Khóa luận Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

pdf 72 trang thiennha21 15/04/2022 4121
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_van_de_so_huu_trong_nen_kinh_te_thi_truong_o_viet.pdf

Nội dung text: Khóa luận Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC THÁI THỊ CHÚC VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Hà Nội – 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC THÁI THỊ CHÚC VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Người hướng dẫn: PGS. TS. Trần Ngọc Liêu Hà Nội – 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập tại khoa, tại trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Trần Ngọc Liêu đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2019 Thái Thị Chúc
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU 7 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu 7 1.2. Quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu ở Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay 14 Chương 2. ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 23 2.1. Nền kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường 23 2.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu. 23 2.1.2. Kết quả đạt được trong quá trình đổi mới của Đảng về vấn đề sở hữu. 27 2.2. Những hình thức sở hữu cơ bản trong quá trình đổi mới Việt Nam hiện nay. 34 2.2.1. Sở hữu nhà nước 36 2.2.2. Sở hữu tập thể 40 2.2.3. Sở hữu tư nhân 43 2.2.4. Sở hữu hỗn hợp 47 2.3. Một số hạn chế và vấn đề đặt ra 50 KẾT LUẬN 61 TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Sở hữu luôn được coi là vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề sở hữu sẽ tạo động lực cho phát huy kinh tế- xã hội, nhưng nếu không nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề sở hữu sẽ làm cản trở đến quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Sự phát triển của khoa học công nghệ như vũ bão, xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng nhanh cuốn hút các quốc gia vào một sân chơi chung. Vì vậy, mỗi quốc gia phải nhanh chóng thay đổi, bắt nhịp được xu thế chung của thế giới. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Với tình hình đất nước ta hiện nay, đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến sở hữu đòi hỏi phải nghiên cứu và tìm ra các giải pháp giải quyết vấn đề. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển sẽ làm thay đổi vấn đề sở hữu theo hướng có lợi cho việc phát triển và đảm bảo lợi ích cho chủ thể kinh tế như các hình thức sở hữu đa dạng giúp cho chủ thể kinh tế có điều kiện tự do sản xuất, kinh doanh và phát huy tính năng động sáng tạo của mình. Từ đó, họ đảm bảo cuộc sống và mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước. Ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức, làm thay đổi các hình thức sở hữu. Bối cảnh phát triển mới của đất nước cũng đang đặt ra hàng loạt vấn đề liên quan đến sở hữu đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết. Đó là hiện thực khách quan ảnh hưởng hệ thống và sâu sắc trực tiếp đến tiến trình phát triển của Việt Nam, nhưng lại chưa được nghiên cứu. Vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đứng trước những thời cơ và thách thức của thời đại, trước yêu cầu phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường mà vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa thì Việt Nam nhất thiết phải tiếp tục giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu. Từ đây, đòi hỏi Đảng và nhà 1
  6. nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thay đổi tư duy lãnh đạo, đổi mới đường lối và chính sách cho phù hợp với công cuộc hội nhập và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986 đến nay và vấn đề sở hữu luôn là đề tài được giới lý luận quan tâm nghiên cứu. Thành tựu hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta đã có nhiều chính sách kịp thời nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế. Từ đó đến nay, vấn đề sở hữu luôn là đề tài được giới lý luận quan tâm nghiên cứu. Song, thực tiễn xây dựng đất nước luôn đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết các vấn đề xung quanh sở hữu về bản chất của sở hữu, sự tồn tại, vai trò của các hình thức sở hữu hiện nay và những vấn đề đặt ra vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, vấn đề sở hữu luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị- xã hội. Việc giải quyết vấn đề sở hữu là giải quyết vấn đề cơ bản trong việc xác định mô hình cũng như phương hướng phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia. Những tác động của thời cuộc đã ảnh hưởng sâu rộng đến sự thay đổi của sở hữu và những quan niệm của con người về sở hữu. Vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm không những là những nhà nghiên cứu khoa học về luật pháp hay kinh tế, xã hội mà còn cả người dân trong nước mà còn có cả nước ngoài. 2
  7. Trong đó, có thể kể ra một số công trình đề cập đến vấn đề sở hữu tiêu biểu sau đây: - Cuốn “Chủ nghĩa Mác- Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam” NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002 của PGS. TS. Đặng Hữu Toàn, tác giả đã phân tích vấn đề đa dạng hóa và tính chất đan xen của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và nhấn mạnh sự phát triển kinh tế tư nhân. Cuốn “Về vấn đề sở hữu” do Nguyễn Thị Luyến (chủ biên), tác giả chỉ ra rằng vấn đề sở hữu rất phức tạp và đang còn nhiều ý kiến khác nhau. “Một số vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Văn Thạo và Nguyễn Hữu Đạt đồng chủ biên, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, đã trình bày một số vấn đề lý luận về sở hữu, quan điểm về sở hữu. Bài viết “Vấn đề sở hữu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội” của Phó giáo sư Tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa trên tạp chí Cộng sản, tháng 6/1989. Đổi mới sở hữu ở Việt Nam: Một số cơ sở lý luận của Phạm Văn Đức (tạp chí Triết học, số 2- 2005) chỉ ra cơ sở lý luận căn bản của việc đổi mới về sở hữu ở Việt Nam là sự đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội và khẳng định sự thành công tiếp theo của công cuộc đổi mới phần nhiều phụ thuộc vào những chủ trương và giải pháp nhằm sử dụng một cách tối ưu các loại hình sở hữu. Bài viết: Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (tạp chí Lý luận Chính trị, số 03- 2006) của tác giả Nguyễn Nhâm đã làm rõ tính khách quan của các hình thức sở hữu, xác định rõ các thành phần kinh tế và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Các đề tài nghiên cứu khoa học như: kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội và ý nghĩa của những quan điểm đó ốđ i với quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay”, Hà Nội, 2001 do TS Trần Ngọc Linh làm chủ nhiệm đề tài; công trình “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế 3
  8. thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội do GS. TS Nguyễn Kế Tuấn làm chủ biên. Các công trình đã nghiên cứu nhiều mặt của vấn đề sở hữu và đề cập khá sâu sắc, toàn diện và có ệh thống về vấn đề sở hữu. công trình “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986- 2006)” do Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận biên tập và nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản (lưu hành nội bộ) đã đề cập toàn diện và sâu sắc quá trình đổi mới và bài học rút ra về vấn đề sở hữu. - Các luận văn, luận án nghiên cứu như: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nguyễn Thị Huyền, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2004, trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề sở hữu, luận văn trình bày một số vấn đề lý luận về sở hữu, sở hữu tư liệu sản xuất và những nhân tố tác động đến quá trình hình thành, biến đổi của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất trong nền kinh tế. Luận án Tiến sĩ Triết học: Xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Vũ Hồng Sơn (2000), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trên cơ sở quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, thông qua phân tích sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu trên thế giới và trong công cuộc đổi mới ở nước ta, đã nêu lên xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Các đề tài trên là có đóng góp rất lớn trong việc nhận thức quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề sở hữu. Luận chứng khoa học một số nhận thức mới về phạm trù sở hữu. Và góp phần làm sáng tỏ nội dung quan điểm đổi mới của Đảng về vấn đề sở hữu hiện nay. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa đây là vấn đề đã được giải quyết thấu đáo. Thực tiễn khi xây dựng đất nước luôn luôn vận động, biến đổi và sở hữu với có sự ảnh hưởng quan trọng và luôn có những vấn đề mới nảy sinh cần được tiếp tục nghiên cứu. Song đây 4
  9. sở hữu vẫn là vấn đề phức tạp và có rất nhiều những ý kiến khác nhau. Các công trình nghiên cứu kể trên sẽ là những tài liệu tham khảo quý báu cho triển khai đề tài nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về sở hữu, đánh giá vấn đề sở hữu đặc biệt là các hình thức sở hữu và bước đầu luận giải những vấn đề đặt ra đối với sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích như đã nêu ở trên, khóa luận có những nhiệm vụ cụ thể như sau: • Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và của Đảng về sở hữu. • Đánh giá vấn đề sở hữu tập trung vào các hình thức sở hữu ở Việt Nam. Nêu ra những hạn chế và luận giải những vấn đề đặt ra đối với sở hữu trong bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đặc biệt là các hình thức sở hữu. - Phạm vi nghiên cứu: • Về nội dung: Khi bàn về sở hữu dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn có rất nhiều vấn đề đặt ra. Có thể kể đến như các chủ đề như chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu, quyền sở hữu đối tượng sở hữu, loại hình sở hữu và hình thức sở hữu. Trong phạm vi của khóa luận, chúng tôi tập trung nghiên cứu khảo sát vào các hình thức sở hữu của Việt Nam hiện nay. • Về thời gian: Quá trình đổi mới từ năm 1986 cho đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong báo cáo là: phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, logic- lịch sử, khái quát hóa, trừu tượng hóa và các phương pháp chung của khoa học xã hội. 5
  10. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận. - Ý nghĩa lý luận: Vì vậy, việc nắm vững vấn đề sở hữu, đặc biệt là luận điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ là cơ sở lý luận nền tảng tư tưởng cho việc vận dụng của Đảng trong hoạch định, định hướng phát triển cho đất nước. Đó là căn cứ để đấu tranh chống các tư tưởng phản động, chống đối và xuyên tạc quan điểm của Đảng và nhà nước. - Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần vào việc đánh giá có tính khái quát, nhận diện thực trạng về sở hữu trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta đang có quá trình hoà quyện, đan xem, bổ sung cho nhau để phát triển trong một hành lang định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là việc lựa chọn hợp quy luật và có hiệu quả, phát huy được các mặt của sở hữu. Trong đó, vẫn còn tồn tại mặt hạn chế và cần đưa ra những vấn đề đặt ra của sở hữu. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận gồm 2 chương, 5 tiết. 6
