Tóm tắt luận án Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội

pdf 30 trang yendo 4260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt luận án Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_mot_so_dac_diem_va_yeu_to_nguy_co_cua_nghe_k.pdf

Nội dung text: Tóm tắt luận án Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG * NGUYỄN TUYẾT XƯƠNG MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA NGHE KÉM Ở TRẺ EM TỪ 2 ĐẾN 5 TUỔI TẠI CÁC TRƯỜNG MẪU GIÁO NỘI THÀNH HÀ NỘI Chuyên ngành: Dịch tễ học Mã số: 62.72.01.17 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ DỊCH TỄ HỌC HÀ NỘI – 2014
  2. Công trình được hoàn thành tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. Ts. Nguyễn Anh Dũng 2. PGS.Ts. Khu Thị Khánh Dung Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: . Luận án sẽ (hoặc đã) được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án nhà nước họp tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, vào hồi giờ , ngày tháng năm 20 Có thể tìm hiểu luận án tại: 1. Thư viện Quốc gia 2. Thư viện Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Nghe kém là hiện tượng giảm một phần hay toàn bộ khả năng cảm nhận về âm thanh. Nghe kém có thể gặp ở mọi lứa tuổi và có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG), có khoảng 5% dân số, tương đương với 360 triệu người trên toàn thế giới bị nghe kém, trong đó có 32 triệu trẻ em bị vấn đề này. Theo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, toàn thành phố có 840 trường mầm non, trong đó 85,0% là công lập chiếm hơn 90,0% tổng số học sinh mầm non. Cũng như các địa phương khác, đến nay Hà Nội vẫn chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu đặc điểmvà các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em độ tuổi từ 2 tuổi đến 5 tuổi. Vì vậy, việc nghiên cứu các đặc điểm và các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ trong độ tuổi nói trên là hết sức cần thiết nhằm cung cấp những số liệu khoa học về các vấn đề nêu trên. Từ những lý do trên, đề tài nghiên cứu “Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội” được thực hiện với hai mục tiêu sau: 1. Mô tả một số đặc điểm của nghe kém ở trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội, 2011 - 2012. 2. Xác định một số yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi khu vực nội thành Hà Nội.
  4. 2 Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ CÁC ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN - Tính mới: Đây là nghiên cứu đầu tiên sử dụng máy đo OAE sàng lọc nghe kém ở lứa tuổi từ 2-5 tuổi tại các trường mẫu giáo tại Hà Nội. - Tính ứng dụng: Thông tin về tình hình dịch tễ học nghe kém ở trẻ từ 2-5 tuổi ở nội thành Hà Nội là bằng chứng, cơ sở khoa học nhằm xây dựng các chương trình sàng lọc, dự phòng nghe kém cho trẻ tại cộng đồng. Những kết quả nghiên cứu luận án là cơ sở cho các nghành có liên quan hoạch định chiến lược can thiệp nghe kém phù hợp và có hiệu quả. CẤU TRÚC LUẬN ÁN Luận án gồm 93 trang, 4 chương: Đặt vấn đề: 2 trang, Chương 1 - Tổng quan: 30 trang, Chương 2 - Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 14 trang, Chương 3 - Kết quả: 23 trang, Chương 4 - Bàn luận: 21 trang, Kết luận: 1 trang, Khuyến nghị: 1 trang, Những đóng góp của luận án: 1 trang. Luận án có 30 bảng, 4 biểu đồ, 8 hình, 1 sơ đồ, 134 tài liệu tham khảo trong và ngoài nước. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 1.4 Tình hình nghe kém 1.4.1.3 Tình hình nghe kém ở trẻ dưới 6 tuổi Một nghiên cứu thuần tập ở Atlanta, Mỹ ở trẻ từ 3-10 tuổi cho thấy tỷ lệ trẻ bị nghe kém nặng tăng dần theo độ tuổi, từ 0,67/1000 trẻ 3 tuổi đến 1,38/1000 ở trẻ 10 tuổi. Nghiên cứu cũng cho thấy nghe kém mức độ vừa là mức độ chủ yếu trong các mức độ nghe kém (46%). Các nước
