Luận án Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam

doc 189 trang yendo 4140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_an_phat_trien_y_thuc_tham_my_cua_hoc_vien_dao_tao_si_qu.doc

Nội dung text: Luận án Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN 5CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN THUỶ PH¸T TRIÓN ý THøC THÈM Mü CñA HäC VI£N §µO T¹O SÜ QUAN QU¢N §éI NH¢N D¢N VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN THUỶ PH¸T TRIÓN ý THøC THÈM Mü CñA HäC VI£N §µO T¹O SÜ QUAN QU¢N §éI NH¢N D¢N VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mã số: 62 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS Văn Đức Thanh HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng ! Tác giả luận án Nguyễn Văn Thuỷ
  4. MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA 1 LỜI CAM ĐOAN 2 MỤC LỤC 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4 MỞ ĐẦU 5 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 10 Chương 1: THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT PHÁT TRIỂN Ý THỨC THẨM MỸ CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 24 1.1. Thực chất phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 24 1.2. Những vấn đề có tính quy luật phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 51 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN Ý THỨC THẨM MỸ CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 72 2.1. Thực trạng phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 72 2.2. Xu hướng phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 97 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN Ý THỨC THẨM MỸ CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 108 3.1. Yêu cầu cơ bản phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 108 3.2. Giải pháp cơ bản phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 120 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 162
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Số thứ tự Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 1. Đảng uỷ Quân sự Trung ương ĐUQSTƯ 2. Mác – Lênin MLN 3. Nghị quyết NQ 4. Nhà xuất bản Nxb 5. Quân uỷ Trung ương QUTƯ 6. Quân đội nhân dân QĐND 7. Trung ương TƯ 8. Ý thức thẩm mỹ YTTM
  6. 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Đề tài: “Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” được tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá thẩm mỹ và giáo dục, phát triển toàn diện con người. Nghiên cứu sinh tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài, đồng thời dựa vào kết quả nghiên cứu thực trạng phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan ở các học viện, trường sĩ quan quân đội từ năm 2010 đến nay để giải quyết những vấn đề nghiên cứu đặt ra. Công trình luận án được triển khai từ việc xác lập những vấn đề lý luận ở chương 1, cơ sở thực tiễn ở chương 2, đồng thời xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp ở chương 3 của luận án nhằm phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. 2. Lý do lựa chọn đề tài luận án Ý thức thẩm mỹ của chủ thể đóng vai trò quan trọng bậc nhất định hướng cho toàn bộ các hoạt động nhận thức, cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ của chủ thể, đồng thời là tiền đề không thể thiếu để nâng cao trình độ, năng lực thẩm mỹ của họ trong mọi lĩnh vực hoạt động. Ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là nền tảng quan trọng để mỗi học viên thâm nhập sâu vào thế giới thẩm mỹ, nhận thức sâu sắc về cái đẹp, biết cảm thụ, sáng tạo cái đẹp và đưa vào trong cuộc sống học tập, rèn luyện, công tác để luôn phấn đấu hoàn thành tốt đẹp mọi nhiệm vụ. Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội là vấn đề thiết thực để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và chuẩn bị cơ sở, tiền đề của đội ngũ sĩ quan quân đội tương lai. Phát triển ý thức thẩm mỹ là một trong những nội dung cơ bản của mục tiêu phát triển toàn diện
  7. 6 nhân cách học viên và đặt tiền đề hướng tới phát triển văn hoá thẩm mỹ, phát triển toàn diện nhân cách sĩ quan quân đội. Ý thức thẩm mỹ của học viên được định hình qua quá trình học tập, rèn luyện tại trường sẽ tiếp tục phát triển sau khi học viên tốt nghiệp ra trường, trở thành cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở các đơn vị quân đội. Đó là nền tảng để người sĩ quan tương lai sống, hành động theo tiêu chí cái đẹp. Những năm qua, phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan ở các học viện, trường sĩ quan quân đội cho thấy, đã có sự chuyển biến, tiến bộ nhất định, tạo ra sự say mê, hứng thú thẩm mỹ và khát vọng vươn tới cái đẹp của người đi tìm nguồn tri thức, nguồn trí tuệ và nguồn cảm hứng sáng tạo. Tuy nhiên, sự tác động của đời sống thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ đến phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên còn bất cập, chưa tương xứng với nhu cầu, thị hiếu và khát vọng thẩm mỹ của học viên. Chưa coi trọng việc lồng ghép, đưa cái đẹp vào trong mọi hoạt động của học viên. Khi ra trường, một bộ phận không nhỏ sĩ quan trẻ còn hạn chế về trình độ lý luận và kinh nghiệm thẩm mỹ, chưa thấu hiểu hết giá trị của cái thẩm mỹ trong cuộc sống; chưa biết đấu tranh bảo vệ cái đẹp và chống lại cái xấu, lối sống thấp hèn, thị hiếu thẩm mỹ thiếu lành mạnh trong đời sống bộ đội. Những bất cập ấy cần phải được nghiên cứu để giải quyết, tháo gỡ ngay trong thời gian học tập, rèn luyện tại trường của học viên, nhằm phát triển ý thức thẩm mỹ của họ. Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội hiện nay, là một đòi hỏi cấp thiết trước tình hình biến động về thang bậc, chuẩn mực, giá trị văn hoá thẩm mỹ trong đời sống xã hội và trong quân đội cũng không tránh khỏi có những yếu tố, xu hướng tác động tiêu cực, làm “lệch chuẩn giá trị” về văn hoá thẩm mỹ trong đời sống tinh thần quân nhân, trong đó có đội ngũ học viên đào tạo sĩ quan. Họ đang học tập, rèn luyện, công tác và sống trong không gian mạng Internet, trong sự tác động đa diện, nhiều chiều của hội nhập, mở cửa, của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 9 (Khóa XI) chỉ rõ mục tiêu, yêu cầu
  8. 7 xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải: “ hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”[23, tr.46, 47]. Tình hình đó, đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu chuyên sâu nhằm luận giải, tìm ra thực chất và cách thức giải quyết một cách khoa học. Lý do lựa chọn đề tài luận án còn xuất phát từ sự thiếu vắng nhiều mảng nghiên cứu về khoa học thẩm mỹ mang tính đặc thù quân sự. Những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến thẩm mỹ quân sự và giáo dục thẩm mỹ quân nhân, song vẫn còn khá trống vắng những công trình về phát triển ý thức thẩm mỹ nói chung, ý thức thẩm mỹ của bộ đội nói riêng, nhất là việc luận giải dưới góc độ lý luận triết học - một yêu cầu rất cơ bản và cần thiết để giải quyết triệt để vấn đề. Với sự lựa chọn vấn đề: “Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu dưới góc độ triết học, đề tài luận án mong muốn góp phần giải quyết thực trạng trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu : Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội, từ đó đề xuất giải pháp cơ bản phát triển ý thức thẩm mỹ đáp ứng mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách học viên hướng tới phát triển đội ngũ sĩ quan quân đội tương lai. * Nhiệm vụ nghiên cứu : - Làm rõ thực chất và một số vấn đề có tính quy luật phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng và dự báo xu hướng phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. - Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
  9. 8 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu dưới góc độ triết học về phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo để trở thành sĩ quan cấp phân đội có trình độ đại học ở các học viện, trường đại học và trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (trong luận án gọi là học viện, trường sĩ quan). Phạm vi điều tra, khảo sát gồm: Học viên, giáo viên và cán bộ quản lý học viên, cán bộ phòng ban ở một số cơ sở đào tạo: Trường Đại học Chính trị (Trường Sĩ quan chính trị); Trường Đại học Trần Quốc Tuấn (Trường Sĩ quan Lục quân 1); Trường Đại học Nguyễn Huệ (Trường Sĩ quan Lục quân 2); Trường Sĩ quan Thông tin (khối trường sĩ quan); Học viện Biên phòng; Học viện Phòng không - Không quân; Học viện Hải quân; Học viện Kỹ thuật quân sự; Học viện Hậu cần; Học viện Quân y (khối học viện). Số liệu khảo sát đánh giá thực tiễn trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2015. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá, thẩm mỹ và giáo dục, phát triển toàn diện con người nói chung, đối với lĩnh vực quân sự và giáo dục, phát triển nhân cách quân nhân nói riêng. * Cơ sở thực tiễn: Là đời sống thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan ở các học viện, trường sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, thông qua các căn cứ, số liệu thực tế, số liệu điều tra xã hội học của tác giả; cùng với các chỉ thị, nghị quyết, chương trình và đề án của Bộ Quốc phòng về xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội; các báo cáo tổng kết về công tác giáo dục bọ đội, trực tiếp về công tác giảng dạy môn mỹ học Mác - Lênin và các bộ môn khác liên quan ở các học viện, trường sỹ quan.
  10. 9 * Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận chung là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được tiếp cận vào khách thể thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ. Phương pháp nghiên cứu cụ thể, sử dụng một số phương pháp như: lôgíc và lịch sử; hệ thống và cấu trúc; phân tích và tổng hợp; thống kê và so sánh; điều tra xã hội học; phỏng vấn; quan sát có định hướng; phương pháp chuyên gia. Sử dụng một số phương pháp tiếp cận: giá trị - hoạt động - nhân cách; cấu trúc quá trình, đặc biệt chú trọng phương pháp tiếp cận cấu trúc quá trình để phân tích sự phát triển ý thức thẩm mỹ. 6. Những đóng góp mới của luận án - Làm rõ bản chất, cấu trúc của ý thức thẩm mỹ và ý thức thẩm mỹ trong lĩnh vực quân sự từ phương pháp tiếp cận của triết học. - Luận giải những vấn đề có tính quy luật phát triển ý thức thẩm mỹ trong môi trường sư phạm quân sự ở nhà trường quân đội. - Đề xuất yêu cầu và giải pháp phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, phát triển lý luận triết học về ý thức thẩm mỹ, về thẩm mỹ trong lĩnh vực quân sự. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần xây dựng luận cứ khoa học nhằm xây dựng, phát triển đời sống thẩm mỹ của bộ đội. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 8. Kết cấu của luận án Gồm: Mở đầu; tổng quan về vấn đề nghiên cứu; 3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo; phụ lục.
  11. 10 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Nhóm những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu lý luận chung về thẩm mỹ Đề cập vấn đề chung về lý luận và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực thẩm mỹ có những công trình khoa học nghiên cứu như: Iu.A. Lukin, V.C. Xcacherơsiccốp với “Nguyên lý mỹ học Mác – Lênin” [59]; N. Đmitriêva “Bàn về cái đẹp” [25]; V.Vanslốp, P.Tơrôphimốp nghiên cứu “Cái đẹp và cái cao thượng” [118]; Tsecnisépxki nghiên cứu “Quan hệ của thẩm mỹ đối với hiện thực” [113]. “Cái đẹp - một giá trị” của Đỗ Huy [38]; Bàn về “Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống”của Nguyễn Chương Nhiếp [78]; Nghiên cứu “Quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cái đạo đức trong cuộc sống và trong nghệ thuật” của Nguyễn Văn Phúc [82]; Nghiên cứu “Vấn đề cảm thụ thẩm mỹ” của Lê Đình Lục [58]. Trong các công trình trên, những công trình nghiên cứu của nước ngoài chủ yếu trình bày những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật cơ bản của mỹ học Mác – Lênin. Các yếu tố nội tại thuộc ý thức thẩm mỹ của chủ thể như: tri giác thẩm mỹ, biểu tượng thẩm mỹ, phán đoán thẩm mỹ cùng với nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ được đề cập trong quan hệ với hiện thực (khách thể thẩm mỹ) và liên quan đến sự cải biến hiện thực gắn với ý thức thẩm mỹ của chủ thể trong lĩnh vực sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật. Mặc dù chưa trực tiếp đề cập một cách hệ thống về vấn đề ý thức thẩm mỹ, nhưng đã có một số vấn đề về lý luận thẩm mỹ liên quan nhất định đến đề tài luận án. Nghiên cứu sinh xác định đây là một trong những cơ sở, tiền đề lý luận quan trọng để tiếp thu, kế thừa, phát triển trong triển khai khung lý thuyết của luận án. Những công trình khoa học trong nước, nổi bật là công trình của Đỗ Huy nghiên cứu “Cái đẹp - một giá trị” [38]. Trong công trình, tác giả đã phân tích cơ chế đánh giá của chủ thể thẩm mỹ và khẳng định: “Không có chủ thể thẩm
  12. 11 mỹ, sẽ không có đánh giá, thưởng thức và sáng tạo những giá trị thẩm mỹ. Không có chủ thể thẩm mỹ không có cái gì được gọi là cái bi, cái hài, cái đẹp và cái giá trị” [38, tr.147]. Theo tác giả, các phạm trù thẩm mỹ là sản phẩm tất yếu của sự đánh giá, thưởng thức và sáng tạo những giá trị thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ dựa trên trình độ, năng lực thẩm mỹ và những kinh nghiệm thẩm mỹ trong hoạt động thực tiễn. Ở đây cần thấy, cái thẩm mỹ mặc dù có cội nguồn xét đến cùng là thế giới hiện thực, song chỉ có thể xuất hiện với tư cách là sản phẩm phức hợp của sự tương tác biện chứng trực tiếp giữa chủ thể thẩm mỹ với khách thể thẩm mỹ là thế giới hiện thực ấy. Lý giải khía cạnh bản chất cái thẩm mỹ trong ý thức thẩm mỹ của chủ thể sẽ được nghiên cứu sinh bổ sung phát triển trong đề tài luận án. Trong công trình nghiên cứu “Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống” [78], tác giả Nguyễn Chương Nhiếp quan niệm: “Thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận cấu thành năng lực thẩm mỹ chủ quan của con người, nó không phải là cái vốn có, mà được hình thành trong quan hệ phức tạp giữa cái sinh học và cái xã hội, cái cá nhân và cái cộng đồng” [78, tr.14]. Trong luận giải vai trò của thị hiếu thẩm mỹ đối với đời sống thẩm mỹ, tác giả đã chỉ ra: thị hiếu thẩm mỹ với tư cách vừa là nhân tố chủ đạo trong thưởng thức thẩm mỹ, vừa là yếu tố quan trọng trong hoạt động đánh giá của chủ thể, vừa là một yếu tố cấu thành năng lực sáng tạo của chủ thể thẩm mỹ. Nhưng nhìn chung, “thị hiếu thẩm mỹ và đời sống thẩm mỹ” mà tác giả tiếp cận mới chủ yếu nghiêng về thẩm mỹ nghệ thuật. Bàn về “Quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cái đạo đức trong cuộc sống và trong nghệ thuật” [82], tác giả Nguyễn Văn Phúc phân tích tính đặc thù của cái thẩm mỹ, đồng thời làm rõ sự khác biệt của chủ thể về mặt nhận thức thẩm mỹ (tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ) trong so sánh với cái đạo đức và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng [82, tr.40]. Thực chất, quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cái đạo đức phản ánh sự tác động qua lại giữa ý thức đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác. Điều đó
