Luận án Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_an_phat_trien_y_duc_cua_nguoi_thay_thuoc_quan_doi_hien.pdf
Nội dung text: Luận án Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội hiện nay
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ VŨ HOÀI NAM PHÁT TRIỂN Y ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY THUỐC QUÂN Đ ỘI HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC HÀ NỘI - 2015
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ VŨ HOÀI NAM PHÁT TRIỂN Y ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY THUỐC QUÂN ĐỘI HIỆN NAY Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử giáo dục Mã số: 62 14 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS Mai Văn Hóa 2. PGS, TS Phạm Viết Vượng HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Vũ Hoài Nam
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 12 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Y ĐỨC VÀ PHÁT TRIỂN Y ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY THUỐC QUÂN ĐỘI 27 1.1 Những vấn đề lý luận về y đức 27 1.2 Những vấn đề lý luận về phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội trong bối cảnh hiện nay 41 1.3 Nội dung phát triển y đức và tiêu chí đánh giá sự phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội 53 Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN Y ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY THUỐC QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 61 2.1 Phương pháp khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội 61 2.2 Tình hình phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội hiện nay 64 2.3 Những bài học kinh nghiệm về phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội 100 Chương 3 BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN Y ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY THUỐC QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 104 3.1 Xu hướng phát triển y đức và những vấn đề đang đặt ra đối với người thầy thuốc quân đội hiện nay 104 3.2 Yêu cầu và các biện pháp phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội 106 Chương 4 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 136 4.1 Những vấn đề chung về thực nghiệm sư phạm 136 4.2 Tổ chức thực nghiệm sư phạm 137 4.3 Đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm 147 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 167 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 170 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 172 PHỤ LỤC 179
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT Bác sĩ nội trú BSNT Đạo đức cách mạng ĐĐCM Độ lệch chuẩn ĐLC Đối chứng ĐC Đơn vị quân y ĐVQY Điểm trung bình ĐTB Kinh tế thị trường KTTT Phát triển y đức PTYĐ Thầy thuốc quân đội TTQĐ Thực nghiệm TN Trung bình chung TBC Tư bản chủ nghĩa TBCN Xã hội chủ nghĩa XHCN
- DANH MỤC BẢNG TT TÊN BẢNG Trang Bảng 2.1 Các đối tượng khảo sát 62 Bảng 2.2 Kết quả khảo sát vai trò của y đức đối với người TTQĐ 65 Bảng 2.3 Lý do trở thành người TTQĐ 67 Bảng 2.4 Thực trạng về niềm tin y đức của người TTQĐ 68 Bảng 2.5 Thực trạng ý chí y đức của người TTQĐ 69 Bảng 2.6 Thực trạng mức độ phát triển ý thức y đức của người TTQĐ 70 Bảng 2.7 Thực trạng thái độ y đức của người TTQĐ với NB 73 Bảng 2.8 Thực trạng thái độ y đức với đồng nghiệp và với bậc thầy 75 Bảng 2.9 Thực trạng thái độ y đức của người TTQĐ với xã hội, cộng đồng 77 Bảng 2.10 Thực trạng thái độ y đức với công việc, với chính bản thân 78 Bảng 2.11 Thực trạng phát triển thái độ y đức của người TTQĐ 79 Bảng 2.12 Thực trạng hành vi y đức đối với quá trình tự bồi dưỡng, tự 80 rèn luyện y đức của người TTQĐ Bảng 2.13 Thực trạng hành vi y đức trong chấp hành các qui định, điều 81 lệnh và pháp luật của người TTQĐ Bảng 2.14 Thực trạng hành vi y đức trong giao tiếp, ứng xử của người TTQĐ 83 Bảng 2.15 Thực trạng hành vi y đức về lương tâm và trách nhiệm trong 84 học tập, công tác và điều trị Bảng 2.16 Thực trạng phát triển hành vi y đức của TTQĐ 86 Bảng 2.17 Thực trạng phát triển y đức của người TTQĐ hiện nay 87 Bảng 2.18 Thực trạng chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo 89 dục, bồi dưỡng y đức và môi trường y đức của người TTQĐ Bảng 4.1 Lượng hoá các tiêu chí đánh giá sự phát triển về ý thức y đức 139 Bảng 4.2 Lượng hoá các tiêu chí đánh giá sự phát triển về thái độ y đức 141 Bảng 4.3 Lượng hoá các tiêu chí đánh giá sự phát triển hành vi y đức 143 Bảng 4.4 Kết quả kiểm tra đầu vào về ý thức y đức 148 Bảng 4.5 Kết quả kiểm tra đầu vào về thái độ y đức 148 Bảng 4.6 Kết quả kiểm tra đầu vào về hành vi y đức 149 Bảng 4.7 Các tham số về ý thức y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 1 149 Bảng 4.8 Các tham số về thái độ y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 1 150
- Bảng 4.9 Các tham số về hành vi y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 1 151 Bảng 4.10 Các tham số về ý thức y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 2 153 Bảng 4.11 Các tham số về thái độ y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 2 154 Bảng 4.12 Các tham số về hành vi y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 2 155 Bảng 4.13 Các tham số về ý thức y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 3 156 Bảng 4.14 Các tham số về thái độ y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 3 157 Bảng 4.15 Các tham số về hành vi y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 3 158 Bảng 4.16 Kết quả tổng hợp của nhóm TN và ĐC 164 DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ TT TÊN BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ Trang Biểu đồ 2.1 Thực trạng phát triển ý thức y đức của người TTQĐ 71 Biểu đồ 2.2 Thực trạng phát triển thái độ y đức của người TTQĐ 80 Biểu đồ 2.3 Thực trạng phát triển hành vi y đức của người TTQĐ 87 Biểu đồ 2.4 Thực trạng phát triển y đức của người TTQĐ 88 Biểu đồ 4.1 Kết quả ý thức y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 1 150 Biểu đồ 4.2 Kết quả thái độ y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 1 151 Biểu đồ 4.3 Kết quả hành vi y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 1 152 Biểu đồ 4.4 Kết quả ý thức y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 2 153 Biểu đồ 4.5 Kết quả thái độ y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 2 154 Biểu đồ 4.6 Kết quả hành vi y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 2 155 Biểu đồ 4.7 Kết quả ý thức y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 3 156 Biểu đồ 4.8 Kết quả thái độ y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 3 157 Biểu đồ 4.9 Kết quả hành vi y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 3 158 Biểu đồ 4.10a Sự phát triển về ý thức y đức của BSNT dưới tác động TN 161 Biểu đồ 4.10b Sự phát triển về ý thức y đức của BSNT ở nhóm ĐC 161 Biểu đồ 4.11a Sự phát triển về thái độ y đức của BSNT dưới tác động TN 162 Biểu đồ 4.11b Sự phát triển về thái độ y đức của BSNT ở nhóm ĐC 162 Biểu đồ 4.12a Sự phát triển về hành vi y đức của BSNT dưới tác động TN 163 Biểu đồ 4.12b Sự phát triển về hành vi y đức của BSNT ở nhóm ĐC 163 Biểu đồ 4.13 Sự phát triển chung về y đức của BSNT nhóm TN và nhóm ĐC 164 Sơ đồ 4.1 Sơ đồ khái quát quá trình thực nghiệm sư phạm 227
- 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Người thầy thuốc chân chính chữa bệnh cứu người không chỉ vì trách nhiệm, mà còn vì lương tâm nghề nghiệp, vì lòng thương cảm đối với người bệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong thư gửi cán bộ ngành Y tế: “lương y phải như từ mẫu”, để răn dạy người thầy thuốc phải có đạo đức (y đức) trong công việc của mình. Nếu như y thuật làm nên danh tiếng, thì y đức tạo nên nhân cách của người thầy thuốc, tất cả vì sự sống của con người. Trong xã hội hiện nay, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một cải thiện, nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân ngày càng cao, đòi hỏi người thầy thuốc phải có năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức tốt. Do mặt trái của cơ chế thị trường, đạo đức của người thầy thuốc hiện nay có những biểu hiện xuống cấp, tạo nên những bất bình trong dư luận xã hội. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề phát triển y đức của người thầy thuốc nói chung và phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội nói riêng, trở nên cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đề tài Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội hiện nay hệ thống hoá những tư tưởng và những nghiên cứu về y đức, làm rõ bản chất y đức và sự phát triển y đức của người TTQĐ; chỉ ra bối cảnh hiện nay và những yếu tố tác động đến sự phát triển y đức, đặc điểm hoạt động của người thầy thuốc quân đội và vai trò của việc phát triển y đức; xác định các nội dung phát triển y đức và các tiêu chí đánh giá sự phát triển của y đức; xây dựng các biện pháp giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện phát triển y đức của người TTQĐ, nhằm đáp ứng yêu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho bộ đội và nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
- 6 2. Lý do lựa chọn đề tài luận án Đạo đức là một hiện tượng xã hội đặc biệt có vai trò rất to lớn trong đời sống của nhân loại. Đạo đức có liên quan đến mọi thành viên của xã hội, đến mọi lĩnh vực hoạt động của con người, trong đó có ngành y. Y đức là đạo đức của nghề y - một phẩm chất cao quý của người thầy thuốc, y đức được hình thành nhờ có giáo dục trong nhà trường và phát triển do rèn luyện, tu dưỡng trong hoạt động thực tiễn của mỗi người thầy thuốc. Y đức của người thầy thuốc luôn bị tác động bởi các yếu tố xã hội và chính chủ thể ở mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển của xã hội, của hoạt động nghề nghiệp thì y đức cũng phát triển. Do đó việc nghiên cứu sự PTYĐ của người TTQĐ vốn có những đặc thù riêng trong bối cảnh hiện nay là một vấn đề cần được nghiên cứu sâu với tư cách là một đề tài độc lập mà thực tiễn ngành y quân sự đang đòi hỏi. Từ khi Quân đội Nhân dân Việt Nam được thành lập cho đến nay, trong thời chiến, cũng như trong thời bình, đội ngũ TTQĐ luôn có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, kể cả ở những nơi nguy hiểm nhất, vào những thời điểm ác liệt nhất, để cứu chữa, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho bộ đội để đánh thắng kẻ thù. Đội ngũ TTQĐ còn tham gia nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao trình độ y học nước nhà và nâng cao chất lượng hoạt động ở các cơ sở quân y, phấn đấu ngang tầm với các cơ sở y tế trong nước và trong khu vực. Trong suốt những chặng đường cống hiến và trưởng thành, các TTQĐ đã có những gương sáng về ý chí chiến đấu, về thái độ phục vụ người bệnh, thể hiện phẩm chất cao đẹp của người thầy thuốc quân đội - anh bộ đội Cụ Hồ, được bộ đội và nhân dân yêu mến. Hiện nay các TTQĐ đang thực hiện các chủ trương, chính sách về y tế của Đảng và Nhà nước, tham gia các hoạt động kết hợp quân - dân y, khám chữa bệnh cho nhân dân, làm công tác vệ sinh phòng dịch, khắc phục hậu quả thiên tai và bắt đầu tham gia vào các hoạt động cứu trợ nhân đạo, bảo vệ hòa bình của Liên Hợp Quốc.
- 7 Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI đã nhận định, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước “Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng” [17, tr.155]. Do những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, của chủ nghĩa cá nhân đã dẫn tới sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có đội ngũ thầy thuốc. Đã có những biểu hiện chạy theo đồng tiền, thiếu ý thức trách nhiệm khi phục vụ người bệnh, coi thường sức khoẻ và tính mạng của người bệnh, làm giảm lòng tin đối với bộ đội và nhân dân. Một số cán bộ, nhân viên y tế có những nhận thức sai lệch về giá trị y đức, sao nhãng việc rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Những biểu hiện tiêu cực này nếu chậm khắc phục sẽ làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với truyền thống tốt đẹp của ngành y tế nói chung và ngành quân y nói riêng. Về phương diện nghiên cứu lý luận, ở trong nước và trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về y đức và giáo dục đạo đức cho người thầy thuốc nói chung. Tuy nhiên vấn đề phát triển y đức của người TTQĐ, đặc biệt trong điều kiện KTTT, hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay chưa có một tác giả, một công trình nào nghiên cứu sâu một cách có hệ thống. Việc đi tìm lời giải đáp cho vấn đề phát triển y đức của người TTQĐ trong thời kỳ mới là một đòi hỏi khách quan, có tính cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với những lý do trên chúng tôi chọn vấn đề Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội hiện nay làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và khảo sát, đánh giá hiện trạng y đức của người TTQĐ, luận án đề xuất các biện pháp phát triển y đức góp phần hoàn thiện nhân cách người TTQĐ trong tình hình hiện nay.
- 8 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận về y đức và PTYĐ của người TTQĐ. - Khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình PTYĐ của người TTQĐ hiện nay và nguyên nhân của những hạn chế. - Đề xuất các biện pháp PTYĐ của người TTQĐ hiện nay. - Tiến hành thực nghiệm một số biện pháp PTYĐ của người TTQĐ đã đề xuất. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu Quá trình giáo dục, tu dưỡng, rèn luyện nhân cách người TTQĐ. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Phát triển y đức của người TTQĐ trong giai đoạn hiện nay. 4.3. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu - Về nội dung: đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và các biện pháp phát triển y đức của người TTQĐ. - Về khách thể khảo sát: các thầy thuốc đang công tác trong các bệnh viện, các học viện, nhà trường và các đơn vị quân y; học viên đang học tập tại các trường quân y; bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. - Về thời gian: các số liệu điều tra, khảo sát giới hạn trong 5 năm, từ năm 2009 đến năm 2014. 4.4. Giả thuyết khoa học Sự phát triển y đức của người TTQĐ hiện nay bị chi phối bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan trong điều kiện cơ chế thị trường, sự phát triển nhanh chóng của y học hiện đại, cũng như những đặc điểm của nghề y trong quân đội. Nếu kết hợp giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức ngành y với quán triệt pháp luật y tế, kỷ luật quân đội, nâng cao trình độ chuyên môn, cũng như tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tiêu cực trong hành nghề, thì y đức của người TTQĐ sẽ được phát triển.
