Luận án Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: nghiên cứu vùng kinh tế Đông Nam Bộ

pdf 190 trang tranphuong11 27/01/2022 4270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: nghiên cứu vùng kinh tế Đông Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_cac_yeu_to_tac_dong_den_thu_hut_dau_tu_truc_tiep_nuo.pdf

Nội dung text: Luận án Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: nghiên cứu vùng kinh tế Đông Nam Bộ

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH CAO TẤN HUY CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI: NGHIÊN CỨU VÙNG KINH TẾ ĐÔNG NAM BỘ LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2019
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH CAO TẤN HUY CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI: NGHIÊN CỨU VÙNG KINH TẾ ĐÔNG NAM BỘ Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 62 31 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS NGÔ TUẤN NGHĨA 2. TS TRẦN ĐỨC THẮNG HÀ NỘI - 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Cao Tấn Huy
  4. ii MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 13 1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 13 1.2. Đánh giá khái quát những công trình liên quan đến luận án và những khoảng trống nghiên cứu 24 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP VÀO VÙNG KINH TẾ CỦA QUỐC GIA 27 2.1. Khái niệm và vai trò của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế của một quốc gia 27 2.2. Một số lý thuyết và các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế 39 2.3. Kinh nghiệm và bài học kinh nghiệm về phát huy vai trò của các yếu tố tác động đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào vùng kinh tế 57 Chương 3: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VÙNG KINH TẾ ĐÔNG NAM BỘ GIAI ĐOẠN 2013-2018 64 3.1. Khái quát và phân tích Swot về thu hút đầu tư trực tiếp vùng kinh tế Đông Nam Bộ giai đoạn 2013 - 2018 64 3.2. Đánh giá tác động của các yếu tố đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ 79 3.3. Những kết quả đạt được và vấn đề đặt ra trong phát huy vai trò các yếu tố tác động đến thu hút fdi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ 105 Chương 4: GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC YẾU TỐ TÍCH CỰC NHẰM TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÙNG KINH TẾ ĐÔNG NAM BỘ ĐẾN 2025 117
  5. iii 4.1. Bối cảnh yêu cầu mới thu hút đầu tư trực tiếp vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ 117 4.2. Một số giải pháp chủ yếu để phát huy yếu tố tác động nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm hài hòa quan hệ lợi ích trong vùng kinh tế Đông Nam Bộ đến năm 2025 126 KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150 PHỤ LỤC 161
  6. iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CFA : Confirmatory Factor Analysis DN : Doanh nghiệp ĐT : Đầu tư ĐTNN : Đầu tư nước ngoài EFA : Exploratory Factor Analysis FDI : Foreign Direct Investment GDP : Gross Domestic Product GRDP : Gross Regional Domestic Product KCHT : Kết cấu hạ tầng KCN : Khu công nghiệp KTTĐ : Kinh tế trọng điểm KT-XH : Kinh tế - xã hội ML : Maximum Likehood OLS : Ordinary least squares UBND : Ủy ban Nhân dân
  7. v DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Đánh giá thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha 89 Bảng 3.2: Kết quả EFA của các yếu tố tác động đến thu hút FDI 93 Bảng 3.3: Phân tích EFA với yếu tố quyết định đầu tư 95 Bảng 3.4: Ma trận hệ số tương quan Pearson 96 Bảng 3.5: Kết quả đánh giá độ phù hợp của mô hình 98 Bảng 3.6: Kết quả kiểm định ANOVA 98 Bảng 3.7: Kết quả mô hình hồi quy 99 Bảng 3.8: Vốn FDI đăng ký và số dự án còn hiệu lực giai đoạn 2013 - 2018 107 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1: Biểu đồ tần số phần dư chuẩn hóa 101 Biểu đồ 3.2: Biểu đồ tần số của phần dư 102 Biểu đồ 3.3: Tổng vốn đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế Đông Nam Bộ giai đoạn 2013-2018 108 Biểu đồ 3.4: Tổng vốn đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế Đông Nam Bộ giai đoạn 2013-2018 109 Biểu đồ 3.5: Tổng dự án đầu tư nước ngoài tại các tỉnh thành vùng kinh tế Đông Nam Bộ 2013-2018 110 DANH MỤC HÌNH Hình 1.1: Quy trình nghiên cứu tác động của các yếu tố đến thu hút FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ 8 Hình 1.2: Các phương pháp chọn mẫu 10 Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến thu hút FDI cho vùng Đông Nam Bộ 79
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Thu hút đầu tư (ĐT) trực tiếp nước ngoài (FDI) nhằm góp phần bổ sung vào nguồn lực phát triển còn nhiều hạn chế của Việt Nam là một hoạt động mang tính tất yếu khách quan. Thực tế cho thấy hơn 30 năm qua, kể từ 1987, khi luật đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành ở Việt Nam thì hoạt động thu hút đầu tư đã đạt nhiều thành tựu đặc biệt quan trọng trong kích thích kinh tế phát triển, kiềm chế lạm phát, giải quyết việc làm Xét về quy mô, dòng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đã gia tăng một cách ngoạn mục từ 341,7 triệu USD năm 1988 [50] lên 340.159,445 triệu USD vào cuối năm 2018 (tăng hơn 200 lần) [18]. Kết quả này đã góp phần đưa khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) trở thành một bộ phận rất quan trọng với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội (KT- XH) của Việt Nam hiện nay. Cùng với xu hướng phát triển chung của Việt Nam thì thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. So với nhiều vùng kinh tế của Việt Nam, trong 03 thập kỷ vừa qua, vùng kinh tế Đông Nam Bộ là một điểm sáng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến hết năm 2018, thì lũy kế dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ đã đạt mức 143,288.31 triệu USD chiếm 42,12% của cả nước [18]. Nguồn lực vốn, kỹ thuật, công nghệ từ đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang đóng góp rất quan trọng vào quy mô tăng trưởng cũng như thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội của vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Có được những thành công vượt bậc phải kể đến việc phát huy vai trò của các yếu tố thuộc về tiềm năng, lợi thế, môi trường đầu tư của toàn vùng. Tuy nhiên, bên những kết quả quan trọng nêu trên, xét về xu hướng trong một số năm gần đây, dòng vốn FDI vào khu vực Đông Nam Bộ có dấu hiệu chững lại. Có nhiều nguyên nhân tác động đến chiều hướng của dòng vốn FDI vào vùng Đông Nam Bộ, vấn đề đặt ra là liệu có phải dư địa của việc phát huy vai trò của các
  9. 2 yếu tố tác động trực tiếp đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ có chiều hướng thu hẹp dần? Ngoài các yếu tố truyền thống như lợi thế về kết cấu hạ tầng (KCHT), nguồn nhân lực, chất lượng dịch vụ công, chi phí đầu vào cạnh tranh, môi trường sống và làm việc, cơ chế thu hút đầu tư tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ, liệu còn có những yếu tố nào nữa đang tác động và có thể là rào cản hay thúc đẩy thu hút dòng vốn FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ trong bối cảnh mới? Đây là một vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu làm rõ đối với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Về mặt lý luận, nghiên cứu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung, và nghiên cứu các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng là chủ đề hấp dẫn đối với nhiều chuyên gia kinh tế, nhiều cán bộ lãnh đạo các cấp tại Việt Nam. Trên thế giới và kể cả ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, kết quả cho thấy: các nhà khoa học trong và ngoài nước thực hiện nghiên cứu về thu hút dòng vốn FDI chủ yếu là sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua sử dụng bộ dữ liệu thứ cấp [25]; [26]; [49]; [62]; [72]; [78] hoặc sử dụng dữ liệu sơ cấp [23]; [29] để xác định và lượng hóa các yếu tố tác động đến dòng vốn FDI. Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc thu hút dòng vốn FDI chảy vào một quốc gia [23]; [25]; [26]; [49]; [62]; [72] hoặc một tỉnh cụ thể [29]; [78] mà chưa có nghiên cứu xem xét về thu hút dòng vốn FDI ở cấp độ vùng, nhất là vai trò và tác động của yếu tố liên kết (liên kết giữa các tỉnh) trong việc thu hút dòng vốn FDI cần được làm rõ song chưa được đề cập đủ mức ở các công trình nghiên cứu. Về mặt thực tiễn, đối với vùng kinh tế Đông Nam Bộ trong nhiều biện pháp thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng gần đây, có nhiều yếu tố tác động đã được phân tích. Song vấn đề rất cấp thiết đang được đặt ra là phải tìm kiếm, phát hiện những yếu tố mới đang là rào cản, kìm hãm hoặc có tiềm năng để tiếp tục tạo động lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ từ đó góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH của toàn vùng
  10. 3 và nhất là đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các địa phương trong vùng với các nhà đầu tư nước ngoài. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh lựa chọn chủ đề “Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: Nghiên cứu vùng kinh tế Đông Nam Bộ” làm đề tài nghiên cứu của luận án này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Mục đích nghiên cứu của luận án là nhằm phân tích và làm rõ hơn cơ sở lý thuyết và thực tiễn về các yếu tố tác động đến thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế của một quốc gia. Trên cơ sở đó, thực hiện phân tích, đánh giá các yếu tố tác động đến thu hút dòng vốn FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Hướng tới đề xuất các giải pháp nhằm phát huy các yếu tố tích cực để tiếp tục thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ đến năm 2025. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Một là, hệ thống hóa và làm rõ hơn lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế của quốc gia. Trong đó, các yếu tố nội tại của vùng, các yếu tố bên ngoài vùng, yếu tố liên kết vùng ảnh hưởng tới thu hút vốn FDI vào vùng kinh tế. Hai là, phân tích làm rõ vai trò của các yếu tố tác động đến thu hút vốn FDI và tác động của FDI ở vùng kinh tế Đông Nam Bộ từ năm 2013 đến 2018. Đề xuất kiến nghị và giải pháp phát huy các yếu tố tích cực để tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các yếu tố tác động đến thu hút vốn FDI và vùng kinh tế. Trong đó, có mối quan hệ giữa các yếu tố tác động và ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế của quốc gia.
  11. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án Phạm vi về mặt nội dung: Do việc tiếp cận về các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư vào vùng kinh tế của một quốc gia có thể được triển khai với nhiều góc độ khác nhau, cho nên, trong luận án này, tiếp cận dưới góc độ chuyên ngành kinh tế chính trị, luận án chỉ tập trung trọng tâm vào hai nhóm yếu tố: * Nhóm thứ nhất: nhóm các yếu tố bên ngoài vùng kinh tế (bao hàm: tình hình thế giới; chiến lược của nhà đầu tư; tiềm lực tài chính của nhà đầu tư; trình độ công nghệ của các dự án; áp lực cạnh tranh giữa các vùng kinh tế). * Nhóm thứ hai: nhóm các yếu tố bên trong vùng kinh tế (bao hàm: sự ổn định KT-XH; môi trường chính trị an ninh của vùng; điều kiện tự nhiên của vùng; quy hoạch và chính sách phát triển của vùng; công tác quản lý, hỗ trợ của chính quyền các địa phương; KCHT; chất lượng dịch vụ công; thương hiệu của địa phương trong vùng; môi trường sống và làm việc và đặc biệt là sự liên kết giữa các địa phương trong vùng). Tuy vậy khi thực hiện phân tích thực trạng các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ, luận án chỉ tập trung vào bảy yếu tố cơ bản gồm: Một là, yếu tố KCHT. Hai là, yếu tố cơ chế, chính sách thu hút đầu tư. Ba là, yếu tố liên kết vùng. Bốn là, yếu tố nguồn nhân lực. Năm là, yếu tố chất lượng dịch vụ công trong vùng. Sáu là, yếu tố môi trường sống và làm việc. Bảy là, yếu tố thương hiệu địa phương. Phạm vi về mặt không gian: Luận án đặt trọng tâm vào nghiên cứu thực tiễn và đề xuất giải pháp thu hút vốn FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Sở dĩ là vì do nguồn số liệu và khả năng dữ liệu có hạn và phù hợp với thực tế địa phương và có thể kiểm chứng được nguồn số liệu tin cậy.
  12. 5 Phạm vi về mặt thời gian: Phạm vi nghiên cứu phân tích đánh giá thực trạng từ năm 2013 đến năm 2018 (6 năm). Đây là thời gian mà các dư địa phát huy tác dụng của các yếu tố tác động cũ đã và đang bộc lộ rõ. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận án 4.1. Về cơ sở lý luận của luận án Luận án được thực hiện nghiên cứu dựa vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và chủ trương của Đảng về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các văn kiện của Đảng; Chiến lược phát triển KT-XH; chính sách thu hút vốn FDI của vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) phía Nam, vùng kinh tế Đông Nam Bộ; đồng thời tham khảo một số lý thuyết kinh tế, những nghiên cứu của các tổ chức, học giả trong nước và quốc tế về FDI và tác động của các yếu tố đến thu hút FDI, về vấn đề quy hoạch phát triển vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Tác giả dựa trên các giả định là sẵn có các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn đầu tư trực tiếp vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Do ở Việt Nam không có chính quyền cấp vùng, cũng không có trung tâm điều phối chính sách vùng đủ mạnh vì vậy chính quyền các địa phương trong vùng phải có chính sách thích hợp nhằm thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư và tạo điều kiện cho họ hoạt động hiệu quả trong Vùng. Chính vì vậy, hướng tiếp cận trong luận án chú trọng vai trò của chính quyền địa phương trong tổng thể vùng kinh tế Đông Nam Bộ cùng đặt trong khung khổ chính sách quốc gia và lợi ích vùng để xem xét. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án * Phương pháp luận và tiếp cận Dựa trên hệ nhận thức đã có, phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử được tác giả sử dụng đồng thời tiếp cận kết hợp giữa nghiên cứu định tính (thông qua phỏng vấn chuyên gia và thảo luận nhóm tập trung với các đối tượng khảo sát) để điều chỉnh các biến quan sát dùng để đo lường các khái niệm nghiên cứu và nghiên cứu định lượng (thông qua phỏng vấn trực tiếp các đối tượng khảo sát) để thực hiện kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu liên quan đến chủ đề của luận án.