  13. 12 chứng tỏ rằng, nhận thức thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, ý chí thẩm mỹ không thể không gắn bó chặt chẽ với tất cả các khía cạnh khác của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, đạo đức - pháp quyền, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và tương ứng là các hình thái ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp quyền, ý thức khoa học, ý thức tôn giáo của từng thời đại, từng cộng đồng, từng tập đoàn xã hội nhất định, thêm vào đó là cả những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội cũng như điều kiện sống riêng của từng cá nhân. Tiếp cận theo hướng này, sẽ được luận án đề cập và trình bày đến. Các công trình trên là cơ sở lý luận quan trọng để nghiên cứu sinh kế thừa, tiếp thu theo cách tiếp cận và diễn giải của luận án. 2. Nhóm những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về thực tiễn đời sống thẩm mỹ Trong “Thực tiễn thẩm mỹ – cội nguồn của văn hoá thẩm mỹ” [96], tác giả Nguyễn Ngọc Thu cho rằng: “Thực tiễn thẩm mỹ là sự thống nhất giữa các hiện tượng thẩm mỹ khách quan với hoạt động của chủ thể thẩm mỹ Chủ thể thẩm mỹ là những con người với toàn bộ những mối liên hệ, quan hệ thẩm mỹ trong hoàn cảnh và điều kiện xã hội nhất định Trong văn hoá thẩm mỹ, cái thẩm mỹ khách quan mang tính xã hội và là sự thể hiện hoạt động của chủ thể thẩm mỹ, nó không chỉ bó hẹp trong ý thức cá nhân mà còn tồn tại nhờ có ý thức thẩm mỹ cá nhân” [96, tr.34]. Đây là một hướng tiếp cận duy vật lịch sử về cội nguồn của văn hoá thẩm mỹ từ thực tiễn thẩm mỹ, là cơ sở quan trọng giúp cho nghiên cứu sinh tham khảo để tiếp cận cội nguồn của ý thức thẩm mỹ. Mặt khác, từ những đề cập về hoạt động của chủ thể thẩm mỹ luôn tồn tại trong tổng hoà với mối liên hệ, quan hệ thẩm mỹ đã gợi mở cho nghiên cứu sinh nhận thấy rằng: chủ thể thẩm mỹ bao giờ cũng là con người hiện thực nhưng rất cụ thể, cho nên ý thức thẩm mỹ của họ với những nhu cầu thẩm mỹ, xúc cảm thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ cùng những thước đo giá trị, các chuẩn mực của quan hệ thẩm mỹ đều phản ánh, chịu sự chi phối bởi điều kiện lịch sử, xã hội nhất
  14. 13 định. Song mỗi “cá nhân hiện thực” sống trong xã hội bao giờ cũng đều có những tố chất riêng của mình, có những đặc điểm mang đậm sắc thái cá nhân, thể hiện sự tinh tế, đa dạng, phong phú, độc đáo trong điều kiện, môi trường sống của chính họ. Theo đó, sự phản ánh hiện thực khách quan về mặt thẩm mỹ trong ý thức thẩm mỹ bao giờ cũng in đậm dấu ấn cá nhân. Điều này sẽ được nghiên cứu sinh đề cập trong nghiên cứu những khía cạnh bản chất của ý thức thẩm mỹ. Bàn về “Sự biến đổi của chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” [12], tác giả Vũ Thị Kim Dung đã luận giải đặc điểm cơ bản của chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ trong văn hoá thẩm mỹ là nằm trong cấu trúc chủ thể thẩm mỹ, thuộc phạm vi của ý thức thẩm mỹ, có sự tham gia tổng hợp của các yếu tố: xúc cảm, tình cảm, quan điểm, lý tưởng thẩm mỹ [12, tr.38]. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ đề cập đến trình độ phát triển của ý thức thẩm mỹ với tư cách năng lực đánh giá thẩm mỹ; hơn nữa, quan niệm ý thức thẩm mỹ mà tác giả đưa ra là ý thức thẩm mỹ cá nhân với những dấu hiệu đặc trưng mang tính phác hoạ mà chưa được khái quát đủ độ sâu cần thiết. Trong bài báo “Tìm đến giá trị của môi trường thẩm mỹ” [31], tác giả Thái Hanh đã tiếp cận giá trị của môi trường thẩm mỹ với tính cách là không gian sinh thái tự nhiên và cảnh quan có quan hệ với cuộc sống của con người và do con người tạo nên. Tác giả thể hiện điều đó bằng các thuật ngữ “không gian môi trường” và “cảnh quan môi trường” [31, tr.8] thông qua mô tả các tác phẩm, công trình nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của loài người đã tạo nên cảnh quan đẹp mắt và bổ ích. Tuy nhiên, giá trị của môi trường thẩm mỹ còn được “chiết xuất” từ hệ thống giá trị văn hoá thẩm mỹ trong các mối quan hệ mang tính thẩm mỹ của môi trường xã hội. Để thẩm mỹ hoá môi trường phải tạo ra trường thẩm mỹ lành mạnh, tức là phải xây dựng các mối quan hệ, ứng xử, giao tiếp và các thiết chế văn hoá theo tiêu chí cái đẹp. Lý giải điều này sẽ được kế thừa và bổ sung trong luận án.
  15. 14 3. Nhóm những công trình khoa học nghiên cứu về văn hoá thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ * Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về văn hoá thẩm mỹ Công trình nghiên cứu “Văn hoá thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam trong thế kỷ mới” [44] của tập thể các nhà khoa học: GS.TS. Đỗ Huy, PGS.TS Nguyễn Văn Huyên, TS. Nguyễn Ngọc Thu, TS. Đào Duy Thanh, TS. Nguyễn Quốc Tuấn do PGS.TS Nguyễn Văn Huyên chủ biên đã đưa ra quan niệm: “Văn hoá thẩm mỹ là một thể thống nhất hữu cơ các giá trị thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo thẩm mỹ của con người đang hiện thực hoá những năng lực thẩm mỹ của họ, đồng thời văn hoá thẩm mỹ còn là một hệ thống độc đáo xuyên suốt tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, khoa học đến các quan hệ, các giao tiếp của con người” [44, tr.52]. Trên cơ sở đó, các tác giả cũng xem xét ý thức thẩm mỹ cá nhân là một phương diện, thành tố của văn hoá thẩm mỹ - văn hoá thẩm mỹ cá nhân, và được biểu hiện ở những cấp độ khác nhau: Cấp độ hoạt động - thực tiễn; Cấp độ tâm lý - cảm xúc; Cấp độ lý tính [44, tr.62]. Tập thể tác giả cũng đề cập đến sự thể hiện vai trò của văn hoá thẩm mỹ trong nhận thức, đánh giá và sáng tạo của con người, những luận giải và cách tiếp cận đó gợi mở cho nghiên cứu sinh có cách nhìn biện chứng về cấu trúc ý thức thẩm mỹ của chủ thể. Tất nhiên, nghiên cứu sinh cũng sẽ phát triển thêm ở khía cạnh phân định rõ giữa ý thức thẩm mỹ (cái phản ánh thực tiễn thẩm mỹ) với văn hoá thẩm mỹ cá nhân (cái kiểu cách, dạng thức, mô thức hiện thực hoá và giá trị hoá ý thức thâm mỹ ấy). Nghiên cứu “Văn hoá thẩm mỹ và nhân cách” [48], tác giả Lương Quỳnh Khuê xác định năng lực thẩm mỹ là một yếu tố cơ bản nằm trong cấu trúc nội tại của văn hoá thẩm mỹ, đó là một năng lực tinh thần – thực tiễn, là phẩm chất bậc cao của “những lực lượng bản chất của con người” [48, tr.13- 15]. Mặc dù không trực tiếp làm rõ cấu trúc ý thức thẩm mỹ của chủ thể, nhưng thông qua phân tích cấu trúc các yếu tố của năng lực thẩm mỹ và quá
  16. 15 trình phát triển năng lực thẩm mỹ ở mỗi con người phụ thuộc vào năng khiếu bẩm sinh, đồng thời đòi hỏi phải có một quá trình được giáo dục, rèn luyện công phu, nghiêm ngặt trong thực tiễn. Điều đó phù hợp với quá trình phát triển ý thức thẩm mỹ sẽ được nghiên cứu sinh đề cập trong đề tài luận án. Tất nhiên, nói tới ý thức thẩm mỹ thì toàn bộ quá trình cảm nhận, cảm thụ trực tiếp ấy mới chỉ hợp thành vòng khâu ban đầu – vòng khâu cảm tính, còn cần được bổ sung bởi vòng khâu quan trọng hơn – vòng khâu lý tính. Từ góc độ tiếp cận chung về văn hoá thẩm mỹ và vai trò của nó đối với phát triển nhân cách, tác giả Lê Thị Thuỳ Dung đã vận dụng để phân tích “Vai trò của văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay” [13]. Tuy nhiên, công trình này chỉ dừng lại ở hai phương diện lớn trong vai trò của văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách là: định hướng giá trị, bồi dưỡng năng lực cảm xúc, hoàn thiện năng lực tư duy và phát triển năng lực sáng tạo. Trong khi đó, nói tới vai trò của văn hoá đối với phát triển nhân cách là nói tới tiềm năng cung cấp tri thức sống có văn hoá của cộng đồng đến hình thành nhân cách, cùng sức mạnh điều tiết bằng chân – thiện – mỹ của nó đối với quá trình phát triển nhân cách thông qua hoạt động giảng dạy và học tập, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động vui chơi giải trí trong môi trường nhà trường, đồng thời còn nhất thiết phải đề cập tới những nét bản sắc độc đáo về lối hành xử thẩm mỹ. Đây là những ý tưởng sát thực đối với giáo dục, định hướng thẩm mỹ cho đối tượng học viên đào tạo sĩ quan quân đội mà luận án sẽ đề cập. Công trình nghiên cứu: “Phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [112], tác giả Nguyễn Xuân Trường đã đề cập đến vai trò của văn hoá và giáo dục giá trị văn hoá trong phát triển ý thức thẩm mỹ sĩ quan trẻ, thông qua việc luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ hiện nay. Điều đó liên quan đến giải pháp xây dựng môi trường văn hoá thẩm mỹ, làm cơ sở cho phát triển ý thức thẩm mỹ của đội ngũ sĩ quan trẻ trong tương lai.
  17. 16 * Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ Vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục thẩm mỹ được nhiều công trình khoa học nghiên cứu: “Mỹ học Mác - Lênin với việc giáo dục bộ đội” của A.X. Milôviđốp và B.V. Xaphrônốp (chủ biên) [67]; “Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đỗ Huy [39]; “Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh niên thông qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá” của Trần Quốc Bảng [2]; "Đưa cái đẹp vào cuộc sống” của Như Thiết [95]; “Về giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay” của Vĩnh Quang Lê [51]; “Giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống văn hoá cho thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” của Lương Thanh Tân [89]; “Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ” của Trần Tuý [116]; “Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay” của Trần Ngọc Tăng [85]; “Giáo dục thẩm mỹ - Món nợ lớn đối với thế hệ trẻ” của Đỗ Xuân Hà [30]; “Một số hiểu biết cơ bản về văn hoá nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ” của Tổng cục Chính trị [100]. Trong các công trình trên, có công trình nghiên cứu ở nước ngoài của A.X. Milôviđốp và B.V. Xaphrônốp về “Mỹ học Mác - Lênin với việc giáo dục bộ đội” [67] đã đề cập khá toàn diện đến giáo dục thẩm mỹ như con đường trực tiếp, cơ bản và quan trọng bậc nhất nhằm phát triển ý thức thẩm mỹ. Đặc biệt, công trình đã gắn trực tiếp đến lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ trong hoạt động quân sự bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng tư cách và nếp sống của quân nhân Xô-viết. Đây là tiền đề quan trọng để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa, phát triển trong đề xuất giải pháp của luận án. Một số công trình trong nước đề cập về giáo dục thẩm mỹ ở nhiều phương diện khác nhau, tiêu biểu là “Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đỗ Huy [39]. Tác giả quan niệm: “Giáo dục thẩm mỹ vừa là một thể thống nhất giữa các hình thức hoạt động khác nhau của con người, chịu sự tác động của toàn bộ quan hệ xã hội lại vừa có mục tiêu, phương tiện và nội dung riêng biệt” [39, tr.31] và trình bày bản chất giáo dục thẩm mỹ là bồi dưỡng lòng khao khát đưa cái đẹp vào cuộc sống, tạo nên sự hài hoà giữa xã hội – con người – tự nhiên, nâng cao năng lực thụ cảm và sáng tạo của con
  18. 17 người, làm cho con người phát triển hài hoà trong hoạt động lao động cũng như nghỉ ngơi, trong quan hệ gia đình cũng như xã hội. Tuy nhiên, bản chất của giáo dục thẩm mỹ phải là sự thống nhất giữa hoạt động định hướng, truyền thụ thẩm mỹ của chủ thể giáo dục từ bên ngoài với vai trò tự định hướng của chủ thể thẩm mỹ trong lĩnh hội, lựa chọn, tiếp nhận giá trị thẩm mỹ nhằm chuyển hoá nhân cách theo mô hình xác định. Theo đó, giáo dục thẩm mỹ vừa là quá trình giáo dục để hình thành, phát huy năng lực bản chất người theo quy luật cái đẹp, vừa là quá trình hoạt động tự giác, có chủ đích của các chủ thể nhằm xây dựng và phát triển năng lực thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ, văn hoá thẩm mỹ cho con người. Điều này sẽ được đề cập trong luận án. Như Thiết trong cuốn sách "Đưa cái đẹp vào cuộc sống” [95] đã chỉ ra: quy luật vận động tất yếu của cái đẹp ngày một phát triển gắn liền với đời sống hạnh phúc, văn minh, tiến bộ của xã hội, của mỗi người và gắn chặt với quy luật vận động tiến lên của chủ nghĩa xã hội, do đó phải đưa được cái đẹp vào các lĩnh vực quan trọng của cuộc sống hiện nay như: lao động, chiến đấu, học tập, quan hệ giao tiếp, nếp sống, lối sống, trang phục, nghệ thuật để vạch trần những cái xấu, những biến tướng của nó trong các lĩnh vực ấy. Từ đó, tác giả cho rằng: để thực hiện nhiệm vụ “đưa cái đẹp vào cuộc sống hàng ngày” đòi hỏi chủ thể thẩm mỹ phải có ý thức, năng lực thẩm mỹ và phát huy tính chủ động, tích cực của mình [95, tr.38]. Vấn đề phát huy tính chủ động, tích cực của chủ thể trong phát triển ý thức thẩm mỹ là một nội dung quan trọng sẽ được kế thừa, phát triển trong luận án. Vĩnh Quang Lê khi nghiên cứu “Về giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay” [51] cũng có cách lý giải tương tự. Tác giả đã làm rõ bản chất giáo dục thẩm mỹ là sự hình thành ở chủ thể năng lực đồng hoá thẩm mỹ đối với hiện thực. Với cách luận giải dưới góc độ mục tiêu của giáo dục thẩm mỹ, tác giả đã đề cập đến năng lực thẩm mỹ với tính cách là năng lực cải tạo, hoạt động sản sinh cái mới chỉ có thể hình thành trong thực tiễn. Theo đó, tác giả đưa ra các thành phần chính yếu của ý thức thẩm mỹ hay năng lực thẩm mỹ là tình cảm - cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ để giúp cho chủ
  19. 18 thể sống và hoạt động theo quy luật của cái đẹp [51, tr.19]. Do mục đích nghiên cứu, tác giả chưa đề cập đầy đủ về ý thức thẩm mỹ, còn đồng nhất cấu trúc của ý thức thẩm mỹ với cấu trúc của năng lực thẩm mỹ. Song, những kiến giải về tác động của văn học nghệ thuật đến tình cảm - cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ là một phương diện quan trọng để hình thành ý thức thẩm mỹ sẽ được tiếp thu và phát triển trong luận án. Nghiên cứu về “Giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống văn hoá cho thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” [89] của tác giả Lương Thanh Tân đã phân tích ý nghĩa và giá trị của giáo dục thẩm mỹ đối với thanh niên cả nước nói chung, thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay; khẳng định những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc; những mặt tiêu cực và hạn chế, ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đối với thanh niên nơi đây. Tác giả cũng đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống cho thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long mang đặc trưng lối sống vùng miền, nhưng không tách rời với thanh niên cả nước nói chung. Vai trò trực tiếp của giáo dục thẩm mỹ đối với phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan – đối tượng mang đặc trưng chung của thanh niên - sẽ được đề cập, làm rõ thêm trong luận án. Công trình nghiên cứu về “Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh niên thông qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá” [2] của Trần Quốc Bảng cũng đề cập đến vai trò của giáo dục thẩm mỹ đối với việc hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa cho thanh niên. Tác giả đi sâu phân tích những tác động của các giá trị văn hoá truyền thống và sự phát triển kinh tế - xã hội với việc giáo dục lý tưởng thẩm mỹ ở hệ thống thiết chế nhà văn hoá, đồng thời đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh niên trong hệ thống thiết chế nhà văn hoá [2, tr.19]. Như vậy, giáo dục lý tưởng thẩm mỹ là một nội dung của giáo dục thẩm mỹ nói chung và có vai trò rất lớn đối với phát triển ý thức thẩm mỹ - một vấn đề liên quan đến giải pháp mà luận án sẽ bàn đến.
