Luận án Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam

pdf 265 trang yendo 5110
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_chuoi_cung_san_pham_tom_nuoi_o_tinh_quang.pdf

Nội dung text: Luận án Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam

  1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LÊ VĂN THU NGHIÊN CỨU CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI Ở TỈNH QUẢNG NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HUẾ - 2015
  2. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LÊ VĂN THU NGHIÊN CỨU CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI Ở TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 62 62 01 15 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Mai Văn Xuân PGS.TS. Trần Văn Hòa HUÃÚ- 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án Tiến sĩ kinh tế “Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam” là công trình do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong luận án này hoàn toàn trung thực và chính xác. Tất cả những sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận án đã được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả luận án i
  4. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tôi bày tỏ lòng biết ơn đến quý lãnh đạo Trường Cao đẳng Kinh tế- Kỹ thuật Quảng Nam đã hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám đốc Đại học Huế, Ban Đào tạo Sau Đại học, Lãnh đạo Trường Đại học Kinh tế Huế, Phòng Đào tạo sau Đại học, Khoa Kinh tế Phát triển, Khoa Quản trị Kinh doanh, các Khoa, Phòng ban chức năng và tập thể các Nhà khoa học của Trường Đại học Kinh tế Huế đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Mai Văn Xuân, nguyên Trưởng khoa Kinh tế và Phát triển, PGS.TS Trần Văn Hòa, Hiệu trưởng, Trường Đại học Kinh tế Huế đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi suốt quá trình nghiên cứu luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo UBND tỉnh, Lãnh đạo và Chuyên viên các Sở, Ban, Ngành và lãnh đạo huyện, các Phòng, Ban của các huyện trong tỉnh Quảng Nam đã nhiệt tình đóng góp ý kiến, cung cấp tài liệu và những thông tin cần thiết để tôi hoàn thành luận án này. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, động viên của người thân, gia đình và đồng nghiệp trong suốt thời gian qua. Tác giả Lê Văn Thu ii
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1 ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of South East Asian Nations) 2 BBNT Bán buôn ngoài tỉnh 3 BLNT Bán lẻ ngoài tỉnh 4 BQ Bình Quân 5 BTC Bán thâm canh 6 BRC Tiêu chuẩn đáp ứng khách hàng cả an toàn và chất lượng (British Retail Consortium) 7 C Chi phí sản xuất kinh doanh 8 CCSPTN Chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi 9 CIF Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí (Cost, Insurance and Freight) 10 DRC Chi phí nguồn lực trong nước (Domestic Resource Cost) 11 DT Diện tích 12 ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 13 ĐVT Đơn vị tín 14 FAO Tổ chức lương thực và nông nghiệp (Food Agriculture Organization) 15 FOB Hết trách nhiệm khi hàng đã lên tàu (Free On Board) 16 EU Liên minh Châu Âu ( European Union) 17 GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Production) 18 GMP Tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt (Good Manufacturing Practice) 19 GO Tổng giá trị sản xuất (Goss Output) 20 HACCP Phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn (Hazard Analysis and Critical Control Points) 21 HĐTGT Hoạt động tạo giá trị 22 ISO Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa (International Standard Organization) 23 HTX Hợp tác xã 24 MI Thu nhập hỗn hợp 25 NTD Người tiêu dùng 26 NS Năng suất 27 NTTS Nuôi trồng thủy sản 28 LN Lợi nhuận iii
  6. 29 QCCT Quảng canh cải tiến 30 SC Chuỗi cung (Supply Chain) 31 SCM Quản lý chuỗi cung ( Supply Chain Management) 32 SER Tỷ giá hối đoái bóng (Shadow Exchange Rate) 33 SPTN Sản phẩm tôm nuôi 34 SX Sản xuất 35 SXKD Sản xuất kinh doanh 36 SXTG Sản xuất tôm giống 37 SWOT Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức 38 TACN Thưc ăn công nghiệp 39 TB Trung bình 40 TC Thâm canh 41 TG-CH Tam Giang - Cầu Hai 42 TNHH Trách nhiệm hữu hạn 43 TTYTS Thuốc thú y thủy sản 44 TXNG Truy xuất nguồn gốc 45 VASEP Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Việt Nam (Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers 46 VSATTP Vệ sinh an toàn thực phẩm iv
  7. MỤC LỤC Nội dung Trang LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC v DANH MỤC BẢNG viii DANH MỤC SƠ ĐỒ ix DANH MỤC ĐỒ THỊ x PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục tiêu nghiên cứu 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 4. Những đóng góp mới của luận án 4 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 6 1. Các công trình nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm tôm nuôi 6 2. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu 10 CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI 12 1.1. Cơ sở lý luận về chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi 12 1.1.1. Chuỗi cung và quản lý chuỗi cung 12 1.1.2. Chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi 23 1.1.3. Mối quan hệ mật thiết giữa chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi với hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành hàng tôm nuôi 41 1.2. Kinh nghiệm về quản lý CCSPTN của các quốc gia trên thế giới và Việt Nam 43 1.2.1. Kinh nghiệm về quản lý CCSPTN của các quốc gia trên thế giới 43 1.2.2. Thực tế về quản lý CCSPTN ở Việt Nam 46 v
  8. 1.3. Tóm tắt chương 1 49 CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 51 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến CCSPTN ở Quảng Nam 51 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 51 2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội 54 2.2. Thực trạng ngành hàng tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2007- 2012 58 2.2.1. Thực trạng nuôi tôm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam 58 2.2.2. Nguồn cung con giống, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh cho nuôi tôm 63 2.2.3. Tình hình tiêu thụ và chế biến tôm ở tỉnh Quảng Nam 64 2.3. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu và khung nghiên cứu CCSPTN 66 2.3.1. Phương pháp tiếp cận 66 2.3.2. Khung nghiên cứu CCSPTN 67 2.4. Phương pháp nghiên cứu 69 2.4.1. Chọn điểm nghiên cứu 69 2.4.2. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu 70 2.4.3. Phương pháp phân tích 72 2.5. Tóm tắt chương 2 74 CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI Ở TỈNH QUẢNG NAM 75 3.1. Phân tích chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam 75 3.1.1. Cấu trúc về CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam 75 3.1.2. Quá trình tạo giá trị trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở Quảng Nam 79 3.1.3. Dòng tài chính trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở Quảng Nam 95 3.1.4. Dòng thông tin trong chuỗi 101 3.1.5. Phân tích mối quan hệ hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi 104 3.2. Các yếu tố đầu vào chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất, hiệu quả kinh tế đầu tư nuôi tôm của hộ. 107 3.3. Lợi thế cạnh tranh của sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam 113 3.3.1. Tính hệ số DRC của sản phẩm tôm nuôi 114 3.3.2. Phân tích độ nhạy của DRC 116 vi
  9. 3.4. Đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố đến quá trình hoạt động của chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam 118 3.4.1. Điều kiện tự nhiên 118 3.4.2. Các nhân tố về thị trường 118 3.4.3. Nhóm các nhân tố thuộc về hộ nuôi tôm 119 3.4.4. Các nhân tố thuộc về chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước ở Quảng Nam 119 3.4.5. Nhóm nhân tố thuộc về quản lý CCSPTN ở Quảng Nam 120 3.4.6. Các nhân tố về cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ 121 3.5. Tóm tắt chương 3 121 CHƯƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI Ở TỈNH QUẢNG NAM 123 4.1. Những căn cứ đề ra giải pháp 123 4.1.1. Xu thế tiêu thụ sản phẩm tôm nuôi trong nước và thế giới 123 4.1.2. Quan điểm, định hướng hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển ngành hàng tôm nuôi bền vững ở tỉnh Quảng Nam 124 4.1.3. Mục tiêu phát triển ngành hàng tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 125 4.1.4. Dựa trên kết quả phân tích ma trận SWOT về CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam. 128 4.2. Những giải pháp hoàn thiện chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam 129 4.2.1. Giải pháp cho từng tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi 129 4.2.2. Giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước ở tỉnh Quảng Nam 139 4.3. Tóm tắt chương 4 149 Phần III KẾT LUẬN 150 Kết luận 150 Kiến nghị 152 TÀI LIỆU THAM KHẢO 155 PHỤ LỤC 1 164 PHỤ LỤC 2 175 PHỤ LỤC 3 203 PHỤ LỤC 4 242 PHỤ LỤC 5 252 vii
  10. DANH MỤC BẢNG Tên bảng Trang Bảng 1.1. Năm trở ngại đến ngành tôm Việt Nam 48 Bảng 3.1. Kết quả và hiệu quả nuôi tôm của hộ nuôi 81 Bảng 3.2. Kết quả và hiệu quả của các cơ sở sản xuất giống 84 Bảng 3.3. Kết quả và hiệu quả chế biến thức ăn công nghiệp nuôi tôm 86 Bảng 3.4. Kết quả và hiệu quả kinh tế của hệ thống đại lý 87 Bảng 3.5. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của thu gom lớn 89 Bảng 3.6. Kết quả và hiệu quả chế biến và xuất khẩu tôm 92 Bảng 3.7. Kết quả và hiệu quả của người bán buôn ngoài tỉnh 93 Bảng 3.8. Kết quả và hiệu quả của người bán lẻ ngoài tỉnh 94 Bảng 3.9. Kết quả và hiệu quả hoạt động tài chính của các tác nhân 98 trong CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam 98 Bảng 3.10. Tỷ trọng chi phí HĐTGT, lợi nhuận của các tác nhân tham gia vào CCSPTN thị trường tiêu thụ ngoài tỉnh 99 Bảng 3.11. Tỷ trọng CPHĐTGT, lợi nhuận của các tác nhân tham gia 100 vào CCSPTN thị trường xuất khẩu 100 Bảng 3.12. Kết quả ước lượng hàm sản xuất Cobb- Douglas của các hộ nuôi tôm theo phương thức TC vụ 1 và TC vụ 2 ở tỉnh Quảng Nam 108 Bảng 3.13. Năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào chủ yếu 111 đối với nuôi tôm thẻ chân trắng ở tỉnh Quảng Nam 111 Bảng 3.14. Hiệu quả kinh tế trong việc đầu tư các yếu tố đầu vào chủ yếu 112 đối với nuôi tôm thẻ chân trắng ở tỉnh Quảng Nam 112 Bảng 3.15. Chi phí nội nguồn DRC của sản phẩm tôm nuôi thâm canh hai vụ xuất khẩu ở tỉnh Quảng Nam 115 Bảng 16. Phân tích độ nhạy đối với chi phí nội nguồn của sản phâm tôm nuôi thâm canh hai vụ xuất khẩu ở tỉnh Quảng Nam 116 Bảng 4.1. Dự kiến chỉ tiêu phát triển ngành hàng tôm 127 ở Quảng Nam đến năm 2020 127 viii
  11. DANH MỤC SƠ ĐỒ Tên sơ đồ Trang Sơ đồ 1.1. Chuỗi cung đơn giản 15 Sơ đồ 1.2. Chuỗi cung mở rộng 15 Sơ đồ 1.3. Mạng lưới chuỗi cung tổng thể 17 Sơ đồ 1.4. Mô hình chuỗi giá trị chung 21 Sơ đồ 1.5. Quá trình tạo giá trị trong chuỗi cung 30 Sơ đồ 1.6. Mô hình hoạt động tạo thêm giá trị của đơn vị sản xuất kinh doanh 31 Sơ đồ 1.7. Mô hình chuỗi cung thực phẩm trong nông nghiệp 32 Sơ đồ 1.8. Chuỗi các quan hệ 34 Sơ đồ 1.9. Mô hình chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi 35 Sơ đồ 1.10. Chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở ĐBSCL 47 Sơ đồ 2.1. Khung nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam 68 Sơ đồ 3.1. Sơ đồ tổng quát CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam 75 Sơ đồ 3.2. Dòng thượng nguồn của CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam 76 Sơ đồ 3.3. Luồng sản phẩm tôm nuôi xuất khẩu 77 Sơ đồ 3.4. Luồng sản phẩm tôm nuôi tiêu thụ ngoài tỉnh 78 Sơ đồ 4.1. Chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở Quảng Nam được điều chỉnh 144 ix
  12. DANH MỤC ĐỒ THỊ Tên đồ thị Trang Đồ thị 2.1. Giá trị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản 57 Quảng Nam thời kỳ 2005-2012 57 Đồ thị 2.2. Giá trị sản xuất ngành thủy sản, nuôi trồng thủy sản 58 Quảng Nam thời kỳ 2005-2012 (giá so sánh năm 2010) 58 Đồ thị 2.3. Cơ cấu diện tích nuôi tôm ở Quảng Nam theo đối tượng nuôi 60 thời kỳ 2007-2012 60 Đồ thị 2.4. Giá trị sản xuất tôm nuôi và tốc độ tăng hàng năm ở Quảng Nam 62 thời kỳ 2005-2012 62 Đồ thị 2.5. Cơ cấu sản lượng tôm nuôi tiêu thụ nội địa và xuất khẩu 65 ở Quảng Nam thời kỳ 2007-2012 65 x