  13. 6 Phương pháp nghiên cứu truyền thống được sử dụng bao gồm: trừu tượng hóa khoa học, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê dữ liệu được sử dụng trong các chương 1, chương 2 và chương 3 của luận án khi phân tích và đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu; hệ thống hóa vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; hệ thống hóa các lý thuyết về các yếu tố tác động tới thu hút FDI vào vùng kinh tế; phân tích các yếu tố tác động và kinh nghiệm phát huy vai trò của các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào vùng kinh tế trong chương 2 và chương 3 của luận án. Luận án này cũng sử dụng phương pháp SWOT khi nghiên cứu thực trạng tại chương 3 và phương pháp dự báo khi nghiên cứu nội dung chương 4 trong đó có nội dung về bối cảnh tác động đến thu hút FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ. * Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp Dữ liệu thứ cấp được thu thập thông qua các Niên giám thống kê của Tổng cục thống kê qua về thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài các năm 2018; 2017, 2016, 2015, 2014, 2013 xét riêng đối với vùng kinh tế Đông Nam Bộ. * Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp Thông tin dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua thảo luận nhóm tập trung và điều tra khảo sát. Cụ thể: - Thảo luận nhóm: Tác giả thực hiện thảo luận nhóm tập trung cùng các đối tượng khảo sát là các chuyên gia để xác định lại các yếu tố tác động đến hài lòng của nhà đầu tư, vai trò của liên kết vùng trong thu hút đầu tư; và điều chỉnh các biến quan sát dùng để đo lường các khái niệm nghiên cứu (có danh sách chuyên gia tại Phụ lục 1). - Điều tra khảo sát: Tác giả thực hiện điều tra khảo sát bằng phương pháp lấy mẫu phân tầng thuận tiện, trải qua hai bước: Bước 1: Tác giả tiến hành khảo sát thông qua bảng câu hỏi chi tiết bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp 100 đáp viên để điều chỉnh cấu trúc thang đo. Bước 2: Tác giả tiến hành phỏng vấn trực tiếp 300 đáp viên là các đối tượng khảo sát (diễn giải chi tiết ở mục 3.3 của luận án) để tiến hành phân tích dữ liệu, kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu.
  14. 7 - Công cụ xử lý thông tin: Sau khi thu thập dữ liệu từ các bảng khảo sát, tác giả tiến hành phân loại và loại đi những bảng không đạt yêu cầu. Sau đó dữ liệu được mã hóa và làm sạch bằng phần mềm SPSS 20.0. - Công cụ phân tích và kiểm định mô hình nghiên cứu: Tác giả sử dụng công cụ phân tích độ tin cậy (Reliability Analysis) thông qua hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích yếu tố khám phá EFA (Exploratary Factor Analysis). Tác giả sử dụng hồi quy tuyến tính (OLS - Ordinary least squares) được sử dụng để kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. * Về quy trình nghiên cứu Trước tiên, tác giả sẽ thực hiện lược khảo lý thuyết (bao gồm: hai nội dung nghiên cứu cơ bản: (i) nghiên cứu cơ sở lý thuyết về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và (ii) thực hiện tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan) để thiết kế dàn bài phỏng vấn chuyên gia và thảo luận nhóm cùng các đối tượng khảo sát nhằm điều chỉnh mô hình và điều chỉnh các biến quan sát dùng để đo lường các khái niệm nghiên cứu. Kế tiếp, thực hiện nghiên cứu định lượng sơ bộ trên cỡ mẫu là 100 đáp viên là các đối tượng khảo sát theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện thông qua bảng câu hỏi chi tiết. Tác giả phân tích độ tin cậy của dữ liệu thông qua hệ số Cronbach’Alpha, sau đó phân tích các nhân tố khám phá bằng phương pháp EFA nhằm sàng lọc thang đo và xác định cấu trúc thang đo dùng cho nghiên cứu chính thức. Cuối cùng, tác giả thực hiện nghiên cứu chính thức để tiến hành đánh giá thang đo, kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. Nghiên cứu chính thức được thực hiện thông qua điều tra khảo sát 300 doanh nghiệp (DN) theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện thông qua bảng câu hỏi chi tiết. Sau khi kiểm định độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố, tác giả sử dụng hồi quy tuyến tính (OLS - ordinary least squares) để kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu. Các bước trong quy trình nghiên cứu được tác giả trình bày như hình 1.1.
  15. 8 Hình 1.1: Quy trình nghiên cứu tác động của các yếu tố đến thu hút FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ Nguồn: Xây dựng của tác giả Mẫu nghiên cứu Tác giả Hair và cộng sự (2006) cho rằng nếu nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng Maximum Likelihood (ML) thì kích thước mẫu được xác định dựa vào một trong hai cách sau: (i) mức tối thiểu và (ii) số lượng biến đưa vào phân tích trong mô hình. (i) Mức tối thiểu Min = 50. (ii) Tỷ lệ mẫu so với một biến phân tích k là 5/1 hoặc 10/1.
  16. 9 Nếu N < mức tối thiểu thì sẽ chọn mức tối thiểu. Trường hợp mô hình có m thang đo và Pj là số biến quan sát thứ j thì kích thước mẫu tối thiểu được xác định như sau: m N kPj j 1 Trong nghiên cứu của mình, tác giả dự kiến có 05 biến quan sát để đo lường khái niệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và 36 biến quan sát dùng để đo lường 7 yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, kích thước mẫu nghiên cứu tối thiểu theo tác giả Hair và cộng sự (2006) phải là: N = (05 + 36) * 5 = 205. Do vậy, tác giả phải thực hiện khảo sát ít nhất là 205 doanh nghiệp. Nhằm đảm bảo độ tin cậy của các thang đo nghiên cứu, tác giả thực hiện khảo sát 400 doanh nghiệp. Phương pháp lấy mẫu Có nhiều phương pháp chọn mẫu được sử dụng cho các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường, và có thể được chia ra làm 02 nhóm chính: (i) Phương pháp chọn mẫu theo xác suất: là phương pháp chọn mẫu mà các nhà nghiên cứu biết được xác suất tham gia vào mẫu của các phần tử; (ii) Phương pháp chọn mẫu không theo xác suất: là phương pháp chọn mẫu mà trong đó nhà nghiên cứu chọn các phần tử tham gia vào mẫu không theo quy luật ngẫu nhiên. Tổng hợp các phương pháp chọn mẫu được trình bày trong hình 1.2.
  17. 10 Hình 1.2: Các phương pháp chọn mẫu Nguồn: Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Thị Mai Trang [40] Việc sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hay không ngẫu nhiên trong quá trình kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu thì kết quả kiểm định chỉ mang ý nghĩa là với dữ liệu hiện có, chúng ta chấp nhận hay từ chối mô hình và các giả thuyết nghiên cứu này chứ không khẳng định được là chúng đúng hay sai. Tất nhiên, nếu mô hình và các giả thuyết nghiên cứu được kiểm định theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thì tính tổng quát của kết quả sẽ cao hơn nhưng thời gian và chi phí cũng tăng theo. Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian và ngân sách khi thực hiện đề tài nghiên cứu nên tác giả thực hiện theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện thông qua phỏng vấn trực tiếp các đối tượng khảo sát bằng bảng câu hỏi chính thức. Về kỹ thuật xử lý dữ liệu Dữ liệu thu thập từ các đối tượng khảo sát được đánh giá bằng phương pháp phân tích độ tin cậy thông qua hệ số Cronbach’s Alpha, phương pháp phân tích EFA, phương pháp phân tích CFA và hồi quy OLS được sử dụng để kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 5.1. Về ý nghĩa lý luận Một là, đề tài xác định và lượng hóa được các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư (theo cách tiếp cận theo góc độ về hành vi của nhà đầu tư) và tìm ra
  18. 11 được một điểm mới so với các nghiên cứu trước là đó là yếu tố liên kết vùng có tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, so với các công trình đã công bố, tiếp cận các yếu tố tác động đến thu hút FDI thường các tác giả mới tập trung vào phân tích định tính tác động tích cực, tiêu cực mà ít được kiểm định và lượng hóa mức độ tác động của các yếu tố đó tới thu hút FDI vào vùng kinh tế. Luận án này sẽ phân tích trên cơ sở lượng hóa các mức độ và mối quan hệ giữa các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào vùng kinh tế. Mặt khác, trong hầu hết các công trình nghiên cứu đã công bố, tác động của các yếu tố liên kết vùng chưa được đề cập. Trong nghiên cứu của luận án này, tác giả xem xét tới sự ảnh hưởng của yếu tố liên kết vùng đến thu hút FDI vào vùng kinh tế. Hai là, luận án phát triển thang đo thu hút đầu tư và các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế. Ba là, luận án góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận về các yếu tố tác động tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế của quốc gia trong bối cảnh dịch chuyển các dòng vốn đầu tư đang diễn ra nhanh trên thế giới, đóng góp thêm thông tin và tri thức vào lĩnh vực nghiên cứu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chỉ ra những tiêu chí để đánh giá về các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế. 5.2. Về ý nghĩa thực tiễn Về mặt thực tiễn, luận án đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm phát huy yếu tố tích cực để tiếp tục đẩy mạnh thu hút FDI vào vùng Đông Nam Bộ trong thời gian tới dựa trên các kết quả phân tích mức độ tác động của các yếu tố đã được chỉ ra. Luận án cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những gợi ý nhằm nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Cụ thể: Một là, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách nắm bắt được các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ - Việt Nam để từ đó có được tư duy và cách thức mới nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
  19. 12 Hai là, kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo về FDI, về thu hút FDI vào vùng kinh tế cho các nhà nghiên cứu, giảng viên, học viên, những người quan tâm tới chủ đề. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bao gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp vào vùng kinh tế của quốc gia Chương 3. Phân tích tác động của các yếu tố đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế đông nam bộ giai đoạn 2013-2018 Chương 4. Giải pháp phát huy các yếu tố tích cực nhằm tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vùng kinh tế đông nam bộ đến 2025.
  20. 13 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Nghiên cứu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung và nghiên cứu làm rõ các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng là chủ đề có tính hấp dẫn đối với nhiều chuyên gia kinh tế, nhiều cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp ở Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các tác giả trong và ngoài nước. Trong đó, có thể nêu ra những nhóm công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: 1.1.1. Nhóm các công trình của tác giả quốc tế tiêu biểu * Nhóm các nghiên cứu bàn về sự xuất hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài Lý thuyết về xuất khẩu tư bản của V.I. Lênin cho rằng: “Điểm điển hình của chủ nghĩa tư bản cũ, trong đó là sự tự do cạnh tranh hoàn toàn thống trị, là việc xuất khẩu hàng hóa. Điểm điển hình của chủ nghĩa tư bản mới, trong đó các tổ chức độc quyền thống trị là việc xuất khẩu tư bản” [61, tr.402]. Xuất khẩu tư bản mà Lênin nghiên cứu vào đầu thế kỷ XX với mục đích là lợi nhuận. Xuất khẩu tư bản và đầu tư nước ngoài hiện nay cũng có điểm khác nhau: xuất khẩu tư bản để giải quyết vấn đề dư thừa tương đối tư bản. Xuất phát từ việc xem xét chu kỳ sản phẩm, Akamatsu Kaname trong bài: “A Historical Pattern of Economic Growth in Developing Countries” (Một mẫu lịch sử của tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển) [67] đã cho rằng, sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường bản địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách thu hút vốn, kỹ thuật của nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước
  21. 14 bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện. Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI [67]. Cũng cùng quan điểm này, Raymond Vernon trong công trình “International Investment and International Trade in the Product Cycle” (Đầu tư quốc tế và thương mại quốc tế trong các chu kỳ sản phẩm) [100] cho rằng, khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình, cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn [100]. Với quan điểm chiết trung, Dunning trong nghiên cứu “Trade, location of economic activity and the MNE: a search for an eclectic approach” (Thương mại, vị trí của hoạt động kinh tế và các doanh nghiệp đa quốc: tìm kiếm một phương pháp chiết trung) [73] và bài nghiên cứu “Why Do Companies Invest Overseas” (tại sao các công ty đầu tư ra nước ngoài) [74], cho rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bị ảnh hưởng cả hai yếu tố: yếu tố đẩy từ nước đầu tư và yếu tố kéo từ nước thu hút đầu tư. Một số yếu tố như thị trường trong nước bị hạn chế, chi phí các yếu tố đầu vào và lao động, áp lực cạnh tranh cao của nước đầu tư sẽ là động lực để thúc đẩy hành vi đầu tư ra nước ngoài. Ngược lại, thị trường lớn và phát triển ổn định, chi phí các yếu tố đầu vào và lao động rẻ, chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý sẽ thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài [73]; [74]. Bắt nguồn từ lý thuyết thương mại quốc tế của Heckscher trong bài “The effect of foreign trade on the distribution of income” (Tác động của ngoại thương đến phân phối thu nhập) [77] và Ohlin-Ho trong tác phẩm “Interregional and International Trade” (Thương mại liên khu vực và quốc tế) [92], giải thích hiện tượng đầu tư quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư (vốn, lao động) giữa các nước, đa phần là giữa các nước phát triển và đang phát triển.