  11. Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu Khái niệm sở hữu đã trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu đời. Trong suốt nhiều thế kỷ trước, khái niệm “sở hữu” hoặc là tuyệt nhiên không được sử dụng, hoặc đã được dùng với những nghĩa khác xa nghĩa ngày nay [25; Tr. 9]. C. Mác là người đầu tiên đứng trên quan điểm duy vật biện chứng để phân tích xã hội và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ đó, ông tìm ra quy luật khách quan về sự phát triển của xã hội loài người. C. Mác khác với những nhà tư tưởng cùng thời, ông đi sâu vào nghiên cứu vấn đề sở hữu gắn với các hình thái kinh tế- xã hội chứ không nghiên cứu khái niệm sở hữu một cách chung chung trừu tượng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin rất quan tâm vấn đề sở hữu, các ông đã tiếp thu một cách có chọn lọc những quan điểm về sở hữu và đã đưa ra những quan điểm khoa học về sở hữu dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy vật, nhưng hầu như các ông không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về sở hữu. Trong các nghiên cứu của mình, C. Mác coi vấn đề sở hữu giữ vị trí cực kỳ quan trọng cả về mặt kinh tế và mặt chính trị. Về mặt kinh tế, vấn đề sở hữu có quan hệ mật thiết với quá trình sản xuất của cải vật chất. Sở hữu chính là mối quan hệ xã hội tồn tại một cách khách quan giữa người với người trong quá trình lao động sản xuất. Đó chính là quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải xã hội. Nhờ có mối quan hệ khách quan này, con người có thể tiến hành được quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần và nhờ có quá trình sản xuất này mà xã hội loài người có thể tồn tại và phát triển. C. Mác viết: “Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả, thì ở đó cũng không có một tên sản xuất nào cả. Do đó cũng không có một xã hội nào cả”[8; Tr. 43]. Về mặt chính trị, C. Mác 7
  12. cho rằng, giai cấp nào nắm được quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, thì giai cấp đó nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất, nắm quyền phân phối sản phẩm xã hội; giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các giá trị vật chất, thì giai cấp đó cùng năm quyền chi phối mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, là giai cấp thống trị trong xã hội. Ông viết: “Tất cả các cuộc cách mạng gọi là những cuộc cách mạng chính trị, từ cuộc cách mạng đầu tiên cho đến cuộc cách mạng cuối cùng, đều được tiến hành để bảo hộ chế độ sản xuất thuộc một loại nào đó.”[7;Tr. 173] Đồng thời, C. Mác coi vấn đề sở hữu là vấn đề sống còn của bất kỳ giai cấp nào trong xã hội, ông viết: “Vấn đề sở hữu bao giờ cũng là vấn đề sống còn của giai cấp này hay giai cấp khác- tùy thuộc vào trình độ phát triển của công nghiệp.”[2; Tr. 428]. Trong các tác phẩm mang tính cương lĩnh, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đã xác định một cách triệt để và dứt khoát rằng sở hữu là “vấn đề cơ bản”, then chốt của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm của Mác về sở hữu được trình bày ở nhiều tác phẩm Trong đó, có những tác phẩm viết riêng như “Tư bản”, “Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844; có những tác phẩm viết chung với Ph. Ăngghen như “Hệ tư tưởng Đức”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” Trước hết, C. Mác khẳng định: “định nghĩa sở hữu tư sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”[3; Tr.234]. Đồng thời C. Mác và Ph. Ăngghen đều coi sở hữu không chỉ là một quan hệ xã hội, mà trước hết về thực chất và cơ bản, sở hữu là là mối quan hệ giữa người với người trong đời sống sản xuất xã hội, trước hết là tư liệu sản xuất và kết quả của lao động sản xuất. Con người chỉ đặt ra vấn đề sở hữu khi có sự hiện diện của người khác, cần khẳng định sự chiếm hữu của họ nhằm thực hiện một lợi ích nào đó được thừa nhận cả về kinh tế và pháp lý[27; Tr. 14]. Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng khẳng định sở hữu là một quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể[5; Tr. 745- 746], C. Mác đã viết trong tác 8
  13. phẩm “Sự khốn cùng của triết học” (1847): “Trong các thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát triển một cách khác nhau và trong một loạt quan hệ xã hội hoàn toàn khác nhau.”[4; Tr. 234]. Khi định nghĩa về sở hữu C. Mác đã chỉ ra phương pháp luận để nghiên cứu khái niệm sở hữu đó là phân tích nền sản xuất xã hội. Vì chỉ có dựa vào nghiên cứu những điều kiện vật chất của đời sống xã hội mới đưa ra được định nghĩa, vị trí và vai trò của sở hữu. Sở hữu là quan hệ đối với những điều kiện của sản xuất. Sở hữu luôn có hai nội dung kinh tế và pháp lý. Có thể hiểu một cách đơn giản nội dung pháp lý của phạm trù sở hữu thừa nhận về mặt pháp luật một vật phẩm nào đó (đối tượng sở hữu) là của ai và nội dung pháp lý của sở hữu thể hiện ở chỗ, pháp luật quy định bảo vệ đối với chủ thể sở hữu như thế nào. Như trong tác phẩm “Quốc hữu hóa ruộng đất”, C. Mác đã nhận định rằng, trong tiến trình lịch sử, những kẻ chiếm đoạt đều nhận thấy cần phải thông qua luật pháp do chính họ đặt ra để đem lại tính ổn định về mặt xã hội (một sự thừa nhận nào đó) cho cái quyền nguyên thủy nảy sinh từ sức mạnh thô bạo. Còn nội dung kinh tế là những lợi ích mà người sở hữu được hưởng từ vật phẩm đó. Nội dung kinh tế của sở hữu trước hết thể hiện ở chỗ, nó là cơ sở, là điều kiện của sản xuất. Hai nội dung trên của sở hữu có quan hệ biện chứng với nhau. Sự phát triển của các quan hệ sở hữu về mặt kinh tế sẽ kéo theo những thay đổi của quan hệ pháp lý. Còn, nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu rất phức tạp, bao hàm nhiều khâu, nhiều mối quan hệ, nó không chỉ dừng lại ở câu hỏi đối tượng sở hữu thuộc về ai, ai quản lý kinh doanh mà còn xem xét đến cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế như thế nào, dưới hình thức nào? Vì vậy, khi xác định được nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu trong một giai đoạn lịch sử nhất định thì cần phải đặt nó trong tất cả những mối liên hệ vốn có của nó. Sở hữu chính là biểu hiện về mặt xã hội của sự chiếm hữu, nó thay đổi theo sự thay đổi của những điều kiện kinh tế- xã hội của một giai đoạn lịch sử nhất định. Nói cách 9
  14. khác, sở hữu là quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể biến đổi cùng với quá trình phát triển của lịch sử loài người. Quan niệm của C. Mác về sở hữu tư liệu sản xuất quyết định bởi tính chất, trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Theo Ph. Ăngghen trong “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” thì sự phát triển của lực lượng sản xuất, việc phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, cũng như việc tăng cường trao đổi hàng hóa là nguồn gốc nảy sinh hình thức sở hữu tư hữu. Bởi không ai có thể tiến hành sản xuất nếu như không sở hữu bất cứ tư liệu sản xuất nào vì sở hữu tư liệu sản xuất là tiền đề tạo ra của cải vật chất và mang lại lợi ích cho chủ sở hữu. Các ông đã tiến hành phân tích những giai đoạn chủ yếu trong sự phát triển lịch sử của sản xuất mà cơ sở nền tảng của nó là sự phát triển của các lực lượng sản xuất. Ở đây, quan điểm này được trình bày lần đầu tiên, các ông đã chỉ rõ, mỗi một nấc thang mới trong sự phát triển lịch sử của sản xuất đã làm nảy sinh những hình thức phân công lao động mới và tương ứng với mỗi hình thức phân công lao động ấy là những hình thức sở hữu mới và đến lượt mình, mỗi hình thức sở hữu này lại sản sinh ra những quan hệ xã hội và chính trị tương ứng với nó. C. Mác cho rằng: “không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang trong quá trình hình thành”[6; Tr. 15- 16]. Khi phát triển tới một giai đoạn nhất định, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, 10
  15. trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Những quan hệ cũ đã cản trở sản xuất, chứ không làm cho sản xuất tiến triển lên. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó, bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội. Ví dụ như cuộc cách mạng tư sản Pháp đã xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến để thay bằng chế độ sở hữu tư sản. Nói cách khác, một chế độ xã hội mới không thể ra đời, không thế chiến thắng chế độ xã hội cũ hay đứng vững khi mà các lực lượng sản xuất quá thấp kém hoặc quá trì trệ. Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển sẽ dẫn đến thay đổi quan hệ sở hữu; bất cứ một sự cải biến nào về quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa. Nhưng C. Mác cũng chỉ ra rằng tuy quan hệ sản xuất chịu sự quyết định trực tiếp của lực lượng sản xuất, nhưng với tư cách là thành tố quan trọng nhất, quyết định bản chất quan hệ sản xuất, quyết định bản chất chế độ kinh tế, quan hệ sở hữu là tiêu chí để phân biệt các hình thái kinh tế- xã hội khác nhau. Đặc biệt, để xóa bỏ chế độ tư hữu, theo C. Mác sẽ phải “kinh qua một quá trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực”. Bởi vì, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của chế độ tư hữu có tính lịch sử của nó, với những ý nghĩa lịch sử của nó. Điều đó có nghĩa là, mặc dù chúng ta hiểu được thế nào là chế độ tư hữu và hơn thế, hiểu được bản chất của chế độ đó, nhưng chúng ta hoàn toàn không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ở bất kỳ trình độ phát triển nào của nền sản xuất xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, hay theo ý muốn chủ quan của con người. Ngay cả khi nhiệm vụ đó được đặt ra thì việc xóa bỏ chế độ tư hữuũng c không thể thực hiện được ngay lập tức, như Ph. Ăngghen đã viết trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”. Trả lời câu hỏi: Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Ph. Ăngghen nêu rõ: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng 11
  16. lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu”[2; Tr. 469]. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải tuân theo các quy luật khách quan của sự vận động, phát triển xã hội và được thực hiện triệt để khi sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa. Khi đó, cái vỏ ấy sẽ vỡ tung ra với phương thức sản xuất mới có quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. C. Mác gọi đó là “sự phủ định cái phủ định”. Kế thừa những quan điểm của C. Mác về sở hữu, Lênin đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có cuộc cách mạng xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã hội chủ nghĩa ”[28; Tr. 518]. Đồng thời, Lênin đã vạch ra đặc trưng của thời đại mới, về sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang sở hữu tư bản độc quyền và từ sở hữu tư bản độc quyền sang sở hữu tư bản độc quyền nhà nước. Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã chỉ ra quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc) là do sự tích tụ sản xuất đã đạt đến trình độ cao vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XIX, tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tích tụ sản xuất diễn ra mạnh mẽ trong nền kinh tế ở các nước tư bản phát triển. Sở dĩ như vậy là do sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất và việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Lênin cũng chỉ rõ đặc điểm kinh tế xuyên suốt và bao trùm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất quá độ: không còn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ 12