  13. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu tôm hàng đầu của thế giới. Năm 2011 tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tôm đạt 2,4 tỷ USD tăng 17,64% so với năm 2010, trong đó tôm sú chiếm 59,7%, tôm thẻ chân trắng chiếm 29,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tôm. Sản phẩm tôm của Việt Nam đã có mặt trên 91 quốc gia và vùng lãnh thổ với 3 thị trường lớn nhất là Mỹ, Nhật Bản, EU chiếm hơn 65% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam [2] [3] [32]. Trong hơn hai thập kỷ qua, ngành nuôi tôm đã từng bước phát triển và đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng giá trị gia tăng của ngành thủy sản và trong GDP của nền kinh tế nước ta; nó là một trong những ngành mà loại hình sản xuất chủ yếu là nông hộ, đang tồn tại và ngày càng phát huy thế mạnh trong bối cảnh hội nhập, từng bước khai thác hiệu quả các lợi thế cạnh tranh và khẳng định thế mạnh trên thị trường quốc tế [5] [32] [50]. Chuỗi cung nói chung và chuỗi cung sản phẫm tôm nuôi nói riêng là “con đường” mà sản phẩm tôm nuôi được tạo ra và đi qua để đến người tiêu dùng cuối cùng. Nó bao gồm nhiều mắt xích, các mắt xích có thể là người nuôi tôm hoặc dịch vụ, các nhà cung cấp nguyên vật liệu, nhà cung cấp của nhà cung cấp, khách hàng của khách hàng. Chuỗi kết nối cung cầu trên thị trường là nơi chuyển tải thông tin về nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm tôm nuôi đến với người nuôi tôm; chuỗi cung có vai trò quan trọng đối với việc tổ chức và quản lý ngành hàng tôm nuôi trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Chính vì vậy, trong Quyết định số 1690/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26 tháng 9 năm 2010 về việc phê duyệt chiến lược phát triển ngành thủy sản đến năm 2020, đã đưa ra 5 quan điểm phát triển ngành thủy sản, trong đó quan điểm thứ hai khẳng định: “Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghề cá gắn với việc tổ chức lại sản xuất ngành thủy sản ở tất cả các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, cơ khí hậu cần dịch vụ và chế biến thủy sản theo chuỗi giá trị sản phẩm từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến tiêu thụ, nhằm nâng cao hiệu quả tối ưu cho sản phẩm thủy sản Việt Nam”[47]. Đây là cơ sở pháp lý để Bộ NN&PTNT, các Bộ ngành, Hội, Hiệp hội 1
  14. nghề nghiệp liên quan, các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm tổ chức thực hiện, cụ thể hóa chiến lược cho ngành và địa phương mình. Trong những năm gần đây, tỉnh Quảng Nam đã thực hiện đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi trong sản xuất Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản, từ đó đã làm cho đời sống kinh tế của người dân khá hơn. Tuy nhiên, người nông dân nói chung, những hộ nuôi tôm nói riêng còn gặp nhiều khó khăn trong nuôi trồng và tiêu thụ sản phẩm, thu nhập tuy cao nhưng chưa ổn định, chịu sự tác động bởi dịch bệnh và những biến động bất lợi của thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra sản phẩm tôm nuôi. Để tháo gỡ những khó khăn trên, tỉnh Quảng Nam đã đưa ra nhiều chính sách nhằm hỗ trợ và khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nuôi tôm tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và mở rộng quy mô diện tích nuôi tôm. Tuy nhiên, những chính sách trên chưa thật sự là những giải pháp cơ bản để thúc đẩy quá trình phát triển nuôi tôm bền vững ở tỉnh Quảng Nam. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình đó là do chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi được nhìn nhận với tư cách là một ngành hàng hoạt động chưa hiệu quả, mối liên kết giữa các tác nhân tham gia trong chuỗi, khả năng kiểm soát các vấn đề ô nhiễm môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm trong từng mắt xích còn hạn chế; lợi ích giữa các tác nhân, nhất là người nuôi tôm chưa được phân phối hợp lý. Từ thực trạng của chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi và bối cảnh hội nhập của nền kinh tế tỉnh Quảng Nam đòi hỏi phải có những giải pháp thiết thực và hữu hiệu để hoàn thiện các mối liên kết giữa các thành viên trong chuỗi thông qua các chức năng hoạt động của nó nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển ngành hàng tôm nuôi bền vững ở tỉnh Quảng Nam. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam” làm luận án tiến sĩ kinh tế. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Cung cấp luận cứ khoa học và đề xuất các giải pháp hoàn hiện chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 2
  15. 2.2. Mục tiêu cụ thể (1) Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi (CCSPTN); (2) Phân tích, đánh giá thực trạng CCSPTN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; (3) Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển ngành hàng tôm nuôi bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Là những vấn đề liên quan đến chuỗi cung/chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi xét trong mối quan hệ mật thiết với hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành hàng sản phẩm tôm nuôi. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Để đạt được những mục tiêu như đã đề ra, luận án tập trung nghiên cứu CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam, bao gồm phân tích cấu trúc, các tác nhân tham gia (mắt xích), quá trình tạo giá trị, các dòng sản phẩm, thông tin, tài chính cùng các mối quan hệ giữa các tác nhân từ phía thượng nguồn (Upstream) và hạ nguồn (Downtream) của chuỗi cung; các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoạt động CCSPTN; đi sâu phân tích các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi tôm - tác nhân trung tâm của chuỗi; đánh giá lợi thế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm tôm nuôi trong khuôn khổ kinh tế nguồn lực có hạn. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. - Về không gian: Để có thể đánh giá sâu và đưa ra được những kết luận hợp lý, luận án giới hạn phạm vi chính là ngành hàng tôm nuôi ở Quảng Nam, bao gồm các tác nhân trong tỉnh (kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) tham gia hoạt động trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đề cập đến những tác nhân tham gia cung cấp các yếu tố đầu vào chủ yếu và trực tiếp phục vụ nuôi tôm và các tác nhân tham gia thực hiện vai trò tiêu thụ, chế biến và xuất khẩu sản phẩm tôm 3
  16. nuôi có nguồn gốc sản xuất ở Quảng Nam. Việc mở rộng phạm vi nghiên cứu đến các tác nhân ngoài tỉnh (ở Việt Nam) này cho phép đảm bảo tính tổng quát của chuỗi cung/chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi. - Về thời gian: Các số liệu thứ cấp từ năm 2005 đến năm 2012; số liệu sơ cấp, tập trung điều tra năm 2012; số liệu dự kiến đến năm 2020 về các vấn đề có liên quan. 4. Những đóng góp mới của luận án Luận án đã góp phần làm rõ và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn của chuỗi cung/chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi. Luận án xác định CCSPTN là hệ thống các tổ chức, con người, công nghệ, hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm tôm nuôi từ chủ thể nuôi tôm đến người tiêu dùng. Các hoạt động của chuỗi cung là quá trình tạo giá trị nhằm chuyển nguồn tài nguyên nước, đất đai, con giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản các sản phẩm qua xử lý, chế biến hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng. Luận án nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chuỗi cung/chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi trong mối quan hệ mật thiết với hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm tôm nuôi. Trước hết, thực trạng CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam được phân tích thông qua khung nghiên cứu với mô hình phân tích chuỗi cung theo quan điểm tích hợp giữa phân tích chuỗi cung truyền thống với quan điểm giá trị gia tăng của Micheal Porter trong khái niệm chuỗi giá trị. Mô hình này xác định các tác nhân tham gia trong từng mắt xích thông qua quá trình vận động của dòng sản phẩm vật chất tạo nên cấu trúc của CCSPTN, quá trình tạo giá trị, dòng tài chính, dòng thông tin và mối quan hệ hợp tác giữa các tác nhân trong CCSPTN. Trong đó, quá trình tạo giá trị là quá trình quan trọng nhất và cũng là mục tiêu chính của quản lý chuỗi cung. Phân tích chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi cũng bao gồm cả việc đánh giá các nhóm nhân tố như: điều kiện tự nhiên, thị trường, chủ thể nuôi tôm, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước, quản lý chuỗi cung, cơ sở hạ tầng vùng nuôi và dịch vụ hỗ trợ tác động đến quá trình hoạt động của chuỗi. Từ đó luận án xác định hệ thống chỉ tiêu đánh giá và các phương pháp nghiên cứu CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam. Với kết quả phân tích quá trình hoạt động tạo giá trị, luận án đã đánh giá kết quả và hiệu quả kinh tế của từng tác nhân và toàn bộ chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi này. Luận án chỉ ra những hạn chế và bất cập về dòng thông tin, về quan 4
  17. hệ liên kết hợp tác, quá trình tạo giá trị và sự bất hợp lý trong quá trình phân phối giá trị gia tăng giữa các tác nhân với nhau, làm sáng tỏ những nguyên nhân dẫn đến sự thua thiệt của hộ nuôi tôm trong quá trình phân phối lợi ích đó. Phân tích các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất, hiệu quả kinh tế đầu tư của hộ nuôi tôm - tác nhân trung tâm của chuỗi; đồng thời, xác định lợi thế cạnh tranh của sản phẩm tôm nuôi, khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của ngành hàng này trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Luận án đã đi sâu đánh giá mức độ tác động theo hướng tích cực lẫn tiêu cực của từng nhân tố đến quá trình hoạt động của CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam, đó là nhóm nhân tố: i) Điều kiện tự nhiên; ii) Thị trường; iii) Hộ nuôi tôm; iv) Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước ở tỉnh Quảng Nam; v) Quản lý CCSPTN; vi) Cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm và dịch vụ hỗ trợ. Trên cơ sở phân tích thực trạng CCSPTN ở Quảng Nam, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi. Trọng tâm là nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế đầu tư của hộ, tăng cường mối quan hệ hợp tác, trao đổi thông tin để nâng cao giá trị gia tăng cho từng tác nhân trong chuỗi. Bên cạnh đó khẳng định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành hàng tôm nuôi về công tác quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm, mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như các chính sách quản lý và hỗ trợ phát triển ngành hàng này trong thời gian tới. Đây là cơ sở khoa học, giúp cho các cấp chính quyền địa phương định hướng phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi một cách có căn cứ. 5
  18. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Các công trình nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm tôm nuôi Trong thời gian gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu về chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm tôm nuôi. Các đề tài nghiên cứu đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, trong đó phải kể đến: Aramyan (2007) nghiên cứu về “Đo lường hiệu suất chuỗi cung trong lĩnh vực nông nghiệp- thực phẩm”. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là đóng góp vào sự phát triển của hệ thống phương pháp đo lường hiệu xuất cho chuỗi cung nông nghiệp- thực phẩm liên quan đến toàn bộ chuỗi (tức là tất cả các giai đoạn bắt đầu từ người cung cấp nguyên liệu đến các nhà bán lẻ) và bao gồm một tập hợp tất cả các chỉ số hiệu suất. Dựa trên tài liệu về chỉ số hiệu suất hiện có và các mô hình trong các tài liệu chuỗi cung, một khung khái niệm để đo lường hiệu suất của chuỗi cung nông nghiệp - thực phẩm được phát triển bao gồm các chỉ số tài chính, phi tài chính, cũng như kết hợp với đặc điểm cụ thể của chuỗi cung nông nghiệp - thực phẩm. Khuôn khổ khái niệm này được sử dụng đánh giá trong một chuỗi cung cà chua Hà Lan - Đức và tiếp tục phát triển thành một mô hình khái quát với những chỉ số hoạt động quan trọng. Kết quả cho thấy: hiệu quả, linh hoạt, đáp ứng nhanh và chất lượng thực phẩm là bốn thành phần hoạt động quan trọng và là cơ sở cho một hệ thống phương pháp đo lường hiệu xuất của chuỗi cung nông nghiệp- thực phẩm. Nghiên cứu chưa làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa chuỗi cung với hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của chuỗi [89]. Normansyah (2012), Luận án tiến sĩ với đề tài “Quản lý chuỗi cung bền vững, trường hợp nghiên cứu ngành hàng ca cao ở Inđônêsia ”. Về mặt lý luận, luận án đã đi sâu nghiên cứu phát triển nông nghiệp bền vững và chỉ ra mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp bền vững với quản lý chuỗi cung nông nghiệp bền vững. Chuỗi cung là công cụ đáp ứng các yêu cầu bền vững về kinh tế, môi trường và xã hội thông qua các hoạt động quản lý VSATTP, xử lý ô nhiễm môi trường trong từng giai đoạn của từng tác nhân tham gia chuỗi cung nông nghiệp. Luận án đã xem xét vai trò của 6