  22. 15 M.Kemp đề xuất mô hình di chuyển vốn quốc tế [82]. Quan điểm của McDougall - Kemp phát triển từ lý thuyết của Mac. Dougall [89], cho rằng các nước dư thừa vốn đầu tư có năng suất cận biên của vốn thấp hơn năng suất cận biên của vốn ở những nước thiếu vốn. Do đó, xuất hiện dòng lưu chuyển giữa 2 nhóm nước [89]. Tuy nhiên, mô hình này không giải thích được hiện tượng cùng một nước nhưng có cả hai dòng vốn chảy vào và chảy ra. Do đó, lý thuyết lợi nhuận cận biên chỉ có thể là bước khởi đầu nghiên cứu về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Nghiên cứu của Charles Kindleberger và Stephen Hymer; hay Dunning, Krugman A. A. đều cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (bí mật về công nghệ và lợi thế về thông tin vượt trội ) giúp các công ty vượt có lợi thế về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm mở rộng thị trường sản phẩm [73]; [79]; [84]; [85]. Nhóm các công trình giải thích sự lựa chọn nước thu hút đầu tư của nước đầu tư, bao gồm: Romer và Lucas cho rằng các yếu tố sau tác động đến hành vi đầu tư: ý định đầu tư; sự ổn định về môi trường đầu tư; sự phát triển của hệ thống tài chính; chính sách lãi suất; chính sách đầu tư công; chất lượng nguồn nhân lực; sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ hoặc các dự án trong cùng ngành có mối liên kết; khả năng tiếp thu và vận dụng và phát triển công nghệ; khả năng hỗ trợ và chính sách hỗ trợ đầu tư của nước thu hút đầu tư (thị trường, luật lệ, thủ tục, công nghệ) [87]; [96]. Tổng hợp phân tích hành vi đầu tư của doanh nghiệp từ nhiều nghiên cứu (mô hình đầu tư theo lý thuyết tân cổ điển của Solow; mô hình hành vi đầu tư của doanh nghiệp tiếp cận theo mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro; mô hình ngoại tác của Romer và Lucas cho thấy các yếu tố có thể tác động tới hành vi đầu tư: (1) ý định đầu tư (sự thay đổi nhu cầu); (2) sự ổn định về môi trường đầu tư; (3) các chính sách hỗ trợ đầu tư (quy định pháp luật, quy trình, thủ tục); (4) chính sách lãi suất; (5) mức độ phát triển của hệ thống tài chính; (6) chính sách
  23. 16 đầu tư công; (7) chất lượng nguồn nhân lực; (8) sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ và các dự án đầu tư khác trong cùng ngành hay trong các ngành có mối liên kết; (9) khả năng tiếp thu và vận dụng và phát triển công nghệ; (10) mức độ đầy đủ và minh bạch về thông tin, kể cả thông tin về thị trường, luật lệ, thủ tục, về các tiến bộ công nghệ [71]; [87]; [96]; [97]. Môi trường đầu tư tại nơi thu hút đầu tư là yếu tố quyết định để thu hút đầu tư vào địa phương đó đồng thời là yếu tố mang lại lợi thế cạnh tranh giữa các địa phương. Parasuraman trong bài nghiên cứu “A conceptual model of service quality and its implications for future research” (Một mô hình khái niệm về chất lượng dịch vụ và ý nghĩa của nó đối với nghiên cứu trong tương lai) [93] đã đưa ra mô hình SERVQUAL nhằm đánh giá chất lượng dịch vụ với năm thành phần đánh giá, bao gồm: (1) yếu tố tin cậy; (2) yếu tố khả năng đáp ứng; (3) yếu tố năng lực phục vụ; (4) yếu tố đồng cảm; (5) yếu tố phương tiện hữu hình. Tuy nhiên, các nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn khách hàng là hai khái niệm khác nhau. Tác giả Oliver cho rằng sự thỏa mãn của khách hàng là một phản ứng mang tính cảm xúc của khách hàng khi được đáp ứng mong muốn sau khi khách hàng trải nghiệm sản phẩm hay dịch vụ [40, tr.123]. Sự thỏa mãn khách hàng là một khái niệm tổng quát nói lên sự hài lòng của họ khi tiêu dùng một dịch vụ, đó là sự khác biệt giữa kết quả nhận được so với kỳ vọng. Trong khi đó, Zeithml và Bitner cho rằng chất lượng dịch vụ chỉ tập trung vào các thành phần cụ thể của dịch vụ [40, tr.124]. * Nhóm công trình về những yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Nghiên cứu của Asiedu trong bài “On the determinants of foreign direct investment to developing countries: is Africa different” (bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các quốc gia đang phát triển: Châu Phi có sự khác biệt không?) [69], nghiên cứu này tìm hiểu xem liệu các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở các nước đang phát triển có ảnh hưởng đến các quốc gia ở châu Phi cận Sahara (SSA)
  24. 17 khác nhau hay không. Bằng phương pháp hồi quy bình phương tối thiểu (OLS), kết quả cho thấy: (1) lợi tức đầu tư cao hơn và KCHT tốt hơn có tác động tích cực đến FDI đối với các nước không thuộc SSA, nhưng không có tác động đáng kể đến FDI đối với SSA; (2) độ mở thương mại tác động tích cực đến việc thu hút vốn FDI đến các quốc gia SSA và không thuộc SSA; tuy nhiên, lợi ích cận biên từ sự độ mở thương mại gia tăng ít hơn đối với SSA. Những kết quả này hàm ý rằng Châu Phi có sự khác biệt vì thế các chính sách thành công ở các khu vực khác có thể không thành công khi áp dụng ở Châu Phi. Cùng tác giả, Asiedu trong: “Foreign direct investment in Africa: The role of natural resources, market size, government policy, institutions and political instability” (Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại châu Phi: Vai trò của tài nguyên thiên nhiên, quy mô thị trường, chính sách của chính phủ, các tổ chức và bất ổn chính trị) [70], bằng khảo sát dữ liệu từ một số nhà đầu tư, đã cho rằng, sự bất ổn kinh tế vĩ mô, hạn chế đầu tư, tham nhũng và bất ổn chính trị có tác động tiêu cực đến FDI vào châu Phi. Tác giả sử dụng dữ liệu bảng cho 22 quốc gia trong giai đoạn 1984-2000 để xem xét và đi đến kết luận các nguồn tài nguyên thiên nhiên, quy mô thị trường, các chính sách của chính phủ, bất ổn chính trị và chất lượng của các tổ chức của nước chủ nhà vào FDI có tác động nhiều chiều luồng FDI. Shapiro trong cuốn “Foundations of Multinational Financial Management” (nền tảng của quản trị tài chính đa quốc gia) [63] cho rằng: Quy mô và nhu cầu thị trường là một trong những động lực lớn đối với FDI. Quy mô thị trường của một khu vực càng lớn, thì càng thu hút nhiều FDI hơn, với các điều kiện khác không thay đổi. Chi phí lao động cao đã được lập luận có ảnh hưởng tiêu cực đến thu hút vốn FDI. Chất lượng lao động: ảnh hưởng đến thu hút vốn, khi các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ quyết định khu vực dựa trên chi phí lương mà còn tìm kiếm chất lượng lao động có thể ở mức giá cao hơn. KCHT: là một yếu tố quyết định quan trọng tại mức độ thu hút FDI khu vực. Điều này cho thấy đầu tư vào nền kinh tế có KCHT phát triển thì hấp dẫn
  25. 18 hơn, KCHT như một yếu tố quyết định FDI nó bị ảnh hưởng vị trí của địa phương. Dịch vụ hỗ trợ đề cập đến sự tập trung các hoạt động kinh tế, dẫn đến ngoại tác tích cực và quy mô kinh tế. Độ mở thương mại có mối quan hệ tích cực với kết quả thu hút FDI. Ưu đãi vốn FDI: như thỏa thuận ưu đãi về thuế, sử dụng đất, điện đặc biệt dùng trong khu kinh tế đặc biệt, tất cả những ưu đãi được tạo ra để thu hút vốn FDI cao hơn. Nghiên cứu của Moreira trong bài “The determinants of foreign direct investment: what is the evidence for Africa” (các yếu tố quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài: bằng chứng từ Châu Phi) [90], tác giả cho rằng quy mô thị trường và tốc độ tăng trưởng là một trong những yếu tố quyết định quan trọng nhất của FDI. Ngoài ra các yếu tố có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm: Tài nguyên thiên nhiên có sẵn, lao động giá rẻ và chất lượng của lực lượng lao động, KCHT chất lượng, độ mở của nền kinh tế, sự bất ổn về chính trị và kinh tế, chất lượng dịch vụ công của chính quyền địa phương, những quy định về thu hút FDI, thu hồi vốn, chính sách ưu đãi. Nhóm tác giả Khachoo và Khan trong bài nghiên cứu chung “Determinants of FDI inflows to developing countries: a panel data analysis” (các yếu tố ảnh hưởng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển: Phân tích bảng dữ liệu) [83], nhóm tác giả sử dụng mẫu của 32 nước đang phát triển nhằm nghiên cứu tác động của quy mô thị trường, tổng trữ lượng, KCHT, chi phí lao động và độ mở của thị trường đến dòng vốn FDI của các nước chủ nhà. Sử dụng dữ liệu từ 1982 đến 2008, tác giả sử dụng hồi quy dữ liệu bảng, kết quả cho thấy quy mô thị trường, tổng trữ lượng, KCHT và chi phí lao động là những yếu tố quyết định chính của dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Abdul và cộng sự trong nghiên cứu “Factors affecting foreign direct investment in Pakistan” (các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Pakistan) [62], nhóm tác giả cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi 06 yếu tố, bao gồm: (1) Tổng thu nhập quốc dân; (2) Xuất
  26. 19 khẩu; (3) Nhập khẩu; (4) Nợ nước ngoài; (5) Chi tiêu cho quân sự; (6) Tích lũy tài sản. Nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua dữ liệu thu thập dòng vốn FDI, vốn cổ phần, tổng thu nhập quốc dân, số liệu xuất khẩu, số liệu nhập khẩu, chi tiêu cho quân sự, nợ nước ngoài của Pakistan từ năm 1988 đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng các yếu tố như: tích lũy tài sản, xuất khẩu, tổng thu nhập quốc dân có ảnh hưởng tích cực đến thu hút FDI vào Pakistan. Nhóm tác giả Boateng trong công trình “Examining the determinants of inward FDI: Evidence from Norway” (các yếu tố tác động đến dòng chảy FDI vào Na Uy) [72], nhóm tác giả cho rằng dòng FDI chảy vào Na Uy chịu tác động trực tiếp bởi 07 nhóm yếu tố bao gồm: GDP, lạm phát, tỷ giá, dòng tiền, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất, độ mở thương mại. Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua bộ dữ liệu của UNCTAD về dòng FDI chảy vào Na Uy từ năm 1986 đến 2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu tác động bởi các nhóm yếu tố sau: GDP, lạm phát, tỷ giá, dòng tiền, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất, độ mở thương mại. 1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước “Giáo trình Kinh tế phát triển” của Nguyễn Trọng Hoài [22] nghiên cứu các yếu tố “cơ sở hạ tầng mềm” tác động đến việc thu hút vốn đầu tư địa phương cho thấy, tập hợp những yếu tố đặc thù của môi trường đầu tư bao gồm chính sách của địa phương, tính năng động của lãnh đạo tỉnh, tính minh bạch và tiếp cận thông tin và chi phí thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước (kết cấu hạ tầng mềm) và các yếu tố khác liên quan đến quy mô thị trường và ưu thế địa lý (kết cấu hạ tầng cứng) sẽ ảnh hưởng đến chi phí cơ hội của vốn đầu tư, mức độ rủi ro trong đầu tư và những rào cản về cạnh tranh trong quá trình đầu tư. Trên cơ sở của ba vấn đề này, các nhà đầu tư sẽ cân nhắc và xem xét ý định, cơ hội và động lực đầu tư đến một địa phương nào đó. Nghiên cứu của Nguyễn Đức Nhuận trong bài “Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế đồng bằng Sông Hồng” [33].
