Khóa luận Sự dung hợp Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất - Quốc Oai (Qua khảo sát chùa Thầy và chùa Tây Phương)

pdf 70 trang thiennha21 15/04/2022 3480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Sự dung hợp Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất - Quốc Oai (Qua khảo sát chùa Thầy và chùa Tây Phương)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_su_dung_hop_phat_giao_va_tin_nguong_dan_gian_tai_h.pdf

Nội dung text: Khóa luận Sự dung hợp Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất - Quốc Oai (Qua khảo sát chùa Thầy và chùa Tây Phương)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC KIỀU THỊ YẾN SỰ DUNG HỢP PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI HAI HUYỆN THẠCH THẤT – QUỐC OAI (Qua khảo sát chùa Thầy và chùa Tây Phƣơng) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS TRẦN THỊ HẠNH HÀ NỘI, 2020
  2. LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo và Quý thầy cô khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Thị Hạnh đã tận tình chỉ bảo, giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này một cách tốt nhất theo khả năng của tôi. Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song do nhận thức còn hạn chế nên khóa luận còn nhiều sai sót là điều không thể tránh khỏi. Tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu từ Quý thầy cô để rút ra bài học cho những lần nghiên cứu sau này được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2020 Người thực hiện Kiều Thị Yến 1
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong khóa luận là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các kết luận chưa được công bố ở bất cứ một công trình nào. Tác giả khóa luận Kiều Thị Yến 2
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 1. Tính cấp thiết của đề tài 5 2. Tình hình nghiên cứu 7 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 8 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 9 6. Đóng góp của khóa luận 9 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận 9 8. Bố cục của khóa luận 10 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 11 1.1. Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc Bộ qua các giai đoạn lịch sử 11 1.2. Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai 17 1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai 17 1.2.2. Tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai 26 1.3. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Thạch Thất – Quốc Oai 37 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 42 CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN QUA KHẢO SÁT HAI NGỒI CHÙA: CHÙA THẦY VÀ CHÙA TÂY PHƢƠNG. 44 2.1. Biểu hiện qua nghi lễ của Phật giáo tại hai ngôi chùa 44 2.2. Biểu hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa 50 2.3. Biểu hiện qua nghệ thuật bài trí tƣợng thờ trong hai ngôi chùa 53 3
  5. 2.4. Một số vai trò xu hƣớng phát triển chủ yếu của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai . 58 KẾT LUẬN 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65 PHỤ LỤC 67 4
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ I TCN, từ đó đến nay, đã phát triển và nhanh chóng hòa nhập, trở thành tôn giáo mang đậm sắc thái văn hóa Việt. Phật giáo với vai trò là một tôn giáo lớn ở Việt Nam, có đóng góp đối với lịch sự dân tộc, đời sống văn hóa, xã hội của người dân Việt, cùng với đó nó còn góp phần tạo nên những công trình kiến trúc mang đậm tính nghệ thuật. Trước khi Phật giáo du nhập vào, nước ta đã có những tín ngưỡng dân gian mang đặc tính bản địa. Mỗi cộng đồng dân cư, mỗi khu vực riêng lại có những loại hình tín ngưỡng riêng, mang bản sắc riêng của mình. Nhưng khi Phật giáo tràn vào, với các giáo lý giải thoát, tinh thần từ bi, hỷ xả thì nó đã nhanh chóng được quần chúng người Việt tiếp nhận trong sự hòa quyện cùng với tín ngưỡng dân gian. Biểu hiện rõ nhất là các ngôi chùa ở những làng quê ngày càng mọc lên nhiều, cho đến ngày nay, hầu như mỗi thôn, mỗi làng nào cũng đều có một ngôi chùa của riêng mình. Do tính chất hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, nên các ngôi chùa hầu hết đều bị bản địa hóa, trong chùa không chỉ thờ Phật, mà còn thờ cả Thần, Thánh, Mẫu, tổ tiên, Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của nền văn minh lúa nước, nên việc thờ các vị thần tự nhiên như một lẽ tất yếu của cuộc sống người dân, chính vì vậy, khi Phật giáo du nhập vào, hòa quyện, hỗn dung cùng với tín ngưỡng dân gian, thì các vị thần tự nhiên này cũng được Phật hóa và được thờ tụng trong chùa. Ngoài ra, sự dung hợp này còn dẫn đến việc trong chùa thờ cả vong linh người đã khuất, người có công với đất nước được người dân tôn lên làm Thánh (Đức Thánh Trần), thờ Sơn Thần, Các ngôi chùa mang sắc thái hỗn dung này đã đánh dấu bước chuyển biến về đời sống văn hóa, 5