  19. quản lý chuỗi cung bền vững trong ngành hàng ca cao của Inđônêsia. Ở Inđônêsia, chuỗi cung này đã phải đối mặt với nhiều trở ngại đối với việc triển khai các hoạt động bền vững, chẳng hạn như thu nhập thấp của nông dân, việc sử dụng lao động trẻ em, và việc sử dụng các phương tiện vận tải thông thường cho các mục đích thương mại. Các kết quả của nghiên cứu cho thấy, việc thực hiện hoạt động bền vững trong từng giai đoạn khác nhau của chuỗi cung, tác động đến hiệu suất của toàn bộ chuỗi cung. Mặc dù, nghiên cứu chỉ tập trung vào chuỗi cung ca cao ở Inđônêsia., nhưng quan điểm về quản lý chuỗi cung nông nghiệp bền vững của nghiên cứu này sẽ được kế thừa, vận dụng trong phân tích chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi của đề tài luận án nhằm đáp ứng mục tiêu hoàn thiện chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam [98]. Thanh Loan, Hải Phương, Hùng (2006) nghiên cứu đề tài: “Chuỗi cung hạt điều Việt Nam - Trường hợp nghiên cứu ở tỉnh Đắk Nông và Bình Phước ở Việt Nam”. Nghiên cứu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi giá hạt điều tại vườn ở tỉnh Bình Phước và tỉnh Đắk Nông trong năm 2006. Các mô hình hồi quy cho thấy sự gia tăng chất lượng hoặc đạt được thông tin về giá sẽ giúp nâng cao giá tại vườn. Cơ sở hạ tầng tạo ra một tác động tích cực về giá tại vườn. Các phân tích giá trị gia tăng trong chuỗi cung sản phẩm hạt điều đã chứng minh rằng những người nông dân có thu nhập hàng tháng và có lợi nhuận tương đối thấp so với các đối tác khác trong chuỗi cung hạt điều. Tuy nhiên, bằng cách thực hiện sau thu hoạch hoạt động chế biến tại nhà của mình, nông dân có thể thu được lợi nhuận tăng thêm là 10% giá bán nhân hạt điều, thêm vào 5% chi phí lao động [88]. Nghiên cứu chưa làm rõ khung phân tích chuỗi, chỉ tập trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả và quá trình phân phối lợi ích giữa các tác nhân. Trong nuôi tôm đã có các công trình nghiên cứu về chuỗi cung hay chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi như: Rodrigo R. Frei và đồng sự (2009) nghiên cứu ‘‘Phân tích chuỗi sản xuất nuôi tôm biển ở miền Nam Brazil”. Đây là nghiên cứu được chuẩn bị kỹ lưỡng với mục đích là xác định và mô tả các liên kết chính của chuỗi sản xuất tôm biển ở vùng Laguna thuộc bang Santa Catarina, Brazil. Nghiên cứu này đã tiến hành 90 cuộc 7
  20. phỏng vấn, lập sơ đồ hoạt động theo chức năng của chuỗi sản xuất từ các yếu tố đầu vào cần thiết cho sản xuất đến thời điểm mua tôm của người tiêu dùng cuối cùng. Kết quả chỉ ra rằng toàn bộ chuỗi sản xuất đòi hỏi phải tác động từ việc cải thiện điều kiện vệ sinh và di truyền của ấu trùng đến thương mại hóa sản phẩm. Giảm quan liêu trong các cơ quan công cộng tạo điều kiện để người nuôi tiếp cận tín dụng nhằm đầu tư tốt hơn, cải tiến trong hoạt động sản xuất, đào tạo lao động có trình độ kỹ thuật cao, giảm chi phí sản xuất thông qua tiêu chuẩn hóa các quy định trong sản xuất và thương mại trong nước bằng các chính sách của chính phủ [101]. Võ Thị Thanh Lộc (2006), Luận án tiến sĩ với đề tài: “Quản lý chất lượng chuỗi cung thực phẩm hải sản: cải tiến chất lượng chuỗi cung tôm – triển vọng của các công ty thủy sản ở đông bằng Sông Cửu Long, Viêt Nam”. Nghiên cứu đã phát triển khung quản lý chất lượng chuỗi cung, thông qua phương pháp tiếp cận kỹ thuật quản lý. Khung nghiên cứu này bao gồm các biện pháp về chất lượng tôm và bảo đảm an toàn (i) Trong sản xuất, chẳng hạn như quản lý và quan hệ đối tác về chất lượng giữa các nhà cung cấp, (ii) Ở cấp công ty như quản lý chất lượng, đặc biệt là thực hiện HACCP, và (iii) Ở khâu phân phối sản phẩm với việc tập trung về lưu trữ và vận chuyển. Ngoài ra, khung này thể hiện vai trò của các chính phủ, các cơ quan nông nghiệp địa phương, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), Cục Quản lý chất lượng thủy sản và Thú y là rất quan trọng để đạt được chất lượng và mục tiêu an toàn cho thủy sản của Việt Nam trong toàn bộ chuỗi giá trị, đặc biệt là trong sản xuất. Các sản phẩm của nghiên cứu cũng cung cấp một quá trình nâng cao chất lượng cho các công ty thủy sản và các biện pháp tiềm năng để tiếp tục cải thiện an toàn sản phẩm và chất lượng trong chuỗi. Nghiên cứu cho rằng: Trong chuỗi cung, mỗi công ty tiến hành một số hoạt động cụ thể chuyển đổi nguyên liệu thô thành các sản phẩm tiêu dùng cuối cùng. Khái niệm này đã được thực hiện rõ ràng hơn bởi khái niệm của Porter về “chuỗi giá trị ” và “hệ thống giá trị". Mỗi công ty là một phần của một hệ thống giá trị, và hợp tác toàn bộ hoạt động của hệ thống giá trị có thể được cải thiện. Đối với những công ty hoạt động trong kinh doanh nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, điều quan trọng là thiết lập quan hệ đối tác giá trị gia tăng [87]. Đề tài chưa đi sâu phân tích mô hình phân 8
  21. tích chuỗi cung sản phẩm tôm, cũng như hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành hàng tôm. Trương Chí Hiếu (2012), Luận án tiến sĩ với đề tài: “Chuỗi cung tôm, quản lý tài sản sở hữu chung và ô nhiễm môi trường tại phá Tam Giang Cầu Hai, Việt Nam”. Mục đích của nghiên cứu này là xác định các yếu tố làm kiềm hãm chuỗi cung tôm của phá Tam Giang Cầu Hai và đưa ra giải pháp nhằm cải tiến việc thực hiện chuỗi cung này. Ngành nuôi tôm của phá TG-CH được nghiên cứu cụ thể trong khuôn khổ chuỗi cung. Nó chỉ ra rằng chuỗi cung tôm của phá TG-CH là không ổn định vì thiệt hại sản xuất liên quan đến các điều kiện gây bệnh và ô nhiễm nguồn nước của phá TG-CH. Các nguồn gây ô nhiễm chủ yếu gồm: (i) Sản xuất nuôi trồng thủy sản và các hoạt động sinh kế khác tại phá TG-CH; (ii) Các hoạt động sản xuất nông nghiệp ở các vùng thượng nguồn; (iii) Nguồn nước thải ra pháTG-CH từ khu sản xuất công nghiệp và khu dân cư xung quanh. Trong phạm vi của luận án này, chỉ tập trung nghiên cứu về nguồn gây ô nhiễm nội sinh từ phá TG-CH, đây là vấn đề phức tạp và quan trọng nhất gây ra ô nhiễm. Luận án đề xuất các công cụ giải pháp để làm giảm ô nhiễm bao gồm: hạn ngạch bán sản phẩm tôm, hạn ngạch mua sản phẩm tôm, thuế bán tôm, thuế mua tôm, hạn ngạch ô nhiễm thương mại, và thuế ô nhiễm được đánh giá dựa vào các tiêu chí chuẩn mực do tài liệu kinh tế môi trường đưa ra; các công cụ này phải chịu gánh nặng về hành chính. Tuy nhiên, có thể giảm một cách đáng kể bằng một hệ thống đồng quản lý. Nghiên cứu chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính, nên chưa lượng hóa mức độ tác động của ô nhiễm môi trường đến quá trình thực hiện chuỗi cung tôm ở phá TG-CH. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của luận án có thể vận dụng cho các địa phương có điều kiện tương đồng về đánh giá ô nhiễm môi trường theo quan điểm chuỗi cung sản phẩm [76]. Công trình nghiên cứu liên quan đến nuôi tôm trên địa bàn nghiên cứu của luận án, đề tài:“Phát triển nuôi tôm bền vững ở các tỉnh Duyên hải miền Trung” của tác giả Lê Bảo (2010), Luận án tiến sĩ, nghiên cứu này đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển bền vững, xây dựng khái niệm phát triển nuôi tôm bền vững và những yêu cầu trong nội dung phát triển nuôi tôm bền vững. Nghiên cứu này xác định các nhân tố ảnh hưởng và xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá 9
  22. phát triển bền vững ở các tỉnh Duyên hải miền Trung. Luận án đã xác định kênh phân phối sản phẩm tôm nuôi vùng Duyên hải miền Trung, chỉ ra những mặt còn tồn tại ở cả hai kênh phân phối nội địa và xuất khẩu. Kênh xuất khẩu các tỉnh Duyên hải miền Trung cho thấy sự lấn át của các nhà nhập khẩu quy mô lớn, các nhà chế biến và các tập đoàn bán lẻ ở thị trường nước ngoài yêu cầu các nhà cung cấp sản phẩm tôm nuôi tuân thủ các quy định của các nước nhập khẩu về truy xuất nguồn gốc sản phẩm, thực hiện chứng nhận về nuôi tôm bền vững. Kênh nội địa chưa thiết lập các mối liên kết, sản xuất còn manh mún, chất lượng sản phẩm chưa ổn định. Luận án chỉ ra những mối liên kết thông qua các kênh phân phối, chưa chỉ ra các mối liên kết từ các kênh cung ứng các yếu tố đầu vào như thức ăn, con giống Nói cách khác, tác giả chưa đề cập đến phân tích chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi của các tỉnh Duyên hải miền Trung. Một hình thức tổ chức, một công cụ phân tích hữu ích có tính hệ thống trong chuỗi ngành hàng tôm nuôi đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế nói chung, Duyên hải miền Trung nói riêng [4]. 2. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm tôm nuôi, đề cập ở phần trên đã góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận của chuỗi cung sản phẩm trong nông nghiệp, trong phân tích chuỗi cung các tác giả đã đề cập đến 2 thuật ngữ chuỗi cung và chuỗi giá trị và đều cho rằng, hai thuật ngữ này không mâu thuẫn nhau, chúng bổ sung cho nhau. Về phương diện thực tiễn, các công trình nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp gắn liền các lĩnh vực quản lý vi mô và cả vĩ mô, như: đo lượng hiệu suất, quản lý chuỗi cung bền vững, chuỗi giá trị, chuỗi giá trị toàn cầu hay phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm trong chuỗi cung, các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoạt động chuỗi cung. Các nghiên cứu cho rằng, các cơ quan của chính phủ đóng vai trò quan trọng đối với quá trình hoạt động của chuỗi cung, như định hướng thị trường, quản lý chất lượng (tôm ở ĐBSCL), quản lý ô nhiễm môi trường (chuỗi cung tôm ở phá TG-CH). Chuỗi cung là công cụ, biện pháp hữu hiệu để tổ chức quản lý ngành hàng sản phẩm trong nông nghiệp, sản phẩm tôm nuôi trong các lĩnh vực hoạt động liên quan như: công tác VSATTP, truy suất nguồn gốc, phát triển bền vững trong nông nghiệp, ô nhiễm môi trường, quản lý chất lượng, phân phối 10
  23. thu nhập giữa các tác nhân. Các tác giả đã chỉ ra những bất cập trong quản lý chuỗi cung ảnh hưởng đến các khía cạnh đã nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện, phát triển bền vững ngành hàng sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm tôm nuôi hay CCSPTN. Đây là cơ sở thực tiễn mà đề tài luận án nghiên cứu vận dụng vào việc đánh giá thực trạng CCSPTN của Việt Nam và rút ra bài học kinh nghiệm thực tiễn trong quản lý CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam. Để nghiên cứu các tác giả sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp PRA, SWOT, phân tích chính sách, phương pháp điều tra thông kê, phương pháp tương quan hồi quy, phương nghiên cứu tài liệu phục vụ cho mục tiêu, nội dung nghiên cứu của mỗi công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên, chỉ nghiên cứu các lĩnh vực quản lý của ngành nông nghiệp trong mối quan hệ với chuỗi cung. Vì vậy, hầu hết không đi sâu phân tích mô hình chuỗi cung, mà chỉ xem chuỗi cung là một mô hình tổ chức kết nối hoạt động giữa các tác nhân với nhau trong chuỗi ngành hàng của một sản phẩm cụ thể, hoặc đi sâu nghiên cứu một mặt nào đó của chuỗi cung. Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu CCSPTN nào có tính hệ thống, về khía cạnh lý luận đi sâu phân tích mô hình CCSPTN theo quan điểm tích hợp giữa phân tích chuỗi cung truyền thống với quan điểm giá trị gia tăng của Micheal Porter trong khái niệm chuỗi giá trị. Trên cơ sở đó, nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi trong mối quan hệ mật thiết với hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành hàng tôm nuôi với mục tiêu là đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi để nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 11
  24. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI 1.1. Cơ sở lý luận về chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi 1.1.1. Chuỗi cung và quản lý chuỗi cung 1.1.1.1. Khái niệm Thuật ngữ chuỗi được sử dụng khá phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển từ những năm 50 của thế kỷ XX. Khởi đầu của việc sử dụng khái niệm chuỗi và phương pháp phân tích chuỗi để phân tích hệ thống nông nghiệp của các nước đang phát triển. Khái niệm chuỗi chỉ đơn giản bao hàm các mối quan hệ vật chất và kỹ thuật, được sử dụng lập sơ đồ dòng chuyển động của hàng hóa, xác định những tác nhân tham gia và hoạt động của họ [41]. Tùy theo giác độ nghiên cứu mà người ta sử dụng những tên gọi khác nhau cho các chuỗi hoạt động và tổ chức. Khi nhấn mạnh đến hoạt động sản xuất, người ta xem như các quy trình sản xuất; khi nhấn mạnh đến khía cạnh marketing, họ gọi chúng là kênh phân phối; khi nhìn ở góc độ tạo ra giá trị, người ta gọi chúng là chuỗi giá trị; khi nhìn nhận về cách thức thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, người ta gọi là chuỗi nhu cầu. Theo quan điểm logistics của ngành hàng, chúng ta gọi là chuỗi cung [28] [82]. Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về chuỗi cung: “Chuỗi cung là sự liên kết giữa các công ty chịu trách nhiệm mang sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường” [82]. “Chuỗi cung bao gồm tất cả các giai đoạn liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thỏa mãn yêu cầu của khách hàng. Chuỗi cung không chỉ bao gồm nhà sản xuất và người phân phối mà còn cả người vận chuyển, nhà xưởng, người bán lẻ và bản thân khách hàng ” [62]. “Chuỗi cung là mạng lưới các nhà xưởng và những lựa chọn phân phối nhằm thực hiện chức năng thu mua nguyên vật liệu, chuyển vật liệu này thành bán thành phẩm và thành phẩm, phân phối những thành phẩm này đến các khách hàng” [72]. 12
