Khóa luận Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ

pdf 66 trang thiennha21 16/04/2022 3181
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghe_thuat_the_hien_phong_canh_lang_que_trong_tho.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== DƢƠNG THỊ KIM CHI NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội, 2018
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== DƢƠNG THỊ KIM CHI NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. AN THỊ THÚY Hà Nội, 2018
  3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS. An Thị Thúy đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ, chỉ dạy, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành việc nghiên cứu đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn, nhờ sự nhiệt tình chỉ dẫn của các thầy cô, tôi đã học tập và khắc phục được những thiếu sót trong khóa luận. Xin cảm ơn sự hỗ trợ quý báu về mặt tinh thần của gia đình và sự giúp đỡ của bạn bè đã chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian vừa qua. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018 Sinh viên Dƣơng Thị Kim Chi
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài: Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ và toàn bộ nội dung khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên hướng dẫn. Các tài liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực, không trùng lặp đề tài và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình. Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018 Sinh viên Dƣơng Thị Kim Chi
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 5. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Cấu trúc khóa luận 4 NỘI DUNG 5 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 5 1.1. Tác giả Đặng Huy Trứ 5 1.1.1. Thời đại 5 1.1.2. Cuộc đời và con người 7 1.2. Sự nghiệp sáng tác 12 1.3. Thống kê, phân loại thơ viết về làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ 15 1.3.1. Thơ viết về thiên nhiên làng quê 15 1.3.2. Thơ viết về cuộc sống sinh hoạt làng quê 15 1.3.3. Nhận xét rút ra từ số liệu thống kê 16 Chƣơng 2: BÚT PHÁP THỂ HIỆN PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ 17 2.1. Bút pháp ước lệ 17 2.2. Bút pháp tả thực 20 2.2.1. Bút pháp tả thực qua miêu tả thiên nhiên làng quê 20 2.2.2. Bút pháp tả thực qua miêu tả cuộc sống sinh hoạt làng quê 25 Chƣơng 3: HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT VÀ NGÔN NGỮ MIÊU TẢ PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ 42 3.1. Hình tượng nghệ thuật 42 3.1.1. Hình tượng thiên nhiên 42
  6. 3.1.2. Hình tượng con người 46 3.2 Ngôn ngữ 52 KẾT LUẬN 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đặng Huy Trứ (1825-1874) là nhà văn hóa, nhà thơ lớn giữ vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam thế kỉ XIX. Đặng Huy Trứ là một trí thức Nho học, ông sống và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, các sáng tác của ông chủ yếu là bằng chữ Hán. Về sự nghiệp văn học, Đặng Huy Trứ bắt đầu sáng tác văn chương từ khi còn rất trẻ và để lại một số lượng tác phẩm đáng kể. Theo như nhóm Trà Lĩnh đã thống kê bước đầu thì ông đã để lại 12 tập thơ với hơn 1.200 bài, 4 tập văn bao gồm nhiều thể loại, 1 tập hồi kí và một số loại sách khác. Thơ văn Đặng Huy Trứ phản ánh chân thực xã hội Việt Nam thế kỉ XIX, đặc biệt là đã khắc họa nhiều khía cạnh của làng quê Việt Nam. Làng quê là một đề tài quen thuộc và gắn bó với nhiều tác giả và Đặng Huy Trứ cũng không ngoại lệ. Trong số lượng thơ Đặng Huy Trứ để lại, những bài thơ về đề tài làng quê chiếm số lượng không nhỏ. Viết về làng quê, Đặng Huy Trứ đã phản ánh mọi mặt đời sống nơi làng quê. Các ngành nghề, phong tục tập quán, con người đều được nhắc đến. Từ người vú nuôi trẻ đến nhà nho nghèo bán chữ, từ người phụ nữ chăn tằm đến người thợ cày, từ việc ma chay cúng giỗ đến trồng cây nêu ngày tết, đều được thể hiện. Có thể nói làng quê là nguồn cảm hứng vô tận đối với ông. Và chính những yếu tố đó đã khiến ông trở thành một nhà thơ hiện thực về làng quê trước cả Nguyễn Khuyến – người được mệnh danh là nhà thơ của quê hương, làng cảnh Việt Nam. Tuy vậy, đến nay Đặng Huy Trứ và các tác phẩm của ông vẫn còn ít được biết đến. Trên đây là những lí do khích lệ tác giả khóa luận lựa chọn đề tài Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ (khảo sát qua tập Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm). Qua đó, giúp chúng ta có cái nhìn 1
  8. đầy đủ hơn về con người và sự nghiệp của Đặng Huy Trứ đồng thời khẳng định vị trí, vai trò, đóng góp của tác giả với nền văn học dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề Đặng Huy Trứ là nhà thơ còn được ít người biết đến, các tác phẩm của ông chỉ đến gần bạn đọc hơn sau khi được nhóm Trà Lĩnh sưu tầm và công bố nên đến giờ vẫn còn khá ít các công trình nghiên cứu về ông. Mới chỉ có một số ít công trình nghiên cứu và giới thiệu về Đặng Huy Trứ như: Nhóm Trà Lĩnh, Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm. Đây là nhóm đã có công đầu tiên nghiên cứu, sưu tầm, tổng hợp và giới thiệu về cuộc đời cũng như các tác phẩm của Đặng Huy Trứ. Võ Thị Quỳnh, Đặng Huy Trứ và Trăng. Trong bài báo này tác giả đề cập đến trăng trong thơ Đặng Huy Trứ và cũng khẳng định tình cảm của Đặng Huy Trứ với vầng trăng “rất yêu. Yêu rất nhiều” Theo Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Huy Trứ - tác gia lớn của thế kỷ 19 viết: “Ngay từ những bài thơ đầu tay buổi thiếu thời, ông đã hướng sự quan tâm về các đề tài gần gũi đời sống hiện thực như Kiến lão ông đài than (Thấy ông lão vác than), Quý du tử hữu tiên mạ nô tì giả (Con nhà giàu có kẻ đánh mắng kẻ ăn, người ở) Theo suốt chặng đường sáng tác, thế giới hiện thực được diễn tả trong thơ ông chính là cuộc sống thường ngày diễn ra chung quanh mà ông từng trải nghiệm, chứng kiến” [10, tr4] Biện Minh Điền, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2008). Theo đó tác giả đánh giá thơ Đặng Huy Trứ ngồn ngộn các chi tiết của hiện thực đời sống nông thôn: đàn lợn béo, phân chất cao như thành, hạt cải rơi vào là nở mầm nhanh, Tác giả cũng khẳng định Đặng Huy Trứ là nhà thơ viết nhiều và sâu sắc nhất về nông thôn trước cả Nguyễn Khuyến nhưng còn rất ít người biết đến và xa lạ với hậu thế. 2
  9. Mai Thị Hiền, Nông thôn trong thơ Đặng Huy Trứ. Bài nghiên cứu này đã đi tìm hiểu, khảo sát thơ về đề tài nông thôn trong thơ Đặng Huy Trứ và đưa ra đánh giá “Có thể thấy trước Nguyễn Khuyến, Đặng Huy Trứ là nhà thơ viết nhiều và thể hiện đậm nét nhất về nông thôn Việt Nam với hàng trăm bài thơ có giá trị. Mỗi bài thơ là bức tranh chân thực sinh hoạt, ở đó con người, phong tục tập quán, không khí đều được khắc họa tài hoa nông thôn trong thơ Đặng Huy Trứ ta như cảm nhận được đó chính là con người lao động của chính nơi mình đang sống, đồng cảm với họ. Với những thói quen sinh hoạt với phong tục tập quán đã dành vị trí lớn trong trang thơ của Đặng Huy Trứ” [7, tr87] Có thể thấy, hầu hết các công trình, tư liệu nghiên cứu, giới thiệu về Đặng Huy Trứ và các tác phẩm của ông chỉ mang tính chất gợi mở, chưa đầy đủ, và việc tìm hiểu nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ chưa được bàn đến một cách tập trung. Trên cơ sở kế thừa ý kiến của những người đi trước, chúng tôi lựa chọn đề tài Nghệ thuật thể hiện làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ là đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu khóa luận này người viết nhằm vào mục đích chính là thấy được nghệ thuật của Đặng Huy Trứ khi miêu tả về thiên nhiên và cuộc sống con người làng quê qua thơ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định khóa luận tập trung tìm hiểu những bài thơ viết về làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ. Văn bản thơ chúng tôi dựa vào để khảo sát là tuyển tập Đặng Huy Trứ, con người và tác phẩm (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1990) do nhóm Trà Lĩnh sưu tầm và tổng hợp. 3
  10. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu theo các phạm vi sau: - Thứ nhất là bút pháp thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ - Thứ hai là hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ miêu tả phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau: - Phương pháp thống kê phân loại. - Phương pháp phân tích bình giảng. - Phương pháp so sánh. Trong quá trình triển khai luận văn, người viết không tuyệt đối hóa phương pháp nào, lúc cần thiết có thể sử dụng tổng hợp cả ba phương pháp trên. 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận gồm 3 chương: Chƣơng 1: Những vấn đề chung Chƣơng 2: Bút pháp thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ Chƣơng 3: Hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ miêu tả phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ 4
