Luận án Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư tại tỉnh Hưng Yên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư tại tỉnh Hưng Yên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_an_giai_phap_nang_cao_nang_luc_canh_tranh_nham_thu_hut.pdf
Nội dung text: Luận án Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư tại tỉnh Hưng Yên
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ĐỖ MINH TRÍ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ TẠI TỈNH HƯNG YÊN LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI, NĂM 2015
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ĐỖ MINH TRÍ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ TẠI TỈNH HƯNG YÊN Chuyên ngành : KINH TẾ PHÁT TRIỂN Mã số : 62 31 01 05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: 1. PGS.TS. BÙI BẰNG ĐOÀN 2. TS. VŨ THỊ PHƯƠNG THỤY HÀ NỘI, NĂM 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng dùng bảo vệ để lấy bất kỳ học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 27 tháng 6 năm 2015 Tác giả luận án Đỗ Minh Trí i
- LỜI CẢM ƠN Luận án tiến sĩ này được thực hiện nghiên cứu và hoàn thành tại Bộ môn Kinh tế Tài nguyên và Môi trường thuộc Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn của Học Viện nông nghiệp Việt Nam. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Bùi Bằng Đoàn và TS. Vũ Thị Phương Thụy đã dành nhiều sự quan tâm, kinh nghiệm và trí tuệ giúp tôi trưởng thành trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới tập thể các nhà khoa học đã tận tình, ân cần hướng dẫn tôi nghiên cứu khoa học trong quá trình làm luận án và tập thể các thầy, cô giáo Bộ môn Kinh tế Tài nguyên và Môi trường, Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Ban Quản lý đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Tôi xin trân trọng cảm ơn Thường trực Tỉnh ủy Hưng Yên, Lãnh đạo UBND tỉnh Hưng Yên, lãnh đạo các sở, ban, ngành tỉnh Hưng Yên; Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban Quản lý các Khu công nghiệp, Sở Công thương, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Cục Thống kê, Cục Thuế, Sở Giao thông vận tải, các doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh đã tạo điều kiện, hợp tác giúp đỡ tôi thực hiện luận án. Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình, đặc biệt là vợ và con tôi đã luôn động viên kịp thời, giúp đỡ, chia sẻ để tôi hoàn thành luận án tiến sĩ. Hà Nội, ngày 27 tháng 6 năm 2015 Tác giả luận án Đỗ Minh Trí ii
- MỤC LỤC Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục các ký hiệu chữ viết tắt vi Danh mục các bảng vii Danh mục sơ đồ và đồ thị ix MỞ ĐẦU 1 1 Tính cấp thiết của đề tài 1 2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 3 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 4 Những đóng góp mới của luận án 5 Chương 1 TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ 6 1.1 Lý luận nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư 6 1.1.1 Các khái niệm cơ bản 6 1.1.2 Phân loại cạnh tranh, năng lực cạnh tranh 11 1.1.3 Cấu thành năng lực, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 17 1.1.4 Sự cần thiết và mối quan hệ giữa nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh với thu hút đầu tư 23 1.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 28 1.2 Thực tiễn nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư một số nước trên thế giới và ở Việt Nam 38 1.2.1 Cơ sở thực tiễn của đề tài nghiên cứu 38 1.2.2 Kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư ở một số nước trên thế giới 40 iii
- 1.2.3 Bài học kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư của một số tỉnh ở Việt Nam 43 1.2.4 Một số bài học kinh nghiệm cho Hưng Yên 49 1.3 Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan tới đề tài 50 Chương 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 52 2.1 Đặc điểm phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Hưng Yên 52 2.1.1 Các điều kiện tự nhiên của tỉnh 52 2.1.2 Đặc điểm kinh tế, xã hội 53 2.2 Phương pháp nghiên cứu 61 2.2.1 Xây dựng khung phân tích 61 2.2.2 Phương pháp tiếp cận của đề tài 61 2.2.3 Phương pháp chọn điểm khảo sát 63 2.2.4 Phương pháp thu thập thông tin dữ liệu 66 2.2.5 Phương pháp xử lý và tổng hợp giữ liệu 68 2.2.6 Hệ thống các chỉ tiêu nghiêu cứu 69 Chương 3 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ THU HÚT ĐẦU TƯ Ở TỈNH HƯNG YÊN 72 3.1 Thực trạng năng lực cạnh tranh ở Hưng Yên 72 3.1.1 Xếp hạng Chỉ số năng lực cạnh tranh của Hưng Yên so với cả nước 72 3.1.2 Thực trạng các yếu tố chủ yếu cấu thành năng lực của tỉnh Hưng Yên 76 3.2 Khái quát tình hình thu hút đầu tư 98 3.2.1 Tình hình thu hút số lượng nhà đầu tư 98 3.2.2 Tình hình về dự án, lĩnh vực đầu tư 104 3.2.3 Tình hình thu hút vốn đầu tư 109 3.3 Mối quan hệ giữa năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư 115 3.3.1 Quan hệ giữa chỉ số năng lực cạnh tranh với kết quả thu hút đầu tư 115 3.3.2 Đánh giá thành công và hạn chế trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư ở Hưng Yên 120 iv
- Chương 4 GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ Ở TỈNH HƯNG YÊN 125 4.1 Bối cảnh kinh tế, quan điểm và mục tiêu của Hưng Yên trong việc đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội 125 4.1.1 Bối cảnh 125 4.1.2 Quan điểm của Hưng Yên 127 4.1.3 Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Hưng Yên từ nay đến năm 2020 128 4.2 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư ở tỉnh Hưng Yên 129 4.2.1 Hoàn thiện chính sách về thu hút đầu tư và cải cách thủ tục hành chính 129 4.2.2 Giải pháp đẩy mạnh xây dựng phát triển hệ thống đường giao thông 134 4.2.3 Phát triển nguồn nhân lực tại địa phương 137 4.2.4 Phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề 142 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 146 1 Kết luận 146 2 Đề xuất 148 Danh mục các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến luận án 150 Tài liệu tham khảo 151 Phụ lục 157 v
- DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Tiếng Việt (tiếng Anh - nếu có) ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations) AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area) CCTTHC Cải cách thủ tục hành chính CCN Cụm công nghiệp DN Doanh nghiệp EU Liên minh Châu Âu (European Union) EWEC Hành lang kinh tế Đông Tây (East West Economic Corridor) FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) FII Đầu tư gián tiếp (Foreign Indirect Investment) HĐND Hội đồng nhân dân ISO Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (International Organization for Standardization) KCN Khu công nghiệp NXB Nhà xuất bản ODA Viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance) PCI Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (Provincial Competitiveness Index) QPPL Quy phạm pháp luật SXKD Sản xuất kinh doanh TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TPP Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên (Trans Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) UBND Ủy ban nhân dân USAID Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (United States Agency for International Development) VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (Vietnam Chamber of Commerce and Industry) WEF Diễn đàn Kinh tế thế giới (World Economic Forum) WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) vi
- DANH MỤC CÁC BẢNG STT Tên bảng Trang 2.1 Tình hình dân số, lao động của tỉnh Hưng Yên 54 2.2 Thực trạng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh 55 2.3 Cơ cấu lao động làm việc theo ngành trong các doanh nghiệp 56 2.4 Đóng góp của các khu vực kinh tế vào tăng trưởng chung 60 2.5 Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Hưng Yên 64 2.6 Số lượng mẫu được chọn điều tra 65 3.1 Đánh giá về triển khai chính sách và cải cách thủ tục hành chính 79 3.2 Đánh giá của doanh nghiệp về tình hình lao động 84 3.3 Tình hình về chất lượng lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh 86 3.4 Hiện trạng đường bộ tỉnh Hưng Yên 87 3.5 Mật độ quốc lộ, đường tỉnh so với khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước 88 3.6 Kế hoạch xây dựng và cải tạo trạm biến áp 110 KV giai đoạn 2011 – 2015 89 3.7 Ý kiến về chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế 90 3.8 Ý kiến của doanh nghiệp về chất lượng đường giao thông trên địa bàn tỉnh 91 3.9 Ý kiến doanh nghiệp đánh giá về chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công trên địa bàn tỉnh cung cấp tới doanh nghiệp 93 3.10 Đánh giá về công tác quy hoạch khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh 98 3.11 Đánh giá của doanh nghiệp về chất lượng môi trường kinh doanh ở Hưng Yên 102 3.12 Số lượng dự án đã đăng ký đầu tư tại Hưng Yên 104 3.13 Thành phần doanh nghiệp đang hoạt động tại Hưng Yên 105 3.14 Ý kiến về tình hình triển khai thực hiện dự án 106 vii
- 3.15 Lĩnh vực đầu tư của các dự án đang hoạt động 108 3.16 Ý kiến của doanh nghiệp, cá nhân về tiếp cận nguồn vốn 112 3.17 Tốc độ triển khai vốn thực hiện của doanh nghiệp 112 3.18 Tình hình thu ngân sách và thứ hạng PCI Hưng Yên so với các tỉnh 117 viii
- DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ STT Tên sơ đồ Trang 2.1 Khung phân tích năng lực cạnh tranh cấp tỉnh nhằm thu hút đầu tư 62 STT Tên đồ thị Trang 2.1 Cơ cấu kinh tế tỉnh Hưng Yên 58 2.2 Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh 59 3.1 Xếp thứ hạng PCI tỉnh Hưng Yên 73 3.2 Chỉ số thành phần PCI Hưng Yên 75 3.3 Mạng lưới cơ sở dạy nghề các tỉnh, thành phố (tính đến hết năm 2011) 82 3.4 Cơ cấu doanh nghiệp đóng tại địa bàn các huyện, thành phố tỉnh Hưng Yên 94 3.5 Số lượng các nhà đầu tư đã đăng ký tại Hưng Yên 101 3.6 Cơ cấu số lượng doanh nghiệp công nghiệp theo quy mô vốn sản xuất kinh doanh 110 3.7 Tổng vốn đầu tư trên địa bàn 114 3.8 Quan hệ giữa phát triển doanh nghiệp với thứ hạng PCI 115 3.9 Quan hệ giữa thứ hạng PCI với thu ngân sách tỉnh Hưng Yên 118 3.10 Quan hệ giữa thứ hạng PCI với tổng vốn đầu tư 119 ix
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chủ trương chung của Đảng, Nhà nước về hội nhập phát triển kinh tế, trong thời gian qua nhiều tỉnh, thành phố đã tích cực triển khai, xây dựng môi trường đầu tư nhằm cải thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Một số địa phương đã có thành công trong việc cải thiện môi trường đầu tư, kết quả bước đầu thể hiện rõ là đã ổn định được tình hình kinh tế - xã hội, nhiều lĩnh vực biến đổi theo chiều hướng tích cực và khẳng định được vị thế của địa phương trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới kéo dài. Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần cải thiện môi trường đầu tư nhằm từng bước xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi. Hệ thống pháp luật cần phải đảm bảo tính minh bạch, thống nhất, ổn định và có hiệu quả (Nguyễn Thị Thu Hà, 2008). Trong thời gian qua, các tỉnh, thành phố trên cả nước luôn tự khẳng định mình trong cuộc đua thu hút đầu tư thông qua nhiều chính sách để cải thiện thứ hạng xếp bậc về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Đã có nhiều tỉnh, thành phố thành công về phát triển kinh tế - xã hội nhờ thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài do đã làm tốt các chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Đây chính là sự thi đua từng bước khởi nguồn để nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, vậy bài học kinh nghiệm của các địa phương đạt được kết quả trong lĩnh vực này đã được đúc rút như thế nào? Trước hết, là do các địa phương đã xác định được thế mạnh và yếu kém của riêng mình, biết khai thác thế mạnh để tạo thành lợi thế cạnh tranh với các địa phương khác trong thu hút đầu tư. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh có thể được xem là “tập hợp tiếng nói” của các doanh nghiệp đánh giá về môi trường kinh doanh cấp tỉnh với doanh nghiệp đang hoạt động (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI, 2011). Do mỗi địa phương có những lợi thế, vị trí địa - chính trị khác nhau cũng đưa đến xu hướng các chính sách phát triển kinh tế - xã 1
