Khóa luận Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay

pdf 79 trang thiennha21 15/04/2022 4131
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_xay_dung_lang_van_hoa_o_huyen_my_hao_tinh_hung_yen.pdf

Nội dung text: Khóa luận Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC VŨ NHẬT LỆ XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA Ở HUYỆN MỸ HÀO, TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X HÀ NỘI, 2019
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC VŨ NHẬT LỆ XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA Ở HUYỆN MỸ HÀO, TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Lan. Các số liệu, tư liệu, tài liệu được sử dụng trong khóa luận là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2019 Sinh viên Vũ Nhật Lệ
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể các thầy cô trong khoa Triết học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tận tình giảng dạy em trong suốt quá trình học tập tại trường; em cũng xin gửi lời cảm ơn tới tập thể K60A Triết học là những người bạn tốt đông hành cùng nhau học tập, chia sẻ mọi thứ trong cuộc sống cùng em. Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình em đã tạo điều kiện cho em để em đạt được những thành quả như ngày hôm nay. Đặc biệt, em xin cảm ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Thị Lan đã giúp em có thể hoàn thành được khóa luận này. Trong quá trình làm khóa luận, do nhận thức của bản thân còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý các thầy cô cùng các bạn để khóa luận của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, 06 tháng 06 năm 2019 Sinh viên Vũ Nhật Lệ
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3 NỘI DUNG 9 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA 9 1.1. Quan niệm về làng văn hóa 9 1.1.1. Khái niệm văn hóa 9 1.1.2. Khái niệm làng 13 1.1.3. Phân biệt văn hóa làng và làng văn hóa 16 1.2. Xây dựng làng văn hóa 20 1.2.1. Quan điểm của Đảng và chính sách Nhà nước về xây dựng làng văn hóa ở Việt Nam hiện nay 20 1.2.2. Tiêu chuẩn của làng văn hóa 22 1.2.3. Nội dung của xây dựng làng văn hóa 26 Tiểu kết chƣơng 1 30 CHƢƠNG 2: XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA Ở HUYỆN MỸ HÀO, TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 31 2.1. Thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên hiện nay 31 2.1.1. Khái quát về đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay 31 2.1.2. Thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên 38 2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên hiện nay 46 1
  6. 2.2.1. Phương hướng và nhiệm vụ xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay 47 2.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay 50 Tiểu kết chƣơng 2 57 KẾT LUẬN 58 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60 PHỤ LỤC 64 2
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một nước nông nghiệp, với khoảng 2/3 dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn và 67,8% (năm 2018 số liệu theo Tổng cục thống kê) lực lượng lao động của xã hội làm việc trong khu vực này. Sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế và ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Nhận thức được rõ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của nông thôn qua các thời kỳ mà Đảng và Nhà nước ta, khi đưa ra các chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội đều đặt nơi đây là khu vực trọng điểm và giàu tiềm năng để phát triển. Các hình thức tồn tại của nông thôn Việt Nam được gọi là làng – xã hay thị trấn, thị tứ nhưng nổi bật lên đó là làng xã – một hình thức được coi là cơ bản và phổ biến nhất của xã hội nông thôn; là nơi tụ cư của cư dân nông thôn. Vì vậy, cứ nhắc đến nông thôn thì hình ảnh đầu tiên chúng ta nhìn thấy đó là một bức tranh làng – xã. Cùng với sự tồn tại của làng đó là văn hóa làng - là sự kết tinh của cả một quá trình lịch sử dân tộc, nơi đây lưu giữ những giá trị truyền thống vật thể và phi vật thể. Tìm hiểu về làng giúp chúng ta nhìn rõ được bức tranh toàn cảnh của xã hội nông thôn. Vì vậy, công cuộc xây dựng làng văn hóa chính là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa của làng - xã Việt Nam trong điều kiện mới phù hợp với sự tiến bộ của văn hóa xã hội. Làng là cái nôi của văn hóa; là nơi kết thành tinh hoa văn hóa và bản lĩnh văn hóa Việt Nam không bị đồng hóa bởi các thế lực xâm lược đô hộ. Tinh hoa ấy cần được phát huy mạnh mẽ và biến thành động lực tinh thần cho công cuộc xây dựng làng văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở nông thôn, làm nền tảng cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đang dần phá vỡ những giá trị văn hóa truyền thống, những bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh kinh tế thị trường phát triển, lũy tre làng mất đi chức năng bảo vệ, dân chúng 3
  8. không còn nơi bao bọc, tệ nạn, cướp bóc xảy ra khắp nơi, những quy chuẩn của làng cũng bị phá vỡ. Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến sự xáo trộn các mối quan hệ trong làng và giữa các làng với nhau; làm nảy sinh hàng loạt vấn đề về ý thức đoàn kết cộng đồng, diện mạo văn hóa, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở các vùng nông thôn. Chính vì vậy, xây dựng làng văn hóa là nhằm mục đích bảo vệ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa làng, từ đó phát huy những tính tích cực của nó. Văn hóa làng vừa là kết quả hoạt động của những người trong làng, đồng thời là môi trường, động lực làm cho từng thành viên trong cộng đồng làng giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp tục tạo ra những giá trị văn hóa mới. Khi đó, làng văn hóa mới thực sự khẳng định được vai trò, góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cơ chế thị trường, làm tăng động lực phát triển nông thôn ở nước ta hiện nay. Mỹ Hào cũng như các địa phương khác trên địa bàn cả nước đã và đang thực hiện có hiệu quả những chủ trương về xây dựng làng văn hóa của nhà nước đề ra. Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào đã được đông đảo quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện hưởng ứng; phong trào cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn bộc lộ những vướng mắc về hệ thống lý luận và thực tiễn. Xác định tầm quan trọng và tính bức thiết của cuộc vận động xây dựng làng văn hóa, vì vậy tôi chọn đề tài nghiên cứu đó là “Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, nhằm nhận diện và phân tích rõ hơn công cuộc xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào hiện nay; từ đó, đề xuất giải pháp tiếp tục xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào, Hưng Yên. 2. Tình hình nghiên cứu Xây dựng làng văn hóa là một vấn đề nghiên cứu không mới, song nó vẫn còn nhiều khía cạnh mà chúng ta cần phải xem xét và nghiên cứu. Nhiều công trình nghiên cứu được công bố với các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa như: 4
  9. PGS. TS Nguyễn Thừa Hỷ với công trình “Nông thôn Việt Nam trong lịch sử”, tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – xuất bản năm 1978. Ở công trình này, tác giả đã dùng ngòi bút của mình để tái hiện lại lịch sử nông thôn nước ta và phân tích rõ những cơ cấu tổ chức ở một số làng Việt Nam truyền thống. GS. Phan Đại Doãn đã đưa ra công trình nghiên cứu “Mấy vấn đề về làng” và được đăng tải trên Tạp chí Dân tộc học, số 2/1991. Tác giả đã nêu bật lên được những vấn đề đặc trưng cơ bản của làng Việt Nam truyền thống, trong đó tính cộng đồng và tính tự quản là những đặc trưng chi phối mọi sinh hoạt của làng xã vùng đó. PGS.Vũ Ngọc Khánh với công trình nghiên cứu là “Làng văn hóa cổ truyền Việt Nam”, do Nhà xuất bản Văn học được xuất bản năm 2001. Trong công trình này tác giả nghiên cứu về thiết chế “Làng văn hóa” ở các khía cạnh nguồn gốc, sự ra đời, những nét văn hóa đặc trưng, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo, nghề truyền thống, con người. GS. Phan Đại Doãn với công trình “Làng xã Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - xã hội”, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản tháng 4/2010. Tác giả cho rằng, trong giai đoạn mà làng quê phải gặp nhiều thử thách quyết liệt: truyền thống với đổi mới, dân tộc với hiện đại, quốc gia với quốc tế. Làng vốn là cơ sở của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, của phong kiến, tất nhiên phải đổi mới, phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng đồng thời, lại phải giữ được bản sắc và truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc. Hiện đại hóa, đô thị hóa là quy luật tất yếu của phát triển, làng quê sẽ bị thu hẹp lại, nhưng chính nó sẽ là điểm xuất phát của đô thị hóa. Muốn thế, phải hiểu cụ thể bản chất của làng Việt. Bên cạnh đó, còn rất nhiều công trình khoa học như: “Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay” của Tô Duy Hợp – do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 2000; “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay” của tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, xuất bản năm 2001; “Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông Hồng” của Tô Duy Hợp (chủ biên) - do Nhà xuất bản Khoa 5
  10. học xã hội, xuất bản năm 2000; “Nếp cũ - Làng xóm Việt Nam” của Toan Ánh – do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1992. Trên đây là một số các công trình tiêu biểu có liên quan đến vấn đề văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa, các tác giả đã tập trung bàn về văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất ở làng xã. Nhiều tác giả cũng có đề cập đến hội làng, nếp sống, phong tục, tôn giáo, sân khấu dân gian, văn hóa nghệ thuật dân gian. Một số công trình không những có ý kiến nhận xét về di sản của làng xã, về các mặt kinh tế - xã hội, văn hóa; mà còn nêu lên những điểm tích cực và cả những tiêu cực của làng xã trong quá trình xây dựng. Có thể nhận thấy mặc dù có rất nhiều tác giả và nhiều sách viết về vị trí, vai trò của văn hóa, làng, văn hóa làng, làng văn hóa; song, đối với huyện Mỹ Hào những vấn đề về xây dựng làng văn hóa đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào cụ thể giải quyết một cách thỏa đáng các vấn đề giữa lý luận và thực tiễn xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ lý luận chung về xây dựng làng văn hóa, khóa luận phân tích thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào hiện nay, từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích trên, khóa luận thực hiện những nhiệm vụ sau: - Xác định rõ khái niệm về văn hóa và làng; phân biệt được làng văn hóa và văn hóa làng; những nội dung trong xây dựng làng văn hóa để làm cơ sở lý luận chung cho toàn bộ khóa luận. - Phân tích thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào hiện nay, đề xuất các phương hướng và giải pháp xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào. 4. Cơ sở lý luận 6
  11. Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa theo định hướng Xã hội chủ nghĩa và quan điểm chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam, các chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về văn hóa, làng và xây dựng làng văn hóa. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, khóa luận chỉ tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về làng văn hóa; đồng thời, đi phân tích thực trạng việc xây dựng làng văn hóa trên địa bàn huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay. Kết hợp đưa ra những phương hướng, giải pháp cụ thể về việc đẩy mạnh xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào hiện nay. Thời gian khảo sát ở 2 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất từ 1996 – 2015 là thời gian Mỹ Hào bắt tay vào xây dựng và hoàn thành phong trào xây dựng làng văn hóa với 100% làng được công nhận danh hiệu “làng văn hóa” lần đầu; giai đoạn thứ hai từ 2015 đến 2018 – đây là mốc thời gian từ sau khi hoàn thành phong trào và tính đến thời gian hiện tại, các hoạt động rà soát, thẩm định theo mốc 3 năm 1 lần đề duy trì “làng văn hóa” phù hợp với tình hình hiện nay. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu như: phương pháp lôgic - lịch sử, phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống - cấu trúc, phương pháp quy nạp - diễn dịch, phương pháp nghiên cứu văn bản và dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn khách quan. 7. Ý nghĩa của khóa luận - Khóa luận góp phần hệ thống hóa lý luận chung về văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa. - Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề văn hóa và xây dựng làng văn hóa. 7