  25. Theo Christoper (2005), “Chuỗi cung là một mạng lưới của các tổ chức có liên quan, thông qua các mối liên kết dòng thượng nguồn và hạ nguồn, trong các quá trình và hoạt động khác nhau nhằm tạo ra giá trị trong từng sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng” [91]. “Chuỗi cung là một hệ thống bao gồm các tổ chức, con người, công nghệ, hoạt động, luồng thông tin trao đổi giữa các tổ chức về biến động thị trường, năng lực sản suất và các nguồn lực khác” [41]. Như vậy, có thể thấy rằng chuỗi cung thực chất là sự liên kết chuỗi các hoạt động của những quá trình cung cấp hàng hóa từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng. Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể nhận thấy nội hàm của khái niệm về chuỗi cung gồm 4 nội dung: - Thành phần của chuỗi cung bao gồm hệ thống các tổ chức, con người tham gia trực tiếp hay gián tiếp trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, là các mắt xích đóng vai trò làm cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Các tổ chức ở đây chính là các nhà cung cấp, các doanh nghiệp sản xuất, các nhà phân phối, bán lẻ và khách hàng; - Mối quan hệ đồng thời của các dòng chảy bên trong chuỗi cung gồm dòng thông tin, dòng sản phẩm hay dịch vụ, dòng tài chính và dòng chuyển quyền sở hữu giữa các tác nhân; - Doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến việc đưa ra thị trường sản phẩm hay dịch vụ gì, giá bao nhiêu mà còn quan tâm đến việc sản phẩm hay dịch vụ được đưa ra thị trường bằng cách nào; - Quá trình hoạt động của từng tác nhân là nhằm tạo ra giá trị trong từng sản phẩm và dịch vụ cho khách hàng. Như vậy, chúng ta có thể hiểu chuỗi cung là “Hệ thống các tổ chức, con người, công nghệ, hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Các hoạt động của chuỗi cung là quá trình tạo giá trị nhằm chuyển nguồn tài nguyên tự nhiên, nguyên liệu thô và các thành phần thành những sản phẩm hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng”. 13
  26. Để chuỗi cung sản phẩm của doanh nghiệp hay một ngành hàng hoạt động có hiệu quả thì đòi hỏi phải có quản lý chuỗi cung, nó là một phần nội dung không thể thiếu trong quá trình tổ chức thực hiện của bất kỳ chuỗi cung nào. “Quản lý chuỗi cung là quy hoạch tổng hợp, thực hiện, phối hợp và kiểm soát của tất cả các quy trình kinh doanh và các hoạt động cần thiết để sản xuất và cung cấp, một cách hiệu quả nhất có thể, các sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường” [66]. Theo Lee (1995) và đồng sự “Quản lý chuỗi cung như là việc tích hợp các hoạt động xảy ra ở các cơ sở của mạng lưới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, chuyển dịch chúng vào sản phẩm trung gian và sau đó đến sản phẩm hoàn thành cuối cùng, và phân phối sản phẩm đến khách hàng thông qua hệ thống phân phối” [84]. Theo Christopher (2005), “Quản lý chuỗi cung là quản lý các mối quan hệ nhiều chiều giữa các nhà cung cấp và khách hàng nhằm phân phối đến khách hàng giá trị cao hơn với chi phí thấp hơn trong toàn bộ chuỗi cung” [91]. Mục tiêu của quản lý chuỗi cung là tối ưu hóa giá trị sản phẩm cho khách hàng hay nói cách khác là tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn hệ thống [28]. Như vậy, quản lý chuỗi cung có thể hiểu một cách chung nhất là “Tập hợp các phương thức sử dụng để phối hợp hoạt động của hệ thống các tổ chức, con người, công nghệ, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Các hoạt động của chuỗi cung chuyển nguồn tài nguyên tự nhiên, nguyên liệu thô và các thành phần thành những sản phẩm hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng với mục đích tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn chuỗi”. Tóm lại, định nghĩa quản lý chuỗi cung ở trên đề cập đến việc cân nhắc tất cả các thành tố của chuỗi cung; những tác động của nó đến chi phí và vai trò trong việc sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng; nó đưa ra cách tiếp cận hệ thống để nắm bắt và quản lý các hoạt động từ nhà cung cấp đến các cơ sở sản xuất tới các trung gian phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng một cách tối ưu nhất. Vì vậy, trong phân tích chuỗi cung phải xét đến người cung cấp của người cung cấp, khách hàng của khách hàng là hết sức cần thiết bởi vì họ tác động đến kết quả và hiệu quả kinh tế của chuỗi cung [28]. 14
  27. 1.1.1.2. Cấu trúc chuỗi cung và các tác nhân tham gia chuỗi cung Trong hình thức đơn giản nhất, một chuỗi cung bao gồm một công ty, các nhà cung cấp và khách hàng của công ty đó. Đây là nhóm đối tượng cơ bản của một chuỗi cung đơn giản [96, 23]. Nhà cung cấp Công ty Khách hàng Sơ đồ 1.1. Chuỗi cung đơn giản Nguồn: Micheal Hugos, 2003 Với chuỗi cung mở rộng, ngoài 3 thành viên trên còn có thêm 3 nhóm thành viên khác đó là nhà cung cấp của các nhà cung cấp, khách hàng của các khách hàng, và toàn bộ các công ty cung cấp dịch vụ cho các công ty trong chuỗi cung. Các công ty cung cấp dịch vụ này sẽ cung cấp dịch vụ hậu cần, tài chính, tìm hiểu thị trường, thiết kế sản phẩm và công nghệ thông tin cho các công ty khác nhau trong chuỗi. Các chuỗi cung theo Sơ đồ 1.2, đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các doanh nghiệp thực hiện nhiều chức năng khác nhau trong chuỗi cung. Các doanh nghiệp này chính là nhà sản xuất, nhà phân phối hay nhà bán buôn, bán lẻ hàng hóa và các công ty hoặc cá nhân đóng vai trò là khách hàng - những người tiêu dùng thực sự. Các doanh nghiệp này được hỗ trợ bởi các nhà cung cấp các dịch vụ thiết yếu. Nhà Nhà Khách Khách cung cấp cung cấp Công ty hàng hàng Nhà cung cấp dịch vụ Sơ đồ 1.2. Chuỗi cung mở rộng Nguồn: Micheal Hugos, 2003 Nhà sản xuất là những đơn vị trực tiếp làm ra sản phẩm, nó có thể chuyên sản xuất nguyên vật liệu thô cũng như sản xuất những sản phẩm hoàn chỉnh. Nhà sản xuất nguyên liệu thô là các công ty khai khoáng, khai thác dầu và khí đốt, các nông trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. 15
  28. Nhà phân phối là các doanh nghiệp mua một khối lượng lớn hàng hóa lưu kho từ nhà sản xuất và phân phối sỉ các dòng sản phẩm đến khách hàng. Nhà phân phối giúp nhà sản xuất tránh được những tác động ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường bằng cách lưu trữ hàng hóa và đồng thời tiến hành nhiều công tác bán hàng nhằm mục đích tìm kiếm và phục vụ khách hàng. Cùng với việc mua sản phẩm, thúc đẩy công tác bán hàng và tăng doanh thu, nhà phân phối còn đảm nhận một chức năng khác là quản lý hệ thống hàng hóa lưu kho, điều hành kho hàng, vận chuyển hàng hóa cũng như đảm nhận thêm công tác hỗ trợ khách hàng và cung cấp dịch vụ hậu mãi; môi giới sản phẩm của nhà sản xuất với khách hàng mà họ không bao giờ sở hữu nó. Trong cả hai trường hợp này, nhà phân phối đóng vai trò là một đại lý liên tục nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của khách hàng rồi đáp ứng họ với những sản phẩm sẵn có [71]. Nhà bán lẻ trữ hàng hóa trong kho và bán với số lượng nhỏ hơn cho khách hàng nói chung. Họ luôn theo dõi những thông tin về sở thích và nhu cầu của khách hàng mà mình phục vụ, trên cơ sở kết hợp giá cả hợp lý, sản phẩm đa dạng, phong phú, phục vụ tận tình chu đáo nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng đến với sản phẩm của mình. Khách hàng hay người tiêu dùng là bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào thực hiện hành vi mua và sử dụng hàng hóa; họ có thể mua một sản phẩm và sau đó bán chúng cho những khách hàng khác hoặc có thể là người sử dụng cuối cùng của một sản phẩm, mua hàng với mục đích chỉ để sử dụng [71]. Nhà cung cấp dịch vụ là những cá nhân hay tổ chức cung cấp dịch vụ cho các tác nhân khác trong chuỗi. Nhà cung cấp dịch vụ chỉ tập trung vào một công việc đặc thù mà các tác nhân trong chuỗi đòi hỏi và chuyên sâu vào những kỹ năng đặc biệt để phục vụ cho công việc đó. Nhờ vậy, họ thực hiện những dịch vụ này hiệu quả hơn nhiều so với nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay cả người tiêu dùng tự đảm nhận với mức giá phải chăng. Đó là nhưng công ty vận tải, dịch vụ lưu kho hàng hóa, dịch vụ tài chính, công nghệ thông tin [96,23-27]. Mỗi sản phẩm có nhiều chuỗi cung, mỗi chuỗi cung đều nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhất và giữa các chuỗi cung có sự cạnh tranh với nhau [56] [91]. Trong thực tế, đa số các doanh nghiệp được cung cấp nguyên, vật liệu từ nhiều nhà cung cấp khác nhau và phân phối sản phẩm thông qua một hay 16
  29. nhiều khách hàng khác nhau tạo nên cấu trúc mạng lưới mỗi chuỗi cung sản phẩm cụ thể khác nhau, chiều dài và độ rộng chuỗi cung phụ thuộc và chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như yêu cầu của khách hàng, xu hướng chung của nền kinh tế, sự sẵn sàng của dịch vụ hậu cần, yếu tố văn hóa, tốc độ đổi mới, sự cạnh tranh, thị trường và sự sắp xếp về tài chính [28]. Chiều dài của chuỗi được tính bằng số lượng các cấp bậc (tier) dọc theo chiều dài chuỗi. Hình ảnh đơn giản nhất của chuỗi cung là khi có một sản phẩm dịch chuyển qua một loạt các tác nhân và mỗi tác nhân tạo thêm một phần giá trị cho sản phẩm. Lấy một tác nhân nào đó trong chuỗi làm trung tâm, nếu xét các hoạt động trước nó - dịch chuyển nguyên vật liệu đến - được gọi là thượng nguồn (Upstream), những tác nhân phía sau được gọi là hạ nguồn (Downtream). Độ rộng được tính bằng số lượng các tác nhân tại mỗi cấp bậc chức năng, hình thành các tuyến đường để nguyên vật liệu, sản phẩm lưu thông xuyên suốt [28] [79] [82] (xem phụ lục 1, Sơ đồ 1). Nhà CC Người TD Nhà CC Nhà BL Người TD Nhà SX Người TD Nhà CC Nhà BL Nhà CC Nhà SX Người TD Nhà CC Nhà CC Nhà BL Sơ đồ 1.3. Mạng lưới chuỗi cung tổng thể Nguồn: FAO, 2007 Như đã đề cập ở trên, chuỗi cung hiếm khi tồn tại mà không là một phần của mạng lưới chuỗi cung tổng thể. Sơ đồ 1.3, mô tả mạng lưới chuỗi cung tổng thể hoàn chỉnh, mỗi doanh nghiệp đặt trong một lớp mạng và thuộc về ít nhất một chuỗi cung. Những gì xảy ra trong giao dịch giữa hai doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào hai đối tác liên quan mà còn trên các kết quả của các mối quan hệ khác trong chuỗi và mạng lưới chuỗi cung tổng thể. Các tổ chức có thể đóng vai trò khác nhau trong các thiết lập chuỗi khác nhau, có thể là hợp tác hoặc là đối thủ cạnh tranh của nhau [66]. 1.1.1.3. Bản chất kinh tế và nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi cung Từ cách thức tiếp cận nghiên cứu chuỗi cung ở trên, ta có thể nhận thức được bản chất kinh tế của chuỗi cung như sau: 17
  30. Trước hết, để đáp ứng yêu cầu của thị trường, bất kỳ chuỗi cung nào mà doanh nghiệp tham gia phải đưa ra quyết định với tư cách cá nhân và tập thể liên quan đến hoạt động của mình trong năm yếu tố dẫn dắt: sản xuất, hàng tồn kho, địa điểm, vận chuyển, thông tin. Mỗi yếu tố phải trả lời những yêu cầu đặt ra từ thị trường. Chẳng hạn, đối với sản xuất, thì sản xuất những sản phẩm gì? Số lượng bao nhiêu? Và vào thời điểm nào? Đối với tồn kho, nên dự trữ loại hàng hóa nào trong từng giai đoạn của chuỗi cung? Hay với thông tin, nên thu thập những thông tin gì? Nên chia sẻ bao nhiêu thông tin? Thông tin càng nhanh và càng chính xác sẽ giúp cho các thành viên trong chuỗi đưa ra quyết định phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Tổng hợp tất cả các quyết định trên, doanh nghiệp sẽ xác định được năng suất và hiệu quả của chuỗi cung trong doanh nghiệp. Khả năng đáp ứng nhu cầu và cách thức cạnh tranh của doanh nghiệp đều phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của chuỗi cung [23][60] [100]. Thứ hai, về mặt lý thuyết, chuỗi cung hoạt động như một đơn vị cạnh tranh riêng biệt và cố hữu, thực hiện việc mà nhiều doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp tích hợp dọc cố gắng đạt được và đã thất bại trong việc thực hiện mục tiêu này. Điểm khác biệt chính là các doanh nghiệp trong chuỗi cung hoàn toàn tự do trong việc quyết định thâm nhập hoặc rời khỏi mối quan hệ chuỗi nếu mối quan hệ này không còn mang lại lợi ích cho họ. Đó chính là tổ chức thị trường tự do nhằm giúp chuỗi cung vận hành các khối liên kết dọc một cách có hiệu quả hơn. Vì vậy, chuỗi cung vận động và linh hoạt [28]. Thứ ba, các sản phẩm đến tay người tiêu dùng, phần lớn thông qua các khách hàng trung gian trong chuỗi cung, có thể một vài trung gian hoặc có nhiều trung gian và thậm chí chuỗi cung có cấu trúc rất phực tạp. Chúng ta nhận thấy chỉ có một nguồn tạo ra lợi nhuận duy nhất cho toàn chuỗi, đó là khách hàng cuối cùng. Khi các doanh nghiệp riêng lẻ trong chuỗi cung ra các quyết định kinh doanh mà không quan tâm đến các thành viên khác trong chuỗi, điều này dẫn đến giá bán cho khách hàng cuối cùng là rất cao, mức phục vụ chuỗi cung thấp và điều này làm cho nhu cầu khách hàng tiêu dùng cuối cùng thấp. Vì vậy, đòi hỏi phải liên kết giữa các tác nhân để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng [66] [85]. 18