  7. tinh thần và tôn giáo của người dân Việt, đi kèm với đó là sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc dân gian của người Việt. Tại những ngôi chùa này, người dân vừa đi lễ Phật, lại lễ cả Mẫu và Thánh, đó là sự kết hợp để hình thành nên Phật giáo dân gian, không còn các triết lý xa vời khó hiểu, mà nó được dân gian hóa, ngày càng gần gũi với quần chúng, mang nặng tư tưởng nhập thế. Thạch Thất – Quốc Oai là hai huyện giáp với trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa Thăng Long xưa, lại nằm trên nền văn hóa xứ Đoài, chính vì vậy khu vực này cũng được tiếp nhận Phật giáo từ rất sớm. Phật giáo khu vực này cũng từng ngày hòa nhập với các tín ngưỡng bản địa và phát triển theo xu hướng chung của Phật giáo Việt Nam hiện nay, đó là xu hướng dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Việc phát triển theo xu hướng này giúp Phật giáo ngày càng gắn bó với người dân trong khu vực, đồng thời ảnh hưởng tích cực lên đời sống nhân dân, giúp nâng cao tinh thần đoàn kết, tạo tiềm lực cho sự phát triển về mọi mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của khu vực này nói riêng và cả đất nước nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương sẽ giúp chúng ta hiểu rõ các nét văn hóa được biểu hiện qua các nghi lễ, lễ hội hay các thần tích liên quan đến các nhân vật được thờ cùng với Phật trong chùa. Đây cũng là nét độc đáo đặc sắc riêng biệt của Phật giáo Việt Nam nói chung và khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng. Chính vì lý do như vậy, tôi chọn đề tài: “Dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương” làm công trình nghiên cứu của mình. 6
  8. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề dung hợp, hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian cũng đã được nhắc tới không ít ở một số bài viết, vì từ lâu, do đặc điểm tâm thức của người nông dân Đồng bằng Bắc Bộ, hầu như ít tôn giáo, tín ngưỡng nào có thể tồn tại độc lập, mà thường có sự hỗn dung với nhau. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian được đa số các nhà nghiên cứu đồng thuận và nó cũng được nhắc nhiều trong các bài viết của họ, tuy nhiên để đặt thành một vấn đề được nghiên cứu độc lập và cụ thể thì lại không nhiều. Theo như những tài liệu được biết, tôi mới chỉ thấy được công trình nghiên cứu của Tiến sĩ tôn giáo học Thích Đồng Bổn nghiên cứu về “Những tập tục dân gian chịu ảnh hưởng Phật giáo Đại Thừa” là nghiên cứu tập chung đối tượng là mối quan hệ giữa Phật giáo Đại thừa và những tập tục (tuy nhiên chủ yếu là ở các vùng Nam Bộ). Trong một số bài viết của Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Hà Văn Tấn, Nguyễn Quốc Tuấn đều có nhắc đến sự dung hợp này, như: “Qua bước đi của di tích Hà Nam Ninh”; “Về một vài yếu tố mang tính triết học của kiến trúc cổ truyền Việt”, hay “Phật giáo với văn hóa Việt Nam và Nhật Bản qua một cách tham chiếu” của Nguyễn Thanh Tuấn cũng đã bước đầu phân tích sự kết hợp này, nhưng chỉ dừng lại ở những phân tích sơ lược, rời rạc. Một số tạp chí cũng có những bài viết về mối quan hệ này như: Báo Phật Giáo online, Đạo Phật ngày nay, Tạp chí Triết học, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Có thể kể đến những bài viết như: “Tìm hiểu về Phật giáo và tín ngưỡng dân gian”; “Đạo Phật Và Tín Ngưỡng Nhân Gian!”; “Tín ngưỡng thờ Mẫu trong mối quan hệ với tín ngưỡng, tôn giáo khác”, Nhìn một cách tổng thể, nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đã chạm đến các khía cạnh khác nhau của đề tài, song nghiên cứu về sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian biểu hiện qua những ngôi chùa còn 7
  9. khá ít và thiếu tính hệ thống. Chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống mối quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian thể hiện qua các ngôi chùa ở khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, để từ đó có được những đánh giá khách quan và khoa học về vai trò, vị trí của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong đời sống văn hóa – xã hội của người dân nơi đây. Đây cũng là mục đích chính mà khóa luận hướng tới trong quá trình nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở trình bày một số nội dung lý luận về mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ, khóa luận tập trung khảo sát và phân tích những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương. Từ đó chỉ ra vai trò và xu hướng phát triển của mối quan hệ này. Nhiệm vụ nghiên cứu - Trình bày hệ thống lý luận về sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ - Phân tích và chỉ ra những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai ngôi chùa: Chùa Thầy và chùa Tây Phương. - Đưa ra vai trò và xu hướng phát triển của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương. 8