  20. 19 Các công trình khoa học trên đã đề cập nhiều vấn đề quan trọng về giáo dục thẩm mỹ. Trong đó, liên quan đến vai trò, nội dung, hình thức, phương tiện giáo dục thẩm mỹ cho các đối tượng khác nhau, sự luận giải ở một số nội dung khá sâu sắc là cơ sở quan trọng cho nghiên cứu sinh kế thừa, bổ sung, làm rõ thêm theo hướng nghiên cứu của luận án. 4. Nhóm những công trình khoa học nghiên cứu về ý thức thẩm mỹ Trong bài báo “Cội nguồn của ý thức thẩm mỹ và sự thức tỉnh những năng lực sáng tạo nghệ thuật của con người” [94], Đỗ Thị Minh Thảo tiếp cận ý thức thẩm mỹ từ năng lực sáng tạo nghệ thuật, đồng thời chứng minh năng lực này được hình thành từ trong lao động thực tiễn. Tác giả cho rằng: “Nguồn gốc làm xuất hiện ý thức thẩm mỹ là hoạt động lao động của con người mà trước hết ở quá trình sáng tạo công cụ, sau đó là ngôn ngữ, giao tiếp của người tiền sử” [94, tr.49]. Theo tác giả, “quá trình phong phú hoá các mối quan hệ vật chất xã hội, đa dạng hoá bản chất con người đã đẩy nhanh quá trình phong phú hoá tính cảm giác chủ quan với cảm xúc thẩm mỹ, trí tưởng tượng, trực giác sáng tạo: được phản ánh, được cải biến và được đầu óc con người quán triệt theo phương thức riêng của nó - phương thức tư duy hình tượng thẩm mỹ (nghệ thuật) qua đó mà ý thức thẩm mỹ được nảy sinh, mà bằng chứng của nó là ý thức về cái đẹp hình thức và ý thức về sự hưởng thụ cái đẹp có tính chất người” [94, tr.52 - 53]. Cách tiếp cận này cho thấy nhờ có hoạt động thực tiễn thẩm mỹ lâu dài của con người thì những giác quan đã được xã hội hoá cao độ mới trở thành giác quan thẩm mỹ. Dựa vào các giác quan này mà “hình ảnh thẩm mỹ” - mặt thẩm mỹ của hiện thực khách quan được di chuyển vào trong óc thẩm mỹ của chủ thể, được hoạt động của tư duy thẩm mỹ tái sáng tạo hiện thực “theo quy luật của cái đẹp”. Về bản chất, ý thức thẩm mỹ là hình ảnh chủ quan của sự vật khách quan, tồn tại dưới dạng tinh thần; nội dung phản ánh mang tính khách quan; hình thức phản ánh mang lăng kính chủ quan của chủ thể thẩm mỹ. Diễn đạt ở góc độ này sẽ được nghiên cứu sinh bổ sung, phát triển trong đề tài luận án.
  21. 20 Tác giả còn đề cập: “Ý thức thẩm mỹ về đối tượng là cảm giác xác thực về hình ảnh của đối tượng được đặt như ở bên ngoài nó, và trong chiều ngược lại, như là như là ý thức thẩm mỹ về mình – tính cảm giác chủ quan với cảm xúc thẩm mỹ, trí tưởng tượng, trực giác sáng tạo luôn nuôi dưỡng những sự hưởng thụ có tính chất người” [94, tr.53]. Tuy nhiên, ý thức thẩm mỹ không chỉ phản ánh các yếu tố thẩm mỹ thuộc hình thức bên ngoài mà còn thâm nhập vào nội dung bên trong, vào những mối liên hệ bản chất sâu kín của sự vật, hiện tượng. Sự phản ánh đó luôn có sự thống nhất biện chứng của cái chủ quan và cái khách quan, của lý trí và tình cảm, của khái quát hoá, trừu tượng hoá nhưng rất cụ thể và sinh động. Hướng tiếp cận này sẽ được nghiên cứu sinh bổ sung, phát triển trong luận án. Trong bài báo “Tìm hiểu đặc trưng của ý thức thẩm mỹ” [86], tác giả Vũ Minh Tâm quan niệm: “Ý thức thẩm mỹ là một trong những hình thái ý thức xã hội của con người phản ánh hiện thực khách quan trong dạng hình tượng – tình cảm, nhằm đáp ứng nhu cầu “chế tạo theo quy luật của cái đẹp” [86, tr.33]. Theo đó, tác giả phân tích hai đặc trưng của ý thức thẩm mỹ: hình tượng thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ. Hình tượng thẩm mỹ là hình thức đặc thù và kết quả riêng biệt của mối liên hệ giữa ý thức thẩm mỹ với hiện thực khách quan. Còn tình cảm thẩm mỹ là một hình thức phản ánh có tính hiện thực khách quan của ý thức thẩm mỹ trong dạng một hệ thống độc lập và vững chắc bao gồm toàn bộ các cảm xúc, xúc động chủ quan của con người trước phẩm chất thẩm mỹ của hiện thực. Song, do tính phức tạp của phạm trù này nên cách lý giải về đặc trưng của ý thức thẩm mỹ trên đây vẫn chưa đủ để nhận biết những dấu hiệu đặc trưng về bản chất của ý thức thẩm mỹ. Do đó, cần phải thâm nhập vào những mối liên hệ bản chất bên trong để phân tích cơ chế hoạt động cùng các cấp độ và những yếu tố chủ yếu cấu thành nó, khi đó mới có được cái nhìn toàn diện và sâu sắc về ý thức thẩm mỹ. Phải đặt các yếu tố hợp thành ý thức thẩm mỹ trong tổng hoà với hệ thống cấu trúc của ý thức và ý thức xã hội theo các cấp độ, tầng bậc, trình độ của chủ thể thẩm mỹ, để từ đó xác định những yếu tố đặc trưng cấu thành ý thức thẩm mỹ. Tiếp cận theo hướng này sẽ được nghiên cứu sinh trình bày trong luận án.
  22. 21 Đề cập khá nhiều nội dung liên quan sát, gần với đề tài của luận án là Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Chí Linh: “Phát triển ý thức thẩm mỹ ở học viên sĩ quan chính trị cấp phân đội trong quân đội ta hiện nay” [55]. Trong công trình, tác giả cho rằng: “đánh giá thẩm mỹ là khía cạnh bản chất của ý thức thẩm mỹ” [55, tr.6]. Song, bản chất của ý thức thẩm mỹ phải là quá trình tri giác thực tại, phản ánh sự thống nhất toàn vẹn, sự hài hoà và cá biệt, sự hoàn hảo của thế giới dưới dạng những cảm xúc thẩm mỹ của con người gây nên những khoái lạc về mặt tinh thần. Mặt khác, với tính cách là một hình thái đặc thù của ý thức xã hội, thì nguồn gốc nảy sinh, phát triển và nội dung, hình thức phản ánh của ý thức thẩm mỹ cũng mang tính đặc thù. Và những khía cạnh ấy chưa được đề cập trong luận văn của tác giả. Quan niệm “về đặc trưng riêng có của ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực khách quan bằng hình tượng nghệ thuật, và ý thức nghệ thuật là biểu hiện tập trung và quan trọng nhất của ý thức thẩm mỹ” [55, tr.6] có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, ý thức thẩm mỹ không chỉ bao hàm ý thức nghệ thuật, và bản thân nghệ thuật chỉ là một hình thái đặc thù của thẩm mỹ. Chỉ có trên nền tảng hiện thực là đời sống thẩm mỹ của con người thì ý thức thẩm mỹ mới được hình thành nên, và nghệ thuật là phương thức con người tái cấu trúc các giá trị thẩm mỹ để chuyển tải những quan điểm, lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ nhất định. Bàn về cấu trúc ý thức thẩm mỹ, tác giả cho rằng có hai yếu tố cấu thành: mặt trí tuệ thẩm mỹ và mặt tâm lý thẩm mỹ tác động qua lại và chịu sự chi phối của hệ tư tưởng thống trị xã hội. Song, tiếp cận cấu trúc ý thức thẩm mỹ cần phải dựa vào cấu trúc của ý thức và ý thức xã hội và theo các cấp độ, tầng bậc, trình độ của chủ thể, và cách tiếp cận này sẽ được đề cập trong đề tài của luận án. Tác giả còn khẳng định “ý thức thẩm mỹ trong hoạt động quân sự là sự phản ánh và biểu hiện cảm xúc tình cảm, thị hiếu, lý tưởng của người quân nhân về “cái thẩm mỹ” trong hiện thực khách quan và thực tiễn hoạt động quân sự” [55, tr.13], nêu bật tính biểu cảm, cảm tính của hoạt động quân sự, chỉ có thông qua hoạt động này mới trực tiếp đem đến cho quân nhân cảm xúc về cái đẹp. Song để có được cảm xúc
  23. 22 thẩm mỹ, đòi hỏi chủ thể phải có tri thức thẩm mỹ, năng lực thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ – điều mà tác giả chưa luận giải đến. Đây là những khoảng trống sẽ được đề cập, bổ khuyết, giải quyết trong đề tài luận án. 5. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết 5.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố Một là, vấn đề ý thức thẩm mỹ cũng như các yếu tố cấu thành ý thức thẩm mỹ, đã được các công trình khoa học đề cập một cách gián tiếp, ở các khía cạnh, góc độ tiếp cận, phương pháp nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu có tính hệ thống, sâu sắc về bản chất, cấu trúc của ý thức thẩm mỹ dưới góc độ triết học. Hai là, một số công trình đã đề cập đến phát triển ý thức thẩm mỹ, song chưa có công trình nào nghiên cứu luận giải sâu sắc quan niệm về phát triển ý thức thẩm mỹ vừa với tư cách là quá trình phát triển tự thân, vừa với tư cách là hệ động thái hoạt động của chủ thể; cũng như chưa có công trình nào nghiên cứu luận giải sâu sắc về tính quy luật phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam,. Ba là, vấn đề đánh giá thực tiễn phát triển ý thức thẩm mỹ cũng đã được đề cập trong các công trình khoa học, song chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đánh giá thực trạng sự tác động của môi trường văn hoá thẩm mỹ, của các chủ thể giáo dục và tự giáo dục thẩm mỹ đến phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội. Bốn là, tuy đã có một số công trình đề cập đến những vấn đề về mục tiêu, bản chất, vai trò và giá trị của giáo dục thẩm mỹ, về những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thẩm mỹ nhằm hình thành, phát triển nhân cách, lối sống con người trong thời đại mới , song những giải pháp trực tiếp thúc đẩy quá trình phát triển ý thức thẩm mỹ trong môi trường văn hoá thẩm mỹ của
  24. 23 các nhà trường quân đội, cùng với việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan của các chủ thể giáo dục – đào tạo và vai trò tích cực của bản thân học viên trong phát triển ý thức thẩm mỹ thì vẫn rất mới mẻ. 5.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết Một là, luận án sẽ bổ sung, bổ khuyết và phát triển làm sâu sắc hơn cách tiếp cận triết học về ý thức thẩm mỹ, làm rõ những khía cạnh bản chất, tính chất đặc trưng và cấu trúc của ý thức thẩm mỹ, từ đó chỉ ra những biểu hiện đặc thù ý thức thẩm mỹ trong lĩnh vực quân sự và ý thức thẩm mỹ ở học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Hai là, nghiên cứu luận giải bản chất, quy luật phát triển ý thức thẩm mỹ là vấn đề mới, là nội dung cốt lõi mà trong phần cơ sở lý luận, đề tài luận án sẽ tập trung nghiên cứu, làm rõ về bản chất và những vấn đề có tính quy luật phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan trong quá trình đào tạo tại trường theo phương pháp tiếp cận của triết học Mác - Lênin. Ba là, luận án sẽ khảo sát thực trạng phát triển ý thức thẩm mỹ của đối tượng học viên này trong tương quan so sánh với mô hình đào tạo và trong tổng thể những tiền đề, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, đồng thời dự báo xu hướng phát triển và khái quát những yêu cầu có tính nguyên tắc để phát triển ý thức thẩm mỹ đối với học viên đào tạo sĩ quan ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Bốn là, việc kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên cùng với kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài luận án tạo tiền đề vững chắc để đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
  25. 24 Chương 1 THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT PHÁT TRIỂN Ý THỨC THẨM MỸ CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 1.1. Thực chất phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 1.1.1. Quan niệm về ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam * Bản chất của ý thức thẩm mỹ Thẩm mỹ trong tiếng Việt, có nghĩa là sự cảm thụ, hiểu biết, thẩm định, đánh giá của con người trước sự vật, hiện tượng khách quan theo trục cái đẹp. Cái đẹp là sự phản ánh kết quả thụ cảm của con người trước sự vật, hiện tượng toàn vẹn, cụ thể, hài hoà về cấu trúc, về nội dung và hình thức về nhịp điệu, cung bậc, màu sắc, âm thanh đem lại cho con người sự rung cảm thẩm mỹ lành mạnh, tiến bộ và có ý nghĩa xã hội tích cực. Những sự vật, hiện tượng của thế giới hiện thực đều có thể mang thuộc tính thẩm mỹ, được đặt với tư cách khách thể thẩm mỹ trong mối quan hệ thẩm mỹ với con người. Và, con người nói chung với tư cách chủ thể thẩm mỹ đều có khả năng cảm thụ, hiểu biết, thẩm định, hưởng thụ thuộc tính thẩm mỹ của khách thể. Sự tương tác trực tiếp giữa khách thể thẩm mỹ với chủ thể thẩm mỹ tạo nên hệ thống các phạm trù thẩm mỹ (cái đẹp, cái xấu, cái cao cả, cái thấp hèn, cái bi, cái hài, cái hùng ). Tất cả các bình diện ấy, khi được xem xét với tư cách sự di chuyển và cải biến hiện thực khách quan trong đầu óc con người, chính là ý thức thẩm mỹ của chủ thể. Ý thức thẩm mỹ là một phạm trù gắn bó mật thiết với thế giới nội tâm con người, rất sâu kín và có cấu trúc hết sức phức tạp. Để có quan niệm đầy đủ về ý thức thẩm mỹ, trước hết cần tiếp cận từ sự nảy sinh của nó thông qua ội dung, hình thức phản ánh đặc thù đối với hiện thực và đời sống.