- hội của mỗi địa phương khác nhau để phù hợp với quá trình hội nhập và chủ động khai thác tiềm năng của chính mình. Chính những tác động tích cực trên đây đã tạo ra sự phong phú, đa dạng về quá trình cải thiện môi trường đầu tư. Vì vậy, vai trò và ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển kinh tế của các địa phương trên cả nước thời gian qua đã được chính quyền các tỉnh, thành phố rất coi trọng và nhận thức trong quá trình hội nhập kinh tế thì các tỉnh, thành phố cũng không thể tự mình độc lập phát triển, mà cần thiết phải có sự giao lưu, tiếp nhận hỗ trợ bởi các nguồn lực từ bên ngoài. Các nguồn lực này vừa chính là thành quả chung của nền kinh tế thế giới, vừa thể hiện xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc dịch chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nước phát triển vào các nước có nhu cầu tiếp nhận. Nâng cao năng lực cạnh tranh một tỉnh không tách rời mục tiêu chiến lược phát triển chung của vùng và cả nước. Để thực hiện mục tiêu này, quá trình cạnh tranh giữa các tỉnh không tách rời quan hệ hợp tác, liên kết nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi địa phương. Với hàm nghĩa ấy, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cũng nhằm khai thác thế mạnh mối quan hệ liên vùng, liên kết ngành, liên kết giữa các địa phương trong phạm vi cả nước (Phan Nhật Thanh, 2010). Tỉnh Hưng Yên là địa phương được đánh giá có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Hưng Yên có tiềm năng và đang xuất hiện những lợi thế rất cơ bản để phát triển, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, là vành đai của thủ đô Hà Nội (Tỉnh ủy Hưng Yên, 1997). Mặc dù đã có nhiều cố gắng đổi mới trên nhiều lĩnh vực nhưng trên thực tế Hưng Yên vẫn còn nhiều hạn chế, chính vì thế nên quá trình thu hút đầu tư tại Hưng Yên hơn 16 năm qua chưa tương xứng với lợi thế tiềm năng mà Hưng Yên đang có. Kết quả xếp loại Chỉ số năng lực cạnh tranh cho thấy, Hưng Yên năm 2006 xếp thứ hạng 10/63 tỉnh, thành phố; năm 2007 đứng thứ 25/63; năm 2008 là 20/63; năm 2009 là 24/63; cá biệt năm 2010 Hưng Yên tụt 37 bậc đứng thứ 61/63 tỉnh, thành phố cả nước, năm 2011 xếp thứ hạng 33/63, năm 2012 vươn lên 28/63, năm 2013 giảm mạnh xuống còn 53/63 (VCCI, 2013). Điều này cho thấy môi trường thu hút đầu tư ở Hưng Yên đang gặp những trở ngại từ chính những yếu 2
- tố nội lực của mình. Vậy, chính quyền tỉnh Hưng Yên đã có những tác động gì nhằm tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp nói chung, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện tiếp cận được cơ hội trong hoạt động kinh doanh, qua đó nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Hưng Yên, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng bền vững, tăng cả về số lượng và chất lượng trong hoạt động kinh doanh, góp phần giải quyết việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động, tăng nguồn thu ngân sách địa phương, đóng góp ngày càng nhiều vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh (UBND tỉnh Hưng Yên, 2013). Đây cũng chính là sự đòi hỏi bức thiết, nhằm cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đầu tư của Hưng Yên trong thời gian tới. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục tiêu nghiên cứu chung Thông qua nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của tỉnh Hưng Yên, từ đó luận án sẽ đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đầu tư tại Hưng Yên. 2.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể Luận án nghiên cứu nhằm giải quyết 3 mục tiêu cụ thể. - Góp phần làm sáng rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở cấp tỉnh hiện nay; - Đánh giá thực trạng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư tại tỉnh Hưng Yên những năm qua. - Đề xuất các giải pháp phù hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư với mục tiêu đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Hưng Yên trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 2.3. Câu hỏi nghiên cứu - Năng lực cạnh tranh của một tỉnh bao gồm bởi các yếu tố khác nhau ra sao và được xác định như thế nào? - Môi trường thu hút đầu tư tại Hưng Yên hiện nay đang diễn ra như thế nào? Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của Hưng Yên những năm qua ra sao? Tại 3
- sao kết quả xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh tỉnh Hưng Yên những năm qua liên tục rớt bậc? - Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của Hưng Yên nhằm tăng cường thu hút đầu tư trong thời gian tới là vấn đề cần được nghiên cứu và tháo gỡ như thế nào? 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh trong quan hệ ảnh hưởng tới việc thu hút đầu tư của một địa phương cấp tỉnh. Nghiên cứu các đơn vị hành chính, thành phần doanh nghiệp, các ngành sản xuất, hệ thống tổ chức quản lý chính quyền và đội ngũ cán bộ cấp tỉnh, huyện, thể chế các liên kết, hợp tác, chính sách có liên quan như văn bản pháp lý và thủ tục hành chính. Đề tài nghiên cứu các yếu tố liên quan đến năng lực cạnh tranh của một tỉnh, như: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, thị trường, nguồn nhân lực, yếu tố văn hóa - xã hội 3.1.2. Đối tượng khảo sát Để làm rõ được đối tượng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành điều tra, khảo sát các vấn đề liên quan tại một số đơn vị chức năng chuyên môn của tỉnh. Nghiên cứu các đơn vị, doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn và ý kiến đánh giá của họ về thuận lợi, khó khăn trong quá trình đầu tư và hoạt động tại địa phương. Lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý, chủ các doanh nghiệp làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp liên quan. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài được thực hiện trong khuôn khổ thời gian có hạn, các điều kiện phục vụ cho nghiên cứu cũng được tính toán hợp lý để đảm bảo cho việc đánh giá thực trạng cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế nhằm thu hút đầu tư. Xuất phát từ đó, đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh nhằm thu hút đầu tư, nội dung của nghiên cứu tập trung chính vào các doanh nghiệp phân bố trên địa bàn tỉnh. 1) Về không gian, nội dung nghiên cứu sẽ tiến hành điều tra thu nhận thông tin đại diện các loại hình doanh nghiệp thuộc 10 huyện, thành phố, các cơ quan 4
- quản lý kinh tế và người dân tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa tỉnh Hưng Yên. 2) Về nội dung, nội dung nghiên cứu sẽ xem xét tới các loại hình doanh nghiệp có tính đại diện cao như doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hộ sản xuất kinh doanh. 3) Về thời gian, nội dung nghiên cứu phản ánh các dữ liệu và thông tin mà luận án sử dụng như đối với số liệu thứ cấp trong giai đoạn 2000 đến 2013, số liệu sơ cấp năm 2013. 4. Những đóng góp mới của luận án a) Đóng góp về mặt lý luận Các đề tài nghiên cứu về năng lực cạnh tranh có nhiều, nhưng ít có đề tài đề cập nghiên cứu năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư cho một địa phương cấp tỉnh. Chính vì vậy, luận án sẽ góp phần hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và vấn đề thu hút đầu tư. Từ đó, luận án phân tích đầy đủ hệ thống các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, đồng thời chỉ rõ về sự phụ thuộc, tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố. b) Đóng góp về thực tiễn Luận án sẽ đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện các yếu tố, tác nhân tham gia cấu thành năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút đầu tư ở Hưng Yên. Luận án sẽ là kênh cung cấp thông tin quan trọng để các nhà lãnh đạo tỉnh, thành phố, các cơ quan tham mưu, tổ chức kinh tế và các cá nhân tham khảo. Các giải pháp mà luận án đưa ra không chỉ có ý nghĩa áp dụng thực tiễn đối với tỉnh Hưng Yên, mà mong muốn làm bài học kinh nghiệm cho các địa phương khác ứng dụng, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường thu hút đầu tư cho địa phương mình. 5
- Chương 1 TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ 1.1. Lý luận nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư 1.1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh Cạnh tranh, nói chung là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao nhất. Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ không có sinh tồn và phát triển. Đó là quy luật tồn tại của môn loài. Trong kinh tế, cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ) bằng các phương pháp và biện pháp khác nhau như kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quân sự, tâm lý xã hội (Trần Sửu, 2005). Tuy nhiên, ở mỗi một giác độ nghiên cứu, mỗi giai đoạn lịch sử và của mỗi tác giả thì có những quan điểm về cạnh tranh khác nhau. Vì vậy, cho tới nay sự thừa nhận một khái niệm chuẩn về cạnh tranh vẫn chưa được thống nhất. Có nhiều quan điểm về cạnh tranh khác nhau, thuộc nhiều trường phái nhưng tiêu biểu là các đại diện như Adam Smith; John Stuart Mill; Darwin; K.Marx Với mỗi đại diện trên đưa ra quan điểm về cạnh tranh là khác nhau, tùy thuộc vào các hướng nghiên cứu ở mỗi lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau. Tuy nhiên, ở nội dung nghiên cứu này, luận án của tác giả chủ yếu tập trung đề cập tới khái niệm cạnh tranh kinh tế (Economic Competition). Trong nghiên cứu của mình cũng đã nêu rõ, quan điểm cạnh tranh của K.Marx và cho rằng sự ra đời và tồn tại của cạnh tranh trước hết phải dựa vào hai điều kiện cơ bản: (1) Phân công xã hội; (2) Chủ thể lợi ích đa nguyên (Trần Văn Tùng, 2004). Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) cũng đã chỉ rõ, cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ 6
- cung cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất, dẫn theo (Bùi Thị Thanh Hà, 2000). Trên thực tế, cạnh tranh đã tồn tại trong tất cả các quan hệ của đời sống từ chính trị, tôn giáo, kinh tế - xã hội tới các tổ chức hội, ngành. Vậy cạnh tranh là gì, được hiểu và vận dụng như thế nào trong suốt thời gian qua và định hình cho chiến lược thời gian tiếp theo của mỗi địa phương. Chúng ta đã thấy rõ, cạnh tranh luôn luôn tồn tại và không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các chủ thể, nếu các chủ thể có cùng mục đích, hành động dù xuất phát theo các cách khác nhau thì cũng sẽ dẫn tới cạnh tranh với nhau nhằm tìm kiếm mục đích riêng của chính mình. Với tư cách là hiện tượng xã hội, theo cuốn từ điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992, cạnh tranh được định nghĩa là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình” (Lê Danh Vĩnh và cộng sự, 2010). Trong nền kinh tế thị trường, cùng với quy luật giá cả, quy luật cung cầu thì quy luật cạnh tranh đã tác động tích cực tới hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng hàng hóa. Nhận thức và thấy được vai trò của cạnh tranh, bởi vậy cạnh tranh chính là những động lực và thử thách của các nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp thu từ những nghiên cứu trên, tác giả cho rằng: Cạnh tranh chính là biện pháp đặc biệt mà các tập thể, cá nhân quyết liệt nhằm giành về phía mình những điều kiện thuận lợi hơn từ môi trường bên ngoài và từ các tập thể, cá nhân khác có cùng mục đích. Các khái niệm về cạnh tranh trên đây chủ yếu gắn liền đến quyền lợi hoặc mục đích giữa các cá nhân, tổ chức kinh tế với nhau. Cùng với quá trình phát triển của xã hội khái niệm của cạnh tranh đã vượt ra khỏi phạm vi của một một sản phẩm, một cá nhân, một tổ chức và hình thành nên ở phạm vi rộng hơn, đó là cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các vùng lãnh thổ. Cạnh tranh cũng được thể hiện theo nhiều tiêu chí, giác độ nhìn nhận khác nhau nên rất đa dạng và phức tạp. Sự đa dạng, phức 7
- tạp của khái niệm cạnh tranh xuất phát từ sự đa dạng của đời sống kinh tế - xã hội, sự đa dạng về cách nhìn và cũng xuất phát từ nhu cầu của sự phát triển. 1.1.1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh Khái niệm về năng lực cạnh tranh đã được bàn thảo nhiều và đưa ra theo nhiều quan điểm khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Viện Quản lý kinh tế Trung ương và Học viện năng lực cạnh tranh Châu Á của Singapore quan niệm về năng lực cạnh tranh gồm năng lực cạnh tranh vĩ mô, với các nhóm nhân tố chất lượng của hạ tầng xã hội và thể chế chính trị cũng như các chính sách kinh tế vĩ mô. Năng lực cạnh tranh vi mô gồm các nhóm nhân tố như sự tinh thông của doanh nghiệp, trình độ phát triển của các cụm ngành và chất lượng của môi trường kinh doanh. Bên cạnh đó là các lợi thế tự nhiên cũng là một nhóm nhân tố nữa cần xem xét, vì nhóm nhân tố này cũng tạo ra một môi trường tổng thể mà trong đó vì vị thế tương đối của nó so với các nền kinh tế khác được xác định. Tổng hợp khái niệm về năng lực và năng lực cạnh tranh, theo đó năng lực là: 1) những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì đó; 2) khả năng đủ để thực hiện tốt một số công việc. Năng lực cạnh tranh là khả năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên cùng một thị trường tiêu thụ (Nguyễn Như Ý, 2008). Trong rất nhiều các công trình đã được công bố, nhiều học giả đã đề cập tới các thuật ngữ nhằm mô tả quá trình tăng trưởng kinh tế quốc gia, phát triển doanh nghiệp, phát triển sản phẩm mới, ngành hàng bằng các khái niệm như sức cạnh tranh, lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, tính cạnh tranh, năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh là khả năng tạo lập được những thuận lợi hay lợi thế của chủ thể cạnh tranh thông qua quá trình đổi mới và sáng tạo liên tục nhằm đạt được mục tiêu với hiệu qủa cao và bền vững (Phan Nhật Thanh, 2010). Một số công trình nghiên cứu gần đây, các tác giả đã thể hiện khái niệm năng lực cạnh tranh như là một kết quả bao quát của nhiều yếu tố được lựa chọn làm cơ sở tổng hợp mà xuất phát từ tất cả các yếu tố tác động tới môi trường bên trong và bên ngoài của các cá nhân, tổ chức hay ở phương diện doanh nghiệp, tỉnh, thành phố, quốc gia. 8
- Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả khái quát chung về năng lực cạnh tranh đối với một địa phương như sau: Năng lực cạnh tranh là khả năng tập hợp đầy đủ các nguồn lực, lợi thế của chính địa phương mình và được vận dụng phát huy tối đa các nguồn lực, lợi thế đó nhằm mang lại hiệu quả cao thực hiện những mục tiêu nhất định so với các điều kiện chung, giống nhau với các địa phương khác. 1.1.1.3. Khái niệm về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Theo Briguglio and Cordina (2004) cho rằng việc phát triển các vùng sẽ xuất phát đáng kể vào nâng cao khả năng cạnh tranh của vùng này, từ đó giúp cho cả quốc gia trở nên mạnh mẽ hơn. Vì vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các tỉnh, thành phố ở nước ta cũng sẽ càng trở nên ý nghĩa hơn. Kết hợp với ý nghĩa nội hàm các khái niệm cạnh tranh đã trình bày, đặc biệt là khái niệm cạnh tranh vùng, địa phương ta có thể nhận thấy hoạt động cạnh tranh cấp tỉnh được diễn ra trong một trật tự chung dưới sự tác động bởi các chính sách từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh sẽ được hiểu hoàn toàn khác, xuất phát từ sự gắn bó, kết nối và có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ bởi vai trò dẫn dắt của chính quyền cấp tỉnh với các lợi thế của địa phương. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là khả năng ganh đua của các tỉnh nhằm thu hút đàu tư phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở lợi thế của địa phương trong mối quan hệ liên kết với những địa phương khác trong phạm vi quốc gia (Phan Nhật Thanh, 2010). Cùng với quá trình hội nhập và thu hút đầu tư nước ngoài, khái niệm cạnh tranh cấp tỉnh ở nước ta càng được quan tâm nhiều hơn. Chính vì vậy, cần phải hiểu đúng và đầy đủ về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, từ đó giúp các tỉnh có biện pháp tương xứng, phù hợp để không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh cho địa phương mình, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Tuy nhiên khái niệm này đưa ra chưa nhiều nên có thể hiểu đó là năng lực cạnh tranh của một tỉnh nhằm đạt được một mục đích nào đó, hoặc dùng để đánh giá so sánh giữa các địa phương với nhau theo một tiêu chí quản lý nào đó và được phản ánh qua các tiêu chí cụ thể. Theo quan điểm của tác giả thì năng lực cạnh tranh cấp tỉnh chính là thể hiện tối ưu hóa sự khác biệt trong xây dựng đường lối phát triển kinh tế - xã hội bởi vai trò lãnh đạo cấp tỉnh, nhằm đạt được mục tiêu cao nhất về phát triển kinh tế - xã hội cho từng thời kỳ cụ thể. 9
- Trong tư duy cạnh tranh phát triển bền vững, năng lực cạnh tranh của tỉnh được đánh giá chủ yếu trong con mắt của nhà đầu tư và doanh nghiệp mà không chỉ dưới góc nhìn chính quyền tỉnh. Đồng thời, các tỉnh cạnh tranh đặt trong mối quan hệ hợp tác, liên kết để phát huy tốt nhất lợi thế của mỗi tỉnh trong khung khổ luật pháp quốc gia và thông lệ quốc tế (Phan Nhật Thanh, 2010). 1.1.1.4. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là khái niệm mới được sử dụng trong những năm gần đây mà một số tổ chức trên thế giới thường tập trung phân tích để đánh giá năng lực cạnh tranh cấp quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm. Ở Việt Nam, tổ chức có uy tín và kinh nghiệm lâu năm trong việc theo dõi, hỗ trợ hoạt động kinh tế và phát triển doanh nghiệp là Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam cùng với sự hỗ trợ của cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ tại Việt Nam (USAID) đã tổ chức khảo sát đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh của các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hay PCI (Provincial Competitiveness Index) là chỉ số được xây dựng nhằm đánh giá môi trường kinh doanh, chất lượng điều hành kinh tế và các nỗ lực cải cách hành chính của chính quyền các tỉnh, thành phố của Việt Nam (VCCI, 2013). Phạm vi nghiên cứu của đề tài liên quan đến vấn đề thu hút đầu tư, nên để hiểu và phản ánh toàn diện năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, thì kết quả nghiên cứu chỉ số PCI của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam sẽ là một kênh quan trọng được dùng làm căn cứ để nghiên cứu và thực hiện mục tiêu của luận án này. Cũng cần phải hiểu rằng, việc tiếp cận đầy đủ năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ở đây căn cứ vào chỉ số PCI cần được hiểu rõ nội hàm của chỉ số PCI so với các khái niệm về năng lực cạnh tranh khác. Bởi PCI là sự nhìn nhận từ phía ngoài do các doanh nghiệp đánh giá, nhận định về môi trường thu hút đầu tư của một tỉnh. Mặc dù được nhìn nhận, đánh giá từ bên ngoài nhưng nó là kết quả phản ánh từ các yếu tố bên trong của địa phương. Nói khác đi, năng lực cạnh tranh của một tỉnh phụ thuộc chủ yếu từ các yếu tố bên trong, đó là các điều kiện của tỉnh đã, đang hoặc chưa được triển khai vì mục đích thu hút đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Với các ý nghĩa 10
- trên đây, PCI được coi là dấu hiệu quan trọng để các địa phương tự soi xét mình, tự điều chỉnh trong cuộc cạnh tranh để thu hút đầu tư giữa các địa phương với nhau. 1.1.1.5. Khái niệm về nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Với rất nhiều công trình đã và đang nghiên cứu về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, nhưng chưa có sự xem xét hay đánh giá toàn diện nào về nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Việc nghiên cứu nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh khác với nội dung các nghiên cứu về lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh. Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được nghiên cứu xuất phát từ một phạm vi, không gian riêng biệt của mỗi tỉnh mà ở đó có nhiều yếu tố tác động, thay đổi theo đòi hỏi của các chủ thể khác nhau. Vì thế, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh phải xuất phát từ sự tổng hợp các thế mạnh của địa phương, mang ý nghĩa kinh tế, cụ thể là thu hút đầu tư hiệu quả để các thế mạnh của địa phương được phát huy tối đa. Quá trình này được diễn ra nhịp nhàng, với tư duy kinh tế của đội ngũ lãnh đạo tỉnh kết hợp với lợi thế của địa phương mình, từ đó có các chính sách hợp lý, hiệu quả hơn so với các tỉnh, thành phố khác. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là khả năng thu hút đầu tư, tạo lập môi trường thuận lợi, thông thoáng, lành mạnh trong phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là yêu cầu tất yếu đặt ra trong công cuộc đổi mới hiện nay. Điều này cũng trả lời cho câu hỏi tại sao có những tỉnh, thành phố luôn có sức hút đầu tư mạnh, ngược lại, có những tỉnh vẫn chưa có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư (Nguyễn Thị Thu Hà, 2008). Với những nội dung trên, có thể khái quát về nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là một quá trình đổi mới liên tục nhằm phát huy các thế mạnh sẵn có, trên cơ sở kết hợp giữa các lợi thế của địa phương với nhau để xây dựng một môi trường thu hút đầu tư hiệu quả. 1.1.2. Phân loại cạnh tranh, năng lực cạnh tranh 1.1.2.1. Phân loại cạnh tranh Với rất nhiều công trình, đề tài đã đề cập tới những loại cạnh tranh, song với những cách tiếp cận khác nhau có thể phân chia các loại cạnh tranh trong kinh tế dưới các hình thức dưới đây. 11
- Xem xét dưới giác độ tích cực hay không tích cực, cạnh tranh phân thành cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. - Cạnh tranh lành mạnh: Cạnh tranh lành mạnh đúng như cái tên của nó là cạnh tranh đẹp và trong sáng, phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường, cạnh tranh bằng những tiềm năng vốn có của bản thân doanh nghiệp như: đăng ký nhãn hiệu thương phẩm, hạ giá bán hàng hóa trên cơ sở đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, liên tục đổi mới phương thức giao tiếp với khách hàng (Tăng Văn Nghĩa, 2007). - Cạnh tranh không lành mạnh: có thể hiểu là những hành vi cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường vi phạm những chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường, có thể gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng (Viên Thế Giang, 2011). Nếu xem xét dưới giác độ giới hạn có cạnh tranh tự do và cạnh tranh độc quyền. - Cạnh tranh tự do: Cạnh tranh tự do ra đời đầu tiên tại Phương Tây với sự bùng nổ của chủ nghĩa tự do. Bất cứ ai cũng có quyền điều tra thị trường, khám phá thị trường và gia nhập thị trường. Thậm chí, người ta còn có thể bắt chước nhau trên thị trường. Người tiêu dùng có vô số quyền lựa chọn đối với hàng hóa và nhà cung cấp. Trong sự ganh đua tự do như vậy, đào thải tự nhiên là quy luật tất yếu: Kẻ mạnh ở lại và kẻ yếu ra đi. Sự đào thải hoàn toàn dựa vào khả năng thực có của các bên và ở một khía cạnh nào đó thì công bằng xã hội được thiết lập. Rõ ràng sự can thiệp của công quyền lúc này sẽ bóp méo quy luật đào thải trên (Tăng Văn Nghĩa, 2007). - Cạnh tranh độc quyền: Cạnh tranh độc quyền là cấu trúc thị trường nằm ở giữa cạnh tranh và độc quyền. Nhưng độc quyền nhóm và cạnh tranh độc quyền lại khác hẳn nhau. Trái lại trong cạnh tranh độc quyền, có nhiều người bán trên thị trường và mỗi người trong số họ có quy mô nhỏ so với thị trường. Thị trường cạnh tranh độc quyền lệch khỏi cạnh tranh tranh hoàn hảo bởi vì mỗi người bán đưa ra một sản phẩm khác nhau đôi chút (Mankiw, 2003). Dưới giác độ sản xuất kinh doanh được xem xét mang tính cá biệt có cạnh tranh sản phẩm, cạnh tranh doanh nghiệp. 12
- - Cạnh tranh sản phẩm: Là cạnh tranh giữa các loại sản phẩm hàng hóa với nhau được sản xuất trong cùng một doanh nghiệp hay giữa các doanh nghiệp khác nhau về các tiêu chí chất lượng, giá cả, mẫu mã - Cạnh tranh doanh nghiệp là một doanh nghiệp làm khác biệt hóa chính mình so với các đối thủ cạnh tranh nếu doanh nghiệp có điều gì đó là duy nhất và điều đó có giá trị cho những người mua (Porter, 2010). Khi xem xét dưới giác độ về phạm vi liên quan đến địa giới hành chính, địa lý có cạnh tranh quốc gia, cạnh tranh vùng lãnh thổ. - Cạnh tranh quốc gia, thường được phân tích theo quan điểm tổng thể, chú trọng vào môi trường kinh tế vĩ mô và thể hiện vai trò của chính phủ (Phan Nhật thanh, 2010). - Cạnh tranh vùng lãnh thổ (cạnh tranh cấp tỉnh) cũng được phân tích theo quan điểm tổng thể, chú trọng vào môi trường kinh tế cấp tỉnh và thể hiện vai trò của chính quyền cấp tỉnh. Cạnh tranh cấp tỉnh gắn với phân cấp ngày càng rộng hơn cho chính quyền cấp tỉnh và xu hướng phi tập trung hóa trong quản lý kinh tế, trong đó có quản lý đầu tư (Phan Nhật thanh, 2010). Với những hình thức cạnh tranh xuất hiện trên, ở mỗi góc độ tác động khác nhau, đều có thể đem tới hậu quả không tốt, cũng có thể đưa đến cơ hội phát triển cho chính các chủ thể liên quan. Xem xét giác độ tác động không tích cực, cạnh tranh tác động xấu đến người sản xuất và người tiêu dùng, để lại sự lãng phí các nguồn lực xã hội, kéo lùi sự phát triển chung của nền kinh tế. Nếu xét dưới giác độ tích cực, cạnh tranh sẽ đưa lại “sự sàng lọc khôn ngoan” nhất, đồng thời cũng tạo ra các điều kiện, cơ hội cho sự phát triển. Để hạn chế những tác động xấu của cạnh tranh, cần thiết phải có sự điều chỉnh từ một trung tâm đó là Nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng như vậy, ngày 01 tháng 7 năm 2005 Luật cạnh tranh đã được thực thi và có hiệu lực tại nước ta và bao gồm những quy định cụ thể cho vấn đề cạnh tranh ở Việt Nam. 1.1.2.2. Phân loại năng lực cạnh tranh Tùy thuộc vào mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, thì việc phân loại năng lực cạnh tranh được dựa trên các tiêu chí, phạm vi, tính chất, được nhìn nhận 13