  10. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương trên các lĩnh vực như: nghi lễ, kiến trúc nghệ thuật, 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử về tôn giáo và tín ngưỡng. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng một số phương pháp cơ bản của phép biện chứng duy vật như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh; và một số phương pháp của các khoa học khác như: điều tra, điền dã, khảo sát, 6. Đóng góp của khóa luận - Trình bày rõ một số nội dung lý luận của mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ. - Chỉ ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện trong hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương. Đưa ra một số vai trò chủ yếu và xu hướng phát triển của mối quan hệ này đối với xã hội. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận Ý nghĩa lý luận Khóa luận góp phần làm rõ hơn giá trị văn hóa và bản sắc riêng của những ngôi chùa thông qua việc tìm hiểu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, biểu hiện qua các lĩnh vực: nghi lễ, kiến trúc nghệ thuật, Kết quả của khóa luận đặt ra vấn đề mà các nhà quản lý văn hóa, 9
  11. tôn giáo, tín ngưỡng cần quan tâm, đó là làm thế nào để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa lành mạnh của văn hóa Việt. Ý nghĩa thực tiễn Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và học tập về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. 8. Bố cục của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của khóa luận được bố cục thành 2 chương và 8 tiết. 10
  12. CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 1.1. Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc Bộ qua các giai đoạn lịch sử Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam, vì vậy nơi đây còn lưu giữ được tính chất thuần tuý của văn hoá Việt Nam. Đồng bằng Bắc bộ cũng chính là nơi Phật giáo lần đầu tiên du nhập vào Việt Nam. Người dân nơi đây xem Phật giáo vừa thiêng liêng vừa gần gũi với họ, nên trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chùa chiền được xây dựng khắp mọi nơi, hầu như không một làng quê nào lại không có chùa thờ Phật. Chính vì vậy, Phật giáo ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng có những nét riêng của mình, và một trong số đó là sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian nơi đây. Phật giáo truyền vào nước ta rất sớm, từ những năm đầu Công nguyên. Tại Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) đã có một trung tâm Phật giáo và Phật học khá phồn thịnh. Từ đó đến thế kỷ 10 chính là giai đoạn truyền đạo của Phật giáo. Ban đầu là sự ảnh hưởng của các nhà sư Ấn Độ, nhưng sau đó, sự ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Trung Quốc lại tăng lên, các phái Thiền Trung Quốc dần du nhập vào Việt Nam. Bắt đầu từ thế kỷ 10, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ sau 1000 năm Bắc thuộc đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Trong thời kỳ này, các vị vua nhà Đinh, Tiền Lê đã có chính sách nâng đỡ Phật giáo. Những bước đệm này đã giúp cho Phật giáo phát triển đỉnh cao ở thời Lý và thời Trần với tinh thần tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo, nhập thế hành đạo nên đã sản sinh ra những thiền sư luôn luôn hướng về cuộc sống, hoà nhập với cuộc đời. Lúc này từ vua tôi đến quần chúng nhân dân đều tôn sùng đạo Phật, tư tưởng Phật giáo được lấy làm hệ tư tưởng xã hội. Phật giáo đã kết hợp với tín ngưỡng dân gian, với yếu tố thần thuật của Đạo giáo 11
  13. pháp thuật nên mới có câu chuyện những thiền sư tiên đoán việc xã tắc như Vạn Hạnh, dùng pháp thuật để chữa bệnh trừ tà, để giáng long phục hổ, hay bay trên không, đi dưới nước như Nguyễn Minh Không; để trả thù cho cha, hay để đầu thai như Từ Đạo Hạnh v.v Tại Đồng bằng Bắc Bộ, nhiều chùa tháp được xây dựng trong thời kỳ này, tiêu biểu như: Chùa Một Cột, Chùa Thầy, Chùa Dạm, Chùa Lý Triều Quốc Sư, Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong thời kỳ này cũng được biểu hiện rất rõ qua những ngôi chùa này. Chùa Một Cột: tọa lạc tại số 1 phố chùa Một Cột, phường Đội Cấn, Quận Ba Đình, Hà Nội. Trước kia đây là thôn Phụ Bảo, tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận, đến giữa thế kỷ 19, thôn Phụ Bảo đổi tên là Thanh Bảo. Chùa được xây dựng năm 1049 sau giấc mơ của Lý Thái Tông thấy Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen, sau đó dắt vua lên tòa. Nhưng theo tấm bia dựng năm Cảnh trị đời thứ 3 (1665), đời vua Lê Huyền Tông do Lê Tấn Đạt ghi thì: “năm đầu niên hiệu Hàm Thông đời Đường (860) dựng một cột đá ở giữa hồ. Trên cột xây một tòa lầu ngọc trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ cúng Khi triều Lý xây dựng kinh đô ở đây, do vua Lý chưa có con, đến đây cầu nguyện thấy linh ứng, vua sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa Một Cột để mở rộng việc thờ cúng làm sáng rõ sự tôn sùng ”(14, Tr.115). Ngay trong sự tích về ngôi chùa này đã cho thấy sự ước vọng của người dân Đông bằng Bắc Bộ luôn cầu mong một cuộc sống không ngừng sinh sôi nảy nở, một cuộc sống được che chở bởi Phật Bà Quan Âm. Chùa Một Cột và Phật Bà Quan Âm giống như hình ảnh biểu trưng cho nguyên lý Mẹ, cho tín ngưỡng phồn thực, cho ước mơi sinh sôi này nở, luôn luôn no đủ, và cả cho tinh thần cứu khổ cứu nạn của Phật giáo. Chùa Dạm (hay còn gọi là chùa Rặn, thuộc xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) được vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) cho xây dựng vào năm Quang Hựu thứ 2(1086). Đây là một ngôi chùa điển hình thể hiện sự hỗn 12