  31. Thư tư, chuỗi cung là năng động và liên quan đến dòng thông tin, sản phẩm vật chất và tài chính nhất định giữa các giai đoạn khác nhau. Ba dòng chảy trên sẽ luân chuyển trong toàn chuỗi cung. Khách hàng là thành tố tiên quyết của chuỗi cung, vì mục đích then chốt cho sự tồn tại của bất kỳ chuỗi cung nào là để thỏa mãn nhu cầu khách hàng trong tiến trình tạo ra lợi nhuận cho chính nó [28] [66]. Sự phối hợp chặt chẽ giữa dòng sản phẩm, dòng thông tin và dòng tài chính là vô cùng quan trọng trong chuỗi cung. Đặc biệt là vai trò cầu nối của dòng thông tin, bởi nó ảnh hưởng lớn tới việc đáp ứng các nhu cầu khách hàng đúng lúc. Tại một cửa hàng bán lẻ, khách hàng sẽ được cung cấp các sản phẩm, giá cả và đầy đủ về thông tin (sản phẩm, nhà sản xuất, khuyến mãi ) và ngược lại khách hàng sẽ thanh toán tiền sản phẩm mà họ mua. Nhà bán lẻ sẽ gửi thông tin liên quan đến việc bán hàng tới các nhà phân phối sau khi nhận được hàng. Nhà phân phối cũng sẽ trao đổi cho nhà bán lẻ những thông tin về sản phẩm, giá cả Vòng tuần hoàn bắt đầu với việc nhận những đơn đặt hàng của khách hàng và kết thúc khi khách hàng thanh toán đơn hàng của họ. Cứ như vậy, dòng sản phẩm, tài chính và thông tin được luân chuyển trong chuỗi cung (phụ lục 1, Sơ đồ 2) [85] [106]. Thứ năm, bất kỳ chuỗi cung nào cũng cần cân nhắc đến tính đáp ứng nhanh và hiệu quả. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay nếu chỉ tập trung vào tính hiệu quả mà bỏ qua tính đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng thì các công ty, các chuỗi cung không thể thành công. Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, các công ty ngày càng chú trọng chuyên môn hóa vào các sản phẩm mà nó thực hiện tốt nhất để cạnh tranh được với các đối thủ khác. Chính điều này đã thúc đẩy các công ty khác nhau liên kết lại với nhau cùng thực hiện các hoạt động trong chuỗi cung như sự liên kết của các công ty chịu trách nhiệm sản xuất với các công ty vận chuyển, bán buôn, bán lẻ. Theo đó, mỗi công ty có thể theo kịp tốc độ thay đổi và học được những kỹ năng mới cần thiết để cạnh tranh [58]. Thứ sáu, tác động Roi da (Bullwhip), một trong những tác động phổ biến nhất trong chuỗi cung là hiện tượng có tên gọi “Roi da”. Đó là hiện tượng khi có thay đổi nhỏ về nhu cầu sản phẩm từ khách hàng, điều này sẽ chuyển thành những thay đổi lớn hơn về nhu cầu ở các công ty cuối chuỗi cung. Dao động hay tác động bắt đầu khi nhu cầu thị trường lớn mạnh tạo ra sự thiếu hụt sản phẩm. Các nhà sản xuất và phân phối 19
  32. gia tăng sản xuất và mức tồn kho để đáp ứng nhu cầu cung cấp sản phẩm lớn hơn mức nhu cầu đáp ứng. Nhà sản xuất và phân phối không nhận ra việc cung cấp đang lớn hơn nhu cầu nên tiếp tục thiết lập việc cung cấp sản phẩm. Và kết quả lượng sản phẩm dư thừa quá lớn khi công ty nhận ra điều này. Nhà phân phối gặp khó khăn trong hàng tồn kho và làm giảm giá trị sản phẩm trên thị trường [85] (phụ lục 1, Đồ thị 1). Để giải quyết tác động “Roi da” thì trước hết phải loại bỏ tất cả thời gian chậm trễ trong việc cung cấp hàng hóa và các luồng thông tin từ các chuỗi cung, điều này có thể đạt được bằng cách lập kế hoạch tốt hơn và sử dụng tốt hơn công nghệ thông tin, cải thiện dịch vụ hậu cần. Để đạt được mục tiêu trên, cách tốt nhất là chia sẻ dữ liệu giữa các công ty trong chuỗi cung. Nhu cầu đó có thể là những con số về mức tiêu thụ, dự đoán mức tiêu thụ, về những quyết định trong tất cả các công ty, các thành viên của chuỗi cung. Bởi sự thành công của từng thành viên, của một phần chuỗi cung sẽ góp phần tạo nên thành công của cả chuỗi cung. Đó như một phản ứng dây chuyền [66] [99]. Tóm lại, trên đây là những nội dung cốt lõi thuộc về bản chất kinh tế, cũng là nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi cung; nó là nền tảng, cơ sở để nghiên cứu chuỗi cung của bất kỳ sản phẩm nào. Tuy nhiên, mỗi chuỗi cung sản phẩm cụ thể do đặc điểm của quá trình tổ chức sản xuất chi phối tạo nên những có cấu trúc và những quá trình hoạt động của chuỗi cung sản phẩm cụ thể khác nhau. 1.1.1.4. Chuỗi cung và chuỗi giá trị Thuật ngữ chuỗi giá trị (value chain) được sử dụng ban đầu chỉ nhằm vào các hoạt động của một doanh nghiệp, vì vậy chuỗi giá trị được hiểu là một loạt các hoạt động trong doanh nghiệp để SX ra một sản phẩm nhất định và phân phối cho khách hàng. Các hoạt động này bao gồm từ thiết kế sản phẩm, mua vật tư đầu vào, SX, tiếp thị và phân phối. Những hoạt động này tạo thành một chuỗi kết nối người sản xuất với người tiêu dùng và mỗi hoạt động tạo ra, bổ sung giá trị cho sản phẩm cuối cùng [41]. Theo Porter, khái niệm chuỗi giá trị được sử dụng nhằm giúp các doanh nghiệp có thể tìm ra các lợi thế cạnh tranh (thực tế và tìềm năng) của mình. Ông cho rằng, một công ty có thể cung cấp cho khách hàng một sản phẩm hay một dịch vụ có giá trị tương đương với đối thủ cạnh tranh của mình với chi phí thấp hơn hoặc chi phí cao hơn nhưng có những đặc tính mà khách hàng mong muốn. Porter đã lập luận rằng, nếu nhìn 20
  33. vào một doanh nghiệp như là một tổng thể những hoạt động, những quá trình thì khó, thậm chí không thể tìm ra được một cách chính xác lợi thế cạnh tranh của họ là gì. Nhưng điều này có thể thực hiện được dễ dàng khi phân tích thành những hoạt động bên trong. Porter phân biệt rõ giữa các hoạt động cơ bản hay những hoạt động chính, trực tiếp góp phần tăng thêm giá trị cho sản xuất hàng hóa (hoặc dịch vụ) và các hoạt động hỗ trợ ảnh hưởng gián tiếp đến giá trị cuối cùng của sản phẩm [19] [25]. Sơ đồ 1.4. dưới đây minh họa lý thuyết của Micheal Porter về chuỗi giá trị trong một tổ chức. Marketing Dịch vụ Hậu cần Sản Hậu cần và bán Khách đầu vào xuất đầu ra hàng hàng Sơ đồ 1.4. Mô hình chuỗi giá trị chung Nguồn: Michael E. Porter , 2008, [dẫn theo 28] Hậu cần đầu vào (inbound logistics) là những hoạt động liên quan đến việc nhận, lưu trữ và dịch chuyển đầu vào vào sản phẩm, chẳng hạn như quản lý nguyên vật liệu, kho bãi, kiểm soát tồn kho, lên lịch trình xe cộ và trả lại sản phẩm cho nhà cung cấp. Sản xuất là các họat động tương ứng với việc chuyển đổi đầu vào thành sản phẩm hoàn thành, chẳng hạn như gia công cơ khí, đóng gói, lắp ráp, bảo trì thiết bị, kiểm tra, in ấn và quản lý cơ sở vật chất. Hậu cần đầu ra (outbound logistics) là những hoạt động kết hợp với việc thu thập, lưu trữ và phân phối hàng hóa vật chất sản phẩm đến người mua, chẳng hạn như quản lý kho bãi cho sản phẩm hoàn thành, quản lý nguyên vật liệu, quản lý phương tiện vận tải, xử lý đơn hàng và lên lịch trình - kế hoạch. Marketing và bán hàng là những hoạt động liên quan đến việc quảng cáo, khuyến mãi, lựa chọn kênh phân phối, quản trị mối quan hệ giữa các thành viên trong kênh và định giá. Dịch vụ khách hàng bao gồm hoạt động liên quan đến việc cung cấp dịch vụ nhằm gia tăng hoặc duy trì giá 21
  34. trị của sản phẩm, chẳng hạn như cài đặt, sửa chữa và bảo trì, đào tạo, cung cấp thiết bị thay thế và điều chỉnh sản phẩm. Các hoạt động bổ trợ được nhóm thành bốn loại: thu mua, phát triển công nghệ, quản lý nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng của công ty. Thu mua liên quan đến chức năng mua nguyên vật liệu đầu vào được sử dụng trong chuỗi giá trị của công ty. Việc này bao gồm nguyên vật liệu, nhà cung cấp và các thiết bị khác cũng như tài sản, chẳng hạn như máy móc, thiết bị thí nghiệm, các dụng cụ văn phòng và nhà xưởng. Những ví dụ này minh họa rằng các đầu vào được mua có thể liên hệ với các họat động chính cũng như các hoạt động bổ trợ [19] [25] [41]. Lợi nhuận của một doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào việc doanh nghiệp thực hiện các hoạt động hiệu quả như thế nào. Nếu doanh nghiệp biết cách tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm và khách hàng sẵn sàng trả cho giá trị này thì doanh nghiệp đã tạo ra được thặng dư về giá trị. Porter đề xuất một doanh nghiệp có thể có lợi thế cạnh tranh của mình nhờ tập trung vào chiến lược giá thấp hoặc tạo ra sự khác biệt của sản phẩm hay dịch vụ, hay kết hợp cả hai cách thức này [25] [41]. Khái niệm chuỗi giá trị theo Porter, chỉ đề cập đến quy mô ở doanh nghiệp. Kaplinsky và Morri đã mở rộng phạm vi của chuỗi giá trị và chuỗi giá trị được hiểu là tập hợp các hoạt động bao gồm sản phẩm từ khi mới chỉ là ý tưởng, qua các giai đoạn sản xuất khác nhau, phân phối đến người tiêu dùng và cuối cùng vứt bỏ sau khi sử dụng. Khái niệm chuỗi giá trị mở rộng bao gồm bốn hoạt động cơ bản trong một vòng đời sản phẩm là thiết kế và phát triển sản phẩm, sản xuất, marketing và cuối cùng là tiêu thụ và tái sử dụng. Quan niệm về chuỗi giá trị này được áp dụng để phân tích toàn cầu hóa, cụ thể nó được sử dụng để tìm hiểu cách thức mà các công ty và các quốc gia hội nhập toàn cầu và để đánh giá các yếu tố quyết định đến phân phối thu nhập toàn cầu [41]. Feller A và cộng sự (2006) đã phân tích những điểm tương đồng và khác biệt giữa chuỗi cung và chuỗi giá trị và cho rằng: "chuỗi cung và chuỗi giá trị" là quan điểm bổ sung của một doanh nghiệp mở rộng với quy trình kinh doanh tích hợp cho phép dòng chảy của sản phẩm và dịch vụ theo một hướng, giá trị là đại diện của nhu cầu. Feller A. xác nhận rằng chuỗi cung và chuỗi giá trị không phải là các thực thể khác nhau [62] [65]. Hay nói cách khác, thuật ngữ “chuỗi giá trị” và “chuỗi nhu 22
  35. cầu” được sử dụng thay thế cho nhau với “chuỗi cung” cho thấy chuỗi cung là một quá trình tích hợp để tạo ra giá trị cho người tiêu dùng cuối cùng [91] [103]. Theo Thành (2010), chuỗi cung hiện nay cũng bao gồm 5 hoạt động chủ chốt là hậu cần đầu vào; sản xuất, hậu cần đầu ra; marketing; bán hàng và dịch vụ bổ sung. Đi liền với các hoạt động chủ chốt là các hoạt động hỗ trợ như: cơ sở hạ tầng; quản lý nhân lực; quản lý công nghệ và cung ứng. Mục tiêu của quản lý chuỗi cung là đáp ứng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng thông qua việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực, loại bỏ những yếu tố gây đình trệ sản xuất và phân phối để tối ưu hóa hiệu quả của phân phối [41] [44]. Vì vậy, trong nghiên cứu này luận án sử dụng cả hai thuật ngữ của “chuỗi giá trị và chuỗi cung”. Từ các khái niệm trên có thể được tóm tắt, chuỗi giá trị mà sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của chuỗi theo thứ tự và từng hoạt động, sản phẩm đạt một số giá trị. 1.1.2. Chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi 1.1.2.1. Khái niệm chuỗi cung và quản lý chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi Theo King và Venturini (2005) cho rằng “Quan điểm chuỗi cung khuyến khích cách nhìn mang tính hệ thống rộng lớn về chuỗi- tập trung nhiều vào các mối liên kết giữa các phân đoạn có tính chất kỹ thuật như là việc quản lý quá trình trong các phân đoạn” [75]. Vì vậy, một chuỗi cung trong nông nghiệp bao gồm tất cả các khâu từ cung cấp đầu vào, sản xuất, sau thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiếp thị, phân phối, dịch vụ thực phẩm và chức năng tiêu thụ theo hướng từ “Trang trại đến nơi chuyển giao” (“Farm-to-Fork”) liên tục cho một sản phẩm cụ thể (có thể là tiêu thụ tươi, qua chế biến hoặc từ nhà cung cấp dịch vụ thực phẩm), bao gồm cả môi trường thuận lợi bên ngoài. Những chức năng này kết nối các chuỗi cung, yếu tố địa lý và ranh giới chính trị và thường liên quan đến một loạt các tổ chức thuộc khu vực tư nhân và công cộng [59]. Nghiên cứu về chuỗi cung sản phẩm trong nông nghiệp - thực phẩm, Folkerts và Koehorst định nghĩa: Chuỗi cung là một tập hợp các công ty phụ thuộc lẫn nhau làm việc chặt chẽ với nhau để quản lý dòng chảy của hàng hóa và dịch vụ dọc theo chuỗi giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm để nhận giá trị tốt hơn từ khách hàng ở mức chi phí thấp nhất có thể [71]. 23
  36. Theo FAO (2011) chuỗi cung thủy sản: bao gồm tất cả các liên kết từ các điểm sản xuất (điểm khai thác hoặc trang trại trong trường hợp nuôi trồng thủy sản) để đưa sản phẩm đến người dùng cuối hoặc tiêu dùng cuối cùng. Do đó, chuỗi cung có chứa một bộ phận thị trường hoặc các hệ thống tiếp thị. Một hệ thống tiếp thị được định nghĩa là chuỗi liên kết giữa nhà sản xuất/ nhà cung cấp và người tiêu dùng/ người sử dụng, bao gồm tất cả các cơ chế, dòng chảy, giao dịch, dịch vụ và các nhà khai thác, trong đó xác định mối quan hệ lợi nhuận giữa sản xuất, cũng như cung cấp các sản phẩm vật chất. Thông qua một hệ thống tiếp thị hoạt động bao gồm thông tin về giá cả, tình hình thị trường, xu hướng, sở thích của người tiêu dùng vv , cũng như các dòng sản phẩm vật chất, dòng tiền, tín dụng và quyền sở hữu [69]. Từ quan niệm chung về chuỗi cung của luận án và tiếp cận các quan điểm của các nhà khoa học kinh tế về chuỗi cung sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp và NTTS, chúng ta có thể hiểu CCSPTN là: Hệ thống các tổ chức, con người, công nghệ, hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm tôm nuôi từ chủ thể nuôi tôm đến người tiêu dùng. Các hoạt động của chuỗi cung là quá trình tạo giá trị nhằm chuyển nguồn tài nguyên nước, đất đai, con giống, thức ăn, TTYTS và các sản phẩm qua xử lý, chế biến hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, quản lý chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi được hiểu là tập hợp các phương thức sử dụng để phối hợp hoạt động của hệ thống các tổ chức, con người, công nghệ, hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm tôm nuôi từ chủ thể nuôi tôm đến người tiêu dùng. Các hoạt động của chuỗi cung chuyển nguồn tài nguyên nước, đất đai, con giống, thức ăn, TTYTS và các sản phẩm qua xử lý, chế biến hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng với mục đích tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn chuỗi. Qua nghiên cứu tác giả luận án nhận thấy, đến nay vẫn còn nhiều tài liệu chưa phân biệt rõ giữa chuỗi cung và quản lý chuỗi cung. Với định nghĩa trên sẽ tạo cơ sở cho việc nghiên cứu của luận án, tức là nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chuỗi cung/chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi trong mối quan hệ mật thiết với hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành hàng SPTN. 24