  11. NỘI DUNG Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tác giả Đặng Huy Trứ 1.1.1. Thời đại Đặng Huy Trứ sống ở một trong những giai đoạn rối ren bi thảm nhất của lịch sử dân tộc. Năm 1958, tàu chiến Pháp đến bắn phá bán đảo Sơn Trà, mở màn cho cuộc xâm lược Việt Nam. Lúc này Đặng Huy Trứ được cử đi quản thứ, và từ đó ông chính thức ra làm quan. Đứng trước mối nguy hiểm đe dọa nền độc lập của dân tộc, triều đình nhà Nguyễn, đứng đầu là Tự Đức không những không lãnh đạo nhân dân đứng lên bảo vệ đất nước mà lại sợ sệt yếu hèn trước quân thù. Kéo theo đó là hàng loạt các sự kiện đánh dấu nước ta dần dần rơi hoàn toàn vào tay giặc Pháp xâm lược. Năm 1859 Pháp chiếm Gia Định. Năm 1860 Pháp dồn toàn lực vào cuộc chiến với Trung Hoa, nhà Nguyễn không tận dụng được cơ hội giải phóng Gia Định mà án binh bất động. 1861, Pháp chiếm Định Tường nhà Nguyễn chủ trương nghị hòa. Cuối năm 1861 đầu năm 1862 Pháp đánh Biên Hòa, Bà Rịa, Vĩnh Long, quan quân nhà Nguyễn tháo chạy. Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862) được kí, theo đó, nhà Nguyễn nhượng 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) và đảo Côn Lôn cho Pháp, cùng với những nhượng bộ rất nặng nề khác: mở cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho tư bản Pháp tự do buôn bán, bồi thường cho Pháp 4 triệu france. Năm 1867, chỉ trong vòng vài ngày, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào. Sau đó Pháp xúc tiến công cuộc đánh chiếm ra Bắc Kì. 5
  12. Năm 1873 Pháp đánh ra Bắc Kì lần I. Nhà Nguyễn không có phản ứng nên Pháp nhân cơ hội chiếm luôn các tỉnh lân cận như Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình. Quân và dân địa phương anh dũng chiến đấu nhưng lại không nhận được sự ủng hộ của triều đình trái lại còn ra lệnh bắt họ rút lui. Năm 1874 Triều đình Huế kí hiệp ước Giáp Tuất chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì thuộc Pháp. Năm 1883 Nhân lúc triều đình Nguyễn lục đục, chia rẽ, vua Tự Đức chết Pháp kéo quân vào cửa biển Thuận An uy hiếp, buộc triều đình ký hiệp ước Hác-măng (25-8-1883) thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kì. Đến năm 1884 Pháp tiếp tục ép triều đình Huế phải ký hiệp ước Pa- tơ-nốt (6-6-1884) đặt cơ sở lâu dài và chủ yếu cho quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam. Như vậy, sau ba mươi năm Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào tay giặc. Trước cảnh nước mất nhà tan, trái ngược với sự yếu hèn nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn, Đặng Huy Trứ là một trong số ít quan lại thời đó đứng về phe chủ chiến, kiên quyết không đầu hàng giặc. Nhưng một cánh chim không thể làm nên mùa xuân, ý chí mạnh mẽ của Đặng Huy Trứ không thể cứu vãn đất nước khỏi thảm cảnh. Bờ cõi tổ quốc dần rơi vào nạn xâm lăng. Đặng Huy Trứ là người sống gắn bó, gần gũi với nhân dân, hơn ai hết, ông thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ của nhân dân vốn đã phải vật lộn với cuộc sống mưu sinh, ấy vậy mà nay còn phải gánh thêm nỗi đau đất nước, khổ càng khổ hơn khi bị bóc lột thêm nhiều lần. Bởi lẽ đó, thơ văn Đặng Huy Trứ như càng dày thêm niềm thương xót cho nhân dân, luôn trăn trở vì nước, vì dân: “Như kim Đà Nẵng nhất Dương di, Hạp cảnh binh dân bôn mệnh bì. Cửu nguyệt tam thu hàn lạo hậu, Thiên môn vạn hộ khiết khuy kỳ. Tây chinh sĩ khí phong sương khổ, Nam cổ thần trung tiêu cán ti (tư) 6
  13. Nhục thực ngã như mưu vị quốc, Chiến, hòa, dữ, thủ thục cơ nghi?” (Vãng Đà Nẵng quân thứ tức sự) (Một vùng Đà Nẵng rợ Tây dương, Giữ nước, quân dân mệt lạ thường. Cuối tiết tàn thu cơn lũ lụt, Muôn nhà thiếu bữa cảnh thê lương. Diệt thù, sương gió thương quân sĩ, Lo nước, đêm ngày bận đế vương. Ăn lộc, ví cùng lo việc nước, Tính sao? Hòa, chiến, giữ hay nhường?) (Đi quân thứ Đà Nẵng, ghi lại) 1.1.2. Cuộc đời và con người 1.1.2.1. Cuộc đời Đặng Huy Trứ, tự Hoàng Trung, hiệu Vọng Tân, Tỉnh Trai, tục gọi là bố Trứ - bố Đặng (do ông từng làm bố Chính), pháp danh Đức Hải (thuở thiếu thời ông từng quy y tại chùa Từ Hiếu) sinh ngày 16-5-1825 ở làng Thanh Lương, nay thuộc xã Hương Xuân, huyện Hương Điền tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông mất năm Giáp Tuất (1874) tại xã Cao Lăng, Chợ Bến, Đồn Vang thuộc tổng Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Sau này ông được đưa về an tang tại Hiền Sĩ, nay là xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, có tài học, 15 tuổi ông đã đọc xong những bộ sách tối thiểu của nhà nho, đã hiểu sâu, biết rộng và thông thạo các thể văn, đủ để ứng thi. Năm 22 tuổi, Đặng Huy Trứ đi thi hội với lòng đầy tin tưởng ở tài học của mình nhưng không may phạm húy nên ông bị đánh hỏng. Ông bị tước luôn cả học vị cử nhân, bị đánh 100 roi và cấm thi 7
  14. trọn đời. Nhưng bởi tài năng đã lan truyền, một vị quan lớn trong triều nghe danh đã mời ông về dạy học cho con cháu trong nhà. Và cũng nhờ vị quan này mà 8 năm sau ông được thi lại và đỗ tiến sĩ năm 1855. Đặng Huy Trứ đã lần lượt trải qua các chức quan: Thông phán Ty Bố Chính Thanh Hóa, Tri huyện Quảng Xương, Tri phủ thiên Trương Tỉnh Nam Định, Hàn Lâm Viện trước tác, Ngự sử và cho đến năm 1864 ông được bổ nhiệm làm Bố chính Quảng Nam. Đặng Huy Trứ được cử đi Trung Quốc hai lần vào năm 1865 và 1867. Trong thời gian ở nước ngoài ông gặp gỡ và trao đổi ý kiến với nhiều nhà trí thức canh tân của Trung Quốc. Ông tiếp xúc với việc chế tạo máy móc, đóng thuyền, đúc súng đạn, Đặng Huy Trứ đã ghi chép tỉ mỉ kỹ thuật máy hơi nước được mô tả trong cuốn sách Bác vật tân biên của người Anh và đem về nước. Trong dịp này, ông còn mua được 239 khẩu “quá sơn pháo” có thể bắn qua núi. Trong chuyến đi Trung Quốc lần thứ hai năm 1867, Đặng Huy Trứ không may bị ốm nặng, tưởng chừng như không thể qua khỏi. Tuy vậy, nằm trên giường bệnh ông vẫn đọc sách, viết sách, làm thơ, trao đổi thư từ với bè bạn trong nước. Cũng trong thời gian này ông đã viết cuốn Tự thụ yếu quy nhằm chống đối thói hối lộ, tham nhũng chốn quan trường. Sau ngày về nước, Đặng Huy Trứ chuyển sang làm công tác quân sự ở miền Bắc, giữ chức Bang biện quan vụ Lạng – Bằng – Ninh – Thái cho đến cuối năm 1873 ông lui quân về căn cứ Đồn Vàng – Hưng Hóa dưới quyền Hoàng Kế Viêm, mưu tính kháng chiến lâu dài nhưng việc trù tính còn dang dở thì vua Tự Đức đã ký Hòa ước năm Giáp Tuất (1874) Ngày 7-8-1874, Đặng Huy Trứ trút hơi thở cuối cùng trong niềm đau thương vô tận của Hoàng Kế Viêm, của bạn bè và đông đảo chiến sĩ yêu nước. Ông di chúc cho con cháu không ai được ra làm quan bởi đất nước đang 8
  15. rơi vào tay giặc và triều đình đã thỏa hiệp với giặc. Ông muốn được chôn tại chỗ nhưng Tự Đức ngờ ông còn mưu việc khác nên ra lệnh bắt đưa thi hài ông về Huế, bắt mở áo quan ra xem rồi mới cho chôn. Mộ ông nay ở Hạc Thú, Hòn Thông, xã Hiền Sĩ, Huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Về đời sống riêng tư, Đặng Huy Trứ cũng gặp nhiều thử thách khó khăn. Ông đem lòng yêu thương và quyết tâm lấy người con gái gặp nhiều bất hạnh vốn không môn đăng hộ đối với mình là một cô lái đò con nhà bình dân. Bác ruột ông là Thượng thư, gia đình không thể đồng ý cho ông lấy cô gái nhà thường dân là điều ông đã biết rõ. Nhưng bởi tình cảm tha thiết, ông quyết tâm vượt qua mọi lễ giáo và gia đình. Ông vụng trộm làm lễ cưới, chọn cuộc sống nghèo túng chồng dạy học, vợ đảm đương sinh hoạt gia đình. Tuy nghèo về vật chất nhưng tình cảm lúc nào cũng nồng đượm, luôn thủy chung son sắt. Tuy cuộc đời gặp nhiều khó khăn vất vả nhưng không thể phủ nhận Đặng Huy Trứ đã giành được những thành công nhất định. Sách Đại nam thống nhất chí xếp ông vào hàng danh nhân với nhận định: “Đặng Huy Trứ khảng khái có chí lớn đương trù tính làm nhiều việc chưa xong, mất ai cũng tiếc.” 1.1.2.2. Con người Đặng Huy Trứ sinh ra trong một gia đình trí thức nghèo ở nông thôn. Ông nội và cha đều làm nghề dạy học. Ông nội là Đặng Quang Tuấn (1752- 1825), một nhà nho nổi tiếng, suốt đời làm nghề dạy học. Truyền thống của gia đình ông là cha dạy con, anh bảo em, chú bác dìu dắt con cháu cùng nhau trau dồi đức hạnh và kiến thức. Cũng bởi lẽ này, Đặng Huy Trứ suốt đời quan tâm đến giáo dục gia đình, đề cao tình thương yêu, là đạo đức, là học vấn, Bởi vậy mà suốt đời ông đều một lòng một dạ yêu thương và sống với gia đình nhỏ bé của mình và cũng hết lòng lo lắng, phục vụ nhân dân. 9
  16. Cùng với việc xây dựng tình cảm và giáo dục đạo đức như thế, gia đình lại đặc biệt quan tâm và chăm lo cho Đặng Huy Trứ được học tập đến nơi đến chốn. Cũng nhờ đó, ông rất hiếu học và tài năng đã bộc lộ rõ ngay từ sớm. Suốt 18 năm làm quan, sự nghiệp quan trường của ông đều nhằm mục đích là canh tân đất nước. Ông là nhà cải cách, gieo mầm canh tân và khai hóa thời Nguyễn ở thế kỉ XIX. Ông lập ra các thương điếm như Lạc Sinh Điếm, Lạc Thanh Điếm và Ty Bình để giao lưu với Tây phương tạo dựng nền tảng tài chính và quân sự cho triều đình nhà Nguyễn trong những năm 1850-1870. Đặc biệt, Đặng Huy Trứ còn được biết đến với danh hiệu ông tổ của nghề nhiếp ảnh Việt Nam bởi ông là một trong những người đầu tiên có công đưa nhiếp ảnh vào Việt Nam bàng việc mở hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường (ngày 14-3-1869) ở phố Thanh Hà, Hà Nội. Ngoài ra, sự nghiệp của ông còn để lại dấu ấn trên nhiều lĩnh vực khác: giáo dục, văn hóa, kinh tế, văn học, lĩnh vực nào cũng có những nét đặc sắc và nhằm mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân, đất nước. Là nhà giáo, ông có quan điểm giáo dục dân chủ, tiến bộ, chủ trương “sư đệ tương trưởng” (thầy và trò cùng trưởng thành). Quan niệm vừa là thầy vừa là bạn, cùng học với học trò, thầy trò cùng đi thi. Là nhà văn hóa, ông chú ý xây dựng nhân cách con người, coi trọng lao động và đề cao vai trò của khoa học kỹ thuật. Ông nhận rõ rằng nhân dân chính là người nuôi mình và mình phải trả nợ nhân dân. Ông đả kích mê tín dị đoan, óc thủ cựu, tệ giáo điều. Ông đề xướng và thực hành tự do yêu đương và hôn nhân không cần môn đăng hộ đối. Là một nhà kinh tế, ông nhận rõ vai trò quan trọng của công thương nghiệp. Ông tổ chức các hộ tiểu thủ công nghiệp lại cho vay để sản xuất và bản thân ông cũng đứng ra để buôn bán, một nghề bị coi là nghề mạt thời đó. Ông đặc biệt quan tâm khai thác những thành quả khoa học và kỹ thuật của 10