  17. nghĩa. Ông giải thích: “Danh từ quá độ nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có cả những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng phải thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó”[29; Tr. 362]. Những thành phần, những bộ phận, những mảnh đó hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất và có quan hệ tương tác với nhau. Bộ phận kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ giữ vị trí thống trị và chi phối khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện tư tưởng này những năm sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Lênin đã đề ra và chỉ đạo thi hành Chính sách kinh tế mới (NEP), làm sống lại nền kinh tế của đất nước với chế độ đa sở hữu, đa thành phần kinh tế, kể cả các thành phần phú nông và tư sản thành thị, đem lại sự khởi sắc nền kinh tế- xã hội, góp phần quan trọng tăng cường tiềm lực quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Trong những năm thực hiện Chính sách kinh tế mới, những xí nghiệp vừa và nhỏ không thuộc quyền sở hữu của nhà nước phát triển mạnh, kể cả những xí nghiệp đã chuyển sang sở hữu nhà nước trong những năm thực hiện Chính sách Cộng sản thời chiến song không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả thì trả lại cho chủ cũ. Việc phục hồi các xí nghiệp tư nhân, việc phát triển thành phần kinh tế tư bản tư nhân góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế Nga đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiêu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nên tiêu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nên tiêu sản 13
  18. xuất và trao đổi, bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”. [30; Tr. 276] Nhưng, những tư tưởng của Lênin về thời kỳ quá độ, về phát triển kinh tế nhiều thành phần, về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu và về phát triển nền kinh tế thị trường đã không được những người kế tục sau này kế thừa và phát triển, mà lại đưa nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo của nền kinh tế chỉ huy. Học thuyết Mác- Lênin là nền tảng tư tưởng và phương pháp luận cho chính đáng của giai cấp công nhân, là cơ sở khoa học để hoạch định đường lối đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song việc vận dụng các nguyên lý về vấn đề sở hữu đòi hỏi phải tính đến những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Sự cứng nhắc giáo điều chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại. Chính C. Mác đã từng chỉ rõ, học thuyết mang tên ông “không phải là một giáo điều, mà là sự vận động”[29; Tr. 363]. Điều đó có nghĩa, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin phải được vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể và cũng phải được nghiên cứu. Như vậy, nội dung phạm trù sở hữu khá rộng, phức tạp, bao hàm nhiều vấn đề, mối quan hệ, ở đây, chúng tôi chọn định nghĩa được nhiều người chấp nhận: “Sở hữu là phạm trù chỉ toàn bộ các mối quan hệ giữa người với người đối với đối tượng sở hữu và những sản vật đã tạo ra từ sự tác động của người lao động vào đối tượng sở hữu ấy bằng những công cụ lao động do lịch sử quy định.”[40; Tr. 17] 1.2. Quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu ở Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay. Năm 1975, sau khi giành được hoàn toàn độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng lên xã hội chủ nghĩa cả 2 14
  19. miền Bắc- Nam. Thời kỳ đầu chúng ta gặp rất nhiều khó khăn vì Việt Nam xuất phát điểm là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nền công nghiệp còn hạn chế, đồng thời chịu hậu quả của chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để lại. Mặc dù đã xây dựng và đã mất rất nhiều công sức để tiến hành công hữu, thậm chí đã phải cưỡng bức người dân để công hữu tư liệu sản xuất nhằm mau chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Đáng tiếc là do việc công hữu được tiến hành ồ ạt, thậm chí bất chấp cả hệ quả kinh tế- xã hội nên chế độ công hữu cao độ ở Việt Nam nói riêng, ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung đã chưa phát huy được tác dụng trong thực tế sản xuất, kinh doanh và quản lý, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phải đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới kinh tế, thay đổi nội dung, cách quản lý, khai thác chế độ công hữu về tài sản. Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tưư tưởng Hồ Chí Minh vào thay đổi tư duy về vấn đề sở hữu, quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu được phát triển và hoàn thiện hơn qua các kỳ Đại hội và Hội nghị Trung ương như: Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (Tháng 8/1979), Chỉ thị 100 CT/TW của Ban Bí thư (tháng 1/1981), Quyết định 25/CP của Thủ Tướng Chính phủ (1/1987). Bắt đầu từ Đại hội III của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc cải tạo hệ thống các quan hệ sản xuất cũ thành quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa với 2 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, đã được thực hiện. Hai hình thức sở hữu này là cơ sở để xây dựng và phát triển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (tháng 8/1979) thị trường được công nhận như là một phạm trù khách quan độc lập với kế hoạch, chúng ta có thể sử dụng để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. 15
  20. Từ năm 1986 đến nay, kế thừa các quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy phát triển lực lượng sản xuất làm động lực để hoàn thiện và đổi mới quan hệ sản xuất, từ chỗ coi sở hữu là mục đích của cách mạng xã hội (thời kỳ trước đổi mới) chuyển thành phương tiện để phát triển kinh tế- xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã có bước phát triển mới về tư duy lý luận, khắc phục sai lầm chủ quan duy ý chí khi chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa để xác lập hai hình thức sở hữu là nhà nước và tập thể. Đảng đánh dấu bước đột phá là trước đây coi sở hữu là mục đích của cách mạng thì bây giờ được coi là phương tiện để đạt mục tiêu trong phát triển kinh tế- xã hội. Sự đổi mới quan niệm về vấn đề sở hữu mà còn tập đúng vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức trong toàn xã hội phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời nó là động lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đi đến một quyết định lịch sử với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần là chiến lược lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã rút ra: “lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.”[12; Tr. 57] Đây chính là hướng tư duy khoa học tôn trọng sự vận động khách quan của kinh tế xã hội. Đặc biệt, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII và Văn kiện các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu là phấn đấu xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[14; Tr. 26 và 15; Tr. 19- 80]. Đó cũng là căn cứ để chúng ta xác định thế nào là đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Áp dụng vào 16
  21. vấn đề sở hữu, chúng ta có thể nói rằng, chủ trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu, cho phép nhiều thành phần kinh tế tồn tại và phát triển là một chủ trương đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo chúng tôi, đó là những quan điểm đầu tiên cho sự thay đổi quan điệm của Đảng về sở hữu ở Việt Nam. Quan điểm trên được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 và được thể chế trong Hiến pháp 1991 Điều 15 của Hiến pháp quy định: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Đây là lần đầu tiên trên diễn đàn cao nhất, chúng ta đề ra lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta tạm thời chưa có sự khẳng định rõ ràng về kinh tế thị trường và mới chấp nhận nó. Kết hợp với tư tưởng thay đổi vai trò của sở hữu là chủ trương đa dạng hóa hình thức sở hữu đã nảy mầm dựa trên cơ sở của ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Những điều vừa nêu về sở hữu, cũng đã được nêu ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) và được luật hoá ở Hiến pháp năm 1992. Ngoài ba hình thức sở hữu cơ bản trên đây, Hiến pháp năm 1992 còn thừa nhận một số hình thức sở hữu hỗn hợp, đan xen, được hình thành từ mối liên hệ liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế. Điều 22 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.” Đây là cơ sở pháp lý để thừa nhận sự tồn tại hình thức sở hữu của các tổ chức kinh tế do các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế liên kết liên doanh như sở hữu của các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, sở hữu của xí nghiệp 17
  22. liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài; đồng thời là một trong những đổi mới quan trọng góp phần làm nên thắng lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở xác định sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Đại hội VIII đã nhấn mạnh việc thực hiện các chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân phát triển; khẳng định “tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ”[17; Tr. 545] Như vậy, qua các kỳ Đại hội Đảng, các thành phần kinh tế ở Việt Nam có sự thay đổi: từ chỗ lúc đầu (Đại hội VI) chỉ thừa nhận nền kinh tế có 5 thành phần (trừ tư bản thương nghiệp) đến chỗ “phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đại hội VII- 1991), “nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần” và “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”[15; Tr. 91] (Đại hội VIII- 1996) là một bước tiến dài trong lĩnh vực nhận thức và tổng kết thực tiễn những thành tựu của công cuộc đổi mới. Trong xây dựng mô hình kinh tế thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”[17; Tr. 733]. Trong báo cáo chính trị tại đại hội lần thứ IX, Đảng ta xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối trong đó có ba hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, 18