  37. 1.1.2.2. Các đặc điểm của chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi Sự hình thành và phát triển của CCSPTN về cơ bản cũng giống như sự hình thành và phát triển của các chuỗi cung sản phẩm của nhiều ngành khác. Nuôi tôm là một trong những ngành NTTS, có những đặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp. Tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học kinh tế đã đưa ra nhiều đặc điểm khác nhau, theo quan điểm quản lý chuỗi cung trong nông nghiệp có thể phân thành 2 nhóm đặc điểm sau: (a) Nhóm đặc điểm của sản phẩm tôm nuôi khi tham gia thị trường - Đặc điểm về tổ chức sản xuất Sự khác biệt lớn nhất của NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng so với chuỗi cung sản phẩm phi nông nghiệp là trong sản xuất bao gồm rất đông người nuôi tôm với trình độ sản xuất, ý thức kinh doanh rất khác nhau. Điều này làm cho chuỗi cung trở nên phức tạp, dài và rất khó tạo ra SPTN đồng nhất về chất lượng và khả năng tự điều chỉnh quy mô nuôi tôm theo nhu cầu thị trường. Đặc điểm số lượng nông dân đông trong nuôi tôm cũng đòi hỏi phải có các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp để thu hút nông dân sản xuất ra SPTN cùng kích cỡ, phẩm cấp và khối lượng theo nhu cầu thị trường. Để tối ưu hóa lợi ích và tính hiệu quả của toàn bộ chuỗi cung, mỗi thành viên của chuỗi phải thiết lập mối quan hệ hợp tác chiến lược lâu dài và chia sẻ lợi ích. Đây là vấn đề khó khăn, là thách thức lớn đối với quản lý CCSPTN [41] [43][107]. - Đặc điểm về tính mùa vụ và bảo quản khó khăn Do tôm nuôi là sinh vật sống trong môi trường nước luôn mang tính thời vụ, dẫn đến CCSPTN thường mang đặc điểm không liên tục và có sự thay đổi rất nhanh khối lượng, chất lượng từ phía cung. Vào vụ thu hoạch số lượng SPTN tăng nhanh, chất lượng cao và ngược lại khi hết vụ thu hoạch thì số lượng SPTN giảm rất nhanh, chất lượng thấp. Đặc điểm này làm cho việc phân phối SPTN trở nên rất khó khăn và giá cả không ổn định. Sự mất cân bằng này đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý hàng tồn kho và dự báo nhu cầu để đáp ứng nhu cầu liên tục của khách hàng. Bên cạnh đó tôm nuôi là động vật thủy sinh, tươi sống, dễ bị hỏng, nhanh giảm phẩm chất sau khi thu hoạch, thời gian lưu trữ ngắn, việc vận chuyển đi xa rất 25
  38. khó khăn và yêu cầu phải được chế biến, bảo quản trước khi vận chuyển. Đặc điểm này làm tăng chi phí và hạn chế sự phát triển mở rộng của chuỗi cung. Vì vậy, tính toàn cầu hóa hạn chế, muốn phát triển được CCSPTN toàn cầu tới nhiều quốc gia và với không gian mở rộng, đòi hỏi các tác nhân tham gia chuỗi cung từ các tác nhân cung cấp yếu tố đầu vào, nuôi tôm, chế biến phân phối sản phẩm phải có công nghệ cao, thích hợp về nuôi trồng, chế biến bảo quản sản phẩm tôm nuôi [41] [43]. - Đặc điểm về tác động của thời tiết, bệnh dịch và an toàn thực phẩm Nuôi tôm chịu tác động mạnh bởi các nhân tố khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng và các nguồn tài nguyên khác như đất đai, nguồn nước. Sự thay đổi những nhân tố này, nhất là tình trạng ô nhiễm môi trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả nuôi tôm và làm cho tính ổn định của chuỗi cung trở nên không bền vững và biến động mạnh theo thời gian. Ngoài ra sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên đã làm cho việc nuôi tôm bị hạn chế bởi những điều kiện tự nhiên không phù hợp và việc nuôi tôm bị “khu vực hóa” mạnh mẽ, tập trung nhiều ở một số vùng có thủy vực nuôi phù hợp, nuôi tôm nước lợ tập trung ở vùng ven biển, trong khi những vùng khác lại thiếu hoặc không có. Bên cạnh đó, khả năng vận chuyển khó khăn, chi phí cao, hạn chế khả năng phát triển các luồng sản phẩm tiêu thụ của chuỗi đến các vùng xa nơi nuôi tôm và tính toàn cầu bị hạn chế hơn nhiều so với hàng hóa phi nông nghiệp [107]. Vấn đề dịch bệnh và yêu cầu về an toàn thực phẩm là cản trở lớn đến sự phát triển CCSPTN trên phạm vị quốc gia và toàn cầu bởi SPTN là thực phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, đời sống người tiêu dùng. Chính phủ các nước thường đặt ra những hàng rào kiểm soát chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với SPTN nhập khẩu và không cho phép nhập khẩu những lô hàng kém phẩm chất, có mầm bệnh hoặc có chứa chất độc hại quá mức cho phép. Những biện pháp này là chính đáng và cần thiết, nhưng ảnh hưởng không thuận lợi đến toàn bộ chuỗi cung. - Đặc điểm về chế biến và lưu giữ sản phẩm Trong CCSPTN, tôm hàng hóa muốn vận chuyển đến những thị trường nằm cách xa nơi vùng nuôi thì sản phẩm không thể vận chuyển bằng những phương tiện thông thường, mà phải thông qua các phương tiện vận chuyển gắn với hình thức xử lý, chế biến thành hàng hóa khô hoặc đông lạnh, đóng hộp bảo quản. Công nghiệp 26
  39. chế biến đã phát triển đa dạng với nhiều thành tựu to lớn về kỹ thuật và các bí quyết công nghệ. Tuy nhiên, để có được công nghệ chế biến cao thì chi phí đầu tư sẽ rất lớn và từ đó giá thành sản phẩm đã qua chế biến sẽ rất cao, làm cho hiệu quả của chuỗi cung có thể giảm, lợi ích của các tác nhân, nhất là người nuôi tôm tham gia chuỗi bị ảnh hưởng tiêu cực và động lực tham gia có thể sẽ mất đi. Khi đó CCSPTN có thể sẽ bị phá sản [43] [107]. (b) Tính khác biệt về sản phẩm tôm nuôi cũng như quá trình nuôi và tiêu thụ sản phẩm tôm nuôi tạo nên những đặc điểm riêng trong quá trình hình thành CCSPTN - Việc tạo ra SPTN và thực hiện tiêu thụ sản phẩm này phải trải qua các quá trình có tính chất hoàn toàn khác nhau, đó là: quá trình nuôi tôm (thuộc lĩnh vực sản xuất nông nghiệp - nuôi trồng thủy sản), quá trình chế biến tôm (Sản xuất công nghiệp) và quá trình tiêu thụ hàng hóa (thương mại), trong đó khâu nuôi tôm đóng vai trò cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho ngành công nghiệp chế biến tôm và xuất khẩu sản phẩm chế biến tôm. Trong khâu nuôi tôm mang tính thời vụ cao, quá trình sản xuất có chu kỳ dài (từ 2- 4 tháng), nếu không có sự kết hợp tốt thì quá trình nuôi, chế biến và tiêu thụ SPTN sẽ bị bất lợi khi xâm nhập thị trường do không chủ động được toàn bộ quá trình tạo ra sản phẩm cuối cùng. Để thực hiện CCSPTN, điều quan trọng là phải kết hợp cả 3 quá trình trên một cách hiệu quả, thông qua các hình thức liên kết, liên doanh [41] [43]. - Đặc điểm của nuôi tôm chi phối nhiều đến quá trình tạo ra và nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm. Trong NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng chịu tác động của hai yếu tố năng suất tự nhiên và năng suất xã hội. Yếu tố năng suất tự nhiên được tạo ra bởi các yếu tố đất đai, nguồn nước, thời tiết, khí hậu Điều này đặt ra vấn đề lựa chọn con giống phù hợp với điều kiện địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn nước ở từng vùng; nếu biết khai thác triệt để các yếu tố lợi thế tự nhiên thì năng suất tự nhiên sẽ có cơ hội phát huy tác dụng tốt, tạo cơ hội nâng cao sản lượng tôm nuôi và kết quả là giá trị gia tăng cũng như lợi nhuận thu được ngày càng cao. Mặt khác, đối tượng tôm nuôi là cơ thể sống ở môi trường nước, chịu tác động của quy luật sinh học, để phát triển tôm phải trải qua quá trình lột xác, đòi hỏi chế độ nuôi dưỡng chuyên biệt mới 27
  40. đảm bảo năng suất sản phẩm. Quy luật sinh học tạo nên “ngưỡng” sinh trưởng và phát triển tối đa cho mỗi loại tôm nuôi khác nhau trong quá trình tiếp nhận các yếu tố tạo nên sự sinh trưởng như nước, không khí, thức ăn Như vậy, quy luật sinh học sẽ tạo nên “ngưỡng” đầu tư hợp lý (không phải là đầu tư cao nhất) đối với từng loại tôm nuôi để đạt năng suất cao nhất. SPTN không đồng nhất, được phân ra nhiều loại và gắn với kích cỡ phẩm chất khác nhau, khó khăn trong việc đóng gói, chế biến. Mỗi loại giá bán khác nhau, nên giá trị gia tăng của mỗi loại cũng khác nhau. Vì vậy, cùng 1 tấn tôm nuôi thu hoạch nhưng giá bán có thể chênh lệch giữa chúng rất cao. Điều này đòi hỏi người nuôi phải tăng cường đầu tư thâm canh, đầu tư khoa học kỹ thuật tốt để nâng cao kích cỡ, phẩm cấp của SPTN [41] [43]. - Đặc điểm cấu thành giá trị của SPTN: Trong NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng, tỷ trọng giá trị gia tăng trong giá một đơn vị sản phẩm khá cao. Tuy vậy, mức giá trị gia tăng của mỗi đơn vị thường thấp, do giá tôm thấp (so với giá của hàng hóa phi nông nghiệp) và năng suất lao động trong lĩnh vực này thấp. Điều này đặt ra vấn đề để nâng cao giá trị gia tăng cần phải tiến đến nuôi tôm có giá trị kinh tế cao hơn và nâng cao năng suất lao động, diện tích mặt nước nuôi trồng trong nuôi tôm [41] [43] [107]. 1.1.2.3. Nội dung phân tích mô hình chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi (1) Bản chất của phân tích mô hình chuỗi cung Theo Chen và Paulraj (2004), khái niệm chuỗi cung đã được sử dụng một cách rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau như: quản lý hoạt động, marketing, quản lý chiến lược, lý thuyết tổ chức và hệ thống thông tin quản lý [63]. Nhiều nhà kinh tế đã đề xuất những nội dung phân tích khác nhau của mô hình chuỗi cung, nhưng tập trung vào các vấn đề cơ bản sau: Các tác nhân tham gia chuỗi cung, quá trình chuyển hóa của dòng sản phẩm vật chất, quá trình tạo giá trị, quá trình chi trả, quá trình trao đổi thông tin và các mối quan hệ trong chuỗi. Trong đó, quá trình tạo giá trị là quá trình quan trọng nhất và cũng là mục đích của chuỗi cung. Vì thế, người ta còn gọi chuỗi cung là chuỗi giá trị [44] [85] [92]. (2) Nội dung phân tích mô hình chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi Từ bản chất của việc phân tích mô hình chuỗi cung, nội dung phân tích của mô hình CCSPTN tập trung vào những vấn đề sau: 28
  41. Xác định các tác nhân tham gia CCSPTN Xác định các tác nhân tham gia CCSPTN, bao gồm các tác nhân tham gia dòng thượng nguồn CCSPTN cung cấp các yếu tố đầu vào chủ yếu như: cơ sở sản xuất tôm giống, thức ăn cho tôm, dịch vụ đầu vào; đơn vị nuôi tôm - tác nhân trung tâm, các tác nhân tham gia dòng hạ nguồn, phân phối SPTN như: thu gom, cơ sở chế biến và xuất khẩu tôm, người bán buôn, bán lẻ. Mỗi tác nhân là một mắt xích, thực hiện các hoạt động trong từng công đoạn tương ứng, trên cơ sở sử dụng các yếu tố nguồn lực của mình nhằm tạo giá trị cho sản phẩm đáp ứng yêu cầu của khách hàng cuối cùng. Quá trình chuyển hóa của dòng sản phẩm vật chất Quá trình chuyển hóa của dòng sản phẩm vật chất hình thành dòng sản phẩm vật chất. Sản phẩm này chuyển động từ các nhà cung cấp đầu vào như tôm giống, thức ăn công nghiệp, TTYTS, đến đơn vị nuôi tôm, đến người thu gom và đến khách hàng cuối cùng hoặc đến các cơ sở chế biến thủy sản và xuất khẩu. Đây là dòng không thể thiếu được trong CCSPTN. Nó gắn liền với các hoạt động cơ bản và dịch vụ hỗ trợ [56] [59] [92]. Theo lý thuyết điểm hạn chế (Theory of Constraint) của Goldratt dựa trên ý tưởng là toàn bộ hệ thống sẽ có ít nhất một điểm hạn chế gọi là điểm nghẽn, vì năng lực của mỗi phần trong hệ thống là không giống nhau. Dòng chảy sản phẩm qua nguồn lực ách tắc sẽ tạo thành những điểm thắt cổ chai (bottlenecks). Để dòng chảy thông suốt, tránh lãng phí, đòi hỏi tỷ lệ đầu vào của toàn bộ hệ thống được thiết lập dựa vào tỷ lệ đầu vào đạt được ở những điểm tắc nghẽn. Theo Goldratt, để cải thiện những điểm gây nghẽn trong hệ thống, hãy bổ sung công suất vận hành (năng suất) của các hoạt động bị ngừng trệ. Do tỉ lệ sản lượng đầu vào của toàn hệ thống được thiết lập dựa theo sản lượng tại điểm gây nghẽn, nên việc cải thiện những điểm này sẽ làm gia tăng hiệu quả của toàn hệ thống và tạo ra lợi nhuận đầu tư tốt nhất [73]. Quá trình tạo giá trị trong CCSPTN Quá trình tạo giá trị là quá trình hoạt động của các tác nhân tạo ra và phân phối sản phẩm tôm nuôi nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng cuối cùng và cũng là mục tiêu của chuỗi cung. Muốn đạt được mục tiêu này mỗi khách hàng trung gian trong CCSPTN phải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trên chúng. Khi làm 29