  17. nước ngoài. Ông mở nhiều hiệu buôn, không tán thành chính sách bế quan tỏa cảng; mở xưởng chế tạo gang, thép, máy móc; mời chuyên gia sang giảng dạy, cử thanh niên ra nước ngoài học tập; Là một nhà quân sự yêu nước, “chủ chiến” kiên định. Đối với ông: “Nay việc lợi hại nhất của một quốc gia chỉ có một việc là chống Tây. Việc triều đình cần bàn nhiều nhất cũng chỉ có một việc duy nhất là chống tây. Việc sử quan cần ghi chép cũng chỉ có một việc là chống Tây.” Ông coi quân đội là nanh vuốt quyết định sự thắng lợi của trận đánh, coi dân là huyết mạch, định sự an nguy của đất nước. Không chỉ đề cập đến yếu tố tinh thần đơn thuần, ông hiện thực hóa sức mạnh bằng việc hiện đại hóa quân đội, cổ vũ đóng tàu, súng ống, xây dựng quân đội dũng cảm, có kỷ luật và nhất thiết là phải coi trọng nhân dân. Ngược với chủ trương của triều đình, ông nghiên cứu và giới thiệu ba cuốn binh thư có giá trị được viết dưới cuối triều Lê đầu Nguyễn Tây Sơn. Là nhà văn, nhà thơ, ông làm thơ từ năm 15 tuổi. Ông để lại khối lượng tác phẩm khá phong phú: 12 tập thơ với hơn 1200 bài; 4 tập văn; 1 tập hồi kí (một thể loại ít thấy trong kho tàng văn học Việt Nam trung đại); một số sách giáo khoa và nghiên cứu phần lớn đã được in và nay được lưu trữ ở Thư viện Hán Nôm. Là một vị quan, ông nhận rõ trách nhiệm của mình đối với nhân dân, phải lo giải quyết nhiều việc liên quan đến đời sống của nhân dân, càng thông cảm với muôn vàn nỗi đau khổ mà nhân dân phải gánh chịu. Ông kiên quyết tránh xa cuộc sống ô uế chốn quan trường, hết sức quý trọng những người bạn làm quan chuyên cần và liêm khiết. Ông kính phục những ông quan như Doãn Uẩn suốt đời sống thanh bạch, đến lúc chết, trong nhà không có tiền làm ma. Có kẻ đến nhà riêng của ông hối lộ, ông tống cổ nó đi. 11
  18. Đặng Huy Trứ là người luôn tồn tại khí phách lớn lao, dám làm, dám mở kho thóc của nhà nước phát cho dân khi chưa có lệnh của triều đình, phản đối chủ trương chỉ dựa vào đàm phán giữa các bữa tiệc của vua ban cho đoàn sứ thần đi thương lượng. Ông đã làm tất cả vì nhân dân đúng như lời tuyên bố của ông: “Muốn dân được lợi cần quyền biến, tội vạ riêng mang há sợ gì”. Có thể nói, cả cuộc đời của Đặng Huy Trứ đã dành cho nước, cho dân, hy sinh vì hạnh phúc của nhân dân. “Dân tộc ta tự hào có được người con Trung Hiếu vẹn toàn như Đặng Huy Trứ. Lịch sử Việt Nam tự hào về nhân vật lỗi lạc Đặng Huy Trứ. Văn học Việt Nam tự hào về nhà thơ lớn Đặng Huy Trứ” [9, tr53] 1.2. Sự nghiệp sáng tác Sáng tác từ khi tuổi đời còn rất trẻ và sáng tác văn chương không ngơi nghỉ cho đến tận cuối đời, Đặng Huy Trứ đã để lại khối lượng tác phẩm đáng kể. Theo thống kê của nhóm Trà Lĩnh, Đặng Huy Trứ có 12 tập thơ lớn với hơn 1.200 bài thơ, 4 tập văn và một tập hồi kí: Đặng Hoàng Trung Ngũ giới pháp Thiếp – in năm Tự Đức (1868) Trí trung đường, gồm 5 bài khuyên răn con cháu trong nhà về các mặt như không nên: rượu, chè, trai gái, chơi bời, nghiện ngập Đặng Hoàng Trung Thi sao, Thư đường Đặng Qui in năm Tự Đức – Mậu Thìn 1868, có 252 bài thơ chia thành 12 cuốn gọi là “Thảo sao” do tác giả sáng tác khi đi dạy học, thi đỗ, làm quan, đi sứ. Đặng Hoàng Trung Văn sao – gồm 266 bài văn chia thành 4 cuốn theo các thể loại như: Quyển 1: Thiếp, biểu, văn tế Quyển 2: Hành trạng, vắn chúc mừng, văn phúng viếng Quyển 3: Tán, bại, yếu báo, thư, kị, tục Quyển 4: Giả câu đố 12
  19. Bộ sách dày 2000 trang có tiêu đề Từ thụ quy yếu. Với nội dung chuyên chống hối lộ và tham nhũng. Ngoài ra ông còn có các tác phẩm: Tùng chinh di qui, Tứ thập bát hiệu ký sự tàn biên, Nữ giới diễn ca, Như vậy dựa vào sự thống kê chưa đầy đủ nhưng cũng có thể thấy số lượng tác phẩm Đặng Huy Trứ để lại khá lớn. Về đề tài phản ánh trong thơ, Đặng Huy Trứ quan niệm thơ là để nói chí. Trong bài tựa Đặng Hoàng Trung thi sao (1867), ông đã nói rõ quan niệm về việc làm thơ và tự đánh giá về thơ mình: “Thơ là để nói chí Thơ tôi không đúng chuẩn mực, cũng chẳng hiệp âm luật, tuy không thể đưa ra lưu hành ở đời, nhưng lời răn dạy thì nhiều, lời buông tuồng thì ít, đủ làm khuôn phép cho con cháu. Tôi trộm cho là như vậy, con cháu hiền thảo chọn lấy những điều hay rồi truyền tập cho nhau, thiết tưởng cũng giúp ích cho việc lập thân giữ mình, việc gì mà đem bó lại để trên gác caỏ”. Bởi vây, đề tài trong thơ Đặng Huy Trứ mang đậm dấu ấn của ông, là những vấn đề gắn liền với cuộc sống của ông. Làm quan, ông quan niệm “Dân không chăm sóc chớ làm quan”. Ông xót thương thay cho nhân dân phải oằn mình gánh chịu trận bão: “Bạt ngược tài thư cụ mẫu sân. Nộ khí chiết dương tây hựu bắc, Bi thanh bành bái tuất nhi dần Khủng ư ấu chủ nghi công nhật, Mê tự Đô quân nạp lộc thần. Khởi thị sơn hà tiều tụy thậm, Cánh đa quai dị độc phong thần.” (Cụ phong) (Hạn tạm vừa thư, bão lại gầm. Nộ khí dập vùi tây đến bắc, 13
  20. Bi thanh tràn khắp tuất sang dần. Sợ như Ấu chủ ngày lâm nạn Mê tựa Đô quân lúc giữa đầm. Ngước mắt non sông tiều tụy quá! Buồn sao xã tắc bấy trầm luân!) (Bão lớn) Càng thương dân, Đặng Huy Trứ càng hết lòng tận tụy vì dân: “Tẩm dĩ thâm canh tiên lại khởi, Thực vô kiêm vị cộng dân gian.” (Công mang tự úy) (Ngủ đã khuya lơ, dậy trước lại Ăn rành một món, khổ cùng dân.” (Việc công bận, tự an ủi) Trước mối nguy của dân tộc, trước lũ giặc xâm lăng, trái với sự nhu nhược yếu hèn của vua tôi, lũ tham quan nhà Nguyễn, Đặng Huy Trứ luôn nhất kiến chủ chiến với bọn giặc. Ông đặt niềm tin nơi quân lực, ở nhân dân của mình: “Pháo thanh lôi động phong thiên lý, Hỏa đạn yên phi thủy vạn tầm. Trực đãi thiêu tàn tây tặc phủ,” (Triều tấn pháo đài hậu tùy hoàng phiên sứ thí pháo) (Pháo nổ sấm ran ngàn dặm gió Đạn bay khói tỏa vạn tầm khơi Chỉ chờ thiêu xác quân Tây hết) (Theo hầu quan Bố Chánh họ Hoàng ra thử pháo ở pháo đài Bến Triều) 14
  21. Nhưng nói đến đề tài trong thơ Đặng Huy Trứ, có lẽ đề tài về nông thôn làng quê là đề tài chiếm vị trí đặc biệt hơn cả. Đặng Huy Trứ đã dành một mối quan tâm đặc biệt đến nông thôn làng quê, đến cuộc sống của những người nông dân nơi ấy. Ngay từ khi mới 15 tuổi ông đã bắt đầu làm thơ và đã vẽ nên bức tranh toàn cảnh của điển hình làng quê Việt Nam. Lí do Đặng Huy Trứ chọn làng quê trong thơ của mình có lẽ xuất phát bởi ông lớn lên và dành nhiều thời gian sống trong lòng một quê hương thuần phác. Quê hương ông là làng Thanh Lương, thuộc huyện Hương Điền, một làng rất đẹp nằm bên sông Bồ và nổi tiếng giỏi văn võ. Chính nơi đó, sự trong lành của đồng ruộng, khung cảnh nên thơ, nơi con đò bến nước cùng sự cần cù, ấm áp của người dân đã nuôi dưỡng tâm hồn cao đẹp và sớm chắp cánh cho hồn thơ Đặng Huy Trứ. 1.3. Thống kê, phân loại thơ viết về làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ Khảo sát tập thơ Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm có 73 bài thơ viết về đề tài làng quê trong tổng số 309 bài thơ. Trong hệ thống những bài thơ viết về làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ ta có thể chia nhỏ thành các chủ đề 1.3.1. Thơ viết về thiên nhiên làng quê Trong số những bài thơ viết về làng quê trong Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm, chúng tôi đã thống kê được số bài thơ viết về thiên nhiên làng quê như sau: Tổng bài thơ viết về Số bài thơ viết về thiên Tỷ lệ % làng quê nhiên làng quê 73 24 32,9% 1.3.2. Thơ viết về cuộc sống sinh hoạt làng quê Thơ viết về cảnh sinh hoạt làng quê cũng được Đặng Huy Trứ dành một vị trí đáng kể trong số những bài thơ viết về thôn quê. Bảng thống kê dưới đây giúp chúng ta hình dung được vị trí của mảng thơ này về mặt số lượng: 15
  22. Tổng bài thơ viết về Số bài thơ viết cảnh sinh Tỷ lệ % làng quê hoạt lao động làng quê 73 49 67,1% 1.3.3. Nhận xét rút ra từ số liệu thống kê Qua khảo sát thống kê thơ viết về làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ, tôi rút ra nhận xét sau: Thứ nhất là về số lượng: Thơ viết về làng quê của Đặng Huy Trứ khá phong phú và đa dạng. Viết về làng quê, Đặng Huy Trứ đã phản ánh mọi mặt đời sống nơi làng quê. Các ngành nghề, phong tục tập quán, con người đều được nhắc đến. Từ người vú nuôi trẻ đến nhà nho nghèo bán chữ, từ người phụ nữ chăn tằm đến người thợ cày, từ việc ma chay cúng giỗ đến trồng cây nêu ngày tết, đều được thể hiện. Thứ hai là khả năng phản ánh và khả năng khái quát nghệ thuật: Thơ viết về thôn quê trong thơ Đặng Huy Trứ có sự chuyển biến rõ rệt về phạm vi phản ánh và khả năng khái quát nghệ thuật. Viết về nông thôn Việt Nam, Đặng Huy Trứ đã mở rộng phạm vi đề tài khi ông đưa vào trong thơ những hình ảnh đơn sơ mộc mạc của đời sống. Nhà thơ đã xây dựng được những hình tượng nghệ thuật bắt nguồn trực tiếp từ đời sống: bến sông, con thuyền, cây lúa, mầm hạt cải, con lợn, con mèo, Thơ Đặng Huy Trứ chứa đầy ắp cảnh vật, với tất cả những gì mà ông gắn bó yêu thương, có đủ cả cây hoa đồng nội, những rau cỏ sản vật thường ngày ta có thể thấy ở bất kỳ làng quê nào của Việt Nam. Làm nên những thành tựu độc đáo này là vì Đặng Huy Trứ có một tư tưởng thanh cao, một tình cảm trong sáng, một trí tưởng tượng, một cảm xúc và tài năng hiếm có. Đó cũng chính là vì, suốt cuộc đời Đặng Huy Trứ đã hòa mình với thiên nhiên đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân và đời sống dân tộc. 16
