Luận văn Thạc sĩ kinh tế ngành Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường

pdf 104 trang tranphuong11 27/01/2022 4650
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thạc sĩ kinh tế ngành Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_thac_si_kinh_te_nganh_kinh_te_tai_nguyen_thien_nhie.pdf

Nội dung text: Luận văn Thạc sĩ kinh tế ngành Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường

  1. Luận văn thạc sĩ Trang 1 Ngành: Kinh tế TNTN&MT CHƯƠNG 1 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1.1. Thực trạng việc quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam Hiện nay Việt nam vẫn là một nước đang phát triển, một đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh đô hộ và tàn dư của các cuộc chiến tranh để lại vẫn còn rất nặng nề. Hệ thống khung pháp luật chưa hoàn chỉnh, các chính sách về các lĩnh vực cũng đang được Nhà nước rất quan tâm nghiên cứu. Trong các lĩnh vực được quan tâm trong đó có lĩnh vực quản lý tài nguyên môi trường đang được đề cập nhiều để đưa ra những chính sách phù hợp với điều kiện thực tế phát triển đất nước. Ở đây tác giả xin được đi sâu vào lĩnh vực tài nguyên nước và sau đây là tóm lược hiện trạng ngành nước của Việt Nam trong điều kiện dân số, sự tăng trưởng và thay đổi cơ cấu kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Mục này tập trung vào cách tiếp cận Quản lý Tài nguyên Nước Tổng hợp (QLTNNTH) để quản lý, và có những thay đổi tổ chức cần thiết đối với ngành nước để Việt Nam có thể nắm bắt và đi theo cách tiếp cận mới này. Nó nêu ra mối quan hệ tổng thể và những vấn đề liên quan cần phải được đưa vào một chương trình cải tổ ngành. 1.1.2. Bối cảnh phát triển Việt Nam hiện đang là nước đông dân số thứ 5 trên thế giới. Năm 2009, dân số Việt Nam là trên 86 triệu người – dự báo sẽ đạt đến con số 100 triệu người trong vòng 20 năm tới và sẽ ổn định quanh mức 120 triệu người vào giữa thế kỷ này. Tuy nhiên, mặc dù cứ một năm dân số lại tăng 1 triệu người, tốc độ tăng dân số đã giảm đáng kể trong thập niên 90 của Thế kỷ 20 vừa qua. Khoảng một phần ba dân số hiện nay đang sinh sống ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình, gần 21% ở Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) và 15% ở lưu vực sông Đồng Nai. Phân bố dân cư đang có sự chuyển dịch từ nông thôn ra thành thị và đến các vùng kinh tế mới. Trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2005, dân số thành thị tăng Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  2. Luận văn thạc sĩ Trang 2 Ngành: Kinh tế TNTN&MT từ 15 triệu lên 22,4 triệu đã tạo nên một áp lực lớn cho đầu tư cơ sở hạ tầng và làm gia tăng ô nhiễm môi trường. Trên phạm vi toàn quốc, luôn có một lượng người di cư đều đặn từ Bắc vào Nam. Có bốn vùng chủ yếu thu hút làn sóng di cư: vùng đô thị thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, và các tỉnh Tây Nguyên. Trong vòng 20 năm tới, lượng dân số gia tăng trên sẽ đòi hỏi một lượng nước từ 4 đến 4,5 triệu m³ ngày đêm, hay 8–9 triệu m³/ngày đêm nếu tính cả nhu cầu cho các hoạt động sản xuất công nghiệp đi kèm – gấp đôi khả năng cấp nước hiện tại. Các trung tâm đô thị cũng đang thải ra ra lượng nước thải rất lớn, trong khi đó, trên toàn quốc chỉ vài phần trăm lượng nước thải này được xử lý trước khi đưa vào nguồn nước thiên nhiên. Khối lượng đầu tư cần thiết để đáp ứng các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MTTNK) của Việt Nam về cấp nước và vệ sinh nông thôn và đô thị tới năm 2020 ước tính là 600 triệu USD mỗi năm – gấp gần 4 lần đầu tư hàng năm trong hơn 10 năm qua. Khoản đầu tư trong quá khứ, đặc biệt là cho khu vực đô thị, chủ yếu là từ nguồn vốn ODA (gần 85% trong số 1 tỷ USD được đầu tư). Rõ ràng một trong những áp lực lớn nhất đến tài nguyên nước và ngành nước là do sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, và thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Sự phát triển mạnh kinh tế dẫn đến việc tiêu thụ ngày càng nhiều nguồn tài nguyên, đòi hỏi một nguồn nước tốt hơn, tạo ra sự tập trung dân số lớn, và quan trọng hơn cả là tạo ra lượng nước thải bị ô nhiễm cùng các chất thải khác. Nền kinh tế đã và đang chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 7,5% và Dự báo trong hai năm tới đạt 6,4% – 6.7%. Với tốc độ tăng trưởng hiện tại, sản phẩm của kinh tế của Việt Nam sẽ tăng gấp đôi sau mỗi thời gian 10 năm. Trong vòng 10 năm qua, GDP đã tăng gần gấp 3 lần. Các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng trưởng mạnh. Sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng trưởng cao và ổn định. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản cũng có mức tăng trưởng cao nhưng với mức tăng thấp hơn. Cơ cấu tăng trưởng kinh tế trên phạm vi toàn quốc rất không đồng đều. Ví dụ, lưu vực sông Đồng Nai có mức phát triển nhanh hơn mức trung bình của cả nước, trong khi các lưu vực khác như sông Mã và Trà Khúc, lại là những lưu vực rất Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  3. Luận văn thạc sĩ Trang 3 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nghèo, với cơ cấu kinh tế tương tự với cơ cấu kinh tế của Việt Nam 15–20 năm trước. Ba lưu vực sông đóng góp trên 70% vào GDP của Việt nam là lưu vực sông Hồng-Thái Bình (25%), ĐBSCL (17%), và lưu vực sông Đồng Nai (28%). Tỉ trọng của Nhóm lưu vực sông Đông Nam bộ là 10%. Điều này cho thấy cơ cấu tăng trưởng kinh tế rất không đồng đều. Quan trọng là Việt nam cần nhận thức được sự khác biệt trên và cần ưu tiên phát triển tài nguyên nước để hỗ trợ cho cả người dân và phát triển kinh tế. Bước tiến của Việt nam vào một nền kinh tế thị trường vẫn trong giai đoạn quá độ. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn chiếm phần lớn trong nền kinh tế. Quá trình cải tổ các DNNN hay quá trình ‘cổ phần hóa” diễn ra chậm chạp trong những năm gần đây và đóng góp của các DNNN chiếm khoảng 39% cho cả GDP và đầu ra ngành công nghiệp và 35% tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm không phải là dầu mỏ. Khu vực các DNNN thường hoạt động kém hiệu quả hơn so với khu vực ngoài quốc doanh. Điển hình gần đây là việc thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của Tập Đoàn Công nghiệp Tầu thuỷ Việt Nam (VINASHIN), việc Kinh doanh thua lỗ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Việc đối xử thiên vị đối với các DNNN đã khiến khu vực ngoài quốc doanh mất đi nhiều cơ hội tăng trưởng. Các DNNN cũng sở hữu một số ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhất cả nước. Việc tiếp tục cải tổ các DNNN là rất cần thiết, vì nó sẽ tạo ra “sân chơi công bằng” giữa khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh. Chính phủ Việt Nam rõ ràng kỳ vọng tốc độ của cải tổ kinh tế sẽ được tiếp tục duy trì trong tương lai, điều này sẽ tạo nên áp lực lớn hơn cho tài nguyên nước. Trong các quy hoạch các ngành, chỉ đối với phát triển thủy điện tài chính mới không là vấn đề. Tất cả các quy hoạch các ngành khác dường như quá tham vọng và phần lớn không có nguồn vốn. Thủy điện là ngành có ảnh tác động lớn đến tài nguyên nước ở nhiều lưu vực sông. Trong những năm gần đây, phát triển thuỷ điện diễn ra nhanh và sẽ tiếp tục đà phát triển này. Sơ đồ Tổng quan VI ngành điện là quy hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu điện năng trong giai đoạn 2006–2015, trong quy hoạch có đưa ra kế hoạch xây dựng Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  4. Luận văn thạc sĩ Trang 4 Ngành: Kinh tế TNTN&MT thêm 26 hồ chứa, trong đó một số hồ chứa đang được xây dựng. So với các nước trên thế giới, Việt Nam là nước có tiềm năng thuỷ điện tương đối nhỏ - tối đa là 85.000 GWh/năm, so với 130.000 GWh/năm của Nhật Bản, 320.000 GWh/năm của Ấn Độ và 1.300.000 GWh/năm của Trung Quốc. Vào năm 2010, khoảng 50% tiềm năng kỹ thuật và kinh tế trên toàn quốc đã được triển khai. Tuy nhiên, vào năm 2025, tỉ lệ này dự định sẽ tăng lên 83%, một tỉ lệ rất cao, góp phần đưa Việt nam thành quốc gia có tỉ lệ tận dụng tiềm năng thủy điện ở mức cao nhất. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đưa ra một danh mục các dự án đầu tư. Các dự án liên quan đến nước được tài trợ từ ngân sách quốc gia với tổng kinh phí là 78.000 tỉ đồng trong đó các dự án thuỷ điện chiếm đến 64%. Các dự án phòng chống thiên tai chiếm 14%, đô thị 10%, nước sạch và vệ sinh nông thôn 9%, tưới 3%. Một phần kinh phí bổ sung 32.500 tỉ đồng vốn đầu tư được lấy từ nguồn trái phiếu chính phủ, và toàn bộ kinh phí này được dành cho các công trình thuỷ lợi. Các dự án ODA cam kết ước tính có tổng giá trị là 677 triệu USD. Khoảng 90% các dự án có liên quan đến cấp nước đô thị, vệ sinh và cải thiện môi trường, còn lại là cho ngành thủy lợi. 1.1.3. Đánh giá đối với ngành nước Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào các con sông quốc tế mà Việt Nam chia sẻ với các nước khác. Tổng lượng nước mặt trung bình năm của Việt Nam là khoảng 830 tỉ m3 và hơn 60% lượng nước này phát sinh từ bên ngoài lãnh thổ. Sáu lưu vực phụ thuộc vào dòng chảy từ các nước khác là sông Cửu Long, có gần 95% tổng lượng nước đến trung bình năm là từ các nước thượng lưu sông Mê Công; sông Hồng -Thái Bình có gần 40% lượng nước mặt đến từ phần lưu vực nằm trong lãnh thổ Trung Quốc; lưu vực sông Mã và Cả, có gần 30 % và 22% tương ứng, lượng nước đến từ Lào; và lưu vực sông Đồng Nai có gần 17% lượng nước đến từ Campuhica. Sông Bằng Giang-Kỳ Cùng cũng chảy từ Trung Quốc vào Việt Nam và sau đó lại chảy về lại Trung Quốc. Dòng chảy mặt trên lưu vực sông Sê San và Srê Pốk trên lãnh thổ Việt nam chiếm 75% và 50% tổng lượng nước toàn lưu vực. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  5. Luận văn thạc sĩ Trang 5 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Gần 57% tổng lượng nước của cả nước là của lưu vực sông Cửu Long, hơn 16% trên sông Hồng -Thái Bình, và hơn 4% trên lưu vực sông Đồng Nai. Mùa khô có ảnh hưởng lớn đến dòng chảy và lượng nước. Mùa khô thường kéo dài từ 6 đến 9 tháng và kéo dài nhất ở các lưu vực sông Miền trung Việt Nam. Lượng nước tự nhiên đến vào mùa khô chiếm 20–30% tổng lượng nước cả năm. Lượng trữ nước của các hồ chứa và lượng nước chuyển ra ngoài lưu vực vào mùa khô có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể đối với lượng nước hiện có vào mùa khô. Nếu giả thiết rằng các hồ chứa trữ đầy vào mùa mưa và sẵn sàng để sử dụng trong mùa khô thì lượng trên sông vào mùa khô sẽ được cải thiện lên mức từ 23% và 46% so với tổng lượng cả năm. Trên lưu vực sông Đồng Nai, dung tích trữ hiện tại gấp đôi lượng nước đến thiên nhiên vào mùa khô. Báo cáo hiện trạng sử dụng hai chỉ số chính để phản ánh thực trạng về lượng nước hiện có và áp lực lên nguồn nước của lưu vực sông. Chỉ số thứ nhất là lượng nước tính trên đầu người. Tổng lượng nước mặt của Việt Nam tính trên đầu người là 9.856m3/năm, nhưng tỉ lệ này khác nhau nhiều giữa các lưu vực. Theo tiêu chuẩn quốc tế tổng lượng nước trên đầu người khoảng 1.700m3/năm được xem là đáp ứng đủ nhu cầu, với lượng nước bình quân đầu người từ 1.700m3/năm đến 4.000m3/năm được xem là thiếu nước không thường xuyên hoặc thiếu nước cục bộ. Với dân số và mức độ phát triển hiện tại, theo tiêu chuẩn này, cho thấy lưu vực sông Đồng Nai và Nhóm lưu vực sông Đông Nam Bộ (NLVSĐNB) đều đang đối mặt với nguy cơ thiếu nước không thường xuyên và cục bộ, trong khi các sông Hồng, Mã và sông Côn đang tiệm cận mức độ thiếu nước này. Chỉ số thứ 2 là đánh giá về phần trăm lượng nước bị khai thác so tổng lượng nước trung bình năm của một lưu vực sông. Tiêu chuẩn quốc tế về “căng thẳng do khai thác nguồn nước” đề ra, mức độ căng thẳng trung bình bắt đầu với ngưỡng khai thác là 20%, và mức căng thẳng cao là trên 40%. Với mức độ sử dụng hiện tại, các lưu vực sông Mã, Hương và ở trong tình trạng căng thẳng trung bình về nguồn nước (giữa 20% và 40%), và sông Đồng Nai cũng đang ở giới hạn này. Tất cả các sông khác đều đang có mức căng thẳng thấp. Tuy nhiên, vào mùa khô, sáu trong số Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  6. Luận văn thạc sĩ Trang 6 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 16 lưu vực được xếp loại là “căng thẳng trung bình” và 4 lưu vực khác được xếp loại “căng thẳng mức độ cao” (sông Mã, , Hương và Đồng Nai). Mức độ căng thẳng cao nhất chính là NLVSĐNB, với hơn 75% lượng mùa khô bị khai thác, và sông Mã với gần 80%. Các tỉ lệ trên cho thấy các hoạt động khai thác nước quá mức đã và sẽ tạo nên mức độ rất không bền vững cho các lưu vực. Trên phạm vi cả nước, gần 82% tổng lượng khai thác nước mặt hiện tại là dùng cho tưới, 11% cho thuỷ sản, 5% cho công nghiệp và 3% cho đô thị. Trong đó có 3 lưu vực, lượng nước tưới chiếm hơn 90% lượng nước sử dụng. Lưu ý là thủy điện không được tính là đối tượng sử dụng nước vì thuỷ điện nhìn chung không “tiêu hao” nguồn nước, mặc dù nó có thể làm thay đổi đáng kể chế độ dòng chảy và đôi khi còn chuyển nước từ sông này sang sông khác. Hiện tại, lượng nước đang được sử dụng hang năm cho tất cả các much đích khoảng 80,6 tỉ m3. Đến năm 2020 