  26. 25 Những khía cạnh bản chất của ý thức thẩm mỹ Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực khách quan về phương diện thẩm mỹ. Với tư cách một thực thể xã hội – văn hoá, con người trước thế giới hiện thực cảm nhận, cảm thụ thế giới như một khách thể “đồng hoá” với mình, đồng thời đi sâu phân tích, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong tư duy để nhận thức được bản chất sâu kín của thế giới hiện thực. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, con người không chỉ ghi lại những nhận biết về các thuộc tính của nó và “mổ xẻ” bằng tư duy khái niệm để hình thành hệ thống tri thức, mà còn bị hấp dẫn, rung cảm về vẻ đẹp của nó cùng tác động thông qua các giác quan, đồng thời được tư duy hình tượng “tái tạo” thành những biểu trưng, biểu tượng, luận lý về cái thẩm mỹ. Nhờ hoạt động thực tiễn thẩm mỹ lâu dài của con người mà hệ thống giác quan cùng khả năng tư duy ấy được xã hội hoá cao, phát triển và trở thành các khí quan thẩm mỹ ngày càng hoàn bị. Dựa vào các khí quan này mà “hình ảnh thẩm mỹ” của hiện thực được di chuyển vào trong óc thẩm mỹ của chủ thể, được hoạt động của tư duy hình tượng tái tạo ở trong đó, nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức, đánh giá và tái sáng tạo hiện thực theo quy luật của cái đẹp. Thực chất, ý thức thẩm mỹ là “bản sao” của thế giới khách quan về phương diện thẩm mỹ. Đó là hình ảnh cảm tính và lý tính của sự vật khách quan, tồn tại dưới hình thức những biểu tượng gợi cảm trong sự thống nhất toàn vẹn, sự hài hoà giữa nội dung và hình thức được các khí quan thẩm mỹ ghi lại, chép lại, chụp lại, “nhào nặn” trong tư duy con người thông qua quá trình giao tiếp với thực tại khách quan và được thể hiện dưới dạng những rung cảm, cảm xúc, thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ. Do vậy, nội dung phản ánh của ý thức thẩm mỹ mang tính khách quan, bởi đó không gì khác chính là thế giới hiện thực. Còn hình thức phản ánh của ý thức thẩm mỹ chịu sự chi phối và mang đậm lăng kính chủ quan của chủ thể. Sự phản ánh độc đáo trong ý thức con người về mặt thẩm mỹ đối với thế giới dưới góc độ những cảm xúc, tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ, khát vọng và lý tưởng
  27. 26 thẩm mỹ nảy sinh từ hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình hoà nhập của tiểu vũ trụ vào đại vũ trụ, do nhu cầu sinh tồn, giao tiếp, quan hệ nhằm vươn tới sự phát triển hài hoà, tự hoàn thiện nhân tính tạo nên. Ý thức thẩm mỹ phản ánh sự tương tác biện chứng trực tiếp giữa chủ thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ. Sự vật, hiện tượng khách quan, cụ thể, cảm tính luôn chứa đựng những khả năng bộc lộ cái mỹ có thể gọi là tính khả mỹ. Trước hiện thực ấy và bằng năng lực khả thẩm của mình, con người có thể nhận thức, cảm thụ được tính khả mỹ của sự vật, hiện tượng để tìm ra những yếu tố thẩm mỹ. Rõ ràng, cái thẩm mỹ không phải là bản thân sự vật, hiện tượng, cũng không phải là cái vốn có về tư tưởng, xúc cảm, đánh giá chủ quan của con người, mà là quan hệ đặc biệt giữa chủ thể thẩm mỹ với khách thể thẩm mỹ. Trong mối quan hệ ấy, chủ thể thẩm mỹ được coi với tư cách là yếu tố khả thẩm, còn mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới khách quan được coi với tư cách là khách thể khả mỹ. Cái thẩm mỹ là kết quả phức hợp của sự tương tác qua lại giữa con người khả thẩm với hiện thực khả mỹ, thông qua sự phân cực giữa các hiện tượng thẩm mỹ: cái đẹp - cái xấu, cái bi - cái hài, cái cao cả - cái thấp hèn trong ý thức thẩm mỹ của chủ thể. Với tính cách hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hạt nhân cốt lõi của ý thức thẩm mỹ là ý thức về cái đẹp. Các nhà mỹ học đều thống nhất về cái đẹp là phạm trù trung tâm của thẩm mỹ. Mặt khác có thể thấy, sự phản ánh của ý thức liên quan đến hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người nói chung thường hướng tới cái hữu ích; song sự phản ánh của ý thức còn liên quan trực tiếp đến quá trình thụ cảm thế giới của con người lại hướng tới cái đẹp, từ đó đưa tiêu chí cái đẹp vào mọi hoạt động lao động sản xuất, tổ chức đời sống vật chất và tinh thần, cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và cải biến chính bản thân con người. Vì vậy, mà cái hữu ích trong lĩnh vực thẩm mỹ xét đến cùng là cái đẹp. Cái đẹp không những thể hiện sự hữu ích về cải tạo và phục vụ đời sống tinh thần của con người, mà còn “đẹp hoá” những cái
  28. 27 hữu ích ở mọi lĩnh vực khác, nhất là lợi ích vật chất, đưa cái hữu ích lên trình độ hoàn thiện mới. Tất nhiên, cái đẹp và cái hữu ích không đồng nhất với nhau, song cũng không thể đặt cái này lên trên cái kia, mà phải tìm thấy sự thống nhất trong khác biệt, tìm thấy sự cộng hưởng giữa các đặc tính riêng tồn tại trong sản phẩm tương tác giữa con người với thực tiễn. Cũng với tính cách hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, ý thức thẩm mỹ là sự thống nhất biện chứng giữa ý thức thẩm mỹ cá nhân và ý thức thẩm mỹ cộng đồng. Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh thế giới khách quan của con người về mặt thẩm mỹ, song đồng thời là sự phản chiếu của ý thức xã hội nói chung lên đời sống tinh thần của cá nhân, được tô màu bằng những đặc điểm chủ quan của mỗi con người riêng biệt. Nói cách khác, ý thức thẩm mỹ là sự hoà quyện giữa ý thức của cộng đồng với ý thức cá nhân về mặt thẩm mỹ, song lăng kính cá nhân vẫn là đặc trưng ưu trội. Theo C. Mác: “Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội” [60, tr.569]. Cho nên, trong mối quan hệ biện chứng cá nhân con người - xã hội và bằng những con đường khác nhau, những thị hiếu, lý tưởng, tư tưởng, xu hướng thẩm mỹ chung của cộng đồng luôn ràng buộc, tác động, xâm nhập, chi phối mỗi cá nhân, và xét đến cùng quyết định bản chất xã hội của ý thức thẩm mỹ cá nhân, song không tước bỏ sự phong phú tinh thần thực tế của cá nhân. Ngược lại, dù chịu sự chi phối, quy định, quyết định của ý thức thẩm mỹ cộng đồng với tư cách là thành viên trong xã hội, nhưng tính đơn nhất và độc đáo của ý thức thẩm mỹ cá nhân vẫn hết sức nổi trội. Mỗi cá nhân riêng biệt có tính độc lập tương đối trong sự lựa chọn giá trị thẩm mỹ, trong hình thành, phát triển tâm thức thẩm mỹ, trong hành xử theo tiêu chí thẩm mỹ, cũng như trong khái quát những ý tưởng, quan niệm, lý thuyết riêng về thẩm mỹ. Bởi lẽ, mỗi “cá nhân hiện thực” sống trong cộng đồng xã hội bao giờ cũng có những tố chất riêng của mình, với những đặc điểm về xuất thân, điều kiện sống, hoàn cảnh, môi trường giáo dục, trình độ học vấn, sự từng trải, năng lực, sở thích khác
  29. 28 nhau. Do vậy, ý thức thẩm mỹ được tiếp cận ở ý thức cá nhân bao giờ cũng in đậm tính chất đa dạng, phong phú, mang dấu ấn chủ quan. Các tính chất đặc trưng của ý thức thẩm mỹ Cũng như ý thức nói chung, ý thức thẩm mỹ mang đầy đủ các tính chất đặc trưng của ý thức xã hội như tính lạc hậu tương đối, tính kế thừa, tính vượt trước, tính hội kết các hình thái ý thức xã hội, tính hữu dụng tác động trở lại tồn tại xã hội Điều đó thể hiện ở một số khía cạnh tiêu biểu dưới đây. Ý thức thẩm mỹ có khả năng phản ánh vượt trước nhờ tính năng động cao của một bộ phận những nhà tư tưởng mỹ học”. Cũng như bất cứ tư tưởng khoa học tiên tiến nào, dự cảm, dự báo thẩm mỹ với tính cách là cấp độ cao của ý thức thẩm mỹ, của tư duy hình tượng,vừa có thể nhận thức và phản ánh sâu sắc đời sống thẩm mỹ xã hội, vừa gợi mở, phát hiện, dự báo những lý tưởng và khát vọng thẩm mỹ, những khả năng và ý nghĩa mới trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực và xu hướng biển đổi tất yếu khách quan của đời sống thẩm mỹ. Không chỉ dự báo về sự nảy sinh, phát triển và chiến thắng của cái mới, cái đẹp cần có – sẽ có, mà ý thức thẩm mỹ còn dự đoán quá trình cái cũ, cái xấu sẽ tàn lụi, mất đi bởi sự phủ định của cái tất yếu hợp với lý tưởng tiến bộ của xã hội loài người. Với những tư tưởng vượt trước thời đại, có ý nghĩa soi sáng, dẫn đường mà dự báo thẩm mỹ có thể đem lại chân lý, niềm tin, khát vọng vươn tới cái đẹp, gợi mở, định hướng tính tích cực và thôi thúc hiện thực hoá nó trong đời sống tinh thần của con người. Sự phát triển của ý thức thẩm mỹ, dưới góc độ một hình thái ý thức xã hội, luôn gắn liền và thông qua sự phát triển các hình thái ý thức xã hội khác. Ý thức thẩm mỹ không phải là cái thuần tuý trừu tượng, phi xã hội - lịch sử. Bởi vì, “ bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [61, tr.11]. Sự hình thành, phát triển của ý thức thẩm mỹ tất yếu chịu sự
  30. 29 tác động chi phối, ảnh hưởng qua lại với các hoạt động, các mối quan hệ xã hội khác của con người. Do đó, nhận thức thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, ý chí thẩm mỹ không thể không gắn bó chặt chẽ với tất cả những gì tác động qua lại với con người: đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, pháp quyền, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và tương ứng là các hình thái ý thức xã hội như ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp quyền, ý thức khoa học, ý thức tôn giáo của từng thời đại, từng cộng đồng xã hội. Chính vì vậy mà trong xã hội có giai cấp, ý thức thẩm mỹ luôn bị chiếu qua lăng kính chính trị - giai cấp; tất nhiên, mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội lại có thế giới tinh thần riêng biệt của mình, nên tình cảm thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ, ý chí thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ của họ ít nghiêng về lợi ích giai cấp mà nghiêng về tình cảm giai cấp. Cũng tương tự là mối quan hệ giữa tính dân tộc với tính nhân loại phổ biến: có cái đẹp chung được các dân tộc khác nhau cùng thừa nhận, mang tính phổ quát, trở thành giá trị văn hoá tiêu biểu của toàn nhân loại; nhưng ở mỗi dân tộc lại có những đặc điểm riêng tạo nên bản sắc dân tộc của thẩm mỹ, làm cho ý thức thẩm mỹ của dân tộc này khác với dân tộc khác, thể hiện dấu ấn của bản sắc dân tộc rất sâu sắc và đậm nét. Tác động trở lại của ý thức thẩm mỹ đến đời sống con người là sự thể hiện đậm nét nhất bản chất xã hội của ý thức thẩm mỹ. Song, khác với các hình thái ý thức xã hội khác, tác động trở lại của ý thức thẩm mỹ đến đời sống con người là sự tác động “thẳng vào trái tim rồi mới dội lên óc” thông qua hình tượng nghệ thuật. Với tư cách một phương thức đặc biệt trong quan hệ thẩm mỹ của con người, nghệ thuật về bản chất là sự tái cấu trúc cái thẩm mỹ bằng những công cụ đặc biệt – đó là hình tượng nghệ thuật. Bởi lẽ, mọi phương diện thẩm mỹ của con người với hiện thực (cái đẹp, cái bi, cái hùng, cái hài ) đều có thể được phản ánh, lựa chọn, tái tạo lại, kết tinh lại, “nhào nặn” một cách điển hình hoá trong tác phẩm nghệ thuật bằng sự sáng tạo độc đáo từ toàn bộ năng lực hoạt động thẩm mỹ của người nghệ sĩ theo quan điểm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, tiêu chí thẩm mỹ mang tính riêng. Những hình tượng nghệ thuật chân thực, có tính thẩm mỹ cao đều là sự phản ánh tâm tư, khát vọng và