  12. 8. Kết cấu của khóa luận Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Khóa luận gồm có 2 chương và 4 tiết : Chương 1. Lý luận chung về xây dựng làng văn hóa. Chương 2. Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay – Thực trạng và giải pháp. 8
  13. NỘI DUNG CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA 1.1. Quan niệm về làng văn hóa 1.1.1. Khái niệm văn hóa Từ khi con người xuất hiện thì văn hóa cũng xuất hiện; nó là sản phẩm của con người và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong xã hội loài người. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa, bởi vì văn hóa tồn tại và liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của con người. Trong đời sống thường ngày thì văn hóa được hiểu đó là văn học, nghệ thuật. Bên cạnh đó, văn hóa cũng tồn tại cả trong ẩm thực, trang phục, cách ứng xử và đức tin, Vào khoảng cuối thế kỷ XIX, văn hóa được tách ra thành một mảng độc lập và được nhiều người quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là những nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực triết học lúc bấy giờ. Xã hội loài người càng phát triển, con người ta càng đề cao những giá trị văn hóa, nhất là những văn hóa có liên quan đến cộng đồng. Văn hóa giúp con người phát triển văn minh hơn, làm thay đổi nhận thức của loài người trong những hướng tiếp cận mới của xu hướng khoa học công nghệ. Văn hóa đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Ở phương Đông, từ “văn hóa” đã xuất hiện từ rất sớm, đó là ở trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa nhằm mục đích là xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ. Ở phương Tây: người Anh và người Pháp có từ culture, người Đức có từ kultur, người Nga thì có từ kultura; tất cả những chữ này đều có chung nguồn gốc Latinh từ chữ “cultus animi” mang nghĩa là nuôi dưỡng tinh thần - là sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn và trí tuệ con người. Từ đây chúng ta có thể hiểu rằng, văn hóa luôn gắn liền với quá trình mà con người sáng tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần; gắn liền với quá trình giáo dục và đào tạo con người. Năm 1952, hai nhà Nhân học văn hóa người Mỹ đó là A.Kroeber và C.Kluckhohn – họ đã tổng hợp và thống kê lại là có khoảng 150 định nghĩa 9
  14. khác nhau được đưa ra về “Văn hóa”; nhưng hầu hết các tác giả cho rằng văn hóa là lối sống, là cách ứng xử mà con người học tập được trong suốt quá trình từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành. Như vậy ta có thể thấy, quan niệm phương Tây về văn hóa là một sản phẩm của con người tạo ra; nó gắn liền với quá trình con người tạo ra vật chất và tinh thần dưới bàn tay lao động. Mác và Ăngghen đã nghiên cứu và dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng; cho rằng bản chất văn hóa được thể hiện trong chính mối quan hệ biện chứng giữa con người với xã hội, con người với con người. C.Mác cũng chỉ ra nguồn gốc của văn hóa gắn bó mật thiết với năng lực sáng tạo của con người và nó bắt nguồn từ lao động của con người. C.Mác coi “văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người” [10, tr.42]. Ông coi việc con người sáng tạo ra giới tự nhiên là tác phẩm của con người, là thực tại của con người; bằng cách nào đó con người cải biến, nhân hóa thế giới đó với ý nghĩa con người chính là văn hóa tồn tại trong đó. C.Mác đã đồng nhất văn hóa với phương thức hoạt động sống của con người, đó là phương thức mà con người sử dụng cách sáng tạo của chính mình để biến đổi, cải tạo giới tự nhiên theo quy tắc cái đẹp của con người tự đề ra. Theo C.Mác, hoạt động lao động của con người không chỉ dừng lại ở việc thỏa mãn những nhu cầu sinh lý thường ngày, mà nó còn được kết tinh trong cả lối sống, phương thức sống, tính cách, trí tuệ của con người; nó được biểu hiện ra bên ngoài bằng chính các sản phẩm vật thể và phi vật thể; được tích lũy lại trong quá trình thực tiễn lịch sử - xã hội. Con người là thước đo của mọi giá trị, còn văn hóa là thước đo tính cách, sự sáng tạo của giá trị đó. Bên cạnh đó, Ăngghen cho rằng: “Mỗi bước tiến trên con đường văn hóa là một bước tiến tự do” [10, tr.146]. Như vậy, C.Mác và Ăngghen đã thừa nhận văn hóa đó chính là một giá trị - giá trị đó bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử. Sau những luận điểm của C.Mác và Ăngghen, Lênin đã tiếp thu những tư tưởng và phát triển theo cách hiểu của mình về văn hóa trong xã hội - ông cho rằng trong xã hội có giai cấp luôn tồn tại hai nền văn hóa đó là nền văn hóa của giai cấp thống trị và nền văn hóa 10
  15. của giai cấp bị trị; từ đó mà tất yếu cách mạng văn hóa sẽ xảy ra. Lênin gắn văn hóa với sự phát triển đi lên, đưa ra mục tiêu chính của văn hóa đó là việc hoàn thiện con người về mọi mặt. Lênin viết: “ Văn hóa vô sản không phải bỗng nhiên mà có, không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản phát minh ra hoàn toàn là sự phát triển hợp quy luật mà tổng số kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu” [26, tr.361]. Khái niệm này đã khẳng định sự tất yếu ra đời của văn hóa vô sản không phải tự nhiên mà sinh ra, nó sinh ra bởi vì chính cái chế độ thối nát của xã hội tư bản với bọn địa chủ và quan liêu. Văn hóa đó chỉ đường cho con người ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và đi theo cách mạng vô sản. Ở Việt Nam, văn hóa được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Đầu tiên, xét về cội nguồn từ “văn hóa” - theo thư tịch cổ thì từ “văn hóa” ngày nay mà chúng ta đang sử dụng có nguồn gốc Hán-Việt: từ “văn” mang nghĩa là nét vẽ, mang tính hình thức bên ngoài; còn từ “hóa” là sự biến đổi, là giáo hóa. Ta có thể nhận thấy, đã từ rất lâu về trước người Việt đã ý thức được văn hóa trong lối sống, cách hành xử, mối quan hệ giữa con người với con người. Văn hóa đối với người Việt chính là những đường nét mang tính chất răn đe, giáo dục con người hướng tới những điều tốt đẹp và sống có khuôn phép. Sau khi lĩnh hội quan niệm của những người đi trước và kết hợp tính sáng tạo trong học thuyết Mác – Lênin về văn hóa với vai trò của tinh thần văn hóa; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng hợp và đưa ra quan điểm của mình về ý nghĩa của văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo, phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[28, tr.431]. Người coi văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần đã được con 11
  16. người sáng tạo ra vì cuộc sống. Hồ Chí Minh xác định văn hóa là một sự phát triển tất yếu của xã hội, là phương thức của hoạt động sống và nó không những được nâng cao cùng với quá trình phát triển đi lên của xã hội, sự sáng tạo mà còn mang trong mình giá trị nhân văn là vấn đề cốt lõi của văn hóa. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa chung về văn hóa, đó là “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”[50, tr.23]. Theo quan niệm của UNESCO thì có hai loại hình di sản văn hóa song song cùng tồn tại, đó là văn hóa hữu thể và văn hóa vô hình. Trong đó, văn hóa hữu thể được cho là di sản văn hóa vật chất, bao gồm những công trình kiến trúc mang những nét văn hóa, lịch sử. Còn văn hóa vô hình bao gồm mọi lĩnh vực như âm nhạc, nghệ thuật múa truyền thống, văn học, ẩm thực, y dược, lễ hội, làng nghề, tất cả là thành tố thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần. Qua định nghĩa này, văn hóa chính là sự kết hợp hài hòa của những nét tổng thể của vật chất với tinh thần, giữa trí tuệ và cảm xúc để tạo nên tính cách xã hội của cả một cộng đồng. Nó được bộc lộ ra bên ngoài với những loại hình khác nhau mang đặc trưng của cộng đồng đó. Văn hóa giúp con người hoàn thiện bản thân mình, giúp con người tìm ra cái tôi bản ngã trong họ, để họ không ngừng thay đổi tư duy để phát triển đi lên tìm ra những cái mới, không ngừng sáng tạo ra những thứ vượt thời đại. Như vậy, văn hóa không chỉ là một lĩnh vực cụ thể, riêng biệt; mà văn hóa chính là tổng thể của tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người 12
  17. sáng tạo ra. Văn hóa chính là chiếc chìa khóa của sự phát triển. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người đều là vì lẽ sinh tồn, vì mục đích của cuộc sống; tất cả đều phải trải qua thực tiễn và thời gian, được lặp đi, lặp lại tạo thành thói quen, tập quán và chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá trị vật chất và tinh thần. Chúng được tích lũy theo thời gian, lưu truyền và nhân rộng từ đời này qua đời khác thành những kho tàng quý báu mang những giá trị riêng, mang đặc trưng của mỗi cộng đồng và chúng góp phần làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa của Việt Nam nói riêng, của cả nhân loại nói chung. 1.1.2. Khái niệm làng Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, làng có vị trí hết sức đặc biệt; làng là một đơn vị hành chính nhỏ nhất và cấu thành nên quốc gia dân tộc Việt – Nhà nước chính là kết quả của sự liên kết giữa các làng lại với nhau, thống nhất dưới một chế độ. Làng có vai trò gắn kết các cá nhân, gia đình lại với nhau; làng là nhân tố quyết định quá trình dựng nước và giữ nước của quốc gia dân tộc, bằng chứng là chúng ta đã đánh bại hết quân xâm lược để thống nhất đất nước, giữ yên bờ cõi. Làng là một từ Nôm, là một đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng lại chặt chẽ nhất và được coi là hoàn chỉnh nhất, bởi vì nó có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức và tục lệ riêng, hoàn chỉnh và ổn định qua quá trình phát triển lịch sử của đất nước. Cùng với sự xuất hiện của làng thì văn hóa làng cũng đồng thời xuất hiện và nó trở thành nét đặc trưng cho văn hóa dân tộc Việt Nam. Trải qua thời gian, làng Việt cũng có nhiều thay đổi, ngay cả từ tên gọi của làng cũng khác nhau giữa các vùng miền. Từ thời Văn Lang – Âu Lạc ở các nơi làng được nhân dân gọi là chạ, kẻ, chiềng – đây đều là những từ thuần Việt. Sau này, khi nước ta bị quân phương Bắc đô hộ và phải nằm dưới ách thống trị 1000 năm thì làng Việt đổi thành hương, lý và nằm dưới sự quản lý của Triều đình phong kiến. Còn ở các vùng dân tộc thiểu số ở phía Bắc, Bắc Trung Bộ thì làng lại được gọi là bản, mường. Ở Tây Nguyên, làng được người dân gọi là buôn, play. Đi xuôi về Nam Bộ, nơi mà dân cư Khơ – me tập trung sinh sống và sản xuất thì họ gọi làng là phum, sóc đó là những tên gọi 13
  18. khác nhau về làng, tùy từng vùng với những tập tục riêng mà họ lại gọi tên khác nhau. Nhưng tóm lại, dù tên gọi khác nhau nhưng làng vẫn có những đặc điểm chung về cơ cấu tổ chức và chịu sự quản lý của một chế độ xã hội, hưởng chung lợi ích về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Cho đến nay, đã có rất nhiều nhà khoa học đưa ra những khái niệm khác nhau về “làng” của Việt Nam; mặc dù vậy họ vẫn chưa nhất quán về một quan điểm nào đó. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, “làng xã phải là nơi đồng quê nhiều gia đình ở quy tụ thành khu vực gọi là xóm, các xóm phân biệt nhau bằng lũy tre xanh. Trên đường đi vào thường có các cổng xây hoặc tre, đến đêm tối có thể đóng lại được, để phòng ngừa trộm cướp. Hai, ba, bốn hoặc có khi là năm, sáu xóm họp thành một thôn gọi là làng” [25, tr.151]. Tác giả đi từ đơn vị nhỏ nhất của làng đó là gia đình rồi đến xóm và sau đó thì tập hợp thành một làng hay còn gọi là thôn – tùy thuộc vào cách gọi của từng địa phương đó. Còn theo GS. Phan Đại Doãn cho rằng: “Làng là một điểm dân cư, một hình thức công xã nông thôn, có cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ chức xã hội riêng, lệ tục riêng, rất chặt chẽ và hoàn chỉnh”[25, tr.38]. Định nghĩa này có nét tương đồng với GS. Bùi Xuân Đính khi cho rằng làng chính là đơn vị tụ cư truyền thống của nông dân Việt, có địa vực riêng, có cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ chức riêng, tục lệ riêng, nhưng lại rất chặt chẽ và hoàn chỉnh. Cả hai đều nói về sự khác biệt của làng với những đơn vị xã hội khác. Mặc dù đã có rất nhiều cách gọi về làng nhưng chúng ta hãy tạm quy nó về một cách hiểu, đó là: “Làng là một đơn vị cộng cư có một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông – với gia đình tông tộc gia trưởng, đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng được hình thành, được tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ. Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt, mặt khác, xét về cấu trúc, làng là một cấu trúc động, không có làng bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi của đất nước qua tác động của những mối liên hệ làng và siêu làng. Do những đặc thù của 14