  27. 20 Tác giả Nguyễn Đức Nhuận cho rằng, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Sông Hồng chịu tác động bởi các yếu tố sau: Kết cấu hạ tầng đầu tư, chính sách đầu tư, chất lượng dịch vụ công, nguồn nhân lực, môi trường sống và làm việc, chi phí đầu vào cạnh tranh, lợi thế ngành đầu tư, thương hiệu địa phương. Tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua khảo sát 330 nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố như: Kết cấu hạ tầng đầu tư, chính sách đầu tư, chất lượng dịch vụ công, nguồn nhân lực, môi trường sống và làm việc, chi phí đầu vào cạnh tranh, lợi thế ngành đầu tư, thương hiệu địa phương ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế đồng bằng Sông Hồng [33]. Nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Viết Bằng và cộng sự trong bài “Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Đồng Nai” [3]. Nhóm tác giả cho rằng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu tác động bởi 08 yếu tố, bao gồm: Kết cấu hạ tầng đầu tư, chính sách đầu tư, chất lượng dịch vụ công, nguồn nhân lực, môi trường sống và làm việc, chi phí đầu vào cạnh tranh, lợi thế ngành đầu tư, thương hiệu địa phương. Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua khảo sát 365 nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Đồng Nai. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 08 yếu tố tác động đến quyết định của nhà đầu tư thì yếu tố KCHT và nguồn nhân lực là các yếu tố tác động nhiều nhất. Điều này có nghĩa là, KCHT và nguồn nhân lực là 02 yếu tố mà các nhà đầu tư xem xét nhiều nhất trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Vì vậy, để các nhà đầu tư quyết định đầu tư vào các KCN (KCN) trên địa bàn tỉnh, lãnh đạo địa phương cần quan tâm nhiều đến 02 yếu tố này. Đây sẽ làm cơ sở để thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Nghiên cứu của tác giả Lê Hoàng Bá Huyền trong công bố “Các yếu tố tác động đến dòng FDI chảy vào tỉnh Thanh Hóa” [78]. Tác giả cho rằng, dòng vốn FDI chịu tác động bởi 06 yếu tố, bao gồm: nhóm yếu tố về chính sách, chính phủ; nhóm yếu tố về văn hóa - xã hội, nhóm yếu tố về kinh tế và thị trường;
  28. 21 nhóm yếu tố về tài chính, nhóm yếu tố về nguồn lực và nhóm yếu tố về KCHT đầu tư. Tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua việc thu thập dữ liệu thứ cấp của 41 doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2001 đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy: dòng vốn FDI chịu tác động bởi 02 nhóm yếu tố là: (i) yếu tố về kinh tế và thị trường và (ii) nhóm yếu tố KCHT đầu tư. Nghiên cứu của tác giả Phan Thị Quốc Hương trong bài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào Việt Nam” [26]. Tác giả cho rằng dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam chịu tác động trực tiếp bởi 04 nhóm yếu tố, bao gồm: nhóm yếu tố khung chính sách; nhóm yếu tố kinh tế; nhóm yếu tố chất lượng thể chế; và nhóm yếu tố về thông tin quá khứ về vốn FDI thu hút được. Tác giả đã sử dụng phương pháp ước lượng Moment tổng quát sai phân (DGMM) để kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. Tác giả đã sử dụng dữ liệu biến phụ thuộc FDI được thu thập từ số liệu thống kê của tổ chức UNCTAD trong giai đoạn 2000-2012. Tác giả sử dụng các yếu tố khung chính sách, kinh tế và chất lượng thể chế làm biến đại diện cho các biến độc lập. Các biến này đều được tác giả thu thập từ nguồn dữ liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới trong giai đoạn 2000-2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: 3 trong 6 giả thuyết không đủ cơ sở để bác bỏ tại mức ý nghĩa 10%, bao gồm tác động nhóm yếu tố khung chính sách, động cơ tìm kiếm thị trường và động cơ tìm kiếm tài nguyên đối với dòng vốn FDI vào Việt Nam. Tác giả Nguyễn Minh Tiến trong bài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa FDI với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam” [49], tác giả Nguyễn Minh Tiến cho rằng dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam chịu tác động của 07 yếu tố: Quy mô thị trường, nguồn nhân lực, Độ mở thương mại, KCHT, lao động có kỹ năng, chính sách kinh tế vĩ mô, ổn định kinh tế vĩ mô. Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu thứ cấp thu thập từ 43 tỉnh thành của Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2012. Thông qua phương pháp ước lượng Moment tổng quát (hồi quy GMM Arellano-Bond) với bộ dữ dữ liệu bảng và dựa trên ước lượng PMG. Tác giả đã nghiên cứu tác động
  29. 22 của FDI và các yếu tố lên tăng trưởng kinh tế của 6 vùng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 1997-2012. Kết quả cho thấy giữa các vùng có những đặc tính hội tụ và đặc trưng đối với các tác động của các yếu tố lên tăng trưởng kinh tế, mức độ hội tụ và đặc trưng giữa các vùng có sự khác biệt. Nguyễn Thị Liên Hoa và Bùi Thị Bích Phương trong bài nghiên cứu “Nghiên cứu các yếu tố tác động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại những quốc gia đang phát triển” [25] cho rằng dòng vốn FDI chạy vào các nước phụ thuộc vào các nhóm yếu tố sau: (1) Quy mô thị trường, (2) tổng dự trữ ngoại hối, (3) KCHT đầu tư, (3) chi phí lao động, (5) độ mở thương mại của một quốc gia. Nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, với bộ dữ liệu bảng của 30 nước trong khoảng thời gian 13 năm (từ 2000 - 2012). Kết quả nghiên cứu cho thấy, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như: Quy mô thị trường, tổng dự trữ, yếu tố cơ sở vật chất được đại diện bởi biến tiêu thụ điện có tương quan cùng chiều với FDI. Nhóm tác giả Lê Tuấn Lộc và Nguyễn Thị Tuyết trong bài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài: Trường hợp nghiên cứu điển hình tại thành phố Đà Nẵng” [29] cho rằng sự thỏa mãn của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu tác động trực tiếp bởi 08 yếu tố: nhóm yếu tố về quy mô thị trường; nhóm yếu tố về chất lượng nguồn nhân lực; nhóm yếu tố về chi phí; nhóm yếu tố về KCHT; nhóm yếu tố về sự hình thành cụm ngành; nhóm yếu tố về công tác quản lý và hỗ trợ của chính quyền địa phương; nhóm yếu tố về chính sách ưu đãi đầu tư; nhóm yếu tố về vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên. Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua khảo sát 150 doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại thành phố Đà Nẵng thông qua bảng câu hỏi chi tiết bằng phương pháp lấy mẫu thuận tiện vào tháng 5/2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng sự thỏa mãn của nhà đầu tư chịu tác động trực tiếp bởi 05 nhóm yếu tố lần lượt là: (1) nhóm yếu tố về công tác quản lý và hỗ trợ của chính quyền địa phương; (2) nhóm yếu tố về chính sách về ưu đãi đầu tư của địa phương; (3) nhóm yếu tố về chất lượng nguồn
  30. 23 nhân lực; (4) nhóm yếu tố về KCHT; (5) nhóm yếu tố về sự hình thành và phát triển cụm ngành. Tác giả Đinh Phi Hổ trong bài nghiên cứu “Yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp” [23] đã thực hiện nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN tại Bình Phước. Tác giả cho rằng dòng vốn FDI chảy vào các KCN chịu tác động trực tiếp bởi 08 yếu tố, bao gồm: Kết cấu hạ tầng đầu tư, chính sách đầu tư, chất lượng dịch vụ công, nguồn nhân lực, môi trường sống và làm việc, chi phí đầu vào cạnh tranh, lợi thế ngành đầu tư, thương hiệu địa phương. Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng để thực hiện nghiên cứu thông qua khảo sát 226 doanh nghiệp đang hoạt động tại các KCN tại Việt Nam. Tác giả đã sử dụng biến hài lòng của nhà đầu tư để thể hiện yếu tố thu hút đầu tư. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng sự hài lòng của doanh nghiệp chịu tác động bởi 08 yếu tố: Chi phí cạnh tranh, chính sách đầu tư, KCHT, nguồn nhân lực, môi trường sống, lợi thế đầu tư, lợi thế về lao động địa phương, năng lực lãnh đạo địa phương. Nhóm tác giả Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang trong bài nghiên cứu “Thuộc tính địa phương và sự hài lòng của doanh nghiệp” [40] đã thực hiện nghiên cứu các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư vào tỉnh Tiền Giang. Nhóm tác giả cho rằng doanh nghiệp cảm thấy hài lòng đối với một địa phương sẽ đầu tư vốn vào địa phương đó. Nhóm tác giả cho rằng sự hài lòng của nhà đầu tư chịu tác động trực tiếp bởi các yếu tố, bao gồm: hạ tầng cơ bản, mặt bằng, lao động, hỗ trợ chính quyền, dịch vụ kinh doanh, ưu đãi đầu tư, văn hóa, đào tạo kỹ năng, môi trường sống. Nhóm tác giả đã thực hiện khảo sát 402 doanh nghiệp đang thực hiện đầu tư trên địa bàn tỉnh Tiền Giang theo phương pháp lấy mẫu định mức với 02 thuộc tính kiểm soát là hình thức sở hữu và ngành nghề kinh doanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng sự hài lòng của các nhà đầu tư chịu tác động trực tiếp bởi 04 yếu tố: sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, ưu đãi đầu tư, đào tạo kỹ năng và môi trường sống.
  31. 24 Cơ sở lý luận về tiếp thị địa phương và những nghiên cứu trước đây cho thấy những yếu tố tác động vào sự thỏa mãn của nhà đầu tư có thể chia thành ba nhóm chính, đó là: (1) Kết cấu hạ tầng đầu tư: một địa phương cần phải duy trì và phát triển một KCHT cơ bản tương thích với môi trường thiên nhiên (điện, nước, thoát nước, thông tin liên lạc, giao thông vận tải); (2) chế độ, chính sách đầu tư: Cung cấp những dịch vụ cơ bản có chất lượng đủ đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh và cho cộng đồng (sự hỗ trợ của các cơ quan chính quyền địa phương, các dịch vụ hành chính, pháp lý, ngân hàng, thuế, các thông tin cần thiết cho quá trình đầu tư và kinh doanh) và (3) môi trường làm việc và sinh sống: Tạo ra môi trường sinh sống và làm việc có chất lượng cao (môi trường tự nhiên, hệ thống trường học, đào tạo nghề, y tế, vui chơi giải trí, chi phí sinh hoạt). 1.2. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU 1.2.1. Đánh giá khái quát những công trình liên quan đến luận án Những công trình nêu trên đã tiến hành nghiên cứu các yếu tố tác động tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế trên nhiều khía cạnh khác nhau, ở nhiều địa phương khác nhau và trong những khoảng thời gian khác nhau. Trên cơ sở các công trình nghiên cứu đã được tác giả lược khảo, có thể thấy một số kết quả mà các công trình nghiên cứu đã đạt được: Thứ nhất, các công trình đã làm rõ một số vấn đề về lý luận như: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển KT-XH, các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Kết quả nghiên cứu của các công trình là một nguồn tài liệu tham khảo quý giá để tác giả kế thừa trong việc hình thành khung lý thuyết của luận án. Thứ hai, các công trình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế đã đạt được nhiều kết quả lý luận và thực tiễn. Trong đó, các công trình cơ bản đều thống nhất cho rằng có 07 yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: (i) Kết cấu hạ tầng đầu tư; (ii)
  32. 25 chính sách đầu tư; (iii) môi trường sống và làm việc; (iv) lợi thế ngành đầu tư; (v) chất lượng dịch vụ công; (vi) thương hiệu địa phương; (vii) nguồn nhân lực; (viii) chi phí đầu vào cạnh tranh. Kết quả này được đánh giá khá rõ và có nhiều luận cứ minh chứng. Thứ ba, các công trình đã đề xuất giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đều tập trung vào các yếu tố như: KCHT đầu tư, chính sách đầu tư, môi trường sống và làm việc, lợi thế ngành đầu tư, chất lượng dịch vụ công, chất lượng nguồn nhân lực, hỗ trợ của chính quyền địa phương, liên kết vùng là những vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong đó công tác hỗ trợ của chính quyền địa phương, và vấn đề liên kết vùng cần phải được tập trung nghiên cứu. 1.2.2. Khoảng trống nghiên cứu và vấn đề nghiên cứu của luận án Sau khi tổng hợp và phân tích các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã được thực hiện nghiên cứu liên quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kết quả cho thấy: Một là, các nghiên cứu chủ yếu là sử dụng phương pháp định lượng thông qua sử dụng bộ dữ liệu thứ cấp để xác định và lượng hóa các yếu tố ảnh hưởng đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài song chưa làm rõ các nguyên tắc hay tiêu chí đánh giá về các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế. Hai là, nghiên cứu của các nhà khoa học thực hiện nghiên cứu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào một quốc gia hoặc tại một tỉnh cụ thể mà chưa nghiên cứu tổng thể trên phạm vi vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Ba là, đã có một số công trình bàn về các yếu tố tác động tới thu hút đầu tư nước ngoài, song chưa có công trình nghiên cứu nào xem xét tác động của yếu tố liên kết vùng giữa các tỉnh trong vùng. Trong khi tồn tại thực tế yếu tố liên kết vùng dựa trên sự phân công lao động, lợi thế so sánh của từng địa phương trong vùng. Bên cạnh đó, cơ chế liên kết vùng, phương thức thực hiện lợi ích giữa các địa phương trong vùng khi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế,
  33. 26 xét riêng với vùng kinh tế Đông Nam Bộ, làm thế nào để hài hòa hóa các quan hệ lợi ích trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế cũng chưa được các công trình đã công bố làm sáng rõ. Mặc dù có nhiều khoảng trống nghiên cứu nêu trên, tuy nhiên trong luận án này tác giả tập trung giải quyết các khía cạnh cụ thể gồm: Một là, làm rõ hơn các khung lý thuyết về các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào vùng kinh tế, xây dựng hệ thống thang đo để đánh giá mối liên hệ giữa các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào vùng kinh tế và đặc biệt phân tích yếu tố liên kết vùng là yếu tố mới tác động đến thu hút FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Hai là, phân tích thực trạng các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ giai đoạn 2013-2018. Đánh giá và chỉ rõ những vấn đề đặt ra trong việc phát huy tác động tích cực của các yếu tố tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Ba là, làm rõ hơn các giải pháp nhằm phát huy các yếu tố tích cực tác động đến thu hút FDI để đẩy mạnh thu hút FDI vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ.