  31. 30 tư tưởng của một lực lượng xã hội nhất định, một thời đại nhất định thông qua phương thức trừu tượng qua cái cụ thể; phổ quát hoá cái đơn nhất; tinh thần hoá cái vật chất Đồng thời, từ những sản phẩm nghệ thuật có sự tích tụ các giá trị thẩm mỹ cao ấy, nghệ thuật trở thành công cụ để tác động đến những khía cạnh thầm kín và sâu xa trong tâm hồn con người, khơi dậy, kích thích niềm tin, ý chí và khát vọng thẩm mỹ, tạo động lực thẩm mỹ và cổ suý hành vi, lối sống đẹp, phấn đấu vươn tới những mục tiêu, lý tưởng cao đẹp. Điều đó đưa đến quan niệm “cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp của cái đẹp”. Những khía cạnh bản chất, tính chất đặc trưng của ý thức thẩm mỹ được lý giải dưới góc độ phương pháp luận triết học Mác-Lênin trên đây là cơ sở để đi đến quan niệm: Ý thức thẩm mỹ là một hình thái đặc thù của ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan về mặt thẩm mỹ thông qua lăng kính chủ quan của chủ thể, nhằm đáp ứng nhu cầu cảm thụ, đánh giá, thụ hưởng cái đẹp và cải tạo thế giới theo quy luật của cái đẹp. Tất nhiên, do tính phức tạp của phạm trù này nên cần phải thâm nhập vào những mối liên hệ bản chất ẩn kín bên trong các quan hệ thẩm mỹ giữa con người với hiện thực để phân tích cơ chế hoạt động cùng các cấp độ và những yếu tố chủ yếu cấu thành ý thức thẩm mỹ. * Cấu trúc của ý thức thẩm mỹ Đã có nhiều cách phân chia cấu trúc của ý thức thẩm mỹ theo các góc độ tiếp cận khác nhau. Theo cấp độ phản ánh, ý thức thẩm mỹ bao gồm ý thức thẩm mỹ thông thường và ý thức thẩm mỹ bậc cao. Ý thức thẩm mỹ thông thường gồm: tri thức thẩm mỹ thông thường; kinh nghiệm thẩm mỹ; thị hiếu thẩm mỹ Ý thức thẩm mỹ bậc cao gồm: quan điểm thẩm mỹ; khoa học thẩm mỹ; lý tưởng thẩm mỹ Theo chủ thể thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ bao gồm ý thức thẩm mỹ cá nhân và ý thức thẩm mỹ cộng đồng. Ý thức thẩm mỹ cá nhân thể hiện chiều sâu thế giới nội tâm của con người về phương diện thẩm mỹ, gồm các yếu tố: cảm xúc thẩm mỹ; tình cảm thẩm mỹ; tri thức thẩm mỹ; thị hiếu thẩm mỹ; lý tưởng thẩm mỹ; Ý thức thẩm mỹ cộng đồng thể hiện
  32. 31 tổng hoà những đặc trưng văn hoá thẩm mỹ chung của cả cộng đồng, gồm các yếu tố: thị hiếu thẩm mỹ lớp nhân cách; dư luận thẩm mỹ; tâm trạng thẩm mỹ; tập quán thẩm mỹ Theo các yếu tố cấu thành của ý thức, ý thức thẩm mỹ bao gồm nhận thức thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ và ý chí thẩm mỹ. Nhận thức thẩm mỹ gồm: tri thức thẩm mỹ; phương pháp thẩm mỹ; trí tuệ thẩm mỹ, khoa học thẩm mỹ; quan điểm thẩm mỹ Tình cảm thẩm mỹ gồm: cảm xúc thẩm mỹ; thị hiếu thẩm mỹ; niềm tin thẩm mỹ; lý tưởng thẩm mỹ; sự phản cảm thẩm mỹ Ý chí thẩm mỹ gồm: nhu cầu thẩm mỹ; mong muốn thẩm mỹ; khát vọng thẩm mỹ; bản lĩnh thẩm mỹ Dựa vào những phương diện tiếp cận về ý thức thẩm mỹ trên đây, luận án chủ yếu tiếp cận theo các yếu tố cấu thành của ý thức, nhưng quan tâm cả hai cấp độ ý thức thẩm mỹ thông thường và ý thức thẩm mỹ bậc cao, đồng thời quan tâm cả hai loại chủ thể thẩm mỹ. Tất nhiên, để tập trung nghiên cứu về phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, luận án chủ yếu bàn về ý thức thẩm mỹ cá nhân, nhưng là ý thức thẩm mỹ của một lớp nhân cách học viên đào tạo sĩ quan. Theo đó, cấu trúc của ý thức thẩm mỹ được luận án khái quát bao gồm: Hệ thống tri thức thẩm mỹ phổ thông (ý thức thẩm mỹ thông thường) và quan điểm, lý luận thẩm mỹ (ý thức thẩm mỹ bậc cao) của cá nhân hoặc một lớp nhân cách. Hệ thống cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ (ý thức thẩm mỹ thông thường) và lý tưởng thẩm mỹ (ý thức thẩm mỹ bậc cao) của cá nhân hoặc một lớp nhân cách. Hệ thống nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ (ý thức thẩm mỹ thông thường) và khát vọng thẩm mỹ (ý thức thẩm mỹ bậc cao) của cá nhân hoặc một lớp nhân cách. Tri thức thẩm mỹ phổ thông và quan điểm, lý luận thẩm mỹ Với tính cách là sản phẩm của quá trình nhận thức thẩm mỹ, tri thức thẩm mỹ là “phương thức tồn tại của ý thức thẩm mỹ” - thành tố cơ bản, cốt lõi hàng đầu trong ý thức của chủ thể thẩm mỹ, là cơ sở để con người có thể trở thành những chủ thể thẩm mỹ. Trong hệ thống tri thức thẩm mỹ, tri thức thẩm mỹ phổ thông là kết quả của quá trình phản ánh trực tiếp các hiện tượng
  33. 32 thẩm mỹ, các đặc trưng bề ngoài của giá trị thẩm mỹ vào quá trình nhận thức của con người. Tuy ở cấp độ nhận thức bậc thấp, song tri thức thẩm mỹ vẫn là sản phẩm quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan vào óc con người theo quy luật của cái đẹp, song biểu hiện ở trình độ hiểu biết thông thường của con người về cái thẩm mỹ trong tự nhiên, trong đời sống xã hội và trong nghệ thuật. Tri thức thẩm mỹ phổ thông (còn gọi là tri thức thẩm mỹ kinh nghiệm) tồn tại phổ biến ở mọi con người nói chung, đó là những quan niệm, những nhận biết trực tiếp về cái thẩm mỹ, những kinh nghiệm về thẩm mỹ được hình thành thường xuyên trong đời sống thực tiễn hàng ngày. Quan điểm, lý luận thẩm mỹ cũng là kết quả của quá trình nhận thức thẩm mỹ của con người, quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan vào óc con người theo quy luật của cái đẹp, song đạt đến trình độ khái quát hoá cao và thể hiện thành hệ thống quan điểm, lý luận khoa học. Quan điểm thẩm mỹ thể hiện sự định hướng chung của thể chế xã hội – giai cấp và thường mang tính áp chế về những nguyên tắc tiếp cận các hiện tượng và quá trình thẩm mỹ trong đời sống xã hội và trong nghệ thuật. Tri thức thẩm mỹ trong quan điểm thẩm mỹ còn đóng vai trò nền tảng để “nắn chỉnh” tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu, ý chí thẩm mỹ và khát vọng thẩm mỹ của con người với tư cách thành viên của xã hội, tức là chi phối toàn bộ đời sống thẩm mỹ mang tính chính thống của xã hội. Chịu sự chi phối của quan điểm thẩm mỹ đồng thời tạo luận cứ khoa học cho quan điểm thẩm mỹ là hệ thống tri thức lý luận thẩm mỹ. Đó là hệ thống các học thuyết, lý thuyết khoa học, lý luận, triết lý thể hiện sự xâm nhập sâu sắc của tư duy vào khách thể thẩm mỹ, được trình bày dưới dạng những nguyên lý, phạm trù, khái niệm mỹ học, khái quát các quy luật phát triển của đời sống thẩm mỹ, khái quát các nguyên lý giáo dục thẩm mỹ. Tri thức thẩm mỹ ở tầng lý luận khoa học xét đến cùng vẫn là sự phản ánh của thực tiễn đời sống thẩm mỹ, song không phải là tri thức thông thường mà là sự khái quát sâu sắc về bản chất, nguồn gốc các hiện tượng thẩm mỹ, quy luật phát triển của đời sống thẩm mỹ và nguyên tắc nhận thức, xử lý trong lĩnh vực thẩm mỹ.
  34. 33 Cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ Cảm xúc thẩm mỹ là nhân tố đặc biệt, đầu tiên tạo nên tình cảm thẩm mỹ trong ý thức chủ thể trước khách thể thẩm mỹ. Đó là trạng thái rung động trực tiếp, biểu thị thái độ, tâm trạng, chia sẻ của con người đối với hiện thực khách quan trong thiên nhiên, trong đời sống và trong nghệ thuật bằng những rung cảm thẩm mỹ mang sắc thái rất phong phú, da dạng, Cảm xúc thẩm mỹ bao hàm nhiều cung bậc khác nhau: thích thú, hân hoan, vui sướng, sảng khoái trước cái đẹp; đau xót, thương tiếc, đồng cảm trước cái bi; hả hê trước cái hài bị lột mặt nạ; khinh bỉ ghê tởm trước cái xấu, cái thấp hèn; cảm phục, tôn vinh, ngưỡng mộ trước cái cao cả, cái anh hùng Cảm xúc thẩm mỹ lặp đi lặp lại nhiều lần tạo thành thị hiếu thẩm mỹ, làm nảy sinh qua hệ thẩm mỹ mang tính lựa chọn, định hình. Thị hiếu thẩm mỹ thường gắn với nhu cầu thẩm mỹ thường xuyên nào đó của cá nhân, lớp nhân cách , trở thành sở thích tương đối ổn định của con người về phương diện thẩm mỹ. Chính những cảm xúc thẩm mỹ lặp đi lặp lại nhiều lần trong cùng một mối tương tác chủ thể - khách thể tạo nên tình cảm thẩm mỹ khá bền vững, cả về cảm thụ, đánh giá, lựa chọn, theo đuổi những giá trị thẩm mỹ ưa thích như một hệ “mô-típ”, được gọi là thị hiếu thẩm mỹ. Trong đó, chủ yếu là thị hiếu thẩm mỹ tích cực gắn với xu thế chung của cộng đồng; song cũng có những thị hiếu thẩm mỹ lạc điệu với cộng đồng, theo kiểu “chơi trội”; và còn có hiện tượng “thị hiếu giả”, tức là thói “đua đòi”, “thời thượng”, “hội chứng” Lý tưởng thẩm mỹ là trình độ cao của tình cảm thẩm mỹ, một hình thức phản ánh hiện thực bằng thụ cảm thẩm mỹ. Thể hiện mơ ước của con người về một cuộc sống tốt đẹp, hoàn thiện, hoàn mỹ trong hiện tại và một tương lai cao đẹp bằng hình tượng thẩm mỹ có tính điển hình cao, được cộng đồng thừa nhận. Lý tưởng thẩm mỹ mang tính tổng hợp cao và chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: ý thức tư tưởng, học vấn, thế giới quan, nhân sinh quan, truyền thống văn hoá của dân tộc, tâm lý xã hội làm cho lý tưởng thẩm mỹ đạt tới trình độ giá trị văn hoá – văn hoá thẩm mỹ. Lý tưởng thẩm mỹ được
  35. 34 bắt nguồn từ những cảm xúc và thị hiếu thẩm mỹ, song khác với cảm xúc và thị hiếu thông thường ở chỗ nó đẩy tình cảm thẩm mỹ của con người lên tầm cận lý tính. Điều đó có nghĩa là về thực chất, lý tưởng thẩm mỹ chính là sự lý tưởng hoá hiện thực bằng cái đẹp, song là cái đẹp mang tính vượt trước trong ý thức của con người, phản ánh tính vượt trước của những giá trị thẩm mỹ vốn đã tồn tại hiện thực. Với tính cách là cái đẹp lý tưởng, hoàn thiện cần có và sẽ có cho nên nó có thể có trước hiện thực và cao hơn hiện thực. Lý tưởng thẩm mỹ không phải bất biến, mà luôn vận động phát triển cùng với đời sống thẩm mỹ của xã hội, đồng thời nó cũng phản ánh các khía cạnh về lợi ích xã hội của con người thông qua lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức Nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ và khát vọng thẩm mỹ Ý thức thẩm mỹ của con người, xét ở thành tố ý chí, biểu hiện thành nhu cầu, mong muốn được thụ cảm thế giới, và đạt trình độ cao thì thể hiện thành khát vọng cháy bỏng mà con người tìm mọi phương thức để được thoả mãn. Nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ được nảy sinh trực tiếp từ ý chí con người tham gia hoạt động thẩm mỹ nhằm cải tạo, sáng tạo hiện thực để có được cái đẹp và hưởng thụ cái đẹp do chính mình tạo ra trong đời sống thường ngày. Cũng như những nhu cầu khác của con người mà việc thoả mãn chủ yếu do quá trình sản xuất xã hội cung ứng, nhu cầu thẩm mỹ chỉ được thoả mãn khi con người không những cần đến nó mà còn tích cực chủ động kiếm tìm, sáng tạo nên giá trị thẩm mỹ. Trên cơ sở trình độ nhận thức thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ, mỗi con người thể hiện ý chí của mình trong việc kiếm tìm, sáng tạo, chiếm đoạt, sử dụng, hưởng thụ cái đẹp để thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ của mình. Bởi lẽ “ thế giới không thoả mãn con người, và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình” [53, tr.229]. Đó chính là sự thể hiện ý chí thẩm mỹ của con người trước khách thể thẩm mỹ và bằng hoạt động thẩm mỹ của mình để tạo ra cái thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ đáp ứng những lợi ích thẩm mỹ, mục đích thẩm mỹ nhất định.