  14. dung giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng trong thời kỳ này. “Mười lăm trăng náu Mười sáu trăng treo Mười bẩy phẩy giường Mười tám đóng cửa chùa Dạm.” Những câu thơ lưu truyền kia đã nói lên sự bề thế của chùa Dạm, có nghĩa là sau ngày Rằm người ta sẽ đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc trăng lên cao mới đóng được hết tất cả các cửa chùa. Theo thuyết phong thủy, chùa Dạm hội tụ đủ huyết mạch linh thông, chùa đặt ở sườn núi phía Nam của dãy Lãm Sơn, chính giữa ngọn cao nhất, núi Rùa làm tiền án, ngòi Con Tên làm minh đường, bên tả có Thanh Long, bên hữu có Bạch Hổ chầu về. Mối quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại chùa Dạm không chỉ thể hiện qua giáo lý của Phật giáo, mà còn thể hiện ước vọng sinh sôi nay nở, mưa thuận gió hòa của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian cũng được thể hiện rõ ngay trong nguồn gốc ra đời và thần tích của chùa Lý Triều Quốc Sư, bộc lộ ra truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo” của người Việt ta. Chùa Lý Triều Quốc Sư tọa lạc tại số 50, phố Lý Triều Quốc Sư, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (xưa thuộc thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương với tên gọi đền Lý Quốc Sư hay đền Tiên Thị). Nơi đây thờ thiền sư Nguyễn Minh Không người đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông. Ông được phong làm Quốc sư và được triều đình phong ấp ở làng Tiên Thị (nay là Điềm Xá), huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Khi ông mất, dân làng lập đền thờ gọi là "Lý Quốc Sư Tự". Năm 1932, thiền sư Nguyễn Văn Định trụ trì đã bài trí thêm tượng Phật nên đền được gọi là chùa Lý Triều Quốc Sư. 13
  15. Năm 11 tuổi, ngài xuất gia tu Phật cầu đạo với Thiền sư Từ Đạo Hạnh, được khen tài giỏi, thông minh và được ấn chứng sau sẽ trở thành “Pháp khí” trong Thiền môn, ban pháp danh Minh Không, đời thứ 13 dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Qua thời gian dài theo thầy học đạo, chứng ngộ chân không Bát nhã, ngài về trụ trì chùa Giao Thủy (Nam Định). Minh Không là bậc đại sư thông tuệ Phật pháp được giới tăng ni ngưỡng vọng, cũng như được Quốc vương kính trọng. Tương truyền lúc còn đang học đạo, Từ Đạo Hạnh hóa hổ để dọa ngài, ngài bèn nói: “Nếu thầy muốn vậy, sau này chắc sẽ phải chịu quả báo như thế”. Từ Đạo Hạnh hối hận: “Xưa kia Đức Thế Tôn đạo quả viên thành còn chịu báo kim sương, mã mạch, huống chi ta sinh thời mạt pháp đâu có thể tránh được, đời sau sẽ làm Quốc chủ và sẽ chịu báo này, ông với ta có nhân duyên thầy trò, lúc đó sẽ cứu ta”(14, Tr.108). Sau khi Từ Đạo Hạnh hóa, đầu thai làm vua Lý Thần Tông, lên ngôi chưa được bao lâu, tháng 3 năm 1136, vua bị bệnh nặng, lông lá đầy mình, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài giỏi được triệu đến đều không chữa khỏi. Chính Đại sư Minh Không là người chữa khỏi được cho vua. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, vua Lý Thần Tông phong ngài làm Quốc Sư. Trong Quốc sử còn chép: “Tục truyển khi sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại cho học trò là Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy Quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này”(14, Tr.110). Ngày 1 tháng 8, niên hiệu Đại Định thứ 2, Tân Dậu (1141), sau khi phó chúc môn đồ, Quốc sư an nhiên ngồi hóa tại chùa Giao Thủy, thọ 76 tuổi. Để ghi nhớ công ơn, vua Lý Anh Tông và nhân dân đã lập đền thờ ngài tại đền Tiên Thị (nguyên là Tịnh xá vua Lý Thần Tông ban cho ngài). Thêm nữa, đó là hệ thống chùa thờ Tứ pháp tại vùng Dâu bao gồm: chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi, chùa Dàn thờ Pháp Điện và chùa Tổ thờ Man Nương – mẹ của Tứ Pháp. Với sự tiếp nhận Phật giáo, những vị thần nông nghiệp như bà Dâu, bà Đậu, bà 14
  16. Tướng, bà Dàn đã trở thành những vị Phật bà (Tứ pháp). Có thể thấy sự hình thành và phát triển của hệ thống chùa Tứ pháp chính là sự dug hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian khi trong chùa những vị thần có nguồn gốc tự nhiên được đẩy lên trên hệ thống tượng Phật. Sự kết hợp này làm nên nét đặc sắc của Phật giáo dân gian Đồng bằng Bắc Bộ. Như vậy, qua một số chùa vừa kể trên cho thấy các ngôi chùa đều có một đặc điểm chung là không chỉ thờ Phật mà còn thờ cả Thần. Sự dung hợp giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ giống như một thể hòa quyện vào nhau, từ trong những lịch sử hình thành, thần tích, huyền thoại của mỗi ngôi chùa, đến nề nếp lối sinh hoạt tâm linh của người dân. Cũng trong thời kỳ này, bản lĩnh độc lập tự cường kết hợp truyền thống chống ngoại xâm, kể cả chống về mặt tư tưởng, cùng tính uyển chuyển, linh hoạt của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ nên khi Phật giáo du nhập và phát triển tại đây, đã phục vụ cho cái đạo yêu nước yêu dân của dân tộc, phục vụ những yêu cầu cuộc sống của dân tộc. Với tinh thần phá chấp triệt để và khả năng dung hợp rộng mở, với tính phóng khoáng và dân chủ của mình, Phật giáo Thiền tông đã bắt gặp tinh thần bình đ ng, dân chủ, lòng nhân ái của người dân ở đây nên nó đã dễ dàng hòa hợp và bắt rễ nhanh chóng, đã ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống con người. Khoảng từ thế kỷ 14, Phật giáo bắt đầu bước vào giai đoạn suy thoái do nhiều nguyên nhân khác nhau: tầng lớp quý tộc nhà Trần ủng hộ Phật giáo mạnh mẽ đang dần mất đi uy lực về chính trị và kinh tế bởi chế độ sở hữu ruộng đất kiểu điền trang thái ấp khá phổ biến đã bắt đầu tan rã. Trong khi đó, Nho giáo với chế độ thi cử đang dần chiếm thế thượng phong. Các quan lại xuất thân từ Nho giáo đang dần nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Mặt khác, lúc này số lượng người xuất gia đã quá đông, lượng tăng đồ trong các chùa rất lớn, điều này dẫn đến sự nảy sinh những vấn đề tiêu cực 15