  23. “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc” và “từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”[16; Tr. 87- 96]. Đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế có ý nghĩa quan trọng cho sự hình thành và phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp, phát huy tối ưu các tiềm năng, thế mạnh của các chủ sở hữu và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển. Do đó, tạo nên sự cạnh tranh trong nền kinh tế và đó là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Đến Đại hội X (2006), Đảng ta bổ sung: “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”[17; Tr. 91]. Điều này thể hiện Đảng ta đã thay đổi hoàn toàn tư duy cũ và đưa ra những chủ trương mới về chế độ sở hữu của nền kinh tế nước ta. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã có những khái quát mới về lý luận: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.”[19; Tr. 73] Trong văn kiện, Đảng ta lần đầu tiên nêu ra đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Đây là một bước phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Trong các hình thức sở hữu, chủ yếu là những doanh nghiệp cổ phần cần có cơ chế và chính sách khuyến khích phát triển để chúng trở thành phổ biến trong nền kinh tế, góp phần quan trọng thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu. 19
  24. Văn kiện Đại hội XII cũng đã nêu khái quát những nội dung quan trọng về các bộ phận cấu thành, vai trò của thị trường, vai trò của nhà nước, vai trò của nhân dân và mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách, các nguồn lực của nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội”[20; Tr. 102- 103] Đổi mới về vấn đề sở hữu được Đảng ta thực hiện trước tiên trên lĩnh vực kinh tế, sau đó mới bắt đầu thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội. Quan điểm kinh tế của thời kỳ kế hoạch hóa tập trung từ trước những năm 1980 cho rằng, nền kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, luôn luôn đối lập với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và là nguyên nhân sản sinh ra bất công xã hội và chế độ người bóc lột người. Tư duy đổi mới Đảng ta cho rằng quan điểm về kinh tế thị trường trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung đã làm cho sức sản xuất không được giải phóng, các nguồn lực xã hội không được khai thác triệt để, đã dẫn đến kìm 20
  25. hãm sự phát triển xã hội. Tư duy đổi mới kinh tế của Đảng ta đã chỉ ra rằng, kinh tế thị trường không chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu của cả nhân loại [23; Tr. 8]. Quan điểm tư duy đổi mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở nước ta. Ngày nay, quan điểm tư duy đổi mới về kinh tế đã cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách đó là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Công cuộc đổi mới tiến hành hơn 30 năm đã mang lại những thành tựu to lớn về kinh tế- xã hội và khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới về vấn đề sở hữu, của chính sách đa dạng các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Những đổi mới về hình thức sở hữu này đã đem lại những thành tựu to lớn, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng về kinh tế và tiến lên phát triển đất nước giàu mạnh. “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có những thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội được ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia được tăng lên rất nhiều, tạo thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên con đường chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ, ”[17; Tr. 17] 21
  26. Tiểu kết Chương 1 Những tư tưởng của C. Mác, Ph. Ănghen và Lênin về vấn đề sở hữu nói chung và xoá bỏ tư hữu nói riêng cho đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự. Nó giúp cho chúng ta một lần nữa nhìn nhận lại những sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan mà chúng ta đã phạm phải khi vội vàng xoá bỏ mọi hình thức sở hữu cũ bằng biện pháp quốc hữu hóa và tập thể hoá trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, trong khi chúng ta vẫn còn là một nước nghèo, kém phát triển. Trong thời đại mới với điều kiện hoàn cảnh mới với nhiều khó khăn, nguy cơ và thách thức thì việc Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu xây dựng xã hội ta trở thành một xã hội: “Công bằng, dân chủ, văn minh”. Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay là thực hiện quá trình đổi mới sở hữu ở Việt Nam thành công bởi vì như quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin là sự phát triển của xã hội chính là sự phát triển của sản xuất. Từ cơ sở lý luận, Đảng vận dụng vào công cuộc đổi mới vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay chính là kết quả sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, thể hiện tư duy mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và khẳng định có những thành phần kinh tế đã thể hiện tốt vai trò của mình, song cũng có thành phần kinh tế còn nhiều yếu kém, bất cập. Bởi vì chỉ khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta thì mới thực sự hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng con người, xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, bác ái, Đó là vấn đề cốt lõi mà chúng ta cần phải làm để xây dựng xã nội ta trở thành xã hội dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, đưa đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 22
  27. Chương 2 ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Nền kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường 2.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu. Trong nền kinh tế thế giới tồn tại các mô hình kinh tế thị trường: kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường hỗn hợp. Cơ chế thị trường là một cơ chế kinh tế hiện thực được xác lâp một cách vững chắc trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới. Dù không là một cơ chế hoàn hảo, song cho đến nay nó vẫn chứng tỏ là một cơ chế phân bố nguồn lực và là một cơ chế phát triển kinh tế lớn nhất. Một quốc gia dựa trên nền tảng thị trường để phát triển kinh tế có thể không chắc thành công, nhưng một quốc gia không dựa trên thị trường chắc chắn sẽ thất bại trong dài hạn[22]. Và trong mỗi quốc gia lại có những biến thể khác nhau xuất phát từ quan niệm, trình độ phát triển kinh tế- văn hóa- xã hội. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Một trong những điều kiện để xuất hiện trao đổi là tính chất tư nhân của sản xuất, tức là những người sản xuất độc lập với nhau, sản xuất cái gì, sản xuất thế nào, cho ai là việc riêng của từng “người sản xuất”. “Người sản xuất” cần được hiểu theo nghĩa rộng. “Người sản xuất” có thể là cá nhân, hợp tác xã, công ty tư nhân, doanh nghiệp nhà nước Điều quan trọng nhất chính là những “người” này độc lập với nhau. Kinh tế thị trường là phương tiện tốt nhất tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển hiện đại của mỗi quốc gia. Kinh tế thị trường càng hiện đại và được vận hành có hiệu quả thì cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế do nó tạo ra càng có điều kiện gia tăng mạnh mẽ thế và lực. Kết luận nàylà đúng cho mọi quốc gia. Việt Nam không thể là một trường hợp ngoại lệ. Vì vậy, 23
  28. khái niệm “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức được xác định từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001). Sau Đại hội VI, Đại hội VII (năm 1991) xác định xây dựng “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII (năm 1996) chủ trương xây dựng “nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Việc coi kinh tế thị trường là một sản phẩm của văn minh nhân loại ngày càng phát triển với trình độ cao, nên Đảng Cộng sản Việt Nam khi xác định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn coi trọng yếu tố “mở”, cập nhật, tiếp thu tinh hoa, tiến bộ từ nền kinh tế thị trường ở nhiều nước trên thế giới là hoàn toàn đúng đắn. Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2006) đã tiếp tục làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là: - Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. - Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế - Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác. - Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, 24
  29. dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục hoàn thiện, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề sở hữu vào điều kiện cụ thể của đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp có nền kinh tế phát triển chậm, trở thành nước có sự phát triển năng động trong khu vực với tốc độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao. Sở hữu, như mọi người đều biết, là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng [21]. Vì vậy, trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tại Đại hội III Đảng ta đã đề ra chủ trương cải tạo hệ thống các quan hệ sản xuất cũ thành quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, với 2 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Trong thời gian này, chúng ta đã tập trung chú trọng, tạo mọi điều kiện để phát triển các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, cải tạo, hạn chế để đi đến xoá bỏ dần các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã giải quyết khá tốt các nhu cầu dân sinh vốn khá yếu kém ở các nước chậm phát triển như ở nước ta; giúp cho việc huy động sức người, sức của cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước. Nhưng sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi, đáng lẽ phải tập trung huy động mọi nguồn lực, mọi khả năng của các thành phần kinh tế để phát triển, nhưng chúng ta lại thực hiện một cách giáo điều, duy ý chí công cuộc cải tạo mà thực chất là xoá bỏ các thành phần được coi là phi xã hội chủ nghĩa nhằm thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Với vấn đề sở hữu trong cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ phong kiến và đánh đổ đế quốc xâm lược đúng là vấn đề cơ bản. Thêm vào đó, việc xây dựng một chế độ tiến bộ làm cơ sở nhằm thủ tiêu mọi áp bức bóc lột, tạo 25
  30. lập sự bình đẳng, hữu nghị giữa các dân tộc là mục đích của sự phát triển xã hội. Song mặt khác, bản thân các hình thức sở hữu lại là hình thức biểu hiện và bị quy định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó có nghĩa là, nếu các hình thức sở hữu mà phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; còn trong trường hợp ngược lại, nó không những không có tác dụng thúc đẩy, mà còn cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với ý nghĩa đó, sở hữu lại là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất. Điều này, đặc biệt quan trọng đối với những nước chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam. Trên thực tế, do lúc đầu Đảng nhận thức về vấn đề sở hữu theo quan điểm của C. Mác chưa đầy đủ, khi cho rằng, quan hệ sản xuất phải đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Do vậy, một hệ quả tất yếu đã xảy ra là các quan hệ sở hữu, các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và ngoài tập thể bị đối xử như là những vật cản cần phải xoá bỏ và cải tạo để đảm bảo sự đi lên và sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Chính vì nhận thức chưa đúng như vậy, chúng ta đã nóng vội và có phần duy ý chí khi xóa bỏ mọi hình thức sở hữu khác và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Chúng ta cũng không tuân theo quy luật kinh tế khách quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, muốn cho sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cho nên, một mặt, không được nóng vội xóa bỏ hay xác lập hình thức sở hữu nào đó một cách chủ quan; mặt khác, vẫn phải luôn luôn quan tâm giải quyết từng bước quan hệ sản xuất, trong đó có quan hệ sở hữu, sao cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới và lợi ích của người lao động để giảm dần sự bất bình đẳng trong xã hội. Trong nền kinh tế cũng sẽ bao hàm nhiều hình thức sở hữu như các nền kinh tế thị trường khác. Tuy nhiên, cơ cấu các hình thức sở hữu ở nước ta và 26