  19. tự nhiên và xã hội mà ở miền Trung, miền Nam, tuy gốc gác nguồn gốc cũng là người Việt từ miền Bắc di cư vào, nhưng với môi trường sống mới, hình thức cơ cấu làng xã và quan hệ xã hội đã thay đổi nhiều không còn nhiều đặc điểm như làng Bắc Bộ. Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là hình thức công xã nông thôn với những đặc thù riêng của mình, hình thức công xã nông thôn “nửa kín, nửa mở” những đặc thù riêng của làng thể hiện ở chế độ ruộng đất, chế độ công điền, các loại hình và nguyên tắc tổ chức xã hội, lệ, luật tục, tín ngưỡng, lễ hội của làng”[37, tr.46-47]. Khái niệm này đã khái quát một cách cụ thể về làng Việt Nam truyền thống, nó đã cho ta có cái nhìn bao quát và tổng thể về làng. Làng là một sản phẩm của quá trình định cư và cộng cư của người Việt; từ một cộng đồng tụ cư trở thành một đơn vị kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, một đơn vị kinh tế tự cung, tự cấp của nông dân. Khái niệm đã đưa ra những nguyên nhân hình thành nên một làng Việt - đó là hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ để giải thích cho tính thống nhất của tổ chức làng hay tính độc lập về văn hóa của làng. Làng Việt là sản phẩm của một nền chính trị phát triển từ lâu đời; là sản phẩm của cả một nền văn hóa mang đặc sắc riêng của người Việt - cơ cấu tổ chức làng chỉ tồn tại duy nhất Việt Nam. Nét đặc sắc đó thể hiện thông qua tính cộng đồng của người dân trong mỗi làng, mỗi xóm. Tính cộng đồng có vai trò gắn kết các thành viên trong làng lại với nhau thông qua các biểu tượng mang tính truyền thống như cây đa, bến nước, sân đình. Hầu hết, mọi làng của người Việt đều hội tụ cả ba biểu tượng này. Cho dù những người con xa quê hương bao lâu đi chăng nữa nhưng mỗi khi trở về làng, hình ảnh đầu tiên họ được nhìn thấy khi đến đầu làng là cây đa – tán cây xòe rộng tỏa bóng mát cho dân làng mỗi khi đi ngang. Phải nói rằng, hình ảnh cây đa chính là nơi giao thương của cả làng với thế giới bên ngoài; là nơi nghỉ chân của lữ khách qua đường và cũng là nơi dừng chân của những người dân sau một ngày lao động nơi đồng ruộng cùng với dăm ba câu chuyện. Bên cạnh cây đa, bến nước lại là nơi tập trung cho sinh hoạt thường ngày của dân làng, đặc biệt nơi đây là địa điểm tập trung chủ yếu của chị em phụ nữ; họ giao lưu kết bạn 15
  20. với nhau, tâm sự nói chuyện cho nhau nghe trong lúc cùng vo gạo, rửa rau Còn sân đình chính là nơi cho cánh mày râu tụ tập; đây cũng chính là trung tâm hành chính, văn hoá xã hội của cả làng; mọi việc quan trọng của làng đều diễn ra ở đây như hội họp việc làng, xét xử kiện tụng, đón rước quan trên, hội hè ăn uống, văn hoá văn nghệ giải trí. Đó là những giá trị văn hóa mà chỉ tồn tại ở làng Việt Nam truyền thống, nó mang đậm nét văn hóa của một làng quê, tính thẩm mỹ, mang tính chất văn hóa, chính trị; đôi lúc nó chứa đựng trong đó cả yếu tố tâm linh huyền bí. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được rằng làng chính là cội nguồn cho mọi chuẩn mực về ý thức, phẩm chất nằm tiềm tàng trong mỗi người Việt; những yếu tố đó đã tạo nên cộng đồng bền chặt là dân tộc Việt với sức sống mãnh liệt, bền bỉ. Dù đã trải qua những cuộc đấu tranh vô cùng tàn khốc và ác liệt; đứng trước biết bao kẻ thù mạnh nhưng ta đã không bị khuất phục. Làng vẫn ở đó, vẫn luôn kiên cố để cho ta có nơi cư ngụ, nơi bảo vệ ta, cho ta thêm sức mạnh để chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược. Cho tới ngày nay, khi đất nước hòa bình, làng vẫn là lực lượng nòng cốt tạo tiền đề cho sự phát triển đất nước. Suy cho cùng, làng chính là một đơn vị xã hội của văn hóa Việt Nam, làng của người Việt là một môi trường văn hóa, nó chứa đựng mọi thành tố, mọi hiện tượng văn hóa được sinh ra và phát triển, lưu giữ và trao truyền tới mọi cá thể. 1.1.3. Phân biệt văn hóa làng và làng văn hóa 1.1.3.1. Quan niệm về văn hóa làng Văn hóa làng chứa đựng những nội dung rất phong phú và đa dạng, tạo nên một bức tranh đa sắc màu về văn hóa của dân tộc. Văn hóa làng Việt Nam truyền thống được thể hiện rõ nét nhất là ở văn hóa làng Việt Bắc Bộ; vì đây là cái nôi của nền văn minh sông Hồng, là nơi đầu tiên mà dân tộc Việt di cư đến sinh sống, lao động và sản xuất. Làng Việt Bắc Bộ cũng là nơi cố kết cộng đồng dân tộc lại thành một; nơi có những quan hệ dòng tộc, huyết thống; cùng hàng xóm láng giềng; nơi tổ chức các buổi sinh hoạt chung, văn hóa, văn nghệ. Làng chính là đơn vị tiền đề của một quốc gia; là bức tường thành 16
  21. vững chắc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bình yên cho dân tộc, cho đất nước. Tất cả đó, hình thành nên một nếp sống đẹp, luôn tồn tại trong mỗi cá nhân của cộng đồng Việt đó là văn hóa làng. “Văn hóa làng xã Việt Nam có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc, nó luôn luôn bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nuôi dưỡng sức sống trường tồn của văn hóa dân tộc” [30, tr18-19]. Văn hóa làng chính là một hệ thống những giá trị được hình thành từ rất lâu đời và tồn tại cùng quá trình phát triển của cả dân tộc; nó biểu hiện cho những giá trị vật chất và tinh thần rất đỗi gần gũi và thân thương. Văn hóa làng Việt Nam truyền thống đã có lịch sử tồn tại qua hàng ngàn năm phát triển, mang trong mình những ký ức của người dân Việt, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt - một nền văn hóa của nhân dân, bộ phận ổn định nhất của văn hóa dân tộc. Xét tổng thể nước ta thì có sự khác biệt nhất định về văn hóa giữa làng với làng, giữa làng với nước; nhưng sự giao lưu văn hóa giữa các vùng miền đã làm cho văn hóa có những điểm tương đồng với nhau về tư tưởng, tín ngưỡng, về kiến trúc, điêu khắc, giáo dục, thẩm mỹ, Từng khu vực lại có những yếu tố, sắc thái văn hóa khác nhau giống như văn hóa làng Nam Bộ khác với văn hóa làng Bắc Bộ nhưng về tổng thể thì văn hóa làng đều có điểm tương đồng nhau. Mỗi làng đều tồn tại những quy ước về lệ làng, được thể hiện qua hương ước làng một cách phong phú, mỗi làng lại có những lễ hội truyền thống riêng, tất cả được chắt lọc tạo nên bản sắc văn hóa làng, mà trong đó tính cộng đồng làng và tính tự trị của làng được nổi bật lên. Nhà nghiên cứu Thu Linh có đưa ra quan điểm cho rằng: “Văn hóa làng là một nền văn hóa thuộc về cộng đồng và mang tính chất cộng đồng. Chủ thể làng, tập thể làng chính là tác giả, là người tạo dựng, sáng lập nên nền văn hóa ấy. Ở Việt Nam, một làng với tư cách là một làng, được xác định không chỉ qua địa bàn cư trú, hoạt động nghề nghiệp, lịch sử hình thành, kết cấu kinh tế, quan hệ xã hội, mà còn qua cả sinh hoạt văn hóa có bản sắc riêng của nó nữa” [27, tr.46-48]. Bên cạnh các yếu tố đã kể trên thì các phẩm chất quan trọng khác cũng song song tồn tại như: tính ưa hài hòa, khuynh hướng thiên 17
  22. về âm tính (trọng tình, tình làng, nghĩa xóm, ), tính tổng hợp và tính linh hoạt đều tồn tại trong văn hóa làng Việt. Trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, văn hóa làng Việt đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình. Sau lũy tre làng, bên giếng làng, dưới mái đình làng, trong bầu khí thân thương của những ngày hội làng, mọi người sống với nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Tình làng nghĩa xóm, quan hệ láng giềng ràng buộc con người trong nếp sống làng, xã có kỷ cương, trong sáng và thanh cao. Văn hóa làng là một trong những tiêu chí để giúp chúng ta xác định và phân biệt được diện mạo của làng này với làng khác. Văn hóa làng là thành quả sáng tạo của các thành viên trong cộng đồng làng; họ tham gia tổ chức thực hiện các hoạt động trong làng mình; đồng thời, họ chính là những người chiêm ngưỡng và hưởng thụ những giá trị văn hóa do chính họ tạo ra. Vì vậy, tính nhân văn trong văn hóa làng sẽ càng được tô đậm ở tính chất cộng đồng, tính tập thể. Làng là một chủ thể tập thể của văn hóa và thông qua văn hóa làng thì chúng ta có thể khám phá được diện mạo văn hóa chung của cả làng đó. Đây là những điều lý thú giúp chúng ta phân biệt được làng này với làng khác, sự khẳng định phân biệt này chưa phải đạt đến trình độ khác nhau về chất. Nhưng thông qua đây cũng cho thấy sự ý thức về sự phân biệt và khẳng định của người dân trong vùng. Trong những nét riêng của làng Việt Nam, văn hóa làng nổi bật lên với một số đặc trưng: ý thức đoàn kết cộng đồng rất cao và thể hiện ở nhiều mặt khác nhau trong cuộc sống, ví dụ như trong lao động sản xuất, hay như trong thói quen sinh hoạt hàng ngày – từ ý thức này mà tạo nên tính dân chủ trong làng. Ý thức tự trị của mỗi làng thể hiện qua lệ làng và hương ước - những diện mạo về văn hóa tùy vào điều kiện môi trường tự nhiên của từng vùng mà nề nếp sinh hoạt và cách ứng xử riêng của từng làng sẽ có một niềm tự hào riêng của mình. Đa thần giáo cũng là một điểm nổi bật trong đời sống tín ngưỡng làng Việt, họ không thờ một vị thần chung mà mỗi làng sẽ thờ những vị khác nhau và có tín ngưỡng khác nhau. Trên đây là những nét đặc trưng mà 18
  23. làng Việt nào cũng có, nó trở thành bản sắc, là hằng số của làng - cố hữu và bất biến. Ngày nay, khi đất nước đang từng bước phát triển, với lợi thế tiềm năng là một nước công nghiệp lại càng yêu cầu văn hóa làng cần phải phát huy vai trò và thế mạnh của nó, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong văn hóa làng Việt - phải biết yêu thương, đoàn kết, gắn bó để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, đời sống nhân dân được ổn định, chất lượng cuộc sống được nâng cao. Đó là những giá trị tốt đẹp về nhân cách, văn hóa, lễ hội truyền thống, hay chính tình làng nghĩa xóm giống như ông bà ta có câu “bán anh em xa mua láng giềng gần” - là những giá trị vật chất và tinh thần mà chỉ tồn tại ở Việt Nam. 1.1.3.2. Quan niệm về làng văn hóa Làng văn hóa là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa làng trong thời đại mới. Văn hóa làng chính là nền tảng để chúng ta xây dựng làng văn hóa một cách vững chắc trong bối cảnh hiện nay. Thực tế đã chứng minh, trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, làng luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, là nơi lưu giữ trường tồn những giá trị vật chất, tinh thần và bản sắc văn hóa dân tộc. Việc xây dựng làng văn hóa là nhằm phát huy cao độ những giá trị vốn có của văn hóa làng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được ước mơ, nguyện vọng chính đáng của mọi người dân. Đây là cơ sở để hạn chế, đẩy lùi những yếu kém đang tồn tại trong môi trường xã hội nói chung và văn hóa ở làng quê nói riêng. Có thể thống nhất với quan niệm của nhà nghiên cứu Hoàng Anh Nhân cho rằng: “Làng văn hóa được hiểu như là một mô hình mang tính chủ quan, gắn bó với tính chủ quan của con người mà nội dung của nó bao hàm sự toàn vẹn về mọi mặt trên cơ sở những đặc điểm tích cực nhất. Về mặt lý thuyết, nếu như văn hóa làng còn có thể tồn tại những mặt hạn chế thì làng văn hóa phải được hiểu hoàn toàn ngược lại” [29, tr.44]. Theo quan niệm này thì làng văn hóa là một mô hình văn hóa chủ quan được xây dựng bởi một nhóm người có địa giới riêng và có quy tắc riêng đó là 19
  24. hương ước làng. Làng văn hóa là nơi tụ hội mọi đặc điểm tích cực về những phẩm chất, những nét đẹp văn hóa, lối sống của mọi người dân nơi đó. Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa của phong phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân, có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội, tăng cường đoàn kết và ổn định trong nông thôn, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh, cần phải đặc biệt chú trọng đến nội dung xây dựng làng văn hóa. 1.2. Xây dựng làng văn hóa 1.2.1. Quan điểm của Đảng và chính sách Nhà nƣớc về xây dựng làng văn hóa ở Việt Nam hiện nay Thực hiện theo cuộc vận động xây dựng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trọng tâm là xây dựng “làng văn hóa” của Đảng - Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là cuộc vận động lớn mang tính toàn dân, toàn diện, với mục đích nâng cao ý thức và trách nhiệm của mỗi người dân trong quan hệ với gia đình và cộng đồng, môi trường tự nhiên và xã hội, theo những tiêu chí hướng tới nâng cao chất lượng sống cho người dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Cuộc phát động phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là một trong 4 nhóm giải pháp lớn nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhóm giải pháp này xếp ở vị trí đầu tiên, có tính đột phá, huy động sức mạnh toàn dân, toàn diện cho xây dựng văn hóa, có ý nghĩa xã hội sâu sắc, tính chiến lược lâu dài, thể hiện quan điểm của Đảng ta coi xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết số 33- NQ-TW ngày 09/6/2014) yêu cầu: Xây dựng làng văn hóa ở địa bàn dân cư đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất 20