- ở các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong nội dung của nghiên cứu này chúng tôi tập trung đề cập tới cách phân loại năng lực cạnh tranh chủ yếu nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. - Năng lực cạnh tranh quốc gia Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định được kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của dân (Lương Gia Cường, 2003). Theo Ủy ban cạnh tranh của Tổng thống Mỹ, cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó (Chu Văn Cấp, 2003). Tại diễn đàn Liên hợp quốc trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2003 đã đưa ra định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính trên đầu người theo thời gian. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia được xác định trước hết bằng mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, và sự có mặt (hay thiếu vắng) các yếu tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế đã thực hiện (Nguyễn Đăng Doanh và cộng sự, 1998). - Năng lực cạnh tranh vùng (địa phương) Khi đề cập tới năng lực cạnh tranh của vùng (địa phương), dường như các yếu tố đất đai, tài nguyên, vị trí địa lý, dân số luôn được xem xét nhiều hơn, trên thực tế các vùng (địa phương) nếu biết kết hợp sử dụng hiệu quả các nguồn lực trên mới là quan trọng nhất và đạt mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, lợi ích lâu dài của việc khám phá các nguồn lực sẵn có tại địa phương lại nằm trong quá trình đổi mới và triển khai hợp lý với thực tế. Kết quả cuối cùng của năng lực cạnh tranh địa phương trong lĩnh vực kinh tế được thể hiện là những thông tin về tăng trưởng kinh tế, các vấn đề an sinh xã hội, trình độ dân trí, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế phản ánh rõ nét nhất. 14
- Vì vậy, năng lực cạnh tranh của địa phương chính là việc tập hợp đầy đủ ưu điểm của các nguồn lực sẵn có mang lại để rút ngắn quá trình tự vận động nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương hiệu quả hơn. - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Nhận định về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và đã đưa ra các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ được chia thành hai nhóm; nhóm các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Đồng thời đã đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có nghĩa là các khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao, chiếm lĩnh nhiều thị phần để tiêu thụ sản phẩm của mình, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững (Trần Sửu, 2005). Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của mình một cách lâu dài và bền vững trên thị trường cạnh tranh bằng cách tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hợp lý, cách bán thuận tiện và thu được mức lợi như mong muốn (Phan Trọng Phúc, 2007). Với mỗi doanh nghiệp, thì việc tìm, phát hiện ra lợi thế của mình để từ đó có biện pháp xây dựng, tập hợp các lợi thế so sánh với đối thủ nhằm cạnh tranh trong việc chiếm lĩnh thị trường và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của người mua sản phẩm. Xét theo một khía cạnh khác, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới, tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và đảm bảo sự phát triển bền vững. Sự tồn tại và sức sống của một doanh nghiệp thể hiện trước hết ở năng lực cạnh tranh. Để từng bước vươn lên giành thế chủ động trong quá trình hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh chính là tiêu chí phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam (Nguyễn Thế Nghĩa, 2009). Trong nghiên cứu của mình Porter (2004) đã chỉ ra khái niệm mới về năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, chẳng hạn như theo chi phí và giá cho tới lợi nhuận và cách phân chia, đây hoàn toàn là những ý tưởng quan trọng cho bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển lâu dài. 15
- Vì vậy, chúng ta có thể thấy rõ, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần được nhìn nhận và phân tích cụ thể mọi yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì mỗi loại hình doanh nghiệp lại có năng lực cạnh tranh khác nhau, đồng thời các tiêu chí để nhìn nhận và đánh giá năng lực cạnh tranh cũng khác nhau. - Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và năng lực cạnh tranh của ngành Ngày nay sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ và sự kết nối thông tin cùng với việc mua, bán sở hữu các bằng phát minh sáng chế được phổ biến rộng rãi đã tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để phục vụ khách hàng tốt nhất. Chính điều này đã làm cho sản phẩm của các doanh nghiệp, các ngành trở nên đồng đều về kiểu dáng, chất lượng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có một số dòng sản phẩm của một số ít doanh nghiệp vẫn có sự vượt trội so với sản phẩm tương đồng. Đây chính là kết quả của quá trình cạnh tranh tạo ra những cá biệt trong việc tiết giảm chi phí sản phẩm, tổ chức sản xuất hiệu quả, nắm bắt thị hiếu, thẩm mỹ người tiêu dùng, Chính sự thành công từ những cá biệt trên nên sản phẩm của họ có nhiều đặc tính vượt trội, đã đưa đến nhiều lợi thế cạnh tranh hơn với các sản phẩm khác trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó bán được nhiều và nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, thời gian cung cấp, dịch vụ đi kèm, điều kiện mua – bán, danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp, của thương hiệu. Từ đó cũng thấy rõ, các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm là; (1) Giá cả của sản phẩm; (2) Chất lượng của sản phẩm; (3) Chủng loại kiểu dáng của sản phẩm; (4) Thời gian cung cấp sản phẩm và thương hiệu của sản phẩm (Trần Sửu, 2005). Nói tới cạnh tranh ngành, nhiều tác giả cũng đã đưa ra các quan điểm của mình về ngành, nói chung ngành thường khó phân định cụ thể và tập hợp đầy đủ đúng ý nghĩa kinh tế, mà ngành thường là sự thống kê có tính chất mô tả chung chung. Vì vậy khái niệm năng lực cạnh tranh ngành thường không rõ ràng, ngay trong một cơ cấu kinh tế chung của một tỉnh, thành phố thì sự thể hiện khái niệm ngành, hay năng lực cạnh tranh ngành cũng khó được diễn tả. 16
- Đề cập tới khái niệm năng lực cạnh tranh “năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc một ngành, quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác, quốc gia khác đánh bại về kinh tế” (Bạch Thụ Cường, 2002). 1.1.3. Cấu thành năng lực, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 1.1.3.1. Cấu thành năng lực cạnh tranh Với rất nhiều công trình đã nghiên cứu, các học giả lần lượt đưa ra những tiêu chí khác nhau về đánh giá năng lực cạnh tranh ở từng cấp độ. Mỗi quốc gia có những điều kiện về vị trí địa lý, nguồn tài nguyên, chất lượng nguồn lao động là khác nhau nên các mô hình doanh nghiệp, sản phẩm làm ra cũng mang tính đặc sắc riêng biệt. Từ đó, quan niệm của các học giả trong quá trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh được nhìn nhận, đúc rút từ nhiều phía. Xét trên từng cấp độ, tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh cũng có những điểm giống và khác nhau, tùy thuộc vào phạm vi và mục đích đánh giá. - Tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh quốc gia WEF cũng đã đưa ra một khung khổ các yếu tố xác định năng lực cạnh tranh tổng thể của một quốc gia và phân chia các yếu tố này thành 8 nhóm chính, bao gồm hơn hai trăm chỉ số khác nhau. Các nhóm chỉ số xác định tính cạnh tranh chủ yếu có thể là: 1). Độ mở cửa nền kinh tế bao gồm các chỉ số như thuế quan và các hàng rào phi thuế quan hạn chế nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái; 2). Nhóm chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của chính phủ, bao gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, qui mô của Chính phủ, thuế và mức độ trốn thuế, chính sách tài khóa; 3). Các yếu tố về tài chính bao gồm các nội dung về khả năng thực hiện các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính, đầu tư và tiết kiệm; 4). Các yếu tố về công nghệ bao gồm những chỉ số về năng lực phát triển công nghệ trong nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoặc phát triển công nghệ thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác; 5). Các yếu tố về kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc, các kết cấu hạ tầng khác; 6). Quản trị, bao gồm các chỉ số về quản lý nguồn nhân lực và các yếu tố quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực; 7). Các yếu tố về lao động, bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của 17
- các chương trình xã hội, quan hệ lao động trong một ngành; 8). Các yếu tố về thể chế gồm các chỉ số về chất lượng các thể chế pháp lý, các luật và các văn bản pháp quy khác (Nguyễn Đăng Doanh và cộng sự, 1998). Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng bổ sung và chủ yếu tập trung một số tiêu chí xem xét năng lực cạnh tranh quốc gia như: Nguồn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên; chất lượng kết cấu cơ sở hạ tầng; các chính sách liên quan tới thuế và đất đai; mức độ cạnh tranh giữa các quốc gia; chất lượng nguồn lao động; các thủ tục hành chính. - Tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh của vùng, địa phương Năng lực cạnh tranh vùng, địa phương trên thực tế chưa được xem xét, tách ra cụ thể, bởi đã có nhiều nghiên cứu tập trung vào năng lực cạnh tranh của sản phẩm, ngành, quốc gia, vì thế để làm rõ hơn phạm vi của vùng, địa phương và gắn với nghiên cứu tiêu chí riêng phản ánh năng lực cạnh tranh của vùng, địa phương cần được tiếp tục thống nhất. Trong nghiên cứu của mình, Vũ Thành Tự Anh (2009) cũng đã đưa ra nhóm nhân tố tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh cấp địa phương như: (i) Chất lượng của hạ tầng xã hội và các thể chế chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế; (ii) Các thể chế, chính sách kinh tế như là chính sách tài khóa, tín dụng và cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, việc đề cập năng lực cạnh tranh cấp vùng và chính sách chung của vùng là không phân định rõ ràng được, vì vậy mới chỉ đề cập tới việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh cấp địa phương (cấp tỉnh, thành phố). - Tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm: 1). Tổ chức của doanh nghiệp và phân công trách nhiệm; 2). Trình độ của đội ngũ lãnh đạo; 3). Tỷ lệ nhân viên, công nhân lành nghề, đây là đòi hỏi quan trọng, nhất là ở thời đại mà việc cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm trở nên rất gay gắt như hiện nay; 4). Số sáng kiến, cải tiến, đổi mới hàng năm được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh; 5). Chất lượng cơ sở vật chất, kỹ thuật, bao gồm nhà xưởng, hệ thống kho tàng, hệ thống cung cấp năng lượng, hệ thống nước, công nghệ sản xuất và quản lý, mạng thông tin; 6). Năng lực tài chính doanh nghiệp; 7). Chất lượng và uy tín của sản 18
- phẩm - năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp; 8). Thị phần tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp; 9). Năng suất lao động của doanh nghiệp - chỉ tiêu tổng hợp của mọi yếu tố: con người, công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức phối hợp; 10). Chất lượng môi trường sinh thái của doanh nghiệp; 11). Giá trị vô hình của doanh nghiệp - tiêu chí mang tính phổ cập (Trần Sửu, 2005). Với các tiêu chí trên đã phản ánh khá đầy đủ các nội dung thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy theo giác độ và mục đích đánh giá mà mức độ các tiêu chí được xem xét và quan tâm khác nhau. - Tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh của sản phẩm Trong nghiên cứu của mình, Trần Sửu (2005) cũng đã tổng hợp đưa ra một số các yếu tố liên quan tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm đó là: 1). Chất lượng sản phẩm, là mức độ của một tập hợp các đặc tính của sản phẩm làm thỏa mãn nhu cầu; 2). Giá cả, là yếu tố quan trọng thứ hai phản ánh năng lực cạnh tranh của sản phẩm; 3). Thời gian cung cấp hàng phải kịp thời, phải nhanh; 4).Các dịch vụ đi kèm- hệ thống dịch vụ phục vụ khách hàng trước, trong và sau khi bán hàng. - Tiêu chí của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Theo nghiên cứu của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã công bố, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hiện nay được xem xét bởi các chỉ số thành phần, bao gồm 9 yếu tố cấu thành như sau: 1) Chi phí gia nhập thị trường; 2) Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất; 3) Tính minh bạch; 4) Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước; 5) Chi phí không chính thức; 6) Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh; 7) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; 8) Chất lượng đào tạo lao động; 9) Thiết chế pháp lý (VCCI, 2012). Qua những chỉ số thành phần trên, ta có thể thấy rõ việc nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cần thiết phải có một chiến lược tổng thể, lâu dài đồng bộ với 9 chỉ số thành phần, không xem trọng quá hay giảm sự quan tâm đối với chỉ số thành phần nào. Chính quyền cấp tỉnh cũng cần xem xét theo đặc tính thời gian, không gian đối với mỗi chỉ số thành phần, bởi các chỉ số này có thể biến động theo đòi hỏi chung của xu hướng kinh tế. 19