- 9 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cách mạng và giáo dục, phát triển nhân cách con người Việt Nam nói chung và y đức của người thầy thuốc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa với phương pháp luận giáo dục giá trị đạo đức. - Đề tài nghiên cứu được tiến hành dựa trên quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quan điểm lịch sử - lôgíc, quan điểm phát triển - hoạt động, quan điểm thực tiễn để phân tích đánh giá, xem xét các vấn đề có liên quan. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây: * Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá các tài liệu lý thuyết chuyên ngành, liên ngành, các văn kiện, nghị quyết, các văn bản pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước và quân đội có liên quan để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu. * Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát khoa học: tri giác hoạt động nghề nghiệp của các thầy thuốc, trong tiếp xúc với bệnh nhân, người nhà bệnh nhân, với đồng nghiệp và với xã hội. - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: lập phiếu và tổ chức điều tra các hoạt động của bác sỹ, điều dưỡng viên, y sỹ, y tá, hộ lý, dược sỹ, dược tá, cán bộ lãnh đạo chỉ huy, giảng viên và học viên sĩ quan quân y và với bệnh nhân đang trong điều trị. - Phương pháp phỏng vấn sâu: trao đổi với thầy thuốc, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân về nhận thức, thái độ, hành vi y đức của thầy thuốc làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả của những biện pháp phát triển y đức.
- 10 - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: nghiên cứu các báo cáo tổng kết, kinh nghiệm quản lý của các đơn vị quân y, các bệnh viện, nhà trường trong những năm gần đây. - Phương pháp thực nghiệm có đối chứng: để khẳng định tính hiệu quả của một số biện pháp đã đề xuất. * Các phương pháp hỗ trợ - Sử dụng các công thức toán thống kê và phần mềm máy tính để xử lý các số liệu thu thập được từ các phương pháp khảo sát thực tiễn. - Phương pháp chuyên gia xin ý kiến đánh giá của các chuyên gia, các nhà sư phạm, nhà quản lý về các vấn đề liên quan đến đề tài. 6. Đóng góp mới của luận án - Về lý luận: luận án tổng quan những tư tưởng và các công trình nghiên cứu về y đức, xây dựng các khái niệm cơ bản để làm cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề lý luận về y đức và PTYĐ của người thầy thuốc, xác định các nội dung và tiêu chí đánh giá sự PTYĐ. Chỉ ra vai trò và những yếu tố tác động tới sự PTYĐ của người TTQĐ. - Về thực tiễn: làm rõ bối cảnh hiện nay, đặc trưng hoạt động của người TTQĐ; đánh giá thực tiễn PTYĐ của người thầy thuốc bằng các số liệu khách quan, chỉ ra những kinh nghiệm và xu hướng PTYĐ của người TTQĐ, đề xuất các biện pháp PTYĐ của người TTQĐ hiện nay, đặc biệt là biện pháp xây dựng chương trình, nội dung giáo dục y đức với tư cách là môn học độc lập trong đào tạo ở các trường y quân đội cũng như bồi dưỡng cho các cán bộ quân y ở đơn vị cơ sở là một biện pháp cơ bản, lâu dài. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về lý luận: luận án góp phần bổ sung cơ sở lý luận về y đức và sự PTYĐ của người thầy thuốc nói chung, người TTQĐ nói riêng với tư cách cơ sở lý luận của đề tài.
- 11 - Về thực tiễn: luận án cung cấp tài liệu về thực trạng PTYĐ của người thầy thuốc, đề xuất các biện pháp PTYĐ của người TTQĐ với tư cách cơ sở thực tiễn của đề tài. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng y đức và quản lý đơn vị cho giảng viên, cán bộ quản lý ở các đơn vị quân y, các bệnh viện trong và ngoài quân đội. 8. Kết cấu của luận án Kết cấu nội dung của đề tài gồm: phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 4 chương (11 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 12 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Những nghiên cứu về y đức và phát triển y đức ở nước ngoài 1.1. Những tư tưởng về y đức và phát triển y đức trên thế giới Đạo đức của người thầy thuốc (y đức) là một hiện tượng được hình thành và phát triển rất sớm trong lịch sử của nền y học thế giới. Trong nền văn minh Lưỡng Hà, (3.700 - 1000 TCN) trong một văn tự cổ nhất có ghi: Toàn thể dân chúng đều là thầy thuốc kẻ đi đường có bổn phận thăm hỏi bệnh nhân và không được làm thinh, lẳng lặng bỏ đi [108], Bộ tộc Sumerien đặt ra bộ luật Hamourabi qui định tiêu chuẩn hành nghề y một cách đơn giản: người thầy thuốc được lấy tiền khám và chữa bệnh (10 đồng tiền nếu người bệnh là chủ nô, 2 đồng tiền nếu người bệnh là nô lệ - tiền khám và chữa bệnh cho nô lệ do chủ nô chi trả) [109]. Trong nền văn minh Ai Cập, ngành y đã được chuyên môn hoá nhưng mang tính thần quyền. Do ảnh hưởng của thần quyền dẫn đến quan niệm: Đạo đức của người y sĩ cũng như đạo đức của tu sĩ có thiên mệnh chữa khỏi bệnh tật và chính Chúa đã tạo ra họ. Do đó, đức tính chủ yếu của thầy thuốc là đức tin, phương pháp điều trị cơ bản là cầu xin [107]. Phật giáo cho rằng: Tất cả chỉ là không nhưng đời vẫn lấy không làm có. Tất cả chỉ là duyên khởi những người đời vẫn chấp nhận ngã pháp cho nó là thật, để từ đó lấy cho bằng được và giữ cho bằng được. Thầy thuốc còn phải chấp nhận ngã pháp để hành nghề. Y đức ở Phật là lòng vị tha và tránh xa những cám dỗ trong hành nghề. Giáo lý của nhà Phật là để đức giúp người, đã theo Phật thì hành phải thiện và ý cũng phải thiện. Thiện là tiêu chuẩn đạo đức của người thầy thuốc mà không phải lúc nào cũng đạt được, bởi thiện và ác đều là pháp tướng, trong thiện có ác, trong ác có thiện. Người thầy thuốc đạt đến đỉnh cao của y đức phải tự rèn luyện mình để cuối cùng cứu người mà không biết mình cứu người, giống như hơi thở, thở ra mà không biết mình đang thở.
- 13 Người giác ngộ phải hoà được cái tâm nhỏ bé của mình vào tâm chân như của nhà Phật, để đạt được lý tưởng đạo đức của nghề y [107]. Theo Lão Tử nhà văn hoá Trung Hoa cổ đại thì: bản chất của nghề y là cứu người, cái đức của người thầy thuốc là cứu người mà không thấy rằng mình cứu người, vì đấy là lý đương nhiên như chim bay, cá lượn, gió thổi. Chờ đến lúc vì nhân mới làm, có nghĩa mới làm, vì lễ hay pháp mới làm, đã có phân biệt thân sơ, có chuyện trả ân, có sợ phép nước. Đức lúc này mỏng quá và không còn là đạo nữa. Ở phương Tây cách đây hơn 2500 năm, Hyppocrate người được coi là ông tổ của ngành y, ông đã nêu lên cơ sở đạo lý mà người làm nghề thầy thuốc phải tuân theo và phải tuyên thệ trước khi bước vào nghề: “Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh, tuỳ theo khả năng và sự phán đoán của tôi, tôi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công, tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và cần thiết, dù vào bất cứ nhà nào, tôi cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh ”[95, tr.6-8]. Thời Hy Lạp cổ đại đã có các tiêu chuẩn cho người thầy thuốc, đó là phải biết chữ, phải khôn khéo, linh hoạt, trung thực, có sức khoẻ, biết giữ vệ sinh, có đức độ, bình tĩnh và không được mê tín. Thời kỳ La Mã cổ đại, tư tưởng y đức của người thầy thuốc được phát triển mạnh, đã có Hội thầy thuốc nhân dân (Archiatri popularis) được Thượng viện bổ nhiệm, hội quy định thầy thuốc phải hành nghề nhân đạo, chữa bệnh không lấy tiền đối với người nghèo, có quyền được nhận tiền thưởng của người bệnh khi họ bình phục, nhưng nghiêm cấm hối lộ, mặc cả, nếu vi phạm người thầy thuốc sẽ bị tước quyền hành nghề. Galien (131-201) là thầy thuốc vĩ đại đã có nhiều đóng góp về y đức. Galien yêu cầu người thầy thuốc phải có tấm lòng nhân đạo, tình thương, tế nhị, khôn khéo, mềm dẻo. Thầy thuốc Scribonius đã mô tả y đức như là những cam kết thương yêu và thể hiện sự nhân từ để làm giảm đi những đau đớn, đau khổ của người bệnh.
- 14 Thời kỳ phong kiến, Avicènne (980-1037) một danh y nổi tiếng đã biên soạn y điển “Cannon of medecine” 5 tập, “quy tắc khoa học y học”, “đạo đức”. Lần đầu tiên môn đạo đức y học được giảng dạy tại trường đại học Salerne (TK9 - TK13). Giáo sư Arnold đã soạn và viết bộ luật “Salerne về sức khoẻ”. Bộ luật Salerne được trình bày bằng thơ nói tới vai trò y học trong đời sống, phương pháp dự phòng, chữa bệnh và đặc biệt quan tâm tới đạo đức của người thầy thuốc. Thời kỳ tư bản phát triển, đạo đức xã hội nói chung, y đức nói riêng tiến bộ nhiều so với thời kỳ trung cổ. Sydenham (TK18) cho rằng thầy thuốc là công bộc của lòng từ thiện thiêng liêng, phục vụ tận tâm và tạo điều kiện cho người bệnh lạc quan tin tưởng khi chữa bệnh. Thời kỳ xã hội chủ nghĩa, đạo đức y học dựa trên các yêu cầu chung của đạo đức xã hội. Đạo đức y học có mục đích là cứu người, trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu người thầy thuốc phải có kiến thức khoa học, nghệ thuật chữa bệnh và chuyên môn sâu. Thầy thuốc hành nghề vì mục đích trong sáng, hết lòng vì người bệnh, không vụ lợi. Nguyên lý y tế XHCN tạo tiền đề cho người thầy thuốc thực hiện nghĩa vụ và lý tưởng đạo đức của mình, cũng là điều kiện để nâng cao tay nghề. Theo dòng phát triển của lịch sử y học, khái niệm đạo đức y học dần được hoàn thiện. Các tổ chức y tế quốc tế và các nước đã công bố các quy định về đạo đức trong thực hành y học và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Năm 1947, Điều lệ Nuremberg là văn kiện quốc tế đầu tiên về đạo đức trong nghiên cứu y, sinh học có thử nghiệm trên con người. Điều lệ này nhấn mạnh đến quyền lợi của đối tượng tham gia nghiên cứu và nghĩa vụ của người thực hiện nghiên cứu: “Thử nghiệm liên quan đến con người cần phải có sự tự nguyện đồng ý của đối tượng tham gia người tham gia thử nghiệm phải có đủ kiến thức, hiểu biết và có thể đưa ra các quyết định ”[98, tr.5-6].
- 15 Năm 1953, Hội đồng Y học đa khoa của Anh đã đưa ra những tiêu chí cụ thể liên quan đến đạo đức trong “thực hành y học” đối với các bác sĩ làm việc trong các cơ sở chăm sóc sức khoẻ. Quy định này được bổ sung vào năm 2006: “Bệnh nhân cần bác sĩ giỏi, bác sĩ giỏi coi việc chăm sóc bệnh nhân là mối quan tâm hàng đầu của mình, bác sĩ phải có năng lực cập nhật kiến thức và kỹ năng, thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với bệnh nhân và đồng nghiệp, bác sĩ phải trung thực, đáng tin cậy và hành động chính trực” [25, tr.37]. Năm 1953, Hội đồng Điều dưỡng Quốc tế (ICN) thông qua “Quy tắc quốc tế về y đức dành cho điều dưỡng viên” và sửa đổi năm 2005: “Điều dưỡng viên cần tôn trọng quyền con người, bao gồm các quyền về văn hoá, quyền được sống và lựa chọn, quyền tự chủ và cư xử tôn trọng. Chăm sóc điều dưỡng là tôn trọng và không bị hạn chế bởi lứa tuổi, màu da, tín ngưỡng, văn hoá, tàn tật hay bệnh tật, giới tính, tình dục, quốc tịch, chính trị, chủng tộc hay tầng lớp xã hội” [25, tr.37]. Năm 1964, Hội Y học Thế giới công bố “Tuyên ngôn Helsinki - Các nguyên tắc đạo đức trong các nghiên cứu y học có liên quan đến con người”. Tuyên ngôn này được sửa đổi nhiều lần, lần gần đây nhất là năm 2008. Tuyên ngôn đưa ra những quy định về đạo đức cho các nghiên cứu y học và trách nhiệm của người thực hiện nghiên cứu: Trách nhiệm của bác sĩ khi tham gia vào các nghiên cứu y học là bảo vệ cuộc sống, sức khoẻ, phẩm chất, giá trị, quyền tự quyết, sự riêng tư và bảo mật thông tin cá nhân của đối tượng nghiên cứu [106]. Năm 1981, Hội y học thế giới xây dựng “Quyền bệnh nhân”, trong đó đề cập đến 11 quyền lợi của bệnh nhân khi cần được chăm sóc bằng dịch vụ y tế. “Quyền bệnh nhân” được sửa đổi tại Hội nghị lần thứ 47, tháng 10 năm 2005: Bệnh nhân có quyền tự do lựa chọn bác sĩ điều trị, bệnh viện, cơ sở y tế tư nhân hoặc công lập; bệnh nhân có quyền từ chối tham gia vào các nghiên cứu khoa học hoặc giảng dạy y khoa [105].