  31. vị trí của mỗi hình thức sở hữu trong cơ cấu đó sẽ có những khác biệt với các nước khác. Đối với nước ta hiện nay, thực hiện việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một mô thức mới, gặp nhiều khó khăn thì việc đòi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén, trong đó có lý luận về vấn đề sở hữu là tất yếu khách quan. Nó không chỉ là kim chỉ nam cho hành động kinh tế của đất nước, mà còn góp phần giải quyết, tháo gỡ vướng mắc, khắc phục sai lầm lệch lạc của thực tiễn quản lý điều hành phát sinh vì sự hoàn thiện của vấn đề sở hữu xã hội chủ nghĩa, từ đây tạo ra cái nền vật chất pháp lý cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Việc thực hiện một nền kinh tế thị trường với các loại hình sở hữu khác nhau là chiến lược lâu dài và tối ưu làm cho nền kinh tế của đất nước trở nên năng động. Qua đó, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân lao động và là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá hiệu quả việc xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Song, cũng cần phải nói thêm rằng, đối với con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, từ nhận thức đến vận dụng lý luận về sở hữu của chủ nghĩa Mác- Lênin vào tình hình cụ thể Việt Nam cần phải có sự tìm tòi, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn. 2.1.2. Kết quả đạt được trong quá trình đổi mới của Đảng về vấn đề sở hữu. Sau hơn 30 năm đổi mới về vấn đề sở hữu, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành và từng bước hoàn thiện, thay cho thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Thể chế kinh tế mới đã đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực, thúc đẩy tăng trường kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục được khủng hoảng kinh tế- xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 27
  32. Thời kỳ đầu khi Việt Nam mới giành được độc lập hoàn toàn, thống nhất hai miền Bắc- Nam thì trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn trung thành và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của đất nước. Song cũng có lúc chúng ta phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm, trong đó có vấn đề sở hữu. Đó là nhận thức cho rằng, có thể xác lập sớm một chế độ công hữu, một quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa để lôi kéo, thúc đẩy lực lượng sản xuất lạc hậu. Sau một thời gian dài duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã đến lúc chúng ta cần một sự chuyển đổi để phát triển kinh tế. Đảng đã có bước ngoặt trong đổi mới tư duy về vấn đề sở hữu là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi đầu đổi mới là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Qua quá trình phát triển nhận thức tư duy, đường lối những quan niệm, tư tưởng của Đảng và Nhà nước ngày một hoàn chỉnh. Bắt đầu từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta không ngừng thay đổi chủ trương, chính sách theo hướng khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế đó phát triển. Chẳng hạn, trong “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000” Đảng đã khẳng định: “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp Mọi đơn vị kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật.” [13; Tr. 8] Những tư tưởng trên đây đã được Đại hội IX của Đảng tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó, “các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh ”[16; Tr. 95- 96]. Cơ chế thị trường với những ưu thế không thể chối 28
  33. cãi là một sự lựa chọn hợp lý và cần thiết. Cơ chế quản lý cũ cồng kềnh, kém năng lực đã không còn phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Những căn bệnh đặc trưng của cơ chế cũ như bảo thủ, trì trệ, kém năng lực hình thành nên bộ máy quản lý thiếu chuyên môn nghiệp vụ nhưng lại có thái độ quan liêu, cửa quyền cần phải được thay đổi. Việc xoá bỏ hoàn toàn không dễ dàng, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều nhưng đó là việc cần thiết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Cùng với cơ chế cũ cũng là sự bất cập khi nhà nước can thiệp quá sâu vào sản xuất kinh doanh, điều hành không tuân theo các quy luật kinh tế mà theo cảm tính dẫn đến sự thất bại trong thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra. Chuyển sang cơ chế mới sẽ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển theo đúng những quy luật kinh tế khách quan. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Đại hội VII (6-1991), văn kiện đã nêu rõ cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Đây là lần đầu tiên Đảng đề cập đến cơ chế thị trường với tư cách là cơ chế vận hành nền kinh tế và đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu to lớn. Đại hội IX của Đảngđưa ra khái niệm kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là “Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường dựa trên cơ sở và chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”[16; Tr. 36]. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” được hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý 29
  34. và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiên tiến hiện đại trong xã hội do dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức bất công, tạ điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”[45; Tr. 23]. Đảng xây dựng quan điểm mới kinh tế thị trường là thành tựu chung của nhân loại, hoàn toàn không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế. Đây là kết quả của quá trình 30 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các bài học lớn tại các kỳ Đại hội Đảng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang thực hiện là nền kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế vận hành nền kinh tế đó chính là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy, quan niệm đổi mới của Đảng đã thay đổi một số nhận thức như: Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ba là, có thể và cần thiết sự dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nếu biết vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn thì có thể mang lại nhiều lợi ích cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [34; Tr. 178]. Trải qua nhiều năm thực hiện đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng hoàn thiện hơn và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang từng bước được tạo lập và phát triển. Đảng và Nhà nước đã hai lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật, trên 70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013, luật Đất đai (sửa đổi), luật Đầu tư công cùnghiều n luật quan trọng khác để từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã 30
  35. hội chủ nghĩa và thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Những văn bản quy phạm pháp luật này về cơ bản đã tạo hành lang pháp lý hình thành và thúc đẩy việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những chính sách, điều luật giúp Việt Nam dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Đồng thời, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Các yếu tố nền tảng cơ bản của kinh tế thị trường dần được hình thành và được nhiều nước thừa nhận. Cho đến nay đã có gần 50 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam [36; Tr.2]. Trên thực tế cho thấy, ở một nền kinh tế cần có nhiều hình thức sở hữu chứ không đơn thuần chỉ có hai hình thức sở hữu trước đây. Trong quá trình phân tích sự vận động của các nền kinh tế đã từng nói tồn tại trong lịch sử đã chỉ ra rằng rất hiếm khi nền kinh tế chỉ có một thành phần kinh tế duy nhất. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cũ bị tiêu diệt nhưng chưa tiêu diệt hết, cái mới đang nảy sinh nhưng còn yếu ớt. Tại Đại hội VI, khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy lý luận và nhận thức thực tiễn. Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, mà còn nhận thấy sự cần thiết phải có chính sách đúng đắn nhằm sử dụng và phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Các loại hình thức kinh tế này rất đa dạng, không cùng chung quyền lợi nên việc theo dõi, kiểm tra và kết hợp các loại hình này trong cùng một. 31
  36. Thực tiễn cho thấy, sự phát triển đa dạng và đóng góp ngày càng lớn cho phát triển kinh tế- xã hội của các thành phần kinh tế những năm qua, đặc biệt trong năm năm 2001- 2005 chính là thắng lợi đầy sức thuyết phục của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần. Từ chỗ chỉ có hai thành phần kinh tế là nhà nước và tập thể với hai hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh là doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã kiểu cũ. Đến nay, nền kinh tế nước ta đã bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với nhiều loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh rất đa dạng, phong phú cả về quy mô, trình độ lẫn quan hệ sản xuất. Kết quả của đa dạng hoá sở hữu là số lượng chủ sở hữu tăng lên đặc biệt là chủ sở hữu thuộc kinh tế tư nhân gồm tiểu chủ, cá thể, tư bản tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy quá trình khai thác và huy động nguồn lực về vốn, lao động, tài nguyên, trí tuệ, tay nghề vào kinh doanh, tạo ra nhiều giá trị mới cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm, cải thiện đời sồng và đóng góp ngân sách Mỗi thành phần kinh tế và loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thích ứng với những đối tượng, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, cùng phát triển và đều góp phần đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực trong nước cũng như ngoài nước làm nên một nền kinh tế Việt Nam sống động, có tốc độ tăng trưởng cao, xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không phải là “thụt lùi” không làm “mất chủ nghĩa xã hội” như một số người lầm tưởng mà chính là một chủ trương lớn để khai thác, phát huy mọi tiềm năng của toàn xã hội cũng như tranh thủ các nước và các tổ chức quốc tế. Với những đặc điểm xã hội như ở nước ta hiện nay, việc thực hiện một mô hình kinh tế mà trong đó có nhiều hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập với nhau, cùng tồn tại là một phương án tối ưu có khả năng 32