  5. 3 có thu nhập thấp có tỷ lệ nghe kém ở trẻ em cao hơn ở các nước phát triển. 1.4.2 Tình hình nghe kém ở Việt Nam Ở Việt Nam còn ít các nghiên cứu về giảm thính lực ở trẻ em. Năm 2001, tác giả Lê Thị Lan và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu phản ứng thính giác trên 900 trẻ sơ sinh có nguy cơ cao tại bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em bằng chuông tự tạo. Kết quả cho thấy tỷ lệ không đáp ứng với âm thanh ở trẻ sơ sinh có nguy cơ cao là 4,4%. Phạm Thị Cơi và cộng sự đã xác định vai trò của âm phát ốc tai kích thích trong đánh giá thính giác ở 823 trẻ dưới 5 tuổi được chọn ngẫu nhiên tại Bắc Ninh, Thái Nguyên và Phú Thọ, kết quả cho thấy 4,87% cho kết quả nghi ngờ giảm thính lực cần phải kiểm tra lại. Gần đây, một nghiên cứu sàng lọc nghe kém ở trẻ sơ sinh đã được tiến hành với 12.202 trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội bằng phương pháp đo âm ốc tai cho thấy, có tới 3,4% trẻ sơ sinh có nghi ngờ bị giảm thính lực. 1.5. Các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ 1.5.1 Các yếu tố bẩm sinh 1.5.1.1 Yếu tố liên quan đến di truyền Khoảng 50% tất cả các trường hợp nghe kém bẩm sinh là do di truyền. Trong số đó, khoảng 70% nhiếm sắc thể (NST) thường dạng trội và 1 - 2% di truyền qua NST giới tính X. Nghe kém nằm trong hội chứng chiếm 30% tổng số điếc di truyền. 1.5.1.2 Yếu tố nguy cơ trong quá trình mang thai 1.5.1.2.1 Nhiễm khuẩn trong quá trình mang thai
  6. 4 Bà mẹ bị một số bệnh nhiễm trùng như Rubella, giang mai trong quá trình mang thai có thể là nguyên nhân gây nghe kém hoặc điếc ở những đứa trẻ do họ sinh ra. 1.5.1.2.2 Dùng thuốc trong quá trình mang thai Sử dụng một số loại thuốc gây ngộ độc như nhóm aminoglycosides, cytotoxic, thuốc điều trị sốt rét và thuốc lợi tiểu trong quá trình mang thai có nguy cơ gây nghe kém bẩm sinh. 1.5.1.3 Yếu tố nguy cơ trong khi sinh 1.5.1.3.1 Đẻ non, cân nặng sơ sinh thấp Mối liên quan giữa trẻ sơ sinh đẻ non, cân nặng thấp lúc sinh (<1500g) và giảm thính lực đã được nêu ra trong nhiều nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên cơ chế thực chất của mối liên quan này vẫn còn chưa được hiểu rõ. 1.5.1.3.2 Thiếu Oxy Những trẻ sơ sinh bị thiếu oxy hay ngạt các tế bào hạch ốc tai sẽ bị ảnh hưởng trước tiên. Thiếu oxy nặng hơn sẽ gây phá hủy ốc tai, đặc biệt là các tế bào lông ngoài và lớp vân mạch máu. Tuy nhiên cũng không có ngưỡng xác định về mức độ thiếu oxy gây ảnh hưởng đến thính lực. 1.5.1.3.3 Vàng da sau sinh Tăng Bilirubin tự do có thể gây tổn thương chọn lọc nhân thần kinh thính giác thân não và cũng có thể phá hủy dây thần kinh thính giác và tế bào hạch ốc tai do tác động làm ứ trệ canxi nội bào noron thần kinh. Cơ quan Corti và đường dẫn truyền thần kinh thính giác qua đồi thị -vỏ não thường không bị ảnh hưởng. Vàng da nặng trong giai đoạn
  7. 5 trẻ sơ sinh có thể gây tổn thương thần kinh nghe, qua đó gây nghe kém ở trẻ. 1.5.2. Các nguyên nhân mắc phải 1.5.2.1 Trẻ bị nhiễm khuẩn 1.5.2.1.1 Viêm màng não Viêm màng não (VMN) là một yếu tố quan trọng gây nghe kém ở trẻ em. Nó cũng là nguyên nhân thường gặp nhất gây nghe kém tiếp nhận mắc phải. Có khoảng 10% trẻ em bị nghe kém ở các mức độ khác nhau sau khi bị VMN. Trẻ em bị VMNM có nguy cơ bị điếc cao nhất. 1.5.2.1.2 Viêm tai mạn tính TCYTTG chỉ ra rằng, khoảng 90% ca mắc viêm tai tập trung ở các nước trong khu vực Đông Nam Á, Tây Thái Bình Dương và khu vực Châu Phi. 1.5.2.2 Tiền sử sử dụng thuốc ở trẻ em 1.5.2.2.1 Thuốc kháng sinh Các loại thuốc kháng sinh là lựa chọn tốt trong các điều trị nhiễm khuẩn, tuy nhiên chúng có thể gây ảnh hưởng đến bộ phận ốc tai và tiền đình. CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tượng nghiên cứu - Trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi - Các bà mẹ của trẻ đang học ở các trường mẫu giáo 2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn Trẻ có trong danh sách quản lý tại các trường mẫu giáo và các bà mẹ của trẻ đồng ý cho con tham gia vào nghiên cứu và trả lời phỏng vấn