  25. là trong việc cưới, việc tang, lễ hội - nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa. Nghị quyết của Đảng yêu cầu các cấp ủy huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể phải tích cực tham gia vào phong trào. Phong trào xây dựng làng văn hóa phải tạo sự chuyển biến về nhận thức cho khối nhà nước và nhân dân về vai trò, vị trí của văn hoá, kết hợp với nhân tố con người đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phối hợp và đẩy mạnh các phong trào quần chúng hiện có; đồng thời, lồng ghép bổ sung nội dung văn hoá vào các phong trào của các bộ, ban, ngành, đoàn thể, ở địa phương. Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, bảo tồn có chọn lọc những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc; loại bỏ dần những cái lỗi thời, lạc hậu, hình thành dần những tập quán mới văn minh, sống và làm việc theo pháp luật. Xây dựng và phấn đấu theo các chỉ tiêu, quy chế, quy tắc về nếp sống văn hoá. Huy động nguồn lực của toàn xã hội tham gia các hoạt động sáng tạo và xây dựng làng văn hoá, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hoá phát triển, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Toàn dân đoàn kết xây dựng làng văn hóa là tư tưởng bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết cộng đồng của dân tộc, từ tư tưởng đoàn kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng. Nội dung cơ bản của phong trào “Xây dựng làng văn hoá” được thể hiện ở các hoạt động chủ yếu: Phát triển kinh tế, giúp nhau làm giầu chính đáng, xoá đói giảm nghèo; Xây dựng tư tưởng chính trị lành mạnh; Xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội, sống và làm việc theo pháp luật; Xây dựng quy ước văn hóa làng; Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; Xây dựng môi trường văn hoá sạch - đẹp - an toàn; Xây dựng các thiết chế văn hoá - thể thao và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá - thể thao cơ sở. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về phong trào “Xây dựng làng văn hoá” 21
  26. gắn với phong trào xây dựng xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức tổ chức hoạt động truyền thống gắn với triển khai thực hiện phong trào, nhất là gương các tập thể điển hình tiên tiến trong phong trào xây dựng “Làng văn hóa”. Xây dựng và hoàn thiện quy định về xét tặng danh hiệu “Làng văn hóa”; trong đó làm rõ các tiêu chí, tiêu chuẩn bình xét, bảo đảm dễ nhớ, dễ thực hiện, bao trùm được tất cả các giá trị cốt lõi của văn hóa và phù hợp với điều kiện thực tiễn ở từng địa phương; rà soát lại các phong trào, cuộc vận động có nội dung hoạt động liên quan đến xây dựng đời sống văn hoá, làm rõ đặc thù của từng phong trào, cuộc vận động để làm cơ sở định hướng hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương trong thời gian tới theo mô hình Ban Chỉ đạo tổng hợp; nghiên cứu cơ chế đưa các nội dung bảo tồn văn hoá, văn nghệ dân gian vào các hoạt động để đẩy mạnh công tác truyền thông về phong trào. Đổi mới công tác kiểm tra; đổi mới hình thức tổ chức giao ban cụm về thực hiện phong trào, nhằm kịp thời đánh giá, điều chỉnh và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc ở địa phương. Việc tổ chức các hội nghị giao ban cụm cần hiệu quả, thiết thực, tránh hình thức, lãng phí; tăng cường tổ chức tập huấn nghiệp vụ; đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về phong trào; tổ chức tuyên truyền sâu rộng những gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những mô hình hay, cách làm sáng tạo trong phong trào cần nhân rộng. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Phong trào, bảo đảm phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người dân; chỉ đạo các cơ quan thành viên Ban Chỉ đạo phong trào tại địa phương thực hiện nghiêm túc trong kiểm tra, giám sát, phúc tra việc xét tặng các danh hiệu văn hóa; kiên quyết loại bỏ bệnh hình thức, chạy theo thành tích trong xét tặng các danh hiệu văn hóa. 1.2.2. Tiêu chuẩn của làng văn hóa Nhà nước đang khuyến khích các địa phương tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới – đây là một chương trình nhằm phát triển tổng thể về 22
  27. kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa và an ninh quốc phòng. Với mục tiêu đưa ra cụ thể là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn từng bước hiện đại; xây dựng cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý; gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp và dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xây dựng nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái; giữ vững an ninh - trật tự; tăng cường hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bên cạnh đó, cần phải đặc biệt chú trọng đến nội dung xây dựng làng văn hóa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa ra tiêu chuẩn xét duyệt Danh hiệu Làng văn hóa được quy định tại Thông tư 12/2011/TT-BVHTTDL ngày 10/10/ 2011 hướng dẫn về tiêu chuẩn công nhận danh hiệu một Làng văn hóa là: “ Tiêu chuẩn 1, đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển: a) Thực hiện tốt cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn mức bình quân chung của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (dưới đây gọi là bình quân chung); b) Có phong trào xóa nhà tạm, dột nát; tỷ lệ hộ có nhà bền vững cao hơn mức bình quân chung; c) Có nhiều hoạt động hiệu quả: Về tuyên truyền, phổ biến và ứng dụng khoa học - kỹ thuật; phát triển nghề truyền thống; hợp tác và liên kết phát triển kinh tế; d) Tỷ lệ lao động có việc làm, thu nhập bình quân đầu người/năm cao hơn mức bình quân chung; đ) Có 80% trở lên hộ gia đình tham gia cuộc vận động xây dựng nông thôn mới; xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế - xã hội ở cộng đồng. Tiêu chuẩn 2, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú: a) Nhà Văn hóa - Khu thể thao thôn (làng, ấp, bản và tương đương) từng bước đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; b) Duy trì phong trào văn hóa, thể thao, thu hút 40% trở lên số người dân tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao ở cộng đồng; 23
  28. c) Có 70% trở lên hộ gia đình thực hiện tốt các quy định về nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; không có hành vi truyền bá và hành nghề mê tín dị đoan; d) Không phát sinh người mắc tệ nạn xã hội ở cộng đồng; không có người sử dụng và lưu hành văn hóa phẩm độc hại; đ) Có 70% trở lên hộ gia đình được công nhận “Gia đình văn hóa”, trong đó ít nhất 50% gia đình văn hóa được công nhận 3 năm trở lên; e) 100% trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường, đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học trở lên; có phong trào “khuyến học”, khuyến tài; g) Không có hành vi gây lây truyền dịch bệnh; không để xảy ra ngộ độc thực phẩm đông người; giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, trẻ em được tiêm chủng đầy đủ và phụ nữ có thai được khám định kỳ; h) Thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình; i) Có nhiều hoạt động đoàn kết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh và các công trình công cộng; bảo tồn các hình thức sinh hoạt văn hóa, thể thao dân gian truyền thống ở địa phương. Tiêu chuẩn 3, môi trường cảnh quan sạch đẹp: a) Có tổ vệ sinh thường xuyên quét dọn vệ sinh, thu gom rác thải về nơi xử lý tập trung theo quy định; b) Tỷ lệ hộ gia đình có 3 công trình hợp vệ sinh (nước sạch, nhà tắm, hố xí) đạt chuẩn, cao hơn mức bình quân chung; các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; c) Nhà ở khu dân cư, các công trình công cộng, nghĩa trang được xây dựng từng bước theo quy hoạch; d) Thường xuyên tuyên truyền, nhắc nhở, nâng cao ý thức của người dân về bảo vệ môi trường sinh thái; vận động nhân dân xây dựng cải tạo, nâng cấp hệ thống thoát nước; cải tạo các ao, hồ sinh thái; trồng cây xanh. Tiêu chuẩn 4, chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước: 24
  29. a) Có 90% trở lên hộ gia đình được phổ biến và nghiêm chỉnh thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; b) Hoạt động hòa giải có hiệu quả; hầu hết những mâu thuẫn, bất hòa được giải quyết tại cộng đồng; c) Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; phản ánh kịp thời những đề xuất, kiến nghị của nhân dân giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở, cộng đồng dân cư; không có khiếu kiện đông người trái pháp luật; d) Tuyên truyền và tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân ở khu dân cư tham gia giám sát hoạt động cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức Nhà nước; tham gia xây dựng Chi bộ Đảng, chính quyền đạt danh hiệu “Trong sạch, vững mạnh”; các tổ chức đoàn thể đạt danh hiệu tiên tiến trở lên hàng năm; các tổ chức tự quản ở cộng đồng hoạt động có hiệu quả. Tiêu chuẩn 5, có tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng: a) Thực hiện đầy đủ các chính sách của Nhà nước, phát triển phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, nhằm chăm sóc các gia đình chính sách, người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung; b) Thực hiện tốt các hoạt động “Nhân đạo từ thiện”, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai, gia đình khó khăn, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, nạn nhân chất độc da cam-dioxin và những người bất hạnh” [8]. Thông qua Điều 5 Thông tư 12/2011/TT-BVHTTDL đã đưa ra những tiêu chí đánh giá cụ thể để xét tiêu chuẩn đạt danh hiệu “ Làng văn hóa” của một đơn vị làng. Để đạt được danh hiệu “ làng văn hóa” không chỉ nằm ở các cấp quản lý, chỉ đạo, quản lý sát sao các hoạt động mà cấp trên đưa xuống; mà còn phụ thuộc vào cả một tập thể không ngừng cố gắng phấn đấu để đạt được danh hiệu vinh dự này. Dựa vào các tiêu chí cụ thể trên đây mà các cấp chính quyền cơ sở có thể định hướng được mục tiêu cụ thể cần đạt được; đưa 25
  30. ra những phương hướng và giải pháp khắc phục những mặt còn hạn chế, còn thiếu xót; để ra những cách thức phù hợp cho địa phương mình. 1.2.3. Nội dung của xây dựng làng văn hóa Dựa trên cơ sở các tiêu chí đánh giá để xét tiêu chuẩn đạt danh hiệu của một làng văn hóa Bộ Văn hóa Thể thao va Du lịch đưa ra các nội dung xây dựng một làng văn hóa thì phải đảm bảo được các nội dung sau đây: Một là, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất kinh doanh phát triển, đời sống nông dân ngày càng được nâng cao. Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu của từng địa phương; cụ thể là để huy động rộng rãi nhân dân tham gia cuộc vận động xây dựng làng văn hóa. Căn cứ vào điều kiện cụ thể và thế mạnh của từng nơi, các cấp ủy Đảng và chính quyền cần xác định cơ cấu kinh tế của địa phương mình để đưa ra những hướng phát triển kinh tế cho phù hợp. Trong những năm qua, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn nông thôn chú trọng đầu tư phát triển theo định hướng mới của nhà nước, đó là phát triển theo mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các cập lãnh đạo đã và đang hỗ trợ người lao động đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, tích cực sử dụng các giống cây trồng, vật nuôi mới, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; từ đó nâng cao được giá trị sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Mặt khác, chú ý sản xuất tiểu thủ công nghiệp, khuyến khích và hỗ trợ khôi phục các làng nghề truyền thống, thúc đẩy mở rộng thương mại - dịch vụ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Nhờ vậy, kinh tế ở nhiều làng đã có những chuyển biến rõ rệt, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu cấp thiết của cuộc vận động xây dựng làng văn hóa. Một cán bộ xã có sự kết hợp chặt chẽ của cả bốn yếu tố: người dân, người cùng họ hàng, người đại diện của cộng đồng và người đại diện cho Nhà nước ở địa phương. Bốn yếu tố này vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn, xung đột nhau trong con người cán bộ xã, chi phối hoạt động của họ, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân và 26