  37. thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động. Điều này không hề mâu thuẫn với lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu vì C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “Sở hữu tư nhân là hình thức giao tiếp cần thiết ở một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Hình thức giao tiếp đó không thể bị xóa bỏ và là điều kiện cần thiết cho sự sản xuất ra đời sống vật chất trực tiếp, chừng nào chưa tạo ra được những lực lượng sản xuất, mà đối với chúng sở hữu tư nhân trở thành xiềng xích hoặc trở ngại.”[1; Tr. 485- 486] Cơ sở lý luận của việc xác lập tính đa dạng các hình thức sở hữu thể hiện ở luận điểm của C. Mác và Ph. Ănghen cho rằng các hình thức sở hữu đựơc xác lập bởi trình độ xã hội hoá sản xuất. Vì vậy, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành tựu lớn cả về lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới. Bên cạnh đó, nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã và đang đi vào cuộc sống. Các doanh nghiệp, doanh nhân được tự chủ sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh sang quản lý bằng pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Kinh tế thị trường luôn có tác động hai mặt đến sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung và đến đạo đức nói riêng. Do vậy, để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, đồng thời thông qua các quan hệ kinh tế mà xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường thì trước hết, cần phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, muốn định hướng các giá trị đạo đức thì trước tiên phải định hướng ngay trong cơ sở kinh tế- xã hội đã sản sinh ra nó. 33
  38. 2.2. Những hình thức sở hữu cơ bản trong quá trình đổi mới Việt Nam hiện nay. Khi mới bước vào con đường xây dựng đất nước, chính vì nhận thức chưa đúng, nên chúng ta đã nóng vội và có phần duy ý chí khi xóa bỏ mọi hình thức sở hữu khác và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Chúng ta cũng không tuân theo quy luật kinh tế khách quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, muốn cho sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Việt Nam chỉ có kinh tế kế hoạch hoá tập trung với vai trò tuyệt đối của nhà nước trong quản lý kinh tế mà thực chất là Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động sản xuất, kinh tế, từ Trung ương tới địa phương, bằng phương thức mệnh lệnh hành chính. Đó là nền kinh tế hiện vật và bao cấp, đi liền với phương thức phân phối bình quân, không thể hiện tính khách quan của quy luật giá trị, quy luật thị trường. Trên thực tế, Nhà nước độc quyền sản xuất- kinh doanh. Trong quan hệ sở hữu thì chỉ có sở hữu nhà nước (đại diện cho sở hữu xã hội) và sở hữu tập thể. Không có kinh tế tư nhân, không có thị trường và càng không có cạnh tranh. Vì vậy, đất nước thời kỳ đầu đã rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng kinh tế nặng nề. Cùng với sự vận động của thực tiễn và sự phát triển của nhận thức, lý luận về phát triển nền kinh tế Đảng nhận thấy hướng đi trước đây không còn hiệu quả, gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam phải đổi mới về vấn đề sở hữu, quan trọng là phải xây dựng nền kinh tế nhiều loại hình sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X, XI và XII. Từ đó, Đảng vận dụng cơ sở lý luận vào vấn đề sở hữu nên đã thừa nhận tính đa dạng, khách quan của các loại hình sở hữu và hình thức sở hữu sẽ mở ra cho chúng ta sự nhận thức mới về sự phong phú trong sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế. Các loại hình sở hữu, các thành phần kinh tế đều được xem là bộ 34
  39. phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các chính sách cụ thể đối với các loại hình sở hữu và các thành phần kinh tế trở nên thông thoáng hơn và ngày càng được hoàn thiện. Quan điểm về hình thức sở hữu, thành phần sở hữu trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà đa dạng hóa các hình thức sở hữu và thành phần sở hữu. Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung gồm có 4 hình thức sở hữu chính: Sở hữu nhà nước; Sở hữu tập thể; Sở hữu tư nhân và Sở hữu hỗn hợp. Việc quy định các hình thức sở hữu cụ thể sẽ giúp chúng ta có điều kiện quy định các phương thức tồn tại, vận động của sở hữu gắn liền với các chủ sở hữu cụ thể cùng với các chế độ pháp lý có tính đặc thù của từng hình thức sở hữu đó. Do đó cần phải có sự phân loại các hình thức sở hữu một cách hợp lý và khoa học hơn. Tất cả các loại hình sở hữu này đều là những phương tiện để đạt tới mục tiêu là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như đã được xác định trong các đại hội gần đây của Đảng. Nước ta đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hóa hình thức sở hữu do Đảng khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Trong nền kinh tế nhiều thành phần mỗi hình thức nói trên có địa vị và vai trò khác nhau. Địa vị của chúng phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thừa nhận đa dạng hoá các loại hình sở hữu không đồng nghĩa với sự chấp nhận chế độ người áp bức bóc lột con người. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường không thể tách rời việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu mang nét độc đoá riêng. Sự hình thành và phát triển một cách đa dạng các hình thức sở hữu cho phép giải phóng được các năng lực sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện đời sống nhân dân. 35
  40. Theo chúng tôi, đó là cơ sở lý luận quan trọng cho sự thay đổi quan niệm về sở hữu ở Việt Nam. Đây là cơ sở lý luận cho việc xây dựng con đường, bước đi thích hợp nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển, củng cố vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước. 2.2.1. Sở hữu nhà nước Khi bàn đến vấn đề sở hữu nhà nước, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin cũng chưa thống nhất và sử dụng nhiều tên gọi khác nhau nhưng gần nghĩa nhau: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu chung, sở hữu công cộng, sở hữu xã hội. Tại Đại hội X của Đảng đã khẳng định lại vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”[17; Tr. 83]. Đồng thời với khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nhà nước, Đại hội cũng tuyên bố rõ ràng rằng: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”[17; Tr. 83]. Đảng cam kết chỉ đạo Nhà nước thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử với các hình thức sở hữu. Đây là một bước tiến mới về quan điểm kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta. Hơn nữa, Đảng chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt động trong môi trường công khai, minh bạch và cạnh tranh thực sự, xoá bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, buộc doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả mới được tồn tại. Ở Việt Nam, cho đến nay các học giả tương đối thống nhất ý kiến về quan niệm sở hữu cho rằng có sự khác nhau giữa sở hữu toàn dân và sở hữu 36
  41. nhà nước, nhưng ở nước ta trong thời kỳ hiện nay chỉ nên sử dụng sở hữu nhà nước là đủ. Chỉ khi nào đạt đến chủ nghĩa xã hội phát triển hoặc chủ nghĩa cộng sản mới nên áp dụng hình thức sở hữu toàn dân. Trong thời kỳ bao cấp trước đây chúng ta đã đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy, có thời gian dài người ta bỏ quên hình thức sở hữu nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới hình thức sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi vì sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của kinh tế quốc doanh. Vì vậy, mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng có như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Trước hết, ta hiểu sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà chủ sở hữu là nhà nước và đối là các tạo được pháp luật hiện hành thừa nhận thuộc chủ quyền của quốc gia, của nhà nước [10; Tr.42]. Ngoài ra, sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu của toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu. Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước được nhân dân giao phó trách nhiệm quản lý, sử dụng toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu toàn dân để đầu tư có hiệu quả cho mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của đất nước dưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Hình thức sở hữu nhà nước, xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu nhà nước ở nước ta, có lẽ thể hiện chủ yếu ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực của doanh nghiệp nhà nước. Để làm rõ vai trò sở hữu nhà nước, cần đặt nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu quan niệm sở hữu nhà nước theo nghĩa rộng, bao gồm cả khía cạnh đại diện cho sở hữu toàn dân, thì vai trò của sở hữu nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất lớn, thể hiện ở chỗ: - Sở hữu nhà nước là nòng cốt trong việc thực hiện quản lý nhà nước, tạo lập các quan hệ sản xuất mới. Thực hiện các mục tiêu chính trị, xã hội bảo đảm sự phát triển bền vững. 37
  42. - Là đại diện cho sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước tồn tại trên các lĩnh vực được Hiến pháp quy định như sở hữu đất đai, tài nguyên, vùng trời, vùng biển và tiềm lực quốc gia. - Sở hữu nhà nước có vai trò hướng dẫn, mở đường, công cụ điều tiết nền kinh tế. Như vậy, sở hữu nhà nước thể hiện tiềm lực nhà nước, là một trong những công cụ quan trọng điều tiết nền kinh tế và được sử dụng linh hoạt trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khác với các hình thức sở hữu khác, sở hữu nhà nước có chủ thể đặc biệt, không phải là công dân, các đoàn thể, các tổ chức xã hội mà còn là chủ sở hữu nắm giữ tư liệu phổ biến và quan trọng nhất trong xã hội. Nhà nước là chủ thể thực hiện quyền lực trong quản lý xã hội. Chủ thể của sở hữu nhà nước dù tổ chức theo mô hình có nhiều cấp. Hơn nữa quyền quản lý thường được thực hiện bởi một bộ máy làm việc theo chế độ công chức, cơ chế quy trách nhiệm cá nhân và mục tiêu và kiểm soát thường không rõ ràng. Nhà nước còn ban hành hệ thống các văn bản pháp luật, trong đó nhà nước tự định các quyền trong sở hữu của mình, đồng thời định đoạt các quyền và nghĩa vụ cho các chủ sở hữu khác. Vì vậy, nhà nước là một chủ thể đặc biệt. Nhà nước thực hiện quyền lực trên nguyên tắc đại diện cho nhân dân, nắm giữ những tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Chủ sở hữu thực hiện quyền của mình thông qua các cơ quan, cá nhân, tổ chức và người đại diện theo quy định của pháp luật. Hơn nữa quyền quản lý thường được thực hiện bởi một bộ máy làm việc theo chế độ công chức, cơ chế quy trách nhiệm cá nhân và động cơ đạt mục tiêu hiệu quả và áp lực kiểm soát thường không rõ ràng. Quyền chuyển nhượng thường bị hạn chế, thể hiện một số quyền như thừa kế, tặng, biếu không thể thực hiện được vì pháp luật không cho phép. Đối tượng sở hữu nhà nước bao gồm hai nhóm: Nhóm thứ nhất mang tính chất gần như đương nhiên, không thể phân chia cho các chủ thể phi nhà nước như vùng trời, vùng biển, tài nguyên trong lòng đất hoặc các đối tượng 38