  8. 6 2.2 Địa điểm nghiên cứu Các trường mẫu giáo tại các quận nội thành Hà Nội. 2.3 Thời gian nghiên cứu Từ tháng 6/2011 đến tháng 02/2012 2.4 Thiết kế nghiên cứu - Nghiên cứu mô tả cắt ngang (phục vụ cho mục tiêu 1) - Nghiên cứu bệnh chứng (phục vụ cho mục tiêu 2) 2.5 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu 2.5.1 Cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả cắt ngang: Sử dụng công thức tính cỡ mẫu xác định tỷ lệ như sau: Trong đó: n: là cỡ mẫu tối thiểu : Độ tin cậy ở ngưỡng 95%, với α = 0,05, thì = 1,96 p: tỷ lệ nghe kém ước tính ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo, ước tính p = 0,015 d: độ sai lệnh ước tính, d = 0,003 Thay số vào ta có: Sau khi tính, làm tròn số, cộng thêm 10% số học sinh dự tính có thể bỏ cuộc thì số trẻ cần có cần cho nghiên cứu là 7000 trẻ (thực tế nghiên cứu đã tiến hành trên 7.191 trẻ)
  9. 7 2.5.2 Cỡ mẫu cho nghiên cứu bệnh chứng Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu bệnh – chứng như sau: Trong đó: n: Cỡ mẫu tối thiểu r: Tỷ số cỡ mẫu giữa 2 nhóm, trong nghiên cứu này thiết kế nghiên cứu bệnh:chứng theo tỷ lệ 1:2, do đó r=2 β: Lực mẫu, lấy 80,0%, do đó Z=0,84 α = 0,05, do đó Zα/2 = 1,96 OR: Tỷ suất chênh mong muốn, lấy OR = 3 p: Tỷ lệ mắc viêm tai giữa mạn ở trẻ em, ước tính p = 4,0% Thay số vào ta có Như vậy cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu này là 762 trẻ, trong đó nhóm bệnh cần ít nhất 254 trẻ nghe kém, nhóm chứng cần ít nhất 508 trẻ không nghe kém. Định nghĩa ca bệnh: - Là những trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi có kết quả đo OAE lần 1 âm tính trong sàng lọc nghe kém ở cộng đồng (mô tả ở mục tiêu 1), và có kết quả OAE lần 2 âm tính và được xác định nghe kém qua đo ABR hoặc đơn âm tại phòng cách
  10. 8 âm chuẩn tại Trung tâm thính học của Bệnh viện Nhi Trung ương - Có mẹ đẻ của trẻ trả lời phỏng vấn. Định nghĩa ca chứng: - Là những trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội - Học cùng lớp với trẻ bị nghe kém - Được xác định không bị nghe kém trong đo âm ốc tai sàng lọc (OAE (+)) tại cộng đồng (mô tả ở mục tiêu 1) - Có mẹ đẻ của trẻ trả lời phỏng vấn Thực tế trong nghiên cứu này, tất cả 314 trẻ được khẳng định nghe kém qua đo ABR, hoặc đo đơn âm (nhóm bệnh) và 628 trẻ không nghe kém (nhóm chứng) đã được mời tham gia nghiên cứu 2.6 Phương pháp thu thập số liệu Đo âm ốc tai của trẻ sử dụng máy đo OAE Điều tra viên sẽ mang máy đo OAE đến các trường mẫu giáo đã được chọn và tiến hành đo âm ốc tai trẻ theo quy trình chuẩn. Khám và đo thính lực Những trẻ có kết quả đo âm ốc tai OAE âm tính lần 1 (lần đo tại các trường) sẽ được mời về Bệnh viện Nhi Trung ương để đo âm ốc tai kích thích lần 2 (OAE lần 2) và tiến hành khám thính lực. Phỏng vấn Phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ của trẻ trong đối tượng nghiên cứu, sử dụng bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn nhằm