  17. tại cửa chùa, ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Đến thế kỷ 15, Phật giáo càng bị hạn chế nặng nề, chùa quán bị cấm xây thêm, mất đi vai trò đối với tầng lớp thống trị và chỉ còn những ảnh hưởng nhất định trong dân gian. Điều này cũng một phần thúc đẩy Phật giáo đến sự hỗn dung với tín ngưỡng dân gian để có thể tiếp tục phát triển và lan rộng trong quần chúng nhân dân. Sang giai đoạn từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, đây là thời kỳ Phật giáo dần như “sống lại” và phát triển mạnh mẽ. Sau khi nhà Mạc soán ngôi nhà Lê, chiến tranh xảy ra liên miên làm cho đời sống nhân dân lầm than, khốn khổ, chính quyền suy yếu, Nho sỹ suy thoái khiến niềm tin của các nhà tri thức, nhà chính trị vào Nho giáo ngày càng lung lay, thì lúc này, Phật giáo vốn tiềm tàng trong giới bình dân lại có chiều hướng phất lên. Ngoài ra, cảnh chiến tranh loạn lạc với sự thống khổ triền miên cùng những nỗi oan trái đã khiến con người tìm đến với tư tưởng và tình cảm của đạo Phật: “trong đau khổ cùng cực, người ta lại quay trở về với đạo Phật – một đạo lấy đức từ bi làm gốc và kỹ thuật trị thế chỉ là thứ yếu”(12). Kết quả là trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ, các ngôi chùa cũ được trùng tu, mở rộng và các chùa mới được xây dựng khá nhiều mang nhiều nét đặc trưng của Phật giáo thời kỳ này. Có những ngôi chùa giữ được nét kiến trúc tiêu biểu của thời kỳ này cho đến tận ngày nay. Dưới triều Nguyễn, Phật giáo phát triển khá mạnh mẽ dưới sự quan tâm của triều đình, tuy nhiên từ giữa thế kỷ 19, Pháp xâm lược Việt Nam và đã có những chính sách khai thác thuộc địa đã tác động không nhỏ đến Phật giáo. Đến những năm đầu thế kỷ 20, phòng trào Chấn hưng Phật giáo diễn ra đã tạo điều kiện cho Phật giáo trở mình, đánh dấu bằng sự ra đời của các tổ chức giáo hội Phật giáo. Khi đất nước bị chia cắt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Phật giáo đã kết hợp cùng các tín ngưỡng dân gian, với các giá trị tốt đẹp của mình, lan tỏa trong đời sống nhân dân, góp không ít sức người 16
  18. sức của vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều này đã thể hiện chủ trương hòa bình, “Phật pháp bất ly thế gian” của đạo Phật. Phật giáo sau ngày giải phóng đất nước thì cũng được thống nhất bởi sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Với hệ thống quản lý quy mô, hiện đại, đến nay Phật giáo đã có những bước đi lên mạnh mẽ, dần phát triển theo xu hướng kết hợp cùng tín ngưỡng dân gian. 1.2. Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai 1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai Quá trình phát triển của Phật giáo tại Thạch Thất – Quốc Oai Thạch Thất và Quốc Oai là hai huyện nằm ở phía Tây trung tâm thành phố Hà Nội. Đây là hai huyện có địa hình trải rộng, thuận lợi để phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, du lịch văn hóa và các ngành nghề thủ công. Đi cùng với sự phát triển của Phật giáo cả nước nói chung, thì Phật giáo tại hai huyện Thạch Thất và Quốc Oai cũng phát triển và có ảnh hưởng tích cực đến đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân tại đây. Thạch Thất - Quốc Oai thuộc vùng đất xứ Đoài, cùng với các huyện khác của xứ Đoài, những trung tâm Phật giáo nơi đây được hình thành từ thời Lý với những ngôi chùa nổi tiếng như: chùa Tây Phương, chùa Trăm Gian, Chùa Bối Khê, chùa Thầy. Trong đó chùa Thầy và chùa Tây Phương là hai ngôi chùa nổi tiếng, được nhiều người biết đến, và cũng là hai ngôi chùa chiếm một vị trí quan trọng, làm nên nét đặc trưng riêng của Phật giáo khu vực Thạch Thất - Quốc Oai, cũng như Phật giáo xứ Đoài. Chùa Thầy là một ngôi chùa nằm tại chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội), cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km về phía Tây Nam. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa có tên gọi là chùa Thầy. Chùa Thầy là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội, ngôi 17