  43. mới xuất hiện gần đây như tên miền trên mạng Internet Chính nhóm này quy định sự cần thiết khách quan của sở hữu nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Nhóm thứ hai bao gồm các đối tượng vừa có thể thuộc sở hữu nhà nước vừa có thể thuộc các chủ thể sở hữu khác. Các thành phần kinh tế thuộc sở hữu nhà nước gồm doanh nghiệp nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, tài nguyên, khoáng sản, kết cấu hạ tầng, các nguồn dự trữ, ngân sách, các quỹ quốc gia và kể cả phần vốn mà nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức do nhà nước đầu tư vốn thành phần và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể đầu tư vốn vào các doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật và ngoại giao, quốc phòng, an ninh để các doanh nghiệp cơ quan này thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước đặt ra thì phần vốn đó cũng thuộc sở hữu nhà nước. Ngoài những tài sản trên thì các tài sản khác do pháp luật quy định cũng có thể thuộc sở hữu nhà nước, các di tích lịch sử văn hóa mà nhà nước có quyền sở hữu, di sản thừa kế không có người thừa kế Như vậy, sở hữu nhà nước là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự tồn tại của nhà nước, bất kể nhà nước đó thuộc thể chế chính trị xã hội nào. Hiện nay, nhà nước nắm trong tay lực lượng vật chất to lớn, lực lượng vật chất này cùng với pháp luật, kế hoạch, chính sách sẽ tạo cho nhà nước một sức mạnh to lớn để chi phối, hướng dẫn, điều tiết sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, khi nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu khổng lồ thì chính những bất lợi của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ đặc điểm của chủ thể tập thể có xu hướng làm giảm tính hiệu quả của khu vực này, kéo theo sự sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Nên có xu hướng nhà nước rút khỏi những ngành cạnh tranh. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là 39
  44. một giải pháp mang tính chất như những chiếc “van” an toàn để bảo đảm tính hiệu quả không những cho các doanh nghiệp nhà nước, mà còn cho cả nền kinh tế [9]. Thực hiện chủ trương cổ phần hóa và đổi mới, sắp xếp lại nên khu vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục xu hướng giảm dần quy mô và tỷ lệ đóng góp ở tất cả các chỉ tiêu trong giai đoạn 2011- 2016. Cụ thể tỷ lệ số doanh nghiệp nhà nước giảm từ 1,01% năm 2011 xuống còn 0,53% năm 2016; số lao động giảm từ 14,7% xuống 9,2%; vốn sản xuất kinh doanh từ 32,7% xuống 28,4%; doanh thu thuần từ 26,5% xuống 16,7%; lợi nhuận trước thuế từ 43,3% xuống 27,7%; thuế và đóng góp cho ngân sách nhà nước từ 35,0% xuống 32,2% [37]. Vì vậy, việc xác định đúng đắn vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước có ý nghĩa to lớn, mang tính quyết định đối với sự phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Quan điểm của Đảng ta về sở hữu nhà nước vừa là sự kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, vừa phát triển lên một mức cao hơn và giải thích rõ hơn các nội dung liên quan đến sở hữu nhà nước như mối quan hệ của nó với các hình thức sở hữu khác, cấu thành của kinh tế nhà nước, vai trò và nội dung chủ đạo của sở hữu nhà nước, phương thức hoạt động của sở hữu nhà nước trong nền kinh tế thị trường hội nhập Những điểm phát triển này tạo cơ sở lý luận và nhận thức đúng đắn cho các đảng viên, nhất là các đảng viên giữ vai trò lãnh đạo, quản lý trong bộ máy nhà nước. Song, có thể nhận thấy, thực tiễn vận hành kinh tế nhà nước sẽ còn đặt ra nhiều yêu cầu đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh về lý luận. 2.2.2. Sở hữu tập thể Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, sở hữu tập thể phát huy mọi tiềm năng về vật chất, sức lao động của người lao động. Do đó, để sở hữu tập thể thực sự phát huy sức mạnh đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế cũng như đảm bảo quyền lợi cho người lao động thì cần có một cơ chế rõ ràng. Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản 40
  45. xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý và cùng hưởng lợi (theo quy định tại điều 208 Bộ luật Dân sự 2005). Chủ thể của sở hữu tập thể chính là các hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp và các ngành, hể khác do Luật hợp tác xã ghi nhận: tổ chức kinh tế tự chủ, do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức manh của tập thể và của từng xã viên .nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Mỗi hợp tác xã là một chủ thể riêng biệt, là một chủ sở hữu đối với tài sản riêng của mình. Nhà nước và pháp luật tôn trọng quyền độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài sản của hợp tác xã. Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của hợp tác xã, bảo đảm quyền bình đẳng của hợp tác xã trong sản xuất, kinh doanh, không can thiệp vào việc quản lý và hoạt động hợp pháp của hợp tác xã; ngoài ra nhà nước ban hành các văn bản pháp luật và chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã; thông qua hoạt động của hợp tác xã để thực hiện các chính sách giúp đỡ, hỗ trợ xã viên xoá đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội. Đối tượng của sở hữu tập thể bao gồm các tư liệu sản xuất, công cụ lao động, vốn góp của xã viên, các loại quỹ do hợp tác xã lập ra, đối tượng được lập nên từ tài sản đóng góp của các thành viên, nguồn lợi thu được trong quá trình hợp tác xã hoạt động, vốn góp ừt nhà nước, Mỗi hợp tác xã đều có quyền sở hữu đối với mỗi tư liệu sản xuất, công cụ lao động phục vụ cho nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác của hợp tác xã. Ngoài các tư liệu sản xuất chính, nếu các hợp tác xã có phát triển thêm các ngành nghề phụ để tăng thu nhập cho xã viên, thì hợp tác xã cũng có quyền sở hữu đối vối các tư liệu sản xuất dùng vào việc phát triển ngành nghề phụ đó. 41
  46. Trước đây, ở nước ta hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu. Sở hữu tập thể cũng biển hiện ở các hình thức sở hữu như sở hữu tổ hợp tác, sở hữu hợp tác xã, sở hữu công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Hợp tác xã không phải là một hình thức sở hữu riêng có, đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội mà nó đã xuất hiện trong đời sống kinh tế- xã hội nhiều trăm năm và đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Hợp tác xã luôn là một tổ chức kinh tế tiến bộ, ngày càng có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, kinh nghiệm của các nước và thực tiễn nước ta trong nhiều năm qua thì hợp tác xã là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, tồn tại khách quan và luôn có vị trí quan trọng nhất là đối với những nước có nền kinh tế lạc hậu. Lênin đã khẳng định chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu về kinh tế, về vốn thì từ chỗ xác định mô hình hợp tác xã tập trung cao độ về tư liệu sản xuất, quản lý như với xí nghiệp quốc doanh, phân phối theo công điểm, đã dần có những quy định để đổi mới phù hợp hơn với nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi. Chủ trương phát triển nhiều hình thức hợp tác đa dạng, phù hợp với trình độ phát triển ở các ngành nghề, khu vực và trình độ khác nhau, xã viên góp sức lao động, góp ổc phần, hợp tác xã hoạt động như doanh nghiệp; đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, xóa ỏ b tư tưởng bao cấp, trông chờ, ỷ lại vào nhà nước. Tính đến thời điểm 01/01/2017 cả nước có 13,6 nghìn hợp tác xã, giảm 0,1%, trong đó số lượng hợp tác xã hoạt động trong khu vực công nghiệp và xây dựng giảm mạnh nhất tới 20,1% (665 hợp tác xã), ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 79 hợp tác xã (1,1%), số hợp tác xã hoạt động trong khu vực dịch vụ lại tăng mạnh với 726 hợp tác xã (22,2%) so với thời điểm 01/01/2012 [37]. Vì vậy, sở hữu tập thể là sở hữu chung của một đơn vị do các thành viên cùng góp công sức xây dựng và vốn 42
  47. là của cá nhân nhưng góp cổ phần để sử dụng chung đơn vị dưới các hình thức tổ chức hợp tác xã. Hiện nay vẫn tồn tại quan niệm cho rằng sở hữu tập thể là sở hữu của những người sản xuất nhỏ trong các tổ chức hợp tác. Chính nhận thức không đầy đủ về sở hữu tập thể là một trong các yếu tố cản trở sự phát triển của kinh tế tập thể và của hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua. Quan niệm này không những trái với quan niệm về “tập thể” theo đúng ngữ nghĩa của nó, mà còn thể hiện nhận thức chưa thấu đáo quan điểm của Đảng về sở hữu tập thể trong các tổ chức kinh tế liên kết- hợp tác. Trong các Nghị quyết của Đảng, bên cạnh việc nhấn mạnh thành lập các hợp tác xã để tập hợp những người sản xuất nhỏ cá thể, mở rộng phân công và hợp tác lao động, phát triển sức sản xuất, còn nói đến việc thu hút các chủ thể khác tham gia vào hợp tác xã. Các chủ thể này có thể là những thể nhân (cán bộ, công nhân viên), có thể là pháp nhân kinh tế khác không cùng địa bàn lãnh thổ (các doanh nghiệp). Các chủ thể góp vốn này có thể tham gia hoặc không tham gia lao động trực tiếp ở hợp tác xã. Vậy nên, chủ thể sở hữu không phải là cá nhân cụ thể mà là một tập hợp, tập thể của những người sử dụng và chủ sở hữu có thể xuất hiện dưới dạng một hay một nhóm người được uỷ quyền, thể hiện những lợi ích của tập thể những người sở hữu hoặc dưới dạng pháp nhân thống nhất. Nhà nước tạo điều kiện để sở hữu tập thể của các hợp tác xã phát triển ổn định trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, trồng rừng, làm muối, ngư nghiệp Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho tất cả nhân dân tham gia vào sở hữu tập thể phù hợp với trình độ, khả năng nghề nghiệp của từng cá nhân công dân nhằm phát huy tiềm năng và sức mạnh của tập thể. 2.2.3. Sở hữu tư nhân Với lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ thấp kém, con người không thể chống nổi sức mạnh của tự nhiên nên phải cố kết với nhau trong lao động chung và kết quả lao động thuộc về cộng đồng công xã. Lúc này chưa có chế 43