  11. 9 thu thập thông tin về tuổi, giới, trường học của trẻở tất cả các trẻ. 2.7 Công cụ thu thập số liệu - Bộ câu hỏi được thiết kế sẵn - Máy đo OAE loại GSI, Audx của Mỹ - Máy đo ABR, đơn âm loại GSI của Mỹ - Bệnh án mẫu nghiên cứu được thiết kế sẵn CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ 3.1. Đặc điểm của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi 3.1.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Tổng số có 7191 trẻ em ở 5 quận tham gia vào nghiên cứu đáp ứng cỡ mẫu theo yêu cầu, số trẻ phân bố được chọn vào nghiên cứu của các quận không có sự khác biệt. 3.1.2 Kết quả khám sàng lọc tại cộng đồng (đo âm Ốc tai lần 1) Sàng lọc được 337 trẻ có kết quả OAE (-) chiếm tỷ lệ 4,7%. Trẻ 2 tuổi chiếm tỷ lệ 8,1%. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ. 3.1.2.4 Kết quả khám tại Bệnh viện Nhi (đo âm Ốc tai lần 2) Trong tổng số 337 trẻ có kết quả đo âm Ốc tai âm tính lần 1, sau khi được khám tai và được đo OAE lần 2 tại phòng cách âm chuẩn của Trung tâm thính học có 314 trẻ có kết quả OAE (-), chiếm 93,2%. Tỷ lệ trẻ có kết quả OAE (+) lần 2 là 6,8%. 3.1.3 Đặc điểm nghe kém của trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội qua đo ABR hoặc đơn âm 3.1.3.1 Tỷ lệ nghe kém theo quận
  12. 10 Bảng 3.1: Tỷ lệ nghe kém theo quận (n=7191) Quận Không nghe kém Nghe kém Số trẻ % Số trẻ % Ba Đình 1.454 95,4 70 4,6 Tây Hồ 1.480 96,0 62 4,0 Đống Đa 1.118 95,5 53 4,5 Thanh Xuân 1.388 95,6 64 4,4 Hoàng Mai 1.437 95,7 65 4,3 Tổng 6.877 95,6 314 4,4 Toàn bộ 314 trẻ có kết quả OAE (-) lần 2 được đo và khám thính lực tại phòng cách âm tuyệt đối của bệnh viện Nhi Trung ương nhằm xác định tỷ lệ nghe kém và đặc điểm nghe kém của nhóm đối tượng này. Kết quả cho thấy toàn bộ 314 trẻ có kết quả OAE lần 2 âm tính đều được xác định là trẻ nghe kém sử dụng phương pháp đo ABR hoặc đơn âm. 3.1.3.2 Tỷ lệ nghe kém theo lứa tuổi
  13. 11 Tỷ lệ % 10 7,9 8 6 5,4 4 3,1 2 Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ nghe kém theo lứa tuổi (n=7.191) Trẻ 2 tuổi có tỷ lệ nghe kém cao nhất (7,9%), tiếp đó là trẻ 3 tuổi (5,4%), trẻ 4 và 5 tuổi có tỷ lệ nghe kém thấp hơn, 3,1% và 3,9%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. 3.1.3.5 Đặc điểm nghe kém theo vị trí tai và giới Bảng 3.7: Đặc điểm trẻ nghe kém theo vị trí tai và giới Nam (176) Nữ (138) Chung (314) Đặc điểm Số % Số % Số % trẻ trẻ trẻ Chỉ nghe 22 12,5 19 13, 41 13,0 kém tai phải 8 Chỉ nghe 32 18,2 21 15, 53 16,9 kém tai trái 2 Nghe kém 122 69,3 98 71, 220 70,1 cả 2 tai 0
  14. 12 Tổng 176 56,1 138 43, 314 100 Kết quả nghe kém theo vị trí tai cho thấy nghe kém cả hai tai là nghe kém phổ biến nhất ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội, chiếm 70,1%, tiếp đến là nghe kém tai trái (16,9%). Chỉ nghe kém tai phải là nghe kém thấp nhất, chỉ 13,0%. Tỷ lệ nghe kém theo vị trí tai ở nam và nữ là gần như nhau và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 3.1.3.8 Mức độ nghe kém của trẻ Bảng 3.10: Mức độ nghe kém của trẻ theo giới (n=314) Mức độ Nam Nữ Chung nghe kém Số (%) Số (%) Số (%) trẻ trẻ trẻ Nghe kém 80 45,5 64 46,4 144 45,9 nhẹ (từ 21 - ≤40 dB) Nghe kém 72 40,9 59 42,8 131 41,7 vừa (từ 41- 70 dB) Nghe kém 24 13,6 15 10,9 39 12,4 nặng đến sâu (≥70dB) Nghe kém mức độ nhẹ là mức độ nghe kém phổ biến nhất, chiếm 45,9% trong tổng số nghe kém, tiếp đó là nghe kém mức độ vừa, chiếm 41,7%, nghe kém nặng đến sâu có tỷ lệ
  15. 13 thấp nhất, chỉ 12,4%. Trẻ em nam có tỷ lệ nghe kém mức độ nhẹ và vừa thấp hơn trẻ em nữ, 45,5% so với 46,4% nghe kém mức độ nhẹ và 40,9% so với 42,8% nghe kém mức độ vừa. Tuy nhiên trẻ em nam có mức độ nghe kém nặng và sâu cao hơn trẻ em nữ, lần lượt là 13,6% và 10,9%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 3.1.3.9. Hình thức nghe kém Bảng 3.12: Hình thức nghe kém theo giới (n = 314) Nam Nữ Chung Hình thức nghe kém Số (%) Số (%) Số (%) lượng lượng lượng Nghe kém 124 70,5 97 70,3 221 70,4 dẫn truyền Nghe kém 24 13,6 16 11,6 40 12,7 tiếp nhận Nghe kém 28 15,9 25 18,1 53 16,9 hỗn hợp Tổng 176 100 138 100 314 100 Nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe kém phổ biến nhất (70,4%), tiếp đến là nghe kém hỗn hợp (16,9%). Nghe kém tiếp nhận là hình thức nghe kém ít gặp nhất, chiếm 12,7%. Nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe kém phổ biến nhất ở trẻ em nam và trẻ em nữ. Trẻ em nam bị nghe