  34. 27 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP VÀO VÙNG KINH TẾ CỦA QUỐC GIA 2.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VÙNG KINH TẾ CỦA MỘT QUỐC GIA 2.1.1. Khái niệm vùng kinh tế và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế * Khái niệm vùng kinh tế Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân, có thể có chuyên môn hóa những chức năng kinh tế cơ bản; đồng thời có mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của vùng, coi vùng như một lãnh thổ toàn vẹn, đơn vị có tổ chức trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân [1]. - Về bản chất, theo Fridmann, Boudeville, Krugman, Porter, Vùng là một hệ thống bao gồm các mối liên hệ tương tác giữa các bộ phận cấu thành với các mối quan hệ địa lý, liên hệ kỹ thuật, liên hệ kinh tế, liên hệ xã hội trong một hệ thống [81]; [85]; [94]; [95]. Thông thường, do cùng vị trí địa lý nên các địa phương trong một vùng sẽ có những đặc điểm chung về tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, các đặc điểm tự nhiên, văn hóa, phong tục tập quán vì vậy các địa phương này sẽ có những điểm tương đồng về kinh tế, xã hội từ đó hình thành không gian chung về kinh tế của vùng. Mỗi vùng này sẽ có những ưu thế riêng tùy vào đặc điểm tự nhiên vì thế để khai thác tiềm năng và phát triển kinh tế của những vùng này cần phải có quy hoạch phù hợp với từng khu vực địa lý, phù hợp với điều kiện sản xuất của một số sản phẩm, dịch vụ của từng vùng, chính vì vậy cần phải có phân vùng kinh tế. Tóm lại, vùng kinh tế là một phần lãnh thổ đặc thù của nền kinh tế gắn với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội chung và được ghi nhận trong quy hoạch phân bổ không gian phát triển của quốc gia.
  35. 28 - Về mặt lý thuyết, nội dung chủ yếu phát triển vùng kinh tế bao gồm: Hình thành những vùng trung tâm đô thị, đảm bảo tương đối sự cân bằng về điều kiện sống, thích nghi với các địa điểm trung tâm. Quy hoạch không gian trong vùng là một trong yếu tố tác động quan trọng đối với chính sách phát triển vùng. Quá trình quy hoạch không gian bao gồm các nội dung: (i) Chính sách kinh tế vùng và chính sách cơ cấu, (ii) Chính sách quy hoạch giao thông; (iii) Quy hoạch các lĩnh vực cung ứng dịch vụ công như cấp thoát nước, điện, chính phủ điện tử; (iii) Chính sách KCHT, đặc biệt liên quan đến quy hoạch các trường học, đại học, bệnh viện; (iv) Quy hoạch cảnh quan và chính sách nông nghiệp. Trong vùng kinh tế bao gồm các địa phương, giữa các địa phương có thể hình thành sự liên kết vùng. Liên kết vùng là tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xuất phát từ các lý do sau: (1) Sự biến động dân số: sự di dân về trung tâm đô thị sẽ làm tăng chi phí KCHT ở các địa phương trong vùng. (2) Sự hạn chế nguồn lực tài chính: đòi hỏi sử dụng nguồn lực có hiệu quả và mở rộng nguồn lực của các địa phương trong vùng và toàn quốc. (3) Sự gia tăng cạnh tranh: thông qua đổi mới công nghệ, hoàn thiện KCHT thuộc vùng và toàn quốc. (4) Hình thành các nhiệm vụ mang tính tổng thể: bảo vệ môi trường, khí hậu, tiết kiệm năng lượng trên phạm vi toàn vùng. (5) Thực hiện tối ưu hóa giá trị gia tăng cho vùng: khai thác lợi thế so sánh, mở rộng quy mô, dịch vụ liên kết, công nghiệp hỗ trợ trong vùng. * Khái niệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư ở nước chủ đầu tư có một tài sản ở nước thu hút đầu tư và có quyền quản lý tài sản đó. Phương thức quản lý là cơ sở để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác [101].
  36. 29 Theo Luật Đầu tư Việt Nam, cho rằng: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào quốc gia khác để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia này, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình [34]. Có thể tổng kết lại, hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư ở một nước khác bằng tiền hoặc tài sản từ các nhà đầu tư ở một quốc gia khác, đồng thời có quyền sở hữu, quản lý và quyền kiểm soát tài sản ở quốc gia đó. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là hệ thống các biện pháp mà chính quyền của một quốc gia hoặc địa phương thực hiện để hấp dẫn các nhà đầu tư từ nước ngoài đem nguồn vốn và công nghệ vào quốc gia hoặc địa phương để tổ chức thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận hoặc lợi ích lớn hơn so với đầu tư tại quốc gia xuất phát của họ. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế là hoạt động của vùng hoặc của các địa phương trong vùng cùng phối hợp thực hiện để có được nhiều hơn các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng (hoặc các địa phương trong vùng). 2.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Cũng như ở phạm vi một quốc gia, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế, về mặt chung nhất, có thể có các hình thức bao gồm: * Phân theo bản chất đầu tư Đầu tư phương tiện hoạt động: khi các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư, mua sắm tài sản, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh và thiết lập công thức kinh doanh mới tại các nước sở tại hoặc tại các địa phương trong vùng. Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp (M&A) trong vùng: Đây là hình thức thể hiện kênh đầu tư Cross - border M & As, các nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh nghiệp ở các nước (địa phương) nhận đầu tư, hình thức này không nhất thiết làm tăng khối lượng đầu tư vào.
  37. 30 * Phân theo tính chất dòng vốn Vốn mua cổ phần doanh nghiệp: Nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia quản lý các doanh nghiệp, công ty thông qua hình thức mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do công ty ở trong nước phát hành ở một mức đủ lớn. Để từ đó điều hành doanh nghiệp trong vùng. Vốn tái đầu tư: Khi các nhà đầu tư nước ngoài có nguồn vốn đầu tư trực tiếp tại các nước đầu tư có thể sử dụng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để tái đầu tư. * Phân loại theo động cơ của nhà đầu tư Đầu tư để tìm kiếm tài nguyên: Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng nguồn vốn này nhằm khai thác các nguồn tài nguyên giá rẻ và dồi dào ở các nước tiếp nhận, đồng thời khai thác nguồn lao động giá rẻ. Ngoài ra, nguồn vốn loại này còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận, thậm chí còn tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược ở các nước tiếp nhận đầu tư nhằm chiếm lợi thế trước các đối thủ cạnh tranh. Đầu tư tìm kiếm hiệu quả: hình thức này nhằm tận dụng nguồn lực giá rẻ ở nước tiếp nhận như: nguyên vật liệu giá rẻ, nhân công giá rẻ, chi phí của các yếu tố sản xuất như điện, nước, thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng kinh doanh sản xuất rẻ, thuế suất ưu đãi lớn, Đầu tư tìm kiếm thị trường: Các nhà đầu tư đầu tư vào các nước tiếp nhận đầu tư nhằm mở rộng thị trường và giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh Thông thường, hình thức đầu tư này nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa các nước tiếp nhận với các nước khác, lấy nước tiếp nhận làm cơ sở để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu. * Phân theo loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh - Doanh nghiệp liên doanh Liên doanh là một mối quan hệ đối tác trong đó có hai hoặc nhiều chủ thể cùng nhau đóng góp nguồn lực: nguồn vốn, tài sản để cùng nhau thực hiện mục tiêu đặt ra và cùng nhau chia sẻ các khoản lợi nhuận, cũng như cùng nhau
  38. 31 gánh chịu rủi ro. Định nghĩa này đề cập đến việc đóng góp các nguồn lực để thành lập Liên doanh và việc chia sẻ trách nhiệm, thỏa thuận giữa các bên là yếu tố quan trọng cho hình thức Liên doanh. Như vậy, Liên doanh không phải là một mối quan hệ hợp đồng đơn giản mà còn là mối quan hệ lợi ích giữa các đối tác khác nhau ở nhiều quốc gia khác nhau trong một thời gian dài. Có rất nhiều cách thực hiện liên doanh, mỗi cách thức lại nhấn mạnh đến một khía cạnh khác nhau của liên doanh. Có thể là cả hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể là cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai; Nền tảng pháp lý cho sự tồn tại của liên doanh là hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các chủ thể và hệ thống luật pháp của nước tiếp nhận đầu tư. - Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài Đầu tư 100% vốn để lập doanh nghiệp tại địa bàn tiếp nhận đầu tư là một hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mục đích ban đầu của hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là thăm dò thị trường của nước tiếp nhận đầu tư nhằm tìm kiếm cơ hội, sau đó đã trở thành một biện pháp có tính chiến lược của các nhà đầu tư. Người đại diện cho loại hình doanh nghiệp này là Tổng giám đốc, nếu Tổng giám đốc không thường trú tại nước (địa phương) tiếp nhận đầu tư thì phải ủy quyền cho người thường trú tại nước tiếp nhận đầu tư đảm nhiệm. Các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài được quyền tự quyết trong mọi vấn đề, ít chịu sự chi phối của các bên có liên quan, ngoại trừ phải tuân thủ quy định pháp luật của nước sở tại vì vậy các nhà đầu tư thường rất thích đầu tư theo hình thức này nếu có điều kiện. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh Hợp đồng hợp tác kinh doanh là một hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài mà trong đó nhà đầu tư nước ngoài và chủ thể tại nước (địa bàn) nhận đầu tư cùng nhau ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa hai bên. Trong thời gian thực hiện hợp đồng các bên phải xác định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi mình mà không tạo ra một pháp nhân mới.
  39. 32 Ưu điểm của hình thức đầu tư này là giúp các địa phương tiếp nhận đầu tư giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của nước tiếp nhận đầu tư, lợi nhuận ổn định. Ngoài ra, đây là hình thức đơn giản nhất về thủ tục pháp lý nên thường được lựa chọn trong các giai đoạn đầu thu hút FDI của các nước (địa phương) tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là nước tiếp nhận đầu tư không tiếp thu được kinh nghiệm quản lý; công nghệ có thể lạc hậu. Ngoài ra hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân mới và mọi hoạt động của hình thức này phải dựa vào pháp nhân của nước tiếp nhận đầu tư, vì vậy các nhà đầu tư rất khó kiểm soát hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thuộc loại hình này. Hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được thực hiện với nhiều hình thức cụ thể như: BOT, BT, BO Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện vai trò trong một số điểm chính sau: Một là, giúp cho các địa phương trong vùng kinh tế bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xã hội. Trong các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các địa phương, yếu tố nguồn vốn luôn có vai trò quan trọng. Muốn tăng trưởng nhanh, phải có nhiều vốn. Nếu nguồn vốn trong nước không đáp ứng đủ, cần phải thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài, trong đó có nguồn vốn FDI vào vùng hay các địa phương trong vùng. Hai là, giúp các địa phương trong vùng có thể tiếp thu công nghệ hiện đại và kỹ năng quản lý chuyên nghiệp. Thu hút nguồn vốn FDI từ các nước tiên tiến giúp các địa phương trong vùng có thể tiếp cận công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh chuyên nghiệp từ các nhà đầu tư. Ba là, giúp cho các địa phương trong vùng có thể tham gia được vào mạng lưới sản xuất chung của toàn cầu. Thu hút vốn đầu tư FDI giúp cho các doanh nghiệp khác trong vùng có mối quan hệ hợp tác kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài, do đó cũng có thể tham gia vào quá trình phân công lao động trong khu vực và toàn cầu.