- 16 Năm 1999, Hội Y học Thế giới đã ra khuyến nghị: “Giải pháp tích hợp giáo dục đạo đức y học và quyền con người vào chương trình đào tạo của các trường y trên toàn thế giới” [25, tr.38]. Học tập và nghiên cứu về đạo đức y học giúp cho sinh viên y khoa nhận thức được các tình huống phức tạp, khó khăn, cách cư xử theo nguyên lý và lẽ phải. Năm 2001, Liên minh Châu Âu đã có hướng dẫn về thử nghiệm lâm sàng thuốc, từ năm 2004 hướng dẫn này được đưa vào các văn bản luật pháp của các quốc gia trong Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Australia, Canada [101], [103]. Đây chính là những lời tuyên bố trên quy mô toàn cầu về các vấn đề đạo đức trong y học, các hoạt động y dược ứng dụng trên con người, hướng dẫn về đạo đức cho các bác sỹ, các nhà khoa học tham gia vào các hoạt động y sinh trên lâm sàng và cận lâm sàng [102], [103], làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống luật pháp trong ngành y ở từng quốc gia và trên quốc tế. 1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về y đức và phát triển y đức Ở nước ngoài, vấn đề y đức, giáo dục, phát triển y đức của người thầy thuốc đã được các tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, tiêu biểu là các công trình sau đây: “Những lời giáo huấn về y đức, tiền đề của y học” của Pappworth M. H. Tác giả cho rằng thầy thuốc phải có đạo đức, đạo đức nghề y chính là tôn trọng con người, thiện tâm và công bằng đối với người bệnh [97]. “Vấn đề hàng đầu trong chăm sóc sức khoẻ” của Butterworths Heinemann, Nigel C. H. Stott. Các tác giả nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong chăm sóc sức khoẻ bệnh nhân, trong thực hành lâm sàng và trong nghiên cứu y học. Chăm sóc y tế thực chất là tăng cường sức khoẻ thể chất và tinh thần cho người bệnh để họ sớm được trở về với môi trường sống và làm việc [99]. “Đạo đức trong thực hành y học” của Verlag Berlin Heidelberg, Robet K. Mckinly, Pauline A. Mc Avoy. Các tác giả cho rằng Nhà nước phải có
- 17 những qui định về đạo đức nghề nghiệp cho người thầy thuốc và cần xây dựng một hệ thống luật pháp trong hoạt động nghề y [100]. “Nhận thức của sinh viên y khoa về chương trình giáo dục y đức” của Johnston C. và Haughton P. Các tác giả nhấn mạnh phải có một chương trình giáo dục y đức cho sinh viên các trường y, việc giảng dạy này không chỉ cung cấp cho họ công cụ để phân tích các tình huống trong thực hành lâm sàng, mà còn giúp họ phát triển đạo đức nghề nghiệp trong tương lai [96]. Trong đề tài: “Đánh giá một khoá học về đạo đức y học” của Robert K, Mc Kinley và Pauline A. Mc Avoy, cho thấy những bác sĩ tham gia khoá đào tạo hình thành kỹ năng phân tích các tình huống lâm sàng, nhận biết các vấn đề đạo đức trong khám, chữa bệnh. Khoá học tạo cơ hội cho các bác sĩ thảo luận, phân tích các vấn đề y đức, những lợi ích đối với bệnh nhân mỗi khi đưa ra các chỉ định điều trị cho họ [100]. Trong tác phẩm: “Phương pháp lâm sàng” của Butterworth Heinemann; Johnston C. Haughton P. Các tác giả đã nhấn mạnh người thầy thuốc phải có đạo đức trong xử lý các tình huống lâm sàng, phải biết xác định lợi ích hay có hại khi sử dụng từng loại thuốc, từng phương pháp điều trị để tìm ra phương án tốt nhất [96], [97]. Ở các nước phát triển, các nhà khoa học đã nghiên cứu ứng dụng nhiều lý thuyết khoa học để chăm sóc y tế cho bệnh nhân, hỗ trợ cho cán bộ y tế các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng chăm sóc và điều trị cho người bệnh. Chúng ta có thể thấy một số lý thuyết sau: Lý thuyết Maslow về “năm cấp độ nhu cầu” của con người giúp cán bộ y tế lập kế hoạch chăm sóc sức khoẻ cho người bệnh [103], [104]. Lý thuyết về “sức khoẻ và sự khoẻ mạnh” hỗ trợ kiến thức cho cán bộ y tế để tìm ra các phương pháp chăm sóc sức khoẻ cho bệnh nhân, tư vấn cho gia đình, cộng đồng theo các yêu cầu điều trị [103], [104].
- 18 Lý thuyết “tâm lý xã hội” hướng dẫn cán bộ y tế theo dõi người bệnh về mặt tâm lý, tinh thần tại các chuyên khoa [103], [104]. Lý thuyết Nightingale: coi môi trường sống như một phương tiện chữa bệnh, cán bộ y tế cần biết những ảnh hưởng của môi trường đến tâm lý và sức khoẻ của bệnh nhân, từ đó xây dựng môi trường lành mạnh hỗ trợ tìm ra phương pháp chữa bệnh có hiệu quả [103], [104]. Lý thuyết Henderson giúp cho cán bộ y tế đáp ứng 14 nhu cầu cơ bản cho người bệnh khi họ ốm đau [103], [104]. Như vậy, vấn đề y đức luôn thu hút sự chú ý của các nhà khoa học trên thế giới. Tuy có những khác nhau trong cách tiếp cận, do các điều kiện kinh tế, xã hội, nhưng các nhà khoa học đều cho rằng người thầy thuốc phải có đạo đức trong xử lý các tình huống thực hành lâm sàng, trong chăm sóc sức khoẻ cho bệnh nhân. Cho đến thời điểm hiện nay ở các nước phát triển hiện chưa có một công trình nào đề cập tới việc phát triển y đức của người TTQĐ. 2. Những nghiên cứu về y đức và phát triển y đức ở Việt Nam 2.1. Những tư tưởng về y đức và phát triển y đức ở Việt Nam Đạo đức người thầy thuốc Việt Nam được hình thành và phát triển theo bề dày lịch sử của nền y học nước nhà, lúc đầu mang màu sắc từ bi, bác ái, chịu ảnh hưởng của đạo đức truyền thống phương Đông, trên cơ sở Nho giáo và Phật giáo, tạo nên những nét riêng trong đạo đức nghề y Việt Nam. Thời xa xưa các thầy lang, thầy thuốc thường sống nương nhờ cửa Phật (ở trong chùa) làm điều thiện, nuôi trồng cây thuốc, bốc thuốc chữa bệnh cứu người, không lấy tiền của người nghèo. Phạm Công Bân (thế kỷ 13) là Thái y lệnh nhưng về nhà thì chữa bệnh cho dân nghèo. Ông tự bỏ tiền làm nhà nuôi dưỡng, chữa bệnh cho người nghèo, người tàn tật, kẻ mồ côi.
- 19 Chu Văn An (1292-1370) là thầy thuốc, thầy giáo có đức độ và tài năng. Ông đã mở trường dạy học, nghiên cứu y học, sáng tạo các phương thuốc đông y, tổng kết nhiều bệnh án và biên soạn nhiều sách (trong đó, quyển “Học chú giải tạp chí biên” có ý nghĩa quan trọng trong chữa bệnh). Ông rất coi trọng nhân, minh, trí. Theo ông, mấu chốt của nghề làm thuốc là nhân. Phải có nhân rồi mới có minh, trí. Đức độ là điều cần nhất của người thầy thuốc. Đại danh y Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh, 1325-1399), có những quan điểm y học thực tế và nhân đạo. Ông kết hợp việc giảng kinh và cứu tế, trồng và chế thuốc để phát cho người bệnh, huấn luyện y học cho tăng đồ. Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ “Nam dược thần hiệu”. Về y đức Tuệ tĩnh cho rằng: “Làm thuốc là kế tục sự nghiệp của các bậc tiên thánh, phải có tấm lòng nhân nghĩa”. Ông khuyên người thầy thuốc phải làm điều lành, phải giúp bệnh nhân một cách rộng rãi, để đem lại cái phúc cho hậu thế: “Dám khuyên y học hậu lai, tế sinh, tích thiện, phúc trời hậu ta” [81, tr.30]. Thế kỷ XV, bộ luật Hồng Đức (Triều Lê), đã có những quy định hành nghề y, trong đó có quy định trừng phạt kẻ vụ lợi, cố tình chữa bệnh kéo dài hoặc dùng thuốc gây chết người Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) là ngôi sao sáng của nền y học Việt Nam. Ông là người xây dựng hệ thống các chuẩn mực về y đức cho người hành nghề y ở Việt Nam trên cơ sở kế thừa các tư tưởng về y đức văn hoá phương Đông phù hợp với văn hoá Việt Nam. Về đạo đức người thầy thuốc, ông viết: “nếu còn có thể xoay xở được lại bó tay dửng dưng mặc bệnh diễn biến mà không chịu dốc sức, hết lòng; chỉ thở vắn than dài, không làm gì hết. Coi trọng tiền tài, xem thường tính mệnh”, thì là thầy thuốc để làm gì? [30, tr.26]. Với ông bất kỳ hoàn cảnh nào người thầy thuốc cũng phải quên đi lợi ích và danh dự cá nhân để tìm mọi cách chữa trị cho người bệnh, “còn nước còn tát”. Ông luôn nêu cao tấm gương y đức, cả cuộc đời mình ông
- 20 luôn tự nhắc nhở phải: tiến đức, tu nghiệp. Tiến đức là mỗi ngày phải rèn luyện cho toàn thiện, toàn mỹ về đạo đức của người hành nghề y. Ông nói: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật, có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng người ta, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp người, làm phận sự của mình mà không cầu lợi kể công” [30, tr.7]. Ông phê phán những thầy thuốc mỗi khi xem bệnh thường hay dọa nạt: “nhân lúc cha mẹ người ta gặp cơn nguy cập sợ hãi, hoặc bắt bí người ta trong cơn mưa đêm tối khó khăn, gặp bệnh dễ thì trộ là bệnh khó, bệnh khó thì dọa là bệnh chết”, không còn tí lương tâm nào!. “Đối với kẻ giầu sang thì sốt sắng để mong lấy lợi; đối với người nghèo khó thì lạnh nhạt thờ ơ với sự sống chết” [30, tr.26]. Ông kết luận “Không có nghề nào đạo đức bằng nghề y và không nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức” [30, tr.11]. Ngay từ những ngày đầu tiên sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc biệt tới sự phát triển nền y học nước nhà. Vấn đề y đức đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới - y đức cách mạng. Theo Người: y đức không chỉ là lòng yêu thương người bệnh, mà còn là ý thức nghề nghiệp, sự trau dồi để nâng cao năng lực chuyên môn nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của bộ đội và nhân dân. Đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là tình yêu thương đồng bào, chiến sĩ của mình, mà còn toả sáng đến thương, bệnh binh, tù, hàng binh của đối phương trong chiến tranh. Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ số tù binh của quân đội Pháp bị ta bắt sống là 11.721 người, trong đó có 4.436 người bị thương. Bác sĩ phẫu thuật người Pháp Grauwin nói với đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thương binh chúng tôi còn nhiều, họ nằm rải rác ở các hầm họ đang ở trong tình trạng vô cùng tồi tệ Trời mưa, hầm nào cũng bùn lầy ứ đọng, thương binh phải nằm 2 - 3 tầng. Vệ sinh tệ hại, xin các ông giúp đỡ họ”.
- 21 Nhận được tin này Hồ Chủ tịch đã ra chỉ thị: “Hãy cứu chữa và săn sóc họ. Vì họ là người thua trận ” đó chính là đạo đức của người thầy thuốc của quân đội cách mạng, đạo đức của người Việt Nam. Tháng 2/1955, Hồ Chủ tịch đã gửi thư tới Hội nghị y tế toàn quốc, Người đề cập tới 3 vấn đề: Xây dựng một nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc và đại chúng. Phải đặt ra các yêu cầu về y đức của người cán bộ y tế. Phải kết hợp đông - tây y, kết hợp quân - dân y, kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh. Trong đó, y đức là vấn đề trung tâm, Người viết: “Phải thương yêu, chăm sóc người bệnh như là anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn, lương y phải như từ mẫu” [54, tr.476 - 477]. Bác nhắc nhở: “Bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Hiểu được nỗi đau của anh em thương, bệnh binh, Bác đã dặn dò các thầy thuốc: “Một số anh em quân nhân không được trấn tĩnh, đối với thầy thuốc không được nhã nhặn, gặp những trường hợp như vậy, chúng ta phải lấy tình thân ái mà cảm động, cảm hoá họ ” [52, tr.395 - 396]. Trên cương vị quản lý nhà nước về y tế, năm 1979, Bộ Y tế xây dựng 5 tiêu chuẩn của người cán bộ y tế nhân dân. Năm 1989, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua “Luật bảo vệ sức khoẻ Nhân dân”. Luật qui định: Thầy thuốc phải có y đức, có tinh thần trách nhiệm, tận tình cứu chữa người bệnh; chấp hành nghiêm chỉnh các qui định chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật y tế [70]. Năm 1996, Bộ Y tế ban hành Quyết định về 12 điều y đức, quy định về tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế: Y đức là phẩm chất tốt đẹp của người làm công tác y tế, được biểu hiện ở tinh thần trách nhiệm cao, tận tuỵ phục vụ, hết lòng thương yêu chăm sóc người bệnh [2] Năm 2009, Quốc hội nước ta thông qua “Luật khám chữa bệnh” qui định về
- 22 các nguyên tắc trong hành nghề khám chữa bệnh: Bảo đảm đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề [71]. Ngành quân y Việt Nam luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức cách mạng. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều cán bộ, chiến sỹ quân y, dân y đã làm việc quên mình để cứu chữa thương, bệnh binh, bệnh nhân. Những tấm gương sáng về y đức của người thầy thuốc được bộ đội và nhân dân ca ngợi và ghi công, như các bác sĩ Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng, Đặng Thuỳ Trâm, Y tá Trần Xuân Dậu, Hoàng Xuân Thuý 2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về y đức và phát triển y đức Ở Việt Nam, vấn đề y đức và giáo dục y đức cũng đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Đã có nhiều công trình được công bố, trong đó có một số công trình tiêu biểu sau đây: “Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” do Đỗ Nguyên Phương chủ biên. Trong cuốn sách này, các tác giả bàn về y đức, y đạo của người thầy thuốc trong lịch sử y học, chỉ rõ thực trạng y đức hiện nay và nêu ra những yêu cầu cấp bách phải nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người thầy thuốc [65]. “Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển ở Việt Nam” do Đỗ Nguyên Phương chủ biên [66], “Quán triệt quan điểm về y đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong ngành y tế Việt Nam hiện nay” của tác giả Phan Việt Dũng - Trần Văn Thuỵ [14], “Suy nghĩ về vinh dự và trách nhiệm của nghề nghiệp y tế” của tác giả Phạm Mạnh Hùng [40]. Trong những công trình này, các tác giả đã làm rõ quan điểm về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, đề ra các yêu cầu về y đức cho người thầy thuốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận án Tiến sĩ: “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực y tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Quang, đã nghiên cứu các hoạt động xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện pháp luật về y tế và việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật [69].