  16. 14 kém tiếp nhận cũng cao hơn trẻ em nữ. Tuy nhiên tỷ lệ trẻ em nữ nghe kém hỗn hợp là 18,1%, cao hơn trẻ em nam là 15,9%. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 3.2 Phân tích các yếu tố nguy cơ tới tình trạng nghe kém ở trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi 3.2.2 Xác định các yếu tố nguy cơ của nghe kém
  17. 15 3.2.2.1Các yếu tố trước sinh Bảng 3.19: Mối liên quan giữa tiền sử mẹ bị bệnh khi mang thai và nguy cơ nghe kém ở trẻ Nghe kém Không nghe kém OR Yếu tố nguy cơ Số lượng (%) Số lượng (%) (95% CI) Tiền sử mẹ bị Có 6 1,9 4 0,6 3,03 cúm Không 308 98,2 624 99,4 (0,85-10,84) Tiền sử mẹ bị Có 7 2,2 3 0,5 4,75 Rubella Không 307 97,8 623 99,5 (1,22–18,49) Tiền sử mẹ bị sốt Có 2 0,6 1 0,2 4,02 Không 312 99,4 627 99,8 (0,36–44,49) Tiền sử gia đình Có 0 0 0 0 có người nghe Không 314 100 628 100 kém, điếc
  18. 16 Tiền sử mẹ bị Rubella trong quá trình mang thai là yếu tố nguy cơ của nghe kém. Những trẻ có mẹ có bị Rubella trong quá trình mang thai có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 4,75 lần trẻ không có mẹ bị Rubella (OR=4,75 [1,22–18,49]). 3.2.2.2 Các yếu tố khi sinh Bảng 3.20: Mối liên quan giữa tiền sử khi sinh và nguy cơ nghe kém ở trẻ Nghe kém Không nghe kém OR Yếu tố Số lượng (%) Số lượng (%) (95% CI) Tuổi thai Thiếu tháng(<37 tuần) 7 2,2 3 0,5 4,75 Đủ tháng (≥37 tuần) 307 97,8 625 99,5 1 Cân nặng < 2500 gam 10 3,2 6 1,0 3,41 khi sinh ≥ 2500 gam 304 96,8 624 99,4 1 Cách thức Sinh thường 117 37,3 260 41,4 0,84 sinh Can thiệp 197 62,7 368 58,6 1
  19. 17 Thở O2 Có 14 4,5 2 0,3 14,70 sau sinh Không 300 95,5 626 99,7 (3,32-65,11) Vàng da Có 25 8,0 6 1,0 8,96 sau sinh Không 279 92,0 622 99,0 (3,63-22,09) So với những trẻ sinh đủ tháng (≥37 tuần tuổi), những trẻ sinh thiếu tháng (<37 tuần tuổi) có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 4,75 lần (OR=4,75 [1,22–18,49]). Trẻ khi sinh có cân nặng <2500g có nguy cơ bị mắc bệnh cao gấp hơn 3 lần so với những trẻ khi sinh có cân nặng ≥ 2500g (OR=3,41 [1,22 – 9,47]). Những trẻ phải can thiệp thở O2, bị ngạt sau khi sinh là yếu tố nguy cơ quan trọng của tình trạng nghe kém (OR=14,70 [3,32-65,11]. Những trẻ bị vàng da sau khi sinh phải điều trị có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 8,96 lần so với những trẻ không bị.
  20. 18 3.2.2.3 Các yếu tố sau sinh Bảng 3.21: Mối liên quan giữa các yếu tố sau sinh và nguy cơ nghe kém ở trẻ Nghe kém Không nghe kém OR Bệnh ở trẻ em Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) (95% CI) Có 1 0,2 0 0 Sởi Không 313 99,8 628 100 Có 6 1,9 4 0,6 3,03 Sốt phát ban Không 308 98,1 624 99,4 (0,85-10,84) Có 0 0 0 0 Ho gà Không 314 100 628 100 Có 0 0 0 0 Bạch hầu Không 314 100 628 100
  21. 19 Có 0 0 0 0 Quai bị Không 314 100 628 100 Có 3 1,0 1 0,2 6,04 Viêm não Không 311 99,0 627 99,8 (0,62-58,38) Viêm màng Có 12 3,8 2 0,3 12,43 não Không 302 96,2 626 99,7 (2,76-55,92) Trẻ bị bệnh Có 177 56,4 70 11,1 10,29 tai Không 137 43,6 558 88,9 (7,37-14,38) Kết quả phân tích không xác định được các yếu tố liên quan tới tình trạng nghe kém ở những trẻ bị mắc bệnh sởi, sốt phát ban, ho gà, bạch hầu, quai bị và viêm não. Các yếu tố trẻ bị vàng da sau sinh phải điều trị, trẻ bị VMN và trẻ bị bệnh ở tai là các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em.
