện tử đã bắt đầu thực hiện sang bước thứ hai là xây dựng hệ thống thanh toán nội bộ và hệ thống khách hàng. Quá trình triển khai như vậy là tương đối chậm so với kế hoạch, của xây dựng bước 2 cần rất nhiều thời gian (khoảng 3 năm). Trong khi dự án xã hội ngân hàng điện tử phải hoàn thành vào đầu năm 2004. Sự chậm trễ này xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan. 6.2.1. Các nguyên nhân chủ quan Các nhân tố ảnh hưởng đến độ của dự án xét từ khía cạnh bản thân ngân hàng ĐT&PT Hà Nội chủ yếu xuất phát từ khó khăn về năng lực công nghệ của ngân hàng. Nhìn chung, cơ sở hạ tầng nguồn lực công nghệ thông tin của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội còn thấp kém chưa đáp ứng được yêu cầu của một mô hình thanh toán hiện đại, thể hiện ở những điểm sau: Về hệ thống ứng dụng Hệ thống ứng dụng chưa đáp ứng được yêu cầu cho công tác chỉ đạo. Một trong những nguyên nhân là không tổ chức tốt cơ sở dữ 64
  65. liệu thông tin đầu vào dẫn đến không khai thác triệt để thông tin đầu ra. Tất cả các hệ thống ứng dụng để được phát triển trên hệ quản trị cơ sở dữ liệu Foxpro, làm việc không hiệu quả, và tính bảo mật kém do đó không thích hợp với yêu cầu của ngân hàng trực tuyến. Hệ thống ứng dụng được thiết kế rời rạc không đồng nhất, không có sự liên kết kế thừa lẫn nhau. Điều này làm cản trở quá trình phản ánh thông tin mang tính tức thời của hệ thống ngân hàng điện tử. Về cơ sở dữ liệu. Hiện tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đang sử dụng hai loại hệ quản trị dữ liệu là quản trị dữ liệu Foxpro 2.6 và Oracle 7.3. Việc sử dụng hệ quản trị cơ sở dữ liệu Foxpro chỉ có sở Việt Nam, trong đó ngân hàng ĐT&PT Hà Nội chiếm tỷ lệ cao nhất 95%. Đây là hệ cơ sở dữ liệu cấp file có cấu hình khá đơn giản. Mức logic truy cập dữ liệu là thư viện của Foxpro. Chỉ có các ứng tuân thủ các quy định của thư việc mới có khả năng truy cập tệp cơ sở dữ liệu. Đây là công nghệ lạc hậu được thiết kế chủ yếu dành cho những nhóm người sử dụng. Các vấn đề chính của công nghệ lạc hậu này là: + Tính bảo mật các dữ liệu kém + Tốc độ làm việc chậm. + Hỗ trợ số lượng nhỏ người sử dụng. Sự yếu kém về hệ quản trị dữ liệu đã dẫn đến sự yếu kém trong quản lý. Thông tin về khách hàng còn hạn chế, chưa toàn diện và đầy đủ; chữ ký của khách hàng không được quản lý trên máy. Về nguồn nhân lực. 65
  66. Các cấp lãnh đạo đã nhận thức được tầm quan trọng to lớn của Internet đối với sự phát triển của ngân hàng. Tuy nhiên chưa có sự quan tâm đúng mức và chưa có quyết tâm cao trong việc thực hiện. Cán bộ ngân hàng nói chung, còn thiếu nhận thức về công nghệ thông tin, Ngân hàng điện tử còn là khái niệm xa lạ đối với nhân viên không chuyên tin học trong hệ thống ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Cán bộ giao dịch có hiểu biết về môi trường Foxpro tuy nhiên lại thiếu kinh nghiệm về các sản phẩm phần mềm trọn gói vốn là đặc trưng của hệ thống ngân hàng điện tử. Số lượng nhân viên công nghệ thông tin ít chất lượng chưa cao. Tuy là những người trực tiếp thực hiện triển khai và điều hành dự án nhưng lại chưa có đủ kỹ năng và kinh nghiệm lập trình và điều hành mạng. Về trang thiết bị Hệ thống trang thiết bị hiện tại của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội tương đối lạc hậu, tốc độ chậm, lại thiếu đồng bộ, không đáp ứng yêu cầu của một hệ thống xử lý thông tin hiện đại, đảm bảo phục vụ nhanh chóng và chính xác cho khách hàng. Về hệ thống mạng  Hệ thống mạng truyền thông được coi là cơ sở hạ tầng quan trọng nhất của ngân hàng điện tử, nó giúp cho sự liên lạc trung tâm và các chi nhánh trên cả nước được thông suốt. Tuy nhiên, hiện nay ngân hàng ĐT&PT Hà Nội chủ yếu sử dụng hệ thống truyền thông Dail up, tốc độ truyền từ 2400 -> 9600kb. Hệ thống này có tốc độ truyền rất chậm do bản thân tốc độ của thiết bị và của hệ thống đường 66
  67. truyền (qua dây điện thoại) ở Việt Nam có chất lượng rất kém và không an toàn.  Hiện tại, việc ứng dụng Internet vào ngân hàng mới chỉ dừng lại ở mức tra cứu thông tin và cập nhật các tiện ích cho các nhân viên công nghệ thông tin chuyên nghiệp. Chưa có trang Web riêng mà công chúng có thể truy cập như một trang Web thông thường. 6.2.2. Các nguyên nhân khách quan. Về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến dự án ngân hàng điện tử của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Hiện tại, Việt Nam hầu như không có những công nghệ tiên tiến đã được sử dụng ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật bản, Châu Âu Singapore. Việt Nam vẫn còn sử dụng các công nghệ quá cũ trong mạng thông tin viễn thông. Việt Nam vẫn còn sử dụng các công nghệ quá cũ trong mạng thông tin viễn thông. Mặc dù lĩnh vực xương sống quan trọng nhất trong ngành viễn thông đã sử dụng công nghệ cáp quang, nhưng các mạng thứ yếu vẫn thấy ở bên ngoài các thành phố lớn, chất lượng của hệ thống dây điện thoại là rất thấp. Do đó không có sự đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp từ phía Tổng Công ty bưu chính Viễn thông. Đây là hậu quả của tình trạng độc quyền của Tổng Công ty bưu chính Viễn thông trên thị trường viễn thông Việt Nam. Đó là tình thế khó khăn của các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam nói chung và của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội nói riêng. Những khó khăn của về cơ sở hạ tầng ngành viễn thông Việt Nam đã hạn chế khả năng của ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Nếu hạ tầng cơ sở ngành viễn thông không được cải thiện, nó sẽ không phù hợp việc triển khai những hệ thống công nghệ thông tin yêu cầu mạng kỹ thuật số. Khó khăn này không chỉ ảnh hưởng đến ngân 67