- 23 Trong lĩnh vực y học quân sự, cũng có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Niềm tự hào nửa thế kỷ xây dựng, phục vụ và trưởng thành của Cục Quân y” của tác giả Nguyễn Văn Thưởng. Tác giả cho biết cán bộ, nhân viên quân y trong các thời kỳ chiến tranh đã lo từng viên thuốc, từng giấc ngủ cho bệnh nhân, biết nhường cơm, nhường thuốc, cứu sống nhiều thương binh, bệnh binh [85, tr.5]. “Phát huy truyền thống, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo đảm quân y” của tác giả Nguyễn Văn Thăng, đã nhấn mạnh các thầy thuốc quân y phải tận tuỵ, coi sức khoẻ của bệnh nhân như sức khoẻ của người thân trong gia đình mình [82, tr.8]. Luận án tiến sĩ Tâm lý học: “Vấn đề giao tiếp của bác sỹ quân y với người bệnh trong quá trình khám chữa bệnh”, của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà, đã phân tích bản chất xã hội và tâm lý trong quá trình giao tiếp của bác sỹ quân y với người bệnh, đánh giá thực trạng và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả giao tiếp của bác sỹ quân y. Nghiên cứu của tác giả không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh, mà còn giúp phát triển năng lực nghề nghiệp, hoàn thiện nhân cách người thầy thuốc quân y trong giai đoạn hiện nay [28]. Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng: “Các giải pháp kết hợp giáo dục y đức thông qua dạy học các môn y học chuyên ngành”, do Nguyễn Quang Phúc làm chủ nhiệm, cho rằng giáo dục y đức là sự kết hợp “hai trong một” của quá trình đào tạo người thầy thuốc quân y. Giáo dục y đức là điều kiện để phát triển đồng thời cả năng lực chuyên môn và phẩm chất nhân cách của người thầy thuốc. Theo các tác giả, giáo dục y đức thông qua dạy học các môn y học chuyên ngành là trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng chuyên môn y học, trên cơ sở đó hình thành các phẩm chất y đức cho người học. Giáo dục y đức là một yêu cầu tất yếu trong quá trình đào tạo y nghiệp của người TTQĐ [64].
- 24 Đề tài nghiên cứu cấp Bộ Quốc phòng: “Nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị góp phần bồi dưỡng y đức ở các bệnh viện quân đội trong tình hình mới”, do Nguyễn Hồng Giang làm chủ nhiệm, đã đề cập tới những vấn đề lý luận, thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị ở các bệnh viện quân đội, bồi dưỡng nhận thức, nâng cao bản lĩnh chính trị, làm chuyển biến y đức của đội ngũ cán bộ nhân viên y tế quân đội [27]. Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng: “Nghiên cứu giải pháp nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ quân y cấp phân đội trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay”, do Vũ Đăng Khiên làm chủ nhiệm, đã phân tích những đặc điểm chủ yếu của người cán bộ quân y cấp phân đội và sự tác động của nền KTTT, đề tài đã xác định hệ thống các tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực cán bộ quân y cấp phân đội trong điều kiện KTTT. Rút ra những kinh nghiệm về bồi dưỡng phẩm chất và năng lực cho đội ngũ cán bộ quân y. Đã đề xuất các giải pháp nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ quân y cấp phân đội trong điều kiện KTTT hiện nay [43]. 3. Đánh giá khái quát các công trình đã công bố và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết 3.1. Đánh giá khái quát các công trình khoa học đã công bố Các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập tới những khía cạnh về y đức và giáo dục y đức, trong đó có những kết quả nổi bật như sau: - Đã làm rõ tầm quan trọng của y đức trong khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho bệnh nhân. Y đức là đạo đức của người làm thầy thuốc, đó là sự thiện tâm, thiện chí, cảm thông, đối xử công bằng, nâng đỡ bệnh nhân vượt qua bệnh tật. Người thầy thuốc phải biết tự hoàn thiện về y nghiệp và y đức, trị bệnh, cứu người, để hoàn thành được nhiệm vụ của mình. - Đã đề cập tới nội dung y đức của người thầy thuốc. Từ việc phân tích các lời thề, lời di huấn, cách ngôn trong nghề y, ở phương Đông cũng
- 25 như ở phương Tây, các tác giả cho thấy người thầy thuốc chân chính có những phẩm chất đặc trưng, đó là lý tưởng, đạo đức nghề nghiệp, hết mình vì sự sống của người bệnh. - Đã đề xuất các qui tắc, chuẩn mực y đức. Đưa ra các lời khuyên, các hướng dẫn đạo đức trong hoạt động y - dược, trong giao tiếp với bệnh nhân, trong nghiên cứu khoa học và thực nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, qua các công trình nghiên cứu cũng cho thấy: - Các nghiên cứu chưa làm rõ nét đặc thù về y đức của người TTQĐ trong bối cảnh hiện nay. - Các nghiên cứu chưa làm rõ ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến y đức của người TTQĐ, đến định hướng giá trị, đến nhân sinh quan của người thầy thuốc, cũng như các biện pháp phát triển y đức cho họ trong quá trình thực hành y nghiệp. - Các nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ đại cương dành cho các đối tượng là các bác sỹ, sinh viên ngành y và học viên sỹ quan quân y, mà chưa đề cập tới các đối tượng khác như y sĩ, y tá, hộ lý, điều dưỡng viên, dược sỹ, dược tá. 3.2. Những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết Trên cơ sở những phân tích trên, luận án tập trung giải quyết các vấn đề sau đây: Một là, làm rõ những nét đặc thù y đức của người TTQĐ. Người TTQĐ vừa là cán bộ y tế, vừa là quân nhân, đối tượng phục vụ của họ là thương binh, bệnh binh, bộ đội và nhân dân, trong chiến tranh còn có cả thương, bệnh binh, tù, hành binh của địch. Địa bàn công tác thường là những nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Điều kiện khám chữa bệnh là những nơi dã chiến, trang thiết bị y tế không đầy đủ. Hai là, phân tích y đức theo tiếp cận quá trình để thấy được các mặt biểu hiện của y đức và nội dung phát triển y đức của người TTQĐ, làm cơ sở cho việc khảo sát đánh giá thực trạng vấn đề này.
- 26 Ba là, làm rõ quá trình giáo dục, phát triển y đức. Phát triển y đức của người TTQĐ được thông qua con đường là quá trình giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện y đức đối với người thầy thuốc - người chiến sĩ, cần có quy trình, nguyên tắc và phương pháp đặc thù, bắt đầu từ các trường quân y đến các hoạt động trong các cơ sở y tế và đó là quá trình dài lâu, khó khăn. Bốn là, làm rõ mối quan hệ giữa y đức với chính trị và pháp luật. Y đức của người TTQĐ liên quan tới các đối tượng phục vụ, tới truyền thống quân đội, chế độ xã hội và pháp luật của nhà nước, đây là một vấn đề cần được nghiên cứu cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Năm là, làm rõ sự phát triển y đức trong nghiên cứu khoa học và thực nghiệm lâm sàng. Trước đây nói đến y đức, người ta thường quan tâm tới quan hệ thầy thuốc với bệnh nhân, ngày nay y đức còn phải thực hiện trong nghiên cứu khoa học, trong thực nghiệm lâm sàng, tương ứng với sự phát triển của y học hiện đại trên thế giới. Những vấn đề trên đây sẽ được nghiên cứu một cách hệ thống trong luận án: “Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội hiện nay”.
- 27 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Y ĐỨC VÀ PHÁT TRIỂN Y ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY THUỐC QUÂN ĐỘI 1.1. Những vấn đề lý luận về y đức 1.1.1. Đạo đức Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh - Moris nghĩa là lề thói, tập tục, đạo nghĩa, thể hiện trong các mối quan hệ, giao tiếp hàng ngày. Ở phương đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Hoa cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo có nghĩa là đường đi, con đường sống của con người. Đức là nhân đức, đức tính, là biểu hiện của đạo nghĩa, luân lý. Như vậy đạo đức là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Tiếp cận từ góc độ Triết học: Đạo đức là một trong các hình thái ý thức xã hội. Đạo đức xuất hiện do nhu cầu cuộc sống, con người phải phối hợp với nhau trong lao động sản xuất, trong chinh phục thiên nhiên và trong phân chia các sản phẩm làm ra, để cùng tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của xã hội, đạo đức cũng phát triển trở thành những quan niệm sống của xã hội và nếp sống, hành vi của mỗi cá nhân. Xét dưới ở góc độ Bản thể luận thì đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn tại xã hội. Xét dưới góc độ Xã hội học thì hệ thống tinh thần không tách rời thực tiễn - hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính thực tiễn. Duberstin và Linchevski cho rằng: Đạo đức là hình thái của sự nhận thức xã hội, là tất cả những nguyên tắc, những quy định, tiêu chuẩn mà mọi người phải tuân theo trong hành vi của mình. Bản chất của đạo đức là những quy tắc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, là biện pháp để giải quyết và khắc phục các mâu thuẫn làm cho xã hội phát triển, tiến bộ.
- 28 Giá trị đạo đức được thể hiện qua ba chức năng: Chức năng điều chỉnh hành vi thông qua dư luận xã hội và tính tự giác của chủ thể, đảm bảo cho các lợi ích của cá nhân và cộng đồng. Chức năng giáo dục thông qua tác động giáo dục xã hội và tự giáo dục của mỗi cá nhân. Chức năng nhận thức thông qua khả năng tiếp nhận và chuyển hoá giá trị thành hành vi của mỗi con người. Đạo đức là các quan niệm về hạnh phúc, lương tâm, danh dự, bổn phận, nhân ái, công bằng, lẽ phải những quan niệm này xoay quanh cái trục cơ bản là thiện và ác và được cụ thể hoá thành các quy tắc, chuẩn mực trong các mối quan hệ với thế giới và cách ứng xử với xã hội con người. Đạo đức có tính lịch sử, các quan niệm về đạo đức phát triển theo từng thời đại, nên rất đa dạng và phức tạp, với những đặc điểm sau đây: Đạo đức có tính dân tộc, chuẩn mực đạo đức bị ảnh hưởng bởi nền văn hoá truyền thống, tuy nhiên dù là dân tộc nào, bên cạnh những quan niệm riêng, vẫn có những quan niệm chung đó là “tính phổ biến của đạo đức” - đạo đức xã hội. Đạo đức liên quan đến ý thức hệ giai cấp, ta quen gọi là đạo đức giai cấp, mỗi giai cấp có những quan niệm khác nhau về đạo đức, cùng một hành vi giai cấp này cho là phù hợp với đạo đức, giai cấp kia thì cho là không. Đạo đức liên quan tới chế độ chính trị, một đất nước trong đó nhân dân sống với nhau có đạo đức đó là một xã hội văn minh, một nhà nước ưu việt, vì thế mà mọi nhà nước đều lấy việc giáo dục đạo đức cho công dân như là một biện pháp để duy trì trật tự xã hội. Đạo đức có liên quan đến nghề nghiệp, mỗi một nghề có những đặc điểm và yêu cầu riêng, vì thế có những quy tắc, chuẩn mực đạo đức đặt ra cho từng nghề cụ thể. Đạo đức liên quan tới mọi công dân sống trong một nước, cho nên đạo đức phù hợp với pháp luật của nhà nước đó. Đạo đức và pháp luật đều là các
- 29 quy tắc, các chuẩn mực trong ứng xử xã hội mà mọi người phải thực hiện. Tuy nhiên, đạo đức là tình người, là lòng nhân ái, nhân đạo, không ghi thành văn bản nhưng được mọi người tự giác thực hiện và được duy trì bằng lương tâm và dư luận xã hội. Pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền được ghi trong hiến pháp và các bộ luật buộc mọi công dân phải tuân theo, nó được duy trì bằng giáo dục và cưỡng chế. Vi phạm đạo đức bị lương tâm cắn rứt, dư luận xã hội lên án, người có lỗi ân hận, cố gắng sửa chữa, nhưng khi vi phạm pháp luật sẽ bị nhà nước trừng phạt. Mỗi công dân phải sống có đạo đức đồng thời cũng phải sống theo pháp luật, cả đạo đức và pháp luật đều làm cho xã hội trở nên văn minh, trật tự, kỷ cương. Giáo dục đạo đức cho công dân luôn đi liền với giáo dục pháp luật. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, xét về cội nguồn thì đạo đức có trước, xét về ý nghĩa thì đạo đức chỉ dẫn hành động của mỗi người cho phù hợp với luật pháp. Pháp luật có được thực thi hay không phụ thuộc rất nhiều vào ý thức đạo đức của mỗi người. Thực thi pháp luật là biện pháp duy trì trật tự xã hội, để xây dựng nhà nước pháp quyền, đồng thời cũng làm cho các mối quan hệ xã hội phù hợp với các chuẩn mực đạo đức. Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật của mỗi người được hình thành do giáo dục, do trải nghiệm cuộc sống, bị ảnh hưởng bởi môi trường sống và do luật pháp được thực hiện nghiêm minh. Nhờ có đạo đức và pháp luật mà mỗi người tự điều chỉnh mình cho phù hợp với chuẩn mực và lợi ích chung của xã hội. Tóm lại: Đạo đức là hệ thống những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người với con người, với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với chính bản thân mình, làm cho xã hội trở nên văn minh, trật tự.