  31. cộng đồng. Một thực tế là cán bộ xã nói chung chưa được đào tạo cơ bản về văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, trình độ kiến thức và năng lực công tác còn yếu về nhiều mặt. Hiện nay, xu hướng tăng thêm cán bộ xã được hưởng các khoản phụ cấp ngày càng phổ biến ở các địa phương, nhưng cuộc vận động xây dựng làng văn hóa không vì thế mà được quan tâm tạo thêm nguồn cán bộ phục vụ phong trào. Điều này đòi hỏi cuộc cải cách bộ máy nhà nước phải quan tâm khắc phục để tạo ra sự vận hành đồng bộ trong chương trình chung. Ba là, tổ chức xây dựng thiết chế văn hóa và tổ chức an ninh của dân. Xây dựng làng văn hóa là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi công dân. Vì vậy, mô hình làng văn hóa mới, những thiết chế, cách thức tổ chức hoạt động và mức đóng góp của từng hộ gia đình phải được nghiên cứu và thảo luận kỹ lưỡng để giành được sự đồng tình, thống nhất cao trong cộng đồng làng. Những thiết chế văn hóa cơ bản như: trường học, nhà văn hóa, thư viện, câu lạc bộ, do nhu cầu ở làng xã cần thiết phải thành lập. Các thiết chế văn hóa này rất cần thiết cho việc khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong các cộng đồng làng. Để duy trì phong tục tín ngưỡng mỗi làng có một số tổ chức của dân đã tồn tại từ lâu đời. Ngày nay, nhân dân ở một số làng xã đang có yêu cầu khôi phục lại một số tổ chức còn phù hợp và có tác dụng. Thực tế, ở nhiều nơi đã khôi phục lại một phần các tổ chức ấy để dân tự quản, tự do lo liệu lấy công việc nội bộ như cúng bái đình chùa, tổ chức tang ma, cưới xin, giải quyết xích mích, duy trì phong tục đạo đức, ổn định trật tự an ninh theo quy ước của làng. Lực lượng bảo vệ an ninh làng xóm do dân tự quản lý, có sự chỉ đạo của chính quyền cấp xã sẽ có nhiều thuận tiện trong công việc. Khả năng tác chiến mau lẹ, kịp thời, hiệu quả hơn là chờ đợi sự chỉ huy từ cấp trên. Bốn là, xây dựng quy ước văn hóa của làng văn hóa. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiếp đoàn cán bộ Thái Bình tại Phủ Chủ tịch đã phê bình các cán bộ địa phương đã “quá tả”, xóa bỏ quỹ nghĩa thương và hương ước. Người khẳng định: “Hương ước là những khoản 27
  32. ước trong làng, người ta quy định với nhau không được để cho bò phá lúa, gà qué ăn mạ, đó là những phong tục hay của nông thôn nước ta trước đây. Từ sau cách mạng, các chú đem xóa bỏ cả, thế là không đúng. Cách mạng chỉ xóa những cái xấu, cái dở còn giữ lại cái tốt, cái hay” trích theo bài của tác giả Bùi Xuân Đính trong bài “Hương ước và pháp luật”, số 1 trên Tạp chí văn hóa dân gian năm 2000 [19, tr.10-11]. Ngày nay, mặc dù bên cạnh xây dựng pháp luật thống nhất với khẩu hiệu “sống và làm việu theo hiến pháp và pháp luật”, Đảng và Nhà nước ta vẫn khuyến khích các làng xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa để phát huy tinh thần tự quản của nhân dân ở cơ sở. Thực tiễn đặt ra cho thấy cần phải nhìn nhận lại quy ước văn hóa từ góc độ văn hóa để nó phục vụ sự nghiệp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn nói riêng. Năm là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là sự quyết tâm chiến lược của Đảng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống nông thôn hiện nay. Chủ chương trên đã đem lại cho người dân quyền bàn bạc, quyết định và giám sát tất cả những gì liên quan đến cuộc sống hàng ngày của họ. Thực tế, thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ, nông dân được nhận thức rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mình trong cộng đồng làng xã cũng như trong toàn xã hội. Ở nông thôn, nhiều cộng đồng làng xã đã tự bàn bạc và quyết định góp vốn, góp công sức xây dựng những công trình phúc lợi xã hội như đường, điện, nước, nhà ở, kênh mương, trường, tạo ra đà phát triển mới ở nông thôn. Sáu là đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa hướng tới xây dựng làng văn hóa vững mạnh. Gia đình là tế bào của xã hội, từ gia đình sẽ cấu trúc nên làng nước, gia đình có lành mạnh thì làng xóm mới lành mạnh, phát triển. Nhận thức rõ vai trò to lớn của gia đình trong việc xây dựng làng - nước, cấu thành xã hội; Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định xây dựng gia đình văn hóa là vấn đề hết sức hệ trọng của dân tộc và thời đại. Mỗi làng cần phải thường xuyên thực hiện công cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa với bốn nội dung đã 28
  33. được xác định: gia đình thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình; xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, hạnh phúc và tiến bộ; đoàn kết, tương trợ xóm làng; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân với mục đích hướng tới xây dựng một cộng đồng làng bền chặt và vững mạnh. Thực hiện sáu vấn đề cơ bản nói trên có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến xu thế vận động và phát triển của phong trào xây dựng làng văn hóa ở nước ta. Xây dựng làng văn hóa là một công việc đa dạng và phức tạp, chúng ta phải huy động được sức mạnh đông đảo của nông dân, cùng với những định hướng và những kinh nghiệm đã và đang xuất hiện ở một số địa phương. Làng văn hóa sẽ trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển ở nông thôn Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng làng văn hóa phải gắn liền với xây dựng thiết chế văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị tích cực của văn hóa làng truyền thống, nhằm thực sự phát huy vai trò của văn hóa trong quá trình thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn Việt Nam. 29
  34. Tiểu kết chƣơng 1 Xây dựng làng văn hóa là sự kế thừa và phát triển làng – xã Việt Nam trong điều kiện mới phù hợp với sự tiến bộ của văn hóa xã hội. Làng là một đơn vị hành chính nhỏ nhất nhưng nó lại giữ vị trí vô cùng quan trọng trong sự sống còn của quốc gia, dân tộc. Làng là cái nôi của nền văn hóa của cư dân Lạc Việt; nơi đây in dấu những chiến tích hào hùng của dân tộc; nó được ví như một tấm gương phản chiếu một cách sinh động truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đó là: chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, thuần phong mỹ tục, mối quan hệ xóm giềng, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Tất cả đều là những nét đẹp trong văn hóa người Việt, nó được thể hiện thông qua tích cách, nề nếp, thói quen, cách ứng xử của mỗi cá nhân. Vì vậy mà chúng ta, những thế hệ đi sau cần phải kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp đó bằng cách hưởng ứng, thực hiện tốt phong trào xây dựng làng văn hóa ở cấp cơ sở thông qua sự cố gắng phấn đấu của từng cá nhân, từng hộ gia trong địa phương đó. 30
  35. CHƢƠNG 2 XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA Ở HUYỆN MỸ HÀO, TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 2.1. Thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên hiện nay 2.1.1. Khái quát về đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên hiện nay 2.1.1.1. Địa lý tự nhiên Mỹ Hào là huyện nằm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Mỹ Hào nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Hưng Yên, trong giới hạn địa lý tọa độ từ 20º53’ đến 20º58’ vĩ độ Bắc, 106º02’ đến 106º10’ kinh độ Đông. Mỹ Hào có địa giới hành chính, đó là: phía Bắc giáp huyện Văn Lâm; phía Nam giáp huyện Ân Thi; phía Tây giáp huyện Yên Mỹ; phía Đông giáp hai huyện Cẩm Giàng, huyện Bình Giang (thuộc tỉnh Hải Dương) [Phụ lục 1]. Là vùng đất được thiên nhiên khá ưu ái với địa hình bằng phẳng, diện tích toàn tỉnh chủ yếu là đất thịt, không có đồi, núi hay biển. Độ dốc nền trung bình rất nhỏ, từ 0,001% đến 0,008%; hướng dốc chính từ Tây Bắc về Đông Nam; cao độ nền tự nhiên trung bình từ 2,5m đến 3,5m. Đây là khu vực có cốt cao độ khá cao trong tỉnh nên ít bị ngập lụt. Mỹ Hào có tổng diện tích tự nhiên là 7.936 ha với dân số sau quy đổi là 152.605 người (tính đến ngày 31/12/2014); toàn huyện gồm có 13 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm một thị trấn là Bần Yên Nhân và 12 xã trực thuộc đó là Nhân Hòa, Phan Đình Phùng, Dị Sử, Phùng Chí Kiên, Cẩm Xá, Dương Quang, Bạch Sam, Xuân Dục, Hưng Long, Minh Đức, Ngọc Lâm, Hòa Phong. Trong đó, thị trấn Bần Yên Nhân là huyện lỵ của huyện Mỹ Hào được quy hoạch xây dựng là một đô thị trung tâm tiểu vùng, là vùng kinh tế động lực thứ cấp của Tỉnh. Mỹ Hào nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, hằng năm có hai mùa rõ rệt đó là mùa nóng và mùa lạnh. Mùa nóng bắt đầu từ đầu tháng 4 đến tháng 10 có mưa nhiều; mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau nhưng ít 31
  36. mưa. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 24ºC, nhiệt độ có tháng cao nhất lên đến 39ºC. Độ ẩm không khí trung bình năm 87,5%. Lượng mưa trung bình hằng năm ở Mỹ Hào từ 1500 - 1600mm, có năm lượng mưa trung bình lên đến 2000mm. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp phục vụ đời sống dân cư trong huyện và các khu vực dân cư, đô thị lân cận. Ở Mỹ Hào, gió Đông Bắc thổi vào mùa đông vì vậy mà khí hậu thường khô, lạnh, thiếu nước và gió Đông Nam thổi vào mùa hè làm khí hậu mát mẻ nhưng mưa nhiều, thường xuyên có bão và ngập úng. Khí hậu thủy văn khắc nghiệt cũng gây không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân trên địa bàn Huyện. Khoảng thời gian tháng 6, tháng 7 xuất hiện đợt gió khô nóng, mùa đông từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau có những đợt rét đậm kéo dài. Nhưng khí hậu tương đối thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, có thể gieo trồng nhiều vụ trong năm, cây trồng thích nghi sinh trưởng và phát triển rất tốt, cho năng suất cao. Mỹ Hào chịu ảnh hưởng của chế độ thủy văn sông Hồng thông qua các phân lưu là sông Bắc Hưng Hải và sông Cửu An. Sông Bắc Hưng Hải chạy qua ranh giới phía Nam Huyện tại xã Ngọc Lâm, Hưng Long. Sông Cửu An vốn là phân lưu của sông Hồng và là một nhánh chính của hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải, chạy qua ranh giới phía Đông Nam Huyện với chiều dài khoảng 4km, hai con sông này góp phần quan trọng vào việc ổn định lượng nước tưới tiêu cho nông nghiệp toàn vùng. Các tuyến sông nội đồng của Huyện gồm sông Bần Vũ Xá (15km), kênh Trần Thành Ngọ (7,25km) và sông Cầu Lường giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn nước tưới tiêu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, đồng thời bồi đắp phù sa hàng năm. Ngoài ra, Mỹ Hào còn có hệ thống hồ, đập, các sông, kênh nội đồng nhỏ khác, khi cần thiết có sự điều tiết của hệ thống trạm bơm. Về quan hệ vùng liên tỉnh, Mỹ Hào là một trung tâm phát triển công nghiệp của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là khu vực công nghiệp vệ tinh của vùng Thủ đô; được ảnh hưởng tích cực bởi các hành lang kinh tế - kỹ thuật - đô thị quan trọng của vùng Bắc Bộ gồm: QL5A, QL39A, QL38, cao 32
  37. tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường vành đai 4 Hà Nội, đường sắt Hà Nội - Hải Phòng. Do vậy, Mỹ Hào có điều kiện giao lưu trong vùng Bắc Bộ với các trung tâm như: Hải Dương, Hà Nội, Hải Phòng, các cảng biển miền Bắc, cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Trong phạm vi tỉnh Hưng Yên, Mỹ Hào là một cực trong tam giác phát triển công nghiệp, dịch vụ phía Bắc của tỉnh Hưng Yên (Như Quỳnh - Văn Giang - Phố Nối); là một trung tâm công nghiệp, dịch vụ, tài chính của tỉnh Hưng Yên. Bên cạnh đó, Mỹ Hào còn có mối quan hệ mật thiết với các trung tâm phát triển lân cận như tỉnh Bắc Ninh, vùng phía Tây tỉnh Hải Dương. Mối quan hệ chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, sản xuất và tiêu thụ nông phẩm. Với vị trí địa lý và hệ thống giao thông thuận tiện nên việc giao lưu trao đổi hàng giữa Mỹ Hào với các địa phương trong và ngoài tỉnh khá phát triển. Mỹ Hào là một trong những nơi cung cấp những mặt hàng nhu yếu phẩm cho thị trường Hà Nội, nên thương nghiệp có điều kiện phát triển, hình thành những trung tâm buôn bán, những chợ lớn; là cầu nối giao lưu hàng hóa với các vùng lân cận. Mỹ Hào án ngữ ở một vị trí chiến lược, không những của riêng tỉnh Hưng Yên mà còn là của cả khu vực tả ngạn sông Hồng. Nằm ở cửa ngõ Đông Bắc của Hà Nội, Mỹ Hào nằm trải dài 13km trên Quốc lộ 5 và nằm sát tuyến đường sắt nối thủ đô Hà Nội với các thành phố như Hải Dương, Hải Phòng. Với vị trí này, Mỹ Hào góp phần che chắn, bảo vệ thủ đô Hà Nội, từ phía Đông Bắc và bảo vệ thị xã Hưng Yên từ phía Tây. Ngoài ra, Mỹ Hào còn có một hệ thống đường liên huyện, liên xã được xây dựng khang trang và hoàn chỉnh như quốc lộ 39, trục đường 196, đường 198, và các trục đường chính trong thôn, xóm, làng đều được xây dựng hoàn thiện và đổ betong thuận tiện cho sinh hoạt, nhu cầu đi lại của người dân. Những tuyến đường trên không chỉ giúp nối liền trực tiếp giữa các xã trong huyện và giữa Mỹ Hào với các huyện khác trong tỉnh. Trước đây, địa bàn Mỹ Hào còn có nhiều vùng lầy thụt, lau sậy mọc um tùm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chiến đấu và phòng ngự của ta, dễ dàng trong việc xây dựng lực lượng và tiến hành chiến tranh du kích, làm 33