  23. Chƣơng 2 BÚT PHÁP THỂ HIỆN PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ 2.1. Bút pháp ƣớc lệ Cũng giống như đa số các tác giả thơ trung đại khác, thơ của Đặng Huy Trứ cũng là thơ ngôn chí, thơ ngụ ý ký thác tâm sự. Nhưng điểm khác biệt đó là các tác giả khác thường hướng tới những đề tài muôn thuở như tùng, cúc, trúc, mai hay phong, hoa, tuyết, nguyệt thì Đặng Huy Trứ lại ít khi dùng. Ông cũng giảm thiểu, rất ít khi dùng các điển tích điển cố. Nói như vậy, không phải là thơ Đặng Huy Trứ không dùng bút pháp ước lệ tượng trưng. Từ xưa đến nay, biết bao thi nhân đã bày tỏ niềm say đắm với vầng trăng sáng. Trăng luôn là cái đẹp, là đề tài được các tác giả lựa chọn thể hiện trong tác phẩm của mình. Như bao nhà thơ trung đại, trăng cũng là điều mà Đặng Huy Trứ say đắm thiết tha. Đặng Huy Trứ khi mới 15 tuổi, sống nơi xứ Huế mộng mơ, dưới bóng trăng tỏa chiếu xuống cũng không khỏi động lòng trước cái đẹp: “Tùng gian nghi nguyệt, nguyệt nghi thu. Cù chi giao thúy, thanh quang đậu, Thỏ phách tà xuyên, thự sắc phù.” (Minh nguyệt tùng gian chiếu) (Tùng xứng bóng trăng, nguyệt xứng thu. Trăng đậu cành cong đan ánh mộng, Nguyệt rung bóng nổi, ngả màu mơ) (Trăng sáng chiếu rặng tùng) Trăng với Đặng Huy Trứ như là một người bạn thân thiết. Sau này, khi phải đi xa quê thì vầng trăng vẫn luôn gắn bó với ông, vầng trăng vẫn cứ đẹp 17
  24. đẽ, đầy đặn, đáng yêu. Vầng trăng nơi phương xa còn gợi cho người con xa xứ một nỗi nhớ quê nhà: “Tối ái kim tiêu nguyệt chính phì, Tha hương du thưởng cố hương ti (tư).” (Kiến nguyệt tư hương) (Yêu mấy đêm nay nguyệt đẫy đà, Quê người thưởng nguyệt nhớ quê ta) (Thấy trăng nhớ quê) Dường như nỗi niềm cảm xúc khi xa quê của Đặng Huy Trứ đã có sự đồng điệu với Lý Bạch – nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc khi trước Đặng Huy Trứ, Lý Bạch cũng đã từng bày tỏ: “Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thượng sương Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương” (Tĩnh dạ tứ) Đọc thơ Đặng Huy Trứ ta cảm nhận sâu sắc tình cảm thiết tha của ông với trăng. Với ông, trăng lúc nào cũng đẹp, là cái đẹp ông luôn hướng tới, là điều ông luôn đón đợi, khát khao: “Vũ sư sái dạo tần yêu khách, Phong bá khư vân vị tác môi. Thiên thượng thanh quang lưu thử dạ, Cẩm giang giang thượng tứ bồi hồi.” (Trung thu Cẩm giang đãi nguyệt) (Thần mưa tưới lối như chờ đón Dì gió xua mây có ý mời. Đêm vắng ánh trăng trời bát ngát 18
  25. Cẩm giang sông bến dạ bồi hồi.) (Trung thu chờ trăng trên sông Cẩm) Trăng trong thơ Đặng Huy Trứ còn là dấu ấn của thời gian, là nhân chứng cho sự lao động miệt mài của người nông dân làm việc chăm chỉ không quản ngày đêm sớm tối: “Nhật sự điền tang, dạ bạn thung, Ca thanh cao xứ nguyệt quang dung.” (Nguyệt khuy thung tướng) (Ngày bận ruộng, tằm, đêm giã gạo, Tiếng ca cao vút ánh trăng hòa.) (Trăng nhòm cảnh giã gạo) Miêu tả cảnh sắc thiên nhiên khi nàng xuân đến, Đặng Huy Trứ cũng khéo léo gợi tả với hoa đào, với mưa xuân – dấu ấn điển hình của thiên nhiên Bắc bộ ngày xuân tới: “Đào hoa lịch loạn lý hoa hương, Yến vũ oanh đề xuân nhật trường, Tế vũ thấp y khan bất kiến, Cao đàm vi tẩy ngũ niên mang.” (Đồng Hữu xuân du ngộ tiểu vũ) (Hoa đào làm loạn làn hương hoa mận Yến nhảy nhót, oanh kêu, ngày xuân thêm dài. Mưa lớt phớt thấm áo mà không hay, Bàn chuyện đâu đâu cốt rửa cái bận bịu trong năm.) (Cùng bạn chơi xuân gặp mưa) Qua phần tìm hiểu trên, ta nhận thấy, dưới quan niệm của văn chương trung đại, tuy mật độ không nhiều nhưng bút pháp ước lệ vẫn được Đặng Huy Trứ sử dụng khi sáng tác thơ. Thiên nhiên làng quê vẫn hiện lên trong thơ 19
  26. Đặng Huy Trứ với đầy những dấu ấn riêng biệt, vẫn đẹp dịu dàng say mê, chất chứa trong đó là bao tình cảm với quê hương của tác giả. 2.2. Bút pháp tả thực Theo quan niệm của nhà Nho, của văn chương trung đại thì văn chương hay, có giá trị, được đề cao phải là văn chương chứa đựng, truyền tải nội dung đạo lí, phải có hình thức cân đối hài hòa, trang nhã. Đặng Huy Trứ mặc dù sống ở thời đại trọng Nho giáo, văn chương ông sáng tác cũng được xếp vào phạm trù văn học trung đại nhưng trong quá trình sáng tác văn học, đặc biệt là về đề tài làng quê nông thôn, ông lại có cái nhìn hết sức mới mẻ. Và đặc biệt, bút pháp ông sử dụng khi viết về nông thôn chủ yếu là bút pháp hiện thực. Ở thời đại lúc ông sống bấy giờ, việc sử dụng bút pháp hiện thực, tả thực là một dấu ấn đặc biệt và là sự đột phá về phản ánh thực tại ở làng quê Việt Nam trong phong cách sáng tác của Đặng Huy Trứ 2.2.1. Bút pháp tả thực qua miêu tả thiên nhiên làng quê Có thể nói, thiên nhiên là đề tài muôn thuở của các sáng tác văn chương nghệ thuật. Từ xưa đến nay đã có biết bao bức tranh phong cảnh được họa bằng ngôn ngữ đã làm say đắm biết bao trái tim người đọc. Tuy nhiên, nếu như các tác giả khác thường sử dụng bút pháp ước lệ để miêu tả thiên nhiên với những công thức khuôn sáo thì Đặng Huy Trứ lại đi sâu vào tả thực. Thơ Đặng Huy Trứ viết về thiên nhiên làng quê gần như là họa. Những hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông đều sắc nét, tươi vui và phấn khởi. Ông sinh ra và lớn lên tại Huế. Huế vốn vẫn luôn thơ mộng và hiền hòa, là cái nôi chắp cánh cho bao tâm hồn thi ca. Nơi ông sống là ngôi làng ven sông. Con sông là thứ gắn bó trực tiếp với ông, với người dân nơi đây và tạo nên bao kỷ niệm. Đặng Huy Trứ đã vẽ nên một bức tranh ấn tượng, hiện lên qua thơ là khung cảnh làng chài và con đò nhỏ qua sông Bồ - con sông quê nước chảy hiền hòa: 20
  27. “Nhất dĩ sinh nhai đông phục tê, (tây) Giang thôn xứ xứ mộ nhiên tế. Dịch lô tùng tạp hồn vô dạ, Võng cổ tân phân tự bất mê. Tinh tú trầm phù ba thượng hạ, Ngư hà xuất một ảnh cao đê.” (Ngư chu mộ hỏa) (Thuyền nhỏ sinh nhai, trời mấy ngả, Tối về, xóm vạn, lửa chài đua. Sậy lau rậm rạp, không đêm tối, Lưới vó dầy ken, chẳng mịt mờ. Sóng dạt, triều lên, sao ẩn hiện, Tôm chìm, cá nhảy, bóng lô nhô.) (Lửa chài trong đêm) Con sông quê hương không những đẹp lung linh huyền ảo mà còn là nơi cung cấp nguồn sống. Con sông đầy ắp cá tôm là nơi kiếm kế sinh nhai của biết bao con người. Quê hương ông cũng như bao làng quê Việt Nam khác, bao quanh xóm làng chính là cánh đồng lúa trải dài và xanh mướt “Giao nguyên nhất vọng giai thanh tú,” (Quan giá) (Đồng ruộng một màu xanh bát ngát,) (Thăm lúa) Khung cảnh đồng ruộng xanh ngát trải dài gợi nên cho người đọc ấn tượng về một làng quê đầy sức sống, nó còn gợi niềm hy vọng về sự trù phú ấm no. 21
  28. Không chỉ miêu tả phong cảnh với con sông, cây đa, bến nước, Đặng Huy Trứ còn đề cập đến những âm thanh sống động nơi làng quê. Đó là tiếng chuông chùa sớm khuya ngân nga vang vọng: “Kê xướng, ô đề nguyệt ngũ canh Thử gian sạ thính tự chung minh. Bán thiên tượng giáo huyền quan tĩnh, Bách bát kình âm tục chướng thanh. Hưởng triệt thư song nghi hoán độc, Thanh truyền điền xá nhạ thôi canh. Tu tri bá phụ Bồ đề ấm, Lưu đắc khanh tranh vạn cổ danh.” (Phật tự chung thanh) (Quạ kêu, gà gáy canh năm, Chợt nghe xa tiếng chuông ngân đổ hồi. Thanh hư từ của Phật đài, Mộng đời khua tỉnh mấy thôi chầy kình Lọt song như gọi thư sinh, Xuống thôn rộn rã lay mình nông phu. Bác xưa công đức góp chùa, Tiếng vàng vọng mãi ngân đưa muôn đời.) (Tiếng chuông chùa) Khung cảnh làng quê yên bình, êm ả đến mấy với tiếng chuông chùa ngân nga vang vọng, len lỏi khắp chốn. Tiếng chuông chùa đánh thức bác nông dân dậy ra đồng, tiếng chuông chùa gọi người thư sinh dậy học bài cho khỏi phụ lòng cha mẹ. Miêu tả khung cảnh mùa hè, nếu như Nguyễn Trãi đã miêu tả cảnh mùa hè thật sống động: 22
  29. “Rồi bóng mát thưở ngày trường Hòe lục đùn đùn tán rợp trương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên thì đã tịn mùi hương Lao xao chợ cá làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.” (Quốc Âm thi tập) Bức tranh mùa hè của Nguyễn Trãi với những cảnh vật đầy sự sống, với gam màu nổi bật là màu đỏ của hoa lựu, rồi còn có âm thanh rộn ràng của cuộc sống tiếng “lao xao chợ cá”. Trong tập “Hồng Đức quốc âm thi tập” thì cảnh mùa hè lại là: “Nghi ngút ngàn mây tán lửa che Rùng người thay bấy gọi là hè. Hồng bay lựu màn vây liễu Hương nức sen, bóng rợp hè. Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve ” Cảnh mùa hè ở đây cũng được miêu tả với những đặc điểm điển hình với hương sen thơm nức, bóng hòe rợp mát, tiếng cuốc, tiếng ve. Những dấu hiệu đặc trưng của mùa hạ Việt Nam. Còn rộn lên trong bức tranh ngày hạ của Đặng Huy Trứ là tiếng chim hót trong trẻo: 23
  30. “Hạ mộc âm nùng xứ, Hoàng ly vận tải dương. Chi đầu phi vũ dực, Thụ thượng tấu sinh hoàng. Hảo dữ huân phong sảng, Thiên nghi hóa nhật trường. Thanh thanh nghi kiết ngọc, Vận vận nhạ minh đương. Kham nguyệt tao nhân nhĩ, Như liêu dật khách trường. Thủy điền phi bạch lộ,” (Hạ mộc chuyển hoàng ly) (Bóng râm cây hè tỏa, Giọng hót vàng anh buông. Trên ngọn xòe cánh đẹp, Đầu cành rộn tiếng vang. Ngân dài cùng nắng hạ, Lộng mát với nồm nam. Tiếng tiếng như gieo ngọc, Vần vần tựa dát vàng. Tao nhân tràn hứng vị, Dật khách động tâm trường. Bóng nước soi cò trắng,) (Tiếng vàng anh trên cây mùa hạ) Bức tranh mùa hạ hiện lên với âm thanh rộn ràng của tiếng chim, màu sắc rực rỡ của nắng hạ. Phong cảnh làng quê trong con mắt người thiếu niên thật đẹp, hài hòa âm thanh, màu sắc, đầy mơ mộng và ngây thơ. 24