- 30 1.1.2. Đạo đức nghề nghiệp Đạo đức nghề nghiệp xuất hiện với tên gọi là Déontologic (Déon: bổn phận, cần phải làm, logos: học thuyết) do nhà Triết học người Anh Bentam sử dụng có nghĩa là: nghĩa vụ luận, đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức của người lao động trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể, do mục đích, đối tượng phục vụ, do các đặc điểm của nghề quy định. Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận quan trọng của đạo đức xã hội, góp phần tạo nên một xã hội văn minh, công bằng và trung thực. Trong xã hội có rất nhiều nghề, mỗi nghề lại có những đặc điểm riêng, từ đó có những yêu cầu đạo đức đặc trưng. Đối với những nghề có liên quan đến con người và sự sống của con người như nghề dạy học, nghề y có những quy định chặt chẽ hơn về đạo đức của người hành nghề. Đạo đức nghề nghiệp được thể hiện qua ý thức, thái độ và hành vi của người hành nghề. Đạo đức nghề nghiệp là những yêu cầu đạo đức đặc biệt, có liên quan đến việc tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào đó, bao gồm các quy tắc, chuẩn mực mà mọi thành viên tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của nghề, trong các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội, Người lao động tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp là điều kiện cần thiết cho việc nâng cao chất lượng lao động, tạo ra sản phẩm tốt phục vụ xã hội. Phẩm chất đạo đức cá nhân trong xã hội đều có nét chung, nhưng đạo đức trong lĩnh vực nghề nghiệp có những đặc thù và yêu cầu riêng biệt, thí dụ: Thầy thuốc phải có lòng trắc ẩn, thầy giáo phải là người mô phạm, nhà báo phải trung thực, nhà chính trị phải có lòng nhân hậu với nhân dân Đạo đức nghề nghiệp có quan hệ chặt chẽ tới năng lực của người làm nghề. Đạo đức và năng lực nghề nghiệp thống nhất với nhau, biểu hiện thông
- 31 qua nhau, tạo nên nhân cách của từng cá nhân trong hoạt động nghề nghiệp. Người có đạo đức nghề nghiệp là người có tâm với công việc, với khách hàng, thường xuyên học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cải tiến phương pháp lao động để nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ khách hàng. Người có năng lực nghề nghiệp là người tự tin trong công việc, biết cách hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của mình theo đúng các quy định đạo đức, vì lợi ích của khách hàng. Người không có năng lực nghề nghiệp thường hay làm dối, làm ẩu, đồng nghĩa với thiếu đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp có quan hệ với lòng yêu nghề, sự say mê với công việc. Lòng yêu nghề làm cho mỗi cá nhân dồn hết tâm trí hành nghề, sáng tạo hoàn thành tốt nhất mọi nhiệm vụ. Người lao động có đạo đức nghề nghiệp luôn tuân thủ các quy tắc, các tiêu chuẩn kỹ thuật trong lao động, tạo nên năng suất, chất lượng sản phẩm, càng yêu nghề càng làm tốt công việc đúng với lương tâm, đạo đức. Đạo đức nghề nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ tới các yêu cầu pháp luật trong hành nghề. Pháp luật quy định những điều được làm và không được làm cho từng nghề. Người có đạo đức, có lương tâm nghề nghiệp không làm trái với những điều quy định của pháp luật. Như vậy: Đạo đức nghề nghiệp là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức trong hành nghề, phản ánh và đáp ứng những tính chất đặc trưng của từng nghề mà người lao động phải tuân theo, với mục tiêu đem lại lợi ích cho nghề, cũng như cho xã hội. Đạo đức nghề nghiệp là bộ phận của đạo đức công vụ dành cho người hành nghề là cán bộ, công chức nhà nước trong khi thi hành công vụ. Đạo đức công vụ là khái niệm bao hàm đạo đức, lối sống, cách xử sự của cán bộ, công chức trong các mối quan hệ xã hội và trong khi thực hiện nhiệm vụ công, trong giao dịch hành chính với tổ chức, công dân. Điều 8, Hiến pháp năm
- 32 2013 ghi rõ: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”. Trên cơ sở Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến đạo đức công vụ, như: Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013, Quy chế thực hiện dân chủ trong cơ quan 1998 để điều chỉnh hành vi đạo đức của công chức trong khi thi hành công vụ. Đạo đức nghề nghiệp là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức, cách ứng xử, phong cách trong làm nghề, mang theo dấu ấn, đặc điểm và những yêu cầu riêng của mỗi nghề đòi hỏi. 1.1.3. Đạo đức nghề y 1.1.3.1. Đặc điểm lao động của người thầy thuốc Lao động của người thầy thuốc liên quan đến sinh mạng của con người không phân biệt tuổi tác, giới tính, giàu, nghèo, đẳng cấp xã hội, từ khi còn là bào thai cho đến khi mất đi. Vì vậy, nghề y được coi là một nghề nhân đạo, người thầy thuốc phải tinh thông nghề nghiệp, phải có đạo đức trong sáng, phải được đào tạo bài bản, nghiêm túc. Lao động của người thầy thuốc đòi hỏi sự khẩn trương, nhiều ca cấp cứu phải giành giật từng giây, từng phút, bằng mọi phương tiện để cứu lấy tính mạng người bệnh. Lao động của người thầy thuốc gian khổ, với cường độ cao, diễn ra không tính đến không gian, xa hay gần, thời gian dài hay ngắn, thời điểm đêm hay ngày, ở đâu có bệnh nhân là ở đó có mặt thầy thuốc. Lao động của người thầy thuốc trong môi trường có hoá chất độc hại, có chất thải bệnh viện, phải thường xuyên tiếp xúc bệnh nhân mang bệnh truyền
- 33 nhiễm như: lao, phong, HIV tiếp xúc với xác chết, với các bộ xương người, bản thân người thầy thuốc cũng có thể trở thành vật trung gian truyền bệnh. Lao động của người thầy thuốc căng thẳng về mặt tâm lý, chịu sức ép lớn của bệnh nhân và gia đình. Người bệnh có tổn thương về thể chất và tinh thần, họ và gia đình lo lắng, có nhiều yêu cầu quá mức đối với thầy thuốc dễ gây căng thẳng, xung đột. Người thầy thuốc có quyền lực chuyên môn, nắm trong tay sinh mạng của người bệnh, biết nhiều bí mật về bệnh tật của người bệnh, dễ có cơ hội lạm dụng theo mục đích cá nhân. Kỹ năng và đạo đức hành nghề của người thầy thuốc không dễ kiểm soát, đôi lúc khó diễn tả và dễ nguỵ biện. Chỉ có lương tâm của người thầy thuốc và người cùng nghề mới có thể hiểu thấu đạo đức nghề nghiệp của mình trong những tình huống hiểm nghèo của người bệnh. 1.1.3.2. Bản chất của y đức Y đức là đạo đức của người làm thầy thuốc chữa bệnh cứu người. Y đức là luân lí của người thầy thuốc liên quan đến những gì được xem là tốt, là đúng, chống lại những gì được xem là xấu và sai trong hoạt động y nghiệp vì sự sống của con người. Y đức là cái gốc nhân cách của người thầy thuốc, là động lực tinh thần giúp họ hết lòng trị bệnh, cứu người. Y đức là tinh thần, ý thức trách nhiệm của người thầy thuốc trong hoạt động chuyên môn, kỹ thuật, là tính nhân văn, nhân đạo trong cư xử với bệnh nhân, coi bệnh nhân như người thân trong gia đình, là những thao tác kỹ thuật chuẩn xác, nhẹ nhàng để cứu chữa bệnh nhân như cứu chữa cho con em của mình, “lương y như từ mẫu” là gốc rễ cho mọi suy nghĩ, mọi hành động của người thầy thuốc. Y đức được hình thành trên những yêu cầu của nghề y, trên cơ sở đạo đức xã hội và pháp luật, được cụ thể hoá thành các quy tắc, chuẩn mực cho những người làm công tác y, dược.
- 34 Dưới các góc nhìn khác nhau, các nhà khoa học có những cách diễn đạt khác nhau về y đức: Tiếp cận từ góc độ giá trị: “Y đức là hệ thống những tiêu chuẩn, nguyên tắc nghề nghiệp đảm bảo sức khỏe nhân dân ” [73, tr.59]. Tiếp cận từ góc độ giao tiếp: “Y đức là cách ứng xử của người thầy thuốc với bệnh nhân trong mọi hoàn cảnh, thể hiện ý thức trách nhiệm, thái độ và tấm lòng ” [3, tr.25]. Tiếp cận từ góc độ hành vi: “Y đức là những tiêu chuẩn, quy tắc hành vi trong quan hệ của thầy thuốc với bệnh nhân, với đồng nghiệp, nó xác định bổn phận, lương tâm, danh dự và hạnh phúc của người thầy thuốc” [65, tr.251]. Những định nghĩa trên tuy có những khác nhau trong cách diễn đạt, song đều thống nhất ở những dấu hiệu cơ bản, đó là ý thức về bổn phận, trách nhiệm của người thầy thuốc, là thái độ nhân đạo đối với bệnh nhân và hành vi chuẩn mực trong thực hành nghề nghiệp. Từ những phân tích trên, có thể khái quát: Bản chất của y đức là ý thức, thái độ và hành vi của người thầy thuốc trong các mối quan hệ y nghiệp, tất cả vì sự sống của con người. Y đức được biểu hiện trên ba mặt: ý thức y đức, thái độ y đức và hành vi y đức của người thầy thuốc. - Ý thức y đức Ý thức y đức là những quan niệm, nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực cao đẹp về nghề y, là lý tưởng, đạo đức y nghiệp, là bổn phận, trách nhiệm của người thầy thuốc vì sự sống của người bệnh. Ý thức y đức của người thầy thuốc thể hiện: Thấm nhuần những giá trị nhân văn, nhân đạo của nghề y. Hiểu rõ bản chất của nghề y vừa là khoa học, vừa là đạo đức. Tôn trọng con người, quyền con người, tuân thủ pháp luật. Biết giữ gìn phẩm giá, danh dự của cá nhân và tập thể, có lòng tự trọng, biết tự khẳng định mình.
- 35 Có tâm huyết với nghề, xả thân vì công việc, vì sự sống của bệnh nhân. Có tinh thần trách nhiệm, thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật chuyên môn, các quy định của pháp luật. Trung thực, liêm khiết, chí công, vô tư, không lợi dụng nghề nghiệp để thu nhập bất minh. Có ý thức đấu tranh chống lại những hành vi tha hoá biến chất, vì đồng tiền, coi thường tính mạng của bệnh nhân. Thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề. - Thái độ y đức Thái độ y đức là cách cư xử của người thầy thuốc với bệnh nhân, với đồng nghiệp, với cộng đồng xã hội, với công việc và với bản thân mình. Thái độ y đức của người thầy thuốc thể hiện: Thiện chí, thiện tâm trong khám và chữa bệnh. Cảm thông sâu sắc, chia sẻ nỗi đau đớn, sự bất lực của bệnh nhân; cùng vui với bệnh nhân khi sức khoẻ tiến triển tốt. Thái độ nhã nhặn, chỉ dẫn ân cần, giao tiếp lịch sự, văn minh, tôn trọng bệnh nhân và gia đình họ. Luôn tạo niềm tin cho bệnh nhân để vượt qua hiểm nguy. Nuôi dưỡng sự hy vọng, sự lạc quan để chống đỡ với bệnh tật. Giữ bí mật riêng tư về bệnh tình của bệnh nhân. Có nhiều loại bệnh mà trong quá trình điều trị người thầy thuốc cần biết căn nguồn sự thật để chữa trị nhưng nếu công khai sẽ ảnh hưởng không tốt tâm lý bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Không đòi hỏi sự hàm ơn hay lễ vật đối với bệnh nhân và gia đình họ. Trị bệnh cứu người là nghĩa vụ, lương tâm trách nhiệm nghề nghiệp của người thầy thuốc. Hợp tác, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp để hoàn thành nhiệm vụ và nâng cao trình độ chuyên môn. Tự nghiêm khắc, có kỷ luật, biết tự trọng với chính bản thân.
- 36 - Hành vi y đức Hành vi y đức là những hành động đạo đức trong thực hành y nghiệp. Hành vi y đức của người thầy thuốc thể hiện: Thận trọng trong nghiên cứu khoa học, trong thử nghiệm lâm sàng khi có người bệnh tham gia, phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Cân nhắc lợi, hại đối với bệnh nhân khi kê đơn, bốc thuốc, khi chỉ định các phác đồ điều trị. Thực hiện đúng các quy định kỹ thuật, đảm bảo vô trùng khi thăm khám bệnh nhân, không để lây lan bệnh tật. Thao tác nhẹ nhàng, không gây đau đớn cho bệnh nhân. Chăm sóc chu đáo người bệnh trong ăn, ngủ, vệ sinh, tập luyện phục hồi sức khoẻ. Hành vi văn minh, không lợi dụng khám bệnh để xâm phạm đến thân thể bệnh nhân. Những biểu hiện này của y đức có mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên diện mạo đạo đức trong sáng của người thầy thuốc, trong đó ý thức y đức là động lực chi phối thái độ y đức và hành vi y đức. 1.1.3.3. Đặc điểm lao động của người thầy thuốc quân đội Người TTQĐ là những quân nhân phục vụ trong quân đội, bao gồm các bác sĩ, y sĩ, y tá, điều dưỡng, dược sĩ, dược tá, hộ lý đảm nhiệm công tác quân y. Lao động của người TTQĐ cũng có những đặc điểm giống như các thầy thuốc nói chung, bên cạnh đó còn có những đặc điểm riêng do các hoạt động đặc thù của quân đội, cụ thể như sau: * Nhiệm vụ của người thầy thuốc quân đội Chăm sóc sức khoẻ, khám, chữa bệnh cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân đang làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Tham gia vào các hoạt động chuyên môn kỹ thuật y tế, đào tạo nhân lực y tế cho toàn quân trong các trường quân y, nghiên cứu phát triển y - sinh - dược học, trong đó có y học quân sự.