tổng lượng nước sử dụng sẽ tăng lên khoảng 120 tỉ m3, tức tăng thêm 48%. Trong đó, nước cho tưới sẽ tăng 30%, công nghiệp tăng gần 190%, đô thị 150% và nước cho nuôi trồng thủy sản 90%. Dự báo nhu cầu nước sẽ tăng đáng kể trên các lưu vực sông Trà Khúc, Côn, Ba, NLVSĐNB, Sê San và Srê Pốk. Dân số gia tăng đi cùng với sự gia tăng sử dụng nước sẽ làm thay đổi lượng nước hiện tại và làm thay đổi mức “căng thẳng” ở các lưu vực sông. Dự báo dân số tới năm 2020 cho thấy lưu vực sông Đồng Nai sẽ tiến gần tới mức thiếu nước nghiêm trọng nếu xét về tổng lượng nước hàng năm. Các lưu vực Sông Hồng, Mã và Côn sẽ ở ngang hoặc dưới mức thiếu nước. Các lưu vực còn lại sẽ có đủ nước cho nhu cầu cộng đồng trên cơ sở lượng nước trung bình năm. Tính cả dự báo sử dụng nước trong tương lai vào mùa khô tới năm 2020 trong chỉ số khai thác nguồn nước cho thấy lưu vực NLVSĐNB trên ngưỡng 100%, điều này có nghĩa là sử dụng nước dự báo sẽ vượt xa tổng lượng nước sẵn có trên lưu vực trong mùa khô. Lưu vực sông Mã sẽ ở mức 100% và sông Côn đang tiến đến mức này. Các sông Hồng, Ba, Đồng Nai, Hương và Trà Khúc sẽ nằm trong khu vực chịu căng thẳng cao về nước. Các lưu vực khác sẽ nằm trong khu vực căng thẳng trung bình về nước, trong Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  7. Luận văn thạc sĩ Trang 7 Ngành: Kinh tế TNTN&MT khi chỉ có lưu vực sông Sê San và Thạch Hãn sẽ không chịu áp lực về nước, mặc dù các lưu vực này cũng có thể sẽ đối mặt với tình trạng thiếu nước cục bộ. Chương này đã chỉ ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng ở Việt Nam khi cần đáp ứng các nhu cầu sử dụng trong tương lai, đặc biệt là vào mùa khô, và sự căng thẳng về nước sẽ đặt lên các sông. Các lưu vực NLVSĐNB, Đồng Nai, Mã, Côn và sông Hương bị ảnh hưởng rất nặng nề. Áp lực về nước cũng dẫn đến việc tập trung khai thác nguồn nước dưới đất để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên sự hiểu biết về tài nguyên nước dưới đất trên lãnh thổ Việt Nam còn hạn chế. Tổng dung tích hữu ích của các hồ chứa hiện tại ở Việt nam là khoảng 37 tỷ m3 (khoảng 4,5% tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm). Trong đớ, trên 45% nằm ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình. Gần 22% thuộc lưu vực sông Đồng Nai, sông Cả, Ba, và Sê San ở mức tương ứng 5% và 7%. Việt Nam có dung tích chứa tính trên đầu người là 440 m3/người. Đây là tỉ lệ khá cao so với nhiều nước khô hạn như Ethiopia, Ấn Độ và Pakistan nhưng lại thấp so với Mỹ và Úc (trên 5.000 m3/người), và Trung Quốc (2.200 m3/người). Chỉ có 3 lưu vực sông có hồ chứa có thêm mục tiêu phòng lũ đó là lưu vực sông Hồng – Thái Bình, Mã, và sông Hương. Do vị trí địa lý và địa hình, Việt nam là một trong các nước chịu đựng nhiều thiên tai nhất. Thực tế là khoảng 50% dân cư sinh sống ở ven biển sẽ đối mặt với thiên tai. Hơn 80% dân số của đất nước sống ở các vùng chịu rủi ro do các tác động trực tiếp của thiên tai. Việt Nam hứng chịu nhiều loại thiên tai và các hậu quả gây nên như thiệt hại về người, tài sản đã gây nhiều trở ngại, cản trở con người thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Lũ lụt gây nên những khó khăn lớn cho Đồng bằng sông Cửu Long và Miền Trung trong khi đó nhờ hệ thống đê kè, lũ lụt ở Đồng bằng sông Hồng đã phần nào được kiểm soát. Lũ quét xảy ra trên khắp cả nước. Bão thường xuyên tấn công Việt nam nhưng nhiều hơn là khu vực Miền trung Việt nam có tổng “tiềm năng nước dưới đất” vào khoảng 63 tỉ m3/năm. Lượng nước phân bổ trên đầu người hàng năm là từ 3.770 m3/người/năm ở vùng tây bắc, và thấp ở mức 84 m3/người/năm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các tầng chứa Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  8. Luận văn thạc sĩ Trang 8 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nước có trữ lượng lớn là vùng cát và sỏi không cố kết chủ yếu tìm thấy ở vùng sông Hồng, và ở vùng Đông Nam bộ và châu thổ sông Mê Công, và các đồng bằng ven biển. Các tầng chứa nước này tương đối gần với mặt đất, nên việc khai thác nước dưới đất là tương đối rẻ và hiệu quả, nhưng đồng thời cũng khiến cho nước dưới đất dễ bị ô nhiễm. Nước dưới đất cung cấp tới 55% lượng nước sinh hoạt của người dân Việt nam (trên 23% lượng nước dưới đất được bơm từ các giếng khoan sâu, và hơn 23% được bơm bằng tay hay giếng xây). 34% dân số đô thị và xấp xỉ 65% dân số nông thôn sống phụ thuộc vào nguồn nước dưới đất, phần lớn dân số nông thôn phụ thuộc vào các giếng xây thủ công. Các khu vực khai thác nước dưới đất tập trung đang gây nên mối lo ngại. Ở Hà Nội, mực nước dưới đất đang rút xuống 1m mỗi năm ở một số khu vực, và đã giảm tổng cộng là 30 m. Ở một số khu vực ở thành phố Hồ Chí Minh, mực nước dưới đất suy giảm 30 m, và ở một số khu vực khác ở Đồng bằng Cửu Long, mực nước dưới đất hạ thấp đáng kể. Vấn đề khai thác quá mức nước dưới đất đang diễn ra ở các vùng trồng cà phê ở Tây Nguyên, tại đây mực nước dưới đất hạ giảm tới 2,5 m/năm. Hệ sinh thái tự nhiên của Việt nam bao gồm một số lượng phong phú các cánh rừng đẹp và đa dạng, các vùng đầm lầy, sông và các rặng san hô, có đến gần 10% tổng số loài thú có vú và chim toàn cầu. Nguồn nước ngọt và đa dạng sinh học biển của Việt Nam đang bị đe doạ do ô nhiễm nước sinh hoạt và công nghiệp, do việc xây dựng đập và cơ sở hạ tầng, do việc nạo vét, do các phương thức đánh bắt cá hủy diệt, do nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt quá mức. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cũng lưu ý chỉ số bền vững môi trường của Việt Nam năm 2005 là 42,3 - xếp hàng thứ 8 trong số các nước ASEAN, sau cả Myanmar, Lào và Campuchia. Trong số 146 nước được đánh giá, Việt nam xếp hạng thứ 127, thấp hơn rất nhiều nước láng giềng như Thái Lan (thứ 73), Campuchia (thứ 68) và Lào (thứ 52). Việt nam có nguồn nước ngọt và đất ngập nước ven biển phong phú. Các nguồn tài nguyên này phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long và dọc theo 3.260 km ven biển. Các đánh giá hiện tại cho thấy có 1 triệu hecta đất ngập Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  9. Luận văn thạc sĩ Trang 9 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nước, chủ yếu tập trung ở vùng cửa sông và xung quanh một số đầm phá, với hơn 100.000 ha của 12 đầm phá trải dài từ Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận. Danh mục kiểm kê đất ngập nước châu Á có liệt kê trên 25 khu vực đất ngập nước ở Việt nam đáp ứng tiêu chuẩn của “Đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế”. Mặc du như vậy, chỉ có hai khu vực đất ngập nước được công nhận là khu vực RAMSAR – Xuân Thủy ở Đồng bằng sông Hồng và khu vực Bàu Sấu mới hình thành thuộc vườn quốc gia Cát Tiên. Nhìn chung, một lưu vực sẽ có khoảng 40% đến 50% diện tích là rừng, 20% đến 30% là đất nông nghiệp, dưới 3% là đất ở, khoảng 5% là đất chuyên dụng và 20% đến 30% đất sử dụng cho các mục đích khác. Là một phần của lưu vực, độ che phủ của rừng có diện tích lớn nhất ở lưu vực sông Gianh (72%), sông Sê San (62%) và sông Bằng Giang- Kỳ Cùng (55%), cho thấy có sự đóng góp đáng kể của rừng vào quá trình bảo đảm bền vững của các lưu vực sông và điều tiết lại sự phân phối dòng chảy sông trong năm. Một dòng sông khỏe mạnh, bao gồm cả lòng dẫn, đáy sông, bờ sông và môi trường sống, hỗ trợ và duy trì một tập hợp các loài sinh vật thủy sinh. Ba chỉ số được sử dụng trong Báo cáo Hiện trạng giúp xem xét các tác động của phát triển đến sức khỏe của sông. Phần lượng được lấy đi từ sông có ý nghĩa rất quan trọng và nó cho biết mức độ “căng thẳng” của một con sông. Ở phần trên Báo cáo đã nêu ra 4 lưu có mức độ căng thẳng cao trong mùa khô và mức độ căng thẳng này sẽ tiếp tục gia tăng trong tương lai. Phần diện tích lưu vực nằm phía trên các đập lớn cho thấy mức độ nào thì dòng chảy mặt trên lưu vực không bị ảnh hưởng bởi các đập lớn. Ở phần diện tích thượng lưu các đập lớn, dòng chảy dường như còn tương đối “tự nhiên” về mặt thời gian và tính biến động. Ba lưu vực có các giá trị của chỉ số vào khoảng 80% hoặc hơn là – lưu vực sông Gianh, Bằng Giang – Kỳ Cùng và Thu Bồn – và 5 lưu vực khác trên 50%. Lưu vực có giá trị chỉ số thấp nhất (tức là sông có dòng chảy tự nhiên nhỏ nhất) là sông Ba (27%). Phần chiều dài của các đoạn sông lớn trong một lưu vực nằm ở thượng lưu của một công trình chắn sông (đập, đập dâng hoặc đập tràn) chỉ ra rằng liệu việc chuyển dịch của các loài cá/thủy sinh Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  10. Luận văn thạc sĩ Trang 10 Ngành: Kinh tế TNTN&MT có bị hạn chế và vận tải thủy có bị gây cản trở không. Phần lớn dọc chiều dài của các sông trên đều có công trình chắn vĩnh viễn. Những sông lớn như sông Hương. Dòng chính của hai lưu vực sông lớn như Hương và Ba có giá trị của chỉ số gần 100%, có nghĩa là các hệ thống sông này bị chắn bởi các công trình gần cửa sông, và đồng nghĩa với việc sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến thông thủy của sông, đến đường đi và vòng đời của cá. Nước mặt của tất cả các sông không đáp ứng các tiêu chuẩn ô nhiễm hữu cơ cho nước uống. Nồng độ BOD5 trung bình của hầu hết các con sông gấp từ 1,2 đến 2 lần so với tiêu chuẩn Việt Nam loại A. Các giá trị nồng độ cao được kiểm tra thấy ở lưu vực các sông Trà Khúc, Gianh, Đồng Nai, Hồng - Thái Bình và Cửu Long trong khi các giá trị thấp nhất đo được ở sông Côn, Srê Pốk và sông Ba. Có một số điểm nóng trên các đoạn sông chạy qua khu dân cư, ở đây nồng độ BOD5 trung bình vượt xa tiêu chuẩn cho phép. Ô nhiễm hữu cơ thường nằm trong giới hạn tiêu chuẩn loại B (trừ các điểm nóng). Trong khi có ít số liệu để xác định mức độ ô nhiễm của các kim loại nặng, nước mặt của tất cả các lưu vực sông thường đáp ứng tiêu chuẩn về nước uống. Biến đổi khí hậu được xem là yếu tố làm thay đổi dòng chảy mặt hiện tại và chế độ mưa. Mô phỏng mô hình khí hậu Bộ Tài nguyên và Môi trường đang sử dụng cho thấy lượng mưa trung bình hàng năm sẽ tăng khoảng 5%, trong đó lượng mưa sẽ tăng nhiều ở miền Bắc hơn so với miền Nam. Hầu hết các mô hình cho thấy, trung bình lượng mưa tăng cao hơn lượng bốc hơi do nhiệt độ tăng, kết quả người ta dự đoán lượng dòng chảy trung bình sẽ tăng, khoảng 50 mm/năm (xấp xỉ lượng tăng 5%). Hầu hết lượng mưa tăng trung bình hàng năm được dự đoán sẽ diễn ra vào các tháng vốn đã mưa nhiều trong năm, chỉ có lượng nhỏ mưa tăng thêm vào mùa khô. Các báo cáo gần đây của UNDP và Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam là một trong năm nước trên thế giới có khả năng bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi nước biển dâng do hậu quả của biến đổi khí hậu. Trong một kịch bản với mực nước biển dâng thêm 1 m, các đánh giá cho thấy Việt Nam sẽ mất 5% đất, 11% dân số sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, sản xuất nông nghiệp sẽ giảm 7%, và GDP giảm 10%. Nước Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  11. Luận văn thạc sĩ Trang 11 Ngành: Kinh tế TNTN&MT biển dâng ở một số khu vực sẽ gây nên hậu quả rất lớn. Nước biển dâng thêm 1m sẽ làm ngập hơn 11.000 km2 ở lưu vực sông Cửu Long, tức là 38% diện tích đất của lưu vực. Một số tỉnh cũng sẽ mất gần một nửa diện tích đất. Tháng 12/2007, Chính phủ ra Quyết định số 60/2007/NQ-CP giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo việc xây dựng Chương trình Mục Tiêu Quốc Gia (CHTMTQG) về Thích nghi biến đổi khí hậu, nhằm tìm kiếm tài trợ quốc tế cho Chương trình, và trình lên Thủ tướng Chính phủ trong quý hai năm 2008. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cho biết sẽ soạn thảo một đề xuất về việc giảm thiểu các tác động của hiện tượng ấm lên toàn cầu và đệ trình Chính phủ vào phiên họp thứ tư quốc hội khóa 12. Theo đề xuất, các dự án thích nghi biến đổi khí hậu và giảm thiệu tác động trong giai đoạn 2011 -2015 sẽ được thực hiện trên phạm vi toàn quốc. 1.1.4. Nhìn nhận hiện trạng ngành nước Về cấp nước và vệ sinh: Với tốc độ gia tăng dân số hàng năm tại đô thị là 2,18% so với 0,93% ở khu vực nông thôn. Lượng cấp nước đô thị trung bình là 80-90 lít/người/ngày; ở các thành phố lớn là 120-130 lít/người/ngày (mục tiêu quốc gia là 120-150). Nguồn nước cấp chủ yếu là nước mặt, chiếm khoảng 70%. Tuy nhiên, khoảng 60% dân số sống hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn nước dưới đất. Nhìn chung, các công ty nước sạch đều là các công ty quốc doanh và có khoảng 13.442 cán bộ làm việc. Tỉ lệ nhân viên ngành cấp nước trên 1000 điểm cấp là gần gấp 2,5 lần so với tỉ lệ tốt nhất ở một nước đang phát triển (5 nhân viên trên 1000 điểm cấp). Tỉ lệ hoạt động của ngành cấp nước (tỉ lệ chi phí hoạt động trên doanh thu hoạt động) là 0,64, cao hơn mức hoạt động trung bình của 25% các cơ sở cấp nước hàng đầu ở các nước đang phát triển. Năm 2002 toàn bộ hoạt động cấp nước đều dựa trên doanh thu tính theo thể tích, theo đó một công ty sẽ thu mức phí tối thiểu cố định, và 45% sử dụng tính giá nước lũy tiến. Hầu hết các công ty đều đảm bảo cấp nước 14 đến 20 tiếng/ngày, và chỉ có 3 hay 4 thành phố chỉ có khả năng cấp nước 8-10 tiếng/ngày. Tỉ lệ cấp nước không đo đếm từ 14% đến 76% với mức trung Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  12. Luận văn thạc sĩ Trang 12 Ngành: Kinh tế TNTN&MT bình là 35%. Hiện tại chỉ có khoảng 50% mạng lưới phân phối nước đáp ứng về chất lượng nước. Mạng lưới các hệ thống vệ sinh và tiêu nước ở các khu vực đô thị hiện chưa được điều tra. 11 trong số 16 lưu vực không có hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt. Các khu vực đô thị có thể áp dụng phí vệ sinh nước ở mức 10% của giá nước nước sạch. Tuy nhiên, nếu như các công ty cấp nước đứng ra thu phí thì quỹ thu lại được nộp vào ngân sách tỉnh hoặc thành phố. 60% các bệnh viện có nhà máy xử lý chất hải nhưng chỉ có 18% các nhà máy này hoạt động hiệu quả và hầu hết nước thải bệnh viện được thải trực tiếp vào hệ thống nước thải đô thị. Diện phủ cấp nước và vệ sinh tăng lên là một ưu tiên chính của Chính phủ và là một nội dung quan trọng trong cuộc chiến chống đói nghèo. Năm 2005, có trên 60 triệu dân sinh sống ở nông thôn. Khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh là một vấn đề lớn của dân nghèo nông thôn Việt Nam. Trong số 20% người nghèo nhất, chỉ có 22% được tiếp cận nước sạch so với 78% của số 20% những người giàu nhất. Về vệ sinh, trong số 20% số người nghèo nhất chỉ có 2% được tiếp cận điều kiện vệ sinh so với tỉ lệ 20% ở người giàu. Tỷ lệ phủ trên toàn quốc của hệ thống cấp nước và vệ sinh nông thôn (theo tiêu chuẩn truyền thống của Bộ NN&PTNT) ước tính xấp xỉ 66% và tỉ lệ nhà vệ sinh đạt yêu cầu là 50%; khoảng 70% các trường học, nhà trẻ và mẫu giáo, 58% trạm y tế xã và 17% chợ nông thôn được sử dụng nước sạch và có nhà vệ sinh đạt yêu cầu. Tuy nhiên, nếu áp dụng tiêu chuẩn nước sạch của Bộ Y Tế, khoảng 25% dân số nông thôn có nước sạch trong nhà và một tỉ lệ thấp hơn có khả năng tiếp cận điều kiện vệ sinh. Nói một cách khác, cuối năm 2006 có khoảng 21 triệu người sống ở nông thôn không được tiếp cận với nước “hợp vệ sinh” và 42 triệu người không được tiếp cận nước sạch. Quy hoạch Cấp nước và vệ sinh nông thôn trong khuôn khổ CHTMTQG II đang triển khai nhờ với sự hỗ trợ mạnh mẽ của quốc tế. Chương trình phản ánh nhu cầu cần tập trung cao độ hơn nữa đến vệ sinh, cần hướng mục tiêu bao cấp hơn nữa cho người nghèo, và chú trọng hơn đến tính bền vững, cải thiện hoạt động và bảo dưỡng Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  13. Luận văn thạc sĩ Trang 13 Ngành: Kinh tế TNTN&MT các công trình cấp nước và vệ sinh và tiếp tục phân cấp thực hiện. Ngân sách dự kiến cho CHTMTQG II là 22.600 tỉ đồng. Vốn ngân sách Nhà nước là 14%, chính phủ địa phương 10%, huy động trong dân 36%, các khoản vay ưu đãi 25%, và từ phía các nhà tài trợ là 15%. Đối với các mục tiêu quản lý tiểu ngành, nước sạch được chia thành 2 nhóm: cấp nước đô thị (bao gồm sản xuất công nghiệp và dịch vụ) của các đô thị loại V và cao hơn, dưới sự quản lý của Bộ Xây dựng; và cấp nước nông thôn (các thị trấn nhỏ với dân số từ 2.000 đến 4.000 cho đến các làng nhỏ), dưới sự quản lý của Bộ NN&PTNT. Tài nguyên nước và bảo vệ nguồn nước thuộc trách nhiệm của Bộ TNMT. Tiêu chuẩn và chất lượng nước sạch do Bộ Y Tế quản lý. Việc quy định giá nước sạch sẽ do Bộ Xây dựng và Bộ Tài Chính hướng dẫn nhưng người ra quyết định là UBND các tỉnh. Mục tiêu của chính phủ Việt Nam là phấn đấu 100% dân số đô thị có nước sạch ở mức 120-150 lít/người/ngày vào năm 2020. Tổng nhu cầu nước được ước tính trên 7 triệu m3/ngày đêm năm 2010 và trên 12 triệu m3/ngày đêm năm 2020, chi phí ước tính là 30.275 tỉ đồng vào năm 2010 và 37.500 tỉ đồng năm 2020. Cơ cấu tổ chức của ngành CNVSNT khá phức tạp. Một Ủy ban chỉ đạo quốc gia và một văn phòng thường trực đóng tại Bộ NN&PTNT với cơ cấu tương tự ở cấp tỉnh sẽ cùng phối hợp với CTMTQG. UBND các tỉnh chịu trách nhiệm quản lý nguồn nước và điều phối việc phân phối đưa chương trình CHTMTQG tới các địa phương. Bộ Y Tế chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn nước sạch và nhà xí vệ sinh, các quy định về sử dụng phân bắc làm phân bón, và giám sát quá trình thực hiện. Cung cấp hỗ trợ ngành trong CTMTQG II là một thay đổi đáng kể về cách tiếp cận đối với các nhà tài trợ trong chương trình và mục đích là nhằm điều phối tạo sự hài hòa giữa các nhà tài trợ, điều chỉnh và giảm chi phí giao dịch, phù hợp với Tuyên bố Hà Nội về Hiệu quả Tài trợ . Về Lũ và các thiên tai: Việt Nam là một trong các nước thường xuyên đối mặt với rủi ro, trong đó thiên tai hàng năm đã cướp đi rất nhiều sinh mạng, phá hủy tàu thuyền, nhà cửa và ruộng lúa. Thiệt hại trung bình hàng năm do thiên tai ở các lưu vực chủ yếu rơi vào Miền Trung Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  14. Luận văn thạc sĩ Trang 14 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Việt Nam, đặc biệt là trên các lưu vực sông Thạch Hãn, Thu Bồn & Vũ Gia và sông Hương nơi thiệt hại hàng năm chiếm từ 6 đến 8,4% GDP của lưu vực. Đối với hầu hết các lưu vực, các biện pháp công trình không thể được thực hiện một cách toàn diện. Lũ quét đã làm gần 50 người chết mỗi năm. Việc giải quyết vấn đề này là hết sức khó khăn và phụ thuộc vào quản lý sử dụng đất, cảnh báo và sự sẵn sàng của cộng đồng hơn là dựa vào bất kỳ biện pháp công trình nào. Tuy nhiên, Việt Nam khó có thể thực hiện các biện pháp phi công trình để quản lý rủi ro thiên tai và đây được xem như là một thất bại lớn. Một cách tiếp cận tổng hợp trong quản lý rủi ro thiên tai cần bao gồm cả các biện pháp công trình và phi công trình xuyên ngành, quy hoạch phát triển nhằm đối phó với thiên tai có xem xét đến cách tiếp cận Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào Cộng đồng (CBDRM). Một dự án gần đây ở vùng hay chịu thiên tai – tỉnh Quãng Ngãi (thuộc lưu vực sông Trà Khúc) đã trình diễn cách tiếp cận này, và các số liệu báo cáo từ khi thực hiện và các đánh giá độc lập đã đề xuất cách tiếp cận này là một mô hình tốt cho các vùng hay có nguy cơ thiên tai ở Việt Nam. Khi kinh tế tăng trưởng nhanh, người ta ít chú ý đến tính ổn định lâu dài của bờ biển trước thiên tai. Tác động của việc thảm thực vật bị phá dỡ, đặc biệt là việc phá rừng ngập mặn, là điều ai cũng rõ. Việc khai thác quá mức cát trên sông cho mục đích phát triển cũng làm suy giảm các quá trình tạo cát tự nhiên cho bờ biển và làm giảm khả năng chống chịu xói mòn. Biến đổi khí hậu cũng sẽ làm tăng ảnh hưởng của thiên tai và khiến con người chú trọng hơn vào các giải pháp phi công trình. Ngược lại, việc giải quyết các rủi ro thiên tai theo cách này sẽ đạt được nhiều mục tiêu thích nghi biến đổi khí hậu. Có một mạng lưới phòng chống thiên tai hoạt động hiệu quả được cơ cấu chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, hầu hết các cán bộ có trách nhiệm phòng chống lụt bão lại là cán bộ kiêm nhiệm – bên cạnh nhiệm vụ chính của họ - nên trong thực tế không có cơ quan cụ thể nào hỗ trợ các hoạt động này, một cơ quan đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác. Ở cấp tỉnh, cũng tồn tại các vấn đề tương tự. Năm 2007, Chiến lược quốc gia về phòng chống, ứng phó và giảm nhẹ thiên tai tới năm 2020 đã được phê duyệt và hiện đang được thực hiện. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  15. Luận văn thạc sĩ Trang 15 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Về Giao thông thủy: Đường thủy nội địa có lợi thế là chi phí thấp hơn so với các phương thức vận chuyển khác, và có thể chuyên chở hàng hóa quá cỡ và quá trọng tải trên một quãng đường dài. Nhược điểm của loại hình vận tải này là tốc độ chậm, phụ thuộc vào thời tiết và điều kiện thủy văn, và không thể cung cấp dịch vụ “lấy tận nơi, giao tận chỗ”. Sông Đồng Nai có 43% giá trị vận tải thủy, tiếp theo là sông Hồng - Thái Bình (32%), và sông Cửu Long (17%). Ba lưu vực trên chiếm 92% giá trị vận tải thủy cả nước. Phần thượng lưu của hầu hết các con sông khác không phù hợp với các hoạt động vận tải thủy lớn. Tuy nhiên, nhiều người dân địa phương, đặc biệt là người dân tộc, vẫn phụ thuộc nhiều vào vận tải thủy để làm sinh kế. Ở phía hạ lưu sông, tĩnh không các cầu đường bộ thường thấp và trên nhiều con sông, hồ chứa, đập và đập ngăn mặn thường gây cản trở cho giao thông thủy. Có nhiều tác động môi trường từ các hoạt động vận tải thủy, như tràn dầu. Luật Đường thủy Nội địa điều chỉnh vấn đề giao thông thủy và Cục Đường Sông thuộc Bộ Giao thông Vận tải chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về giao thông thủy. Hệ thống biển báo luồng lạch vận tải thuỷ của Việt nam đã được Uỷ hội Sông Mê Công áp dụng như một hệ thống báo luồng lạch cho giao thông thủy hạ lưu sông Mê Công. Về Công nghiệp và làng nghề: Tổng lượng nước sử dụng cho công nghiệp ước tính khoảng 3.760 triệu m3/năm, với gần một nửa được sử dụng cho công nghiệp ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình. 25% cấp nước công nghiệp thuộc lưu vực sông Đồng Nai, 7% ở lưu vực SDNB và 10% ở lưu vực sông Cửu Long. Một lượng lớn nước dưới đất được sử dụng trong công nghiệp. Vào năm 2015, lượng nước sử dụng trong công nghiệp sẽ tăng gấp đôi với dự báo lượng tăng lớn nhất ở lưu vực sông Hồng, sông Đồng Nai, NLVSĐNB, Cửu Long, và Thu Bồn & Vũ Gia. Khu vực NLVSĐNB có giá trị lãi suất kinh tế trong sử dụng nước là 441.000 đồng/m3 và lưu vực sông Đồng Nai là 393.000 đồng/m3. Tuy nhiên, giá trị trung bình toàn quốc là (13,3 Đô la/m3) thấp hơn so với các nước khác. Các ngành công nghiệp gây ô nhiễm nguồn nước nhiều nhất là ‘các cơ sở sản xuất phân bón và nitơ, bột giấy, giấy và bìa các tông và các hoá chất cơ bản, ngoài các cơ sở Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  16. Luận văn thạc sĩ Trang 16 Ngành: Kinh tế TNTN&MT sản xuất phân bón và nitơ. Mặc dù có 154 khu công nghiệp và các khu chế xuất, chỉ có 43 nhà máy xử lý nước thải tập trung. Khoảng một nửa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nằm ngoài các khu công nghiệp, có rất ít hoặc không có hệ thống xử lý nước thải. Ước tính năm 2006 có 2.803 doanh nghiệp công nghiệp trên phạm vi toàn quốc đã thải ra trên 155 triệu m3 nước thải/năm hay 850.000 m3/ngày. Lượng nước thải này tương đương với 340 bể bơi Olympic chứa nước chưa được xử lý thải ra hàng ngày. Việc quản lý trực tiếp phần lớn các cơ sở trên là chính phủ. Khu vực quốc doanh đóng góp xấp xỉ 40% GDP của Việt nam. Nhiều bộ liên quan vừa sở hữu vừa quản lý các ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhất nước. Trong giai đoạn 5 năm 2001-2005, giá trị sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15,7%/năm; tuy nhiên giá trị gia tăng chỉ là 10,3%. Đổi mới công nghệ ở Việt nam diễn ra chậm chạp hơn nhiều các nước láng giềng. Quyết định số 64/2003 của Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt kế hoạch xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tuy nhiên, cuối giai đoạn 1 chỉ có 63% các điểm đen trên danh mục được xử lý. Nghị định 67/2003 sử dụng phí ô nhiễm nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường do nước thải nhằm mục đích sử dụng nước sạch một cách tiết kiệm và tạo nguồn thu cho Quỹ bảo vệ Môi trường. Tuy nhiên phí này không được áp dụng đồng bộ và không phải tất cả các tỉnh thành đều tham gia. Tương tự quá trình xây dựng mức phí không mang tính thực tiễn. Sản xuất làng nghề thủ công đã chứng kiến sự phát triển ấn tượng, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình, nơi có 60% làng nghề trên cả nước. Các làng nghề được xem như một biện pháp quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển, nơi có 75% dân số Việt nam sinh sống. Thu nhập trung bình đầu người ở các làng nghề cao gấp 5 lần ở những làng làm nông nghiệp. Số làng nghề ước tính trên 2.000 năm 2002, chiếm 2,5% tổng số làng ở nông thôn, cung cấp trên 10 triệu việc làm và thu hút 29% lực lượng lao động nông thôn. Ước tính 40.500 doanh nghiệp đóng trên các làng nghề, khoảng 80% là kinh doanh hộ gia đình với 1 đến 3 nhân công. Làng nghề là nơi ẩn chứa các rủi ro sức khoẻ nghề nghiệp cao và gây ô nhiễm, đặc biệt là ở các làng công nghiệp thủ công quy mô nhỏ nơi không có công nghệ kiểm soát Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  17. Luận văn thạc sĩ Trang 17 Ngành: Kinh tế TNTN&MT ô nhiễm, không có bảo hộ lao động và không có xử lý nước thải. Hầu hết các hộ gia đình trong làng sử dụng nhà và vườn làm nơi sản xuất và thải trực tiếp nước thải vào môi trường xung quanh nơi ở hay vào sông và nguồn nước dưới đất xung quanh. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp không chỉ nước mặt (trong kênh, hồ, ao, sông), mà cả nước dưới đất, ảnh hưởng đến nguồn nước uống của làng. Ô nhiễm nguồn nước từ các làng nghề là một vấn đề hết sức nghiêm trọng và ngày càng gia tăng. Quản lý làng nghề gần đây được giao cho Bộ NN&PTNT, và hình thành một mục tiêu trong CNVSNT thuộc CTMTQG II. Trong Bộ NN&PTNT có Cục Chế biến, Thương mại Nông lâm thủy sản và Nghề muối chịu trách nhiệm trực tiếp về các làng nghề. Cục đang phối hợp với nhiều Bộ khác để xây dựng phương hướng, đặc biệt khi nhiều làng nghề có mối liên quan với các hoạt động công nghiệp mà Bộ NN&PTNT không có kinh nghiệm xử lý. Về Thuỷ điện: Ba lưu vực sông quan trọng nhất trong sản xuất thuỷ điện là lưu vực sông Hồng- Thái Bình, Đồng Nai, và sông Sê San. Thuỷ điện ở lưu vực sông Hồng-Thái Bình và Đồng Nai sẽ chiếm 28% và 23% tương ứng công suất thuỷ điện của cả nước. Lưu vực sông Sê San sẽ đóng góp khoảng 14% tổng côn suất thuỷ điện. Các trạm thuỷ điện nhỏ chiếm 11% tổng sản lượng. Lưu ý rằng thuỷ điện “nhỏ” không hẳn đã tác động nhỏ đến song, nhiều hệ thống thuỷ điện nhỏ có quy mô khá lớn. Tổng công suất lắp của hệ thống điện trên toàn quốc dự kiến tới năm 2025 là 181.754 MW, bao gồm 18% từ thuỷ điện, 67% từ nhiệt điện (than) và 8% từ nhà máy tuốc bin khí, 6% từ điện hạt nhân và 1% từ nhà máy chạy dầu diesel. Lượng điện tăng chủ yếu là ở lưu vực sông Hồng-Thái Bình, nơi sản lượng điện dự kiến sẽ tăng gấp 4 lần. Khu vực NLVSĐNB sẽ đóng góp khoảng gần 16% toàn bộ công suất thuỷ điện của cả nước trong tương lai, với nguồn nước được chuyển nước từ sông Đồng Nai. Phát triển thủy điện nhỏ trên toàn quốc sẽ chiếm khoảng 15% tổng công suất. Dự kiến đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng tiềm năng thuỷ điện sẽ tăng lên 83%, một tỉ lệ rất cao. Việt Nam có tiềm năng thủy điện tương đối ít, và tới năm 2025 Việt Nam sẽ là nước tận dụng gần hết tiềm năng thủy điện của mình. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  18. Luận văn thạc sĩ Trang 18 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Hợp tác quốc tế với các nước khác là rất quan trọng trong việc đáp ứng các dự báo về nhu cầu năng lượng và việc phát triển thủy điện ở Lào, Cămpuchia và Trung Quốc dự kiến sẽ đóng góp đáng kể vào nguồn điện ở Việt Nam. Việt Nam dự kiến nhập khẩu khoảng 6.000 MW từ thủy điện vào năm 2025. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm về quản lý chung và phát triển ngành năng lượng. Cơ quan điều phối điện của Việt Nam (ERAV) đã được thành lập trong Bộ Công Thương với nhiệm vụ cấp phép hoạt động, điều tiết thị trường năng lượng, thiết lập giá điện và thẩm định các Kế hoạch phát triển năng lượng tỉnh. Điện lực Việt Nam (EVN) là một tập đoàn nhà nước của Bộ Công thương có nhiệm vụ vận hành, chuyển tải/phân phối và bán điện. EVN lập hầu hết các dự án năng lượng lớn, mặc dù khu vực tư nhân vẫn có thể tham gia vào ngành này. Sơ đồ tổng quan Ngành điện VI có mục tiêu thỏa mãn nhu cầu trong giai đoạn từ 2006 đến 2015. Chính quyền các tỉnh cũng lập quy hoạch phát triển các thủy điện quy mô nhỏ. Những quy hoạch này được các UBND phê duyệt, sau khi ERAV đã thẩm định, và nhà đầu tư sẽ tìm kiếm nhà thầu thiết kế, thi công và vận hành. Báo cáo về Các vấn đề và lựa chọn của dự án đã thảo luận một số mâu thuẫn giữa các Tỉnh về các dự án tiềm năng. Việc vận hành tất cả các nhà máy thủy điện hòa vào lưới điện quốc gia sẽ dưới sự điều hành của một Ủy ban nằm trong EVN. Về Tưới: Vì tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP toàn quốc sẽ giảm, ngành nông nghiệp dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức khiêm tốn. Tưới là ngành sử dụng nước lớn nhất – trên 66 tỉ m3/năm, chiếm trên 80% tổng lượng nước sử dụng dự tính. Lưu vực sông Cửu Long và Hồng – Thái Bình chiếm gần 70% lượng sử dụng đó. Lưu vực sông Cửu Long có lượng nước tưới sử dụng trên đầu người lớn nhất, trên 1.600 m3/người/năm. Hầu hết các lưu vực đều có lượng nước tưới nhỏ hơn 1.000 m3/người/năm. Lúa là cây trồng chủ yếu, chiếm 82% diện tích được tưới. Tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh trong vòng 14 năm qua là nhờ quá trình thâm cạnh tăng vụ - còn lại đầu tư vào các công trình tưới mới hay cải tạo các công trình cũ rất ít. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  19. Luận văn thạc sĩ Trang 19 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Trên hầu hết các lưu vực sông, đóng góp của nông nghiệp vào GDP đã giảm từ 80- 90% xuống còn 30-50%, mặc dù đây vẫn là hoạt động kinh tế chủ đạo. Sự suy giảm trong nông nghiệp không có nghĩa là ngành nông nghiệp đang bị thu hẹp. Lao động trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm 32% ở lưu vực sông Hương (cũng là lưu vực có tỉ trọng GDP nông nghiệp thấp nhưng tỉ lệ dùng nước cao), khá cao là lưu vực sông Bằng Giang – Kỳ Cùng, tới 82%. Lợi nhuận ở lưu vực sông Gianh là 1.000 đồng/m3 nước sử dụng trong khi ở lưu vực sông Sê San là 14.000 đồng/m3. Lưu vực sông Thạch Hãn và Đồng Nai có lợi nhuận cao hơn, trong khi các lưu vực sông Mã, Thu Bồn – Vũ Gia, Cửu Long và sông Ba có giá trị lợi nhuận tương đối thấp. Hóa chất nông nghiệp được sử dụng với tỉ lệ cao và trên diện tích đất rộng. Một nghiên cứu về sử dụng hóa chất cho thấy hầu hết các loại thuốc trừ sâu đang sử dụng đều có độc tính cao, mức độ phơi nhiễm đối với người rất cao, chi phí đắt nhưng hiệu quả lại thập. Hầu hết nông dân đều hiểu biết rất ít về việc sử dụng thuốc trừ sâu và nhiều người đang phải gánh chịu các vấn đề về nhiễm độc thuốc trừ sâu. Bộ NN&PTNT có trách nhiệm chính về quản lý tưới. Cục bảo vệ thực vật phê duyệt việc sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc trừ cỏ. Bộ NN&PTNT kiểm soát 12 tổng công với 317 công ty. Hiện tại có 110 công ty quản lý và khai thác công trình thủy lợi, với hơn 22.500 nhân viên. Ba trong số 110 công ty này chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ NN&PTNT (công ty thủy nông Bắc Hưng Hải, Bắc Nam Hà, và Dầu Tiếng), các công ty còn lại trực thuộc tỉnh. Tỉ lệ cán bộ trên 100 hecta được tưới dao động trong khoảng 0,2 ở đồng bằng sông Cửu Long đến 10,5 ở đồng bằng sông Hồng. Đồng bằng sông Hồng cũng có số cán bộ tưới tiêu cao nhất làm việc trong một công ty thủy nông, nhưng dịch vụ tưới lại không được cung cấp đảm bảo. Số lượng nhân viên thấp nhất trong một công ty thủy nông là 118 ở vùng Tây Nguyên. Các thực nghiệm về Quản lý tưới có sự tham gia của cộng đồng (PIM) cho thấy PIM có thể giúp cải thiện đáng kể hiệu quả quản lý tưới. Tuy nhiên, việc triển khai PIM vẫn còn rất chậm. Cho mãi đến gần đây, các hộ nông dân vẫn phải trả thủy lợi phí để trang trải ít nhất một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng đi kèm với việc cung cấp dịch vụ tưới của công ty thủy nông và Hội những người sử dụng nước. Mặc dù khoản phí này không đủ Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  20. Luận văn thạc sĩ Trang 20 Ngành: Kinh tế TNTN&MT để đáp ứng các yêu cầu về vận hành và bảo dưỡng, nhưng chúng vẫn là nguồn thu đáng kể trong ngân sách của các công ty thủy nông. Cho đến năm 2008, phí này bị bãi bỏ. Về Nuôi trồng Thủy sản và nghề cá: Ngành thủy sản ở Việt Nam đang trên đà phát triển, và được Chính phủ thúc đẩy mạnh mẽ bởi nhằm giúp xóa đói giảm nghèo. Ngành cung cấp khoảng 1/2 lượng đạm động vật cho bữa ăn của người dân. Dựa trên tổng doanh thu, ngành được xếp là ngành xuất khẩu quan trọng thứ 3 của Việt Nam. Hơn 3 triệu người tham gia trực tiếp vào sản xuất và gần 10% dân số kiếm sống từ nghề cá. Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng trung bình là 12%/năm từ năm 1990, đóng góp hơn 40% cho tổng sản phẩm thủy sản. Về sản xuất thủy sản, thủy sản nước ngọt vẫn chiếm ưu thế với 65-70%. Hộ gia đình cũng chiếm ưu thế trong đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, năm 2001 nuôi trồng thủy sản là nghề chính của 4,3% hộ gia đình và là nghề nghiệp chính của 5,1% lực lượng lao động. Hầu hết ngư dân và những người tham gia sản xuất nuôi trồng thủy sản đều là những người sản xuất nhỏ – 77% các hộ gia đình có nuôi trồng thủy sản trên diện tích ao hồ dưới 0,1 ha và 7% trên diện tích ao hồ từ 0,1 ha đến 0,2 ha. Gần đây các hợp tác xã nghề cá cũng được thành lập. Nguồn thu nhập lớn nhất từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản có được từ đồng bằng sông Cửu Long, nơi có từ 60% đến 70% hộ gia đình tham gia vào một hình thức nuôi trồng thủy sản nào đó, thu hút hơn 600.000 lao động. Nuôi tôm cũng thu hút hơn một nửa số lao động nuôi trồng thủy sản. Giá trị sản xuất thủy sản trên các lưu vực khác nhau đáng kể - từ 15.300 VNĐ/m3 nước sử dụng ở lưu vực sông Côn, xuống còn 3.800 VNĐ/m3 nước sử dụng ở đồng bằng sông Cửu Long. Sông Trà Khúc có giá trị lợi nhuận cao nhất trên diện tích nuôi trồng thủy sản, ở mức 198 triệu đồng/ha, và lưu vực sông Cửu Long 93 triệu đồng/ha. Các yêu cầu về an toàn thực phẩm đang nổi lên như là các rào cản đối với sản phẩm thủy sản trong nước tiếp cận thị trường quốc tế đã định hình lại đáng kể cơ cấu của ngành. Trách nhiệm quản lý tất cả các hoạt động nghề cá thuộc về Bộ NN&PTNT. Bộ chịu trách nhiệm quy định tổng sản lượng đánh bắt cho phép; các biện pháp bảo vệ có liên quan đến môi trường biển; khoanh vùng, giám sát và nghiên cứu; và quản lý cấp giấy Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  21. Luận văn thạc sĩ Trang 21 Ngành: Kinh tế TNTN&MT phép đánh bắt. Với mục đích bảo vệ và phát triển các nguồn lợi thủy sản, chính phủ đã khởi xướng một quỹ dành cho việc tăng cường nguồn lợi bao gồm “Quỹ Khôi phục nguồn lợi thủy sản”. Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản quản lý môi trường tự nhiên (thuộc các khu bảo tồn biển và đất liền). Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản đã được thành lập nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn y tế của EU/US. Trong khi có nhiều mối đe dọa liên quan đến nguồn nước phát sinh từ ngành thủy sản, ngành chế biến cá và nuôi trồng thủy sản lại đang làm suy thoái nguồn nước thông qua việc sử dụng nước và gây ô nhiễm nguồn nước. Số lượng các doanh nghiệp kinh doanh thủy sản nhà nước (DNTSNN) giảm mạnh. Hầu hết các tỉnh duyên hải đều có một hoặc nhiều doanh nghiệp thủy sản nhà nước hoạt động. Các DNTSNN thường hoạt động kém hiệu quả và không mang lại lợi nhuận. 1.2. Tham khảo việc quản lý tài nguyên và môi trường ở một số nước trên thế giới Trong những thập kỷ gần đây, các nhà kinh tế và các nhà quản lý bắt đầu tỏ ra lo ngại về khả năng cạn kiệt của các tài nguyên không - tái tạo. Câu hỏi mà họ đặt ra là các tài nguyên thiết yếu cho nền kinh tế, tức là các tài nguyên mà nếu không có nó thì sản lượng nào đó của nền kinh tế sẽ bằng không, có thể được thay thế bởi các nhân tố sản xuất do con người tạo ra, cụ thể là vốn hay không? Ý nghĩa của câu hỏi được đặt ra ở trên là, liệu có thể thay thế tài nguyên thiên nhiên không - tái tạo bởi các tài nguyên tái tạo để duy trì phát triển kinh tế bền vững hay không? Nói cách khác, giá trị của sự cạn kiệt của những tài nguyên không - tái tạo là một cản trở lớn của phát triển kinh tế bền vững, cần được giải quyết trong nội dung của kinh tế tài nguyên thiên nhiên. Tại Nhật Bản: Khác với Việt Nam, ngoài khung pháp lý rất đầy đủ về môi trường, Nhật Bản có hẳn một hệ thống tư pháp, thực thi luật môi trường được phân cấp rõ ràng từ quốc gia đến địa phương. Theo đó, việc ban hành luật là do Nghị viện, Chính phủ hay Bộ Môi trường là cơ quan thi hành, còn chính quyền địa phương, cảnh sát tỉnh chỉ làm nhiệm vụ điều tra các hành vi vi phạm môi trường, mọi vi phạm liên quan đên môi trường đều do Tòa án xét xử. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  22. Luận văn thạc sĩ Trang 22 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Từ năm 1970, 14 luật môi trường ở Nhật Bản đã được ban hành và sửa đổi, trong đó, phải kể đến Luật Giải quyết tranh chấp môi trường (EDSL), đã bảo vệ quyền lợi của cộng đồng, giảm thiểu gánh nặng cho nạn nhân môi trường trong việc đòi bồi thường thiệt hại. Từ đó, một hệ thống các tổ chức giải quyết tranh chấp môi trường ở Nhật Bản đã được thành lập, đứng đầu là Ủy ban Điều phối tranh chấp môi trường (EDCC), rồi đến các Ủy ban kiểm tra tình trạng ô nhiễm cấp tỉnh (PPECs). Các Ủy ban này sẽ tiếp nhận các vụ kiện môi trường với các thủ tục như: hòa giải, trung gian hòa giải, phân xử, xét xử trách nhiệm và xét xử nguyên nhân. Nhờ vậy, các tranh chấp môi trường đã được giải quyết nhanh chóng, đơn giản hóa và chính xác, đảm bảo được quyền lợi của người bị thiệt hại. Tại Trung Quốc: Từ năm 1978, nền kinh tế Trung Quốc đã trải qua những thay đổi to lớn. Từ năm 1978 đến năm 1993, tỉ lệ tăng trưởng trung bình của GNP là trên 9% năm. Bên cạnh sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, nền kinh tế đã chuyển một bước quan trọng từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế có xu hướng thị trường. Chính phủ kiểm soát giá, hạn ngạch hàng hoá được phân bổ theo kế hoạch, chia sẻ sản xuất của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước cũng như tầm quan trọng của đầu tư tài chính nhà nước đã hạ đi một cách kịch tính. Nghiên cứu mới nhất của nền kinh tế Trung Quốc chỉ ra rằng thị trường đang đóng một vai trò quan trọng trong việc ra quyết định trong kinh tế. Mặc dù Trung Quốc đang nói với thế giới một câu chuyện về sự phát triển kinh tế thành công, nhưng môi trường của Trung Quốc lại đang chỉ ra một bức tranh rất khác. Sự suy thoái môi trường hiện nay đang lan tràn và nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Theo Uỷ ban môi trường của Trung Quốc (NEPA,1994), ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn và trung bình nghiêm trọng và tiếp tục xấu đi ở các thành phố nhỏ. Phần điều tra 94 con sông chạy dọc khu vực đô thị, 65% (69%) con sông trong số đó, nước sông bị ô nhiễm. Chất lượng của nước ngầm trở nên xấu hơn và việc giảm sút đó gây ra do tình trạng quá ô nhiễm của nước ngầm xảy diễn ra ở 36 thành phố. Tỉ lệ che phủ của rừng chỉ còn 12.98% (số liệu năm 1989), và cung cấp gỗ vẫn còn khó khăn. Diện tích đất xói Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  23. Luận văn thạc sĩ Trang 23 Ngành: Kinh tế TNTN&MT lở mở rộng ra lên tới 150 triệu ha, 15.6% tổng diện tích đất; một phần ba đất nông nghiệp đối mặt với vấn đề sạt lở đất nghiêm trọng; và 6.67 triệu ha đất nông nghiệp bị chuyển thành bãi thải nước công nghiệp và đô thị. Để chiến đấu với các vấn đề môi trường, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một loạt các chính sách môi trường, các chương trình, các quy định trong lĩnh vực này. Phần lớn các thiết lập và chính sách môi trường sử dụng đều bao gồm hệ thống đánh giá tác động môi trường, hệ thống phí thải ô nhiễm công nghiệp, quỹ bảo vệ môi trường, các giấy phép phát thải ô nhiễm (bây giờ đang triển khai thử ở một số khu vực đô thị) và các đo lường quản lý môi trường khác. Năm 1994 Uỷ ban bảo vệ môi trường quốc gia Trung Quốc đã phát động chương trình bảo vệ môi trường 5 năm, với mục tiêu cho đến cuối năm 1998 giảm ô nhiễm công nghiệp xuống bằng cách xử lý được 80% trong tổng số nước thải công nghiệp và 88% khí thải công nghiệp. Tuy nhiên vì thiếu các mô hình định lượng nhất quán cho việc phân tích chính sách môi trường, toàn bộ hiệu quả của các chính sách môi trường này và các chương trình kiểm soát ô nhiễm nhiễm cũng như các hàm ý kinh tế vẫn chưa được biết. Cần thiết cho các mô hình để đánh giá các tác động kinh tế môi trường của những chính sách và chương trình này. Vì vậy cho nên mô hình CGE môi trường được phát triển trong phần 3 được áp dụng ở Trung Quốc cho mục đích này. Trung Quốc có 7 ngành sản xuất: nông nghiệp, mỏ, công nghiệp nhẹ, năng lượng, công nghiệp nặng, xây dựng và dịch vụ. Các nhân tố sản xuất bao gồm 2 nhân tố chính, lao động và vốn và các đầu vào trung gian. Cung vốn và lao động tổng hợp được xác định một cách ngoại sinh. Tỉ lệ lương trung bình cũng được cố định trong mô hình phản ánh tính cứng nhắc trong lương của Trung Quốc. Các biến ngoại sinh khác bao gồm tỉ lệ trao đổi ngoại tệ, chi tiêu hàng hoá của chính phủ, trợ cấp chính phủ và nợ. Mô hình xác định ba loại ô nhiễm tổng quát: Nước thải, bụi khói lẫn sương, chất thải rắn. Vì vậy, có ba ngành giảm thiểu ô nhiễm tương ứng. Mô hình bao gồm tất cả có 289 bíên nội sinh. Các biến ngoại sinh hoặc các biến kiểm soát chính sách của mô hình bao gồm rất nhiều loại khác nhau của tỉ lệ thuế, trợ Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  24. Luận văn thạc sĩ Trang 24 Ngành: Kinh tế TNTN&MT cấp, chi tiêu chính phủ, vay mượn chính phủ, tỉ lệ lương trung bình và tỉ lệ trao đổi ngoại tệ. Các tham số ước lượng ở trên có các sai số không thể tránh khỏi hoặc chứa đựng những điểm phi tất yếu. Hơn nữa các sai số và những điểm phi tất yếu này ảnh hưởng đến kết quả mô phỏng chính sách của mô hình. Vì vậy nên phân tích độ nhạy cần được sử dụng để kiểm tra tính thiết thực của các kết quả mô phỏng đối với sự thay đổi trong cường độ ô nhiễm. Các kết quả phân tích độ nhạy cho biết các xu hướng của sự thay đổi biến là ổn định cùng với sự thay đổi cường độ ô nhiễm đã kiểm tra. Sử dụng mô hình ở Trung Quốc, đã kiểm tra một vài lựa chọn chính sách môi trường. Chúng bao gồm việc tăng tỉ lệ thuế phát thải ô nhiễm dựa vào nước thải, trợ cấp cho các hoạt động xử lý nước thải, đánh thuế rác thải và nước thải cống của các hộ gia đình và tăng mua bán các dịch vụ xử lý nước thải của chính phủ. Để đánh giá các tác động kinh tế của chương trình bảo vệ môi trường 5 năm của Trung Quốc, đánh giá tác động là một trong số những mục tiêu chính của chương trình, tăng lượng nước thải được xử lý lên đến 80% cũng được sử dụng. Trung Quốc bắt đầu đưa vào một hệ thống đánh thuế ô nhiễm vào những năm cuối 1970. Cho đến năm 1990, Trung Quốc đã đưa ra phí thải dựa vào lượng phát thải của khoảng 100 loại chất gây ô nhiễm ở 4 loại ô nhiễm là: Ô nhiễm nước, ô nhiễm khí ga, chất thải rắn và tiếng ồn. Năm 1990 tổng thuế phát thải ô nhiễm thu được là 1.75 tỉ Yuan và năm 1991 là 2.06 tỉ Yuan. Thuế phát thải ô nhiễm cung cấp một nguồn quan trọng cho quỹ bảo vệ môi trường đặc biệt, tổ chức mà chủ yếu đầu tư vào các hoạt động kiểm soát ô nhiễm công nghiệp. Mặc dù hệ thống đánh thuế ô nhiễm là đáng ca ngợi như các phương pháp thành công của việc tăng thêm quỹ để kiểm soát ô nhiễm nhưng nó cũng có điểm yếu. Một điểm yếu quan trọng là phí hiện nay quá thấp để cho những người gây ô nhiễm có động cơ giảm thấp lượng phát thải của họ. Cần tăng phí xả thải đã được thảo luận nhiều năm. Một câu hỏi đặt ra bây giờ là phí này nên tăng lên bao nhiêu và tác động của việc tăng này lên nền kinh tế và kiểm soát ô nhiễm sẽ là gì. Với các tỉ lệ thuế phát thải ô nhiễm được kết hợp vào mô hình CGE môi trường, một ai đó có thể sử dụng mô hình để mô phỏng hiểu quả của việc tăng phí phát thải ô nhiễm. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  25. Luận văn thạc sĩ Trang 25 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Phí phát thải ô nhiễm nước thải được lựa chọn cho các yêu cầu chính sách này. Tỉ lệ thuế vào năm 1990 là 0.2 yuan một tấn. Giả định một cách tuỳ ý là chính phủ tăng tỉ lệ thuế lên 25%, 50%,100%,150% và 200% thì sẽ có sự thay đổi trong các biến quan trọng như tổng đầu vào, thu nhập, việc làm, tiết kiệm, mức giá, giảm thiểu ô nhiễm và phát thải ô nhiễm. Nói chung, khi tỉ lệ thuế tăng lên, các kết quả mô phỏng một cách định lượng chỉ ra sự giảm ổn định trong sản xuất và sự tăng ổn định trong chỉ số giá. Hơn nữa, việc giảm sản xuất gây ra tỉ lệ thất nghiệp tăng lên và mức độ tạo ra ô nhiễm giảm đi. Tổng sản phẩm quốc nội thực (GDP) giảm xuống, tiếp theo là việc giảm trong mức độ sản xuất. Các xu hướng quan sát được từ các mô hình hoá nhất quán với lý thuyết đánh thuế ô nhiễm của kinh tế môi trường. Các kết quả mô phỏng từ mô hình cũng cung cấp những thay đổi thuộc ngành trong sản xuất và tiêu dùng chi tiết hơn, cho phép có một cái nhìn gần hơn về những tác động của việc tăng thuế ô nhiễm lên mỗi ngành riêng biệt. Trừ ngành năng lượng, các sản phẩm ngành sản xuất giảm xuống khi tỉ lệ thuế phát thải nước thải tăng. Chẳng hạn, khi tỉ lệ thuế tăng lên 50%, 0.3yuân/tấn. Sản phẩm của ngành công nghiệp nặng giảm xuống 0.27% hoặc Tác động tiêu cực lên sản xuất thậm chí ảnh hưởng đến các ngành không gây ô nhiễm như nông nghiệp (giảm 1.78 tỉ Yuan và 0.23%) và các ngành dịch vụ (giảm 1.2 tỉ Yuan và 0.16%). Quan tâm đến tính hiệu quả của việc tăng tỉ lệ đánh thuế vào việc xử lý nước thải, sự mô phỏng chỉ ra rằng kịch bản tăng tỉ lệ thuế lên 25% (từ 0.25 yuân/tấn năm 1990 lên 0.25) không đủ giảm phát thải ô nhiễm. Trong khi một cách tương ứng tỉ lệ thuế tăng lên thì ngành công nghiệp đơn giản đứng ra và trả nhiều thuế hơn cho việc phát thải nước ô nhiễm. Tổng thuế phát thải ô nhiễm từ 3 loại phát thải ô nhiễm tăng lên từ 1.2 tỉ yuan trong 1 năm lên 1.45 tỉ Yuan. Khi tỉ lệ thuế tăng lên 0.3 yuan/tấn (tăng 50%), tỉ lệ làm sạch cho nước thải công nghiệp tăng từ 37.7% (4.5 tỉ tấn nước thải đã được xử lý) trong một năm tăng lên 65.4% (7.8 tỉ tấn nước thải). Chú ý rằng một khối lượng nước thải giảm đáng kể khi tăng 50% hoặc cao hơn nữa tỉ lệ thuế nước thải. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  26. Luận văn thạc sĩ Trang 26 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Trong khi đánh giá các kết quả mô phỏng từ các chính sách môi trường, một ai đó nên chú ý rằng mô hỉnh chỉ đo lường những thành tựu hoặc những cái mất của một chính sách môi trường. Không có các lợi nhuận phi tiền từ việc giảm thiểu ô nhiễm thu được bởi mô hình. Tuy nhiên các kết quả mô phỏng từ mô hình có thể rất hữu ích cho các nhà làm chính sách đánh giá các tác động kinh tế và hiệu quả giảm thiểu ô nhiễm của một chính sách kiểm soát ô nhiễm. Khác với đánh thuế, trợ cấp hướng đến kết quả trong việc giảm giá bvà tăng mức sản xuất của một ngành nhận được trợ cấp. Các kết quả đầu tiên của hai kịch bản trợ cấp ô nhiễm. Giá của việc làm sạch nước thải giảm 10.3% với trợ cấp thấp và giảm 14.4% với trợ cấp cao. Việc giảm giá làm sạch đưa đến việc giảm các chi phí giảm thiểu ô nhiễm của các ngành sản xuất và hơn nữa giảm giá sản phẩm. Tuy nhiên, tác động lên giá sản phẩm là rất nhỏ trong cả hai kịch bản và không đủ để được phản ánh trong chỉ số giá. Mức xử lý nước thải được tăng lên bằng cách tăng nhu cầu xử lý nước thải do chi phí thấp. Mức tổng nước thải xử lý tăng 51.7% khi trợ cấp 400 tỉ Yuan được cung cấp cho ngành xử lý nước thải. Mặc dù các trợ cấp kích thích sản xuất của ngành xử lý nước thải, nhưng chúng ảnh hưởng một cách tiêu cực đến sản phẩm sản xuất đưa ra nguồn tài nguyên vốn bị giới hạn có sẵn trong nền kinh tế. Tổng sản phẩm giảm xuống trong cả hai kịch bản. Có sự khác nhau giữa hai kịch bản (200 tỉ Yuan và 400 tỉ Yuan) trong tác động của chúng lên sản phẩm và thu nhập. Tình huống trợ cấp thấp có tác động nhỏ hơn lên nền kinh tế. Sản phẩm sản xuất giảm một cách nhẹ nhàng trong bối cảnh này. Giá trị của tất cả các biến rât gần với các giá trị năm gốc. Mức xử lý nước thải tăng nhẹ từ 4.5 tỉ tấn lên 4.7 tỉ tấn. Tuy nhiên, ở bối cảnh trợ cấp cao hơn làm cho sản xuất giảm hơn. Tỉ lệ thất nghiệp tăng từ 4% lên 4.11% khi đó thu nhập và tiết kiệm giảm. Những thay đổi trong sản xuất thuộc ngành được chi tiết từ hai mô phỏng trợ cấp ô nhiễm. so sánh với quan sát ở năm gốc, một ai đó có thể phát hiện ra rằng trợ cấp các ngành giảm thiểu ô nhiễm thực sự gây tổn hại đến các ngành hoàn toàn không ô nhiễm hoặc các ngành ít ô nhiễm hơn, giảm đi, chẳng hạn sản phẩm của ngành nông nghiệp và dịch vụ tương ứng là 840 triệu Yuan và 630 triệu Yuan. Tuy nhiên, các sản phẩm Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  27. Luận văn thạc sĩ Trang 27 Ngành: Kinh tế TNTN&MT của các ngành tập trung ô nhiễm như mỏ và năng lượng không bị tác động một cách tiêu cực. Điều này là vì tất cả các ngành được giả định là cạnh tranh nhau cho nguồn tài nguyên vốn dưới ràng buộc cung vốn chặt. Khi các ngành dựa nhiều vào vốn như là mỏ và năng lượng trở bắt đầu có hiệu lực lợi nhuận – chi phí hơn vì việc giảm các chi phí giảm thiểu ô nhiễm của họ. Họ có lợi thế trong việc thu được vốn để tăng thêm sản xuất của họ. 1.3. Thách thức đối với Việt Nam trong quản lý tài nguyên và môi trường Ngành nước Việt Nam đang đối mặt với một tình trạng khủng hoảng trên diện rộng, đòi hỏi phải có những hành động khắc phục ngay trên nhiều mặt trận. Tuy nhiên, rất ít người nhận ra nguy cơ khủng hoảng này chứ chưa nói đến nhận thức mức độ và phạm vi của nó. Ngành nước đang bị bao vây bởi nhiều vấn đề quan trọng từ việc thiếu dữ liệu cho tới khả năng đầu tư tài chính hạn chế, thiếu quyền sử dụng nước và ô nhiễm trầm trọng. Một chương trình cải tổ quy mô đã được đề xuất nhằm đối phó với các vấn đề trên và đưa Việt Nam tiếp tục trên con đường QLTNNTH. Tuy nhiên, có rất nhiều thử thách to lớn nếu Việt Nam chấp nhận và thực hiện chương trình đề xuất này. Ngành nước Việt Nam đang nhận thấy QLTNNTH là hết sức cần thiết trong tương lai. Tuy nhiên, trên tất cả các mặt trận, cách tiếp cận QLTNNTH ở Việt Nam còn đang trong thời kỳ trứng nước. Luật Tài nguyên Nước đáng lẽ cần phải xem xét lại nhiều năm trước đây, nhưng vào thời điểm đó lại không tìm được sự hỗ trợ quốc tế nào. Việc thiếu các thông tin và dữ liệu tốt và sẵn có là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất, cộng với việc thu phí diễn ra không công khai đối với nguồn dữ liệu do nhà nước tài trợ thu thập, đang làm méo mó quá trình ra quyết định. Các bước đầu tiên đã được thực hiện với các biện pháp kinh tế nhưng bản thân chúng lại đang bị hạn chế do chính phủ kiểm soát và không được áp dụng hiệu quả. Quyền sử dụng nước không được xác định và mặc dù quá trình cấp phép đang diễn ra, vẫn còn thiếu sự tập trung và hỗ trợ cần thiết. Các nỗ lực quản lý chất lượng nước không hiệu quả, ô nhiễm ngày càng gia tăng ở hầu hết các khu vực gần các trung tâm đô thị/công nghiệp đông đúc, đang tạo nên mối đe dọa ngày càng tăng cho sức khỏe con người. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  28. Luận văn thạc sĩ Trang 28 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Các điều khoản bảo vệ môi trường thiếu trầm trọng, nước không được xem là một phần của hệ sinh thái, và quá trình lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường không được thực hiện hiệu quả. Trên nhiều mặt trận QLTNNTH không có chính sách rõ ràng – ví dụ đâu là tiêu chuẩn phù hợp cho cấp nước sạch nông thôn? Quyền sử dụng nước là gì? Nước được chia sẻ như thế nào? Dòng chảy môi trường là gì? Dòng chảy môi trường được áp dụng như thế nào? Chính sách của chính phủ Việt Nam về “dòng sông không bị ảnh hưởng” v.v Hiểu biết về các vấn đề liên quan đến nước ở tất cả các cấp của chính phủ và trong cộng đồng còn rất hạn chế. Các cơ quan của chính phủ có văn hóa tập trung chủ yếu vào Bộ và các nhu cầu của họ, hơn là chú ý đến các quy định và các yêu cầu do chính phủ đặt ra. Một trong các thất bại chính là việc thiếu sự hỗ trợ và hành động của chính phủ và các IDP trong việc giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến QLTNNTH, điều này có thể nhận thấy rõ ràng. Nhiều vấn đề ngành đang phải đối mặt cũng đã được xác định trong báo cáo Rà soát ngành nước đầu tiên được thực hiện khoảng 1 thập kỷ trước. Năm 2003, với sự hỗ trợ của nhiều IDPs, chính phủ Việt Nam đã thành lập Bộ TNMT để đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước đối với tài nguyên nước. Nhưng khi tiến hành quyết định cứng rắn và đúng đắn đó, cả chính phủ và các IDP đều không cung cấp một sự hỗ trợ thực tế nào cho Bộ mới này khi Bộ bắt đầu nỗ lực để bắt đầu đưa Việt Nam đi trên con đường tiến tới QLTNNTH. Bộ TNMT hiện rất thiếu nguồn nhân lực và thiếu sự hỗ trợ; Bộ cũng đứng ngoài những chương trình tài nguyên quan trọng đang được vận hành bởi các tổ chức lớn và truyền thống từ trước đến nay. Cách quản lý nước truyền thống vẫn tiếp tục dưới sự hỗ trợ của chính phủ và IDP, như thể Bộ TNMT chưa từng được thành lập. Trong tình hình này sẽ cực kỳ khó khăn cho Bộ TNMT phát triển và trở thành một Bộ hoạt động mạnh và hiệu quả. Công tác quản lý ngành nước hiện tại đang bị lấn át bởi các cách tiếp cận truyền thống hơn là cách tiếp cận dựa trên QLTNNTH. Chính phủ và các IDP phải nhận ra điều này và chấp nhận thực tế là các cách quản lý truyền thống đang mang lại các vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  29. Luận văn thạc sĩ Trang 29 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Quy hoạch lưu vực sông là một ví dụ. Một số sáng kiến về lưu vực sông đã được thực hiện trong vòng 1 thập kỷ qua hay lâu hơn thông qua các cách tiếp cận truyền thông, hầu hết đều dựa trên việc lập các quy hoạch tổng thể phát triển tài nguyên nước. Tuy nhiên, các cách trong lập quy hoạch lưu vực sông truyền thống đã không ngăn chặn được tình huống hiện nay là các lưu vực đang ngày càng lún sâu vào các giai đoạn khác nhau của sự căng thẳng, và nguồn nước sẵn có đang giảm dần. Các quy hoạch khác nhau của lưu vực sông Đồng Nai và tổ chức lưu vực sông Đồng Nai mới thành lập năm 2001 đã không tránh cho con sông này, vốn có vai trò quan trọng trong cấp nước và điện cho các trung tâm kinh tế của Việt Nam, trở thành con sông chịu áp lực và ô nhiễm nhất Việt Nam. Ngày nay Việt Nam đang đòi hỏi quá nhiều từ con sông này, vẫn theo cách tiếp cận quy hoạch truyền thống. Các cách tiếp cận trong quy hoạch lưu vực sông trong quá khứ đã thất bại, và xét đến tầm quan trọng của việc áp dụng biện pháp này trong tương lai ngành nước, các cách tiếp cận QLTNNTH mới là rất cấp thiết. Các cách tiếp cận truyền thống đã khiến ngành cấp nước đô thị và vệ sinh bỏ qua rất nhiều đối tượng. Khoảng 8,5 triệu người dân đô thị không được tiếp cận nước sạch và những người được cấp nước thì tiêu chuẩn dịch vụ rất thấp. Chính phủ Việt Nam đang cố gắng cung cấp đầy đủ và hiệu quả các dịch vụ cấp nước nhằm đáp ứng nhu cầu dân cư đô thị và các ngành công nghiệp đang bùng nổ; nhưng các UBND tỉnh lại đặt mức giá nước thấp ở mức không thể giúp duy trì ngành kinh doanh nước và đặt gánh nặng vận hành và ra quyết định lên vai chính quyền. Trong ngành cấp nước đô thị, các cách tiếp cận truyền thống đang cản trở tiến bộ trong một lĩnh vực quan trọng đối với thành công trong kinh tế và xã hội. Ở đầu kia của cấp nước đô thị, các dịch vụ vệ sinh thiếu trầm trọng. Theo cách tiếp cận hiện tại, tình trạng này sẽ không được cải thiện đáng kể, ngoại trừ ở một số nơi tại một số ít các thành phố lớn. Việc tài trợ cơ sở hạ tầng quy mô lớn vượt quá khả năng của chính phủ - và giá nước bị chặn ở mức thấp hơn nhiều mức có thể sinh lợi cho hoạt động kinh doanh nước. Đây là điều có thể dễ hiểu và cũng là không may mắn trong trường hợp Việt Nam, vì cấp nước và vệ sinh được xem là một vấn đề xã hội và chịu sự kiểm soát nặng nề của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu xã hội. Ở các Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  30. Luận văn thạc sĩ Trang 30 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nước phát triển, cấp nước đô thị và vệ sinh được xem như một hàng hóa như tất cả các mặt hàng công cộng khác là ga, điện, viễn thông v.v Điều thú vị là chính phủ Việt Nam đã tiến hành cải tổ cơ bản ngành năng lượng trong đó bao gồm việc cải thiện quản lý kinh tế nhờ cơ chế thị trường tự tài trợ, giảm độc quyền, tách tổ chức, đa sở hữu trong khi chính phủ vẫn tạo điều kiện cho việc đạt được các chính sách xã hội quốc gia. Dường như người ta nhìn nhận “nước” khác với các loại hàng hóa khác, nước là một tài nguyên công cộng quan trọng và là một phần tất yếu của đời sống con người. Vì vậy, những cải tổ quan trọng như trên trong ngành nước thường tụt hậu so với các ngành công cộng khác. Tuy nhiên, một khi đã tiến hành các bước đi cần thiết, dịch vụ nước cho khách hàng ở các thành phố và thị trấn sẽ được nhìn nhận như một hàng hóa công cộng, và sẽ mang lại lợi ích đáng kể và nhanh chóng cho chính phủ, cho khách hàng, cho cộng đồng nói chung và cho môi trường. Việc tiến hành các bước cải tổ các ngành công cộng ở Việt Nam giờ đang là việc làm cấp thiết. Về cấp nước nông thôn và vệ sinh, có 21 triệu người không được tiếp cận nước vệ sinh, và 41 triệu người không có nguồn cấp đạt tiêu chuẩn nước sạch của Bộ Y tế. Phần lớn người dân nông thôn không có nhà xí đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Tuy nhiên, mặc dù có những thử thách to lớn như vậy, đây là một ví dụ về việc cách tiếp cận truyền thống đã được thay đổi hoàn toàn trong CTMTQG II, và kết quả mang lại vượt trên mong đợi. Một cách tiếp cận mới có tính hợp tác và tổng hợp, tăng cường quá trình ra quyết định “từ dưới lên” đang được xây dựng. Trong khi có nhiều vấn đề trong thực tế quá trình xây dựng cách tiếp cận này, cho đến hiện tại nhiều thành tựu đã đạt được hơn sơ với khi áp dụng cách tiếp cận truyền thống. CTMTQG II xứng đáng được nhận nhiều sự hỗ trợ hơn. Tưới từ lâu đã là trụ cột của cộng đồng nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành tưới trong nhiều năm qua đã bảo đảm an ninh lương thực và đưa Việt Nam thành một nước xuất khẩu gạo lớn. Tưới trong trồng lúa là yếu tố hết sức quan trọng đối với hầu hết các cộng đồng nông thôn. Tuy nhiên, quản lý tưới hiện nay đang đi theo phương pháp truyền thống, và hiện tại nước tưới đang được cấp miễn Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  31. Luận văn thạc sĩ Trang 31 Ngành: Kinh tế TNTN&MT phí, và truyền thống cũ lại càng được khoét sâu thêm. Trong thực tế, tưới là một phương tiện cung cấp dịch vụ xã hội cho hầu hết người dân nông thôn. Ngày nay, nước tưới vẫn cấp không đủ và hiệu quả, cơ sở hạ tầng ngành tưới cũ và xuống cấp trầm trọng, hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước và vốn ODA để duy trì hoạt động của hệ thống. Với mức đầu tư hiện tại tất cả các hệ thống đang hoạt động ở mức kinh phí rất eo hẹp; tất cả các công trình tiếp tục đang xuống cấp, mặc dù có các dự án khôi phục cải tạo nhờ vốn ODA, vẫn có nhiều công trình cuối cùng sẽ không hoạt động một phần hay toàn bộ. Cải tổ ngành tưới sẽ luôn là một tình huống tiến thoái lưỡng nan của chính phủ vì tình hình đói nghèo ở khu vực nông thôn hiện nay. Tất cả các hình thức cải tổ ngành tưới đều diễn ra rất chậm chạp. Nông dân có rất ít tiếng nói trong quản lý hệ thống cho được đã có một số thành công của PIM – các hệ thống tưới được xây dựng để phục vụ trồng lúa, nguồn nước do các Công ty thủy nông cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu nước tưới. Nếu thủy lợi phí bị bãi bỏ, sẽ không còn động cơ khuyến khích người nông dân tham gia và quản lý tưới. Đa dạng hóa cây trồng cũng gặp khó khăn vì hoạt động cấp nước là từ trên xuống và không xuất phát từ nhu cầu của nông dân. Trong tương lai chính phủ sẽ cần ra các quyết định mạnh mẽ hơn để cách tiếp cận truyền thống được phát triển tiếp tục ở mức độ nào để việc cấp nước tưới được sử dụng như một phương tiện để cung cấp hỗ trợ xã hội, cùng với những cải cách lớn có thể vẫn được thực hiện tạo nên nhiều khu vực tin cậy, một ngành thủy lợi đổi mới và tiến bộ. Những kiến nghị sẽ được nêu ở phần sau của Báo cáo. Việc giải quyết các ảnh hưởng của thiên tai cũng là một lĩnh vực đang gắn liền với cách thức quản lý thực hành truyền thống. Có hai khía cạnh cần xem xét. Một là sự đối phó khi thiên tai xảy ra, và lịch sử lâu đời trong việc đối phó với các trận bão to đã tạo nên một mạng lưới vững mạnh và một văn hóa đối phó thiên tai lâu đời. Khía cạnh thứ hai là công viêc được tiến hành giữa những đợt thiên tai trong quá trình xây dựng cách tiếp cận nhằm đối phó tốt hơn với thiên tai trong tương lai (làm thế nào để ngăn chặn không cho chúng trở thành thiên tai đối với con người) và bảo vệ cộng đồng khỏi các tác động của chúng. Tuy nhiên, khía cạnh này Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  32. Luận văn thạc sĩ Trang 32 Ngành: Kinh tế TNTN&MT lại được dựa trên một cách tiếp cận công trình truyền thống mạnh mẽ đối với thiên tai, đặc biệt là thông qua việc xây dựng đê kè, cơ quan trung ương có nhiệm vụ đối phó với thiên tai được giao nhiệm vụ xây dựng giải pháp công trình truyền thống này. Tuy nhiên, các biện pháp công trình thường không hiệu quả đối với hầu hết các sông bị ảnh hưởng ở miền Trung Việt Nam, nơi có rất nhiều người chết hàng năm do thiên tai. Việt Nam cần xây dựng các biện pháp hữu hiệu hơn để có thể áp dụng nhiều biện pháp phi công trình, nhờ đó cứu được nhiều người hơn, và các biện pháp đó cũng có hiệu quả tại các tỉnh với cách tiếp cận dựa vào cộng đồng. Cũng như vậy, việc làm cấp thiết hiện giờ là tạo dựng nguồn nhân lực chuyên trách việc đối phó thiên tai vì các cán bộ phụ trách mảng này đều là cán bộ kiêm nhiệm. Phát triển thuỷ điện đang diễn ra với tốc độ cao. Đáng tiếc, thủy điện đã đi trước ngành nước quá xa. Chương trình cải cách năng lượng của chính phủ đang chuyển dần chức năng của chính phủ từ chức năng của người vận hành sang chức năng điều hành do khu vực tư nhân ngày càng tham gia nhiều hơn có vai trò nhiều hơn trong lĩn vực cung cấp năng lượng. Do những cải tổ này là bản chất của cơ chế thị trường, chúnh cần được hỗ trợ bởi một tiến trình của các cải tổ khác về điều hành, như cần có chế độ xác định rõ ràng hơn quyền và chức năng, minh bạch hơn và tiếp cận thông tin tốt hơn, bảo vệ về mặt pháp lý mới về quyền được phê phán v v. những yếu tố trên sẽ tạo nên quá trình ra quyết định chung cũng như ảnh hưởng đến các đầu tư riêng lẻ. Một khung pháp lý mạnh cần được tạo ra thông qua quá trình rõ ràng, có sự tham vấn rộng rãi và những quy chế có thể áp dụng được cho cả chính phủ và cả những đói tương vận hành không phải chính phủ. Đáng tiếc ở Việt Nam, Vai trò thực sự của nhiều cơ cấu quan trọng trong ngành nước còn đi sau những gì đáng ra nó phải làm. Tiến trình thực hiện EIA là yếu, không xây dựng được Quyền sử nước rõ ràng và minh bạch đã tạo nên cơ sở nghèo nàn cho các đầu tư, nhu cầu của tất cả người dùng nước đã không được xem xét một cách thoả đáng đặc biệt đối với nhu cầu của những cộng đồng nằm ở hạ lưu các lưu vực sông, cần xây dựng yêu cầu chất lượng nước và đưa vào thực hiện v v. Trong khung cảnh như vậy một cách tiếp cận thận trọng dường như là một cách tốt để trách được cái Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  33. Luận văn thạc sĩ Trang 33 Ngành: Kinh tế TNTN&MT giá phải trả trong tương lai. Thuỷ điện hoặc cần đi chậm hơn để nhiều phần của ngành nước bắt nhịp theo kịp hoặc ngành nước cần phải có những đột phá mạnh mẽ và khẩn cấp. Giao thông thuỷ thường là phần quên lãng của ngành nước. Những nhu cầu của nó không được xét đến trong quá trình hình thành quyết định của ngành nước mà thường được kết hợp vào với các quyết định khác. Tuy nhiên tương lai của một tiểu ngành phải được xác định bằng chỉ tiêu kinh tế - những phần mà tiểu ngành cung cấp dịch vụ với mức độ hoàn vốn hấp dẫn về kinh tế của ngành. Khi được xác định đúng vai trò, các giá trị giao của thông thủy và hạ tầng cần bảo vệ và nhìn nhận lớn hơn nhiều nhờ sự phát triển của các bộ phận khác của ngành nước. Qui hoạch lưu vực sông chính là chỗ tốt nhất những vấn đề giao thông thủy được nhìn nhận. Mối quan hệ giữa các Chương trình tài trợ quốc tế (CTTTQT) và Chính phủ đang trong một giai đoạn chuyển tiếp vì cả hai đang tìm kiếm cơ hội thực hiện Tuyên bố chung Hà Nội. CTTTQT cung cấp hỗ trợ to lớn cho ngành nước của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng thấy rõ là một số CTTTQT trong số đó có nhiều nhà tài trợ lớn tiếp tục hành động riêng rẽ với các nhà tài trợ khác dẫn đến có sự trùng lập và chồng chéo trong nhiều họa động. Thí dụ UBND thành phố Hồ Chí Minh đang