  36. 35 Từ tiền đề của những nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ thông thường, khi con người xuất hiện nhu cầu thẩm mỹ bậc cao mà nhất thiết bằng mọi cách để đạt được thì xuất hiện khát vọng thẩm mỹ. Đó là sự hoà quyện của cả nhận thức, tình cảm và ý chí thẩm mỹ tạo thành niềm tin thẩm mỹ mãnh liệt, thúc dục khát vọng cháy bỏng của con người vươn tới cái đẹp, tạo ra cái đẹp, xây dựng nên cái đẹp, để hưởng thụ cái đẹp theo những ước vọng của mình. Trong đó, khát vọng thẩm mỹ là động lực cốt lõi, bao hàm những ước nguyện, khát khao, kỳ vọng về cái đẹp, sự nỗ lực, quyết tâm khám phá, sáng tạo ra cái đẹp và mong muốn cháy bỏng chiếm lĩnh cái đẹp, thụ hưởng cái đẹp. Như vậy, hệ thống tri thức thẩm mỹ và quan điểm, lý luận thẩm mỹ; cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ; nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ và khát vọng thẩm mỹ là những yếu tố cơ bản nhất hợp thành chỉnh thể ý thức thẩm mỹ của con người. Đương nhiên, nói đến cấu trúc chỉnh thể ấy không chỉ là nói đến các thành tố riêng biệt, mà còn nói đến sự gắn kết các thành tố do chức năng khác nhau của nó quy định. Tri thức thẩm mỹ vừa là thành tố thể hiện mặt nhận thức luận của ý thức thẩm mỹ, vừa là cơ sở, tiền đề để định hình hệ tiêu chí mang tính bản chất đối với sự phát triển tình cảm thẩm mỹ và ý chí thẩm mỹ. Tình cảm thẩm mỹ vừa là thành tố thể hiện mặt giá trị luận của ý thức thẩm mỹ về thái độ, rung cảm của con người trước cái thẩm mỹ, vừa là nội dung cơ bản hiện thực hoá tri thức thành hoạt động thụ cảm thẩm mỹ và là nền móng vững chắc để định hình ý chí thẩm mỹ. Ý chí thẩm mỹ vừa là thành tố thể hiện mặt mục đích luận của ý thức thẩm mỹ về mong muốn, khát vọng thẩm mỹ của con người trước thế giới hiện thực, vừa là chất kết nối để hoàn chỉnh, làm bền vững hệ thống tri thức thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ đã được định hình. Do vậy, cấu trúc ý thức thẩm mỹ là chỉnh thể nhất quán của các thành tố nói trên. Thực chất, đó là sự hoà hợp biện chứng của cả cảm xúc, tình cảm lẫn
  37. 36 trí tuệ và của cả con tim lẫn khối óc. Khi xem xét ý thức thẩm mỹ không được tuyệt đối hoá, hay tách biệt những yếu tố cấu thành ý thức thẩm mỹ. Sự mổ xẻ, phân chia ý thức thẩm mỹ thành các thành tố chỉ là sự phân tách trong tư duy để nghiên cứu sâu về bản chất của một phạm trù phức tạp mà thôi. * Quan niệm về ý thức thẩm mỹ trong lĩnh vực quân sự và biểu hiện ý thức thẩm mỹ ở học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Quan niệm về ý thức thẩm mỹ trong lĩnh vực quân sự Hoạt động trong lĩnh vực quân sự là một loại hình lao động đặc biệt của con người bởi mục đích, tính chất, công cụ phương tiện hoạt động đặc biệt và thường diễn ra trong không - thời gian đặc biệt. Hoạt động quân sự thường diễn ra ở những nơi gian khổ nhất, khó khăn nhất, nơi đối đầu giữa ta và địch, nơi hiểm trở xung yếu phải bảo vệ; diễn ra trong không gian, thời gian khó xác định trước, bất kể ngày hay đêm, mưa hay nắng, trên mọi loại địa hình, mọi vùng của đất nước. Trong hoạt động chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu luôn hàm chứa sự thương vong, tổn thất về con người và sự tàn phá về cơ sở vật chất, tinh thần của xã hội, do tính chất chiến tranh phải tiêu diệt đối phương, nên tác động sâu sắc, toàn diện đến ý thức của các chủ thể quân sự. Hoạt động quân sự là hoạt động sáng tạo, đặc biệt là người chỉ huy, rất cần có tư duy táo bạo, không rập khuôn theo những định đề có sẵn. Hơn nữa, xét về mục đích, tính chất hoạt động của quân đội cách mạng nhằm phục vụ chiến tranh chính nghĩa, mọi tổ chức và con người quân sự luôn sẵn sàng hi sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, giành và giữ độc lập, tự do cho dân tộc mình và góp phần bảo vệ nền hoà bình của nhân loại. Tất cả các hoạt động mang tính sáng tạo và nhân văn ấy chứa đựng trong bản thân nó giá trị về cái đẹp, đồng thời tác động thường xuyên đến con người và cộng đồng quân sự, hướng họ đến lý tưởng cao đẹp, mang đậm giá trị thẩm mỹ. So với đời sống thẩm mỹ nói chung, đời sống thẩm mỹ trong môi trường quân sự cũng nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại, phát triển của quân nhân theo
  38. 37 giá trị chân - thiện - mỹ. Tuy nhiên, thẩm mỹ trong môi trường quân sự mang tính đặc thù: không – thời gian của nó là không – thời gian “đậm đặc”; hệ nhu cầu thẩm mỹ có tính bắt buộc, không lựa chọn tuỳ tiện; tính thống nhất; tính đồng đều; tính hùng mạnh, nghiêm trang; tính chính xác; nhanh nhẹn Tính đặc thù ấy vừa chắt lọc vừa thấm sâu vào tất cả các quan hệ thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ, thiết chế văn hoá thẩm mỹ gắn liền với đời sống, nhu cầu thẩm mỹ của quân nhân. Quá trình hiện thực hoá cái mỹ trong mọi hoạt động của quân nhân và tập thể quân nhân nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển quân nhân theo giá trị chân - thiện - mỹ cũng thấm đậm tính đặc thù ấy. Hơn nữa, trong môi trường quân sự, khách thể thẩm mỹ cũng bao hàm các sự vật, hiện tượng, quá trình diễn ra trong đời sống xã hội, song trực tiếp và thường xuyên nhất vẫn là các sự vật, hiện tượng, quá trình gắn với hoạt động chiến đấu, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị, phát triển khoa học, kĩ thuật quân sự Chủ thể thẩm mỹ là các quân nhân vừa mang tư cách dân sự của công dân, song chủ yếu được định trị bởi tư cách con người quân sự, với những phẩm chất, năng lực đặc biệt, nên ý thức thẩm mỹ của họ trước hết là thẩm mỹ quân sự. Sự tương tác biện chứng giữa các yếu tố ý chí và hành động, phẩm chất và năng lực chiến đấu, khoa học và nghệ thuật quân sự, con người và vũ khí trang bị trong chủ thể với tất cả các khách thể thực tiễn quân sự, xét dưới góc độ quan hệ thẩm mỹ, luôn hình thành trong quân nhân ý thức thẩm mỹ mang đậm tính đặc thù quân sự. Các hiện tượng: đẹp – xấu, cao cả – thấp hèn, bi – hài trong đời sống thẩm mỹ của quân nhân, từ đó được khái quát nên ý thức thẩm mỹ của họ, bao giờ cũng được phân cực một cách tối đa, hay có thể nói đối với quân nhân, cái chân, thiện, mỹ là tận chân, tận thiện, tận mỹ. Ý thức thẩm mỹ trong lĩnh vực quân sự là ý thức về cái đẹp, cái hùng, cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn trong thực tiễn quân sự gắn với
  39. 38 nhiệm vụ, chức trách quân nhân, được thể hiện sâu sắc trong ý thức trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ quân sự và vinh dự quân nhân. Đó là ý thức về cái mỹ trong rèn luyện theo chuẩn mực lễ tiết, tác phong quân nhân; cái mỹ trong tư cách quân nhân và cách thức quan hệ tập thể quân nhân; cái mỹ trong lối sống, nếp sống và sinh hoạt tập thể quân sự, trong quan hệ quân dân, quan hệ xã hội Theo đó, ý thức thẩm mỹ của quân nhân một mặt phản ánh và chịu sự chi phối của đời sống thẩm mỹ xã hội, mặt khác phản ánh trực tiếp môi trường quân sự mà họ đang sống và hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ của mình. Sự chi phối, tác động mạnh mẽ của đời sống thẩm mỹ quân sự đến các thành tố trong cấu trúc thẩm mỹ của quân nhân cũng thông qua hệ thống cảm xúc thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ. Biểu hiện ý thức thẩm mỹ ở học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam Học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong các học viện, trường đại học và trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (gọi tắt là học viện, trường sĩ quan) là những thanh niên, hạ sĩ quan, binh sĩ ưu tú, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn tuyển sinh của Bộ Quốc phòng, đã trúng tuyển (hoặc được cử tuyển) vào các nhà trường quân đội học tập, rèn luyện theo mô hình, mục tiêu, yêu cầu đào tạo để trở thành sĩ quan có trình độ đại học; ra trường đảm nhiệm cương vị, chức trách lãnh đạo, chỉ huy, quản lý cấp phân đội và các chức vụ chuyên môn hậu cần, kỹ thuật, nghiệp vụ ở các đơn vị cơ sở trong quân đội với nhiều ngành, chuyên ngành, theo các quân, binh chủng khác nhau. Tuy nhiên, luận án tập trung chủ yếu ở nhóm học viên đào tạo để trở thành sĩ quan chỉ huy, tham mưu và sĩ quan chính trị, đồng thời quan tâm khảo sát cả khối học viên sĩ quan chuyên môn hậu cần, kỹ thuật, nghiệp vụ ở khối các học viện có đào tạo sĩ quan và khối các trường đào tạo sĩ quan. Học viên đào tạo sĩ quan mang đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi thanh niên mà nhân cách ở độ đang trưởng thành. Ở lứa tuổi này, họ thường rất sôi
  40. 39 nổi, nhiệt tình, hăng hái, ham học hỏi cầu tiến bộ, nhạy cảm với cái mới, nên rất nhạy bén trong khám phá, đánh giá cái thẩm mỹ, ưa thích những cái đẹp rực rỡ, căm gét cái xấu, cái thấp hèn Bên cạnh đó, do học viên còn mang đậm dấu ấn phong tục tập quán ở nhiều vùng miền khác nhau, đa dạng về đặc điểm xã hội, nên việc tiếp thu và thực hiện các chuẩn mực, giá trị thẩm mỹ của quân nhân, của sĩ quan tương lai ít nhiều gặp khó khăn, trở ngại trong quá trình hình thành, phát triển ý thức thẩm mỹ. Hơn nữa, do tuổi quân, tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm sống còn hạn chế, vốn văn hoá chưa dày, khả năng tự kiềm chế không cao, thiếu trải nghiệm trong chọn lọc, tiếp thu, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội phức tạp. , nên họ dễ hoang mang, dao động trước khó khăn, thử thách, chán nản khi thất bại, vấp ngã. Sự nhạy cảm với cái mới thường đi liền với chuộng cái lạ một cách thái quá cũng thường làm cho họ dễ ngộ nhận, sai lệch trước các hiện tượng thẩm mỹ, thậm chí chạy theo những “kiểu”, “mốt” lai căng, phản thẩm mỹ mà thiếu coi trọng các giá trị thẩm mỹ truyền thống lịch sử tốt đẹp của dân tộc, của quân đội. Quá trình học tập và rèn luyện tại các học viện, trường sĩ quan quân đội có thể được coi là quá trình xã hội hoá kép mà trong đó, học viên vừa tiếp thu các chuẩn mực, giá trị quân sự để trở thành quân nhân, vừa tiếp thu các chuẩn mực, giá trị cán bộ quân đội để trở thành sĩ quan. Hơn nữa, sau khi ra trường, hầu hết họ được bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý cấp phân đội, phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức các hoạt động văn hoá thẩm mỹ ở đơn vị cơ sở quân đội với tư cách nhà giáo dục, cho nên không chỉ có năng lực thẩm mỹ mà còn phải có năng lực giáo dục, định hướng thẩm mỹ. Từ những khía cạnh trên, có thể thấy ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan vừa mang đặc trưng chung ý thức thẩm mỹ của người Việt, vừa mang ý thức thẩm mỹ của quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam; vừa là ý thức thẩm mỹ của người đi học tập, rèn luyện theo mô hình, mục tiêu, yêu cầu đào tạo để trở thành sĩ quan (người được giáo dục), vừa hàm chứa khả năng phát triển
  41. 40 tương lai về ý thức thẩm mỹ của người lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị ở cấp phân đội (người đi giáo dục). Với tư cách là quân nhân mang đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi thanh niên, được giáo dục - đào tạo trong môi trường nhà trường quân đội, ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan biểu hiện hết sức đặc thù cả về tri thức và quan điểm, lý luận thẩm mỹ, về cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ; về nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ và khát vọng thẩm mỹ. Đó là sự phản ánh các giá trị thẩm mỹ, quan hệ thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ vừa mang đặc trưng của giới trẻ, vừa bị quy định bởi tư cách quân nhân và vừa mang dấu ấn của những sinh viên mặc áo lính. Cũng giống như tri thức thẩm mỹ của con người nói chung, tri thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan là kết quả của quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo mặt nhận thức thẩm mỹ trước hiện thực khách quan vào óc thẩm mỹ của quân nhân cách mạng theo quy luật của cái đẹp. Tri thức thẩm mỹ của họ được củng cố, bổ sung phát triển nhờ quá trình giáo dục thẩm mỹ trong học tập, rèn luyện tại các học viện, trường sĩ quan quân đội, biểu hiện ở sự hiểu biết về cái thẩm mỹ trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật và cái thẩm mỹ trong lĩnh vực quân sự. Trước khi gia nhập quân đội, họ đã có những tri thức thẩm mỹ nhất định thông qua sự giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường phổ thông và gia đình. Tuy nhiên, tri thức thẩm mỹ của học viên cần đạt đến sự hiểu biết về bản chất, quy luật cái thẩm mỹ trong quân sự, khắc phục những sai lệch trong cảm thụ, đánh giá thẩm mỹ và định hình tình cảm thẩm mỹ sâu sắc, nhất là những phạm trù thẩm mỹ quân sự. Quan điểm thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan là những nguyên tắc tiếp cận các hiện tượng, quá trình thẩm mỹ trên lập trường lý luận thẩm mỹ mácxít, làm cơ sở để xem xét, lý giải, đánh giá thẩm mỹ một cách khoa học, định hướng cho việc hình thành tình cảm thẩm mỹ và ý chí thẩm mỹ phù hợp với hoạt động và quan hệ thẩm mỹ, được bộc lộ rõ ở cả thái độ và cách nhìn nhận, nguyên tắc tiếp cận, đánh giá bản chất cái thẩm mỹ, ở cả suy nghĩ, hành
  42. 41 vi giao tiếp, ứng xử, sinh hoạt, quan hệ, lối sống mang giá trị thẩm mỹ. Đó là sự va chạm giữa các ý kiến và các xét đoán; sự phản ứng trước cái gì được coi là đẹp, cái gì được coi là xấu; sự phân định đâu là cái cao cả, đâu là cái thấp hèn, cái bỉ ổi, đâu là thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, đâu là thị hiếu thẩm mỹ không lành mạnh, thế nào là lối sống đẹp, thế nào là lối sống phi thẩm mỹ Đặc biệt, tri thức thẩm mỹ lý luận (tri thức mỹ học) của học viên đào tạo sĩ quan đóng vai trò quan trọng nhất đối với quá trình hình thành, phát triển tình cảm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ, ý chí thẩm mỹ và khát vọng thẩm mỹ của học viên, giúp cho họ hiểu biết bản chất thẩm mỹ của sự vật trong đời sống xã hội, cũng như trong quân sự một cách luận lý, sâu sắc và bền vững. Cảm xúc thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội là trạng thái biểu thị sự rung động tình cảm, cảm xúc thẩm mỹ của họ bằng nhiều sắc thái rung cảm rất phong phú, đa dạng theo nhiều cấp độ và cung bậc khác nhau. Đó là cảm giác thích thú trước cái đẹp của nền nếp nội vụ vệ sinh gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp; sự thống nhất, chuẩn xác về nghi thức điều lệnh, đội hình đội ngũ, tác phong, mang mặc quân phục đi đôi với sự khó chịu trước cái xấu của những hành vi trái điều lệnh, nội quy của nhà trường. Đó là nỗi xót thương, đồng cảm trước cái bi; niềm cảm phục, tôn vinh, chiêm ngưỡng những phẩm chất và hành động cao cả, anh hùng, những tấm gương sáng của cán bộ, giáo viên, học viên Quá trình học tập, rèn luyện tại trường, sự phong phú, ổn định dần cảm xúc thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan phát triển cùng với sự gia tăng của tri thức thẩm mỹ, sự vững vàng của ý chí, quan điểm thẩm mỹ và sự dẫn dắt bởi khát vọng, lý tưởng cao đẹp của người sĩ quan cách mạng. Những rung động, cảm xúc thẩm mỹ tạo nên tình cảm thẩm mỹ bền vững của học viên là cơ sở để xây dựng các mối quan hệ thẩm mỹ đúng đắn, trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy tinh thần, sự hứng thú trong học tập, rèn luyện phấn đấu hoàn thành tốt đẹp mọi nhiệm vụ của những người lính sinh viên.