  31. Và, bên dòng sông Bồ còn là âm vang tiếng hò chèo đò, là tiếng sáo vi vút trong không gian: “Bồ nguyên, Đỉnh bộ khứ lai trình, Phong dẫn cao ca tống trạo hành. Khoản nãi nhất thanh như hữu ước, Phong gia thập bát tự đa tình. Giác đắc giang hỗ đáp xao tân nguyệt, Mục địch tương yêu lộng vãn tình.” (Phong tống trạo ca) (Đò con qua lại bến sông Bồ Gió dẫn câu ca, chèo đẩy đưa, Một tiếng hò khoan như ước hẹn, Đa tình dì gió tựa trong mơ, Chuông chùa cổ vọng rung trăng mới, Sáo mục đồng vang giữa nắng mờ.) (Gió đưa tiếng hò chèo đò) Như vậy, với những đề tài quen thuộc, rất đời thường, dung dị, mộc mạc, Đặng Huy Trứ đã chứng tỏ tài năng của mình bằng một bút pháp miêu tả hết sức chân thực, gợi tả. Đi sâu phản ánh vẻ đẹp thiên nhiên làng quê, đặc biệt là vẻ đẹp của màu xanh của cỏ cây, hoa lá, Đặng Huy Trứ đã góp phần tạo nên bức tranh làng quê sinh động của nông thôn Việt Nam. 2.2.2. Bút pháp tả thực qua miêu tả cuộc sống sinh hoạt làng quê Đặng Huy Trứ sinh ra và sống những năm tháng đầu tiên của tuổi trẻ là ở làng quê. Cuộc sống gắn bó với làng quê như vậy cũng là yếu tố nuôi dưỡng, thôi thúc tâm hồn thơ ca của ông sớm nở rộ và cuộc sống con người ở chốn quê vì vậy mà cũng được thể hiện hết sức chân thực trong thơ ông. 25
  32. Về cuộc sống sinh hoạt làng quê, Đặng Huy Trứ đã lột tả toàn diện mọi mặt của cuộc sống nông thôn Việt Nam. Nhà thơ không bỏ xót bất cứ cảnh nào từ cày bừa, gặt hái, lễ hội, từ cảnh chạy chợ đến việc ma chay, cúng bái. Có thể nói, Đặng Huy Trứ đã đi sâu vào phản ánh tỉ mỉ từng chi tiết nhỏ nhặt nhất của cuộc sống sinh hoạt nơi làng quê. Từ việc chăn nuôi lợn: “Nạp đồn hỉ cập quyền sơ thành. Quần phân tẫn mẫu phi vô ý, Thủy phóng dần thân biệt hữu tình.” (Đồn nhi nạp quyền) (Thả lợn con vào, chuồng mới ngăn. Đem tách đàn ra theo đực, cái Nhớ cho nước chảy hướng dần thân.) (Thả lợn con vào chuồng) Đến việc “Khơi giếng đào ao”: “Tinh yếu thanh cam, trì yếu thâm, Nhất đào, nhất tạc khỏi vô tâm. Tuyền lưu tác lễ hương thôn lợi, Thổ tích thành cao thảo thụ âm.” (Đào tĩnh, tạc trì) (Cần ngọt giếng, cần sâu ao Đào ao, khơi giếng, lẽ nào vô tâm Mạch tuôn nước ngọt lợi dân Đất thêm màu mỡ, bóng râm cây cành) (Khơi giếng đào ao) Việt Nam gắn bó với nghề trồng lúa nước. Cây lúa luôn gắn bó với người dân Việt Nam, là kế sinh nhai, là niềm hy vọng cho sự đầy đủ, sự ấm no của nhân dân. Vậy nên trồng lúa chưa phải là đã xong. Gieo mạ, cấy lúa 26
  33. rồi nông dân còn phải chăm cây lúa mỗi ngày. Phải chăng vì như vậy, Đặng Huy Trứ đã bắt gặp cảnh mỗi sáng mai người nông dân lại ra thăm lúa, xem cây lúa đã phát triển ra sao. Đặng Huy Trứ đã quan sát và đi sâu khám phá đời sống của người dân thôn quê, cũng rất hiểu những khát vọng, ước muốn người dân gửi gắm qua từng hành động nhỏ: “Tảo phỏng thu điền bộ thảo lai, Hương thôn truyền đạo sứ quân lai.” (Quan giá) (Lội đồng thăm ruộng buổi ban mai, Tin có quan về, rộn khắp nơi.) (Thăm lúa) Để rồi ít lâu sau, như đền đáp cho sự chăm bẵm, sự cố gắng chăm chỉ của người nông dân, cây lúa lớn lên từng ngày, vươn màu xanh tốt. Để rồi chỉ ít lâu sau, làng quê được bao quanh bởi cánh đồng lúa trải dài và xanh mướt. Chính nơi đây sản sinh ra những hạt gạo vừa trắng lại vừa thơm, dù có mang đi đâu cũng có thể phân biệt được đó là hạt gạo dẻo quê mình: “Bất thiểu thiên thương dữ vạn tương Kỷ như An Cựu bạch nhi hương! Chử tong nguyệt hạ thiềm vô sắc, Tân thượng phong xuy xạ mạc đương. Thanh miếu tiến tân thần thị cách, Từ cung hoan phụng thánh di khang. Bái Ân bạch túc như đồng thoản, Nam bắc sơn lan loạn thập hoàng.” (Mễ gia An Cựu) (Ngàn vạn đụn, kho ắp lúa vàng Đâu như An Cựu trắng và thơm. 27
  34. Chày theo trăng xuống, trăng thua sắc, Gió nổi, cơm vần, xạ nhạt hương. Thanh miếu kính dâng, thần cảm cách, Từ cung mừng tiến, thánh khang cường. Gạo thơm làng Bái cùng như nấu, Nam, bắc lan rừng cũng tủi hương.) (Gạo de An Cựu) Đặng Huy Trứ hết lời ca ngợi hạt gạo trắng thơm ngon, thứ gạo ấy khiến cho hoa phải tủi vì kém hương. Vì ngon, vì quý nên nó được chọn là thứ sản vật dâng lên nhà vua. Miêu tả hạt gạo ta mới thấy ông đã tự hào với hạt gạo quê mình biết mấy và đó còn là tình cảm yêu thương tha thiết của ông với quê hương. Đặng Huy Trứ còn thể hiện hàng loạt thói quen, nếp sống sinh hoạt của người dân nơi làng quê. Người Việt Nam, đặc biệt là những nhà sống ở làng quê thường có thói quen dùng những vật dụng hàng ngày được đan bằng tre được tạo ra bởi bàn tay khéo léo của người nông dân cần mẫn tạo ra những vật dụng thiết thực phục vụ cho đời sống: “Nhân gia nhật dụng ái viên hoàng, Dã tẩu sinh nhai thử nhất phương.” (Lão ông biên trúc) (Nhà thường dùng vẫn thích đồ tre Sinh sống nghề này một lão quê.) (Ông già đan đồ tre) Họ còn có đức tính biết tiết kiệm, tích cóp, biết lo xa. Sống cuộc sống hôm nay nhưng còn nghĩ đến tương lai. Sau mỗi vụ mùa, người dân lại tích trữ rơm để đun nấu quanh năm, điều này cũng được Đặng Huy Trứ quan sát thể hiện: 28
  35. “Luy luy tổng cát trụ kình không, Tiêu thoản chung niên dụng bát cùng.” (Hòa căn đông thoản) (Chập chừng chụm cội sững trời không Đun nấu quanh năm của chẳng cùng) (Rạ đun mùa đông) Hay mỗi mùa nước lên, cá về nhà nhà lại nô nức vác vó, vác đơm ra sông đánh cá “Tiết giới thu đông vũ lạo thần, Ngư tong nhập xứ tận ngư nhân. Thâm uyên kết võng lai ngân khoái, Bình địa sinh ba được cẩm lân Hà lý, giang lư ưng bất lậu, Diền kê, thủy thiện diệc kham trân.” (Lạo tiết công ngư) (Giữa tiết thu đông gặp lũ, mưa Cá vào khắp ngả, đánh trăm nhà Vực sâu thả lưới chài vây bạc Sóng nổi tung bờ, vượt vẩy hoa Mè suối, chép sông truy chớ sót Ếch đồng lươn lạch quý thay là) (Mùa lụt đánh cá) Khung cảnh lao động ấy mới rộn ràng nhộn nhịp làm sao. Sâu xa trong tâm khảm của Đặng Huy Trứ là quan niệm “Dân không chăm sóc chớ làm quan”. Vì vậy, khi viết về đời sống con người nơi làng quê, ông luôn gửi gắm nỗi niềm tình cảm xót thương thay cho người dân lam lũ, chăm chỉ chịu khó nhưng lắm lúc vẫn vương cảnh lầm than vì thiên tai: 29
  36. “Khuyển mẫu yêm gia tuệ, Sơn lâm khuất đại tài. Cốc nha nhân lạo trướng, Ốc đảo vi ba thôi. Kỳ hóa xung ngư phúc, Hành nhân bão bạng thai. Hà tân phiêu bạch cốt Điền bạn thụ cao quy. Tiều tụy tư vi thậm! Dề hao đại khả ai!” (Phỏng đắc cụ phong khởi xứ thi dĩ chí chi) (Đồng ruộng, lúa ngập chìm Núi rừng cây gục ngã. Nước lụt, thóc mọc mầm, Sóng xô, nhà đổ ngã. Người làm mồi cho trai, Của vào đầy bụng cá Bờ ruộng dựng cột buồm Bến sông xương trắng xóa Tiều tụy thật vô cùng Kêu gào thê thảm quá.) (Hỏi thăm được nơi bị bão viết bài thơ ghi lại) Khung cảnh làng quê sau trận thiên tai quả thực khiến người ta đau xót. Khắp nơi là ngập chìm, là đổ vỡ. Cây cối, con người dường như đã không còn sự sống. Và có lẽ hình ảnh gây sự ám ảnh nhất, đau thương nhất chính là hình ảnh “bờ sông xương trắng xóa”. Là xương vật hay xương người ta không đoán định được. Nhưng dẫu là vật hay là người thì cũng đều là mất mát, là 30
  37. đau đớn cho nhân dân. Trận bão đi qua, càn quét mọi công sức vun vén. Những gì nó để lại là tan hoang, là mất mát và tiếng kêu gào đau đớn dường như vẫn cứ đang vang vọng trong không gian. “Nhi cô, phụ quả thiên gia khốc, Ốc đảo, thuyền phiêu vạn hộ sầu. Ai ngã chưng lê tao thử nạn Quái tai cụ mẫu tuyết hà cừu.” (Chí Nam Định) (Con côi, vợ góa ngàn đau xót, Nhà đổ, thuyền trôi vạn đắng cay. Thần bão rửa thù sao lắm vậy? Dân nghèo gặp nạn đáng thương thay) (Đến Nam Định) Tình cảnh quả thực là thê thảm, đau đớn quá. Viết lên những dòng thơ này có lẽ tác giả cũng đang đau đớn, thương xót lắm thay cho con dân của mình. Trận bão đi qua chưa phải là kết thúc. Nó còn để lại những dư âm nặng nề. Sau trận bão là nghèo khó, là cùng quẫn, là cơm không có mà ăn nhà nào có khoai lang ăn là đã tốt lắm rồi: “Thử thúc giai năng trợ tuế lương, Tế cơ phiên thự diệc kham thường. Điền gia khước tác nam sâm khan, Trừ súc tiên vi vũ lạo phường (phòng)” (Phiên thự sung cơ) 31
  38. (Hàng năm ngô lúa góp lương ăn Cứu đói khoai lang cũng dự phần . Mưa lụt dự phòng dành trước hết Nhà nông coi nó như nam sâm.) (Khoai lang đỡ đói) Dường như càng biết, càng hiểu lại càng đau. Đặng Huy Trứ càng hiểu được cảnh sống cơ cực của người dân, ông càng xót xa thương cảm: “Chiên chúc khả cung duy đán tịch. Thê nhi vô kế tự tây đông. Khả lân thử ngoại đề cơ giả, Thương xích giai ngô cảm khái trung.” (Thải mễ tiểu hữu đắc) (Hồ cháo cầm hơi qua sớm tối Vợ con hết cách chạy tây đông. Ngoài kia kêu thóc bao người đói Oán cảnh dân đen những chạnh lòng) (Vay được ít gạo) Là một vị quan, ông cùng chia sẻ nỗi khổ với nhân dân, thấy con dân mình đói khổ, ông cũng không màng đến bản thân: “Dân bất đắc nhi thực Ngộ đắc nhi thực chư?” (Gian thực) (Dân miếng ăn chẳng có Ta ngồi ăn sao đang) (Miếng ăn gian nan) 32
  39. Đặng Huy Trứ là một vị quan luôn đau đáu vì dân, bên cạnh đó ông cũng là một nhà thơ. Bởi vậy, ông đã dùng chính thơ ca của mình mà kêu gọi mọi người san sẻ, giúp đỡ dân nghèo trong cảnh bần hàn: “Dân sinh tối khổ thị cơ hàn Trắc ẩn ngô tâm cụ tứ đoan. Thủy hạn Nghiêu Thang do bất miễn, Tích phì Tần Việt nhẫn tương khan. Kiềm lê đãi bộ duy thăng đẩu, Phụ mẫu suy thành tự phế can. Quân tử, nhân nhân phùng thử hội, Mãnh hành phương tiện mạc từ nan.” (Cơ dân hữu đông tây tựu thực giả khuyến dĩ tương chu ngẫu thành nhất luật) (Dân sinh khổ nhất ấy cơ hàn, Trắc ẩn lòng ta trọn mối nhân. Hạn lụt Nghiêu Thang còn khó tránh Béo gầy Tần Việt nỡ bang quan. Dân chờ sữa mẹ mong thưng, đấu, Quan tỏ tình cha mở ruột gan. Quân tử, hiền nhân nay gặp lúc Hết lòng cứu trợ, chớ từ nan.) (Dân đói, chạy đông chạy tây kiếm ăn, làm thơ khuyên nên cứu giúp nhau) Vì dân, Đặng Huy Trứ cũng không ngại chỉ ra chính sách thuế má nặng nề mà dân chúng đang phải gánh chịu. Đồng thời, ông cũng phản ánh sự vô tâm đáng trách trước cảnh nhân dân đang lầm than của vị “phụ mẫu” mới được cử về chỉ bàng quan “nằm khểnh” đó: 33