  40. 33 Bốn là, giúp các địa phương trong vùng tạo được việc làm và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp FDI muốn tận dụng lợi thế về nhân công giá rẻ tại các địa bàn tiếp nhận đầu tư để giảm chi phí sản xuất, đồng thời trong quá trình lao động tại các doanh nghiệp FDI người lao động của địa phương sẽ được đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao động chuyên nghiệp Chính vì vậy, sẽ góp phần tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng, tri thức cho địa phương tiếp nhận nguồn vốn FDI. Năm là, giúp các địa phương và toàn vùng tăng ngân sách bằng nguồn thu từ các doanh nghiệp FDI. Nguồn thu từ các doanh nghiệp FDI chủ yếu là nguồn thu từ thuế, đây là nguồn thu ngân sách quan trọng đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương. Với có lợi thế về nguồn lao động dồi dào và nguyên liệu đầu vào giá rẻ, Nhà nước phải có những chính sách hợp lý trong chiến lược phát triển của mình nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam góp phần vào mục tiêu phát triển KT-XH. 2.1.3. Vai trò của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quan hệ lợi ích của vùng kinh tế Thu hút FDI theo vùng kinh tế mang lại những lợi ích sau đây: Thu hút FDI chung của vùng kinh tế sẽ tạo điều kiện để các tỉnh tham gia vào phân công chuyên môn hóa, qua đó thu được lợi ích tổng thể lớn hơn cho dân cư trong vùng kinh tế, cho quốc gia, làm tăng vị thế đàm phán, thỏa thuận của chính quyền cấp tỉnh với nhà đầu tư nước ngoài, hạn chế cạnh tranh bất lợi giữa các tỉnh. Chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thống nhất theo vùng kinh tế tạo điều kiện tập trung nguồn lực kết nối hệ thống KCHT, phân công trách nhiệm của mỗi tỉnh trong vùng nhằm tạo môi trường có tổ chức, có sức cạnh tranh, có thị trường lớn, qua đó phát huy lợi thế của vùng kinh tế, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
  41. 34 Tuy nhiên, việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế có thể mang lại tác động xấu đến việc phát triển kinh tế của vùng nói chung và của từng địa phương nói riêng. Cụ thể là: Chính sách chung của vùng kinh tế có thể giảm độ hấp dẫn của từng tỉnh khiến nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư vào vùng. Sự phối hợp các tỉnh trong vùng kinh tế nếu thiếu chặt chẽ cũng làm giảm tính tích cực của nhà đầu tư nước ngoài vào vùng. Nhà đầu tư nước ngoài thường "ái ngại" về tính bền vững của các hợp tác không được bảo đảm nên họ sẽ không tin tưởng ĐT theo chính sách chung của vùng kinh tế. Để phát triển kinh tế xã hội trong vùng đòi hỏi phải có vốn. Thiếu vốn, mọi hoạt động KT-XH sẽ bị ngưng trệ. Những lĩnh vực cần nhiều ưu tiên của các địa phương không được đáp ứng đầy đủ. Nguồn vốn đầu tư cho đến hiện nay vẫn là một trong những nguồn lực đầu vào quan trọng. Vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Các nước đang phát triển có khả năng tích lũy thấp, thị trường vốn trong nước còn yếu kém và gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận với thị trường vốn bên ngoài. Nên nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển KT-XH. Thu hút nguồn vốn FDI sẽ giúp tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho phát triển, bổ sung vào lượng vốn đang bị thiếu hụt mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện chính trị do các nước đầu tư đưa ra và tránh được tình trạng nợ nần. Mặt khác, khi xảy ra rủi ro, nguồn vốn FDI ít ảnh hưởng đến tài chính vì phần lớn các thiệt hại khi xảy ra rủi ro đều do các nhà đầu tư nước ngoài gánh chịu. Hiện nay, có nhiều nước phát triển nắm giữ một vốn khổng lồ muốn đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận, đây chính là cơ hội của các nước đang thiếu vốn để có thể tranh thủ thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên thực tế, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đã thu hút một lượng lớn nguồn vốn FDI và đã giải quyết được phần nào những khó khăn về vốn trong quá trình phát triển KT-XH. Bên cạnh vai trò là biện pháp để có nguồn vốn bổ sung quan trọng, việc thu hút FDI còn có tác động tích cực đến việc huy động các nguồn vốn khác của địa
  42. 35 phương. Các ngân hàng thương mại, chính phủ của các nước đầu tư và các tổ chức tài chính quốc tế khác luôn tin tưởng vào các nước tiếp nhận được nhiều nguồn vốn đầu tư, do đó họ sẽ tiếp tục cung cấp nhiều nguồn vốn cho các nước này. Thu hút FDI thành công sẽ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các địa phương trong vùng. Mục tiêu hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận, các nhà đầu tư tiến hành đầu tư vào các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất để mang lại hiệu quả cao nhất thì hoạt động sản xuất kinh doanh cần được tập trung tối ưu hóa. Như vậy, bên cạnh việc tối đa hóa lợi ích cho các chủ đầu tư, nguồn vốn FDI còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm và chịu sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại và phát triển thì phải thay đổi, học hỏi và nâng cao trình độ quản lý, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ, nguồn vốn nâng cao chất lượng sản phẩm, giá thành hạ, mở rộng thị trường nội địa và có thể xuất khẩu nhằm tăng thu nhập cho người lao động và gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Khi thu hút FDI, nguồn vốn FDI góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong vùng kinh tế thu hút thành công. Đầu tư nguồn vốn FDI vào vùng tiếp nhận đầu tư không chỉ diễn ra thông qua hình thức chuyển vào nơi tiếp nhận đầu tư một lượng vốn bằng tiền mà còn bằng cả nguồn vốn là tài sản hữu hình như: máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và nguồn vốn là tài sản vô hình như: công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng quản lý lao động, tác phong làm việc công nghiệp Thêm vào đó khi chuyển giao công nghệ không chỉ đơn thuần là nhập khẩu công nghệ, mà còn chuyển giao các nguyên lý hoạt động vận hành, sửa chữa, bảo hành, mô phỏng và phát triển các công nghệ đó. Với trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ còn lạc hậu, việc vùng kinh tế của các nước đang phát triển tự nghiên cứu để phát triển công nghiệp là một việc làm mất rất nhiều thời gian và tốn kém. Vì vậy, để theo kịp trình độ công nghệ
  43. 36 hiện đại của thế giới, con đường nhanh nhất đối với các nước đang phát triển trong đó có các vùng kinh tế là chuyển giao công nghệ và thu hút nguồn vốn FDI. Đây là phương thức nhanh nhất và tốt nhất để các địa phương đang phát triển tiếp thu được công nghệ có trình độ cao hơn. Ngoài việc chuyển giao công nghệ, đi kèm với nó là chuyển giao kỹ thuật, chuyển giao kỹ năng quản lý. Thu hút nguồn vốn FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các địa phương trong vùng. Để thúc đẩy tăng trưởng KT-XH các nước đang phát triển phải nhanh chóng tranh thủ thu hút nguồn vốn và công nghệ của nước ngoài thông qua hoạt động đầu tư FDI. Chính vì vậy thông qua thu hút FDI có thêm tiền đề để các nước tiếp nhận đầu tư khai thác các nguồn lực sẵn có trong nước hướng đến mục tiêu phát triển KT-XH. Ngoài ra, mức tăng vốn đầu tư không những tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế mà các tác động đến các yếu tố khác như số lượng lao động, năng suất lao động cũng tăng lên. Thông qua thu hút nguồn vốn FDI góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương trong vùng. Để hội nhập kinh tế và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế thế giới đòi hỏi các nước (địa phương) tiếp nhận đầu tư phải thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia gần với trình độ phát triển chung của thế giới sẽ là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thu hút nguồn vốn FDI và ngược lại, hoạt động của các doanh nghiệp FDI sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong mối quan hệ lợi ích giữa nhà đầu tư và người dân trong các địa phương của vùng, nguồn vốn FDI tạo việc làm và thu nhập cho người lao động trong vùng. Nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tiến hành đầu tư vào nước (địa phương) tiếp nhận đầu tư thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh tại nơi đó, và để khai thác lợi thế so sánh của địa phương tiếp nhận đầu tư đó là sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ khác, tăng hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy, hoạt động FDI đã tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút một lượng lớn lao động, nhân công làm việc tại các doanh nghiệp có vốn
  44. 37 đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các địa phương đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ tuy nhiên trình độ lao động thấp và có địa phương có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Tuy nhiên do thiếu vốn, thiếu công nghệ nên các địa phương không thể khai thác hết tiềm năng của vùng và hoạt động FDI giúp các vùng giải quyết được bài toán thất nghiệp, khai thác được tiềm năng của nguồn lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên và tình trạng thiếu vốn. Nguồn vốn FDI giúp người dân ở các địa phương tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hoạt động FDI là một hình thức hợp tác quốc tế thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp thông qua các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia. Giữa các quốc gia có mối quan hệ kinh tế đối ngoại tốt, bền vững thì càng thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động FDI. Thêm vào đó, hoạt động FDI còn có tác dụng tích cực trong việc tăng thu ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế, cho thuê quyền sử dụng tài nguyên thiên nhiên, cơ sở công nghiệp và dịch vụ từ các doanh nghiệp FDI, tăng thêm nguồn viện trợ không hoàn lại và thúc đẩy các hoạt động phụ trợ khác. Thông qua đó, người dân có được tư duy mới, có khả năng tham gia hội nhập quốc tế. Mặc dù vậy, xét trong quan hệ lợi ích vùng kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đưa tới nhiều hệ lụy cần được nêu ra để các địa phương nhận thức một cách toàn diện gồm: Thứ nhất, về kinh tế, hoạt động đầu tư FDI không phải bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cũng phát huy tác dụng tích cực của nó đối với KT-XH của địa phương tiếp nhận đầu tư, mà còn phụ thuộc vào môi trường đầu tư ổn định, hoàn thiện và vai trò của quản lý của nhà nước. Ngoài những giá trị tích cực mang lại cho địa phương tiếp nhận đầu tư, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đem lại những tiêu cực sau: - Hoạt động FDI làm tăng sự lệ thuộc của quốc gia hay địa phương vào nước ngoài về vốn, kỹ thuật và mạng lưới thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trình độ công nghệ lạc hậu và trình độ lao động thấp là đặc điểm thường thấy ở các địa phương tiếp nhận đầu tư. Như vậy khi muốn tiến hành đầu tư vào nước sở tại các
  45. 38 nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mang cả công nghệ hiện đại - tiên tiến để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của thị trường, đạt lợi nhuận lớn nên hầu hết công nghệ sản xuất, tư liệu lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước phải nhập khẩu kể cả vốn sản xuất. Ngoài ra, các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng nắm giữ thị trường tiêu thụ sản phẩm như vậy hàng hóa được sản xuất ra được bán trên thị trường nội địa và xuất khẩu sang những thị trường mà chủ đầu tư trực tiếp nước chiếm lĩnh hoặc có thể ở thị trường mới. - Địa phương tiếp nhận đầu tư không hoàn toàn chủ động trong việc bố trí đầu tư theo chiến lược phát triển của mình. Địa phương tiếp nhận đầu tư thu hút được nguồn vốn FDI, tuy nhiên các chủ đầu tư lại là người quản lý trực tiếp các hoạt động sản xuất và sử dụng theo những mục tiêu riêng họ, mặc dù hoạt động sản xuất của doanh nghiệp FDI vẫn trong khuôn khổ pháp luật của nước sở tại. Thông thường, các nhà đầu tư ít quan tâm đến việc đầu tư sản xuất kinh doanh vào những ngành nghề tạo ra lợi nhuận thấp hoặc những nơi vùng sâu, vùng xa có điều kiện KT-XH khó khăn Vì vậy làm cho cơ cấu kinh tế theo ngành, theo lãnh thổ bị mất cân đối, thậm chí hoạt động của các doanh nghiệp FDI có thể làm phá sản những ngành nghề truyền thống của nước tiếp nhận đầu tư, chính vì vậy việc quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương tiếp nhận đầu tư có thể bị phá vỡ hoặc thay đổi theo hướng bất lợi cho địa phương. - Thứ hai, về khía cạnh luật pháp và môi trường, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lợi dụng kẽ hở trong pháp luật và trong quản lý, các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng để chuyển giá trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường và tổn hại đến lợi ích của địa phương tiếp nhận đầu tư. Ở các địa phương trong vùng tiếp nhận đầu tư pháp luật thường chưa đồng bộ và hoàn thiện, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và với năng lực quản lý yếu kém bộ máy quản lý nhà nước đã tạo ra những kẽ hở trong hoạt động FDI để các nhà đầu tư nước ngoài lách luật. Công tác đánh giá, thanh tra, kiểm tra và thẩm định tác động của hoạt động FDI đến môi trường sống xung quanh của một số dự án chưa chặt chẽ, một số dự án không phù hợp