- 1.1.3.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Như đã phân tích phần trên, chúng ta nhận thấy những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đều có sự phụ thuộc lẫn nhau, bởi tác động của mỗi yếu tố thường dựa vào sự thay đổi trạng thái của yếu tố khác. Trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc điểm cốt yếu là sự đổi mới và thay đổi hợp lý, thay vì việc bị giới hạn bởi phạm vi, khung chính sách của Trung ương và kinh nghiệm cố hữu của địa phương. Vì vậy để tiếp tục xem xét, đánh giá toàn diện về quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, chúng ta sẽ tìm hiểu về nhóm yếu tố tham gia cấu thành năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư cấp tỉnh. - Nhóm yếu tố bên ngoài Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có những yếu tố tương đối quan trọng, bởi chúng góp phần định hình môi trường kinh doanh, nơi mà các yếu tố khác phải đối mặt với sự thay đổi bất ngờ. Về chính sách của Chính phủ, đặc biệt là chính sách thuế, đây là một trong những quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư, sự thay đổi của chính sách thuế thường dễ nhận biết nhất, do đó vai trò ảnh hưởng của thuế là rất lớn tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, yếu tố về sự thay đổi của thuế là do Chính phủ định hình, thuộc phạm vi bên ngoài so với vai trò của chính quyền tỉnh, nhưng thuế có liên quan tới các chính sách thu hút đầu tư khác của cấp tỉnh. Tính hiệu quả lại đưa ra những yêu cầu khác, trước hết đó là đánh giá thuế sao cho gây ra sự mất không nhỏ nhất cho xã hội. Yêu cầu này đòi hỏi phải có mức thuế suất khác nhau đối với các loại hàng hóa khác nhau, mức thuế suất cao hơn đối với các loại hàng hóa có mức cung và cầu ít co giãn và thấp hơn với các hàng hóa có cung và cầu co giãn lớn (Vũ Thị Ngọc Phùng, 2005). Chính sách phát triển kinh tế, trong đó là chính sách thuế sẽ tác động tới việc điều chỉnh các gói ưu đãi đối với nhóm dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh, vì vậy việc quy hoạch lấp đầy dự án trong các KCN, cũng như chiến lược phát triển các làng nghề địa phương sẽ phần nào cũng bị ảnh hưởng. Về biến động kinh tế - xã hội, trong tình hình hiện nay, việc hợp tác trực tiếp giữa các doanh nghiệp, ngành, địa phương là rất sâu rộng và có sự liên kết chặt chẽ. 20
- Sự hợp tác này có thể kích thích các chính sách của cấp tỉnh trong phát triển kinh tế, cũng như có thể làm suy yếu năng lực cạnh tranh của cấp tỉnh. Sự biến động, thay đổi của việc thực thi các hiệp định thương mại trong lĩnh vực kinh tế với các quốc gia khác sẽ tác động tới thị trường của các doanh nghiệp, điều này ảnh hưởng rộng tới sự tính toán, cân nhắc của nhà đầu tư, do đó ảnh hưởng tới quy mô mở rộng, hay thu hẹp sản xuất của doanh nghiệp. Biến động của thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản, thị trường lao động, đã kéo theo sự khan hiếm nguồn lực đầu vào cho doanh nghiệp, trước tình hình này buộc các nhà đầu tư phải phản ứng linh hoạt để bảo toàn quyền lợi của mình. Trong trường hợp biến động có chiều hướng tốt lên, doanh nghiệp sẽ yên tâm phát triển sản xuất, ngược lại sẽ làm chậm tổng thể quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của cấp tỉnh do các dự án đầu tư lớn đều thuộc lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, phát triển nguồn nhân lực cần nhiều vốn sẽ bị ảnh hưởng. Nguồn tài nguyên thiên nhiên, đây được xem làm một trong những yếu tố sản xuất quan trọng giành lợi thế cạnh tranh ban đầu, khi nhà đầu tư cân nhắc, lựa chọn địa phương đầu tư. Song song với những yếu tố khác mà nhà đầu tư quan tâm như vị trí địa lý, chất lượng cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí, thì điểm hấp dẫn của sự sẵn có nguồn tài nguyên cũng giành được sự chú ý lớn, tuy nhiên đối với các dự án có trình độ công nghệ khác nhau không phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thì điểm này lại chưa trở thành mối quan tâm hàng đầu. - Nhóm yếu tố bên trong Một trong những lý do khiến phạm vi của việc nâng cao năng lực cạnh tranh trở nên khác biệt, đó chính là những yếu tố thuộc về nội tại của một tỉnh, thành phố. Điều này cũng giải thích tại sao một địa phương tỉnh, thành phố lại có những bước cải tiến không ngừng tạo dựng môi trường kinh doanh, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh thành công hơn so với các địa phương khác. Yếu tố về năng lực cán bộ, khai thác tài nguyên con người là một trong những điểm mạnh quan trọng cho hiệu quả công việc, từ đó sẽ quyết định tới nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, đây là một đặc trưng khác biệt so với mọi yếu tố khác. 21
- Đào tạo và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, có kế hoạch đào tạo cán bộ khoa học đầu đàn ở các ngành. Từng bước thực hiện đấu thầu đề tài khoa học, gắn cán bộ khoa học với kết quả nghiên cứu của họ bằng lợi ích thỏa đáng. Khuyến khích mạnh cán bộ khoa học và công nghệ công tác ở nông thôn. Tăng cường trang thiết bị hiện đại trong các lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, đo lường và kiểm tra chất lượng (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, 2009). Năng lực của cán bộ quyết định năng lực của toàn bộ bộ máy quản lý cấp tỉnh, huyện, xã, kiến thức tích lũy được của mỗi cá nhân là khác nhau, song sự điều phối hoạt động giữa các sở, ban, ngành và cách phân bổ nhiệm vụ nhằm chuyên môn hóa là rất quan trọng. Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2003). Để phát huy hiệu quả các lợi thế giúp cho năng lực tranh cấp tỉnh được nâng cao, hay bị giảm sút phần lớn phụ thuộc vào năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, vì vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cần thiết phải chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ và bố trí sử dụng cán bộ phù hợp các vị trí công tác. Yếu tố chính sách thu hút đầu tư của chính quyền cấp tỉnh có vai trò nổi bật, cụ thể như cải cách thủ tục hành chính trong nâng cao năng lực cạnh tranh, bởi chính sách này có ảnh hưởng tới hầu hết lợi ích của doanh nghiệp, người lao động và địa phương cả tích cực và tiêu cực. Vị trí địa lý cũng là một tài sản quan trọng, có giá trị trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Sự sẵn có các yếu tố có lợi về vị trí địa lý sẽ trở nên rất quan trọng với nhà đầu tư, từ kỳ vọng về chi phí thấp cho vận chuyển, tới tiếp cận thuận lợi các thị trường lớn. Đối với những địa phương sở hữu vị trí địa lý thuận lợi sẽ có cơ hội lớn để tăng cường khả năng thu hút đầu tư, tạo sự khác biệt, đặc trưng quan trọng so với các tỉnh khác. Ngược lại với thuận lợi này, khi địa phương không làm tốt công tác quy hoạch phát triển các KCN, CCN và công tác quản lý dự án đầu tư, các lợi thế trên sẽ nhanh chóng lãng phí, trở nên kém giá trị đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. 22
- Chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế là rất quan trọng, thực tế cho thấy sự khác nhau khá lớn giữa các tỉnh, thành phố trong việc khai thác thế mạnh này, mối quan hệ gần gũi về vị trí quy hoạch KCN, CCN và các làng nghề với thời gian vận chuyển thuận lợi của doanh nghiệp luôn được các nhà đầu tư lựa chọn hàng đầu, điều này sẽ tạo ra một lợi thế lâu dài cho địa phương. Cơ sở hạ tầng là xương sống của cuộc sống hàng ngày, làm cơ sở cho các hoạt động kinh tế. Theo cách này hay cách khác, không có hoạt động nào mà không dựa trên cơ sở hạ tầng (Mỹ Hạnh, 2014). Yếu tố về truyền thống văn hóa, song song với các yếu tố khác thì truyền thống văn hóa địa phương cũng có những tác động nhất định tới nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Năng lực sản xuất của các làng nghề truyền thống, thói quen kinh doanh của người dân có thể bị phân tán, hay tập trung điều này có tác động tới sự liên kết giữa các KCN với CCN, làng nghề truyền thống trong quan điểm chỉ đạo của chính quyền cấp tỉnh. Sự phát triển của các KCN sẽ kéo theo sự xâm nhập về công nghệ, trình độ quản lý, kỹ năng sản xuất khi yếu tố văn hóa của địa phương như truyền thống hiếu khách, hiếu học, chăm chỉ lao động tiếp cận được với doanh nghiệp sẽ tạo nhiều thuận lợi để nâng cao lợi thế ngành truyền thống địa phương, đồng thời cũng giúp cho các doanh nghiệp yên tâm về sự liên kết. Có thể thấy, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và sự nỗ lực trong công tác quản lý, điều hành, tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đã đạt được các kết quả tích cực, có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế trên các phương diện tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu, thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm và tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội (Đức Nguyễn, 2015). 1.1.4. Sự cần thiết và mối quan hệ giữa nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh với thu hút đầu tư 1.1.4.1 Vai trò, ý nghĩa của cạnh tranh đối với lĩnh vực hoạt động kinh tế Trước hết, cạnh tranh đóng vai trò quan trọng để sàng lọc, kiếm tìm các nhà sản xuất kinh doanh giỏi. Trong quá trình giao dịch trên thị trường, các nhà sản xuất 23
- buộc phải hướng tới đối tượng chung là khách hàng để thu được lợi nhuận. Trong quá trình đó các nhà sản xuất yếu kém sẽ dễ bị loại ra khỏi thị trường nếu như họ không biết cách tự đổi mới và vươn lên. Như vậy cạnh tranh sẽ là hành động nghiệt ngã loại ra các nhà sản xuất, kinh doanh yếu kém. Tuy nhiên đây cũng được coi là động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Về phía doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận từ việc đi đầu về chất lượng, mẫu mã cũng như áp lực phá sản, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn cải tiến phương thức sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới tổ chức, quản lý để thích ứng với những biến động của thị trường (Ninh Đức Hùng, 2013). Vì vậy, cạnh tranh chính là một động lực vô cùng quan trọng, mang nét bản sắc riêng của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, cạnh tranh đóng vai trò thiết yếu thúc đẩy sự nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất. Đồng thời, cạnh tranh cũng là hành lang mâu thuẫn đặc biệt, mà ở đó những người sản xuất phải gặp nhau và họ cùng tham gia gặp gỡ những người tiêu dùng, nơi họ có thể phải quyết định những chiến lược sản xuất riêng của mình và mặc cả giá bán, mua, tăng giá hoặc hạ giá các hàng hóa, dịch vụ. Về phía người tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra sự lựa chọn rộng rãi hơn về chủng loại, chất lượng, giá cả, mẫu mã của hàng hóa và dịch vụ. Cạnh tranh đảm bảo rằng cả người sản xuất lẫn tiêu dùng không thể áp đặt giá cả một cách tùy tiện (Ninh Đức Hùng, 2013). Để tranh giành thị phần, các nhà sản xuất, kinh doanh phải liên tục nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý của mình vào sản xuất. Đây sẽ là cơ hội để kích thích các tiến bộ khoa học công nghệ được tạo đà phát triển hơn, kết quả của những sáng tạo này sẽ là thành quả chung của khoa học công nghệ mang tới cho xã hội loài người. Chính vì vậy, cạnh tranh sẽ là nguồn gốc sinh ra sự sáng tạo, đổi mới trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Cạnh tranh cũng sẽ giúp cho các chu trình sáng tạo tiếp theo sau luôn có bước phát triển hơn ở chu trình trước trên cơ sở có sự kế thừa. Trong lĩnh vực đầu tư, các nhà đầu tư đều phải tìm kiếm lĩnh vực, khu vực đầu tư có các yếu tố thuận lợi để hạn chế các rủi ro nhằm đạt được mục tiêu cao 24
- nhất. Tuy nhiên, cùng với quá trình đạt được mục tiêu của nhà đầu tư thì các lĩnh vực, khu vực này lại được phát triển. Từ mối quan hệ trên, cạnh tranh có tác dụng làm đổi mới các yếu tố của môi trường đầu tư của các lĩnh vực, khu vực để tăng cường thu hút đầu tư. Cũng chính từ những hệ quả này mà đưa đến sự phát triển chung của xã hội và nền kinh tế. 1.1.4.2. Một số vấn đề về đầu tư và thu hút đầu tư Thuật ngữ đầu tư chính là hoạt động thuộc trong lĩnh vực kinh tế, hoạt động ở đó mà các chủ thể bỏ vốn ra, ứng vốn ra trước nhằm thực hiện một hay nhiều hoạt động kinh tế để kỳ vọng mang lại nguồn lợi lớn hơn so với lượng bỏ ra ban đầu. Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư (Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam, 2005). Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai (Nguyễn Ngọc Mai, 1998). Tùy thuộc vào mục đích, yếu tố, nội dung mà đầu tư được xem xét trên các giác độ khác nhau. Nếu xem xét hoạt động đầu tư về mặt địa lý và nguồn gốc có hoạt động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngoài. Hoạt động đầu tư trong nước liên quan đến chủ thể trong một quốc gia thực hiện các hình thức đầu tư khác nhau nhằm mục đích nào đó. Các hình hình thức đầu tư được thể hiện trong hoạt động này như: Đầu tư trực tiếp, do nhà đầu tư chủ động đưa vốn ra đầu tư và tham gia quản lý trong quá trình diễn ra các hoạt động đồng tư; Đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư bỏ vốn thông qua việc mua cổ phần, trái phiếu, các loại giấy tờ có giá trị khác, và không tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài liên quan đến các chủ thể ngoài quốc gia và có các hình thức đầu tư như: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính Phủ Việt Nam 25
- chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp Liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định (Phạm Thị Thu Hương, 2013). Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư (Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam, 2005). Nếu xét về mặt nội dung đầu tư có các hình thức như: đầu tư vốn bằng hiện vật hay giá trị; Đầu tư về khoa học công nghệ; Đầu tư về chất xám, bao gồm năng lực, kỹ năng và năng lực kinh nghiệm quản lý; Các hình thức đầu tư khác theo quy định Luật đầu tư của mỗi quốc gia. Sự quan tâm lớn nhất và là nền tảng cho việc lựa chọn, kỳ vọng của các nhà đầu tư là hạn chế thấp nhất mức độ rủi ro và đạt được mục đích hiệu quả đầu tư cao nhất. Với sự quan tâm trên, nhà đầu tư phải lựa chọn và đưa ra quyết định lĩnh vực, nguồn lực và địa điểm đầu tư có lợi nhất. Tuy vậy, trên thực tế khó có địa phương nào lại đáp ứng được đầy đủ mọi yêu cầu đối với nhà đầu tư nên việc quan tâm cải thiện các yếu tố môi trường đầu tư của địa phương có quyết định dẫn dắt sự lựa chọn địa điểm đầu tư của các nhà đầu tư dài hạn. Chính phủ (2012) việc thu hút đầu tư nước ngoài vẫn chưa đạt được yêu cầu đề ra, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước, công tác quản lý nhà nước còn bất cập, hệ thống thể chế, chính sách chưa đồng bộ. Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả và phát huy vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra là cần khẩn trương khắc phục những hạn chế, yếu kém trong cả thu hút và quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài; cải thiện môi trường đầu tư để có tính cạnh tranh cao hơn, nhất là trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Thực tiễn cũng chỉ ra rằng, sự ổn định về chính trị cũng được quan tâm đặt lên hàng đầu, bởi các quốc gia, địa phương ổn định về tình hình an ninh, xã hội thì hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư mới được đảm bảo. Lao động chất lượng thấp đòi hỏi đầu tư nhiều (8% tổng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp), trong khi tỷ lệ lao động dịch chuyển việc làm lại cao, có nghĩa 26
- là các nhà đầu tư trồng cây mà không được hưởng trái ngọt từ các nỗ lực đào tạo của mình (VCCI, 2011). Chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế, vị trí địa lý và công tác quy hoạch các khu công nghiệp liền kề, phụ trợ và các dịch vụ đi kèm cũng được nhà đầu tư phân tích, lựa chọn để đưa ra quyết định lựa chọn lĩnh vực, hình thức, địa điểm đầu tư với quy mô đầu tư và chiến lược phát triển khác nhau. Với những yếu tố trên, thì sự tác động của từng yếu tố sẽ là tích cực hoặc hạn chế rất nhiều tới hoạt động đầu tư, vì thế nhà đầu tư khi xây dựng mục tiêu đầu tư luôn nghiên cứu kỹ thế mạnh cũng như truyền thống của mỗi địa phương. Thu hút đầu tư là một khái niệm đề cập đến cách thức hay phương sách của mỗi địa phương tạo ra những dấu ấn tích cực cho các nhà đầu tư quan tâm và tăng cường đầu tư vào địa phương mình. Thu hút đầu tư cũng là cách thức để có được nhiều hình thức, cách thức dầu tư với một quy mô lớn, ổn định và phát triển. Như vậy, mức độ thu hút đầu tư của một địa phương, vùng lãnh thổ hoàn toàn phụ các chính sách, nguồn lực và các điều kiện tạo ra được từ mỗi địa phương. Đây cũng là các yếu tố quyết định liên quan đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương. 1.1.4.3. Mối quan hệ giữa nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư Nâng cao năng lực cạnh tranh thực chất là cách thức, phương sách mà các địa phương thực hiện nhằm cải thiện, đổi mới môi trường đầu tư để tăng cường thu hút đầu tư từ bên ngoài. Nâng cao năng lực cạnh tranh cũng xuất phát từ nội tại yêu cầu phát triển của mỗi địa phương, thể hiện sự cố gắng của tất cả các cấp các ngành liên quan. Nâng cao năng lực cạnh tranh cũng là việc tự làm của mỗi địa phương nhưng cần phải tập hợp, tham khảo để tiếp nhận các đánh giá khách quan và sự giúp đỡ từ bên ngoài. Trên cơ sở kết hợp các yếu tố bên trong và bên ngoài các địa phương sẽ xây dựng cho mình một chiến lược đúng nhằm gây dựng được lòng tin và sự quan tâm của các nhà đầu tư đối với địa phương mình. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và cải thiện môi trường đầu tư có mối quan hệ biện chứng với nhau. Một tỉnh có môi trường đầu tư kinh doanh tốt thì sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn, ngược lại để nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đòi hỏi 27
- phải không ngừng cải thiện môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư và kinh doanh được xem là điều kiện quyết định đến năng lực cạnh tranh của một địa phương (Phan Nhật Thanh, 2010). Đối với các nhà đầu tư họ luôn quan tâm đến lợi ích của họ thông qua các mục tiêu đầu tư cần đạt được một cách hiệu quả nhất. Để đạt được mục tiêu đầu tư, các nhà đầu tư quan tâm đến các yếu tố có thể đưa lại rủi ro, làm tăng chi phí và ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Điều đó có nghĩa là, ở đâu, lĩnh vực nào có rủi ro thấp và hiệu quả cao sẽ giành được sự quan tâm đầu tiên đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc các quốc gia, các địa phương không ngừng hoàn thiện, đổi mới chính sách, tăng cường nguồn lực để cải thiện và gia tăng các yếu tố của môi trường đầu tư được xem là hành động để thu hút đầu tư nhằm phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế. Thực tiễn ở nước ta trong thời gian vừa qua đã khẳng định rằng, địa phương nào có môi trường cạnh tranh tích cực sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư và có sự bứt phá về phát triển kinh tế nhanh hơn. Ngược lại, các địa phương có sức ì lớn trong việc đổi mới chính sách, khó khăn trong phát triển hạ tầng, sẽ có nhiều khó khăn trong thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Thời gian gần đây trong quản lý vĩ mô người ta thường sử dụng khái niệm năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và cùng với kết quả nghiên cứu của chỉ số PCI để nghiên cứu, đánh giá thực trạng thu hút đầu tư ở các địa phương khác nhau. Việc đưa ra chỉ số này thực sự có tác dụng như một đòn bẩy cho các địa phương trong việc đổi mới các chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đầu tư, bởi có thể đề cập từ việc xem xét sự tăng lên của tổng sản phẩm một địa phương, hay là số dư tăng lên của ngân sách, mặc dù thu ngân sách sẽ bao gồm cả các khoản thuế từ các nguồn viện trợ ODA không hoàn lại. 1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 1.1.5.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Việc đánh giá cụ thể các yếu tố, hay nhóm yếu tố có khả năng tác động tới quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là rất rộng, bởi nhiều nhóm yếu tố 28
- có khả năng tác động đồng thời hay gián tiếp từ khách quan, chủ quan, bên trong hay bên ngoài. Vì vậy, việc nghiên cứu cần dựa chủ yếu vào các yếu tố bên trong, đảm bảo tính nổi trội trong vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và tránh các yếu tố bị chịu tác động từ chính sách của Trung ương, hoặc các yếu tố phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để đánh giá các yếu tố cấu thành, đồng thời xem xét yếu tố có tác động tới nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, ta cần phân chia nhóm yếu tố phụ thuộc vào phạm vi điều chỉnh của chính quyền Trung ương, chính quyền cấp tỉnh. Trong khuôn khổ của vấn đề nghiên cứu này luận án tập trung vào nhóm yếu tố thuộc phạm vi, vai trò điều chỉnh bởi chính quyền cấp tỉnh, nhóm yếu tố này được nhận định bước đầu là năng động, trụ cột trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Vậy, nếu xem xét kỹ nội hàm tổng thể của cả quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, điều đó có nghĩa là vai trò, phương pháp lãnh đạo của chính quyền cấp tỉnh sẽ được xem xét qua việc phát hiện, sử dụng các nguồn lực sẵn có và kế hoạch phát triển các lợi thế mới của địa phương. Với quan điểm khác nhìn nhận rộng hơn ở nhóm yếu tố có thể được xem là góp phần thỏa mãn, tạo ra tính cạnh tranh của môi trường thu hút đầu tư như chính sách thuế, lãi suất, tỷ giá ngoại tệ, thì điều này đã vượt quá phạm vi ra quyết định của chính quyền cấp tỉnh. Trên thực tế, nếu đề cập sâu vào các yếu tố trên sẽ dẫn tới sự ra quyết định vượt thẩm quyền cho phép đối với cấp tỉnh, bởi khi đó chính quyền cấp tỉnh sẽ độc lập trong việc xây dựng hàng rào cho riêng địa phương mình. Điều này sẽ dẫn tới hệ quả chung là phá vỡ khung chính sách mà Trung ương ban hành trước đó. Bài học này thực tế đã xuất hiện trong năm 2005 Chính phủ đã yêu cầu 33 tỉnh, thành phố có các ưu đãi vượt khung được xem như là “xé rào” phải báo cáo về ưu đãi đầu tư của tỉnh mình, theo đó có 21 tỉnh đã đưa ra những quy định vượt khung về chính sách đất đai, 11 tỉnh quy định không phù hợp về thuế thu nhập doanh nghiệp (Việt Phong, 2005). Nếu ta xem xét toàn bộ quá trình các yếu tố được cho là tham gia trong cấu thành năng lực cạnh tranh cấp tỉnh để phân tích vai trò chính quyền cấp tỉnh đối với từng yếu 29
- tố, thì điều gì sẽ xẩy ra đối với quy hoạch chung của toàn quốc và năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ là thế nào, đồng thời, khi mỗi tỉnh tự độc lập trong việc lập chính sách mời gọi đầu tư sẽ có thể làm lãng phí nguồn lực chung, lợi ích xã hội sụt giảm. Với minh chứng trường hợp các tỉnh, thành phố tự do “xé rào” Vũ Thành Tự Anh (2006) giả sử hai tỉnh A và B đang tìm cách đẩy mạnh thu hút đầu tư vào tỉnh nhà. Giả sử thêm rằng mỗi tỉnh chỉ có hai lựa chọn: hoặc là tuân thủ khung ưu đãi chung hoặc là xé rào. Tỉnh A thấy rằng nếu mình đi trước một bước trong việc tăng mức ưu đãi đầu tư trong khi các tỉnh khác vẫn làm theo khung chính sách chung thì sẽ tạo ra lợi thế so sánh, và do vậy có thể thu hút thêm đầu tư, trong đó có cả những khoản đáng lẽ ra sẽ được đầu tư vào tỉnh khác. Vấn đề ở chỗ, tỉnh B cũng có thể nghĩ tương tự. Tình huống này được mô tả như dưới đây. B Tuân thủ Xé rào Tuân thủ A(3), B(3) A(-1), B(5) A Xé rào A(5), B(-1) A(1), B(1) Phân tích tình thế tiến thoái lưỡng nan của 2 tỉnh theo lý thuyết trò chơi, có thể thấy rằng khi hai tỉnh cùng hợp tác (tức là tuân thủ khung ưu đãi chung) thì mỗi bên sẽ thu được lợi ích như nhau (3,3). Còn khi tỉnh A xé rào, trong khi tỉnh B vẫn tuân thủ khung ưu đãi chung thì tỉnh A có thể thu hút thêm được đầu tư trong khi đầu tư vào tỉnh B có thể giảm sút (trong bảng 1, tỉnh A được 5 còn tỉnh B chỉ được -1). Điều tương tự cũng xảy ra khi tỉnh B xé rào và tỉnh A vẫn tuân thủ khung ưu đãi chung. Sau cùng, khi cả hai cùng xé rào thì lợi ích của hai tỉnh bằng nhau. Tuy nhiên, vì ưu đãi cũng có cái giá của nó nên lúc này mỗi tỉnh chỉ được 1 (tức là nhỏ hơn 3 khi hai tỉnh cùng hợp tác). Như vậy, việc hai tỉnh hợp tác và cùng tuân thủ khung ưu đãi không những đem lại lợi ích khả dĩ cho từng tỉnh, mà còn giúp tối đa hóa lợi ích chung của hai tỉnh (3 + 3 = 6), và rộng ra là cả nền kinh tế. Còn nếu như mỗi tỉnh chỉ quan tâm đến lợi 30