- 37 Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kết hợp quân - dân y, khám chữa bệnh cho nhân dân. Tham gia các chiến dịch vệ sinh phòng dịch, bảo đảm y tế trong phòng chống thiên tai, thảm hoạ. Là sĩ quan quân đội nên phải chỉ huy chiến đấu khi cần thiết, đồng thời tổ chức tìm kiếm, cấp cứu, vận chuyển thương, bệnh binh trên trận địa. Góp phần bảo vệ trật tự an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, y tế ở các địa phương đóng quân. Tham gia làm công tác y tế cho đội quân gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc khi có lệnh. * Đối tượng phục vụ của thầy thuốc quân đội Cán bộ chiến sĩ trong toàn quân đang huấn luyện ở các quân binh chủng hải, lục, không quân, bộ đội biên phòng và lực lượng cảnh sát biển Việt Nam. Cán bộ, công nhân viên chức nghỉ hưu và những công dân tham gia đóng bảo hiểm y tế ở các địa phương. Nhân dân ở các địa bàn đóng quân, ngư dân trên biển, những người thuộc diện chính sách, những người nghèo, bà con các dân tộc thiểu số. Những khách hàng tự do có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ, thẩm mỹ Tù, hàng binh, thương bệnh, binh của đối phương, theo chính sách nhân đạo của Nhà nước và Quân đội ta và theo các công ước quốc tế về tù, hàng binh trong chiến tranh và trong các cuộc xung đột vũ trang ở biên giới, hải đảo Người TTQĐ sẽ có một đối tượng phục vụ mới đó là các binh lính và sỹ quan ngoại quốc. Theo Đề án về việc Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc, Việt Nam sẽ triển khai một bệnh viện dã chiến cấp 2 ở Nam Xu Đăng trong năm 2015. * Địa bàn hoạt động của thầy thuốc quân đội Trên toàn lãnh thổ Việt Nam, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Trong các bệnh viện quân đội, các cơ sở y tế dã chiến. Trong các viện, trung tâm nghiên cứu quân y, các trường quân y. Ở các đơn vị quân đội đang huấn luyện sẵn sàng chiến đấu.
- 38 Hiện nay địa bàn hoạt động của các TTQĐ còn là nơi đóng quân của lực lượng bảo vệ hoà bình của Liên hợp quốc ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. * Phương thức khám, chữa bệnh và phương tiện hoạt động Phương thức khám, chữa bệnh là chăm sóc sức khoẻ cho bộ đội và nhân dân là kết hợp Đông - Tây y, quân - dân y, phòng - chữa bệnh. Phương tiện hoạt động của TTQĐ rất đa dạng, từ các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đến phương tiện truyền thống, những trang bị tối tân nhập khẩu từ nước ngoài, những phương tiện sản xuất trong nước và cả những thiết bị tự tạo tại các cơ sở y tế. * Thầy thuốc quân đội là những người được đào tạo chu đáo Nghề y là một nghề có liên quan đến sinh mạng của con người, do tính chất đặc điểm của hoạt động khám chữa bệnh trong môi trường quân sự, tính chất ác liệt của chiến tranh, vết thương, bệnh tật của cán bộ, chiến sĩ luôn đe dọa với tính mạng của họ, nên người TTQĐ phải được đào tạo rất kỹ càng, thời gian dài hơn so với ngành nghề khác. Để học y khoa, giai đoạn đào tạo đại học khoảng 7 năm, trong khi học viên các trường đại học quân sự khác chỉ 5 năm. Nếu tính cả thời gian thực hành, trực đêm ở bệnh viện thì thời gian học của học viên đào tạo bác sĩ đa khoa gần gấp đôi học viên các trường đại học quân sự khác. Ngoài ra ngay từ khi đi học họ đã phải tiếp xúc với môi trường độc hại của ngành y như lây bệnh, hóa chất, bệnh phẩm nhất là họ phải thường xuyên tiếp xúc với người bệnh, căng thẳng, đau đớn, lây nhiễm bệnh, mất mát, và chết chóc Thế nhưng để có thể thành một thầy thuốc có đủ khả năng hành nghề chuyên khoa họ còn phải học thêm 3 - 4 năm tiếp theo về chuyên khoa. Để vững vàng trong y nghiệp thì người thầy thuốc phải cần thêm chừng 10 năm kinh nghiệm nữa. Như vậy, trong suốt 10 năm đào tạo, huấn luyện cơ bản và 10 năm trau dồi kinh nghiệm y nghiệp người thầy thuốc mới đạt được sự thành thạo về chuyên môn nghề nghiệp của mình.
- 39 Trong huấn luyện, người thầy thuốc phải rèn tập những kỹ năng khó một làn dao, một mũi kim đều không thể ngẫu hứng, tình cờ. Mọi sơ sẩy của bác sĩ có thể gây ra các biến chứng và khó giữ được tính mạng của người bệnh. Họ cũng phải học cả những thái độ, cử chỉ, cách ứng xử với từng trường hợp, biết che dấu cảm xúc, giờ giấc hoạt động được chương trình hóa một cách chính xác Rồi cả cách ăn mặc, cách nói năng phù hợp với nghề. Người TTQĐ còn phải chấp hành nghiêm chỉnh tiêu chuẩn, qui định, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật quân đội và những đòi hỏi trong phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Họ luôn tiên phong trên các mặt trận, công tác ở những nơi xa xôi, hẻo lánh nhất, khó khăn và thiếu thốn nhất, nguy hiểm nhất để bảo đảm sức khỏe cho bộ đội và nhân dân trên địa bàn đóng quân. * Nhân cách người TTQĐ gắn liền với phẩm chất “Anh bộ đội Cụ Hồ” Người TTQĐ không ngừng phấn đấu rèn luyện về mọi mặt, để thật sự trở thành người thầy thuốc cách mạng, có các phẩm chất của anh bộ đội Cụ Hồ, luôn thể hiện được lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng vì đồng đội, phục vụ thương, bệnh binh; có tính sáng tạo, quyết đoán, có tính tổ chức kỷ luật; có tác phong lịch sự, thận trọng, nghiêm túc, mẫu mực, biết tôn trọng, quan tâm đồng cảm với người bệnh; luôn luôn làm theo lời dạy của Bác: “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải như là người mẹ hiền”. Người TTQĐ phải luôn sẵn sàng, chủ động trong công việc, kể cả ngày nghỉ, ngày lễ, không được từ chối chữa bệnh cho dù là bệnh nhân nghèo, những người thiệt thòi, khuyết tật, phải trung thực, thận trọng, chính xác trong các kết quả xét nghiệm; phải giữ gìn phẩm giá, danh dự nghề nghiệp của bản thân. 1.1.3.4. Y đức người thầy thuốc quân đội Đạo đức của người TTQĐ là sự thống nhất giữa cái phổ biến (đạo đức xã hội), với cái đặc thù (đạo đức quân nhân) và cái đơn nhất (đạo đức y nghiệp). Người TTQĐ, trước hết là một công dân, sống trong xã hội, họ cũng được hình thành những phẩm chất đạo đức xã hội, thấm nhuần những giá trị,
- 40 truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, đó là tình yêu thương, đùm bọc đồng chí và đồng bào của mình “Bầu ơi thương lấy bí cùng”; đặc biệt trong lúc ốm đau, bệnh tật cần được cưu mang, cứu chữa. Đạo đức người TTQĐ là một bộ phận đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam Là quân nhân cách mạng nên người TTQĐ phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân, với chế độ XHCN, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm phấn đấu hy sinh cho mục tiêu đó. Đạo đức của người TTQĐ xuất phát từ lợi ích của bộ đội và nhân dân, giá trị cốt lõi của đạo đức người TTQĐ là tư tưởng “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hi sinh”. Người TTQĐ có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tuân thủ nghiêm túc điều lệnh và kỷ luật quân đội. Có lối sống khiêm tốn, giản dị, trung thực, cởi mở; chân thành, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, hết lòng giúp đỡ đồng đội, cùng nhau hoàn thành mọi nhiệm vụ, kiên quyết chống mọi biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Là người hoạt động trong lĩnh vực y học, nên các yêu cầu y đức của người TTQĐ cũng là những yêu cầu của người thầy thuốc nói chung. Giá trị đạo đức cơ bản, cốt lõi của người TTQĐ là sức khoẻ và sinh mệnh của đồng chí, đồng bào, nên phải thấm nhuần quan điểm “lương y như từ mẫu”, cứu chữa cho bệnh nhân là cứu chữa cho người thân trong gia đình của mình, theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Người TTQĐ theo nghĩa chung nhất cũng là công chức nhà nước, nên phải tuân theo các yêu cầu của đạo đức công vụ, đó là “phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng” (Điều 8 Hiến pháp). Công chức phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật trong cuộc sống. Thực hành công vụ theo đúng những quy định của pháp luật và của các tổ chức nhà nước. Có đủ năng lực để thực hiện công vụ, công khai, minh bạch trong mọi hoạt động đối với nhân dân.
- 41 Người TTQĐ phục vụ trong các lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc là chiến sĩ quốc tế, nên phải am hiểu truyền thống, văn hoá, đạo đức của người dân địa phương, phải tôn trọng luật pháp quốc tế, đáp ứng các yêu cầu của lực lượng bảo vệ hoà bình trong môi trường hoạt động quốc tế. Như vậy: Y đức của người thầy thuốc quân đội là tổng hoà các phẩm chất đạo đức của người thầy thuốc, người quân nhân cách mạng, người công chức trong hoạt động y nghiệp. Y đức người TTQĐ được thể hiện ở ba mặt ý thức y đức, thái độ y đức và hành vi y đức và chúng được phát triển trong thực tế nghề nghiệp. 1.2. Những vấn đề lý luận về phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội trong bối cảnh hiện nay 1.2.1. Bối cảnh nước ta hiện nay Nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại đa phương, chủ động hội nhập quốc tế, nền kinh tế đang phát triển mau chóng, đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về kinh tế, văn hoá, xã hội, mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế cũng đã làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm ảnh hưởng đến nhiều mặt của xã hội, trong đó có nghề y, một nghề vốn được coi là nhân đức, thầy thuốc được xã hội tôn vinh. * Nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo luật cung - cầu, số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường là căn cứ để xác định giá cả mua bán. Quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá trên thị trường được điều tiết theo quy luật cung - cầu, thị trường có nhu cầu thì sẽ có sản xuất để cung ứng. Nhà sản xuất được tự do sản xuất, kinh doanh, chấp nhận cạnh tranh và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Lợi nhuận kinh tế là mục tiêu tối cao, nên
- 42 đã làm nảy sinh hiện tượng cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh, có người thắng và có kẻ thua, có doanh nghiệp phá sản. - Ưu điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường: Tạo điều kiện thuận lợi cho nhà sản xuất tự do sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế cạnh tranh nên phát triển năng động và có hiệu quả. Nền kinh tế thích ứng giữa sản xuất với tiêu dùng, nhờ đó hàng hoá được sản xuất đa dạng, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Do sức ép của cạnh tranh nên những nhà sản xuất phải đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, từ đó thúc đẩy nghiên cứu khoa học, nhanh chóng áp dụng kỹ thuật mới, thực hiện chuyển giao công nghệ hiện đại. Sự điều tiết sản xuất mềm dẻo và có khả năng thích nghi trước những điều kiện kinh tế biến đổi. Cơ chế thị trường cạnh tranh đã mở ra khả năng giải phóng năng lực sáng tạo của con người, thúc đẩy văn hoá, đạo đức tiến bộ, gạt bỏ những cái lạc hậu, cổ vũ cho những gì mới mẻ, hợp quy luật. Việc phá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, tạo đà cho những chuẩn mực đạo đức mới ra đời, phát huy cao độ tính tích cực, tự giác, năng động, sáng tạo của người lao động. Cơ chế thị trường khuyến khích cá nhân phấn đấu, tự khẳng định mình và tạo lập cơ chế đãi ngộ phù hợp với năng lực cống hiến. - Mặt trái của nền kinh tế thị trường: Mục đích tối cao của các nhà doanh nghiệp là lợi nhuận kinh tế, vì thế nhà sản xuất vì lợi nhuận có thể lạm dụng tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người. Nền KTTT tự do khó tránh khỏi những cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ, tạo ra nạn thất nghiệp và lạm phát. Phân phối thu nhập không công bằng, dẫn đến phân hoá giàu nghèo, phân cực xã hội, “kẻ ăn không hết, kẻ lần không ra”. Cơ chế thị trường tự phát có những tác động xấu đến đạo đức và tình người, làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, tham nhũng, hối lộ, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, thờ ơ, vô cảm Các hiện tượng này đang thâm nhập vào ngành y.
- 43 * Hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế là quá trình các nước trên thế giới tiến hành các hoạt động gắn kết với nhau, dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các nguyên tắc chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Hội nhập quốc tế diễn ra trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng, văn hoá, y tế, giáo dục Trong thời đại ngày nay, hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ con người quy định. Sự ra đời và phát triển của nền KTTT đòi hỏi phải mở rộng các thị trường quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. - Mặt tích cực của hội nhập quốc tế: Mở rộng thị trường, mở rộng các mặt trong quan hệ quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Thúc đẩy nghiên cứu khoa học, sản xuất, chuyển giao công nghệ tạo nên một thế giới phẳng; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia, cải thiện môi trường thu hút đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hội nhập quốc tế nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ, hợp tác giáo dục - đào tạo và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến; làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường quốc tế, các nguồn tín dụng và các đối tác nước ngoài. Tạo cơ hội để các cá nhân được tiếp cận với các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đa dạng và chất lượng cao, với giá cạnh tranh, có cơ hội tìm kiếm việc làm trong và ngoài nước; tạo điều kiện để các nhà quản lý nắm bắt được tình hình và xu thế phát triển kinh tế, xã hội của thế giới, từ đó đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước. Chọn lọc và tiếp thu những giá trị văn hoá thế giới, làm giàu văn hoá dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Hội nhập quốc tế tạo động lực và điều kiện để tiến hành cải cách xã hội toàn diện hướng tới xây dựng một xã hội mở, dân chủ và nhà nước pháp quyền; tạo điều kiện để mỗi nước tìm được vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, nhằm duy trì an ninh, bảo vệ hoà bình và ổn định để phát triển.