  19. chùa gắn liền với quãng đời sau cùng và thoát xác của vị Thiền sư nổi tiếng thế hệ thứ 12 của dòng Thiền Tì ni đa lưu chi, Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý (có tài liệu cho rằng chùa được xây dựng vào thời Đinh). Nơi đây từng là nơi tu hành của thiền sư Từ Đạo Hạnh, khi ấy, núi Thầy còn được gọi là núi Phật Tích. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu. Ban đầu, chùa Thầy chỉ là một am nhỏ, gọi là Hương Hải am, sau đó vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại, gồm hai cụm chùa: chùa Cao( đỉnh Sơn Tự) ở trên núi, và chùa Dưới( gọi là chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Vào thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh, sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Xét về phong thủy, chùa được xây trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ nước rộng mang tên Long Chiểu hoặc Long Trì, giữa hồ có một thủy đình nhỏ vuông vắn, thường được dùng làm nơi múa rối nước (Từ Đạo Hạnh được cho là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này). Hai bên chùa có hai chiếc cầu có mái, do Hoàng giáp Phùng Khắc Khoan(1528-1613) xây dựng vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên ở bên trái, nối vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ giữa hồ. Bên phải là cầu Nguyệt Tiên, dẫn vào con đường lên núi. Chùa Thầy gồm ba tòa nhà dài nằm song song với nhau. Tòa nhà ngoài cùng gọi là nhà tiền tế hay còn gọi là chùa Hạ thờ các tượng Đức Ông, Thánh Hiền, xung quanh để thờ các tượng Bát bộ Kim Cương. Tòa giữa là Trung điện hay gọi là chùa Trung, thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp và Thiên vương. Tòa trong cùng là Thượng điện hay gọi là chùa Thượng, thờ tượng Di Đà tam tôn, tượng Thích ca, tượng các hóa thân của vị Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Gian giữa Thượng điện có một bệ đá hình chữ nhật, phần trên chạm hình những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình thần điểu Garuda. Đây là loại bệ đá xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIV. Ngay trước 18
  20. bệ đá này là tượng Từ Đạo Hạnh khi đã đắc đạo, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực, khoác áo vàng, đặt trên một bệ tượng bằng đá thời Lý, có hình sư tử đội tòa sen. Đây là di vật thời Lý duy nhất còn lại ở chùa Thầy. Bên trái là tượng Từ Đạo Hạnh đặt trong khám. Tượng bằng gỗ, có khớp và có thể cử động được (tuy nhiên hiện tại hệ thống khớp điện tự động đã bị tháo đi) và được đặt trên ngai vàng, phía sau có chữ ghi năm Thiệu Phong thứ 6 đời Trần Dụ Tông (1346). Bên phải là tượng của Lý Thần Tông, được coi là hậu thân của Từ Đạo Hạnh. Hai bên chùa là hành lang dài, phía sau là gác chuông và gác trống, tương truyền do bà Chúa Chè Tuyên Phi Đặng Thị Huệ xin với Chúa Tĩnh đô vương Trịnh Sâm xây dựng khi về thăm chùa. Qua cầu Nguyệt Tiên có con đường bậc đá đi lên núi, tại đây có khắc bài thơ của Trịnh Căn (1682-1709) "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải lụa". Lên trên núi là chùa Cao, tương truyền rằng đây là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Sau chùa là hang “Thánh Hóa”, tương truyền đây là nơi mà Thiền sư Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai thành vua Lý Thần Tông. Từ chùa Cao đi vòng ra phía sau, đi theo lối mòn ở ven núi sẽ đến được hang Cắc Cớ, xưa kia trai gái thường rủ nhau đến chơi ngày hội. Từ hang Cắc Cớ ngược lên, đến đền Thượng. Cách một đoạn, đến hang Gió, ở đây gió thường xuyên thổi mạnh qua hai cửa hang, ở chân núi phía tây có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy vì chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi. Có thể thấy, quanh núi Thầy, không phải chỉ có chùa Thầy, thường được gọi là chùa Cả ở chân núi, mà có cả một cụm kiến trúc Phật giáo được xây dựng trong những thời kỳ khác nhau. Chùa Tây Phương, có tên chữ là Sùng Phúc Tự, được dựng trên một ngọn núi tên là Tây Phương( xưa núi này có tên là Câu Lậu). Đây là một ngọn 19
  21. núi cao khoảng 50m, nằm tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội (xưa là Hà Tây), cách trung tâm Hà Nội khoảng 40km về phía Tây. Chùa Tây Phương được xây dựng vào khoảng thế kỷ 8 và là chùa cổ thứ 2 ở nước ta, sau chùa Dâu ở Bắc Ninh, và đã trải qua nhiều lần trùng tu. Tuy nhiên, có một số thông tin cho rằng được xây dựng từ thời nhà Mạc, nhưng lại không chứng minh. Tuy nhiên mốc thời gian này cũng có thể tin được, vì đầu thế kỷ 17, vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, và hơn nữa trong chùa còn có hai tấm bia đều bị mờ chữ nhưng còn đọc được rõ tên bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi, còn mặt trong áp vào tường hồi tòa chùa giữa nên không đọc được, các hoa văn trang trí cũng thuộc cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17. Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng Thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657 – 1682, Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá bỏ chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với cái tên “Tây Phương cổ tự” với diện mạo còn đến tận bây giờ. Từ dưới chân núi, leo qua 237 bậc đá ong thì đến cửa chùa. Chùa có ba nếp nhà song song gồm: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp nhà có hai tầng mái kiểu chồng diêm với các đầu đao cong vút lên. Đặc biệt, chùa Tây Phương có hệ thống tượng gồm 64 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các pho tượng đều được tạc bằng gỗ mít và được sơn son thếp vàng. Mỗi pho tượng là một tác phẩm riêng biệt, vừa hiện thực, vừa giàu tính nghệ thuật. Các pho tượng được chạm khắc với nhiều hình dáng và biểu cảm đa dạng, tinh tế khác nhau. Những người thợ mộc của làng nghề mộc truyền thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam. 20