  40. “Nha quan tống cựu nghênh tân nhật, Niên cốc hàm bào phát tuệ sơ. Nam mẫu chi dư trùng báo khiểm Bắc phong hàn lãnh tứ tiêu sơ. Thôi khoa chính tích nan vi xảo, Ngộ mỵ thần tâm bất tạm thư. Tá vấn khám quan lại ngọa thử, Mục trung tần phủ mộng duy ngư.” (Thị tỉnh phái Lương Phiên tá thụy khởi) (Ngày đón quan mới, tiễn quan cũ Lúa bắt đầu ngậm sữa trổ bông, Ruộng nam mới vỡ mùa xơ xác, Gió bắc liền cơn thổi lạnh lung. Thúc thuế nên công, đâu giỏi nghệ? Phận tôi lo nước phải siêng lòng. Ướm hỏi khám quan nằm khểnh đó: Trong mơ ngài thấy lũ dân không?) (Nhắc bảo viên Phiên tá họ Lương được tỉnh phái đến khi ngủ dậy) Suy tính, trăn trở vì dân, Đặng Huy Trứ bày cho dân lập nghĩa thương làm kho trữ tiền và thóc, mong sao dẫu cho hạn, cho lụt hằng năm có diễn ra thì sau đó nhân dân vẫn còn ngô lúa dự trữ để duy trì cuộc sống: “Bị hoang nhất chước quý thâm đồ. Sinh dân mệnh mạch duy hòa cốc Lương thù công lao hệ mục sô. Tuế tích thương tương tiên tự hữu, 34
  41. Thiên hành thủy hạn bất năng vô.” (Nghĩa thương thành) (Phòng cơ, liệu sớm, chước muôn đời. Dân đen sống bởi nguồn ngô lúa, Quan giỏi, công là việc dưỡng nuôi. Kho chứa hàng năm đầy đụn thóc, Hạn dồn sang lụt đón cơ trời.) (Lập xong kho nghĩa thương) Sau Đặng Huy Trứ, Nguyễn Khuyến là nhà thơ viết rất nhiều về làng quê nông thôn. Nguyễn Khuyến cũng thông cảm sâu sắc với nỗi khổ của người nông dân, cảnh nghèo của người dân cũng được miêu tả bằng bút pháp tả thực: “Năm nay cày cấy vẫn chân thua Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa Phần thuế quan Tây phần trả nợ Nửa công đứa ở nửa thuê bò Sớm trưa dưa muối cho qua bữa Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.” (Nhà nông than thở) Nhưng làng quê luôn chứa chan tình người ấm áp, dẫu nghèo, dẫu khó nhưng đùm bọc giúp đỡ nhau người ta không nề hà. Tình làng nghĩa xóm được thể hiện cao nhất, con người gần với con người nhất chính là những lúc khó khăn như thế này “Minh nguyệt, thanh phong nhất thác không, Dân đa bán thúc, chính chi cùng.” (Thải mễ tiểu hữu đắc) (Gió mát trăng trong, túi rỗng không 35
  42. Dân cơm nửa bát, nước khi cùng ) (Vay được ít gạo) Nơi đó còn có những tấm lòng nhân ái, vì xót thương cho nhân dân đang trong cơn đói kém mà dang tay giúp đỡ dân nghèo: “Hung niên hựu thị phùng tam bát, Chúng lực tài kham hoạt vạn thiên. Ngô quận mễ nhân Vương Khoái xuất, Việt châu túc tự Triệu công tiên” (Thân hào hữu chử chúc tứ cơ giả, dư ký kỳ tính danh dĩ thượng văn, nhân hỷ thành luật) (Đã mất màu dồn thêm giáp hạt Cứu muôn người đói, góp tay nhau. Quận Ngô, Vương Khoái, kho tuôn trước, Châu Việt, Triệu công, thóc dẫn đầu.) (Thân hào có người nấu cháo cho dân đói, tôi ghi tên tuổi tâu lên, nhân vui mà làm thơ) “Một miếng khi đói, bằng một gói khi no”. Dẫu chỉ là bát cháo nhưng trong cơn khó khăn này nó lại có giá trị lắm thay. Bát cháo tuy nhỏ nhưng chứa chan tình người, tình đồng loại. Từ xưa, người Việt Nam đã quan niệm sống “tắt lửa tối đèn có nhau”. Người trong xóm làng sống với nhau là bằng tình làng nghĩa xóm, sống nương tựa vào nhau. Họ tận tình giúp nhau trong mọi công việc Vậy nên khi nhà ai có công có việc, đều nhận được sự giúp đỡ chia sẻ của xóm làng. Họ giúp nhau lợp nhà, cứu nhau khi có hỏa hoạn, hay khi có việc ma chay, giỗ tết. Không riêng gì việc nhà ai, mỗi người đều giúp một tay: “Hồ thỏ chung tình thuộc tỉnh lư, Tố duy đan triệu tống quy cư. 36
  43. Nhân giai bộ lý thành quy củ, Địa hữu bình pha thất yển trư.” (Dư đài trợ táng) (Tình đồng loại nghĩa xóm làng, màn trắng, phướn đỏ tiễn đưa về nơi yên nghỉ cuối cùng. Bước đi đã thành quy củ, bước cùng bước, dừng cùng dừng, đường bằng phẳng hay mấp mô cũng tránh những vũng nước.) (Khiêng đòn giúp đám tang) Có thể nói ánh lên trong cảnh nghèo khó là tình cảm thương yêu sâu sắc, vẻ đẹp yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Ý thơ của Đặng Huy Trứ đã thể hiện được một tinh thần nhân văn sâu sắc, một vẻ đẹp yêu thương sẻ chia của người dân nơi làng quê. Nhưng hơn cả, người nông dân trong thơ Đặng Huy Trứ chưa khi nào biết từ bỏ, thấy khó khăn, gian khổ mà lùi bước. Khó khăn nào cũng chưa từng vật ngã được sức sống của nhân dân. Đằng sau những khó khăn, thử thách, người dân lại tiếp tục hăm hở lao động không quản sớm khuya. Dẫu có là ban mai chưa tỏ, ăn vội bát cơm đã vội vã ra đồng: “Nhất nhật sinh nhai kế tại dần Đăng nhân tảo thực điểm thanh thần. Phân nhiên nông sự đã mang hậu, Cập thử triêu dương vị xuất thần.” (Điền xá thần quang) (Giờ dần đã tính kế sinh nhai, Ăn vội, cơm đèn bữa sớm mai. Đồng áng vào mùa bề bộn quá, Mặt trời chưa mọc kéo ra rồi.) (Ánh ban mai trên đồng) Phải tranh thủ mọi lúc để có thể làm việc kiếm sống: 37
  44. “Cùng lư hạ hộ cấp mưu sinh Thái hiện thiên nghi hạ nhật tình.” (Tình thiên thái hiện) (Dân nghèo miếng sống cố tìm bươi Cào hến chờ sang hạ tạnh rồi.) (Trời tạnh mò hến) Hay là khi đêm về cũng chưa dám nghỉ ngơi vẫn không ngừng lao động: “Nhật sự điền tang, dạ bạn thung Ca thanh cao xứ nguyệt quang dung.” (Nguyệt khuy thung tướng) (Ngày bận ruộng, tằm, đêm giã gạo, Tiếng ca cao vút ánh trăng hòa) (Trăng nhòm cảnh giã gạo) Mặc dù lao động vất vả, dù trời đã về khuya nhưng tinh thần lao động của họ không hề giảm sút. Ngược lại, họ còn tìm thấy niềm vui, hạnh phúc trong công việc, khung cảnh lao động lại đẹp đẽ thơ mộng biết nhường nào khi có vầng trăng sáng bầu bạn, và tiếng hát yêu đời, lạc quan cất lên. Dẫu cho tuổi tác có cao cũng không thể ngăn được niềm hăng say lao động với thái độ lao động đầy trách nhiệm, say mê: “Lão phố xuân dung thái nhất viên, Tự gia bão quán mạc hiềm phiền.” (Cấp tuyền quán thái) (Ông lão, rau xuân, một mảnh vườn Tự tay xách nước tưới chăm luôn) (Múc nước tưới rau) 38
  45. Và sau những giờ phút lao động miệt mài, tạm ngưng những công việc hàng ngày những người nông dân ấy đã tìm đến những phút giây thư giãn bên ấm nước “chè xanh giải khát”. Ý thơ thể hiện thói quen uống trà của người dân Việt Nam và ta còn cảm nhận được ở đó là niềm vui, sự đầm ấm: “Nông phu tranh vấn bào đa thiểu, Tàm phụ tương khan sắc đạm nùng.” (Thanh trà giải khát) (Bọt, kháo ít nhiều trai vỡ ruộng, Màu, xem đạm nhạt gái chăn tằm.) (Chè xanh giải khát) Đặng Huy Trứ cũng không quên phản ánh những tập tục nơi làng quê. Ngày Tết cổ truyền, ở miền Bắc Việt Nam cây nêu thường được trồng sau ngày tiễn ông Táo về trờ. Xuất phát từ quan niệm sau khi ông Táo về trời, ma quỷ thường nhân cơ hội vào quấy nhiểu, vì vậy mà trồng cây nêu chính là để trừ ma quỷ, và gửi gắm niềm hy vọng mong cả năm an lành, may mắn. Đặng Huy Trứ đã thể hiện điều này trong bài thơ “Đêm 30 trồng cây nêu” “Tịch ác, nghênh hoan thử nhất tiêu Gia gia tề thượng trúc vi tiêu.” (Trừ tịch thượng tiêu) (Trừ điều ác, đón niềm vui cùng một đêm nay. Nhà nào nhà ấy đều dựng cây tre lên làm nêu.) (Đêm 30 trồng cây nêu) Bên cạnh những tập tục tốt đẹp thì vẫn còn những điều chưa tốt còn ẩn hiện nơi làng quê. Đặng Huy Trứ là nhà trí thức tiến bộ, ông được đi nhiều nơi, tiếp xúc với những nền khoa học tiến bộ vì vậy ông luôn phê phán, phản đối những hoạt động mê tín dị đoan. Điển hình là việc gọi hồn, ông cho đó là hủ tục: 39
  46. “Quái tai hịch áo thị hà nhân, Man thuật chiêu hồn tối loạn chân!” (Hịch áo chiêu hồn) (Lạ cho mụ rí, giống người chi? Gọi được hồn ma! Lừa giỏi ghê!) (Mụ rí gọi hồn) Ông miêu tả cảnh ăn giỗ ở quê, ông cho rằng việc tổ chức đám giỗ lình đình là điều không hợp lí bởi: “Chi dưỡng nan ngôn tỵ thế hiêu. Giới biệt âm dương tuy dị lộ, Tình quan lý hãn khởi kim triêu? Nhược tương cổ đạo cam vi tục, Duy khủng bàn nhân luận ngã kiêu.” (Kỵ nhật chiêu tân) (Lúc sống khó nói là đã hết lòng phụng dưỡng sao lúc chết lại làm ồn ào. Âm dương tuy là hai đường cách biệt, tình xóm làng đâu phải hôm nay? Nhược bằng theo đạo xưa, hay đành trái tục lệ? Chỉ sợ người đời chê ta là kiêu.) (Ngày giỗ mời khách) Đặng Huy Trứ còn hết sức bất bình khi một số người cũng vì miếng ăn phải đem thân làm tôi tớ, phải chịu sự đánh mắng, khinh bạc: “Ngã diệc nhân giả, bỉ diệc nhân. Hà sự triêu triêu tứ tiên mạ?” (Quý du tử hữu tiên mạ nô tì giả) (Ta là người học cũng là người Sao cứ đánh mắng người ta mãi?) (Con nhà giàu có kẻ đánh mắng kẻ ăn người ở) 40
  47. Có thể nói, Đặng Huy trứ đã đi sâu vào từng ngóc ngách nhỏ nhất của đời sống con người nơi làng quê. Qua đó, ông cũng thể hiện tình cảm sâu sắc của mình với những người dân lao động, hết sức thấu hiểu và trân trọng những con người lam lũ lao động ấy. Nhưng bên cạnh đó, Đặng Huy Trứ cũng không ngại phản ánh những cái xấu còn tồn tại để hy vọng người dân sẽ thay đổi và cuộc sống được tốt đẹp hơn. Như vậy, ta thấy mặc dù Đặng Huy Trứ sáng tác dưới quan niệm văn học trung đại nhưng ông đã có sự đột phá bằng việc sử dụng bút pháp tả thực. Đặng Huy Trứ đã thể hiện trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt con người nơi quê hương làng cảnh Việt Nam. 41