  22. 20 3.2.2.4 Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh, trong sinh và sau sinh tới nghe kém ở trẻ - mô hình phân tích hồi quy đa biến Bảng 3.23: Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh, trong sinh và sau sinh tới nghe kém ở trẻ - mô hình phân tích hồi quy đa biến, Mô hình 2 Yếu tố OR hiệu 95%CI chỉnh Mẹ bị Rubella khi mang 11,73 2,90 – 47,33 thai Trẻ phải thở Oxy sau 13,89 2,72 – 70,82 sinh Trẻ bị vàng da sau sinh 13,47 5,09 – 35,59 phải điều trị Trẻ bị viêm màng não 26,44 5,65 – 123,59 Trẻ bị bệnh tai 14,03 9,85 – 19,97 Các yếu tố có ý nghĩa thống kê trong mô hình đơn biến được đưa vào mô hình phân tích hồi quy đa biến. Kết quả cho thấy 5 yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em bao gồm: trẻ có mẹ bị Rubella khi mang thai (OR= 11,73, 95%CI: 2,90 – 47,33), trẻ phải thở Oxy sau sinh hoặc bị vàng da sau sinh phải điều trị đều có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 13 lần so với những trẻ không bị, trẻ bị VMN có nguy cơ nghe kém cao hơn 26,44 lần so với những trẻ
  23. 21 không bị (OR=26,44 [5,65 – 123,59], trẻ bị bệnh ở tai có nguy cơ nghe kém cao gấp hơn 14 lần trẻ không bị bệnh ở tai (OR=14,03 [9,85 – 19,97]. CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN 4.1 Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội 4.1.1 Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Trong nghiên cứu này 7191 trẻ từ 2 đến 5 tuổi ở các trường mẫu giáo thuộc 5 quận là Ba Đình, Tây Hồ, Đống Đa, Thanh Xuân và Hoàng Mai được sàng lọc nghe kém. Trong số trẻ được sàng lọc nghe kém, trẻ 2 tuổi có số lượng thấp nhất (9,7%) và số lượng trẻ tăng dần theo tuổi, cao nhất ở trẻ 5 tuổi có số lượng cao nhất (33,7%). 4.1.2.Tỷ lệ nghe kém qua sàng lọc bằng phương pháp OAE Kết quả sàng lọc giảm thính lực bằng đo âm ốc tai kích thích lần 1 với 7.191 trẻ mẫu giáo cho thấy có 337 trẻ có kết quả âm ốc tai kích thích âm tính (OAE(-)), chiếm 4,7%. Tuy nhiên trong lần đó OAE thứ 2 đối với tất cả 337 trẻ này chỉ có 314 trẻ có kết quả OAE (-), chiếm 93,2% số trẻ OAE (-) trong lần 1. Kết quả của nghiên cứu này tương tự kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Cơi và cs năm 2001 về đánh giá vai trò của âm ốc tai trong thính học tại cộng đồng ở 3 tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên và Phú Thọ trên 823 trẻ dưới 5 tuổi với tỷ lệ trẻ có kết quả OAE (-) là 4,87%. Nghiên cứu giảm thính lực ở trẻ sơ sinh bằng đo âm ốc tai sàng lọc cho trẻ sơ sinh tại Hà Nội của Nguyễn Thu Thủy cho thấy trong số 11.789 trẻ sơ sinh được đo OAE sàng lọc 1 lần,
  24. 22 có 413 trẻ, chiếm 3,4% số trẻ sơ sinh có kết quả sàng lọc âm tính. 4.1.3 Tỷ lệ nghe kém qua đo OAE theo tuổi Trong nghiên cứu này, trẻ 2 tuổi có kết quả OAE (-) cao nhất, chiếm 7,9%. Kết quả này tương tự nghiên cứu ở Mỹ cho thấy, trẻ 2 tuổi là tuổi có tỷ lệ OAE(-) cao nhất, chiếm 10,5%. Tỷ lệ OAE (-) có xu hướng giảm dần theo độ tuổi tăng dần. 4.1.5 Nghe kém theo vị trí tai Kết quả sàng lọc nghe kém qua đo OAE cho thấy nghe kém cả 2 tai là hình thức nghe kém phổ biến nhất, chiếm 70,1% tổng số nghe kém. Chỉ nghe kém tai phải hoặc tai trái chiếm tỷ lệ thấp 13,0% và 16,9%. Kết quả này cũng tương tự các kết quả nghiên cứu trước đây qua sàng lọc nghe kém bằng đo âm ốc tai. Nghiên cứu của Nguyễn Thu Thủy (2005) cho thấy nghe kém cả 2 tai chiếm 85,0%, chỉ nghe kém tai phải hoặc tai trái chỉ chiếm 15,0%. Tương tự như vậy, sàng lọc nghe kém ở trẻ sơ sinh tại Thái Bình cũng cho thấy trẻ có kết quả OAE âm tính ở cả 2 tai chiếm tỷ lệ cao nhất (51,6%). Nghiên cứu của Olusanya (2008) tại Nigeria cũng cho thấy nghe kém cả 2 tai chiếm đa số ở trẻ nhỏ bị nghe kém (83,9%). 4.1.6 Mức độ nghe kém ở trẻ mẫu giáo Tất cả trẻ em được xác định có nghe kém qua đo OAE lần 2 tại Trung tâm thính học tiếp tục được đo bằng các xét nghiệm chuyên sâu hơn như ABR hoặc đơn âm nhằm xác định trẻ thực sự có nghe kém và mức độ nghe kém của trẻ. Kết quả cho thấy nghe kém mức độ nhẹ (21- ≤40 dB)