- ích cục bộ của mình thì chiến lược tối ưu của tỉnh sẽ là “xé rào” và kết quả là một cuộc “chạy đua xuống đáy” trong đó mỗi tỉnh cũng như toàn xã hội đều thiệt hại (Vũ Thành Tự Anh, 2006). Theo kết quả nghiên cứu như trên, thì từng địa phương cần thiết phải tuân thủ các quy định của Chính phủ để đạt được mục đích của địa phương, đồng thời sẽ không làm ảnh hưởng tới lợi ích chung của khu vực và toàn quốc. Vì vậy, quá trình nghiên cứu các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ở đây sẽ được phân tích, lựa chọn đúng với tác động của nhóm yếu tố và phạm vi đối với chính quyền cấp tỉnh. Từ hướng phân tích như trên, ta thấy cần thiết phải tập trung vào nhóm yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp để hiệu quả phân tích sẽ đạt được tốt nhất, bởi nhóm yếu tố này thuộc phạm vi điều chỉnh của chính quyền cấp tỉnh. Nhóm yếu tố được tập trung nghiên cứu bao gồm: 1- Chính sách chung về thu hút đầu tư và công tác cải cách thủ tục hành chính; 2 - Công tác quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế; 3 - Công tác quy hoạch đào tạo nguồn lao động tại địa phương; 4 - Công tác quy hoạch các KCN, CCN, làng nghề. Mỗi yếu tố này có sức phát huy như thế nào nếu có chủ trương đúng khi triển khai và thực hiện, hoặc có thể sẽ triệt tiêu hay làm hạn chế, lãng phí nguồn lực của địa phương dẫn tới sự phân tán cả quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Với những yếu tố cấu thành, ảnh hưởng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh như đã trình bày trên, trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu của luận án, cùng các thông tin thu thập được trên thực tế tác giả tập trung xem xét, nghiên cứu những nhóm yếu tố được xem có tác động trực tiếp tới nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh như sau: - Chính sách chung về thu hút đầu tư và cải cách thủ tục hành chính Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, đã phần nào cho thấy một mô hình mới tiên phong trong các mô hình sản xuất công nghiệp phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước. Để thực hiện chủ trương trên, chính quyền các tỉnh, thành phố đã chủ động xây dựng một môi trường thu hút đầu tư cho địa phương mình. Môi trường thu hút đầu tư tại các 31
- tỉnh, thành phố trong suốt thời gian qua đã chứng minh cho thấy, mặc dù trên cơ sở chung của các chính sách do Trung ương ban hành thì với mỗi tỉnh, thành phố vẫn có những sáng tạo riêng biệt, tạo thành lợi thế cạnh tranh của tỉnh mình. Đã có những thay đổi căn bản trong Luật Đầu tư mới về chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đặc biệt là những ưu đãi về thuế (Anh Minh, 2014). Chính sách về khuyến khích và ưu đãi đầu tư đối với mỗi vùng đầu tư, trong đó có ưu đãi những lĩnh vực đầu tư khác nhau nhằm kích thích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế các địa phương, đồng thời đảm bảo hiệu quả trong quy hoạch kinh tế chung của đất nước. Các chính sách chung hướng tới ưu đãi về mặt bằng sản xuất, kinh doanh trên phạm vi toàn quốc, trong đó ưu tiên ưu đãi đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Đây là những địa điểm tập hợp đông các cơ sở sản xuất tạo thuận lợi cho việc quản lý và bảo vệ môi trường của mỗi địa phương. Để đảm bảo hiệu quả của các chính sách phù hợp với tình hình chung, cần nhất thiết phải có sự dự báo tương đối chính xác và điều chỉnh kịp thời trong ngắn hạn cho hợp lý với các đối tượng thuộc phạm vi áp dụng và điều chỉnh thuộc phạm vi cấp tỉnh, thành phố. Chính sách ưu đãi về giá thuê đất trong và ngoài các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao thời gian qua đã tạo bước đột phá để chính quyền các tỉnh, thành phố căn cứ xây dựng môi trường xúc tiến đầu tư hợp lý. Trong mỗi chính sách đã thể hiện linh hoạt đối với giá thuê đất cho từng loại hình đầu tư, từng địa bàn nhằm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế của các vùng, miền mang tính tổng thể theo quy hoạch chung cả quốc gia. Xem xét chính sách thuế, nhận thấy chính sách ưu đãi về thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, áp dụng các mức ưu đãi phù hợp đối với từng hàng hóa, dịch vụ. Chính sách về thuế cũng luôn được điều chỉnh cho phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế cũng tạo ra những thuận lợi cho các đối tượng thuộc phạm vi áp dụng. Những năm qua công tác cải cách thủ tục hành chính trở thành nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong chương trình công tác của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương. Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành 32
- chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã nêu rõ "tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xem đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho mọi hoạt động của người dân và doanh nghiệp, phải tiến hành rà soát các thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực, chỉ rõ những thủ tục, những quy định sai trái, không phù hợp và nguyên nhân cụ thể để kiên quyết sửa đổi (Trần Văn Tuấn, 2010). Cải cách thủ tục hành chính là một trong những yêu cầu cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nói chung của địa phương và phát triển kinh tế nói riêng. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, cải cách thủ tục hành chính được coi là nhiệm vụ then chốt. Chủ trương cải cách theo hướng “một cửa” đã được triển khai ở nhiều địa phương, tuy nhiên kết quả thu được ở mỗi địa phương là khác nhau. Một trong những thành công nổi bật trong bước đột phá về kinh tế ở một số tỉnh, thành phố là việc giảm tải thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian và chi phí gia nhập thị trường, tạo thuận lợi lớn cho các nhà đầu tư (Nguyễn Thị Thu Hà, 2008). Trên cơ sở các chính sách chung của Trung ương, thì chính quyền các tỉnh, thành phố có thể vận dụng sáng tạo, đổi mới các thủ tục hành chính cũng như cung cấp các dịch vụ công phục vụ cho công tác xúc tiến đầu tư thuận lợi nhất. Tuy nhiên, việc cải cách thủ tục hành chính cần phải hiểu là đổi mới cả về thể chế và tổ chức thực hiện, trong quá trình rà soát cần lược bỏ các khâu bất hợp lý, gây phiền hà đối với người dân và các nhà đầu tư. Nếu việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính không được tiến hành đồng bộ, cũng như xác định đội ngũ cán bộ công chức trực tiếp đảm nhận các vị trí làm công tác tham mưu chưa được sắp xếp đúng người, đúng trình độ chuyên môn thì việc cải cách thủ tục hành chính sẽ không đạt hiệu quả cao. Việc này đồng thời gây mất uy tín của tổ chức, ảnh hưởng tới việc xây dựng môi trường xúc tiến đầu tư chung của địa phương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản và công khai, minh bạch các thủ tục hành chính; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức khi thực thi nhiệm vụ. Kiên quyết xử lý kịp thời những cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang khi thực hiện nhiệm vụ gây phiền hà, sách nhiễu người dân, doanh nghiệp. Tăng cường trách nhiệm và tính chủ động của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong quá trình tổ chức triển khai 33
- thực hiện các nhiệm vụ, nhất là trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí (Doãn Thế Cường, 2014). - Xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng Kết cấu hạ tầng được coi là “môi trường cứng”, là điều kiện rất quan trọng để phát triển nền kinh tế, đồng thời giúp cho việc liên kết chặt chẽ giữa các vùng, miền trong một quốc gia, mỗi địa phương nhất là ở Việt Nam hiện nay đang tiến hành thúc đẩy quá trình sắp xếp, cơ cấu lại nền kinh tế. Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm dành nhiều nguồn lực, cao hơn so với chuẩn quốc tế để phát triển kết cấu hạ tầng. Mỗi địa phương cũng xác định xây dựng kết cấu hạ tầng là nhiệm vụ mang ý nghĩa quan trọng, đi đầu góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh để thu hút đầu tư của địa phương mình. Chính quyền các tỉnh, thành phố cần chủ động chỉ đạo các cơ quan chức năng làm tốt công tác quy hoạch, phát triển kết cấu hạ tầng tại địa phương, nhằm khai thác tối đa các nguồn lực sẵn có, tạo lợi thế cạnh tranh cho môi trường thu hút đầu tư. Điều quan trọng mà chính quyền cần phải quan tâm đó là hiệu quả của một điểm đến có thể được nâng lên bởi chất lượng dịch vụ, các tổ chức và cơ sở hạ tầng được xây dựng (Nguyễn Thị Thu Vân, 2012). Việc xây dựng kết cấu hạ tầng tốt hay không, còn phụ thuộc vào tư duy phát triển kinh tế lâu dài của chính quyền mỗi địa phương. Điều này cũng không tránh khỏi sự nhìn nhận khác nhau giữa các địa phương cùng về một chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng. Đây cũng là nguyên nhân chính làm cho mỗi địa phương phát huy đầy đủ hay còn hạn chế trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đầu tư vào địa phương. Trong quá trình phát triển kết cấu hạ tầng cần có một kế hoạch đồng bộ, đi tắt đón đầu, kết hợp với việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến của thế giới, trong đó chú trọng tới những lĩnh vực hạ tầng chủ lực như hạ tầng giao thông, điện, cấp thoát nước vệ sinh môi trường, công nghệ thông tin, cảng biển, sân bay - Chất lượng nguồn lao động Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người Trong 34
- các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay (Vũ Văn Hòa, 2013). Để so sánh môi trường thu hút đầu tư của các tỉnh, thành phố cần phải quan tâm nhiều tới yếu tố chất lượng nguồn lao động tại mỗi địa phương. Chính sách về đào tạo nghề cho lao động, hỗ trợ lao động sau thu hồi đất nông nghiệp để tìm việc làm cần được xem xét và nghiên cứu thực tế tại các địa phương. Một trong những yếu tố quyết định tới hiệu quả của việc thu hút đầu tư là sự chuẩn bị trước về nguồn lao động đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng và có ý thức kỷ luật lao động cao. Nguồn lao động tại địa phương luôn là yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư cân nhắc việc đầu tư vào mỗi địa bàn. Qua đó cho thấy việc giải quyết tốt các chính sách về lao động, hỗ trợ lao động thông tin tìm việc làm cần hết sức chú trọng trong chiến lược chung phát triển kinh tế của mỗi địa phương. Vì vậy, sẽ có sự quan tâm khác biệt của nhà đầu tư giữa các khu vực, lĩnh vực và địa điểm đầu tư khác nhau. Trong phân tích những nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia, Porter (2009) cũng đã nêu rõ "Lao động không có kỹ năng ngày càng dễ bị tổn thương trước áp lực về lương". Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, chất lượng nguồn lao động ở nước ta đã có những dấu hiệu được cải thiện cả về số lượng và chất lượng đã dần đáp ứng được sự kỳ vọng ban đầu của các nhà đầu tư, nhất là lợi thế của Việt Nam về nguồn lao động giá rẻ nhưng đã qua đào tạo, có tay nghề cao. Việc quy hoạch các trung tâm dạy nghề, cơ sở đào tạo ở các địa phương bước đầu đảm bảo nhu cầu tuyển dụng lao động ở các khu công nghiệp cũng như sự cân đối lao động giữa các khu vực sản xuất kinh doanh và tạo sự ổn định các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, chất lượng lao động của Việt Nam nói chung, các địa phương nói riêng vẫn còn nhiều vấn đề chưa thực sự hài lòng đối với các nhà đầu tư. Đây cũng là sự đòi hỏi, nỗ lực của mỗi địa phương nhằm thu hút đầu tư cho địa phương mình. - Quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Phát triển KCN, KCX là định hướng chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương của Đảng qua các thời kỳ đều xác định vai trò của KCN, KCX 35
- là một trong những nền tảng của công cuộc CNH, HĐH đất nước, thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực tế đóng góp của hệ thống các KCN, KCX vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong hơn 20 năm qua đã khẳng định tính đúng đắn của chủ trương và mô hình KCN, KCX (Vũ Đại Thắng, 2014). Để từng bước thực hiện tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế, cần thiết phải có sự chuyển giao trình độ khoa học - công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý và sản xuất cũng như các mô hình tập trung về sản xuất kinh doanh. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được quy hoạch, thành lập và được chính phủ phê duyệt trong thời gian vừa qua tại các tỉnh, thành phố. Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định. Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ (Chính phủ, 2008). Thực tế hiện nay ở các tỉnh, thành phố việc quy hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao mang các dáng vẻ khác nhau. Nhiều địa phương đã phát huy tốt các Ban quản lý khu công nghiệp, tuy nhiên có địa phương còn vội vàng trong công tác quy hoạch, ưu đãi các nhà đầu tư không theo quy hoạch chung dẫn tới việc không phát huy hết thế mạnh của địa phương, lợi thế tập trung của các khu công nghiệp, mà còn gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Với bốn yếu tố chủ yếu nêu trên, cũng cần phải quan tâm đến các yếu tố khác cùng tham gia đóng góp vào môi trường thu hút đầu tư cấp tỉnh. Tuy nhiên cần nhận thức rằng không một yếu tố riêng rẽ nào có đủ khả năng làm chủ đạo, dẫn dắt việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong mọi thời điểm. Vì lý do đó, cùng với các kết quả nghiên cứu đã tiến hành thì bốn yếu tố trên được xem là sự đại diện tương đối tập trung trong quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hiện nay. 36