  48. Chƣơng 3 HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT VÀ NGÔN NGỮ MIÊU TẢ PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ 3.1. Hình tƣợng nghệ thuật Viết về làng quê, Đặng Huy Trứ hầu như đã trút bỏ quan niệm giáo điều để xây dựng lên một hệ thống những hình tượng nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực đời sống, gần gũi với đời sống. Đó là một hệ thống những hình ảnh giản dị, chân thực đã được thể hiện trong thơ ông; bao gồm cả hình tượng về thiên nhiên và hình tượng về cuộc sống con người. 3.1.1. Hình tượng thiên nhiên Thiên nhiên trong bức tranh làng quê của Đặng Huy Trứ là thiên nhiên với sắc xanh của ruộng đồng, của cỏ cây hoa lá, của sông núi mây trời, của vầng trăng hiền hòa. Ngay từ khi mới 15 tuổi, trong con mắt niên thiếu, Đặng Huy Trứ đã cảm nhân vẻ đẹp của núi sông cây cỏ với một cái nhìn xanh biếc non tơ: “Thạch canh canh, Thúy trích bán không vũ, đại mạt tứ vi bình. Tuyền thạch phân minh yêu ngã phú, Nhất sơn hành tận nhất sơn thanh.” (Thượng sơn hý hành) (Biếc lưng trời mưa rỏ, Màn tứ phía vây quanh. Suối đá đòi thơ ta rỉ rả. Dải núi xanh rồi dải núi xanh.) (Lên núi làm thơ) 42
  49. Cỏ cây hoa là trong thơ Đặng Huy Trứ không phải là đào, mai, cúc, trúc mà là cỏ cây giản dị, dân dã, gần gũi với người nông dân. Đặng Huy Trứ còn đặc biệt yêu thích vẻ đẹp của màu xanh của thiên nhiên của cỏ cây hoa lá: “Nhàn lai túng bộ Mã giang tân, Bích thủy thanh sơn như cố nhân. Lạo hậu đàm hoa lãng ảnh động, Vũ dư lam sắc họa đồ tân. Nhai đàm hạng thuyết tri phong tục, Mục xướng tiều ca tẩy thổ trần. Huống thị điền viên thanh nhất sắc, Thu trung biệt chiếm thập phần xuân.” (Dã hứng) (Khi nhàn, sông Mã, dạo bờ chơi, Nước biếc non xanh bạn đó rồi. Lũ rút, hoa đầm lay bóng ấu, Mưa tan, khí núi hiện tranh trời. Trò đường, chuyện ngõ thong phong tục, Mục hát, tiều ca rửa bụi đời. Huống nữa ruộng vườn xanh mượt sắc, Trong thu, xuân vẻ chiếm riêng mười.) (Cảm hứng nơi thôn dã) Đặng Huy Trứ còn miêu tả một cách chân thực sức sống mãnh liệt của mầm hạt cải. Chỉ là ngẫu nhiên mà tự vươn lên trưởng thành: “Dồn nhi phì thạc phấn thành thành, Giới tử đầu lai tiện phát manh. . Thôn qua Vân mộng tài du nguyệt, 43
  50. Thổ xuất tu di hựu sổ hành. Thử diệc chi lan vô trạch địa, Xuân phong đáo xứ cộng phu vinh.” (Giới trưởng phấn đôi) (Lợn to phân tốt chất như thành Hạt cải rơi vào, mầm nở nhanh. Trùm đầm Vân mộng vừa đầy tháng, Vút ngọn Tu di trổ mấy ngành. Đây loại chi lan không chọn đất, Gió xuân vừa thổi, rộ tươi xanh.) (Cải mọc trên đống phân) Bức tranh làng quê còn có sự xuất hiện của những con vật rất đỗi quen thuộc. Chẳng phải là long, li, quy, phượng mà chỉ là con lợn, con cá, con ếch, con tôm, những con vật hết sức điển hình và gần gũi với làng quê: “Gia nhĩ “ly nô” thực phó danh, Nhĩ thanh tài hưởng, thử vô thanh. (Thưởng miêu) (Khen chú “ly nô” tên thật hợp Chú vừa lên tiếng, chuột câm ngay) (Khen chú mèo) Hay: “Mè suối, chép sông tung chế soi Ếch đồng lươn lạch quý thay là” (Mùa lụt đánh cá) 44
  51. Để miêu tả bức tranh nông thôn thì còn gì chân thực hơn khi nhà thơ sử dụng được một loạt hình ảnh, con chép, con ếch, con lươn lũ lượt theo dòng nước về. Viết về thiên nhiên làng quê, Đặng Huy Trứ còn đề cập đến hình ảnh hết sức quen thuộc, đó là hình ảnh ánh trăng. Trong thơ ca trung đại thì trăng vốn là hình ảnh quen thuộc, rất thi vị và giàu chất thơ. Đó là hình ảnh đã đi vào khuôn vàng thước ngọc của mĩ học trung đại. Trăng được nhắc đến rất nhiều và gợi bao cảm xúc của thi nhân. Ánh trăng được miêu tả đẹp kì diệu như được lọc qua tiếng đàn của người kĩ nữ trong thơ của Bạch Cư dị: “Thuyền với lá đông tây lặng ngắt Một vầng trăng trong vắt lòng sông.” (Tì bà hành) Nguyễn Khuyến thì khám phá hình ảnh trăng với đầy nét độc đáo và thi vị: “Song thưa để mặc bóng trăng vào” (Thu vịnh) “Làn ao long lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm) Còn trong thơ Đặng Huy Trứ, trăng cũng đẹp lung linh huyền ảo “Phong tòng trà kiêu đầu non dậy Nguyệt hướng thiên tân hải thượng sinh Như thử lương tiêu nan tái đắc Phi phàm vạn lý nhất mao khinh.” (Khai dương) (Gió từ trà kiệu đầu non dậy Trăng hướng sao tân đã mọc lên 45
  52. Cảnh đẹp đêm nay khôn thấy lại Buồm bay muôn dặm nhẹ như tên.) (Ra biển) Hay có khi trăng như là biểu tượng của quê hương, để đi đến đâu, nhìn thấy vầng trăng, cũng khiến người con xa quê vương nỗi nhớ quê nhà: “Tối ái kim tiêu nguyệt chính phì, Tha hương du thưởng cố hương ti (tư).” (Kiến nguyệt tư hương) (Yêu mấy đêm nay nguyệt đẫy đà, Quê người thưởng nguyệt nhớ quê ta.) (Thấy trăng nhớ quê) Như vậy, những hình tượng thiên nhiên trong thơ Đặng Huy Trứ là những hình tượng đã giảm đi tính ước lệ, nó rất đỗi đời thường, dân dã và gắn bó gần gũi với cuộc sống con người. Thiên nhiên làng quê được đưa vào thơ chân thực như nó vốn có. Đọc thơ Đặng Huy Trứ ta như thấy được những gì điển hình nhất của thiên nhiên làng quê Việt Nam, có thể nói, Đặng Huy Trứ đã tạo nên bức tranh sinh động, chân thực của làng quê Việt Nam. 3.1.2. Hình tượng con người Viết về làng quê, Đặng Huy Trứ đã vẽ nên bức tranh toàn cảnh và chân thực về nông thôn Việt Nam về đời sống sinh hoạt con người. Hình ảnh trong thơ Đặng Huy Trứ là hình ảnh của cuộc sống mang màu sắc chân thực, ẩn hiện trong đó là bóng dáng những con người bé nhỏ, những người nông dân nơi làng quê với những buồn vui của cuộc sống đời thường, với những nỗi vất vả, lam lũ. Đặng Huy Trứ sớm phát hiện ra những nghịch cảnh thương tâm. Một ông lão đã vất vả cả đời cho đến khi tóc đã bạc trắng mà vì miếng ăn vẫn phải làm lụng không quản nhọc nhằn: 46
  53. “Bạch phát cân trung mãn, Kim ô bối thượng huyền. Chỉ duyên sinh kế cấp, Cần khổ bất tri niên.” (Kiến ông lão đài than) (Tóc trắng đầy trong khăn, Vàng đen đè trĩu lưng, Chỉ vì kế sinh quẫn, Nhọc nhằn quên tháng năm.) (Thấy ông lão vác than) Đó là những người nông dân vất vả trên đồng sớm khuya, tất tả ra đồng từ lúc chưa thấy rõ mặt người: “Ảnh hạ canh phu tương nhận diện, Bàn trung bạch xán chính niêm thần.” (Điền xá thần quang) (Thợ cày thoáng nhận nhau qua bóng Cơm trắng còn vương dính ở môi) (Ánh ban mai trên đồng) Hay là một anh thợ cày vực nghé dẫu công việc có khó nhọc, nhưng cũng không ngăn được niềm vui: “Đồng cốc tiên nghiêm thượng vị thuần, Giáo tha ninh yếm ngẫu canh tần. Lão ngưu kiện tự tương lang bối, Đoản dẫn trường tiên biến thấp chân. Bộc bối đồn vong nông sự khổ, Huy quăng tối hỷ tinh linh tuần. Bỉ cương thử dại vô nhàn nhật, 47
  54. Phì nộn tòng kim chính cập thần.” (Canh phu giáo độc) (Vực nghé lần đầu, nghé chưa quen, Cày đôi há ngại tập nhiều phen. Trâu già, nghé khỏe, chân nương tựa, Chão ngắn, roi dài, ruộng dưới trên. Mải việc, phơi lưng quên nỗi khổ, Vâng lời, thạo bước đáng lời khen. Con cày con nghỉ không ngày rảnh, Xong vụ, chăm cho mau béo lên.) (Thợ cày vực nghé) Thơ Đặng Huy Trứ không miêu tả những giai nhân tài hoa sắc nước hương trời. Trong thơ ông chỉ có những bóng dáng những thiếu phụ thôn quê làm ruộng, chăn tằm dệt cửi: “Tàm thất phân mang kế tại y Mỗi tòng tự dưỡng thận cơ vị. Nhất khuông, nhất bạc thân kiêm lý, Tam khởi, tam miên hậu bất vi. Ty vị ly bồn tiên vấn giá, Dũng tài xuất kiển tạm sung ky (cơ). Nhược phi tang phụ tân cần thậm, Lăng bạch hà do thượng đắc ky (cơ).” (Tang phụ tự tàm) (Công việc trong buồng tằm bận rộn là để lo toan việc áo quần. Mỗi lần cho tằm ăn rất thận trọng, tỉ mỉ. Một giỏ, một nong đích thân phải làm cả. Ba thức ba ngủ thời gian không làm khác được. 48
  55. Tơ chưa ra khỏi nồi đã phải đi hỏi giá, nhộng vừa ra khỏi kén, tạm dùng khi thiếu thức ăn. Không có sự cần cù vất vả của người chăn tằm thì lụa là làm sao lên khung được.) (Người đàn bà chăn tằm) Hay những “thương nhân chạy chợ” vì kế mưu sinh phải tất tả nơi chợ búa ồn ào, đường xa dặm thẳm: “Đông hô tây hoán loạn thanh văn, Hoàn hội mưu sinh phụ nữ quần. Bạch mễ, thanh trà kiêm thục thử, Phù Ninh, Phú Lễ hựu Yên Vân. Trường giang, đoản cống cung triêu tịch, Hạ thử, đông hàn quán cốt cân. Tất hạ nhi tôn, đường thượng lão, Huề lai quả bính vị ân cần.” (Thương nhân tẩu thị) (Đây kêu, kia gọi, nghe xao xác, Chợ búa mưu sinh phận tảo tần. Kê đậu, chè xanh cùng gạo trắng, Phù Ninh, Phú Lễ lại Yên Vân. Gần xa, gồng gánh lo hôm sớm, Nóng lạnh đông hè quen bước chân. Cha mẹ trên nhà, con dưới gối. Bánh quà hoa trái mấy ân cần.) (Chạy chợ) Những “cô gái chạy chợ” hẳn là những trụ cột của gia đình, gánh nặng cơm áo đang đặt trên vai họ. Phận đàn bà con gái mà phải bôn ba gánh vác là 49
  56. một điều thiệt thòi, là nỗi vất vả vậy mà họ vẫn không hề nề hà hay nghĩ đến kêu than. Dường như mọi tâm tư lo lắng đều là dành cho “cha mẹ trên nhà, con dưới gối”. Sau này, trong thơ Tú Xương ta cũng bắt gặp bóng dáng người phụ nữ, người vợ, người mẹ trong gia đình cũng phải bươn trải buôn bán để kiếm sống “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo xèo mặt nước buổi đò đông.” (Thương vợ) Không chỉ vậy, Đặng Huy Trứ còn dành sự trân trọng, xót thương cho những người vú nuôi. Dẫu số phận của họ có hẩm hiu, nhưng trong tâm hồn họ là lòng vị tha, là niềm yêu thương con trẻ. Họ suốt ngày bận bịu chăm sóc, bế bồng con trẻ đến nỗi “đầu tóc rối như cỏ bồng”, cũng chẳng phân biệt gái hay trai, con mình hay con người thì vú em vẫn bế bồng ấp ủ cho đứa bé không quản đêm ngày: “Cù lao cúc dục thủ như bồng, Nhũ bộ đa tư bảo mẫu công. Noãn đực mỗi hoài kê đại áp, Ngõa chương ninh luận hủy phi hung. Bình sinh bất thức chi vô tự, Trú dạ thường quan cưỡng bảo đồng” (Bảo mẫu dục anh) (Bế ẵm luôn tay tóc rối bồng, Nâng niu bú mớm biết bao công Ân cần ấp ủ gà thay vịt 50