  25. 23 là mức độ nghe kém phổ biến nhất (45,9%) sau đó là mức độ nghe kém vừa (41,7%), đặc biệt trẻ có mức độ nghe kém nặng đến sâu (>70dB) chiếm tới 12,4%. 4.1.7 Hình thức nghe kém ở trẻ mẫu giáo Tương tự nhiều nghiên cứu khác trên thế giới và tại Việt Nam, nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe phổ biến nhất so với nghe kém tiếp nhận và nghe kém hỗn hợp (dẫn truyền và tiếp nhận). Như trên đã đề cập, ở nước ta, phần lớn các nghiên cứu chỉ tiến hành sàng lọc giảm thính cho trẻ bằng phương pháp OAE, do đó không cho biết cụ thể về hình thức giảm thính ở đối tượng nghiên cứu. Chính vì vậy, rất ít tài liệu tham khảo được tìm thấy nhằm bàn luận với kết quả của nghiên cứu này. 4.2 Các yếu tố nguy cơ nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2- 5 tuổi nội thành Hà Nội 4.2.1 Các yếu tố trước sinh Trong nghiên cứu này yếu tố tiền sử mẹ bị rubella trong khi mang thai là yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ, OR=4,75 (1,22-18,49). Hơn thế nữa trong mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến, sau khi kiểm soát các yếu tố trong quá trình sinh và sau sinh cho thấy trẻ có mẹ bị nhiễm rubella trong khi mang thai có khả năng bị nghe kém cao gấp gần 12 lần trẻ không có mẹ bị nhiễm rubella (OR=11,73 95%CI: 2,90-47,33). Lê Thị Thu Hà (2011) nghiên cứu trẻ sơ sinh có nguy cơ cao đã cho thấy trẻ có mẹ bị nhiễm vi rút (chủ yếu là rubella) trong thai kỳ có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 7,97 lần so với những trẻ có mẹ không bị (OR=7,97, 95%CI: 3,69-17,2).
  26. 24 4.2.2 Các yếu tố trong khi sinh 4.2.2.1 Tuổi thai và cân nặng sơ sinh Trong phân tích đơn biến tìm yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ từ 2-5 tuổi ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội cho thấy tuổi thai khi sinh là yếu tố nguy cơ của nghe kém, với những trẻ sinh đủ tháng từ 37 tuần trở lên, trẻ sinh thiếu tháng (<37 tuần) có khả năng bị nghe kém cao gấp gần 5 lần (OR=4,75, 95%CI [1,22-18,49]). Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt với những nghiên cứu trước đây về yếu tố nguy cơ này. Kết quả nghiên cứu cắt ngang sàng lọc bằng OAE ở trẻ sơ sinh tại Hà Nội cũng cho thấy trẻ đẻ non dưới 37 tuần có kết quả OAE (-) cao gấp 9,01 lần trẻ đủ tháng (≥37 tuần), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với p <0,05). Tương tự như tuổi thai, trong phân tích đơn biến ở nghiên cứu này cũng cho thấy trẻ có cân nặng khi sinh dưới 2500 gam có khả năng bị nghe kém cao gấp 3,41 lần so với trẻ có cân nặng sơ sinh từ 2500 gam trở lên, (95%CI: 1,22-9,47). 4.2.2.2 Thở Oxy sau sinh Trong mô hình hồi quy logistic đa biến cho thấy trẻ được can thiệp thở Oxy có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 13,89 lần so với trẻ không có can thiệp thở oxy sau khi sinh (95%CI: 2,72-70,82). Tương tự, một nghiên cứu khác ở Hà Nội cũng cho thấy trẻ sơ sinh bị ngạt khi sinh có có kết quả đo OAE sàng lọc âm tính lớn gấp 7,23 lần trẻ sơ sinh không bị ngạt (95%CI: 2,64-18,72). Bên cạnh đó nghiên cứu cũng cho thấy trẻ sơ sinh phải thở máy có
  27. 25 nguy cơ bị nghe kém cao gấp 22,51 lần trẻ sơ sinh không phải thở máy (95%CI: 10,24-49,13) [37]. Nghiên cứu ở Mỹ cho thấy yếu tố can thiệp thở Oxy kéo dài là yếu tố nguy cơ quan trọng gây nghe kém ở trẻ phải điều trị tích cực, OR: 4,61 (95%CI: 1.98-10.71). 4.2.2.3 Vàng da sau sinh phải điều trị Nghiên cứu này cho thấy vàng da sau sinh phải điều trị tại các cơ sở y tế là một yếu tố nguy cơ của tình trạng nghe kém ở trẻ mẫu giáo tại các trường công lập nội thành Hà Nội, với nguy cơ bị nghe kém cao gấp 13,47 lần trẻ không bị (95%CI: 5,09-35,59). Nghiên cứu sàng lọc trẻ nghe kém tại Hà Nội có 100 trẻ bị vàng da sơ sinh bất thường phải điều trị (chiếu đèn, truyền dịch ) tại khoa hồi sức sơ sinh, trong đó 52 trẻ có kết quả đo OAE (-). Nguy cơ trẻ có nghi ngờ giảm thính lực trong nghiên cứu này ở trẻ vàng da sơ sinh bất thường phải điều lớn gấp 35,23 lần trẻ không bị. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà (2011) cũng cho thấy vàng da tăng bilirubin tự do không phải là yếu tố nguy cơ của giảm thính lực. Tuy nhiên vàng da do tăng bilirubin tự do phải thay máu và có vàng nhân não ở trẻ có nguy cơ cao đều là yếu tố nguy cơ của nghe kém (OR=5,3, 95%CI: 4,19-6,72). 4.2.3 Các yếu tố sau sinh 4.2.3.1 Trẻ bị viêm màng não Trong mô hình phân tích đơn biến và hồi quy logistic đa biến đều cho thấy trẻ bị VMN là một yếu tố nguy cơ của nghe kém. Kết quả nghiên cứu này cũng giống với y văn trên thế giới và tại Việt Nam. Nghiên cứu bệnh chứng