được 6 CTTTQT khác nhau tiếp cận riêng rẽ về cùng một vấn đề như đã nói ở trên. Các CTTTQT không có cách tiếp cận chiến lược chung- chỉ có ít các nhà tài trợ làm việc với nhau về những dự án có cùng những mục tiêu và hầu hết các hỗ trợ ODA vẫn tập trung vào những lĩnh vực truyền thống. Đầu tư nước ngoài hiện tại phản ảnh sự tập trung cao vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Mức độ hỗ trợ cho các dự án hạ tầng có thể là hoàn phù hợp và cần thiết không có vấn đề gì phải nghi ngại. Tuy nhiên, nhiều khu vực trong quản lý tài nguyên nước đã nhận được rất ít hoặc không nhận đước sự hỗ trợ nào. Sự thiếu đầu tự cho QLTNNTH là đáng báo động, như trong những lĩnh vực như cải cách pháp lý, chính sách và xây dựng chiến lược, xác lập quyền dùng nước, hệ thống thống thông tin dữ liệu, qui hoạch lưu vực sông, các công cụ như cấp phép, định giá nước, bảo vệ tài sản môi trường, quản lý chất lượng nước và huy động sự tham gia của cộng đồng. Những công cụ này là tối quan trọng Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  34. Luận văn thạc sĩ Trang 34 Ngành: Kinh tế TNTN&MT để ngành nước Việt Nam có thể phát triển một cách bền vững. Một kết luận thuyết phục khác là thiếu hỗ trợ cho Bộ TNMT sự hỗ trợ trực tiếp từ CTTTQT là dưới 1% trong toàn bộ tài trợ. Một kết luận rất rõ ràng từ Rà soát Tổng quan Ngành Nước cần có những thay đổi lớn và cấp bách để Việt nam thực sự có thể bắt đầu thực hiện tiến bộ thực sự hướng tới QLTHTNN, theo những khinh nghiêm tố của quốc tế. Cần một sự thay đổi văn hóa quan trọng cả trong và ngoài chính phủ, nếu những cách tiếp cận này đạt được kết quả và lợi ích cho các ngành, chính phủ và cộng đòng là được ghi nhận. Cách thức suy nghĩ và kinh nghiệm đã qua cần phải được thay đổi và cần đưa vào những khái niêm mới. Điều này cũng cần được các CTTTQT áp dụng. Các cải cách trong nghành nước cần được bắt đầu với việc nâng cao mạnh mẽ nhận thức về QLTNNTH và tăng cường năng lực ở cấp chính phủ và UBND các tỉnh thành, đặc biệt những vấn đề lien quan đế quyền dung nước, dòng chảy môi trường và bảo vệ nguồ nước. Viện trợ của DANIDA hiện tại cho Bộ TNMT để thực thi QLTNNTH cần phải bảo đảm rằng quá trình nâng cao nhận thức này cần được bắt đầu ngay. Những kiến nghị và các chương trình cho các hoạt động được đặt ra cái gì là đòi hỏi không chỉ giúp Việt Nam khởi động trên con đường thực hiện QLTNNTH mà cũng còn đưa ra những bước quan trọng trong suốt quá trình đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên đây là chương trình đầy tham vọng và yêu cầu những ưu tiên cao để có thể tiến đến thành công. Sự hiểu và hỗ trợ từ các CTTTQT, nguồn to lớn yêu cầu cho công cuộc này, không chỉ là việc xây dựng thêm công trình mới (chủ yếu là thủy lợi và vệ sinh) mà quan trọng là QLTNNTH – bao gồm luật, chính sách, qui hoạch lưu vực, quyền dùng nước, bảo vệ nguồn nước và các công cụ khác của QLTNNTH. Sự hỗ trợ lớn lao từ chính phủ cho Bộ TNMT, như là người quản gia cho nguồn tài nguyên quốc gia, để có thể trở thành hiện thực, nhận lấy chức năng nó đã được giao phó. Không có đầu mối lãnh đạo mạnh và hiệu quả , QLTHTNN sẽ bị rời rạc và không hiệu quả, cách tiếp cận truyền thống sẽ lấn át, và phần lớn các lưu vực Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  35. Luận văn thạc sĩ Trang 35 Ngành: Kinh tế TNTN&MT sông sẽ tiếp tục vòng soáy chôn ốc đi xuống như hiện tại. Các cộng đồng sống trong lưu vực song sẽ tiếp tục phải chịu đựng sự vô cảm và vô vàn vấn đề nghiêm trọng hơn cần phải giải quyết trong tương lai. Cần một sự can thiệp mạnh mẽ bảo vệ nguồn tài nguyên và CTTTQT cần phải giúp công việc này. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  36. Luận văn thạc sĩ Trang 36 Ngành: Kinh tế TNTN&MT CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH CGE TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG 2.1. Tóm tắt Tính toán mô hình cân bằng tổng quát (CGE) là một nỗ lực để sử dụng lý thuyết cân bằng tổng thể như một công cụ để phân tích phân bổ nguồn lực và các vấn đề phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường. Kể từ đầu những năm 1990, mô hình CGE đã được sử dụng rộng rãi để phân tích chính sách môi trường và các vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên. Mục đích của chương này là để xem xét các nhánh của mô hình CGE. Hầu hết các mô hình CGE hiện có là tĩnh, nhưng với công cụ máy tính có cấu hình cao và phần mềm xử lý hiệu quả hơn đang phát triển thì một số lượng các mô hình CGE động về môi trường ngày càng gia tăng. Ngoài ra phạm vi các mô hình tĩnh và mô hình động rất hữu ích để phân biệt giữa các mô hình của một quốc gia, đa quốc gia và toàn cầu. Một số mô hình CGE môi trường chủ yếu tập trung vào các tác động bên ngoài của sản xuất và tiêu dùng, trong khi một số khác được thiết kế để làm sáng tỏ các vấn đề khác nhau liên quan đến việc quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, các mô hình CGE hiện tại hầu hết tập trung vào các yếu tố bên ngoài, chủ yếu là phát thải khí nhà kính. Toàn cầu "yếu tố bên ngoài" mô hình CGE đã được sử dụng để ước tính chi phí xã hội tuân thủ Nghị định thư Kyoto, trong khi mô hình một quốc gia, đã được sử dụng để đánh giá hiệu quả của các loại thuế khí thải và các công cụ chính sách môi trường khác. Mô hình CGE hiện nay là cả một lĩnh vực cho các chuyên gia và là một phần gần như tiêu chuẩn của hộp công cụ của các nhà kinh tế quan tâm đến nghiên cứu định hướng chính sách. Một lý do chính cho việc sử dụng rộng rãi mô hình CGE có thể là cầu nối lý tưởng giữa lý thuyết kinh tế và nghiên cứu chính sách ứng dụng. Quan điểm "cầu nối", cho thấy rằng mô hình CGE là một cách để sử dụng chứ không phải là thử nghiệm lý thuyết kinh tế. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  37. Luận văn thạc sĩ Trang 37 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Tuy nhiên, các mô hình CGE thiết kế một cách cẩn thận và ước tính có rất nhiều điều để nói về thực tế thế giới nền kinh tế. 2.2. Giới thiệu Lý thuyết cân bằng tổng quát là một chính thức hoá của các quan sát đơn giản nhưng cơ bản của thị trường trong nền kinh tế thực của thế giới phụ thuộc lẫn nhau. Lý thuyết phân tích cân bằng tổng thể đã cung cấp những hiểu biết quan trọng về các yếu tố và cơ chế xác định giá tương đối và phân bổ các nguồn lực bên trong và giữa các nền kinh tế thị trường. Ví dụ, Debreu (1959) thuyết cân bằng tổng quát đã đạt đến một mức độ rất cao của sự chặt chẽ. Tuy nhiên, hầu hết các khoản đóng góp cho lý thuyết cân bằng tổng quát đã tập trung vào việc phân bổ hàng cá nhân và các nguồn lực tư nhân. Trường hợp ngoại lệ là MALER (1974), lấy cảm hứng từ Ayres và Kneese (1969), mở rộng khuôn khổ cân bằng tổng thể bao gồm các yếu tố bên ngoài và các nguồn tài nguyên môi trường với đặc điểm hàng hóa công cộng. Tính toán cân bằng tổng quát (CGE) là một nỗ lực để sử dụng lý thuyết cân bằng tổng thể như một công cụ hoạt động trong phân tích thực nghiệm theo định hướng phân bổ nguồn lực và các vấn đề phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường. Các mô hình CGE đầu tiên đã được trình bày bởi Johansen (1960), và với sự phát triển nhanh chóng của các máy tính và phần mềm phù hợp với một số lượng lớn các mô hình CGE đã được phát triển và được sử dụng để phân tích chính sách. Các ứng dụng bao gồm các phân tích của cải cách thuế quan trọng, thay đổi chế độ chính sách thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế, các chính sách nông nghiệp và chính sách năng lượng.Một số mô hình CGE đã được thiết kế để làm sáng tỏ các vấn đề chính sách khác nhau ở các nước đang phát triển. Từ đầu những năm 1990 mô hình CGE cũng đã trở thành một công cụ được sử dụng rộng rãi để phân tích chính sách môi trường và các vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên. Mục đích của chương này là để xem xét một nhánh của mô hình CGE tức là mô hình CGE trong phân tích chính sách và quản lý tài nguyên. Mục đích là để làm sáng tỏ các mô hình phương pháp tiếp cận được thông qua, Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  38. Luận văn thạc sĩ Trang 38 Ngành: Kinh tế TNTN&MT chính sách và các vấn đề quản lý tài nguyên được xử lý trong các mô hình CGE "môi trường". Ngoài ra một số vấn đề cụ thể trong mô hình CGE môi trường sẽ được thảo luận. Một số mô hình cụ thể sẽ được giới thiệu, nhưng chương này chưa phải là tiếp cận đầy đủ của tất cả các mô hình CGE dành cho quản lý tài nguyên môi trường và phân tích chính sách. 2.3. Mô hình CGE là gì và mô hình này hữu ích cho những gì? Không có định nghĩa chính xác của một mô hình CGE, nhưng bất cứ khi nào sử dụng mô hình này thì đều có một số tính năng cụ thể. Về cơ bản nó là một mô hình đa ngành, đa lĩnh vực dựa trên dữ liệu thực của một hoặc một số nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, trong lý thuyết cân bằng tổng quát thì có liên quan với sự tương tác của một số lượng lớn các hộ gia đình, cá nhân và các công ty. Hầu hết các mô hình CGE có được khá tổng hợp. Như vậy, trong một mô hình CGE điển hình là chỉ có một hoặc có thể là một vài "hộ gia đình", trong khi số lượng các ngành sản xuất nói chung là rất lớn. Nói chung, công nghệ này được giả định để trình bày suất không đổi theo quy mô, và sở thích được giả định là đồng đẳng. Lợi ích và hành vi tối đa hóa lợi nhuận trên là một phần của hộ gia đình và các công ty thường được giả định, và các hàm cầu là đồng nhất của cấp số không về giá và đáp ứng luật Walras. Hơn nữa, thị trường sản phẩm và các yếu tố được cho là cạnh tranh, và tương đối đủ linh hoạt về giá đối với tất cả các sản phẩm và thị trường. Một sự khác biệt quan trọng so với mô hình đầu vào-đầu ra (input/output) của Leontief là trong một mô hình CGE điển hình các hệ số công nghệ rất linh hoạt và được xác định bởi giá cả tương đối. Các mô hình CGE luôn luôn được chuẩn hoá bởi nền kinh tế thực và do đó không bao gồm các thị trường tài chính. Đây là một trong những sự khác biệt giữa các mô hình CGE và mô hình số dựa trên lý thuyết kinh tế vi mô ngày càng được sử dụng nhiều trong kinh tế vĩ mô. Do đó, trong một mô hình CGE điển hình thì giá là nội sinh, nhưng không thể xác định giá danh nghĩa và tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Điều này có nghĩa rằng các mô hình CGE nói chung là nhằm mục đích làm sáng tỏ Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  39. Luận văn thạc sĩ Trang 39 Ngành: Kinh tế TNTN&MT phân bổ các nguồn lực cân bằng và sự tăng trưởng tốt hơn so với chu kỳ kinh doanh hoặc hiện tượng bất cân bằng. Trong các mô hình CGE cụ thể là nhằm mục đích định lượng các tác động của các chính sách cụ thể về việc phân bổ cân bằng các nguồn lực và tương đối của giá hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng. 2.3.1. Phân loại các mô hình CGE Mặc dù có những điểm tương đồng cơ bản, cũng có sự khác biệt đáng kể giữa các mô hình CGE riêng lẻ, và một số sự khác nhau của các mô hình CGE có thể phân biệt. Trong khi một số lựa chọn thay thế phân loại có thể được dự kiến, sự phân biệt giữa các mô hình tĩnh và động có vẻ là phù hợp với một phân loại rộng các phương pháp tiếp cận mô hình hóa. Tuy nhiên, vẫn có sự mơ hồ đối với ý nghĩa chính xác trong bối cảnh "linh động" này. Rõ ràng rằng các mô hình trong đó hành vi thấy trước trên một phần của hộ gia đình và các công ty được công nhận và chứng khoán quan hệ tích lũy được một cách rõ ràng nên được biểu thị "linh động". Tuy nhiên, một số mô hình CGE tĩnh được sử dụng cho phân tích nhiều kỳ. Vì vậy, các giải pháp thu được cho mỗi một số năm liên tiếp, và các giải pháp cho một năm t riêng lẻ được sử dụng để xác định các tích luỹ vốn và các tài sản khác có liên quan có sẵn trong năm t + 1. Khi mô hình tĩnh, các đại lý được mặc nhiên giả định có những kỳ vọng thiển cận, tức là nguồn tài nguyên cơ sở được quyết định giao hoàn toàn vào điều kiện hiện tại. Ngoài chiều hướng tĩnh-động, nó rất hữu ích để phân biệt giữa một quốc gia đơn lẻ, đa quốc gia và các mô hình toàn cầu. Mô hình một quốc gia có xu hướng được chi tiết hơn về các lĩnh vực và các hộ gia đình nói chung được sử dụng để phân tích các vấn đề chính sách quốc gia và đưa ra các đề xuất cụ thể. Mặt khác, mô hình đa quốc gia và toàn cầu có xu hướng ít chi tiết tại khu vực và được thiết kế để phân tích các đề xuất chính sách đa phương như các thỏa thuận thương mại tự do. Trong trường hợp của các mô hình CGE môi trường, các mô hình đa quốc gia và toàn cầu trong hầu hết các trường hợp được thiết kế để phân tích các vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  40. Luận văn thạc sĩ Trang 40 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Mỗi một loại mô hình CGE có thể khác nhau theo nhiều cách như khác nhau về số lượng của các ngành sản xuất, số lượng của các yếu tố chính và đặc điểm kỹ thuật của quan hệ thương mại quốc tế. 2.3.2. Các mô hình CGE và phân tích chính sách môi trường Như là một quan sát ban đầu, nó nên được lưu ý rằng tổng quát nó là một trường hợp cho việc sử dụng một mô hình CGE nếu các biện pháp chính sách được đề xuất, hoặc thay đổi dự kiến trong điều kiện ngoại sinh khác, có thể sẽ có tác dụng cân bằng tổng thể. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ chính sách thì tất cả các biện pháp liên quan đến vấn đề tài nguyên môi trường và tự nhiên có thể có chung cân bằng hiệu ứng. Một số vấn đề về môi trường là do địa phương và các vị trí trọng điểm. Đây là trường hợp chất lượng không khí và các vấn đề tiếng ồn tại các khu vực đô thị và các vùng phụ cận với sự hình thành các khu công nghiệp lớn. Các vấn đề môi trường khác có liên quan đến chất cụ thể, chẳng hạn như CFCs, chỉ được sử dụng trong một vài quá trình sản xuất công nghiệp để tạo ra các sản phẩm, hoặc tương đối có thể dễ dàng được thay thế bằng các chất khác. Mặc dù các biện pháp để giải quyết những vấn đề môi trường có thể khá tốn kém đối với một số công ty và các hộ gia đình, nhưng nó lại ảnh hưởng đến phần còn lại của nền kinh tế và thường là nhỏ hoặc gần như không tồn tại. Tuy nhiên, thực sự có vấn đề lớn về môi trường với một phạm vi địa lý và kinh tế rộng lớn hơn nhiều, việc kêu gọi các biện pháp với các hiệu ứng có khả năng khá đáng kể trên việc phân bổ các nguồn lực trong toàn bộ quốc gia, hoặc thậm chí nền kinh tế toàn cầu. "Mưa axit" có liên quan đến phát thải của lưu huỳnh và nitơ oxit là một ví dụ. Ví dụ điển hình là "biến đổi khí hậu", có liên quan đến khí thải carbon dioxide và cái gọi là hiệu ứng nhà kính khác. Trong cả hai trường hợp, có một liên kết mạnh mẽ giữa việc sử dụng năng lượng và phát thải các chất ô nhiễm. Hơn nữa, trong cả hai trường hợp việc giảm phát thải là rất quan trọng và nó được coi là cần thiết để bảo vệ môi trường. Không có gì đáng ngạc nhiên, các mô hình Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  41. Luận văn thạc sĩ Trang 41 Ngành: Kinh tế TNTN&MT CGE được sử dụng rộng rãi để đánh giá các chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu và các vấn đề mưa axit. Các mô hình CGE tập trung vào vấn đề cơ bản là biến đổi khí hậu và mưa axit với các ngoại ứng và chính sách nhằm vào các yếu tố ngoại ứng. Tuy nhiên, các vấn đề về môi trường cũng có thể phản ánh quyền sở hữu được xác định là phản tác dụng, bị hoạt động thị trường vốn, bảo hiểm hoặc một số loại khác của thất bại thị trường dẫn đến quản lý yếu kém của các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thiệt hại về môi trường tiện nghi. Vì vậy, trong nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, thủy sản, đất nông nghiệp hoặc đất chăn thả, những thay đổi trong chế độ quản lý tài nguyên thiên nhiên có thể có tác dụng tới toàn nền kinh tế. Các mô hình CGE thiết kế thích hợp có thể có thể để làm sáng tỏ và định lượng những tác động này. Tuy nhiên, các mô hình CGE được thiết kế để phân tích các loại hình này về các vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên có thể khác biệt đáng kể trong nhiều khía cạnh từ các mô hình CGE được thiết kế để phân tích các vấn đề liên quan đến yếu tố yếu tố ngoại ứng. Hai loại mô hình CGE cũng có khả năng được sử dụng trong các thiết lập khá khác nhau. Vì vậy có hai loại mô hình CGE riêng biệt đó là “các mô hình CGE về vấn đề ngoại ứng” và “các mô hình CGE trong quản lý tài nguyên thiên nhiên”. Tuy nhiên, không có câu trả lời chung cho câu hỏi về mô hình nào của CGE là tốt cho cái gì. Tính hữu ích của một mô hình CGE thiết kế và thực hiện một cách cẩn thận phụ thuộc vào những gì nó được dự định và những lựa chọn thay thế. Một mô hình CGE của nền kinh tế thế giới phức tạp có thể ít hữu ích chỉ vì nó có thể giúp các nhà phân tích để xác định tác dụng cân bằng tổng thể của các thay đổi trong điều kiện ngoại sinh mà ban đầu không rõ ràng. Đây là trường hợp ngay cả khi các thông số quan trọng của mô hình là khá chắc chắn. Hơn nữa, ngay cả khi không chắc chắn về các giá trị số của các thông số quan trọng làm cho tầm quan trọng của hiệu quả tính toán của các thay đổi chính sách không chắc chắn, các nhà phân tích có thể là có thể an toàn kết luận rằng những tác động trong câu hỏi là "nhỏ" hay "lớn". Điều này đặc biệt là trường hợp như khả năng tính toán của máy Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  42. Luận văn thạc sĩ Trang 42 Ngành: Kinh tế TNTN&MT tính hiện đại đã làm cho nó có thể thực hiện phân tích độ nhạy rất rộng rãi, và do đó để tìm hiểu cách thức không chắc chắn về giá trị tham số và các khía cạnh cấu trúc của mô hình ảnh hưởng đến kết quả và kết luận của các phân tích. Đôi khi kết quả mô hình CGE có thể có sự phản trực giác và trong quá trình giải thích kết quả như vậy, mô hình thu được những hiểu biết sâu sắc hơn vào sự phụ thuộc lẫn nhau trong nền kinh tế. 2.4 Lịch sử phát triển của mô hình CGE Các tài liệu hiện có về mô hình CGE và phân tích kinh tế dựa trên các mô hình CGE là rất lớn. Nó đã phát triển từ ba nguồn gốc khá khác biệt, mỗi một liên kết với sự đóng góp của một tác giả cụ thể. Ba tác giả là Leif Johansen, Herbert W. Scarf và Dale Jorgenson. 2.4.1 Leif Johansen và mô hình MSG Trong luận án của mình Một nghiên cứu đa ngành của tăng trưởng kinh tế [Johansen (1960)], nhà kinh tế Leif ohansen Na Uy đã trình bày một mô hình số nhanh chóng trở thành được biết đến như là "mô hình MSG". Mô hình này thường được xem như là mô hình CGE đầu tiên, được dự định chủ yếu là một công cụ để dự báo kinh tế dài hạn và đánh giá chính sách kinh tế. Trong phiên bản gốc đã có 20 ngành sản xuất và một khu vực hộ gia đình tổng hợp. Công chúng tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng ngoại sinh đã được xác định. Johansen thấy mô hình MSG như là một phiên bản mở rộng của một mô hình đầu vào-đầu ra. Vì vậy, giữ hệ số đầu vào cố định cho các đầu vào trung gian, Johansen bổ sung thêm chức năng sản xuất giá trị gia tăng và các thị trường yếu tố mà giá thị trường lao động là minh bạch và vốn đã được xác định. Mặc dù mô hình MSG đã thể hiện rõ ràng lý thuyết cân bằng tổng thể của Walrasian, đặc biệt là các giả định về việc xác định tiền lương và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn. Như vậy, mặc dù cả hai yếu tố lao động và vốn hoàn toàn dễ bị biến động trên các lĩnh vực, đã có trạng thái cân bằng khác biệt về tiền lương và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn liên ngành. Những sai lệch từ lý thuyết cân bằng tổng thể Walrasian Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  43. Luận văn thạc sĩ Trang 43 Ngành: Kinh tế TNTN&MT đã được thúc đẩy bởi sự tồn tại của các yếu tố và điều kiện không rõ ràng giải quyết trong mô hình, nhưng có thể có tác động đến sự phát triển ngành của nền kinh tế. Trong số các yếu tố và điều kiện được đề cập bởi Johansen là sự khác biệt liên ngành liên tục đối với các thành phần của lực lượng lao động, điều kiện làm việc, không chắc chắn và mức độ độc quyền thị trường sản phẩm. Trong những điều kiện này, một mô hình hoàn toàn dựa trên lý thuyết cân bằng tổng thể Walrasian đã không được coi là thích hợp. Thay vào đó, mô hình MSG được dự định để có một xấp xỉ của một mô hình phức tạp nhưng phần lớn không rõ về sự đúng đắn của nó. Mô hình MSG sớm trở thành một công cụ quan trọng cho kế hoạch phát triển kinh tế và dự báo dài hạn ở Na Uy, nó đã được mở rộng trong nhiều giai đoạn. Đặc biệt, trong việc xây dựng nhân tố thay thế và nhu cầu năng lượng đã được hợp nhất, gần đây phiên bản MSG-EE được thiết kế đặc biệt để phân tích các vấn đề liên quan đến sử dụng năng lượng và ô nhiễm môi trường. Đó cũng là hình mẫu cho ORANI, đó là một mô hình CGE xây dựng của nền kinh tế Úc và thường được gọi là "mô hình Johansen". Các mô hình MSG này cũng có ảnh hưởng đến việc thiết kế các mô hình CGE của các nước đang phát triển. 2.4.2. Herber Scarf và thuật toán Scarf Thuật toán nổi tiếng của Herbert Scarf để tính toán cân bằng cân bằng tổng quát Walrasian [Scarf (1967)] là một điểm khởi đầu cho sự phát triển của mô hình CGE. Sử dụng thuật toán Scarf, John Shoven và John Whalley đã chứng minh sự tồn tại của việc thiết kế một khung tính toán cho việc tìm kiếm một điểm cân bằng chung với các loại thuế. Cùng với tác phẩm đầu tiên trên một mô hình hai khu vực của Arnold Harberger, lấy cảm hứng từ một loạt các phân tích về thuế và các vấn đề chính sách thương mại trong khung Walrasian và các mô hình cân bằng tổng thể của Heckscher-Ohlin. Một đóng góp trên tinh thần này, nhưng Norman và Haaland (1987) tập trung vào thương mại quốc tế và các vấn đề phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế mở Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  44. Luận văn thạc sĩ Trang 44 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nhỏ. Tài liệu về một cuộc khảo sát đầu tiên được tìm thấy trong các cuốn sách của Shoven và Whalley (1984), Shoven và Whalley (1992). Ngược lại với mô hình MSG Johansen, các mô hình phát triển trong truyền thống Scarf-Shoven-Whalley đã được bắt nguồn sâu xa từ trong lý thuyết cân bằng tổng thể Walrasian. Một số phạm vi, mục đích của mô hình là "con số trên lý thuyết". Trong khi Johansen rõ ràng là rất quan tâm đến khả năng của mô hình để phản ánh điều kiện thế giới thực, các tác giả truyền thống Scarf-Shoven-Whalley đã nhấn mạnh tính minh bạch và nhất quán với lý thuyết kinh tế cơ bản. Hơn nữa, trong khi Johansen tập trung vào tăng trưởng kinh tế và thay đổi cơ cấu dài hạn, thì hầu hết các tác giả truyền thống Scarf-Shoven-Whalley đã có một quan điểm phúc lợi kinh tế tĩnh và tập trung vào những tác động hiệu quả và phân phối các biện pháp chính sách kinh tế khác nhau. 2.4.3.Dale W. Jorgenson và mô hình kinh tế lượng cân bằng tổng thể Dale W. Jorgenson đã có một số đóng góp với mô hình CGE, nhưng độc đáo nhất trong số này là việc sử dụng hệ thống các phương pháp kinh tế để ước lượng tham số. Điều này là trái ngược với hầu hết các mô hình CGE khác, nơi mà thông số chức năng cung cấp và nhu cầu được ước tính với kỹ thuật hiệu chuẩn đơn giản. Sự phát triển của mô hình cân bằng tổng thể kinh tế có thể đã được thực hiện bằng những đóng góp đáng kể của Jorgenson (và đồng tác giả) để phân tích sản xuất và tiện ích , kinh tế và kế toàn quốc gia. Người đầu tiên sử dụng phương pháp tiếp cận của Jorgenson đối mô hình CGE là Hazilla và Kopp (1990). Cách tiếp cận của Jorgenson đối với mô hình CGE đã kết hợp tiếp cận truyền thống của Johansen và Scarf-Shoven-Whalley. Như vậy, trong cách làm của Johansen, có một tập trung vào tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong khi Johansen chỉ có thể tính toán tỷ lệ thay đổi của các biến số kinh tế trọng điểm tại một điểm cụ thể trong thời gian, phân tích của Jorgenson được dựa trên một mô hình hoàn toàn động của nền kinh tế Mỹ. Cũng giống như các mô hình truyền thống Scarf-Shoven-Whalley, các mô hình bền vững của Jorgenson bắt nguồn từ lý thuyết Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
  45. Luận văn thạc sĩ Trang 45 Ngành: Kinh tế TNTN&MT kinh tế tân cổ điển và đã được sử dụng cho phân tích các tác động phúc lợi của các hình thức khác nhau của thuế. Tuy nhiên, trong khi các mô hình tĩnh truyền thống Scarf-Shoven-Whalley đã được tập trung vào các tác động tái phân bổ trong khi mô hình động của Jorgenson đã được tập trung vào các hiệu ứng tăng trưởng của các chính sách thuế khác nhau. Không cần phải tranh luận rằng nếu không có sự phát triển mạnh mẽ của máy tính và phần mềm phù hợp thì có thể sẽ không có sự phát triển của mô hình CGE. Trong những ngày đầu phát triển của mô hình CGE, thiếu máy tính đủ đặt những hạn chế nghiêm trọng vào kích cỡ và đặc điểm kỹ thuật của các mô hình CGE, và thiếu phần mềm thân thiện với người sử dụng thực hiện mô hình CGE trong một lĩnh vực cho các chuyên gia trong các phương pháp số. Các mã máy tính đã được mô hình hoá cụ thể và có thể không dễ dàng được sử dụng bởi các nhà lập mô hình khác. Hơn nữa, phân tích độ nhạy để đánh giá sự không chắc chắn về giá trị tham số sẽ mất rất nhiều thời gian. Một sự thay đổi lớn đi kèm với sự ra đời của GAMS [hệ thống mô hình hóa đại số, Brooke, Kendrick và Meeraus (1988)], cho phép không có chuyên môn trong các phương pháp số để thiết kế và giải quyết các mô hình của Walrasian. Máy tính với cấu hình mạnh có thể giải quyết các mô hình nhiều ngành hơn, và thực hiện các bước đầu tiên hướng tới mẫu CGE động đồng thời nó cũng mở rộng phân tích độ nhạy khả thi. Kết quả là, việc sử dụng các mô hình CGE mở rộng nhanh chóng. Gần đây phát triển của GAMS/PATH [Ferris và Munson (2000)] đã làm cho nó dễ dàng giải quyết các mô hình động với một số lượng tương đối lớn của các ngành, chi phí thấp về thời gian và tiền bạc. Điều này có nghĩa rằng mô hình CGE dần dần đã trở thành một công cụ có thể truy cập cho kinh tế ứng dụng, và "giải pháp thời gian" không còn là một vấn đề đối với các nhà lập mô hình CGE. Thay vào đó, nó là một tính năng điển hình của nghiên cứu CGE hiện đại mà phân tích độ nhạy rất phong phú, trong đó mô hình được giải quyết cho hàng ngàn kết hợp lựa chọn ngẫu nhiên của các giá trị tại các tham số không chắc chắn được thực hiện. Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K