  46. 39 với văn hóa của nước tiếp nhận đầu tư, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt làm tổn hại đến môi trường sinh thái. - Địa phương tiếp nhận đầu tư có nguy cơ trở thành nơi tiếp nhận những công nghệ cũ, lạc hậu của nước ngoài. Trình độ yếu kém của địa phương tiếp nhận đầu tư vì vậy khi tiếp nhận công nghệ từ các nhà đầu tư thường được đánh giá cao hơn mức bình thường. Mặc dù có thể những thiết bị, công nghệ đó chỉ là những công nghệ hạng 2, hạng 3 của các nước đầu tư nhưng vẫn còn hiện đại hơn so với thiết bị, công nghệ đang sử dụng ở địa phương tiếp nhận đầu tư nhưng nguy cơ trở thành bãi rác thải của các nước công nghiệp phát triển là điều hết sức nguy hiểm. - Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lợi dụng hoạt động FDI để can thiệp bất lợi vào quan hệ chính trị của địa phương tiếp nhận đầu tư, hoạt động tình báo, gây rối an ninh chính trị. Ngoài mục tiêu đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm lợi nhuận, còn có không ít một số cá nhân, tổ chức tiến hành đầu tư ra nước ngoài với mục tiêu chính trị. Trong thế giới đa cực và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ các hoạt động tình báo diễn ra ngày càng nhiều và tinh vi đòi hỏi các quốc gia tiếp nhận đầu tư luôn phải tỉnh táo trong hoạt động kinh tế đối ngoại. 2.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VÙNG KINH TẾ 2.2.1. Một số lý thuyết về các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế Cho đến nay các nhà kinh tế học trên thế giới đã nghiên cứu, đúc kết được nhiều lý thuyết giải thích về các yếu tố thu hút đầu tư, cũng như việc dịch chuyển đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế, đầu tư luôn được nhìn nhận như là một quá trình phát triển phức tạp phụ thuộc vào nhiều yếu tố có thể thay đổi theo từng thời kỳ nhất định. Chưa có lý thuyết nào giải quyết được tất cả các khía cạnh của quá trình đầu tư, mỗi lý thuyết đều có những điểm mạnh và những hạn chế riêng. Các lý thuyết về thu hút FDI có thể tiếp cận theo các khía cạnh sau:
  47. 40 * Lý thuyết về xuất khẩu tư bản của V.I. Lênin Theo V.I. Lênin, lợi ích của việc xuất khẩu tư bản là tìm kiếm nơi đầu tư có lợi nhất, hiện tượng thừa tương đối tư bản đã thôi thúc các nhà tư bản tìm cách đưa tư bản ra nước ngoài. Ở nước ngoài, các tập đoàn tư bản khai thác được những điều kiện thuận lợi về tài nguyên phong phú, nhân công giá rẻ, thị trường tiêu thụ mới từ đó mà thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với việc đầu tư tại chính quốc. Trong mối quan hệ lợi ích đó, tất nhiên địa phương hay quốc gia tiếp nhận đầu tư (tư bản xuất khẩu) cũng phát huy được những lợi thế của mình [61]. Như vậy, theo quan điểm của V.I. Lênin, yếu tố căn cốt nhất tác động tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia (hay địa phương) đó là, lợi ích của việc đầu tư tại chính quốc hay không? khi lợi ích tại (địa phương) nhận đầu tư lớn hơn lợi ích thu được so với đầu tư tại chính quốc thì lượng tư bản thừa tương đối sẽ được đem đến để đầu tư tại đó thay vì đầu tư tại chính quốc [61]. Lý luận này của V.I. Lênin vạch ra bản chất sâu xa nhất của việc thu hút đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài. * Lý thuyết về lợi nhuận cận biên tác động đến thu hút FDI Dougall cho rằng dòng chảy vốn đầu tư sẽ chuyển từ nước có lãi suất thấp sang nước có lãi suất cao cho đến khi đạt được trạng thái cân bằng (lãi suất hai nước bằng nhau) [89]. Kết quả của hoạt động đầu tư là cả hai nước đều thu được lợi nhuận và làm cho sản lượng chung của thế giới tăng lên so với trước lúc đầu tư. Sự phù hợp của lý thuyết này được các nhà kinh tế thừa nhận trong những năm 1950 nhưng khi tình hình kinh tế trở nên thiếu ổn định, tỷ suất lợi nhuận từ đầu tư ra nước ngoài của Mỹ giảm đi đến mức thấp hơn tỷ suất lợi nhuận đầu tư trong nước, nhưng hoạt động FDI của Mỹ ra nước ngoài vẫn tăng liên tục. Tuy nhiên, mô hình lý thuyết này không giải thích được hiện tượng vì sao một số nước đồng thời có dòng vốn chảy vào, có dòng vốn chảy ra. Chính vì vậy, mô hình lý thuyết lợi nhuận cận biên chỉ có thể được coi là bước khởi đầu hữu hiệu để nghiên cứu các hoạt động FDI.
  48. 41 * Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm do nhà kinh tế học Vernon đề xuất vào năm 1966 [100]. Theo Vernon bất kỳ một sản phẩm mới nào đều phát triển qua 4 giai đoạn: (1) Giai đoạn được phát minh và giới thiệu; (2) Giai đoạn phát triển và đi tới hoàn thiện; (3) Giai đoạn hoàn thiện hay được tiêu chuẩn hóa; (4) Giai đoạn suy thoái của sản phẩm. Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm giải thích sự tập trung phát triển công nghiệp hóa ở các nước phát triển, đưa ra một quan điểm về việc hợp nhất thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế nhằm lý giải sự gia tăng xuất khẩu hàng công nghiệp ở các nước công nghiệp hóa. Tuy nhiên, lý thuyết này chỉ còn quan trọng đối với việc giải thích các công ty FDI có quy mô nhỏ vào các nước đang phát triển. * Lý thuyết thị trường độc quyền Lý thuyết thị trường độc quyền được xây dựng bởi Hymer và Kindleberger [79]; [84]. Theo lý thuyết này, sự phát triển và thành công của hình thức đầu tư liên kết theo chiều dọc phụ thuộc vào 3 yếu tố: (1) Quá trình liên kết theo chiều dọc của các giai đoạn khác nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm bớt chi phí sản xuất; (2) Việc sản xuất và khai thác kỹ thuật mới; (3) Cơ hội mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài có thể tiến hành được do những tiến bộ trong ngành giao thông và thông tin liên lạc. Cách tiếp cận của Hymer đã được các nhà kinh tế Graham và Krugman vận dụng để giải thích cho sự gia tăng của hoạt động FDI vào nước Mỹ [85]. Lý thuyết thị trường độc quyền được đánh giá là giả thuyết chưa hoàn chỉnh về hoạt động FDI. Lý thuyết này vẫn không trả lời được vì sao công ty trong nước lại sử dụng hình thức FDI chứ không phải là hình thức sản xuất trong nước rồi xuất khẩu sản phẩm hoặc hình thức cấp giấy phép hoặc chuyển nhượng những bí quyết đặc biệt của mình cho các công ty ở nước tiếp nhận đầu tư.
  49. 42 * Lý thuyết “đàn nhạn bay” Lý thuyết “đàn nhạn bay” của Akamatsu [67] chia quá trình phát triển sản phẩm thành 3 giai đoạn: (1) Giai đoạn sản phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài để phục vụ cho nhu cầu trong nước; (2) Giai đoạn tăng cường sản xuất trong nước để thay thế cho nhập khẩu; (3) Giai đoạn sản xuất để xuất khẩu. Hoạt động FDI được triển khai thực hiện ở giai đoạn (2) và (3) để đối mặt với sự thay đổi về lợi thế tương đối. Ozawa cho rằng các nước đang phát triển có lợi thế tương đối về lao động giá rẻ, sẽ thu hút nguồn vốn FDI vào để khai thác lợi thế này [67]. Tuy nhiên, chi phí nhân công của ngành sau đó sẽ dần lên do nguồn tài nguyên lao động của địa phương đã khai thác hết và sức hút FDI vào sẽ giảm dần. Khi đó các công ty trong nước sẽ đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế tương đối của nước này, nơi có lao động rẻ hơn, đó là quá trình liên tục của hoạt động FDI. Mô hình “đàn nhạn bay” đã chỉ ra rằng khi một nước đang phát triển đuổi kịp ở giai đoạn cuối cùng của một ngành công nghiệp từ kinh tế thấp sang kỹ thuật cao thì tỷ lệ FDI ra sẽ lớn hơn tỷ lệ FDI vào, điều này có nghĩa là một quốc gia đứng đầu trong đàn nhạn, đến một thời điểm nhất định sẽ trở nên lạc hậu và bị một nước khác thay thế vị trí đó. Mô hình “đàn nhạn bay” đã đưa ra gợi ý đối với sự khác nhau về lợi thế so sánh tương đối giữa các nước dẫn đến sự khác nhau về dòng chảy của FDI [67]. Tuy nhiên, mô hình này cũng không giải thích được vì sao FDI lại diễn ra giữa các nước tương tự về các yếu tố và lợi thế tương đối, vì sao FDI lại diễn ra từ khu vực kinh tế này sang khu vực kinh tế khác và vấn đề quan trọng hơn là mô hình này bỏ qua vai trò của yếu tố cơ cấu kinh tế và thể chế. * Lý thuyết chiết trung (Mô hình OLI) Một công ty có lợi thế tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài khi có lợi thế về sở hữu, địa điểm và nội hóa. Mô hình OLI được Dunning [73] xây dựng và kế thừa những ưu điểm của các lý thuyết khác về đầu tư trực tiếp nước ngoài, và đề
  50. 43 xuất rằng có 3 điều kiện cần thiết để một doanh nghiệp có động cơ tiến hành đầu tư trực tiếp: (1) Lợi thế về sở hữu (O - Ownership Advantages) của một doanh nghiệp có thể là một sản phẩm hoặc một qui trình sản xuất có ưu thế hơn hẳn các doanh nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp khác không thể tiếp cận, đó có thể là bằng sáng chế, kế hoạch hành động, công nghệ và thông tin, kỹ năng quản lý, marketing, hệ thống tổ chức và khả năng tiếp cận các thị trường hàng tiêu dùng cuối cùng hoặc các hàng hóa trung gian hoặc nguồn nguyên liệu thô, hoặc khả năng tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp (2) Lợi thế về địa điểm (L - Location Advantage) ngoài các yếu tố về nguồn lực, tài nguyên của đất nước còn có các yếu tố về kinh tế xã hội như qui mô thị trường và sự tăng trưởng và phát triển của thị trường, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, văn hóa, pháp luật, thể chế và chính sách của Chính phủ. (3) Lợi thế về nội hóa (I - Internalisation Advantages) bao gồm: giảm chi phí ký kết, kiểm soát và thực hiện hợp đồng. Theo lý thuyết chiết trung thì cả 3 điều kiện kể trên đều phải được thỏa mãn đối với các nước thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trước khi có FDI. Lý thuyết cho rằng: những yếu tố “đẩy” bắt nguồn từ lợi thế sở hữu và lợi thế nội hóa, còn lợi thế địa điểm tạo ra yếu tố “kéo” đối với FDI. * Lý thuyết về các bước phát triển của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Theo quan điểm của lý thuyết này, quá trình phát triển của các nước được chia ra thành 5 giai đoạn: Giai đoạn 1: khi lợi thế về địa điểm của một nước (địa phương) kém hấp dẫn, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ vào không nhiều do những hạn chế của thị trường trong nước như: quy mô thị trường yếu, cơ sở hạ tầng đầu tư kém, giáo dục yếu kém, lao động không có kỹ năng, và hiếm khi thấy luồng ra của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Giai đoạn 2: Nguồn vốn FDI vào địa phương bắt đầu tăng do lợi thế về địa điểm đã thu hút các nhà đầu tư: KCHT đầu tư đã được cải thiện, sức mua trong
  51. 44 nước bắt đầu tăng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bước này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất nhằm thay thế nhập khẩu, những ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất ra nguyên vật liệu, sản phẩm sơ chế và luồng ra của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn này còn hạn chế. Giai đoạn 3: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào bắt đầu giảm và luồng ra của nguồn vốn này lại bắt đầu tăng. Kỹ thuật sản xuất của nước thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tiến tới sản xuất sản phẩm được tiêu chuẩn hóa. Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Giai đoạn 4: lợi thế sở hữu của các công ty trong nước tăng lên. Những công nghệ lạc hậu sử dụng nhiều lao động dần dần được thay thế bởi công nghệ tiên tiến có chi phí cao. Tuy nhiên các chi phí vốn sẽ trở nên rẻ hơn so với chi phí lao động. Kết quả là, lợi thế địa điểm của nước sở tại sẽ chuyển sang các tài sản. Do vậy, luồng vào và luồng ra của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn tăng, nhưng luồng ra sẽ nhanh hơn. Giai đoạn 5: luồng ra và luồng vào của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng và khối lượng tương tự nhau. * Lý thuyết về môi trường đầu tư Môi trường đầu tư là tập hợp những yếu tố đặc thù địa phương đang định hình cho các cơ hội và động lực để doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng sản xuất. Dựa trên cơ sở về chi phí cơ hội, rủi ro và những rào cản cạnh tranh trong đầu tư các nhà đầu tư tìm hiểu những cơ hội và động lực để đầu tư đến một địa phương nào đó. Các nghiên cứu gần đây đã tiến hành xác định và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế địa phương, kết quả cho thấy có sự khác biệt lớn về môi trường kinh doanh và chênh lệch về mức độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, giữa các tỉnh và khu vực khác nhau trong nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt giữa các địa phương trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài là chính quyền và môi trường pháp lý của từng địa phương.