- 1.1.5.2. Vai trò của chính quyền địa phương trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Ở Việt Nam vai trò của chính quyền cấp tỉnh có sự thay đổi khi đất nước chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh là những trọng trách mà chính quyền cấp tỉnh nắm giữ, nó thể hiện tầm quan trọng, ảnh hưởng của cấp chính quyền này trong mối tương quan so sánh với các chủ thể khác. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh có những đặc trưng cơ bản, đó là tính toàn diện, trực tiếp và là trung tâm điều phối trên mọi lĩnh vực tại địa phương (Nguyễn Thị Thu Hà, 2008). Sau khi có chủ trương của Chính phủ về phân cấp quản lý cho chính quyền cấp tỉnh, song song với việc xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường thì vai trò của chính quyền cấp tỉnh luôn gắn bó và ảnh hưởng trực tiếp tới mọi lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng tại địa phương và tới từng quyền lợi của mỗi người dân. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua những nội dung như: 1- Chính quyền cấp tỉnh có vai trò trong việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật từ Trung ương về phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương; 2 - Chính quyền cấp tỉnh tham gia trực tiếp trong việc giải quyết, khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường tại địa phương (Nguyễn Thị Thu Hà, 2008). Có thể thấy vai trò của chính quyền cấp tỉnh mang ý nghĩa rất quan trọng trong việc cụ thể hóa có hiệu quả các chính sách từ trung ương và đóng vai trò khắc phục các điểm hạn chế của kinh tế thị trường, đồng thời làm cải thiện các yếu tố môi trường cạnh tranh để thu hút đầu tư tại địa bàn tỉnh mình. Với các nội dung trên, Cấu thành năng cạnh tranh của một tỉnh trong điều kiện thực tế hiện nay chỉ nên đề cập một số yếu tố chính cải cách thủ tục hành chính, sự ổn định trong sử dụng đất đai, tính minh bạch và tính kịp thời, tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh, chất lượng các loại dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, chất lượng đào tạo lao động. 37
- 1.2. Thực tiễn nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư một số nước trên thế giới và ở Việt Nam 1.2.1. Cơ sở thực tiễn của đề tài nghiên cứu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được xem là dấu mốc quan trọng trong việc thay đổi tư duy về phát triển kinh tế đất nước. Bắt nguồn từ sự nhìn nhận đúng bản chất, sự vận động và phát triển của nền kinh tế đất nước trong thời kỳ này, từ đây những chủ trương về các chính sách xây dựng một hành lang kinh tế mới đã xuất hiện phù hợp với xu hướng chung của khu vực và thế giới. Những thành tựu về kết quả nền kinh tế đất nước đạt được hơn 26 năm qua, đã minh chứng cho sự lựa chọn đường lối đúng của Đảng về xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương lớn này, lần lượt qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc cho tới nay, Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời có các Luật, Nghị định quan trọng tạo bước rẽ ngoặt cho nền kinh tế nước ta. Sau quyết định số 217/HĐBT (14/11/1987) về các chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với xí nghiệp quốc doanh. Với tư duy này, thì việc các xí nghiệp quốc doanh trước đây thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh theo một hệ thống chỉ tiêu kế hoạch giao từ trên xuống dưới, áp đặt thiếu tính khách quan, không phù hợp với năng lực sản xuất thực tế của đơn vị làm chức năng sản xuất kinh doanh đã có những thay đổi cơ bản. Thực hiện việc cải cách, mở cửa nền kinh tế đất nước, Luật đầu tư nước ngoài lần đầu (09/01/1988) đã được ban hành và tiếp tục được bổ sung; Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân (21/12/1990); Luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp (01/01/1999); Luật doanh nghiệp mới (29/11/2005) cũng được ban hành và thường xuyên sửa đổi cho phù hợp. Tiêu biểu trong giai đoạn này, Luật cạnh tranh (03/12/2004) đã quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Sau một thời gian các đạo luật có hiệu lực và đi vào cuộc sống, cần thiết phải tiếp tục điều chỉnh hành lang luật pháp về lĩnh vực kinh tế; Luật đầu tư 38
- (29/11/2005) đã được ban hành quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. Bên cạnh đó, các Nghị định, Quyết định quan trọng của Chính phủ cũng được triển khai nhằm hướng dẫn, thực hiện khơi thông dòng chảy nền kinh tế, tạo sự đột phá về các thủ tục hành chính đảm bảo nhanh, chính xác và khoa học. Quyết định số 30 (10/01/2007) của Chính phủ, gọi tắt là Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước đã tạo nhiều thuận lợi cho các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực tham mưu chỉ đạo về kinh tế và cho các nhà đầu tư, người dân khi thực hiện giao dịch với các cơ quan Nhà nước. Nếu căn cứ vào lợi thế địa - kinh tế và lịch sử truyền thống thì Hưng Yên được đánh giá là địa phương thuộc tốp đầu ở đồng bằng sông Hồng. Theo xếp hạng PCI, năm 2008, 2009 Hưng Yên đứng thứ 3 trong khu vực nhưng năm 2010 đứng thứ 11 xếp hạng cuối cùng trong vùng. Đây cũng là năm trùng khớp về đánh giá xếp hạng PCI của Hưng Yên ở mức thấp so với cả nước. Đối với mỗi địa phương, ngoài các yếu tố về lợi thế thì sự năng động về các chính sách và khả năng kết nối các yếu tố sẽ tạo nên sắc thái riêng về môi trường thu hút đầu tư và ảnh hưởng đến việc nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh PCI cho từng tỉnh và ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế của từng địa phương. Nghiên cứu sự tăng trưởng kinh tế của các tỉnh khu vực đồng bằng sông Hồng cho thấy những thay đổi trong tái cơ cấu kinh tế của mỗi tỉnh dẫn tới sự tăng trưởng kinh tế là khác nhau. Một số địa phương như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh đã có sự bứt phá nhanh là do quan điểm của các nhà đầu tư đã giảm dần sự phụ thuộc bởi các yếu tố như vị trí địa lý, nguồn tài nguyên, hay sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao mà lại quan tâm nhiều đến các yếu tố về cơ chế chính sách, chất lượng dịch vụ công cũng như sự phát triển của các ngành dịch vụ và chất lượng hạ tầng ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Trong các yếu tố tạo được sự quan tâm của các nhà đầu tư thì vai trò và quan điểm của lãnh đạo cấp tỉnh và cấp sở, ngành rất được đề cao. Dấu hiệu cho thấy ở đâu cấp tỉnh có những động thái tích cực sẽ tạo ra những sự chuyển biến nhanh chóng trong 39
- cải thiện môi trường thu hút đầu tư và ở đó tốc độ phát triển, tăng trưởng kinh tế cao, PCI cũng được xếp thứ hạng cao hơn. Đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi tỉnh thời gian qua không thể xem nhẹ vai trò sự đóng góp của các nhà đầu tư, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây vừa thể hiện sự nỗ lực của mỗi địa phương trong việc đưa ra các chính sách, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phù hợp và tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, trong đó vai trò của chính quyền cấp tỉnh là hết sức quan trọng. 1.2.2. Kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư ở một số nước trên thế giới - Kinh nghiệm của Nhật Bản Theo kết quả nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của Nhật Bản, Porter (2009) đã có nhận xét sâu sắc liên quan tới kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh. Với kinh nghiệm của mình, Nhật Bản đã thành công trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tuy nhiên để đạt được những thành công như hiện nay, Nhật Bản cũng đã phải nếm mùi thất bại. Porter (2009) cũng đã đề cập tới vai trò của chính phủ Nhật Bản trong các ngành công nghiệp quan trọng như sản xuất máy Fax, máy Photocopy, chế tạo Robot và các nguyên vật liệu cao cấp là rất khiêm tốn. Vì thế, một số ngành sản xuất của Nhật Bản như sản xuất máy dệt, sắt thép và đóng tàu thì giờ đây đã lỗi thời, mục tiêu lâu dài ở một số ngành công nghiệp như sản xuất máy bay đã được đặt ra lần đầu năm 1971; phần mềm năm 1978 đã thất bại trong giành vị trí ở thị trường thế giới. Nhật Bản là quốc gia đã được thế giới ca ngợi về phương pháp quản lý ở những năm 1980, trong phương pháp đó đã giải quyết được mối quan hệ giữa người quản lý và lao động. Để nâng cao năng suất quốc gia, Nhật Bản nhanh chóng "chuyển các hoạt động lắp ráp những sản phẩm điện tử đơn giản ban đầu sang Hàn Quốc, Đài Loan tiếp theo là Hồng Kông và bây giờ là Malaysia và Thái Lan". Nhật Bản cũng đã thành công thông qua thương mại để nâng cao cán cân thương mại thặng dư, Nhật Bản xuất khẩu các mặt hàng chế tạo có năng suất cao và nhập nguyên liệu thô và các sản phẩm không đòi hỏi lao động có kỹ năng cao và công nghệ hiện đại. Việc tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu hiện nay cũng được Nhật Bản áp dụng triệt để và đã thành công. Tại Nhật 40
- Bản có tới gần 10 hãng sản xuất xe hơi, nếu chỉ tập trung thị trường trong nước thì sẽ rất khó khăn, nhưng các doanh nghiệp của Nhật Bản đã tìm đến thị trường các nước khác, vì thế nhiều doanh nghiệp đã thành công lớn về quy mô nhờ bán sản phẩm ra nước ngoài. Những doanh nghiệp của Nhật Bản thành công cũng nhờ yếu tố khác biệt về công nghệ, nên năng lực cạnh tranh của Nhật Bản được nâng lên. Bên cạnh đó Nhật Bản cũng đã phát huy năng lực cạnh tranh thông qua việc tiến hành, triển khai các dự án nghiên cứu hợp tác, đây cũng là yếu tố quan trọng thành công trong cạnh tranh của Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản có vai trò thay đổi nhanh chóng và thường rất tinh tế trong các ngành Nhật Bản có được lợi thế cạnh tranh quốc gia. Sau chiến tranh thế giới thứ II, vai trò của chính phủ Nhật Bản mang tính can thiệp tương đối mạnh. Chính phủ định hướng trực tiếp dòng chảy của vốn và các nguồn lực khan hiếm (ví dụ như thép) vào những lĩnh vực cụ thể, hạn chế sự tham gia của nước ngoài, dàn xếp giấy phép công nghệ nước ngoài, giữ tỷ giá thấp và thực hiện rất nhiều hình thức hỗ trợ xuất khẩu khác nhau (Porter, 2009). - Kinh nghiệm của Hàn Quốc Sau chiến tranh biên giới Triều Tiên năm 1950, Hàn Quốc được đánh giá là gần như không có một đồng vốn nào nhưng Hàn Quốc đã nỗ lực vượt lên để xây dựng một đất nước có nền kinh tế mạnh trong khu vực Châu Á và trên thế giới. Hàn Quốc đã áp dụng các chiến lược khác nhau để phát triển kinh tế, quá trình đó đã phải cạnh tranh với các quốc gia khác. Vai trò của Chính phủ Hàn Quốc trong việc xây dựng chính sách phát triển giáo dục - đào tạo gắn liền với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này đã giúp Hàn Quốc đào tạo được đội ngũ công nhân có tay nghề, có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Khi xem xét cẩn thận bất kỳ một nền kinh tế quốc dân nào, ta sẽ thấy có những khác biệt đáng kinh ngạc trong sự thành công về cạnh tranh giữa các ngành công nghiệp. Lợi thế quốc tế thường tập trung ở những ngành hẹp và thậm chí là những phân khúc công nghiệp cụ thể (Porter, 2009). 41
- Điều này đã được Hàn Quốc áp dụng phù hợp khi xem xét, xuất khẩu xe hơi loại xe thường và xe nhỏ, trong khi đó quốc gia xuất khẩu xe hơi sang trọng là Đức. "Việc thực hiện chuyển giao đông nghệ thông qua khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài là con đường phổ biến tại nhiều nước, nhưng Hàn Quốc lại thực hiện điều đó chủ yếu bằng các hợp đồng nhập khẩu công nghệ và bằng sáng chế kỹ thuật". Điều này thực hiện được là do Chính phủ Hàn Quốc có những quy định chặt chẽ, giám sát cần thiết đối với những công nghệ tiên tiến và giá cả phù hợp (Ban Tuyên Giáo TW, 2011). Hàn Quốc cũng đã chú trọng tới cán cân thương mại xuất nhập khẩu, kết hợp với việc sử dụng khai thác hợp lý các tiềm năng sẵn có của đất nước như việc xuất khẩu các loại hàng hóa sử dụng nhiều lao động như linh kiện điện tử và may mặc, điều này có được do nhân công của Hàn Quốc dồi dào, được đào tạo tốt. Một số khía cạnh trong vai trò của chính phủ Hàn Quốc đã hoàn toàn thành công. Đáng kể nhất là một chuỗi các hành động tạo nền tảng cho quá trình nâng cấp, đầu tư lớn vào giáo dục và cơ sở hạ tầng. Các khoản đầu tư của chính phủ vào nhiều viện nghiên cứu và phát triển liên quan tới công nghiệp, cũng như nỗ lực khuyến khích tổ hợp hóa thông qua việc thành lập các trung tâm công nghiệp trong những lĩnh vực cụ thể, được xây dựng xung quanh các cơ sở đào tạo và nghiên cứu kỹ thuật cũng là những kích thích như vậy (Porter, 2009). - Kinh nghiệm của Trung Quốc Một số nghiên cứu gần đây đã đưa ra những kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thu hút vốn đầu tư xây dựng nền kinh tế đất nước, Trung Quốc cơ bản bước đầu thành công và được đánh giá là quốc gia đã có những chính sách cạnh tranh hợp lý. Với những thành công mục tiêu của chính sách cạnh tranh Trung Quốc chủ yếu là: 1- Xây dựng chủ thể thị trường. Chủ thể thị trường kiện toàn là tiền đề quan trọng hàng đầu của cạnh tranh thị trường. Việc xây dựng chủ thể thị trường gồm có hai nhiệm vụ sau: Nhiệm vụ thứ nhất là xác định một cách hợp lý sự phân bố các chủ thể thị trường ở các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân; nhiệm vụ thứ hai là làm rõ ranh giới giữa quyền sở hữu và quyền chi phối tài sản nhà nước; 2- 42