  42. điều này, họ sẽ tạo ra giá trị cho người tiêu dùng sản phẩm tôm nuôi của họ [44] [91]. Sơ đồ 1.5, mô tả quá trình tạo giá trị cho sản phẩm, khi nó đi qua từng tác nhân trong chuỗi cung và sản phẩm hoàn chỉnh tới tay khách hàng cuối cùng. Khách hàng Nhu cầu khách hàng cuối cùng Nhà cung cấp và khách hàng trung gian Hoạt động tạo giá trị Nhà cung cấp và khách hàng trung gian Hoạt động tạo giá trị Nhà cung cấp và khách hàng trung gian Hoạt động tạo giá trị Nhà cung cấp Hoạt động tạo giá trị Ðường nhận thông tin từ khách hàng phía trên Đường tạo giá trị đáp ứng nhu cầu khách hàng phía trên Sơ đồ 1.5. Quá trình tạo giá trị trong chuỗi cung Nguồn: Martin, Sandra; Jagadish, Ayyamani, 2005[dẫn theo 56,58] Đơn vị sản xuất kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc tạo giá trị cho chuỗi cung. Mỗi đơn vị SXKD có những nguồn lực cần thiết có thể sử dụng để tạo giá trị. Các nguồn lực này có thể vật chất (tôm giống, thức ăn, TTYTS) hay tự nhiên (đất đai, nguồn nước ), vốn và cả nhân lực. Khả năng tận dụng tối đa các nguồn lực này phụ thuộc vào khả năng cải tiến, sáng tạo của đơn vị SXKD (tác nhân) tham gia CCSPTN. Trong một đơn vị SXKD có thể thấy cách tạo giá trị như Sơ đồ 1.6 [56]. Đơn vị SXKD tạo ra giá trị thông qua các hoạt động ở bất kỳ điểm nào trong chuỗi cung như: cung cấp tôm giống, TACN, TTYTS, nuôi tôm, thu gom, chế biến sản phẩm (sấy khô, chiết suất, nhãn mác, bao bì, bảo quản, nâng cao hoàn thiện sản phẩm), phân phối và bán lẻ. Đơn vị SXKD sử dụng các nguồn tài nguyên và khả năng của mình để tạo ra giá trị cho các khách hàng trung gian và bằng cách làm như vậy sẽ tạo ra lợi nhuận. Giá trị được tạo ra chủ yếu qua hoạt động của đơn vị SXKD, nhưng nó sẽ được gia tăng thông qua các liên kết với khách hàng và nhà cung cấp đầu vào của nó. Việc liên kết với các nhà cung cấp đầu vào liên quan đến hoạt động mua đầu vào và hậu cần đầu vào. Liên kết với khách hàng cũng liên quan đến việc bán sản phẩm và hậu cần đầu ra. 30
  43. Nguồn lực của đơn vị sản xuất kinh doanh - Vật chất và tự nhiên - Vốn - Nhân lực - Khả năng đổi mới Liên kết với các nhà Hoạt động sản xuất kinh Kết nối với cung cấp đầu vào doanh của một đơn vị khách hàng - Hoạt động mua vào - Sản xuất, Sự vận chuyển - Bán sản phẩm - Hậu cần đầu vào sản phẩm,xử lý - Hậu cần đầu ra - Bảo quản sản phẩm - Cải thiện sản phẩm (lau - Bảo quản sản phẩm(đảm (đảm bảo chất lượng) chùi, phân cấp, chế biến, bảo chất lượng) đóng gói, trưng bày) Lợi nhuận của một đơn vị kinh doanh Sơ đồ 1.6. Mô hình hoạt động tạo thêm giá trị của đơn vị sản xuất kinh doanh Nguồn: Martin, Sandra; Jagadish, Ayyamani, 2005[dẫn theo 56,59] Liên quan đến giá trị gia tăng cần phân biệt thuật ngữ tạo giá trị và giá trị chiếm đoạt. Tạo giá trị được hiểu là tổng giá trị ròng (tổng số kết quả trừ đi tổng số đầu vào) được tạo ra trong một nỗ lực hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm; giá trị chiếm đoạt được hiểu là giá trị của phần lớn hơn cho một bên đơn vị SXKD tham gia làm giảm phần còn lại của các đối tác khác trong “chiếc bánh giá trị”. Tạo ra giá trị là một kịch bản mà các tác nhân tham gia chuỗi cung cùng có lợi, thể hiện sự khác biệt giữa giá trị sản phẩm và chi phí HĐTGT được sử dụng để làm ra sản phẩm đó; còn giá trị chiếm đoạt phụ thuộc vào mỗi tác nhân tham gia vào việc sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể, đặc biệt là khả năng thương lượng của mỗi tác nhân [61] [76] [105]. Như vậy, sự hợp tác giữa các đối tác là chìa khóa để tạo ra giá trị trong quản lý chuỗi cung. Sự hợp tác tồn tại khi các tác nhân trong chuỗi sẵn sàng cùng nhau làm việc, nó cho phép các đối tác cùng nhau đạt được sự hiểu biết tốt hơn về nhu cầu sản phẩm trong tương lai và thực hiện các chương trình thực tế hơn để đáp ứng nhu cầu đó. Nó có thể tập trung vào việc sắp xếp các bên và sau đó nâng cao giá trị của các hoạt động kết hợp trong mạng lưới chuỗi cung [77] [102]. Phân tích quá trình tạo giá trị gia tăng của từng công đoạn mà mỗi tác nhân thực hiện là xem xét chi phí HĐTGT của từng tác nhân để tạo giá trị gia tăng, đó 31
  44. chính là quá trình thực hiện lợi nhuận của mỗi tác nhân tham gia CCSPTN. So sánh tỷ lệ chi phí HĐTGT mà mỗi tác nhân đầu tư để thực hiện các hoạt động SXKD của mình với tỷ lệ lợi nhuận thu được của mỗi tác nhân đó, tính toán mức độ thua thiệt, mức độ hưởng lợi bất hợp lý của mỗi tác nhân, đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp nhằm giải quyết tốt bài toán phân phối lợi ích giữa các tác nhân tham gia chuỗi cung; từ đó, nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi ở địa phương. Các dòng chảy và các mối quan hệ trong CCSPTN Theo các chuyên gia Ngân hàng thế giơi (2008), chuỗi cung thực phẩm trong nông nghiệp (Sơ đồ 1.7) là các mạng lưới có ba dòng chảy cơ bản xuyên suốt chiều dài của chuỗi là dòng sản phẩm vật chất, dòng thông tin và dòng tài chính [58,19] [59]. Vì vậy, CCSPTN cũng tồn tại ba dòng chảy trên. Dòng sản phẩm vật chất là dòng chảy không thể thiếu trong bất kỳ chuỗi cung nào đã được đề cập ở phần trên. Môi trường cho phép-Nội địa và quốc tế Thị trường quốc tế Dịch vụ Thị trường nội địa hỗ trợ t Nhà xuất khẩu Nhà bán lẻ ấ ch t ậ v Hậu cần nh í tin m ẩ Người chế biến ch i ph à Tài chính t n thông ả Trung gian chuyển tiếp s Dòng Kỹ thuật Dòng Nhà sản xuất Dòng Cung cấp đầu vào Sơ đồ 1.7. Mô hình chuỗi cung thực phẩm trong nông nghiệp Nguồn: ARD, 2008 Dòng tài chính: dòng này lưu thông theo hướng ngược lại với dòng sản phẩm vật chất. Đó là quá trình chi trả, các khoản tin dụng phải thu và phải trả, các khoản 32
  45. cho vay, lịch thanh toán trả nợ Việc tối ưu hóa dòng tài chính được thực hiện mang tính riêng biệt trong mỗi liên kết của CCSPTN, hiếm khi một cách tổng thể. Việc tối ưu hóa dòng tài chính này sẽ làm cho nó cải thiện được lợi ích của mỗi tác nhân, nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi bộ phận và của toàn bộ CCSPTN [86]. Dòng tài chính (dòng tiền) được đưa vào chuỗi bởi duy nhất người tiêu dùng khi họ đã nhận được sản phẩm tôm nuôi hoặc đầy đủ chứng từ hợp lệ. Có thể thấy chính lợi nhuận đã liên kết các đơn vị kinh doanh lại với nhau. Chuỗi cung tạo nên chuỗi giá trị trong đó các tác nhân có cơ hội chia sẻ dòng tiền ở mức độ khác nhau, tùy vào vai trò và vị thế của mỗi tác nhân [40] [91]. Quá trình trao đổi thông tin giữa các tác nhân tạo nên dòng thông tin trong CCSPTN. Dòng này có tính hai chiều, trước tiên, là dòng hạ nguồn từ phía khách hàng về phía trước chuỗi; mang những thông tin thị trường, đặc điểm sản phẩm, nhu cầu khách hàng, và những ý kiến phản hồi của khách hàng sau khi sử dụng sản phẩm tôm nuôi. Thứ hai, là dòng thượng nguồn từ phía các nhà cung cấp; được nhận và xử lý thông qua bộ phận thu mua. Các thông tin phản hồi này phản ánh tình hình hoạt động của thị trường nguyên liệu. Nó được xử lý rất kỹ trước khi chuyển tới khách hàng. Mức độ chia sẻ thông tin phụ thuộc đối tác được chọn lựa để chia sẻ, dạng thông tin và chất lượng thông tin. Có nhiều dạng thông tin trong chuỗi cung; dạng thông tin chiến lược, chiến thuật, vận hành Những thông tin được chia sẻ thường mang lại lợi ích cho các thành viên trong CCSPTN; chia sẻ thông tin về vận chuyển hàng hóa sẽ giúp các tổ chức hậu cần cải thiện mức độ phục vụ khách hàng, chia sẻ thông tin sản xuất và bán hàng làm giảm mức tồn kho. Giá trị của thông tin là kịp thời và chính xác, nó phụ thuộc vào lợi ích mà các tác nhân có thể nhận được từ thông tin đó. Giá trị không còn nếu cơ hội đã qua. Việc xử lý chậm hoặc trì hoãn chuyển giao thông tin theo dòng ngược càng làm ảnh hưởng trầm trọng đến tốc độ đáp ứng của dòng sản phẩm tôm nuôi theo chiều xuôi tới khách hàng, do vậy ảnh hưởng đến dòng tiền phía sau. Trong chuỗi cung này, dòng thông tin là dòng đi trước về mặt thời gian, nó xuyên suốt mọi quá trình, ngay sau khi cả dòng sản phẩm tôm nuôi và dòng tiền đã thực hiện hoàn tất. Vì vậy, muốn quản lý được CCSPTN thì phải quản lý được dòng thông tin [28]. 33
  46. Các mối quan hệ trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi Thuật ngữ “quan hệ” (relation) hay “mối quan hệ” (relationship), theo tác giả Backstrand được sử dụng với nghĩa rộng hơn để chỉ ra bất kỳ liên kết nào giữa các tác nhân có liên quan hay không liên quan đến các đối thủ đều là sự tương tác cạnh tranh hay hợp tác, do vậy mối quan hệ luôn tồn tại [79]. Trong CCSPTN, mỗi tác nhân giữ mối quan hệ với những tác nhân khác theo chiều ngang và cả chiều dọc. Điều quan trọng là phải thiết lập các mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi và gắn nó vào mục tiêu chung của tổ chức [40]. Các tác nhân trong CCSPTN nhận thức rõ hơn rằng họ có cùng những mục tiêu chung - đó chính là thỏa mãn khách hàng cuối cùng. Vì thế họ không nên cạnh tranh với nhau và nên hợp tác để thỏa mãn khách hàng cuối cùng [104]. Điều này, nghĩa là đối thủ cạnh tranh không phải là các doanh nghiệp hoặc tổ chức khác trong chuỗi cung mà chính là các doanh nghiệp ở chuỗi cung khác hay nói cách khác, các chuỗi cung cạnh tranh với nhau chứ không phải là các doanh nghiệp - mỗi tác nhân trong từng mắt xích [91]. Hợp tác phi Liên minh Cạnh Hợp đồng Đầu tư Liên doanh Tích hợp dọc tranh chính thức chiến lược tối thiểu Mối quan hệ Hợp đồng Giữ khoảng Không Hợp đồng trung hạn cách chỉ rõ dài hạn Chia sẻ thông tin Không đáng Nhiều Đầy đủ Kinh doanh Kể với đối tác Ít Không cạnh tranh Nhiều đáng kể Văn hóa Khác biệt Hòa hợp Chia sẻ Sơ đồ 1.8. Chuỗi các quan hệ Nguồn: Khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng, 2007 Quan hệ hợp tác theo chiều dọc là quan hệ giữa các tác nhân ở các khâu khác nhau trong chuỗi cung nhằm chia sẻ trách nhiệm, nguồn lực, thông tin, tạo ra sự thống nhất trong kế hoạch hoạt động nhằm tối đa hóa giá trị gia tăng của chuỗi và thúc đẩy nhanh tiến độ đáp ứng nhu cầu khách hàng cuối cùng, nâng cao năng lực trạnh tranh. Quan hệ hợp tác theo chiều ngang là quan hệ giữa các tác nhân trong cùng một khâu của chuỗi cung nhằm chia sẻ nguồn lực bổ sung để hoàn thiện sản 34
  47. phẩm và hạ thấp chi phí [67] [81] [108]. Để xác định các mức độ quan hệ giữa các tác nhân trong CCSPTN ta dựa vào thang đo mức độ tích hợp. Theo thang đo này có thể xác định các mức độ quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi các quan hệ, cực bên trái là mức độ tích hợp rất thấp, chỉ là mối quan hệ thị trường, mang tính cạnh tranh, cực bên phải là các tổ chức tích hợp dọc hoàn toàn theo chức năng, các mối quan hệ được kiểm soát chặt chẽ [40] [90] [104]. Sơ đồ 1.8, chỉ rõ các mức độ quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi cung. Tiến dần về bên trái các mối quan hệ không chặt chẽ, các đối tác không tin tưởng nhau, quan hệ hợp đồng ngắn hạn, luôn giữ khoảng cách, thông tin chia sẻ không đáng kể, kinh doanh với đối thủ cạnh tranh, có sự khác biệt lớn về văn hóa. Ngược lại, tiến dần về bên phải quan hệ giữa các tác nhân là quan hệ hợp đồng dài hạn, các đối tác tin tưởng nhau, thông tin được chia sẻ đầy đủ, quan hệ cạnh tranh hầu như không có, hòa đồng về mặt văn hóa, cùng nhau chia sẻ lợi nhuận. Trên cơ sở mô hình phân tích hoạt động tạo giá trị trong chuỗi cung nông nghiệp của tác giả Martin, Sandra; Jagadish, Ayyamani(2005) theo quan điểm giá trị trong khái niệm chuỗi giá trị của Porter và Mô hình phân tích chuỗi cung thực phẩm trong nông nghiệp của các chuyên gia Ngân hàng thế giới (2008), luận án mô tả nội dung mô hình CCSPTN như Sơ đồ 1.9. Sơ đồ 1.9. Mô hình chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi Nguồn: [59] [dẫn theo 56] và mô tả của tác giả Mô hình này cho thấy, dòng sản phẩm xuất khẩu trong CCSPTN chỉ giới hạn nghiên cứu ở các tác nhân trong nước, không nghiên cứu phần còn lại của thế giới. 35
  48. Quá trình tạo giá trị là quá trình quan trọng nhất là những hoạt động gắn liền với những chức năng cụ thể của từng tác nhân trong mỗi mắt xích. Quá trình này luôn gắn chặt với dòng sản phẩm vật chất, dòng tài chính và dòng thông tin trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi, cũng như các dịch vụ hỗ trợ về hậu cần, tài chính và kỹ thuật của các tổ chức tư nhân và công cộng. 1.1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của CCSPTN Trên cơ sở lý luận chung về chuỗi cung và CCSPTN, sử dụng phương pháp tổng hợp ý kiến chuyên gia, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến CCSPTN và nghiên cứu thực địa của tác giả. Xác định một số nhóm nhân tố quyết định đến quá trình hoạt động của CCSPTN như nhóm nhân tố điều kiện tự nhiên, nhóm nhân tố thuộc về chủ thể nuôi tôm, nhóm nhân tố về thị trường, chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước, quản lý chuỗi cung và nhóm nhân tố về cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ. (1) Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên Tôm nuôi là động vật thủy sinh, quá trình sinh trưởng và phát triển phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Thủy vực (ao nuôi) và các yếu tố tự nhiên khác chính là điều kiện tự nhiên cho NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng, điều kiện tự nhiên phù hợp và có chất lượng tốt, tôm sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao. Chất lượng của thủy vực phụ thuộc vào sự phong phú và đa đạng của hệ sinh thái. Có thể nói, thủy vực vừa là môi trường sống, vừa là nguồn cung cấp thức ăn, dưỡng khí cho tôm. Các yếu tố về nguồn nước, độ PH đất đai, độ PH nước, nhiệt độ và môi trường nuôi sẽ ảnh hưởng đến quá trình sản xuất giống, quá trình nuôi tôm, chất lượng SPTN trong tiêu dùng sản phẩm tươi sống, cũng như chất lượng của sản phẩm chế biến. Sức sản xuất sinh học của đất đai, mặt nước phụ thuộc chủ yếu vào độ phì nhiêu của đất đáy và vùng bờ. Vì vậy, cải tạo môi trường điều kiện tự nhiên trước hết là cải tạo đáy và vùng bờ của ao nuôi nhằm nâng cao năng suất. Việc khai thác sử dụng đất đai mặt nước ven biển để nuôi tôm và sự phát triển của các ngành kinh tế khác (chẳng hạn như ngành du lịch) cũng như những diễn biến bất thường của thiên tai, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, biến đổi khí hậu .có ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của CCSPTN [4] [20] [29]. 36