  48. độ sở hữu tư nhân và cũng chưa có sản xuất hàng hóa và nền kinh tế hàng hóa. Với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, sở hữu tư nhân xuất hiện và làm nảy sinh hiện tượng người bóc lột người xã hội phân chia thành giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Sở hữu tư nhân là cơ sở kinh tế của quan hệ xã hội dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ tư hữu sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của từng cá nhân công dân về tư liệu sinh hoạt, tiêu dùng và những tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần của công dân. Sở hữu tư nhân là sở hữu của lao động cá thể, tư bản tư nhân trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải. Ở mỗi mức độ sở hữu có chứa đựng nội dung của quy mô kinh tế rất khác nhau. Đồng thời nó chi phối toàn bộ các quan hệ về lao động, kinh tế, quan hệ dân sự trong suốt quá trình nó tồn tại và phát triển. Thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là một bước phát triển trong chế độ kinh tế nước ta. Khi mà việc tồn tại nhiều hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất còn là khách quan, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nước ta trong giai đoạn hiện nay mà chủ trương xoá bỏ tư hữu, phát triển sở hữu toàn dân thuần khiết, nhất là các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa này chưa đủ sức giải quyết mọi vấn đề kinh tế- xã hội thì chẳng những kiềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất mà sở hữu toàn dân cũng bị suy vong vì cung cách quản lý hành chính mệnh lệnh, độc quyền. Thừa nhận và bảo vệ sở hữu tư nhân là nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trái lại, phải tôn trọng nó, bởi vì chính sở hữu tư nhân chứa trong nó động lực cá nhân mạnh mẽ nhất, có tác dụng kích thích to lớn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của con người. Bên cạnh đó, cũng cần thừa nhận một sự thật là, động lực cá nhân dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân và lợi ích cá nhân là một thuộc tính bản năng của con người sẽ còn tồn tại lâu dài. Nếu biết sử dụng động lực này cho thật tốt thì sẽ rất có lợi cho công cuộc phát triển kinh tế nói riêng và cho sự nghiệp xây dựng đất nước nói chung. 44
  49. Trải qua những giai đoạn lịch sử khác nhau sở hữu tư nhân được ghi nhận là một hình thức sở hữu bình đẳng giống như bất cứ một hình thức sở hữu nào khác. Hình thức sở hữu tư nhân đóng vai trò to lớn trong đời sống kinh tế của đất nước. Điều 211 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.” Như vậy, mặc dù là sở hữu của cá nhân đối với với tài sản nhưng dựa trên tính chất về vốn và cách thức sản xuất, sử dụng lao động mà sở hữu tư nhân tồn tại nhiều hình thức sở hữu được chia thành: sở hữu cá thể (vốn ít, tổ chức sản xuất kiểu tự cung tự cấp), sở hữu tiểu chủ (cá nhân bắt đầu biết cách tổ chức sản xuất, đã biết thuê nhân công lao động ), sở hữu tư bản tư nhân (vốn lớn, tổ chức sản xuất ở trình độ cao ). Sở hữu của cá nhân là một hình thức sở hữu phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự định hướng phát triển cho sở hữu tư nhân là nhằm ngăn chặn mặt tiêu cực có ảnh hưởng xấu đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sở hữu tư nhân được phát triển, được thừa nhận và được bảo hộ ở nước ta nhưng không phải là hình thức sở hữu cơ bản nhất trong xã hội. Bởi vì, sở hữu tập thể, sở hữu toàn dân vẫn là những hình thức sở hữu chủ đạo, nền tảng và quyết định tới sự phát triển kinh tế của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế quốc doanh ngày càng được củng cố và phát triển theo các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của nhà nước trong từng giai đoạn và nó vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân trong điều kiện thời kỳ quá độ lên sản xuất xã hội chủ nghĩa là cần thiết có ảnh hưởng tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta [31; Tr. 45]. Chủ thể của sở hữu tư nhân đó chính là cá nhân, bất cứ cá nhân công dân nào không phân biệt các mức độ năng lực dân sự dều có thể là chủ sở hữu của 45
  50. sở hữu tư nhân miễn là những người này có tài sản dựa trên các căn cứ pháp lý do pháp luật quy định. Nhưng không phải cá nhân nào cũng thực hiện được mà phụ thuộc vào nhận thức, làm chủ hành vi của mình. Do đó, trong một số trường hợp nếu cá nhân không thể trực tiếp thực hiện được các quyền năng của quyền sở hữu thì quyền năng này được thực hiện thông qua hành vi của người đại diện; hay trong một số trường hợp cá nhân muốn thực hiện các quyền năng của quyền sở hữu phải được sự đồng ý của người đại diện. Đối tượng của sở hữu tư nhân bao gồm : - Các thu nhập hợp pháp: Là tiền hoặc hiện vật có được do kết quả lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp đem lại. Ngoài ra thu nhập hợp pháp còn được hiểu là những khoản thu nhập có được từ việc được tặng cho tài sản thừa kế tài sản Thu nhập được cho là hợp pháp khi cá nhân thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, các cá nhân và tổ chức khác. - Của cải để dành: Đây là những khoản tiền hoặc hiện vật do thu nhập hợp pháp của cá nhân mà có những chi tiêu sử dụng không hết. Cá nhân có thể để dành dưới dạng tích trữ gửi ngân hàng, cho vay, - Nhà ở: Nhà ở là tư liệu sinh hoạt nhằm thỏa mãn nhu cầu cần thiết của cá nhân, pháp luật bảo hộ quyền sở hữu nhà ở của cá nhân. Cá nhân có quyền sở hữu đối với nhà ở trên nhiều căn cứ khác nhau như xây nhà ở, mua nhà ở, được tặng cho, thừa kế nhà ở Ưu thế rõ rệt của sở hữu tư nhân so với sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước còn là ở chỗ, hai loại sở hữu này dễ dẫn đến tình trạng giảm động lực, dễ trở nên vô chủ khi điều hành và kiểm soát kém, trong khi đó thì sở hữu tư nhân của các cá nhân, cả trong kinh tế cá thể lẫn khi đưa vào sử dụng chung, đều được giám sát tốt hơn và khả năng làm chủ cũng cao hơn, hiệu quả hơn. Cần khẳng định rằng, trong điều kiện nước ta hiện nay, thừa nhận sở hữu tư nhân, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân Việt 46
  51. Nam đóng góp phần lớn trong tỷ trọng kinh tế như chiếm khoảng 40% GDP. Đặc biệt, khu vực doanh nghiệp của kinh tế tư nhân cho thấy xu thế đóng góp ngày càng tăng trong tỷ trọng GDP, từ 6,9% năm 2010 lên khoảng 8,2% năm 2017. Mặc dù vậy, tỷ trọng của khu vực này không có nhiều thay đổi trong khi tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong GDP liên tục giảm, từ 35,6% năm 2005 xuống còn 27,1% năm 2017 và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ khoảng hơn 15% năm 2005 lên khoảng 18,5% năm 2017. [43] Đặc biệt là sở hữu tư nhân, từ chỗ bị kỳ thị, hạn chế và nhiều cấm đoán, đến nay đã có những đổi mới căn bản, xác định rõ phải bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân. Phát triển kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài, khẳng định chủ trương phát triển mạnh mẽ, không hạn chế ngành nghề, lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để sở hữu tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh liên kết với nhau, với sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước. Tuy nhiên cần phải thấy mặt trái luôn luôn tiềm ẩn của sở hữu tư nhân là sự chiếm hữu lợi ích kinh tế. Để ngăn ngừa tình trạng này cần phải phát huy ưu thế của các loại hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, vừa tạo điều kiện cho các loại hình sở hữu phát triển vừa bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế, xử lý nghiêm mọi hành vi trái pháp luật. 2.2.4. Sở hữu hỗn hợp Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta có dự kiến phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Điều 16 Hiến pháp 1992 khẳng định phát triển thành phần kinh tế này. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, sở hữu hỗn hợp được coi là một hình thức sở hữu độc lập. Tuy nhiên, trên thực tế, hình thức sở hữu hỗn hợp 47
  52. và hình thức sở hữu chung trong Bộ luật dân sự năm 1995 chỉ khác nhau về chủ thể thực hiện quyền sở hữu, còn tài sản và việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu này vẫn tuân theo quy định của việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu chung. Chính vì vậy, Bộ luật dân sự năm 2005 đã sửa đổi nội dung quy định về sở hữu hỗn hợp của Bộ luật dân sự năm 1995 thành một điều luật để điều chỉnh việc thực hiện quyền sở hữu chung hỗn hợp như là một trong những trường hợp đặc biệt trong việc thực hiện quyền sở hữu tài sản đối với hình thức sở hữu chung mà thôi. Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu cơ chế tham gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất. Có thể nói đây là loại hình kinh tế chung gian, có tính chất đan xem giữa thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Thực chất đây là các xí nghiệp (hoặc công ty) cổ phần. Đó là các hình thức tổ chức kinh tế không thuộc hẳn vào một thành phần kinh tế nào. Hiện nay, chúng ta còn phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước hay hình thức tư bản nhà nước làm phương tiện và cứu cách để phát triển. Bởi vì chủ nghĩa tư bản nhà nước theo Lênin là một hình thức phổ biến trong thời kỳ quá độ và sự tồn tại của nó là cần thiết. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mỗi hình thức sở hữu nói trên có vị trí và vai trò riêng của chúng. Địa vị lịch sử của chúng phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ quản lý, vào tiến trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong thời gian này, nhà nước ta tiến hành cổ phần hoá đa dạng hoá sở hữu mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài hoặc doanh nghiệp không thuộc loại nhà nước độc quyền lắm giữ, ngay cả các doanh nghiệp của Tổng công ty 90, Tổng công ty 91. Sở hữu hỗn hợp chiếm ưu thế phổ biến là kết quả xã hội hóa sản xuất và xã hội hóa sở hữu ở trình độ cao do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, quy mô sản xuất- kinh doanh và trình độ 48
  53. quản lý, Hình thức sở hữu này ngày càng phát triển và từng bước vượt qua biên giới của một quốc gia cụ thể gắn liền với sự ra đời và phát triển mạnh của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia đang đóng vai trò “đầu rồng”, chi phối mạng sản xuất và mạng phân phối toàn cầu và khu vực. Cụ thể hơn, chế độ sở hữu này được hình thành từ sự liên kết giữa các chủ thể sở hữu tư nhân với sở hữu nhà nước gắn với việc thành lập một tổ chức kinh doanh (một pháp nhân kinh tế mới). Song trong thực tế, không chỉ có liên kết giữa các chủ thể của hai chế độ sở hữu khác nhau với nhau, mà còn diễn ra giữa các chủ thể kinh tế trong cùng một chế độ sở hữu (các chủ thể kinh tế nhà nước với nhau, các chủ thể tư nhân với nhau). Trong tổ chức kinh doanh mới được hình thành từ liên kết kinh doanh, mỗi chủ thể sở hữu vẫn giữ quyền sở hữu với phần tài sản đã đóng góp và chỉ chịu trách nhiệm tương ứng với phân tài sản ấy, những người đóng góp ủy quyền sử dụng các tài sản cho những người do họ cử ra. Hình thức sở hữu hỗn hợp được biểu hiện cụ thể bằng các hình thức sở hữu như sở hữu doanh nghiệp liên doanh, hợp doanh với nước ngoài, sở hữu công ty cổ phần, sở hữu đa quốc gia, xuyên quốc gia đó là những hình thức đa dạng của sở hữu tư bản nhà nước. Áp dụng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Việt Nam hiện đang tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề đặt ra là, trong khi tiếp tục xây dựng và phát triển sở hữu toàn dân, làm cho nó thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, cần tiếp tục khai thác những mặt mạnh của sở hữu tư nhân để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân lao động. Đó cũng chính là đòi hỏi khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nói cách khác, việc cho phép tồn tại và phát triển nhiều loại hình sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân không những là tất yếu mà còn cần thiết cho việc phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tồn tại của sở hữu tư nhân sẽ là rất lâu dài và nếu như thời kỳ quá độ, như một số nước khẳng định, có thể kéo 49