  43. 42 Thị hiếu thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội được hình thành, phát triển trong quan hệ biện chứng giữa đời sống cá nhân của giới trẻ và đời sống tập thể quân nhân - học viên trong các học viện, trường sĩ quan quân đội. Điều đó quy định đặc trưng thị hiếu thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan mang đậm tính tổng hợp cao và chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội; truyền thống văn hoá thẩm mỹ của quân đội, dân tộc; tính chất đặc thù của đời sống và hoạt động của ngành đào tạo sĩ quan; đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi thanh niên cùng với vốn văn hoá, kinh nghiệm sống và cả năng khiếu, quan điểm sống của cá nhân học viên tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng về thị hiếu thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội. Thị hiếu thẩm mỹ của học viên được bộc lộ rõ hơn ở sự đánh giá, thái độ đồng thuận của tập thể đối với những cảm xúc thẩm mỹ trước cái đẹp của sự thống nhất ý chí và hành động; sự thống nhất, nhịp nhàng, trang nghiêm, hùng mạnh của đội hình, đội ngũ; cái đẹp của sự thống nhất về màu sắc trang phục quân nhân; cái đẹp của sự thống nhất gọn gàng về sắp đặt, trật tự nội vụ vệ sinh đơn vị để nâng dần trình độ cảm xúc đơn lẻ thành thị hiếu thẩm mỹ. Lý tưởng thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội phản ánh mục tiêu, lý tưởng sống của người cán bộ, đảng viên trong quân đội cách mạng, gắn liền với lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và được thể hiện ở sự mẫu mực về lẽ sống suốt đời phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Lý tưởng cao đẹp ấy luôn thôi thúc, định hướng hành động cho học viên không ngừng phấn đấu học tập, tu dưỡng rèn luyện theo những giá trị, chuẩn mực đạo đức xã hội; giá trị, chuẩn mực "Bộ đội Cụ Hồ" để trở thành sĩ quan - người cán bộ mẫu mực của Đảng trong quân đội. Lý tưởng thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan được bổ sung, phát triển trong từng năm học tại trường, gắn liền với sự giác ngộ sâu sắc lý tưởng chiến đấu và trở thành lẽ sống, động cơ, chí hướng phấn đấu cho họ trong suốt cuộc đời binh nghiệp.
  44. 43 Nhu cầu và mong muốn thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội phản ánh nhu cầu tự thân của quân nhân cách mạng về cảm thụ, thưởng thức và sáng tạo cái đẹp trong hoạt động học tập, rèn luyện cũng như trong đời sống, sinh hoạt. Đó là những đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng cần được thoả mãn về mặt thẩm mỹ trong đời sống hàng ngày, cũng như mong muốn có được yếu tố thẩm mỹ trong mọi hoạt động quân sự. Nhu cầu thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan không chỉ thể hiện ý chí vươn tới cái đẹp, tạo ra cái đẹp, sáng tạo cái đẹp để hưởng thụ cái đẹp theo những ước vọng đời thường, mà còn là mong muốn cần có môi trường văn hoá tinh thần lành mạnh đế thoả mãn cảm xúc, hứng thú thẩm mỹ của giới trẻ. Khát vọng thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan quân đội là sự phản ánh những nhu cầu, mong muốn cháy bỏng về sự tự hoàn thiện bản thân theo mẫu hình nhân cách đẹp của người sĩ quan tương lai mà họ cần phải phấn đấu để đạt được. Đó là phẩm chất cao đẹp, là năng lực và phong thái của một nhà quân sự, là lối sống mẫu mực của cán bộ cách mạng, mà phẩm chất cao đẹp nhất là sẵn sàng hy sinh cống hiến cho Tổ quốc, cho quê hương đất nước và nhân dân. Khát vọng thẩm mỹ của họ dựa trên sự thẩm thấu sâu sắc và chuyển hoá lý tưởng thẩm mỹ thành ý chí thẩm mỹ, niềm tin và lẽ sống cao đẹp của người sĩ quan quân đội. Tất cả những biểu hiện đặc thù về tri thức thẩm mỹ và quan điểm, lý luận thẩm mỹ; cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ; nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ và khát vọng thẩm mỹ nói trên hợp thành cấu trúc chỉnh thể ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường. Trong đó, tri thức thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ và nhu cầu của học viên là cơ sở ban đầu cho việc hình thành, phát triển tới trình độ quan điểm, lý luận thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ và khát vọng thẩm mỹ cao đẹp. Mọi hiện tượng thẩm mỹ, biểu tượng thẩm mỹ, đánh giá thẩm mỹ và sáng tạo thẩm mỹ đều do ý thức thẩm mỹ chi phối và ý thức thẩm mỹ cũng chỉ được hình thành từ bản thân đời sống thẩm mỹ.
  45. 44 Như vậy, thực chất ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là hệ thống tri thức thẩm mỹ và quan điểm, lý luận thẩm mỹ; cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ; nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ và khát vọng thẩm mỹ phản ánh các giá trị thẩm mỹ, quan hệ thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ của người sĩ quan tương lai được hình thành, phát triển trong môi trường sư phạm quân sự. 1.1.2. Quan niệm về phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam Về phát triển ý thức thẩm mỹ Để đi đến quan niệm về phát triển ý thức thẩm mỹ, cần xuất phát từ quan niệm về phát triển nói chung. Phát triển được hiểu theo nghĩa chung nhất vừa là quá trình tự thân vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật, hiện tượng tuân theo quy luật khách quan, vừa là kết quả của quá trình hoạt động tự giác, có chủ đích của các chủ thể nhằm làm cho sự vật, hiện tượng, quá trình đi từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, thông qua giải quyết các mâu thuẫn bên trong, thông qua sự chuyển hoá lượng – chất, vượt qua cực đối lập để phủ định có kế thừa hợp quy luật. Phát triển với tư cách quá trình tự thân chỉ sự vận động theo hướng đi lên của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất bằng phương thức đi từ những sự thay đổi về lượng chuyển hoá thành những sự thay đổi về chất và ngược lại; động lực của sự tự thân vận động, phát triển là quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; khuynh hướng là quá trình cái mới phủ định cái cũ theo những chu kỳ, vòng khâu để cái khẳng định vượt qua cực đối lập là cái phủ định đi tới cái phủ định của phủ định – tức cái khẳng định mới – dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Phát triển với tư cách động thái hoạt động tự giác có chủ đích, có kế hoạch của con người là quá trình mà chủ thể nhận thức, phát hiện, thúc đẩy các mâu thuẫn; gắn liền với quá trình tích luỹ về lượng để tạo điều kiện chuyển hoá
  46. 45 về chất, có sự định hướng để cái mới vượt qua các cản trở, tạo thuận lợi cho kế thừa để vượt qua cực đối lập. Luận án tiếp cận phát triển ý thức thẩm mỹ với tính cách là hai mặt không tách rời của một quá trình: mặt vận động tiến lên theo quy luật khách quan và mặt hoạt động tự giác, có chủ đích của các chủ thể. Bởi lẽ, phát triển trong lĩnh vực xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa quá trình vận động tự thân với quá trình tự giác có chủ đích, có kế hoạch và vận dụng quy luật của con người. Khẳng định điều này, C.Mác cho rằng: “phát triển sự phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân” [64, tr.168]. Phát triển ý thức thẩm mỹ cũng không nằm ngoài quá trình phát triển tự thân gắn với toàn bộ hệ động thái hoạt động của chủ thể, trên cơ sở nhận thức và vận dụng sáng tạo quy luật khách quan, nhằm làm cho ý thức thẩm mỹ không ngừng tích luỹ dần về lượng để nhảy vọt về chất, giải quyết thoả đáng sự chế ước, tương tác và chuyển hoá các mặt đối lập, gắn sự kế thừa các yếu tố tích cực với sự đào thải những yếu tố lỗi thời, lạc hậu. Như vậy, phát triển ý thức thẩm mỹ là một quá trình vận động theo chiều hướng đi lên theo quy luật, thể hiện sự liên tục phản ánh đời sống thẩm mỹ, song diễn ra dưới tác động tự giác của chủ thể thẩm mỹ trên cơ sở nhận thức và vận dụng quy luật nhằm làm cho các yếu tố cấu thành ý thức thẩm mỹ của chủ thể vừa không ngừng tích hợp được giá trị của từng thành tố, vừa tạo nên chất lượng mới của ý thức thẩm mỹ trong tính chỉnh thể. Theo quan niệm này, sự phát triển ý thức thẩm mỹ vừa tuân theo quy luật chung của phát triển ý thức xã hội, vừa trực tiếp tuân theo quy luật đặc thù của thẩm mỹ (quy luật của cái đẹp). Với tính cách là quá trình khái quát hoá, trừu tượng hoá tất cả các yếu tố thẩm mỹ của hiện thực khách quan thông qua hệ khí quan thẩm mỹ của con người từ cảm quan trực tiếp đến tư duy hình tượng, ý thức thẩm mỹ xét đến cùng chính là sự tái tạo về mặt thẩm mỹ của hiện thực trong ý thức của con người. Bởi vậy, phát triển ý thức thẩm mỹ phải
  47. 46 tuân theo quy luật của cảm quan hình tượng và tư duy hình tượng. Nghĩa là cần đến sự phát huy tính tích cực, sáng tạo của chủ thể thẩm mỹ khi phản ánh hiện thực khách quan, để tạo ra được một “thế giới mới” - “tự nhiên thứ hai” trong ý thức con người về phương diện thẩm mỹ, nhằm xây dựng hệ thống hình tượng thẩm mỹ cũng như phát triển tư duy thẩm mỹ của chủ thể. Về phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam Bàn về phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong phạm vi luận án này thực chất là bàn về phát triển ý thức thẩm mỹ cá nhân và lớp nhân cách, theo yêu cầu khách thể nghiên cứu của luận án, do vậy luôn phải chú ý đến tính riêng của lớp nhân cách này. Tính riêng trong phát triển ý thức thẩm mỹ phản ánh sắc thái không lặp lại ở nhu cầu tự hoàn thiện chính bản thân của mỗi cá nhân cụ thể, diễn ra trong không gian và thời gian xác định, với sự nhận thức và vận dụng quy luật của các chủ thể giáo dục nhằm hướng tới đào luyện con người phát triển toàn diện về nhân cách theo những mục tiêu, mô hình đã định. Tiếp cận phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như đối với bất cứ quá trình phát triển nào nói chung, phải được nhìn nhận trong một thể thống nhất của cả hai bình diện: Một là, sự chuyển hoá từ ý thức thẩm mỹ của học viên thành ý thức thẩm mỹ của sỹ quan như một quá trình tự thân, tức là tuân theo quy luật vận động, phát triển khách quan của sự vật, hiện tượng trong thế giới nói chung. Hai là, sự tác động mang tính chủ đích của các chủ thể giáo dục - đào tạo trong các học viện, trường sĩ quan quân đội trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của sự phát triển. Theo đó, tiếp cận khoa học về phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam cần làm rõ cả hai bình diện của cùng một vấn đề.