  38. giảm sức cơ động của địch trong các cuộc càn quét, lấn chiếm. Điều kiện tự nhiên kết hợp với tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân Mỹ Hào đã được Nguyễn Thiện Thuật và các thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy khai thác, được phát huy ở trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Trong Cách mạng tháng Tám, vùng giáp ranh giữa các huyện Mỹ Hào, Văn Lâm, Yên Mỹ trở thành an toàn khu vững chắc, bảo đảm an toàn cho cán bộ, đảng viên của Trung ương Xứ ủy hoạt động chỉ đạo phong trào trong khu vực. Đây cũng là một khu căn cứ quan trọng, là địa bàn tập kết và xuất kích tấn công vào hậu cứ của địch trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Với vị trí chiến lược đó, Mỹ Hào luôn là địa bàn tranh chấp, giành giật giữa ta và địch, luôn là mục tiêu bình định điểm của thực dân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược [48]. 2.1.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội Mỹ Hào là một huyện nhỏ nằm ở phía Bắc của tỉnh Hưng Yên. Mỹ Hào giữ vai trò quan trọng trong mô hình kinh tế của toàn Tỉnh. Trong những năm gần đây, Mỹ Hào đã có những bước chuyển mình mới trong việc phát triển kinh tế, chú trong đầu tư cho giáo dục và văn hóa, cố gắng từng bước để trở thành một “thị xã công nghiệp”. Bên cạnh đó, các vấn đề an sinh xã hội, quốc phòng – an ninh trên địa bàn huyện luôn giữ ở mức ổn định. Tốc độ phát triển kinh tế hằng năm của huyện đạt mức khá, những vấn đề cốt lõi và nội bộ được chú trọng và phát huy. Về lĩnh vực văn hóa, huyện thực hiện tốt các nhiệm vụ mà cấp trên giao phó và đạt được nhiều thành tựu. Đời sống nhân dân từ đó được nâng lên, mức sống của nhân dân trên toàn huyện từ mức trung bình trở lên. Các vấn đề về tệ nạn xã hội được đẩy lùi, an toàn xã hội được giữ vững. Tính đến năm 2018, huyện Mỹ Hào đã đạt được những thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.  Tình hình phát triển kinh tế Những kết quả đạt được của toàn huyện Mỹ Hào trong lĩnh vực kinh tế tính đến năm 2018 đó là tổng giá trị sản xuất ước đạt 22.925 tỷ đồng, tăng 34
  39. 11,28% so với năm 2017. Trong đó, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 700 tỷ đồng, tăng 0,67%; giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 14.852 tỷ đồng, tăng 10,2%; giá trị thương mại, dịch vụ đạt 7.373 tỷ đồng, tăng 14,7%. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp - Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại, dịch vụ là: 3,1% - 64,7% - 32,2%. Giá trị hàng xuất khẩu ước đạt 108 triệu USD, tăng 19% so với năm 2017. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn theo chỉ tiêu kế hoạch tỉnh giao đạt 1.292 tỷ 184 triệu đồng, đạt 98% dự toán tỉnh giao, tăng 15% so với năm 2017; tổng chi ngân sách nhà nước đạt 701 tỷ 907 triệu đồng, tăng 43% so với dự toán tỉnh giao, tăng 15% so với năm 2017. Huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới năm 2017. Thứ nhất, tình hình sản xuất nông nghiệp: có nhiều thuận lợi, không có dịch bệnh xảy ra. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp ước đạt 700 tỷ đồng, tăng 0,67% so với năm 2017. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ giá giống với tổng khối lượng thóc giống 26.259kg, tương đương 470,6ha, kinh phí hỗ trợ 562,850 triệu đồng. Khuyến khích phát triển cây vụ đông, trồng cây rau màu. Tổ chức thành công Lễ phát động Tết trồng cây xuân Mậu Tuất và thực hiện tốt kế hoạch trồng cây nhân dân trong toàn huyện, đạt 100% kế hoạch; trồng được 17 tuyến đường cây, đường hoa tại 12 xã. Thứ hai, quá trình xây dựng nông thôn mới: Đến hết năm 2017, 12/12 xã đã được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 100%; huyện đạt 9/9 tiêu chí huyện nông thôn mới, đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Tập trung chỉ đạo 04 xã tổ chức Lễ đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới; chuẩn bị các điều kiện để tổ chức Lễ đón Bằng công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới năm 2017. Chỉ đạo, đôn đốc các xã tiếp tục rà soát, hoàn thiện và nâng cao chất lượng các tiêu chí theo Bộ tiêu chí Quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020. Thứ ba, công tác quản lý tài nguyên và môi trường: Tăng cường công tác bảo vệ môi trường; xóa bỏ các bãi rác tự phát, triển khai việc kê khai và thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp. Mô hình phân loại, 35
  40. xử lý rác hữu cơ tại hộ gia đình tiếp tục được triển khai thực hiện. Tham gia Hội đồng thẩm định tỉnh báo cáo đánh giá tác động môi trường, Đề án bảo vệ môi trường chi tiết của 09 dự án trên địa bàn huyện. Phối hợp và tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về công tác quản lý đất đai và bảo vệ môi trường trên địa bàn. Thứ tư, các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề: Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục tăng trưởng khá, quy mô sản xuất được mở rộng. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ước đạt 14.852 tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm 2017. Trên địa bàn huyện có 08 làng nghề được công nhận và một số nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển khá, thu hút hàng nghìn lao động, đem lại thu nhập ổn định cho người lao động nông thôn. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất; phối hợp triển khai chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ tại xã Hoà Phong đem lại năng suất, hiệu quả kinh tế cao. Thứ năm, thương mại, dịch vụ: Hàng hóa trên địa bàn huyện đa dạng, phong phú, giá cả cơ bản ổn định đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Tổng giá trị thương mại, dịch vụ ước đạt 7.373 tỷ đồng, tăng 14,7% so với năm 2017. Tiến hành kiểm tra, xử lý kết hợp công tác tuyên truyền, hướng dẫn kiến thức pháp luật, nâng cao nhận thức của các cơ sở, cá nhân tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn nhằm bình ổn giá thị trường, không để xảy ra tình trạng gây sốt giá. Hệ thống chợ trên địa bàn được duy trì hoạt động ổn định. Mạng lưới và dịch vụ Bưu chính viễn thông phát triển, hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, chất lượng được nâng lên, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thứ sáu,các công trình giao thông, xây dựng cơ bản: Hệ thống giao thông tiếp tục được đầu tư nâng cấp phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao tiêu chí đô thị Mỹ Hào. Trong năm 2018, đã triển khai thực hiện đầu tư, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ xây dựng 14 công trình giao thông; bàn giao đưa vào sử dụng công trình cải tạo, nâng cấp vỉa hè Quốc lộ 5A đoạn từ 36
  41. Km20+350-:-Km24+625, đường liên xã Hưng Long - Ngọc Lâm . Chuẩn bị đầu tư xây dựng: Đường trục trung tâm giai đoạn II; dự án cải tạo, chỉnh trang hệ thống thoát nước khu vực nội thị đô thị Mỹ Hào. Đang hoàn thiện hồ sơ để phê duyệt 04 dự án trong năm 2018. Cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, Hưng Yên được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh và cao. Nền kinh tế Hưng Yên đang đổi thay từng ngày. Cơ cấu kinh tế đang dần chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông nghiệp, nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ trọng giữa chăn nuôi và trồng trọt được cân đối. Người nông dân bước đầu quan tâm đến sản xuất hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực. Công nghiệp, dịch vụ có bước phát triển khá. Công nghiệp địa phương tuy còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ. Một số ngành hàng tiếp tục được củng cố phát triển, lựa chọn các mặt hàng ưu tiên và có lợi thế để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao. Khối công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh do số dự án đi vào hoạt động tăng lên, sản phẩm được thị trường chấp nhận và có xu thế phát triển tốt. Ngành du lịch và dịch vụ cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa, đáp ứng nhu cầu khai thác tiềm năng phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước.  Tình hình văn hóa - xã hội Thứ nhất, về giáo dục - đào tạo: Thực hiện có hiệu quả công tác quản lý các hoạt động giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục. Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được thực hiện theo kế hoạch, đến nay có 42/46 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt 91,3%; quan tâm xây dựng, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, cảnh quan cho các nhà trường. Thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp giáo dục phát triển. Thứ hai, về y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo hiểm: Chỉ đạo triển khai hiệu quả kế hoạch phòng, chống dịch bệnh; làm tốt công tác tuyên truyền, kiểm soát, giám sát phòng, chống dịch bệnh, không để xảy ra dịch 37
  42. bệnh lớn và nguy hiểm. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai đúng kế hoạch và hiệu quả; chất lượng khám bệnh, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được nâng lên. Công tác tiêm chủng mở rộng và phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em được quan tâm. Thứ ba, các hoạt động văn hóa - thông tin, thể dục thể thao: Tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin và truyền thông; phối hợp và tiến hành kiểm tra các hoạt động kinh doanh dịch vụ về văn hóa, thể thao, du lịch trên địa bàn.Tuyên truyền, tổ chức tốt các hoạt động thông tin cổ động trực quan, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, hội văn hóa truyền thống chào mừng các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị của đất nước và địa phương.Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được thực hiện với nhiều hình thức phong phú, gắn với xây dựng nông thôn mới; duy trì đều đặn sinh hoạt của các câu lạc bộ, đội văn nghệ quần chúng; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; thể dục thể thao quần chúng từng bước phát triển, có trên 30% dân số thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Trên đây là diễn biến tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa của huyện Mỹ Hào tính đến năm 2018 thông qua Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ Huyện Mỹ Hào thông qua ngày 24/12/2018. 2.1.2. Thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên 2.1.2.1. Điều kiện đạt danh hiệu làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào Thực hiện quy định tại Điều 5 theo thông tư số 12/2011/TT-BVHTTDL ngày 10/10/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận danh hiệu “Làng văn hóa”. Ngày 28/5/2014, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên đã thông qua quyết định số 01/HD-BCD về hướng dẫn cách chấm điểm xét duyệt và duy trì danh hiệu “làng văn hóa”; đồng thời, tiến hành thẩm định lại sau 3 năm một lần. Hướng dẫn được đưa xuống các huyện trên địa bàn tỉnh để triển khai thực hiện. Ở mỗi tiêu chí sẽ có những mức điểm khác nhau, tùy thuộc tiêu chí đó bao gồm 38
  43. những hạng mục nào và được quy định số điểm tương ứng để đánh giá hạng mục đó; tổng điểm tối đa cho tất cả các hạng mục đó là 100 điểm [phục lục 3]. Điều kiện xét và công nhận danh hiệu “Làng văn hóa” được đề cập, đó là: Thứ nhất là, công nhận lần đầu. a, Chỉ xét những làng, tổ dân phố có đăng ký thi đua. b, Làng, Tổ dân phố đạt danh hiệu “Làng văn hóa” phải đạt đủ các tiêu chuẩn quy định trong điều 5 theo thông tư số 12/2011/TT-BVHTTDL. c, Làng đạt danh hiệu “Làng văn hóa” phải đạt 90 điểm trở lên theo quyết định số 01/HD-BCD của tỉnh Hưng Yên về hướng dẫn cách chấm điểm và xét duyệt danh hiệu “làng văn hóa”. d, Thời gian xét công nhận danh hiệu “Làng văn hóa” phải từ 2 năm trở lên kể từ ngày đăng ký. e, Khi xét công nhận “Làng văn hóa” địa phương đạt đủ 90 điểm nhưng vi phạm một trong những tiêu chí chính dưới đây sẽ không được công nhận: - Tỷ lệ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa thấp hơn 80% so với tổng số hộ gia đình của làng, tổ dân phố hoặc tỷ lệ gia đình văn hóa không được duy trì, năm sau thấp hơn năm trước; - Có khiếu kiện đông người trái pháp luật; - Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên trong năm tăng so với năm trước; - Có trường hợp vi phạm, tàng trữ, lưu hành văn hóa phẩm cấm phổ biến, tổ chức đánh bạc và đánh bạc trái phép dưới mọi hình thức, hành nghề mê tín dị đoan được phát hiện hoặc bị xử lý; - Xảy ra trọng án hình sự; - Thu nhập bình quân đầu người dưới mức trung bình của huyện, thành phố; - Chưa xây dựng được nhà văn hóa (hoặc để nhà văn hóa xuống cấp mà không có biện pháp tu sửa); - Vệ sinh môi trường không đảm bảo, rác thải, nước thải và chất thải chăn nuôi chưa được thu gom, xử lý theo quy định. Thứ hai là, giữ vững danh hiệu “làng văn hóa” sau 3 năm. 39