  22. Chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). . Chùa Tây Phương được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt và bộ tượng Phật giáo thời Tây Sơn tại chùa được công nhận là Bảo vật Quốc gia. Người có công lan tỏa Phật giáo tại xứ Đoài nói chung hay khu vực Thạch Thất - Quốc Oai nói riêng, không ai khác chính là vị Thiền sư nổi tiếng Từ Đạo Hạnh. Thân thế và hành trạng của Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã được nhiều thư tịch ghi chép lại, như: Thiền Uyển tập anh, Đại Việt sử lược, Lĩnh Nam chích quái. Tuy mỗi thư tịch lại có những tình tiết ghi chép khác nhau, nhưng tựu chung lại thì thân thế và hành trạng của Thiền sư đã khá rõ ràng. Thiền sư họ Từ, tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, ở chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích. Cha ông là quan Đô sát Từ Vinh, mẹ ông là Tăng Thị Loan. Do cha ông – Từ Vinh bị giết bởi một pháp sư tên Đại Điên. Từ đó Từ Đạo Hành đã có ý đi sang Tây Thiên tu luyện phép thuật để về giết Đại Điên, trả thù cho cha. Nhưng đi được nửa đường, Ngài quay lại và chọn núi Sài Sơn, Chùa Phật Tích làm nơi tu hành. Ngài chuyên trì kinh "Đại Bi Tâm Đà La Ni" của đức Quán thế Âm tới khi cảm ứng, có vị thần tự xưng Trấn Thiên vương hiện lên và xin làm đệ tử để cho ngài sai khiến. Sau đó ngài dùng gậy đánh chết Đại Điên. Đại Điên cũng là người tu hành nên sau đó đã tái sinh thành đứa trẻ, tuy mới 3 tuổi nhưng cái gì cũng biết, tự xưng là Giác Hoàng. Lúc ấy, vua Lý Nhân Tông biết chuyện kỳ lạ bèn đón về Kinh Sư và cho nó ở chùa Báo Thiên. Vua muốn nhận đứa trẻ làm con nhưng quần thần và dân chúng không nghe, nên vua bèn lập đàn cầu nguyện pháp hội kéo dài 7 ngày, nhằm để đứa trẻ linh dị này đầu thai vào trở lại vào nơi cấm cung. Từ Đạo Hạnh biết đứa trẻ là do Đại Điên đầu thai vào để mê hoặc dân chúng, làm nhiễu loạn chính pháp, nên đã nhờ người chị của mình mang lá bùa, giả làm người chơi hội rồi 21
  23. treo ở tấm rèm nơi đứa bé ở. Tới ngày thứ 3, đứa trẻ này ốm và chết. Lý Nhân Tông truy ra và bắt Từ Đạo Hạnh đem về giam tại Hưng thánh lâu. Từ Đạo Hạnh xin với em vua là Sùng Hiền Hầu cứu thoát và hứa là kiếp sau sẽ đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu để trả ơn. Tuy nhiên, phải báo cho Ngài biết trước khi vợ của Sùng Hiền Hầu sắp sinh. Sau này, khi vợ Sùng Hiền Hầu trở dạ mãi không sinh, liền báo cho Từ Đạo Hạnh. Ngài nhận tin, liền tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, vào hang trút xác mà qua đời. Ngài đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu. Do vua Lý Nhân Tông không có con, truyền ngôi cho con của Sùng Hiền Hầu là Lý Dương Hoán, người này chính là Từ Đạo Hạnh đầu thai, tức vua Lý Thần Tông. Tại huyện Thạch Thất (2017) có tổng cộng 70 ngôi chùa, 40 vị Tăng ni. Trong đó có 12 ngôi chùa được xếp hạng cấp Quốc gia, 19 ngôi chùa được xếp hạng cấp Thành phố. Trong số các chùa tại Thạch Thất thì ngôi chùa nổi tiếng nhất là chùa Tây Phương được xây dựng với lối kiến trúc hình chữ Tam và những hoa văn tuyệt mỹ được xếp vào bậc nhất nước ta hiện nay. Tại huyện Quốc Oai (2017) có tổng cộng 73 ngôi chùa, 81 vị Tăng ni, với 34 chùa có sư trụ trì và 19 chùa chưa có sư trụ trì. Trong số các chùa tại Quốc Oai thì ngôi chùa nổi tiếng nhất là chùa Thầy với tuổi đời lâu năm và gắn với quãng đời sau cùng và thoát xác của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Với số lượng chùa và số lượng Tăng ni, trụ trì như vậy có thể thấy được tình trạng rằng Phật giáo trong khu vực hai huyện này còn gặp nhiều khó khăn khi mà địa bàn thì rộng, nhân sự lại ít. Từ đó dẫn đến việc quản lý Tăng ni – tự viện, Hoằng pháp hay phục vụ tín ngưỡng cho nhân dân còn gặp khó khăn hơn rất nhiều. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của Ban trị sự Phật giáo thì Phật giáo trên cả hai huyện đều đang không ngừng phát triển, hoàn thành xuất sắc các nhiệm 22
  24. vụ được giao. Đặc biệt, với công tác giáo dục Tăng ni thì hiện trên địa bàn hai huyện đã và đang có được lớp Tăng ni trẻ với trình độ chuyên sâu về Phật học và thế học, tiếp cận được thời kỳ hội nhập của đất nước. Trong tương lai sẽ là lớp đưa Phật giáo trong khu vực ngày càng cắm sâu rễ trong đời sống nhân dân, từ đó phát triển đi lên. Về việc xây dựng, trùng tu và bảo tồn, thì các chùa trong khu vực đã được xây dựng, kiến thiết ngày càng trang nghiêm để phục vụ cho nhu cầu giữ gìn, phát triển Phật giáo cũng như nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người dân tại đây. Ví dụ như: chùa Thầy, chùa Long Đẩu, chùa Phúc Đức, chùa Cực Lạc, chùa Am Thanh, chùa Hưng Sơn, Chùa Kim Quan, chùa Báo Ân, với kinh phí hàng trăm tỷ đồng. Như vậy, Phật giáo khu vực này nhờ sự quan tâm của các cấp, chính quyền cùng sự ủng hộ của quần chúng nhân dân nên ngày càng phát triển, và có những ảnh hưởng tích cực đến đời sống văn hóa tâm linh của người dân nơi đây. Đặc điểm Phật giáo khu vực Thạch Thất, Quốc Oai Với