- 44 - Mặt trái của hội nhập quốc tế: Làm gia tăng cạnh tranh quốc tế và trong nước khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế chưa đủ năng lực, yếu, kém gặp khó khăn, có thể dẫn đến phá sản. Hội nhập quốc tế làm gia tăng sự phụ thuộc vào nước ngoài có nền kinh tế phát triển, các nước đang phát triển dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế. Phân phối lợi nhuận giữa các nước và các nhóm xã hội không công bằng làm gia tăng khoảng cách giàu - nghèo. Các nước đang phát triển phải đối mặt với xu hướng tập trung vào các ngành sản xuất sử dụng tài nguyên, sức lao động rẻ, nhưng lại có giá trị gia tăng thấp. Do vậy, dễ trở thành bãi rác công nghiệp, nguồn tài nguyên bị cạn kiệt, môi trường ô nhiễm suy thoái. Hội nhập quốc tế có thể dẫn tới lan tràn dịch bệnh, hiện tượng nhập cư bất hợp pháp. Làm gia tăng nguy cơ “xâm lăng” của văn hoá, lối sống sính ngoại, thực dụng, chạy theo đồng tiền, xâm nhập ồ ạt dẫn đến mất niềm tự hào dân tộc, mất lòng tự trọng vốn có của mỗi người dân. Mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đang hiện diện ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, có đạo đức nghề y, một trong những lĩnh vực nhạy cảm. Mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đang len lỏi vào ngành y, đã có những hiện tượng tiêu cực trong đội ngũ những người thầy thuốc, trong đó có cả thầy thuốc quân đội, đã làm cho một số người sa ngã, biến chất, đạo đức suy đồi, vụ lợi, thấp hèn, thậm chí tàn nhẫn như vụ phi tang xác nạn nhân ở viện thẩm mỹ Cát Tường, vụ nhân bản phiếu xét nghiệm tại Bệnh viện Hoài Đức gần đây Hiện tượng phân biệt đối xử giữa các bệnh nhân giàu, nghèo, bệnh nhân chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm và bệnh nhân chữa bệnh theo dịch vụ. Đã có những trường hợp thầy thuốc vô cảm trước những bệnh nhân tại nạn, cấp cứu, trước những đau đớn, tuyệt vọng của bệnh nhân nếu họ không có người nhà đi theo, hoặc không có khả năng tài chính để điều trị.
- 45 Tệ nạn “phong bì” đang tràn lan trong các cơ sở y tế, từ khám bệnh, đến chữa bệnh. Đây là những điều xa lạ với y đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Các vụ tiêu cực trong những năm qua đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành y tế và đạo đức của người thầy thuốc. Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh, báo động đã đến lúc phải tăng cường giáo dục, phát triển y đức, để lấy lại lòng tin và sự kính trọng của bộ đội và nhân dân. 1.2.2. Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội 1.2.2.1. Phát triển y đức Phát triển là quá trình vận động của mọi sự vật, hiện tượng từ bậc thấp đến bậc cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển y đức của người TTQĐ là quá trình hình thành và hoàn thiện đạo đức nghề nghiệp của người thầy thuốc chân chính, người quân nhân cách mạng, người công vụ mẫn cán theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Quá trình phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội: Quá trình phát triển y đức của người TTQĐ diễn ra theo qui luật chung của quá trình giáo dục và tự rèn luyện tu dưỡng đạo đức của con người. Sự hình thành y đức của người thầy thuốc ban đầu được thực hiện trong các trường quân y, thông qua học tập các nội dung đạo đức y học truyền thống và hiện đại, thông qua thâm nhập thực tế các đơn vị quân đội, các bệnh viện, được tiếp xúc với bệnh nhân, thấu hiểu tâm lý và những nhu cầu của bệnh nhân, thông qua học hỏi các tấm gương sáng, mẫu mực của các thầy thuốc đang làm việc trong các đơn vị, trong các cơ sở y tế. Sự phát triển y đức của người TTQĐ là bước tiếp theo quá trình giáo dục trong nhà trường, là kết quả của quá trình tác động tích cực của các đơn vị quân y, của kỷ luật quân đội, sự giáo dục của các cấp lãnh đạo, chỉ huy và sự nhận thức, sự trải nghiệm thực tế y nghiệp của người thầy thuốc, đặc biệt là quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện của bản thân mỗi người thầy thuốc.
- 46 Như vậy, sự phát triển y đức của người TTQĐ là kết quả của quá trình giáo dục và rèn luyện trong môi trường quân đội, với những tác động đa chiều của xã hội, là kết quả của việc tu dưỡng, rèn luyện bản thân để hình thành những phẩm chất tốt, chống lại những thói hư tật xấu, những tệ nạn, những tiêu cực đang len lỏi trong ngành y. Từ các phân tích trên có thể khái quát: Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội là quá trình biến đổi, hoàn thiện đạo đức nghề nghiệp của người thầy thuốc, tạo nên sự hài hòa giữa đạo đức người quân nhân, với đạo đức công vụ, theo chuẩn mực y đức và pháp luật y tế, nhằm đáp ứng các yêu cầu của công tác quân y trong bối cảnh hiện nay. Sự PTYĐ của người TTQĐ được biểu hiện trên những nội dung sau: Y đức là sản phẩm tổng hợp của các điều kiện khách quan và chủ quan, là quá trình chuyển hóa có tính biện chứng, phức tạp qua các khâu, các bước từ những yêu cầu của xã hội, của quân đội thành nhu cầu của mỗi tập thể quân y và cá nhân người TTQĐ. Phát triển y đức của người TTQĐ là quá trình hiện thực hóa những giá trị y đức vào các nhiệm vụ thực tiễn trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho bộ đội và nhân dân; đồng thời là sự sáng tạo những giá trị y đức mới. Đặc trưng của sự phát triển y đức là sự thống nhất giữa ý thức y đức, thái độ y đức và hành vi y đức; được biểu hiện cụ thể ở động cơ và hiệu quả, giữa ý thức và hành vi của mỗi người thầy thuốc. Y đức của người TTQĐ được thể hiện bằng kết quả công việc, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người thầy thuốc trong khám bệnh và điều trị, bằng sự tận tâm, lòng thương cảm với nỗi đau của người bệnh. Trong quá trình hiện thực hóa các giá trị y đức người TTQĐ không chỉ trưởng thành về nhân cách, mà còn góp phần làm phong phú thêm hệ thống các giá trị y đức trước những yêu cầu phát triển của y học hiện đại, nhiệm vụ quân đội và xã hội.
- 47 Phát triển y đức của người TTQĐ diễn ra trong quá trình tự rèn luyện, tu dưỡng cá nhân, thông qua tác động tích cực của tập thể, của môi trường hoạt động quân y và kỷ luật quân đội. Phát triển y đức diễn ra trong quá trình đấu tranh thường xuyên giữa cái mới và cái cũ, cái tốt và cái xấu, cái tiến bộ và cái lạc hậu trong từng tập thể ĐVQY và trong từng cá nhân người TTQĐ. Sự phát triển y đức của người TTQĐ là quá trình phát huy những giá trị, truyền thống tốt đẹp của ngành y và của từng ĐVQY. Người TTQĐ là người kề thừa, phát huy các giá trị đạo đức cách mạng đã được các thế hệ cha anh đã tạo dựng nên. 1.2.2.2. Vai trò phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội Y đức có vai trò rất lớn trong sự nghiệp của người thầy thuốc nói chung, người TTQĐ riêng. PTYĐ có các chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng điều chỉnh hành vi, là cơ sở để hình thành chuẩn mực, qui tắc y đức, tình cảm và lương tâm của người TTQĐ. Vai trò PTYĐ của người TTQĐ được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây: - Phát triển y đức là cơ sở, điều kiện để nâng cao nhận thức, điều chỉnh thái độ, hành vi của người TTQĐ. Phát triển y đức dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng ta về công tác y tế, tạo nên thế giới quan, phương pháp nhận thức và phương pháp hoạt động của người TTQĐ. PTYĐ cung cấp tri thức sống, những quan điểm, chuẩn mực, quy tắc đạo đức cho thầy thuốc trong nhận thức và trong hành động, là cơ sở để người TTQĐ lựa chọn các giá trị đạo đức tiến bộ làm sâu sắc nhận thức về y đức và góp phần làm phát triển thêm những hệ giá trị y đức mới. - Phát triển y đức là cơ sở, điều kiện để phát triển năng lực chuyên môn, hoàn thiện về nhân cách của người TTQĐ. Y đức và năng lực chuyên môn có quan hệ biện chứng với nhau, là hai thành tố căn bản trong nhân cách của người TTQĐ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
- 48 nhắc nhở người TTQĐ: “Luôn luôn ghi nhớ rằng người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là như người mẹ hiền, hết lòng, hết sức cứu chữa và phục vụ thương, bệnh binh”[52]. Người khẳng định: nhân viên y tế nói chung và người thầy thuốc nói riêng cần phải có lòng nhân ái, lương tâm và trách nhiệm đối với người bệnh. Người thầy thuốc phải có năng lực thuyết phục và cảm hóa đối với người bệnh, phải là chỗ dựa tinh thần cho người bệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy tình cảm sâu sắc nhất của con người là tình mẫu tử để so sánh với người thầy thuốc và bệnh nhân. Người thầy thuốc phải có cái tâm của người mẹ, sẵn sàng chia sẻ nỗi đau với người bệnh, hết lòng, hết sức cứu chữa người bệnh với tình cảm và lương tâm như của một người mẹ dành cho những đứa con của mình. Điều này chính là cơ sở, điều kiện để hình thành nên phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư của người thầy thuốc cách mạng nói chung, người TTQĐ nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh, đã là người thầy thuốc thì phải phấn đấu trở thành người thầy thuốc giỏi, y đức không chỉ là lòng yêu thương người bệnh mà còn là tinh thần hăng say với nghề nghiệp, là năng lực chuyên môn giỏi để lấy lại sự sống cho bệnh nhân. Trong nghề y, lòng nhân ái, yêu thương người bệnh là động lực thôi thúc người thầy thuốc tích cực học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp. Song, khi trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của người thầy thuốc lại có tác động trở lại, góp phần làm cho y đức của người thầy thuốc phát triển cao hơn. - Phát triển y đức của người TTQĐ góp phần ngăn ngừa, đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong ngành y. Trong công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, xã hội nước ta hiện nay còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Trong đó nổi lên là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ y tế, những tiêu cực của ngành y đang ngày càng gia tăng, tình trạng tha hoá về đạo
- 49 đức, xuống cấp về lối sống, suy thoái về chính trị, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân viên y tế đã thực sự là nguy cơ đáng báo động. Để ngăn chặn sự tác động tiêu cực về đạo đức, lối sống, đòi hỏi chúng ta phải sử dụng kết hợp nhiều biện pháp mang tính đồng bộ như: hành chính, kinh tế, pháp luật, chuyên môn Trong đó, PTYĐ của người thầy thuốc là biện pháp hữu hiệu nhất có tính bền vững lâu dài. Việc giáo dục, rèn luyện để PTYĐ của mỗi TTQĐ, nó tác động đến tâm lý, tình cảm của họ làm cho họ tự điều chỉnh hành vi, lối sống của mình, góp phần ngăn ngừa, đẩy lùi tác động tiêu cực, xây dựng môi trường y đức lành mạnh trong từng ĐVQY. - Phát triển y đức của người TTQĐ góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của các đơn vị quân y. Y đức cách mạng khẳng định giá trị đạo đức, phẩm giá của người TTQĐ, đồng thời còn giúp người TTQĐ đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi biểu hiện tiêu cực đang diễn ra trong xã hội, trong ngành, cũng như ở ngay các đơn vị quân y. Thầy thuốc quân đội là những người làm công tác tại các đơn vị quân y đang được xây dựng theo hướng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Họ vừa khám, chữa bệnh cho bệnh nhân, vừa học tập, nghiên cứu khoa học để bảo đảm cho quân đội thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong mọi tình huống. Phát triển y đức của người TTQĐ góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng, tinh thần tập thể, tính nhân văn, nhân đạo, lương tâm và trách nhiệm của người thầy thuốc cách mạng; phát huy truyền thống tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn gian khổ trên mọi lĩnh vực, địa bàn, điều kiện công tác, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Phát triển y đức của người TTQĐ là hình thành lý tưởng sống, là lương tâm, trách nhiệm, thôi thúc đội ngũ thầy thuốc vượt qua mọi khó khăn gian khổ, không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn.
- 50 1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội - Sự tác động của nền kinh tế thị trường Phát triển KTTT ở nước ta hiện nay là con đường tất yếu, là chuyển từ nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hiện đại, hội nhập quốc tế. Nền KTTT định hướng XHCN đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển đất nước trong tương lai. Tính năng động của nền KTTT đã tác động mạnh mẽ đến nếp nghĩ, cách làm theo hướng tích cực, từng bước bổ sung làm phong phú hơn giá trị, chuẩn mực đạo đức, thúc đẩy đời sống văn hoá phát triển. Dân chủ và kỷ luật, nghĩa vụ và trách nhiệm, kỷ cương và lương tâm nghề nghiệp trở thành các giá trị đạo đức mới, tác động tích cực đến ý thức và hành vi của mỗi người TTQĐ. Tuy nhiên, mặt trái của KTTT đang tác động tiêu cực đến đời sống của toàn xã hội và y đức của người thầy thuốc. Mặt trái KTTT “kích thích” các cá nhân cạnh tranh, ganh đua để tồn tại, phát triển và làm giàu, dẫn đến phân hoá giàu nghèo, đề cao lợi ích vật chất, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, hẹp hòi, ích kỷ. Đặc biệt với một số thầy thuốc thiếu bản lĩnh chính trị, họ biến chất, tha hoá về đạo đức, họ sẵn sàng tìm mọi cách để làm giàu trên nỗi đau của người bệnh, một bộ phận thầy thuốc đã xuất hiện các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm các qui định về hành nghề y; các chuẩn mực về y đức của người thầy thuốc, chạy theo lối sống hưởng thụ, mờ nhạt về lý tưởng y đức. - Sự tác động của môi trường y đức ở các đơn vị quân y Môi trường y đức ở các nhà trường, ở các ĐVQY là tổng hợp những yếu tố xã hội và nhân văn, kỷ luật quân đội tạo thành một chỉnh thể, tác động đến quá trình PTYĐ của người TTQĐ. Môi trường y đức ở nhà trường, các ĐVQY là cơ sở cho sự phát triển y đức. Các mối quan hệ chỉ huy cấp trên, cấp dưới, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp, quan hệ với bệnh nhân.