  44. - Những Làng văn hóa đăng ký duy trì danh hiệu sau 3 năm mới xét và công nhận. - Làng văn hóa đạt từ 90 điểm trở lên theo quyết định số 01/HD-BCD của tỉnh Hưng Yên về hướng dẫn cách chấm điểm và xét duyệt danh hiệu “làng văn hóa” nếu không vi phạm một trong những tiêu chí chính. (quy định tại điểm e, khoản 2, mục II của Hướng dẫn 01/HD-BCĐ ngày 28/5/2014). - Làng văn hóa đạt từ 90 điểm trở lên theo quyết định số 01/HD-BCD của tỉnh Hưng Yên về hướng dẫn cách chấm điểm và xét duyệt danh hiệu “làng văn hóa” có những hạn chế nhỏ nhưng không thuộc các tiêu chí chính. (quy định tại điểm e, khoản 2, mục II của Hướng dẫn 01/HD-BCĐ ngày 28/5/2014). Trên đây là hướng dẫn về các điều kiện xét và công nhận danh hiệu “làng văn hóa” được Ủy ban nhân tỉnh Hưng Yên thông qua để cho chính quyền cấp cơ sở căn cứ vào đó mà định hướng được mục tiêu cần phải phấn đấu; đây là cơ sở tiền đề, cho mọi hoạt động xây dựng và duy trì làng văn hóa sau này trở nên bền vững. Làng quê sẽ mãi gìn giữ được những đẹp văn hóa, những giá trị truyền thống tốt đẹp để lưu truyền cho con cháu đời sau; cho thế hệ sau biết được cội nguồn của mình, dù có đi đến bất cứ phương trời nào cũng luôn nhớ về cội nguồn, quê hương “nơi chôn rau cắt rốn”. Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương liên quan đến việc xây dựng làng văn hóa được Tỉnh ủy triển khai thực hiện trong toàn Đảng bộ. 2.1.2.2. Tổ chức thực hiện duy trì xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào  Thực trạng duy trì xây dựng làng văn hóa Xây dựng làng văn hóa là một phong trào mang tính chất quần chúng rộng rãi. Trong quá trình phát động, Đảng và Nhà nước đưa ra những kế hoạch với nội dung, biện pháp triển khai cụ thể trên phạm vi cả nước. Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng chính quyền của huyện Mỹ Hào đã có những chủ trương, biện pháp sát thực tế phù hợp với điều kiện địa phương mình. Đã huy động mọi nguồn lực động viên sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các 40
  45. tầng lớp nhân dân tham gia vào phong trào xây dựng “làng văn hóa”; đồng thời, đạt được nhiều kết quả mang tính chủ động, sáng tạo, tác động tích cực vào nhiều mặt của xã hội. Trong những bước đầu, huyện đã phát huy tính dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội, mở rộng ở các làng, tới từng người dân; từ đó, góp phần củng cố hệ thống chính trị, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Ủy ban nhân dân huyện đã đề ra. Trong quá trình triển khai phong trào xây dựng làng văn hóa, đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động cán bộ Đảng viên và nhân dân thực hiện phong trào, tạo ra sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức lẫn hành động, đã tạo một bước quan trọng trong việc đẩy lùi những thói hư, tật xấu, hủ tục, lạc hậu góp phần hình thành nếp sống thói quen phong tục mới tốt đẹp ở các làng, trong phạm vi của huyện. Phong trào xây dựng làng văn hóa, phát triển cả về chất lượng và số lượng; các thiết chế và hoạt động văn hóa - thông tin thể dục thể thao được tăng cường. Các điển hình tiên tiến gương người tốt việc tốt xuất hiện ngày càng nhiều. Ta có thể nhận thấy rằng, phong trào xây dựng làng văn hóa được phát triển phù hợp với dân làng, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình, hưởng ứng. Từ đó, hướng tới mục đích chung là nâng cao đời sống văn hóa, bồi dưỡng giáo dục đời sống, xây dựng con người mới, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - trật tự an toàn xã hội. Mỹ Hào đã coi trọng công tác động viên phong trào tập thể, biểu dương khen thưởng đơn vị cá nhân có thành tích suất sắc trong việc chỉ đạo và nhân rộng những nhân tố điển hình, quan tâm đến điều kiện vật chất cần thiết cho phong trào xây dựng làng văn hóa để nâng cao đời sống văn hóa, giữ gìn nếp sống văn hóa ở các làng. Sự vào cuộc tích cực của các ban, ngành, đoàn thể, cấp ủy đảng, chính quyền các xã và Ban chỉ đạo các cấp đã chủ động nắm sát tình hình, đưa ra các giải pháp tích cực để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện phong trào. Mỹ Hào cũng tăng cường đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, xây dựng và duy trì danh hiệu gia đình, làng văn hóa. Công tác này được tổ chức thường xuyên, cứ 3 năm có một lần thẩm định lại danh hiệu làng văn hóa; công tác này được tổ chức thực 41
  46. hiện công khai, dân chủ. Thông qua những làng đã xây dựng thành công làng văn hóa; cùng với việc tổ chức duy trì, phát huy tốt danh hiệu làng văn hóa, phong trào đã được lan tỏa rộng khắp trên địa bàn huyện và nhận được những phản hồi tích cực từ phía quần chúng nhân dân. Xây dựng làng văn hóa nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của người dân, của các gia đình trong tổ chức sản xuất, sinh hoạt và hưởng thụ văn hóa, đáp ứng yêu cầu thiết thực của nhân dân, phù hợp với sự đổi mới về cơ chế tổ chức và quản lý kinh tế, chính trị, xã hội. Mặt khác, xây dựng làng văn hóa để mỗi người dân, gia đình, dòng họ có điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, bảo vệ, gìn giữ phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp, loại bỏ các hiện tượng mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, nghiện hút ma túy góp phần xây dựng đời sống mới phát triển lành mạnh và bền vững. Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Hào đã tổ chức thành công hội thảo cấp huyện về chuyên đề xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nhằm tìm ra các biện pháp tích cực, thiết thực để tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt các nội dung của làng văn hóa theo hướng dẫn của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên đề ra theo quyết định số 01/HD-BCD về hướng dẫn cách chấm điểm và xét duyệt danh hiệu “làng văn hóa” được thông qua ngày 28/05/2014. Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Hào cũng ban hành một số văn bản chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch để chỉ đạo, duy trì và phát triển phong trào xây dựng làng văn hóa. Qua 17 năm thực hiện Nghị quyết trung ương 8 khóa XII (2002), phong trào xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào có những bước phát triển mạnh mẽ trong nội dung, phương hướng và kết quả. Phong trào xây dựng làng văn hóa được tuyên truyền, vận động dưới nhiều hình thức, nhiều kênh thông tin gắn với tuyên truyền nội dung xây dựng, phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội, đảm bảo vệ sinh môi trường. Tỷ lệ làng văn hóa, gia đình văn hóa không ngừng tăng lên và gìn giữ được những nề nếp tốt đẹp truyền thống. Từ khi triển khai thực hiện phong trào, năm 1996 là năm đầu tiên Mỹ Hào xét công nhận danh hiệu làng văn hóa đã dựa trên 5 tiêu chí xét duyệt và chỉ có một làng duy nhất đạt đủ tiêu chuẩn được công nhận là làng văn hóa – đó là làng Lỗ Xá thuộc xã Nhân Hòa đã được công nhận. Qua nhiều năm cố 42
  47. gắng phấn đấu, những chủ trương của huyện được hoàn thiện và công tác tuyên truyền tới các làng – xã được mở rộng. Đến năm 1999, toàn huyện đã có 22/77 làng đạt danh hiệu làng văn hóa (đạt 28.6%); đến năm 2008 có 63/77 làng đạt danh hiệu làng văn hóa (đạt 81,8%); đến năm 2010 đạt 70/77 làng đạt danh hiệu làng văn hóa (đạt 90,9%); năm 2000 có 13,898 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa (đạt 65,7% số hộ toàn huyện); đến năm 2008 có 17,091 hộ đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt 80,5%. Năm 2001, có 1/13 xã (xã Nhân Hòa ) với 100% số làng được công nhận danh hiêu làng văn hóa; đến tháng 12/2008 có 7/13 xã (Nhân Hòa, Dị Sử, Phùng Chí Kiên, Xuân Dục, Minh Đức, Ngọc Lâm, Hòa Phong) có 100% số làng được công nhận làng văn hóa; năm 2015 có 13/13 xã với 100% số làng được công nhận danh hiệu làng văn hóa [xem phụ lục 2]. Giai đoạn 1996 - 2015, sau 19 năm xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào đã đạt được nhiều kết quả. Công tác xây dựng làng văn hoá vẫn được các cấp uỷ Đảng, Chính quyền đoàn thể quan tâm tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện hiệu quả. Tính đến năm 2015 có 77/77 làng được công nhận danh hiệu làng văn hoá lần đầu, đạt 100% số làng trong huyện. Từ khi phát động phong trào xây dựng làng văn hóa cấp cơ sở đến nay, với sự chỉ đạo của các ban ngành và sự đoàn kết, chung tay xây dựng môi trường làng văn hóa; Mỹ Hào đã đạt được những kết quả to lớn về nhiều mặt như tư tưởng chính trị, cách thức tổ chức quản lý và vận hành. Điều này đã khẳng định, Mỹ Hào đã thực hiện thắng lợi cuộc vân động xây dựng làng văn hóa, có ý nghĩa không nhỏ đối với sự nghiệp xây dựng nên văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Thực hiện chủ trương rà soát và công nhận làng văn hóa sau 3 năm của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, huyện đã phối hợp với ban chỉ đạo tỉnh tổ chức kiểm tra, đánh giá những mặt được, chưa được trong việc duy trì làng văn hóa, từ đó có biện pháp nâng cao chất lượng phong trào. Các làng đã được công nhận là làng văn hóa sẽ đc kiểm tra sau 3 năm (theo quy định năm 2008) của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên. Trong giai đoạn từ 2015 đến nay, Mỹ Hào đã tiến hành rà soát, kiểm tra, đánh giá và thẩm định lại những làng 43
  48. đã được công nhận làng văn hóa lần đầu và để tiếp tục xét công nhận làng văn hóa cho làng đó vào nhiệm kỳ 3 năm tiếp theo, công tác này đã đạt được những kết quả cụ thể như sau: Công tác xây dựng làng văn hoá được các cấp uỷ Đảng, Chính quyền đoàn thể quan tâm tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện hiệu quả. Công tác đăng ký, thẩm định, phúc tra, công nhận và công nhận lại danh hiệu các Làng văn hoá đảm bảo đúng quy định; Làng văn hoá sau 3 năm liên tục phát huy tốt danh hiệu. Năm 2015, tỉ lệ làng văn hóa tăng dần theo từng năm, đến nay có 77/77 làng văn hóa đạt tỷ lệ 100% tổng số làng của toàn huyện. Kỳ hạn 2012-2015 có 27 làng đăng ký, trong đó có 25 làng được công nhận lại; 02 làng do vi phạm một số tiêu chí, không đủ điều kiện công nhận [44]. Năm 2016, trong kỳ hạn 2013-2016 có 19 làng đăng ký, trong đó có 18 làng được công nhận lại; 01 làng do vi phạm một số tiêu chí, không đủ điều kiện công nhận [45]. Năm 2017, trong kỳ hạn 2014-2017 có 31 làng đăng ký, trong đó có 30 làng được công nhận lại; 01 làng đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhận lại [46]. Thực hiện Thông tư số 12/2011/TT-BVHTTDL ngày 28/5/2011 của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch; kết hợp với hướng dẫn số 01/HD-BCĐ ngày 28/5/2014 của Ban chỉ đạo Tỉnh - hướng dẫn phương pháp chấm điểm và xét duyệt danh hiệu “làng văn hóa”. Ban Chỉ đạo phong trào “xây dựng làng văn hoá” trên địa bàn huyện, xã đã xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ và tổ chức thực hiện sát với thực tế phong trào, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tiến độ, thời gian theo kế hoạch đề ra. Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Hào giao Ban chỉ đạo phong trào “xây dựng làng văn hoá” huyện, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện tổ chức rà soát, hướng dẫn đăng ký và tổ chức thẩm định, phúc tra kết quả phấn đấu theo đăng ký đối với các Làng văn hoá theo kỳ hạn (2015-2018) đảm bảo đúng quy định và trình Uỷ ban nhân dân huyện công nhận. Năm 2018, sau khi thực hiện chủ trương của Ủy ban nhân dân huyện, Mỹ Hào đã đạt được những kết quả cụ thể, là: toàn huyện có 27 làng được 44
  49. Ban chỉ đạo huyện thẩm định theo kỳ hạn (2015-2018); trong đó, 26 làng duy trì thực hiện tốt tiêu chuẩn đủ điều kiện công nhận lại, 01 làng (làng Phú Đa, Thị trấn Bần) có vụ trọng án hình sự vi phạm tại điểm e, khoản 2, mục II của Hướng dẫn 01/HD-BCĐ ngày 28/5/2014 của Ban Chỉ đạo phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" tỉnh Hưng Yên quy định những "Làng văn hóa", "Tổ dân phố văn hóa" của các địa phương đạt đủ 90 điểm nhưng vi phạm một trong những tiêu chí được quy định tại điểm này sẽ không đủ điều kiện được công nhận lại [47]. Trên đây là những kết quả của cả quá trình thực hiện phong trào; đồng thời, thông qua phong trào xây dựng làng văn hóa trên địa bàn huyện mà các gia đình trong huyện đã xây dựng được lối sống lành mạnh, cần kiệm, tôn trọng pháp luật, kỷ cương xã hội và quy ước của cộng đồng, 100% các làng trong xã đã xây dựng được quy ước làng và duy trì tốt việc tổ chức học tập làm theo quy ước qua tuyên truyền; điều này đã có tác động tích cực tới giáo dục truyền thống, giáo dục đạo đức, các phong tục tập quán tốt và ý thức chấp hành pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc được nâng lên, xây dựng lối sống lành mạnh, trong sáng, khơi dậy truyền thống nhân ái trong cộng đồng. Bên cạnh đó, các hiện tượng mê tín, dị đoan từng bước được loại bỏ.  Những khó khăn và thách thức Trong những năm qua, cùng với sự nỗ lực không ngừng của mỗi gia đình, cá nhân trong làng để có thể xây dựng thành công làng văn hóa cấp huyện, toàn huyện có 77/77 xã được công nhận danh hiệu làng văn hóa. Bên cạnh những thuận lợi góp phần vào thành quả này, thì vẫn còn nhiều điểm hạn chế cần phải khắc phục và đẩy lùi, đó là: Thứ nhất, một số nơi còn chưa coi trọng chất lượng, một số làng văn hóa sau khi được công nhận, chưa tiếp tục có biện pháp củng cố, phát triển phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội chung của huyện, ở một số nơi còn có biểu hiện hình thức. Thứ hai, trong việc cưới, việc tang và lễ hội có lúc, có nơi thực hiện chưa nghiêm, tình trạng ăn uống, mời khách tràn lan, phô trương trong việc 45