  49. (2) Nhóm nhân tố thuộc về chủ thể nuôi tôm Chủ thể nuôi tôm là tác nhân trung tâm, duy nhất tạo ra SPTN đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh tế của chủ thể nuôi tôm, ảnh hưởng đến quá trình hoạt động chuỗi cung, ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh tế của tất cả các tác nhân khác trong chuỗi, bao gồm cả thượng nguồn và hạ nguồn. Nhóm nhân tố thuộc về chủ thể nuôi tôm bao gồm: nguồn nhân lực, quy mô diện tích đất mặt nước nuôi tôm, khả năng về vốn đầu tư, trình độ của người sản xuất (năng lực nhận thức về công nghệ- kỹ thuật nuôi, về pháp luật và bảo vệ môi trường ) (3) Nhóm các nhân tố về thị trường Như bất kỳ chuỗi cung sản phẩm nào thị trường luôn là nhân tố tác động đến quá trình thực hiện chuỗi cung. Nó bao gồm các nhân tố về quan hệ cung cầu, giá cả. Nhu cầu tiêu thụ tôm trong nước và công tác xuất khẩu SPTN. Xuất phát từ nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng về SPTN, các tác nhân xây dựng các chiến lược kinh doanh của mình, xác định quy mô, mức độ cung ứng các yếu tố đầu vào để sản xuất, thu gom, chế biến sản phẩm đáp ứng nhu cầu đó. Giá cả là nhân tố quan trọng tác động đến việc phân phối các dòng SPTN trong chuỗi cung đến với các thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Xét trong điều kiện lợi thế cạnh tranh ngành hàng tôm, nếu nhu cầu tiêu thụ SPTN trong nước cao giảm bớt áp lực giải quyết lượng hàng tồn kho trong điều kiện xuất khẩu khó khăn. Trong thực tế ở nước ta, một khi SPTN bị ngừng nhập khẩu ảnh hưởng lớn đến chuỗi ngành hàng tôm, hộ nuôi tôm bán với giá thấp rơi vào tình trạng thua lỗ. Các cơ sở chế biến thủy sản chuyển sang chế biến các mặt hàng khác. Thực tế cho thấy ở một số nước như Ấn Độ, Trung Quốc nhu cầu tiêu thụ nội địa cao nên giảm áp lực cho hoạt động xuất khẩu khi có những biến cố bất lợi từ thị trường thế giới, do áp đặt các rào cản thương mại từ các chính sách bảo hộ mậu dịch của một số nước nhập khẩu tôm. Trong quy hoạch phát triển ngành thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã chỉ rõ mục tiêu ngành nuôi tôm ở nước ta là nuôi tôm để xuất khẩu. Trong những năm qua, sản lượng tôm phân phối cho thị trường xuất khẩu 37
  50. chiếm 80% tổng sản lượng cung của cả nước [48]. Do đó, việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu có ý nghĩa sống còn đối với ngành hàng tôm nuôi. Việc chiến lĩnh và mở rộng thị trường xuất khẩu tôm phụ thuộc vào rất nhiều các nhân tố như: chất lượng sản phẩm, thương hiệu sản phẩm, nhu cầu của nước nhập khẩu, thị trường truyền thống, thị trường tiềm năng, một số chính sách trong thu mua, chế biến và tiêu thụ SPTN. (4) Nhóm các nhân tố thuộc về chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước Các chính sách của Chính phủ tác động trực tiếp tới ngành hàng tôm nuôi bao gồm chính sách hỗ trợ lãi suất, chính sách tín dụng ưu đãi cho các hộ nuôi tôm, trang trại. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sản xuất và xuất khẩu tôm của Việt Nam chịu tác động lớn từ thị trường thế giới về cả đầu vào và đầu ra cho sản xuất thì chính sách của Chính phủ đóng vai trò quan trọng, giúp nâng cao năng lực sản xuất và năng lực tham gia chuỗi cung toàn cầu cho các đơn vị kinh doanh, tạo nền tảng để nâng cao lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh đó, chính sách còn có tác động thúc đẩy nâng cao hiệu quả nuôi tôm, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm và điều tiết giá cả thị trường [20] [41] . Trên thực tế cho thấy quá trình thực thi chính sách không tốt ở các địa phương, ngành ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hoạt động của CCSPTN. Điều này biểu hiện ở việc thiếu quản lý nhà nước trong lĩnh vực sản xuất và phân phối tôm giống, sản xuất thức ăn công nghiệp, TTYTS, cả về số lượng và chất lượng làm cho quá trình nuôi tôm ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng, hạn chế nguồn tôm nguyên liệu phục phục cho chế biến và xuất khẩu. Việc hỗ trợ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho các tác nhân trong CCSPTN có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc nâng cao trình độ kỹ thuật trong nuôi trồng, chế biến, bảo quản trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Năng lực về trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý trong các cơ quan nhà nước của ngành là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình hoạt động của CCSPTN hướng đến mục tiêu cao cả của mình là tối đa hóa lợi nhuận toàn chuỗi [4] [20]. (5) Nhóm các nhân tố về quản lý của CCSPTN Các chuỗi cung được quản lý bởi một hay nhiều nhà lãnh đạo chuỗi (còn gọi là trưởng chuỗi hay chủ chuỗi/kênh) người mà xác định nhu cầu thị trường và phối hợp các nguồn lực của chuỗi nhằm bảo đảm các nhu cầu này được đáp ứng. Các chuỗi (hay các khâu của chuỗi) có thể định hướng là chuỗi hợp tác hay chuỗi cơ hội. Những định hướng này thường bị chi phối bởi các lực lượng kinh tế chủ chốt có khả năng định 38
  51. hướng cho ngành (hoặc một phần của ngành) trong phạm vi mà họ điều hành [56]. Do sự định hướng CCSPTN khác nhau, các mối quan hệ trong chuỗi có thể bao quát một chuỗi các quan hệ từ tích hợp dọc đến cạnh tranh. Các dạng của mối quan hệ dọc theo chuỗi phụ thuộc vào định hướng của chuỗi hay của trưởng chuỗi, mà đến lượt nó, thường phụ thuộc vào lực lượng kinh tế chủ yếu có khả năng điều khiển hành vi của chuỗi, trưởng chuỗi, và lĩnh vực mà họ đang hoạt động như nuôi, thu mua, vận chuyển, làm sạch, lưu giữ, bảo quản chế biến tôm [90]. Trong nền kinh tế thị trường các quy luật kinh tế luôn chi phối đến lợi ích của từng tác nhân tham gia CCSPTN, nếu mỗi tác nhân vì lợi ích riêng, không hợp tác với nhau, không có định hướng chuỗi cung thì nó trở thành một chuỗi cơ hội nơi mà các đối tác không hướng về khách hàng và không cùng làm việc với nhau để tạo ra giá trị cho khách hàng cuối cùng [56]. Khi các tác nhân trong chuỗi hợp tác với nhau, họ phải có được sự cam kết vững chắc, đảm bảo các bên tuân thủ hợp đồng đã ký kết, không vì lợi ích trước mắt mà vi phạm hợp đồng. Việc này ảnh hưởng rất nhiều đến sự ổn định của chất lượng SPTN – một trong những vấn đề cốt yếu của sản phẩm Việt Nam. Trong thực tế hiện nay, một số đơn vị không giữ vững cam kết của mình khi thấy lợi nhuận trước mắt quá lớn, hay áp lực phải hoàn thành công việc quá cao. Chính vì vậy, mỗi tác nhân đưa ra các quyết định riêng không tuân thủ các cam kết làm cho CCSPTN rối loạn, mất định hướng, ảnh hưởng đến hoạt động của các khâu khác trong chuỗi, tác động tiêu cực đến việc thực hiện mục tiêu chung của CCSPTN. (6) Nhóm các nhân tố về cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ Dịch vụ hậu cần và cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của CCSPTN. Điều này biểu hiện trong việc thiếu sự cung cấp về cơ sở hạ tầng, như đường sá, hệ thống điện, kênh cấp thoát nước, dịch vụ vận chuyển và tính sẳn sàng của nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển với giá cả hợp lý tác động tiêu cực đến quá trình kinh doanh của các tác nhân về phía dòng thượng nguồn của CCSPTN cung cấp các yếu tố đầu vào, như giống, thức ăn, máy móc thiết bị do chi phí vận chuyển cao, và quá trình nuôi tôm của các chủ thể nuôi tôm, cũng như quá trình thu mua và phân phối sản phẩm của tác nhân trung gian về phía dòng hạ nguồn của chuỗi cung này. Việc thiếu các phương tiện đóng gói và làm đông lạnh của hộ thu gom, chế biến, bán buôn, bán lẻ gây 39
  52. khó khăn cho công việc bảo quản chất lượng sản phẩm, cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của CCSPTN [4] [32] [58, 20]. Trên đây là 6 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của CCSPTN. Chúng bao gồm cả nhân tố thuộc tầm quản lý kinh tế vĩ mô và những nhân tố thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế vi mô. 1.1.2.5. Ý nghĩa của phân tích chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi Việc phân tích CCSPTN mang lại lợi ích to lớn cho các cá nhân và tổ chức trên phương diện tìm kiếm cơ hội tham gia chuỗi cung hoặc hoàn thiện CCSPTN. - Nâng cao năng lực và cải tiến hoạt động: Một khi hiểu rõ CCSPTN của mình, giúp người nuôi tôm, cũng như các tác nhân tham gia khác hoàn thiện hay cải tiến những hoạt động liên kết bên trong cũng như bên ngoài. Trên cơ sở hiểu rõ những điểm mạnh, điểm yếu của các yếu tố có liên quan đến CCSPTN bao gồm doanh thu, chi phí, lợi nhuận, công nghệ, kiến thức, lao động cũng như hiểu rõ về hiệu quả của quá trình cung cấp SPTN, các tác nhân, người nuôi tôm sẽ có những điều chỉnh đối với những yếu tố này, để hiệu quả hoạt động cao hơn. - Nhận diện được lợi thế cạnh tranh: phân tích CCSPTN giúp cho các tác nhân tham gia xác định và hiểu chi tiết hơn các công đoạn trong CCSPTN, từ đó mỗi tác nhân tham gia có thể xác định được các lợi thế cạnh tranh đang nằm ở công đoạn nào để có chiến lược đối với sự phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế cạnh tranh sẵn có [58] [91]. - Truy xuất nguồn gốc SPTN: xã hội hiện đại đòi hỏi tiêu chuẩn cao đối với các SPTN. Bên cạnh tiêu chuẩn này, tính an toàn của sản phẩm càng được nhấn mạnh khi thu nhập ngày càng cao. Vì thế, CCSPTN còn thực hiện chức năng đảm bảo tính xuất xứ của những SPTN. Tính xuất xứ bao gồm SPTN, quá trình, thành phần gen, giống tôm, thức ăn, TTYTS và những thước đo về xuất xứ (Opara, 2003). Có thể đây là nhân tố mới và quan trọng đối với những sản phẩm NTTS nói chung, SPTN nói riêng, đặc biệt là trong môi trường khi người tiêu dùng đang đối mặt với an toàn thực phẩm và có xu hướng tìm kiếm những sản phẩm tiêu dùng có chất lượng cao [44] [86]. - Gắn kết sinh kế của người dân với thị trường thông qua CCSPTN: Theo Kanji và các đồng sự (2005), trong phân tích sinh kế bền vững thì các quyết định sinh kế phụ thuộc vào cấu trúc, chức năng và sự phát triển của thị trường. Còn Dorward và các 40
  53. đồng sự (2003) chỉ ra rằng thị trường và sự hoạt động đầu ra sẽ hình thành nên nhu cầu của các hàng hóa và dịch vụ được cung cấp bởi sinh kế, vì thế hình thành nên giá cả và thu nhập của các hoạt động sản xuất. Dưới giác độ xóa đói, giảm nghèo và phát triển nông thôn, phân tích CCSPTN làm rõ cơ hội tham gia chuỗi cung, cơ hội tham gia thị trường của người dân ở trong chuỗi cung và cơ hội cải thiện sinh kế của hộ nuôi tôm thông qua kết nối sinh kế với thị trường qua CCSPTN [31] [64] [74]. - Thúc đẩy ngành hàng tôm nuôi phát triển bền vững: Phát triển bền vững ngành hàng tôm đòi hỏi phải đạt được hiệu quả trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Phân tích CCSPTN nhận diện được lợi thế cạnh tranh của SPTN theo các công đoạn chuyên môn hóa của từng tác nhân trong chuỗi, tối ưu hóa giá trị cho khách hàng; TXNG xuất xứ kiểm soát chất lượng sản phẩm từ khâu cung ứng đầu vào cho nuôi tôm và phân phối sản phẩm đầu ra nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm. Mặt khác, phân tích CCSPTN làm rõ những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, những mặt hạn chế tác động đến các quan hệ xã hội trong từng tác nhân tham gia CCSPTN, từ đó đề ra các biện pháp khắc phục và hoàn thiện. Các CCSPTN càng hoàn thiện là cơ sở để ngành hàng tôm nuôi phát triển bền vững [98]. 1.1.3. Mối quan hệ mật thiết giữa chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi với hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành hàng tôm nuôi Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí đầu tư để đạt được kết quả đó. Kết quả sản xuất kinh doanh ở đây được hiểu là giá trị sản phẩm đầu ra, còn lượng chi phí đầu tư là giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối quan hệ so sánh này được xem xét cả hai mặt (so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối). Như vậy, một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó đạt được hiệu quả kinh tế cao chính là đã đạt được mối quan hệ tương quan tối ưu giữa kết quả thu được và chi phí đầu tư để đạt được kết quả đó [26] [57]. Trong mô hình phân tích CCSPTN cho thấy phân tích quá trình hoạt động tạo giá trị của chuỗi là nội dung cốt lõi. Để tối ưu hóa giá trị tạo ra hay tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng cuối cùng đòi hỏi các tác nhân phải cố gắng tối thiểu hóa chi phí hoạt động tạo giá trị thông qua sự dẫn dắt của các dòng sản phẩm, thông tin và tài chính. Điều này đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả kinh tế của CCSPTN. 41