  48. 47 Ở bình diện thứ nhất, cần khẳng định tính quy luật của quá trình phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là khách quan. Phải nhìn nhận sự chuyển hoá từ ý thức thẩm mỹ của quân nhân bước vào đào tạo sĩ quan thành ý thức thẩm mỹ của người sĩ quan quân đội với tư cách sự vận hành tổng hợp của các quy luật của phép biện chứng duy vật: sự chuyển hoá dần dần về lượng để dẫn đến sự biến đổi nhảy vọt về chất, sự xuất hiện và giải quyết các mâu thuẫn biện chứng nội tại, sự loại bỏ dần trình độ thẩm mỹ thụ động, hời hợt để thay bằng trình độ thẩm mỹ tích cực, sâu sắc, bằng con đường đi xuyên qua cực đối lập để phủ định biện chứng. Bình diện này được bộc lộ ở ba khía cạnh cơ bản dưới đây: Một là, quá trình các cấp độ nhận thức, tình cảm, ý chí thẩm mỹ của học viên không ngừng tích lũy trong suốt thời gian học tập, tu dưỡng, rèn luyện tại trường được chuyển hoá về chất qua “bước nhảy” của các giai đoạn, kỳ học, năm học. Quá trình đó diễn ra bắt đầu từ khi học viên bước vào đào tạo sĩ quan, điểm xuất phát ban đầu về ý thức thẩm mỹ của họ với tư cách là chiến sĩ họ được tiếp nhận, lĩnh hội cái thẩm mỹ do sự tác động của môi trường thẩm mỹ, giáo dục – định hướng thẩm mỹ của các chủ thể lãnh đạo, chỉ huy, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý trong nhà trường quân sự để làm giàu tri thức, tình cảm và ý chí thẩm mỹ. Điểm đến trung gian là trải qua các giai đoạn trong quá trình đào tạo, ý thức thẩm mỹ của họ với tư cách là học viên dần phát triển và theo từng năm học ở nhà trường có sự nhảy vọt cục bộ. Khi học viên tốt nghiệp cũng là lúc đánh dấu sự nhảy vọt toàn bộ về chất trong ý thức thẩm mỹ của học viên, lúc này mang tư cách là sĩ quan mới ra trường. Kết quả ấy lại tạo điều kiện cho quá trình phát triển ý thức thẩm mỹ tiếp theo qua hoạt động thực tiễn ở đơn vị sau khi ra trường. Hai là, quá trình không ngừng xuất hiện và giải quyết các mâu thuẫn biện chứng trong sự vận động đi lên của ý thức thẩm mỹ của học viên. Đó là quá trình phân đôi cái thống nhất và hình thành cặp đối lập về các nhân tố cấu
  49. 48 thành ý thức thẩm mỹ: cặp thứ nhất là nhận thức thẩm mỹ ở trình độ thông thường - nhận thức thẩm mỹ ở trình độ lý luận (quan điểm thẩm mỹ); cặp thứ hai là tình cảm thẩm mỹ ở cấp độ cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ - tình cảm thẩm mỹ ở cấp độ lý tưởng thẩm mỹ; cặp thứ ba là ý chí thẩm mỹ ở cấp độ nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ - ý chí thẩm mỹ ở cấp độ khát vọng thẩm mỹ. Quá trình phân đôi cái thống nhất và hình thành cặp đối lập cũng xuất hiện ở tính chất đặc thù cái thẩm mỹ gắn với chủ thể: cặp thứ nhất là thẩm mỹ mang tính chất dân sự - thẩm mỹ mang đặc thù quân sự; cặp thứ hai là chủ thể thẩm mỹ với tư cách học viên – chủ thể thẩm mỹ với tư cách sinh viên; cặp thứ ba là chủ thể thẩm mỹ với tư cách quân nhân - chủ thể thẩm mỹ với tư cách sĩ quan. Ba là, quá trình phủ định biện chứng, kế thừa các giá trị và loại bỏ dần những yếu tố không phù hợp trong ý thức thẩm mỹ để đạt đến trình độ thẩm mỹ tích cực, sâu sắc hơn. Quá trình đó diễn ra từ cái “tĩnh” trong ý thức thẩm mỹ của chiến sĩ trước hết đi qua cực đối lập là cái “động” trong ý thức thẩm mỹ của người đi học để hình thành vòng khâu thứ nhất. Từ cái "động" trong ý thức thẩm mỹ của người đi học tiếp tục vòng khâu thứ hai để đi đến cái “tĩnh” mới, sự định hình ý thức thẩm mỹ của người sĩ quan. Chỉ khi đi qua cả hai vòng khâu ấy thì mới hoàn thành chu trình phủ định của phủ định. Và theo đó thì ý thức thẩm mỹ của học viên với tư cách sĩ quan mới ra trường không chỉ kế thừa giá trị và lọc bỏ phi giá trị trong ý thức thẩm mỹ của quân nhân, mà còn kế thừa giá trị và lọc bỏ phi giá trị trong ý thức thẩm mỹ của "lính sinh viên" để tạo nên sự vượt gộp, hoàn tất chu trình phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan trong nhà trường quân đội. Ở bình diện thứ hai, cần khẳng định sự phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên luôn gắn với sự tác động mang tính chủ đích của chủ thể giáo dục - đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Nghĩa là, phải xem xét sự chuyển hoá từ ý thức thẩm mỹ của học viên (chiến sĩ) thành ý thức thẩm mỹ của người sĩ quan quân đội với tư cách là sự tác động tổng hợp của các nhân
  50. 49 tố khách quan và chủ quan, thông qua sự tác động đồng bộ, tích cực, chủ động của các chủ thể giáo dục thẩm mỹ xuyên qua quá trình giáo dục – đào tạo. Sự tác động thẩm mỹ của các nhân tố này phản ánh quá trình hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, có mục đích của các chủ thể trong quá trình sư phạm quân sự của các học viện, trường sĩ quan và được tổ chức chặt chẽ, có kế hoạch xác định, có định hướng đúng đắn theo những tiêu chuẩn, nguyên tắc thẩm mỹ nhất định. Trong đó, bản thân học viên vừa là khách thể tác động của quá trình giáo dục - đào tạo, vừa là chủ thể quan trọng bậc nhất của quá trình tự giáo dục - đào tạo nhằm phát triển ý thức thẩm mỹ của mình. Bình diện này cũng được bộc lộ ở ba khía cạnh cơ bản: Một là, tạo ra mô hình nhân cách chuẩn của người sĩ quan quân đội cách mạng và cụ thể hoá mô hình ấy vào mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo của nhà trường. Đây là tiền đề của sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan đối với việc hình thành, tôn tạo vị thế và hình ảnh đẹp của sĩ quan quân đội trước yêu cầu của cách mạng. Trách nhiệm này thuộc về hoạt động lãnh đạo, chỉ huy, quản lý của cấp uỷ đảng và cán bộ chủ trì các cấp. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hoạt động nhằm chủ quan hoá quá trình khách quan phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan. Hai là, vấn đề trọng tâm là hình thành và phát triển tri thức thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, ý chí thẩm mỹ đặt dưới sự định hướng, giáo dục trực tiếp của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý học viên và lực lượng chuyên trách về văn hoá – thẩm mỹ trên cơ sở nhận thức và vận dụng quy luật. Đó là những chủ thể trực tiếp truyền thụ tri thức thâm mỹ, đồng thời trực tiếp hướng dẫn, tổ chức các hoạt động văn hoá thẩm mỹ cho học viên và định hướng hành vi ứng xử của học viên vừa theo yêu cầu của hoạt động quân sự, vừa theo tiêu chuẩn cái đẹp. Cần đặc biệt chú ý, sự tác động vào tri thức thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ và ý chí thẩm mỹ của học viên chỉ đạt hiệu quả thực sự khi đưa cái
  51. 50 thẩm mỹ vào họ thông qua con đường: dạy - dỗ - rèn - nêu gương. Điều đó tạo ra động lực mạnh mẽ thôi thúc học viên ra sức tự giáo dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện phấn đấu vươn lên theo tiêu chí của cái đẹp. Ba là, nói đến phát triển ý thức thẩm mỹ với tính cách tác động có mục đích của chủ thể phải nói đến nhân tố học viên đào tạo sĩ quan với tư cách vừa là khách thể, vừa là chủ thể của quá trình phát triển ý thức thẩm mỹ. Hoạt động tự giác, tích cực trong tự giáo dục, tự rèn luyện thẩm mỹ của bản thân học viên giữ vai trò quyết định trực tiếp sự chuyển hoá quá trình giáo dục thẩm mỹ của nhà trường thành quá trình tự giáo dục thẩm mỹ. Với tư cách khách thể, họ chịu sự giáo dục, định hướng thẩm mỹ; còn với tư cách chủ thể, họ vừa chủ động tự cảm thụ thẩm mỹ từ môi trường, vừa lĩnh hội tri thức thẩm mỹ, kinh nghiệm thẩm mỹ từ hoạt động giáo dục, định hướng thẩm mỹ và tự chuyển hoá tri thức thẩm mỹ của mình thành tình cảm thẩm mỹ, niềm tin thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, khát vọng thẩm mỹ Như vậy, kết hợp cả hai bình diện có thể thấy: Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan thể hiện như một quá trình vận động tổng hợp của tất cả các thành tố cấu thành ý thức thẩm mỹ theo chiều hướng đi lên, có nhiều bước nhảy vọt về chất, do giải quyết các mâu thuẫn biện chứng của bản thân các nhân tố đó, tạo nên sự phát triển ý thức thẩm mỹ của họ. Quá trình vận động đó diễn ra trong tính toàn vẹn, thống nhất của nhiều nhân tố, nhiều tầng bậc trong mối quan hệ tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau mang tính đặc thù gắn liền với quá trình phát triển nhân cách sĩ quan quân đội và tính đặc thù của quá trình phát triển tri thức thẩm mỹ, phát triển tình cảm thẩm mỹ, phát triển ý chí thẩm mỹ của học viên. Đồng thời, quá trình đó luôn thông qua hoạt động giáo dục đào tạo và quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện trong môi trường văn hoá thẩm mỹ ở các học viện, trường sĩ quan. Chỉ có như vậy thì tri thức và quan điểm thẩm mỹ của học viên mới được khái quát ngày càng cao, xúc cảm, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ mới ngày càng bền
  52. 51 chặt, nhu cầu, mong muốn thẩm mỹ và khát vọng thẩm mỹ mới được khẳng định qua thử thách. Kết thúc mỗi giai đoạn, mỗi năm học là một “điểm nút” đánh dấu sự biến đổi về chất của các yếu tố cấu thành ý thức thẩm mỹ, và toàn bộ quá trình đào tạo tại trường cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của ý thức thẩm mỹ. Một khía cạnh cần hết sức chú ý là: dù được nhìn nhân với tính cách hoạt động hướng đích, nhưng nhìn tổng thể sự phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tuân theo quy luật khách quan. Đó là quá trình diễn ra liên tục, bắt đầu được định hướng từ khi vào trường đào tạo, đồng thời giữ định hướng qua các năm học và được khẳng định khi tốt nghiệp ra trường, đó là sự “phát triển trong quá trình học” hay “phát triển trong quá trình đào tạo tại trường”. Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan tất yếu chịu sự chi phối bởi quy luật đặc thù của cái thẩm mỹ trong hoạt động quân sự. Sự tác động của các chủ thể giáo dục - đào tạo đối với lớp khách thể là học viên đào tạo để trở thành sĩ quan quân đội trong môi trường sư phạm quân sự, dù quan trọng và mạnh mẽ đến đâu cũng không thể thay thế quy luật khách quan mang tính đặc thù ấy. Từ sự phân tích trên cho phép đi đến quan niệm: Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là quá trình vận động đi lên theo quy luật, đồng thời thông qua hoạt động tự giác, có mục đích, được tổ chức chặt chẽ và định hướng đúng đắn của các chủ thể ở các học viện, trường sĩ quan quân đội nhằm làm cho các yếu tố cấu thành ý thức thẩm mỹ của học viên được nâng dần theo từng tầng bậc, chuyển hoá thành ý thức thẩm mỹ của người sỹ quan tương lai. 1.2. Những vấn đề có tính quy luật phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam Nghiên cứu về phát triển ý thức thẩm mỹ dưới góc độ duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, cùng với việc chỉ rõ bản chất và đặc trưng của quá
  53. 52 trình phát triển ấy, cần khái quát và phân tích những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, ổn định và phổ biến của sự phát triển. Đó chính là những vấn đề có tính quy luật mà cơ bản nhất là mối liên hệ giữa ý thức thẩm mỹ với đời sống thẩm mỹ, mối liên hệ giữa phát triển ý thức thẩm mỹ với chủ thể giáo dục thẩm mỹ, và trực tiếp nhất chính là vai trò bản thân chủ thể của ý thức thẩm mỹ. Theo đó luận án tập trung vào những vấn đề có tính quy luật dưới đây. 1.2.1. Phát triển ý thức thẩm mỹ của học viên đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được đặt trên cơ sở phát triển đời sống thẩm mỹ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử đòi hỏi tiếp cận các hiện tượng thẩm mỹ như một thực thể xã hội, một mặt của đời sống tinh thần con người, phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh cơ sở kinh tế, bởi đó là quy luật về sự phụ thuộc của các hình thái ý thức xã hội vào cơ sở tồn tại xã hội của nó. C.Mác cho rằng: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [63, tr.15]. Đời sống xã hội thực tiễn nảy sinh và quyết định đời sống tinh thần của con người. Theo đó, đời sống thẩm mỹ chính là cơ sở nảy sinh và quyết định sự phát triển ý thức thẩm mỹ. Song, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội thuộc phạm trù kiến trúc thượng tầng, ý thức thẩm mỹ không chỉ chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng mà còn có sự tương tác qua lại lẫn nhau với các hình thái ý thức xã hội khác để cùng tác động mạnh mẽ trở lại đến sự phát triển chung của đời sống xã hội. C.Mác khẳng định: "Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế" [65, tr.271]. Như vậy, sự phát triển ý thức thẩm mỹ không chỉ gắn liền với hoàn cảnh sống nhất định của con người, trực tiếp là