  50. cưới vẫn còn, một số cán bộ, công chức, viên chức, gia đình văn hóa thiếu gương mẫu, chưa tự giác thực hiện. Nghĩa trang nhân dân ở một số nơi chậm được quy hoạch theo quy định. Thứ ba, các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, hành vi bạo lực, thiếu tôn trọng luật lệ giao thông, mất vệ sinh, mất trật tự công cộng vẫn còn xảy ra; Thứ tư, hoạt động văn hoá, văn nghệ của nhân dân ở một số nơi còn nghèo nàn về nội dung, kém hấp dẫn về hình thức; cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao chưa được đầu tư thích hợp. Thứ năm, một số thành viên trong Ban chỉ đạo huyện, xã, thị trấn và Ban vận động các làng văn hoá chưa thật sự quan tâm đến phong trào, chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của thành viên được phân công. Thứ sáu, ban chỉ đạo ở một số cơ sở chưa có kế hoạch kiểm tra, chưa duy trì kịp thời đánh giá kết quả thực hiện, hoặc còn hình thức trong sơ tổng kết, vì vậy chưa xác định bài học kinh nghiệm, phương hướng, giải pháp củng cố, xây dựng và phát triển phong trào phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương trong từng thời điểm. Thứ bảy, cán bộ thành viên thuộc Ban chỉ đạo cấp cơ sở năng lực còn yếu, chưa được đào tạo chuẩn hóa cán bộ, vì vậy lúng túng trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thứ tám, cơ sở vật chất, trang thiết bị dành cho các hoạt động Văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao chưa được sự quan tâm đầu tư thích đáng, nên việc tổ chức triển khai các hoạt động của phong trào gặp nhiều khó khăn. Thứ chín, việc biểu dương gương người tốt, việc tốt đối với từng phong trào còn chưa thường xuyên, có lúc còn coi nhẹ, một số ban, ngành chưa thực sự vào cuộc tích cực và thường xuyên. Trên đây là một số hạn chế mà trong quá trình thực hiện phong trào xây dựng làng văn hóa các làng thuộc địa bàn huyện vẫn còn mắc phải. Cần chỉ ra các phương hướng và giải pháp để nhanh chóng khắc phục những khó khăn này. 2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên hiện nay 46
  51. 2.2.1. Phƣơng hƣớng và nhiệm vụ xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên hiện nay Từ những kết quả sau 4 năm (2015-2018) rà soát thực hiện xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào, trong thời gian tới huyện phải cố gắng phát huy, tạo ra sức mạnh tổng hợp để đưa phong trào xây dựng làng văn hóa ở cấp cơ sở đạt hiệu quả tốt hơn. Với những phương hướng và nhiệm vụ cho sự nghiệp xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào như sau: Thứ nhất, xây dựng đời sống kinh tế phát triển ổn định; kết hợp vận động quần chúng nhân dân trong làng chung tay xây dựng môi trường văn hoá sạch - đẹp - an toàn. Trong quá trình triển khai phong trào, các địa phương đặc biệt quan tâm đến phát triển đời sống kinh tế gia đình; bằng các hình thức hỗ trợ vốn vay, hỗ trợ giống, chuyển giao khoa học kỹ thuật công nghệ, đào tạo nghề, đã tạo điều kiện thuận lợi để người dân phát triển kinh tế. Ngoài ra, thông qua các tổ chức đoàn thể như: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên đứng ra tín chấp giúp hội viên, đoàn viên thực hiện xóa đói giảm nghèo có hiệu quả. Mỹ Hào đã hỗ trợ giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hộ nghèo, cải thiện đời sống nhân dân. Tỷ lệ hộ giầu, hộ khá tăng đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt đến nay tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,89% [46], diện mạo các khu dân cư ngày càng đổi mới, đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt cả về vật chất, lẫn tinh thần. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường. Tập trung kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh được xác nhận Bản cam kết và Đề án bảo vệ môi trường trên địa bàn để chủ động ngăn ngừa, xử lý những vi phạm. Tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch thu gom rác thải tồn đọng trên địa bàn; xây dựng kế hoạch di dời một số bãi tập kết rác tại các xã, thị trấn; nhân rộng mô hình phân loại, xử lý rác hữu cơ tại nguồn quy mô hộ gia đình, đảm bảo đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Phối hợp đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án lắp đặt lò đốt chất thải sinh hoạt tại một số xã. 47
  52. Thứ hai, đẩy mạnh công tác quản lý, xây dựng và tổ chức các hoạt động văn hóa cho nhân dân, chú trọng việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Xây dựng làng văn hóa là một cuộc vận động lâu dài và sâu sắc trên quy mô lớn; vì vậy đòi hỏi phải xây dựng và tổ chức các hoạt động văn hóa phù hợp cho nhân dân. Trong quá trình thực hiện phải chú trọng phát huy các giá trị truyền thống vốn có của làng; đồng thời cũng gìn giữ, bảo tồn những giá trị truyền thống đó. Với mỗi cá nhân trong cộng đồng làng phải góp công, góp sức, đóng góp cả trí tuệ, nguồn lực, vào sự nghiệp xây dựng làng văn hóa. Hiện nay, các hoạt động sinh hoạt văn hóa, văn nghệ mới chỉ dừng lại ở các hội diễn của làng - xã, huyện chưa hình thành được nếp sinh hoạt cộng đồng; cần phát huy phong trào văn nghệ quần chúng; nhất là văn nghệ truyền thống dân tộc. Xây dựng các phòng đọc sách, báo để người dân hình thành văn hóa đọc, tìm hiệu ngọn nguồn về văn hóa, tiếp nhận tri thức được dễ dàng và nhanh chóng hơn. Ban chỉ đạo xây dựng làng văn hóa bao gồm nhiều thành viên, cần phân công công việc và trách nhiệm cụ thể cho các thành viên, từ đó nâng cao được hiệu quả công việc. Tận dụng nguồn hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn kinh phí xã hội hoá từ nhân dân đóng góp để xây dựng hệ thống thiết chế văn hoá, thể thao từ huyện đến cơ sở đạt hiệu quả, hình thành các điểm hội họp, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ sở thích của nhân dân. Từng bước nâng cao, xây dựng, tôn tạo các phòng chức năng, thư viện huyện, sân vận động, khu luyện tập thể thao, khu vui chơi đảm bảo đúng tiêu chuẩn nhà văn hóa cấp; khu Trung tâm Văn hóa Thể thao và du lịch của huyện duy trì hoạt động tốt, đảm bảo phục vụ hiệu quả các sự kiện chính trị của huyện và nhu cầu về văn hóa, tinh thần của nhân dân. Thứ ba là, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng làng văn hóa. Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra nhắc nhở, chấp hành nghiêm chỉnh quy định của nhà nước về những tiêu chí và nội dung trong mục tiêu xây dựng làng văn hóa. Tổ chức tập huấn và phổ biến các văn bản quy định 48
  53. nhà nước về công tác tư tưởng, lý luận về chỉ đạo kịp thời công tác hoạt động trong phong trào xây dựng làng văn hóa. Hàng năm ban chỉ đạo huyện ban hành kế hoạch xây dựng làng văn hóa và đưa ra định hướng triển khai, hướng dẫn cụ thể ban chỉ đạo phong trào cho cấp cơ sở nắm rõ và thực hiện có hiệu quả phong trào. Các đơn vị căn cứ vào kế hoạch và phong trào văn hóa và công nhận lại danh hiệu sau 3 năm. Tuyên truyền sâu rộng hơn nữa tới mọi người dân và các hộ gia đình về văn bản quy định của Nhà nước, để họ có những định hướng phù hợp trong việc thực hiện phong trào xây dựng làng văn hóa. Tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ quản lý và phổ biến các văn bản quản lý văn hóa, dịch vụ văn hóa nếp sống văn hóa cho cán bộ cơ sở để có được sự thống nhất, nâng cao trình độ năng lực hoạt động cho đội ngũ cán bộ làm công tác chỉ đạo triển khai thực hiện phong trào phối hợp, kiểm tra đánh giá, thống nhất quy hoạch điểm cụm thông tin truyền thông phục vụ chính trị trên địa bàn huyện. Tăng mức đầu tư ngân sách Nhà nước cho hoạt động của ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” huyện và phong trào các phường xã, tương ứng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu cầu của làng văn hóa. Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, những cơ sở vật chất trang thiết bị từ huyện tới cơ sở, đảm bảo điều kiện cho hoạt động, đáp ứng yêu cầu của địa phương, đơn vị. Thứ tư là, thực hiện phong trào học tập, lao động, sáng tạo Các ngành đoàn thể trong Ban chỉ đạo huyện tích cực phối hợp tổ chức tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ mới cho đoàn viên, hội viên, nhân dân để nâng cao trình độ dân trí. Đẩy mạnh phong trào, triển khai rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện cho mọi người được học tập, sáng tạo trong lao động sản xuất, tập trung đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ phục vụ đời sống và sản xuất. Trong thời gian qua, nhân dân đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp với nhiều mô hình và đạt được hiệu quả cao; các phong trào thi đua “Lao 49
  54. động giỏi, lao động sáng tạo”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Xây dựng người cán bộ công chức, viên chức trung thành - sáng tạo - tận tụy - gương mẫu” trong công nhân, viên chức lao động; phong trào “sáng tạo trẻ” của đoàn viên thanh niên, phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” của các cấp Hội phụ nữ tiếp tục được đẩy mạnh và duy trì hoạt động tốt. Đây là một phần không thể thiếu trong phong trào xây dựng làng văn hóa, giúp nhân dân nâng cao được tri thức và hình thành nên nét đẹp văn hóa. Khi nhận thức được nâng cao, con người ta sẽ bài trừ, đẩy lùi và không bị sa vào những thói xấu; hình thành những đức tính tốt, nhận thức được tầm quan trọng trong việc gìn giữ những gía trị truyền thống của dân tộc, cố gắng vun đắp cũng như xây dựng nó ngày càng lớn mạnh hơn. 2.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên hiện nay Nhằm thực hiện và đạt những chỉ tiêu mang tính định hướng cao đối với sự phát triển của cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào trong thời gian qua; cần phải nghiên cứu kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn, nhằm vận dụng sáng tạo, đúng với quy luật vận động chung hiện nay của xã hội. Xây dựng làng văn hóa không chỉ là nhiệm vụ của Đảng, của Nhà nước mà nó là nhiệm vụ của toàn dân, của mỗi cá nhân trong công đồng phải có trách nhiệm, ý thức được nhiệm vụ của bản thân, không thể vì một cá nhân mà ảnh hưởng xấu đến kết quả của cả một tập thể. Do vậy, trong thời gian tới cần quan tâm giải quyết một số nội dung cơ bản nhằm tiếp tục phát triển phong trào xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào. Sau đây là một số giải pháp đưa ra nhằm làm nâng cao hiệu quả của phong trào: Một là, tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho người dân nông thôn. Tập trung thực hiện tốt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với phát triển ngành nghề nông thôn; xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, giá trị gia tăng và hiệu quả; ưu tiên đầu 50
  55. tư áp dụng công nghệ bảo quản sau thu hoạch và chế biến sản phẩm nhằm tăng giá trị sản xuất; thu hút đầu tư vào các lĩnh vực chế biến nông sản, đổi mới công nghệ, thiết bị, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong chế biến. Tiếp tục thực hiện dồn thửa đổi ruộng đất nông nghiệp; khuyến khích tích tụ ruộng đất tạo cánh đồng mẫu lớn, thực hiện cơ giới hóa trong lĩnh vực nông nghiệp; tiếp tục chuyển đổi trồng lúa hiệu quả thấp sang trồng cây hàng năm, kết hợp chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch, kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nghiêm cấm làm nhà trên đất chuyển đổi; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, liên kết chặt chẽ với nông dân, xây dựng chuỗi giá trị hàng hóa; phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản. Đẩy mạnh chuyển đổi sang mô hình hợp tác xã kiểu mới; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền để giúp các Hợp tác xã tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho các hợp tác xã tổ chức hoạt động có hiệu quả; hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã nông nghiệp dễ dàng tiếp cận về tín dụng, đào tạo, đất đai, thị trường. Tăng cường xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý và quản lý chất lượng sản phẩm nâng cao giá trị gia tăng; tiếp tục hỗ trợ đầu tư, xây dựng nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm nông sản có lợi thế của tỉnh; phát triển những thương hiệu, chỉ dẫn địa lý đã được cấp chứng nhận; thực hiện tốt công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm nông sản; khuyến khích nhân rộng mô hình kiểm soát, quản lý chất lượng nông sản theo chuỗi, áp dụng theo các tiêu chuẩn VietGAP, ISO, HACCP, đầu tư xây dựng các mô hình mẫu về phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn. Xây dựng và phát triển Mỹ Hào, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, xây dựng cơ bản. Tiếp tục tuyên truyền và chỉ đạo triển khai thực hiện Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc, trật tự đô thị. Thực hiện tốt việc cấp giấy phép xây dựng và quản lý quy hoạch xây dựng 51