  57. Sá kể ngọc, sành trai gái chung. Một chữ “chi, vô” đâu có biết, Năm canh tã lót chẳng rời trông.) (Bà vú nuôi trẻ) Hầu như Đặng Huy Trứ không miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của những nhân vật nữ. Dù vậy những thiếu phụ và cả thiếu nữ trong thơ ông đều gây cho người đọc một thiện cảm, một sự yêu mến trân trọng. Sự chăm chỉ, sự hy sinh nhẫn nhịn của họ sẽ đem đến cho gia đình sự ấm no, hạnh phúc. Chính là họ đã góp phần làm đẹp thêm cho cuộc đời. Còn với đám nhà Nho nghèo, Đặng Huy Trứ dành cho họ sự đồng cảm sâu sắc. Chuyện cơm áo, đói nó không bỏ quên những kẻ đọc sách. Việc làm một lão nông tri điền, sống hòa mình với thiên nhiên “thu ăn măng trúc, đông ăn giá” như Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không thực hiện được. Để duy trì cuộc sống, những “hàn nho” ấy không còn cách nào khác ngoài bán chữ: “Dục thư sỉ tác đố ngư nhi, Hồ khẩu vô như mãi tự si (sư)? Chỉ giá tài nhân tam tiết quý, Sinh nhai thích dĩ nhất niên kỳ. Họa đồ, hỷ pháo tương vi ngũ, Đoản bức, trường điều túc liệu ky (cơ). Ngã đắc nhược ngôn đồng mỹ ngọc, Toàn gia đán tịch diệc ư ti (tư).” (Hàn nho mãi tự) (Mọt sách, bán chữ, nhục! Ai hổ hơn ta nay! Giấy đắt nhờ tư tết, Một năm chỉ dịp này. 51
  58. Xếp hàng cùng tranh pháo. Dài ngắn mong tạm no, Đợi người khen chữ đẹp, Cả nhà hôm sớm chờ.) (Nhà nho nghèo bán chữ) Chúng ta hẳn đã từng bắt gặp bóng dáng nhà nho nghèo bán chữ cũng xuất hiện trong những vần thơ của Vũ Đình Liên sau này với cái nhìn đầy nuối tiếc cho nền nho học cổ truyền đang dần rơi vào quên lãng, và cả sự xót thương cho ông thầy đồ già – hiện thân của nền nho học ấy: “Năm nay đào lại nở, Không thấy ông đồ xưa. Những người muôn năm cũ, Hồn ở đâu bây giờ!” (Ông đồ già) Viết về nông thôn, Đặng Huy Trứ đã xây dựng những hình tượng nghệ thuật là những người nông dân sống nơi làng quê, thông qua đó đã miêu tả những sinh hoạt của một miền quê thanh bình. Qua đó cũng là để chia sẻ, để bày tỏ niềm xót xa với sự vất vả của người dân lao động. Đặng Huy Trứ muốn bằng văn chương của mình để hậu thế vẫn có thể thấy được một làng quê cổ truyền thuần phác, nhân hậu. 3.2 Ngôn ngữ Thơ ca của Đặng Huy Trứ được viết bằng chữ Hán. Thơ chữ Hán dường như là sự lựa chọn hoàn hảo cho Đặng Huy Trứ trong việc thể hiện những cái sâu lắng, kín đáo trong tâm hồn ông. Mà ở đây, những cái ưu tư sâu kín của ông chính là tình cảm chân thành của ông về làng quê, về cuộc sống con người nơi ấy. Bằng ngôn ngữ, Đặng Huy Trứ đã khắc họa cuộc sống nơi 52
  59. làng quê với những vui, buồn, sướng, khổ trong thơ một cách chân thành và chân thực nhất. Đó là những câu thơ luôn ắp đầy niềm thương cảm với người dân phải sống cuộc sống vất vả đói kém, tai ương hoành hành: “Nhi cô, quả phụ thiên gia khốc Ốc đảo thuyền phiêu vạn hộ sầu Ai ngã chưng lê tao thử nạn Quái tai cụ mẫu tuyết hà cừu?” (Chí Nam Định) (Con côi, vợ góa ngàn đau xót Nhà đổ, thuyền trôi vạn đắng cay Thần bão rửa thù sao lắm vậy Dận nghèo gặp nạn đáng thương thay.) (Đến Nam Định) Hay: “Bất tri hư bạch đường tiền kính Tằng chiếu bàn trung mộc tú phần” (Ký phỏng cử nhân Lê Chi Hiên) (Chẳng biết trước nhà gương sáng gọi Có từng soi thấu bữa cơm rau.) (Gửi thăm cử nhân Lê Chi Hiên) Chất chứa trong thơ Đặng Huy Trứ không chỉ có niềm xót xa cho nhân dân mà còn thể hiện niềm tự hào, niềm tin vào sức mạnh, ý chí mãnh liệt của nhân dân: “Ngô nhân tự hữu hồi thiên lực Ngao cực lô khôi vị túc khoa” (Thạch chủy ngự hà) 53
  60. (Dân ta đủ sức xoay trời lại Chẳng đáng khoe chi chuyện vá trời) (Mỏm đá ngăn sông) Thơ Đặng Huy Trứ thiên về phản ánh hiện thực đời sống xã hội, bởi lẽ đó, ngôn ngữ trong thơ ông luôn dạt dào cảm xúc, giàu hình ảnh, được thể hiện qua hệ thống ngôn từ, nhất là qua hàng loạt từ láy trong các tác phẩm. Đặng Huy Trứ luôn quan tâm đến đời sống người dân, và nỗi vất vả của họ. Để diễn tả điều đó, ông đã sử dụng hàng loạt từ láy như: huỳnh huỳnh, trùng trùng, Ngoài ra ta còn thấy ông còn sử dụng từ láy để miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên: ngọ ngọ, canh canh, thanh thanh, “Phong ngọ ngọ, Thạch canh canh. Thúy trích bán không vũ, đại mạt tứ vi bình. Tuyền thạch phân minh yêu ngã phú, Nhất sơn hành tận nhất sơn thanh.” (Thượng sơn hý hành) (Núi lố nhố Đá chênh vênh Sương lưng trời, mưa rỏ. Màn tứ phía vây quanh. Suối đá đòi thơ ta rỉ rả, Dải núi xanh rồi dải núi xanh.) (Lên núi làm đùa thành thơ) Ngôn ngữ trong thơ Đặng Huy Trứ như lời nói thường. Mặc dù chịu sự chi phối và quy định chặt chẽ của thơ Đường luật từ niêm, luật, vần, tiết tấu đến bố cục bài thơ nhưng ta thấy việc tổ chức lời thơ trong bài thơ như lời nói 54
  61. hàng ngày. Ông vẫn đưa được vào thơ những nét sinh động của đời sống làng quê, kể cả những yếu tố mà thường người ta rất ít đưa vào thơ Đường như: “Dồn nhi phì thạc phấn thành thành, Giới tử đầu lai tiện phát manh. . Thôn qua Vân mộng tài du nguyệt, Thổ xuất tu di hựu sổ hành. Thử diệc chi lan vô trạch địa, Xuân phong đáo xứ cộng phu vinh.” (Giới trưởng phấn đôi) (Lợn to phân tốt chất như thành Hạt cải rơi vào, mầm nở nhanh. Trùm đầm Vân mộng vừa đầy tháng, Vút ngọn Tu di trổ mấy ngành. Đây loại chi lan không chọn đất, Gió xuân vừa thổi, rộ tươi xanh.) (Cải mọc trên đống phân) Thơ Đặng Huy Trứ mang nhiều yếu tố tự sự cho nên mang nhiều yếu tố kể. Thơ ông mang yếu tố ngôn ngữ hàng ngày để tiếng nói của thơ ông có thể gắn với mọi người hơn, nhất là người dân lao động: “Đoản trác như mao khứ thủ tinh Nạp đồn hỉ cập quyền sơ thành Quần phân tẫn mẫu phi vô ý, Thủy phóng dần thân biệt hữu tình ” (Đồn nhi nạp quyền) 55
  62. (Lông mềm mõm ngắn chọn mua chắn Thả lợn con vào chuồng mới ngăn. Đem tách đàn ra theo đực, cái Nhớ cho nước chảy hướng dần thân ) (Thả lợn con vào chuồng) Những câu thơ của Đặng Huy Trứ giống như là lời kể chuyện bằng thơ, theo một trình tự như: “Lão phố xuân dung thái nhất viên, Tự gia bảo quản mạc hiềm phiền.” (Cấp tuyền quán thái) (Ông lão, rau xuân, một mảnh vườn Tự tay xách nước tưới chăm luôn) (Múc nước tưới rau) Mang đậm chất đời thường, ngôn ngữ thơ Đặng Huy Trứ rất gần với dân, không cao siêu, không cầu kỳ. Đó là điều rất dễ nhận ra trong thơ Đặng Huy Trứ. 56
  63. KẾT LUẬN Qua việc nghiên cứu tìm hiểu “Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ” chúng tôi nhận thấy rằng: 1. Thời đại với những biến cố lịch sử lớn lao và cả yếu tố gia đình, quê hương chắp cánh cho hồn thơ Đặng Huy Trứ. Tài năng thơ ca của ông sớm nở và đã để lại số lượng tác phẩm khá lớn. Thơ ông là tiếng nói của nhà yêu nước hành đạo, luôn trăn trở suy nghĩ về nước về dân. Hình ảnh làng quê luôn in đậm trong các tác phẩm của ông. 2. Ở phương diện bút pháp thể hiện, Đặng Huy Trứ bên cạnh việc dùng bút pháp ước lệ của văn học cổ, ông cũng ưu tiên sử dụng bút pháp tả thực, tái hiện lại những hình ảnh sống động mà chân thực, giản dị của thiên nhiên cũng như cuộc sống con người làng quê. Bằng cái nhìn của Đặng Huy Trứ, bức tranh phong cảnh làng quê và cuộc sống sinh hoạt của người dân nông thôn được phản ánh đầy đủ rõ nét và chi tiết nhất. Có thể nói đây là một sự đóng góp quan trọng của Đặng Huy Trứ cho nền thơ ca dân tộc. 3. Đặng Huy Trứ đã xây dựng một hệ thống hình tượng nghệ thuật gần gũi với đời sống làng quê. Có thể nói ông đã đưa sinh hoạt cuộc sống thường nhật vào thơ. Thơ ca của Đặng Huy Trứ đã không còn là cái gì quá cao siêu, thoát khỏi cuộc sống hiện thực mà là hiện thực đã đi sâu vào thơ ca của ông. Ở phương diện ngôn ngữ, Đặng Huy Trứ sử dụng chữ Hán để sáng tác thơ, ngôn ngữ thơ giản dị gần với yếu tố tự sự đã tạo nên giọng thơ thật gần gũi, tự nhiên, mộc mạc, chan chứa yêu thương và ấm áp tình người. 4. Với đề tài Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ chúng tôi đã tiếp cận hai phương diện: thứ nhất là bút pháp thể hiện và thứ hai là hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ miêu tả phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ. Có thể nói, đây chưa phải là công trình khép lại những nghiên cứu về sáng tác của Đặng Huy Trứ. Chúng tôi hy vọng đề tài 57
  64. này sẽ còn là hướng mở để tiếp tục nghiên cứu trong những công trình nghiên cứu có quy mô lớn hơn và cấp độ cao hơn. Trong phạm vi khóa luận cử nhân, bước đầu nghiên cứu khoa học, năng lực cũng như trình độ còn hạn chế; vì vậy khóa luận chắc chắn còn nhiều thiếu sót và chưa hoàn thiện. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của bạn đọc và thầy cô để khóa luận được hoàn thiện hơn vì sự khám phá giá trị văn chương Đặng Huy Trứ nói riêng và những giá trị của văn học Trung đại Việt Nam nói chung. 58
  65. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (chủ biên) (1992), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1994), Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Nguyễn Đình Chú (chủ biên) (1990), Tác giả văn học Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 5. Phan Cự Đệ (1984), Tác phẩm và chân dung, Nxb Văn học, Hà Nội. 6. Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7. Mai Thị Hiền (2010), Nông thôn Việt Nam trong thơ Đặng Huy Trứ, Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh. 8. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Trà Lĩnh (Sưu tầm, khảo cứu, biên dịch) (1990), Đặng Huy Trứ, con người và tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 10. Võ Thị Quỳnh (2008), Đặng Huy Trứ và trăng, Tạp chí Sông Hương trang.html. 11. Nguyễn Hữu Sơn (2014), Đặng Huy Trứ - tác gia lớn của thế kỷ 19 [pdf], 123doc. the-ky-19-pdf.htm.
  66. 12. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.