  52. 45 Có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên có thể phân thành 2 loại như sau: (1) KCHT cứng (hạ tầng, cảng biển, trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực), đây là những yếu tố cần phải có thời gian và nguồn tài chính để cải thiện; (2) cơ sở hạ tầng mềm (năng lực của chính quyền, chính sách ưu đãi và thu hút đầu tư ) đây là nhóm yếu tố liên quan đến triết lý lãnh đạo của các nhà quản lý địa phương. * Lý thuyết tiếp thị địa phương Các nhà đầu tư đầu tư vào địa phương nào đó có hiệu quả có nghĩa là họ thỏa mãn với địa phương đó. Khi đầu tư vào một địa phương nào đó mang lại hiệu quả và đạt được mục tiêu thì họ sẽ có xu hướng tiếp tục quá trình đầu tư của mình cũng như giới thiệu cho các công ty khác đầu tư tại địa phương. Có rất nhiều yếu tố về môi trường đầu tư có khả năng tác động vào sự thỏa mãn của khách hàng đầu tư tại một địa phương và có thể chia thành ba nhóm chính, đó là: (1) Kết cấu hạ tầng đầu tư; (2) chế độ, chính sách đầu tư và (3) môi trường làm việc và sinh sống. * Lý thuyết về cạnh tranh địa phương Theo Michael Porter [94], để tạo ra lợi thế cạnh tranh thì doanh nghiệp phải đáp ứng được 4 tiêu chí sau: (1) Dựa vào hiệu suất lao động và vốn tạo ra hiệu suất lớn hơn, chi phí thấp hơn để nâng cao hiệu quả hoạt động; (2) Nâng cao chất lượng, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đem lại giá trị cao cho khách hàng; (3) Đổi mới tạo ra sự khác biệt của công ty (của địa phương) với các đối thủ và đòi hỏi một mức giá tăng thêm cho sản phẩm của nó hoặc giảm chi phí đáng kể so với đối thủ; (4) Tạo ra sự thỏa mãn cho khách hàng trong việc nhận biết và đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của DN được xác định, bao gồm: chiến lược cạnh tranh của DN; quy mô sản xuất của DN; trình độ tổ chức, quản lý; nguồn lực; trình độ công nghệ; hoạt động nghiên cứu phát triển; năng lực cạnh tranh của sản phẩm; thị phần; năng suất sản xuất, kinh doanh; hiệu quả kinh doanh; thương hiệu của DN.
  53. 46 * Lý thuyết về chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn của địa phương, của vùng nhận đầu tư Môi trường đầu tư tại nước sở tại hay tại địa phương thuộc một vùng kinh tế muốn đầu tư là yếu tố quan trọng hàng đầu cần được xem xét khi muốn đầu tư vào địa phương đó vì vậy đây được xem là yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh giữa các địa phương. Khi nghiên cứu về chất lượng dịch vụ, mà cụ thể trong nghiên cứu này là chất lượng dịch vụ được cung cấp bởi địa phương thu hút đầu tư. Mỗi nhà đầu tư thường cảm nhận khác nhau về chất lượng dịch vụ vì vậy việc khách hàng tham gia phát triển và đánh giá chất lượng dịch vụ là rất quan trọng. Đã có nhiều nghiên cứu khác nhau kế thừa mô hình 05 thành phần chất lượng dịch vụ của Parasuraman trong nhiều lĩnh vực và thị trường khác nhau và cho thấy rằng chất lượng dịch vụ giữa các ngành là khác nhau. Mô hình 05 thành phần chất lượng dịch vụ (SERVQUAL) do Parasuraman nhằm đánh giá chất lượng dịch vụ cho rằng yếu tố tin cậy, yếu tố khả năng đáp ứng, yếu tố năng lực phục vụ, yếu tố đồng cảm và yếu tố phương tiện hữu hình là những thành phần nhằm đánh giá chất lượng dịch vụ [93]. Cụ thể: - Yếu tố tin cậy: được thể hiện khi dịch vụ được thực hiện đúng như lời hứa một cách chính xác và đúng thời hạn thông qua khả năng thực hiện dịch vụ của nhân viên. - Yếu tố khả năng đáp ứng: được thể hiện qua việc nhân viên sẵn sàng cung cấp các yêu cầu, dịch vụ kịp thời khi khách hàng yêu cầu. - Yếu tố năng lực phục vụ: thông qua trình độ chuyên môn, phong cách tác phong của nhân viên, khách hàng sẽ cảm nhận được sự chuyên nghiệp cũng như năng lực của nhân viên. - Yếu tố sự đồng cảm: được thể hiện thông qua sự quan tâm, hỗ trợ và chăm sóc của nhân viên đến từng khách hàng. - Yếu tố phương tiện hữu hình: khách hàng sẽ cảm nhận được chất lượng dịch vụ thông các những tài sản, cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ nhằm phục vụ khách hàng.
  54. 47 Những lý thuyết nêu trên là cơ sở để tác giả luận án xây dựng những yếu tố ảnh hưởng đến thu hút nước ngoài vào vùng kinh tế của quốc gia. 2.2.2. Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế của quốc gia Từ những lý thuyết về các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp và các nghiên cứu trước, tác giả tổng hợp và phân loại thành nhóm yếu tố bên ngoài của vùng kinh tế và nhóm yếu tố bên trong vùng kinh tế. 2.2.2.1. Nhóm yếu tố bên ngoài của vùng kinh tế của quốc gia Yếu tố bên ngoài vùng kinh tế ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là những yếu tố ảnh hưởng vào hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài mà không liên quan đến chính sách, điều kiện tự nhiên, KCHT của vùng tiếp nhận đầu tư. Cụ thể: * Tình hình kinh tế và xu hướng đầu tư trên thế giới Yếu tố đầu tiên phải kể đến là tình hình kinh tế thế giới, tình hình kinh tế thế giới có biến động tích cực hay tiêu cực đều ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khi tình hình kinh tế thế giới giảm sút, các nhà đầu tư nước ngoài gặp khó khăn sẽ làm giảm lượng đầu tư FDI và các dự án FDI cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng. * Chiến lược kinh doanh, định hướng thị trường đầu tư của nhà đầu tư Các nhà đầu tư chỉ quyết định đầu tư ra nước ngoài nếu thấy việc đầu tư ở nước ngoài mang lại hiệu quả từ việc đầu tư, đem lại lợi nhuận cao hơn so với việc đầu tư trong nước. Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm riêng của mỗi thị trường mà nhà đầu tư nước ngoài lại có những chiến lược và định hướng đầu tư khác nhau, căn cứ vào các điều kiện về môi trường đầu tư của nước thu hút đầu tư. Mục đích đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài có thể được phân chia thành các loại như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với mục tiêu tìm kiếm thị trường, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với mục tiêu khai thác tài nguyên thiên nhiên, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với mục tiêu khai thác hiệu quả. Trong ba loại đầu tư trực tiếp nước ngoài trên đây, loại đầu tư trực tiếp nước ngoài với mục tiêu khai thác tài nguyên
  55. 48 thiên nhiên thường được thực hiện đối với các quốc gia đang phát triển, mà ở đó nhà đầu tư nước ngoài có thể tận dụng nguồn nguyên liệu thô, lao động phổ thông giá rẻ. Với loại đầu tư này, nước tiếp nhận đầu tư rất dễ rơi vào tình trạng bị khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách thiếu khoa học, ảnh hưởng rất lớn đến yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất trong dài hạn, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. * Tiềm lực tài chính của nhà đầu tư Tiềm lực tài chính của nước đầu tư không những có tác động mạnh đến việc thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, mà còn có ảnh hưởng tích cực đến sự thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước tiếp nhận đầu tư. Thông thường, các quốc gia (địa phương) có hoạt động đầu tư ra nước ngoài là những quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh, có mức tích lũy nội bộ trong nước cao, có mức dự trữ ngoại tệ lớn. Do đó, họ tìm cách đầu tư ra nước ngoài với mục đích nhằm khai thác tối đa hiệu quả của nguồn vốn dư thừa này. Nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh sẽ có khả năng triển khai hoạt động đầu tư một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất, tránh hiện tượng trì hoãn, rút vốn hoặc đi vay vốn để tiến hành đầu tư. Ngoài ra, với tiềm lực tài chính mạnh, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có điều kiện hơn để đầu tư, đổi mới trang thiết bị, công nghệ hiện đại cho dây chuyền sản xuất, tạo ra những sản phẩm chất lượng và mang tính cạnh tranh cao. Đây chính là yếu tố đảm bảo tính bền vững trong hoạt động FDI. * Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp đi đầu tư Thông qua hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư sẽ được chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các nước phát triển. Một quốc gia có trình độ công nghệ cao thường làm chủ các công nghệ nguồn và nó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao năng suất, rút ngắn thời gian sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo các tiêu chuẩn về chất thải hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường của nước sở tại. Do vậy, để hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đảm bảo tính bền vững, nước tiếp nhận
  56. 49 đầu tư nên có chính sách thu hút những dự án FDI với trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại. * Sự cạnh tranh của các vùng khác trong quốc gia và chính sách của quốc gia về thu hút FDI Mỗi quốc gia và mỗi vùng kinh tế đều có những lợi thế về vị trí, đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội khác nhau vì thế các địa phương này sẽ có những lợi thế cạnh tranh nhất định. Nếu sức cạnh tranh của các vùng khác mạnh hơn vùng kinh tế nghiên cứu thì sẽ khó thu hút FDI vào vùng. Chính sách thu hút FDI của quốc gia cũng là yếu tố tác động tới thu hút FDI vào vùng kinh tế. Chính sách cởi mở, thông thoáng tạo điều kiện để các địa phương của vùng kinh tế có thể khai thác được lợi thế, tiềm năng của mình. Ngược lại, chính sách có nhiều rào cản tất sẽ kìm hãm khả năng thu hút FDI vào vùng kinh tế của quốc gia. 2.2.2.2. Nhóm yếu tố bên trong vùng kinh tế của quốc gia Các yếu tố bên trong của vùng kinh tế là những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, chính sách, hạ tầng, nguồn nhân lực của từng vùng. Mỗi vùng kinh tế sẽ có đặc điểm riêng mà mức độ tác động của từng yếu tố này đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khác nhau. * Ổn định kinh tế trong vùng Đây là điều kiện tiên quyết đối với các nhà đầu tư, điều này đặc biệt quan trọng đối với việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thông thường các nhà đầu tư sẽ chọn những địa phương có sự ổn định về kinh tế, đây phải là nơi an toàn cho sự vận động của vốn đầu tư, và là nơi có khả năng sinh lợi cao hơn các nơi khác. Sự an toàn ở đây chính là môi trường vĩ mô ổn định và được đánh giá qua tiêu chí chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Thông thường các dự án FDI ưu tiên đầu tư ở những nền kinh tế mang tính ổn định, nhất quán để đảm bảo hiệu quả và ổn định của dòng FDI. * Môi trường chính trị, an ninh trong vùng kinh tế Khi tình hình chính trị - xã hội không ổn định, Nhà nước không đủ khả năng kiểm soát mọi hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài vì thế các hoạt
  57. 50 động đầu tư sẽ không theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của nước tiếp nhận đầu tư ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI. Với tình hình chính trị, xã hội bất ổn có nhiều khả năng sẽ không thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài vào địa phương vì lúc này rủi ro đối với các nhà đầu tư nước ngoài là rất cao. * Điều kiện tự nhiên của vùng kinh tế Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên của vùng mà có thể tác động vào động cơ của nhà đầu tư nước ngoài trong thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ở những địa phương thu hút FDI nếu có sẵn các lợi thế về vị trí địa lý, đặc biệt là KCHT thuận tiện, có hệ thống vận tải, cảng biển sẽ là những lợi thế so sánh ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. * Quy hoạch phát triển và cơ chế phát triển của các địa phương trong vùng Nếu quy hoạch và chính sách phát triển vùng kinh tế của chính phủ cùng hướng với động cơ của các nhà đầu tư nước ngoài thì khả năng sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn FDI hơn và ngược lại. * Công tác quản lý, hỗ trợ của chính quyền địa phương trong vùng kinh tế Hoạt động đầu tư nước ngoài vào các nước thu hút đầu tư có liên quan rất nhiều đến các tổ chức, các cá nhân của nước tiếp nhận đầu tư, trong một khoảng thời gian dài. Vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài rất cần có các cam kết về pháp lý của chính quyền địa phương để họ có thể yên tâm làm ăn lâu dài. Các nước tiếp nhận đầu tư cần có một hệ thống chính sách, quy định rõ ràng và minh bạch, tiếp cận với thông lệ quốc tế. Cần có những ưu đãi về chính sách tiền tệ, chính sách thương mại, chính sách đất đai, chính sách thuế phù hợp và tùy vào từng lĩnh vực, ngành nghề đầu tư mà có các ưu đãi đặc biệt về thuế. Đồng thời, xây dựng các quy định pháp luật nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ sản xuất kinh doanh * Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, hạ tầng xã hội của vùng Kết cấu hạ tầng kỹ thuật của nước tiếp nhận đầu tư là một trong những yếu tố cơ bản để thu hút nguồn vốn FDI và cũng là yếu tố thúc đẩy hoạt động