  28. 26 tại Mexico cho thấy nghe kém tiếp nhận là loại nghe kém thường gặp ở trẻ phải điều trị tại các đơn vị điều trị tích cực. VMN là một yếu tố nguy cơ quan trọng của những trẻ nghe kém này, OR= 4,368, 95% CI:1,7-10,9. 4.2.3.2 Trẻ bị bệnh ở tai Tương tự các nghiên cứu trước đây về mối liên quan giữa các bệnh ở tai như viêm tai giữa, viêm tai thanh dịch với tình trạng nghe kém, trong nghiên cứu của chúng tôi, mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy trẻ bị các bệnh ở tai có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 14 lần trẻ không bị bệnh ở tai (95%CI : 9,85-19,97). Chúng tôi nhận thấy 56,4% trẻ ở nhóm bệnh đã từng bị bệnh ở tai, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm chứng là 11,1%. Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy bệnh ở tai là bệnh thường gặp ở lứa tuổi trẻ em, đặc biệt là trẻ mẫu giáo. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài An (2003) tại một số phường của Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc viêm tai giữa ứ dịch kéo dài là 8,9%, trong đó trẻ 2 tuổi có tỷ lệ mắc cao nhất, chiếm 12,21%. KẾT LUẬN 1. Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo tại các trường mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội năm 2011 – 2012. 1.1 Tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội năm 2011- 2012 là 4,4%, trong đó tỷ lệ nghe kém ở trẻ em nam và trẻ em nữ lần lượt là 4,7% và 4,0%. 1.2 Nghe kém cả hai tai là hình thức nghe kém phổ biến nhất, chiếm 70,1%. Chỉ nghe kém một tai phải hoặc tai trái chiếm tỷ lệ thấp, lần lượt là 13,0% và 16,9%.
  29. 27 1.3 Nghe kém mức độ nhẹ chiếm 41,9%, nghe kém vừa chiếm 41,7%. Nghe kém nặng đến sâu chiếm 12,4% trong tổng số trẻ nghe kém. 1.4 Nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe kém thường gặp nhất ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội bị nghe kém, chiếm hơn 70% tổng số nghe kém. Nghe kém tiếp nhận và hỗn hợp chiếm tỷ lệ lần lượt là 12,7% và 16,9%. 2. Một số yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi khu vực nội thành Hà Nội 2.1 Mẹ bị nhiễm rubella trong khi mang thai (OR = 11,73, 95%CI: 2,90 – 47,33). 2.2 Trẻ phải can thiệp thở Oxy sau khi sinh (OR = 13,89 , 95%CI: 2,72 – 70,82). 2.3 Trẻ bị vàng da sau sinh bất thường phải điều trị (OR = 13,47 , 95%CI: 5,09 – 35,59). 2.4 Trẻ bị viêm màng não (OR = 26,44 , 95%CI: 5,65 – 123,59). 2.5 Trẻ bị bệnh ở tai (OR = 14,03 , 95%CI: 9,85 – 19,97). KHUYẾN NGHỊ 1. Những trẻ có các yếu tố nguy cơ nghe kém như mẹ bị nhiễm rubella, thở oxy sau sinh, vàng da bất thường sau sinh, viêm màng não và các bệnh ở tai cần được kiểm tra thính lực sớm tại các Trung tâm thính học. 2. Cần đưa các hoạt động sàng lọc trẻ nghe kém thành một chương trình trong những nội dung chăm sóc sức khỏe trẻ em của các ngành y tế, giáo dục, dân số và kế hoạch hóa gia đình.
  30. DANH MỤC CÁC SẢN PHẨM LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ Bài báo khoa học 1. Nguyễn Tuyết Xương, Nguyễn Anh Dũng, Khu Thị Khánh Dung (2014), “Tổng quan các nguyên nhân nghe kém ở trẻ em”, Tạp chí Y học thực hành, 1(902), tr. 19-23 2. Nguyễn Tuyết Xương, Nguyễn Anh Dũng, Khu Thị Khánh Dung (2014), “Tỷ lệ nghe kém và một số đặc điểm nghe kém ở trẻ từ 2 – 5 tuổi tại các trường mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội”, Tạp chí Y học Việt Nam, 1 (414), tr.15-19 3. Nguyễn Tuyết Xương, Nguyễn Anh Dũng, Khu Thị Khánh Dung , Nguyễn Đức Trọng (2014), “Các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội”, Tạp chí Y học dự phòng, 2 (151), tr.76-80