- 51 Mọi hoạt động trong các đơn vị quân y có nề nếp, kỷ cương, cấp trên gương mẫu, cấp dưới tích cực, tu dưỡng phấn đấu, tự giáo dục, tự rèn luyện trên cơ sở kỷ luật quân đội nghiêm minh. Do đặc điểm của hoạt động quân y, nên mọi hoạt động của người TTQĐ luôn gắn kết chặt chẽ với tập thể. Mọi biểu hiện thái độ, hành vi y đức của từng người thầy thuốc có sự giám sát chặt chẽ của dư luận tập thể. Dư luận tập thể tác động tới lòng tự trọng, danh dự cá nhân người thầy thuốc, thông qua việc khen ngợi hay phê phán mà mỗi người tự điều chỉnh hành vi đạo đức, đó là một trong những phương thức giáo dục có hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh dư luận tích cực cũng có dư luận không lành mạnh, do đó lãnh đạo, chỉ huy phải định hướng, điều chỉnh dư luận theo hướng tích cực, phát hiện, uốn nắn những dư luận sai lệch. Sự tác động của môi trường quân y đến từng cá nhân trên cả ba mặt ý thức, thái độ và hành vi y đức. Kết quả PTYĐ cũng tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, ý chí, nghị lực, sự trải nghiệm trong cuộc sống và công tác chuyên môn của mỗi người thầy thuốc. Người TTQĐ tiếp nhận sự tác động của môi trường ở các ĐVQY không phải thụ động, mà trái lại có những tác động tích cực trở lại để xây dựng môi trường đơn vị trong sạch lành mạnh. Trình độ PTYĐ của người TTQĐ góp phần nâng cao ý thức y đức trong tập thể quân y, làm lành mạnh các quan hệ trong đơn vị, làm cho môi trường y đức phát triển bền vững. - Ý thức tự giáo dục của người thầy thuốc quân đội Giáo dục và tự giáo dục là hai giai đoạn của quá trình giáo dục đối với con người. Giáo dục là giai đoạn đầu tiên, cơ bản nhất dành cho tất cả mọi người, ai được tiếp nhận một nền giáo dục tiến bộ, toàn diện người đó sẽ có cơ hội phát triển nhanh. Giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội kết hợp với nhau, tác động đồng thời làm cho nhân cách con người trở nên hài hòa, xã hội
- 52 lành mạnh. Tự giáo dục là bước tiếp sau của quá trình giáo dục, nhưng ở trình độ cao hơn, khi con người đã có những hiểu biết, kinh nghiệm nhất định, họ có ý thức, chủ động để tiếp nhận những tác động giáo dục, để tự giáo dục, tự rèn luyện bản thân. Giáo dục chỉ đạt được kết quả khi mỗi người tự giác, tích cực tiếp nhận các yêu cầu của tập thể, của các cấp chỉ huy để tự rèn luyện, tự hoàn thiện mình. Giáo dục y đức trong nhà trường quân y là giai đoạn đầu tiên để hình thành và PTYĐ cho người TTQĐ, quá trình này được tiếp nối trong môi trường quân đội, trong hoạt động ở các ĐVQY, giúp người TTQĐ chủ động tự tu dưỡng theo yêu cầu của xã hội, của quân đội và của ngành quân y. Như vậy, kết quả của quá trình phát triển y đức của người TTQĐ không chỉ phụ thuộc vào quá trình giáo dục trong nhà trường, trong các ĐVQY, mà còn ở sự tự giác tự tu dưỡng, tự rèn luyện của chính người TTQĐ. Giáo dục y đức và tự giáo dục có mối quan hệ biện chứng với nhau. Giáo dục y đức là cơ sở cho tự giáo dục và tự tu dưỡng thúc đẩy sự hoàn thiện y đức của người TTQĐ. - Thực tiễn đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong ngành y và trong các đơn vị quân y Cuộc đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong ngành Y và trong ĐVQY là biện pháp tích cực để bồi dưỡng y đức cho người TTQĐ. Những phẩm chất y đức của người TTQĐ, được củng cố và phát triển trong sự kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Nâng cao đạo đức cách mạng phải gắn liền với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Hiệu quả của cuộc đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ TTQĐ, phụ thuộc vào sự kết hợp giữa xây dựng đạo đức cách mạng, với kiên quyết đấu tranh xoá bỏ lối sống thực dụng, ích kỷ, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường Hiện nay, trong xã hội đan xen nhiều quan niệm, lối sống khác nhau, có những tư tưởng tiến bộ và còn có cả những tư tưởng cực đoan. Vì thế, quá
- 53 trình xây dựng và hiện thực hoá lý tưởng y đức của người TTQĐ không thể không tiến hành chống lại những tác động tiêu cực của lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền. Ở thời điểm hiện nay, các thế lực thù địch đang truyền bá lối sống thực dụng phương Tây, mưu toan làm đảo lộn thang giá trị đạo đức của xã hội ta. Đây là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều tổ chức, nhiều lực lượng. Xây dựng môi trường y đức trong sạch, lành mạnh sẽ tạo điều kiện, cơ sở thuận lợi để chống lại những ảnh hưởng tiêu cực, lạc hậu vào trong ngành và trong các đơn vị quân y cũng như cá nhân mỗi TTQĐ. 1.3. Nội dung phát triển y đức và tiêu chí đánh giá sự phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội 1.3.1. Nội dung phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội Để đáp ứng yêu cầu xây dựng ngành quân y tiên tiến, nền Y học Việt Nam hiện đại, để có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ bộ đội và nhân dân trong giai đoạn hiện nay, nội dung PTYĐ của người TTQĐ bao gồm những vấn đề sau: Một là, phát triển lý tưởng y đức người thầy thuốc cách mạng Lý tưởng y đức là triết lý sống của người thầy thuốc, là khát vọng vươn lên đỉnh cao của nghệ thuật y nghiệp trị bệnh cứu người. Lý tưởng y đức được khởi nguồn từ cái tâm của người thầy thuốc, thôi thúc tình cảm, trách nhiệm, nghĩa vụ trước người bệnh và cộng đồng xã hội. Phát triển lý tưởng y đức của người TTQĐ được biểu hiện như sau: Luôn có ý thức tự rèn luyện, trau dồi về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, thường xuyên học tập, cập nhật kiến thức y học để theo kịp thời đại. Y học vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, người thầy thuốc phải giỏi cả về lý thuyết chuyên môn và kỹ thuật hành nghề. Đúng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ít có nghề nào mà xã hội đòi hỏi về phẩm chất và tài năng cao như đối với người làm công tác y tế. Đó là một nghề đặc biệt đòi hỏi sự hiểu
- 54 biết sâu rộng, tấm lòng nhân ái, từng trải và kinh nghiệm nghề nghiệp mà mọi công việc dù nhỏ đến đâu đều liên quan đến tính mạng con người và hạnh phúc của mỗi gia đình” [25, tr.26]. Người TTQĐ đặt quyền lợi của bệnh nhân lên trên quyền lợi của bản thân. Thực hiện việc chẩn đoán, điều trị bệnh mà không bị chi phối bởi địa vị xã hội, tiền bạc, giới tính, tôn giáo của họ. Phẩm chất quan trọng nhất của người thầy thuốc chính là đức tính quên mình. TTQĐ giữ vững bản lĩnh nghề nghiệp trước mọi sự cám dỗ, trước những khó khăn trong cuộc sống của bản thân và gia đình. Bản lĩnh là sự thể hiện cao nhất của lý tưởng, là phẩm chất của người có năng lực, là tự tin và dám chịu trách nhiệm về hành vi của mình, không lùi bước trước những khó khăn, trở ngại. Bản lĩnh được hình thành và biểu hiện qua thói quen, hành vi, lối sống và nghề nghiệp của người TTQĐ, từ đó tạo nên những giá trị đạo đức, nhân cách người TTQĐ. Lương tâm nghề nghiệp trong sáng là cơ sở cho việc hình thành đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư của ĐĐCM của người TTQĐ. Hai là, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “lương y phải như từ mẫu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngành y là y lý, y thuật và y đức. Về y thuật, theo Người, người thầy thuốc ngoài việc dùng thuốc men, kỹ thuật để điều trị các rối loạn về thể chất, còn có nhiệm vụ giúp bệnh nhân điều chỉnh những rối loạn về tinh thần. Trong thư gửi Hội nghị Quân y tháng 3 năm 1948, Người viết: “người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”. Khi đến thăm nhà thương Vân Đình tháng 4 năm 1963, Người căn dặn cán bộ y tế “Trong công tác phục vụ cần coi trọng cả hai mặt tinh thần và vật chất, có thuốc hay thức ăn ngon, còn cần phải có thái độ phục vụ tốt, coi người bệnh như ruột thịt” [25, tr.26].
- 55 Trong thư gửi Hội nghị Quân y lần thứ 6 (tháng 3/1948) Bác viết: “Lương y kiêm từ mẫu”. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế toàn quốc năm 1953, Hội nghị cán bộ y tế tháng 2/1955 và thư khen cán bộ, nhân viên quân y ngày 31/7/1967, Người đã nhắc lại: “luôn luôn ghi nhớ rằng người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là như người mẹ hiền, hết lòng hết sức cứu chữa và phục vụ thương, bệnh binh” [25, tr.26]. Người khẳng định: người thầy thuốc phải có lòng nhân ái, lương tâm và trách nhiệm lớn lao đối với người bệnh. Người thầy thuốc phải có cái tâm của người mẹ, sẵn sàng chia sẻ nỗi đau với người bệnh, sẵn sàng chịu đựng mọi hy sinh gian khổ, hết lòng hết sức cứu chữa và phục vụ người bệnh với tình cảm và lương tâm như của một người mẹ dành tình yêu thương cho những đứa con của mình. Y đức theo tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ là lòng yêu thương người bệnh mà còn là tinh thần hăng say với nghề nghiệp, luôn luôn trau dồi kiến thức để nâng cao năng lực chuyên môn. Người TTQĐ vừa giàu lương tâm vừa giác ngộ nghĩa vụ là hai mặt thống nhất biện chứng với nhau trong đạo đức của người thầy thuốc. Ba là, rèn luyện tính kỷ luật và ý chí trong hoạt động y nghiệp Công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay là cơ sở thuận lợi để phát triển đạo đức trong xã hội nói chung và y đức nói riêng. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường đang hàng ngày, hàng giờ tác động tiêu cực đến đạo đức xã hội. Trong đó, không thể tránh khỏi sự xuất hiện những khuynh hướng phản văn hoá, đạo đức và lối sống tác động tiêu cực này là những trở ngại không nhỏ đối với việc củng cố phát triển đạo đức trong xã hội và y đức của người TTQĐ. Giáo dục PTYĐ của người TTQĐ phải gắn liền với giáo dục giá trị sống, hình thành các phẩm chất phù hợp với đặc thù của thời đại, đó là: hoà bình, tôn trọng, yêu thương, khoan dung, trung thực, khiêm tốn, hợp tác, hạnh phúc, trách nhiệm, giản dị, tự do và đoàn kết.
- 56 Tính kỷ luật là một trong những phẩm chất của người TTQĐ, biểu hiện trong việc tự giác tuân thủ pháp luật nhà nước, điều lệnh quân đội và quy định của ngành quân y. Giáo dục tính kỷ luật làm cho người TTQĐ làm chủ trong mọi suy nghĩ, hành động trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của y nghiệp, những yêu cầu của pháp luật và điều lệnh, kỷ luật quân đội với ý thức tự giác cao. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, biểu hiện cụ thể của ý thức trong thực tiễn. Ý chí bao gồm cả mặt năng động của trí tuệ, năng động của tình cảm đạo đức, là hình thức điều khiển, điều chỉnh hành vi tích cực nhất của người TTQĐ. Bốn là, thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn y đức trong từng tình huống lâm sàng. Do tính chất phức tạp của nghề y, sự phát triển đa dạng của các loại bệnh, y học đã vận dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại đã chế tạo được nhiều thiết bị kỹ thuật để chẩn đoán và điều trị bệnh. Do đó người TTQĐ phải có kiến thức của một số ngành cận lâm sàng và y xã hội học, đồng thời phải có kỹ năng sử dụng các thiết bị kỹ thuật trong hoạt động chuyên môn. Người bệnh đến với thầy thuốc không chỉ mong nhận được sự thông cảm, mà đặt cả niềm tin vào tài năng và trí tuệ của người thầy thuốc để chữa lành bệnh cho họ. Người TTQĐ luôn tìm tòi các phương pháp tối ưu cho từng ca cấp cứu, phương án điều trị thích hợp với từng loại bệnh, rút ngắn thời gian điều trị, cứu chữa bệnh nhân để họ nhanh chóng hồi phục sức khoẻ. Y đức được thể hiện trong từng tình huống can thiệp lâm sàng, trong chọn lựa phác đồ điều trị tốt nhất, với giá thành hợp lý nhất cho người bệnh. Thầy thuốc quân đội phải nghiên cứu các kỹ thuật mới, sản xuất và sử dụng các bài thuốc mới để điều trị bệnh nhân phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội, với hoạt động quân sự cả trong thời bình và thời chiến.