vị trí địa lý đặc biệt, 2 huyện Thạch Thất - Quốc Oai thuộc trấn Đoài xưa, một trong tứ trấn của Thăng Long, nên khu vực này cũng được tiếp nhận sớm nền Phật giáo khi mà Phật giáo du nhập, hình thành và phát triển tại phía Bắc nước ta. Tuy gần sát Thăng Long – Hà Nội - một trung tâm, đô thị nổi bật trong lịch sử Việt Nam, nhưng dân cư trong khu vực này vẫn gắn bó với làng quê của mình, vẫn xây dựng đình, chùa, cổng làng, vẫn giữ nét văn hóa làng xã. Chính văn hóa làng xã của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước là mảnh đất màu mỡ cho giáo lý của Phật giáo du nhập và bén rễ. Kể từ khi Phật giáo được xem là Quốc giáo trong triều đại Lý – Trần, thì Phật giáo nơi đây cũng phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng đến đời 23
  25. sống nhân dân. Đây cũng là thời kỳ chùa chiền được xây dựng rất rầm rộ với quy mô rộng lớn. Do điều kiện hình thành và phát triển, Phật giáo tại khu vực này có ba đặc điểm chính, đó là: Tính tổng hợp, Tính hài hòa âm dương, Tính linh họat. Thứ nhất, Tính tổng hợp: Cho đến nay, Phật giáo ở khu vực hai huyện này vẫn mang tính cổ truyền, là sự tổng hợp giữa Phật giáo và các giáo phái khác, là kết quả của sự dung hợp giữa cái “hữu nghĩa” của đạo Nho, cái “vô ngã” của đạo Phật, cái “vô vi” của đạo Lão, và cái “phồn thực” và lòng trắc ẩn của đạo Mẫu. Phật giáo nơi này còn có sự tổng hợp giữa các tông phái với nhau. Nổi bật nhất có thể thấy là dòng Tỳ ni đa Lưu chi được pha trộn với Mật tông. Ví dụ như Thiền sư Từ Đạo Hạnh rất giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Hay là sự kết hợp giữa Thiền tông và Tịnh độ tông khi tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát. Ở các ngôi chùa trong khu vực này có thể thấy được trên các điện thờ rất phong phú bởi có sự xuất hiện của các loại tượng Phật, Bồ tát, La hán của các tông phái khác nhau. Hay trang phục của các sư, các Phật tử, bên cạnh việc mặc áo vàng còn có áo nâu, áo lam. Ngoài ra, Phật giáo còn có sự tổng hợp với Tín ngưỡng dân gian. Phật giáo là thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng dân gian nơi đây là thờ Thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ. Bốn vị Thần được thờ nhiều nhất đó là Tứ pháp: Mây, mưa, sấm chớp. Và do đặc tính tổng hợp này nên bốn vị thần đã được Phật hóa. Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người dân nơi đây đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất. 24
  26. Thứ hai, Tính hài hòa âm dƣơng: Sự hài hòa âm dương là một trong những đặc tính của lối tư duy nông nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo khu vực này nói riêng, làm cho Phật giáo hơi thiên về phần nữ tính. Các vị Phật trong Phật giáo nguyên thủy đều xuất thân là nam giới. Nhưng ở Việt Nam lại xuất hiện cả Phật ông và Phật bà. Ví dụ như: Phật bà Quan thế âm bồ tát, Man Nương Phật Mẫu(Phật mẫu), Quan Âm Thị Kính(Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện(Phật bà chùa Hương, Bà chúa Ba). Sự hài hòa âm dương này còn được thể hiện trong kiến trúc của các ngôi chùa trong khu vực này. Thứ ba, đó là tính linh hoạt: Cũng giống như Phật giáo Việt Nam nói chung, Phật giáo trong khu vực này cũng rất linh hoạt. Chính vì vậy, nó mới dễ dàng xâm nhập, cắm rễ để tồn tại và phát triển trong cộng đồng người dân nơi đây. Tính linh hoạt này thường được nhà Phật gọi là "tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau, tuy nhiên vẫn không được rời xa giáo lý nhà Phật. Ví dụ như các vị bồ tát, vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật. Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca Tuyết Sơn), Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Trên đây là ba đặc điểm chính của Phật giáo tại khu vực hai huyện Thạch Thất, Quốc Oai. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng, Phật giáo nơi đây đã cùng phát triển với Phật giáo cả nước, tuy có những đặc điểm riêng biệt để 25
  27. thích nghi và tồn tại cùng cộng đồng nhân dân nơi đây, nhưng những đặc điểm đó không hề rời xa mà vẫn nghiêm ngặt chấp hành các giáo lý của nhà Phật. 1.2.2. Tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai Cơ sở hình thành tín ngưỡng dân gian Con người, ngoài những nhu cầu về đời sống vật chất thì cũng còn có nhu cầu cấp thiết về đời sống tinh thần. Đây là nhu cầu cần phải có trong quá trình phát triển sự sống của con người. Trong những buổi đầu sơ khai, con người chưa hiểu biết nhiều dẫn đến sự khó lý giải về các hiện tượng thiên nhiên và xã hội, do vậy con người dần đi đến sự sợ hãi và lệ thuộc vào các yếu tố tự nhiên. Điều này khiến họ xây dựng nên những thần linh để cúng bái, cầu mong sự che chở, bảo vệ và giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn và bất trắc trong cuộc sống. Từ đó, tín ngưỡng dân gian hình thành và phát triển. Ngoài ra, trong công cuộc dựng nước và giữ nước, đã có những con người có công với đất nước nên việc thờ cúng thể hiện lòng biết ơn của thế hệ đi sau đối với những người này cũng là một hình thức tín ngưỡng nữa làm phong phú thêm các hình thức của tín ngưỡng dân gian. Như vậy, cơ sở hình thành tín ngưỡng dân gian tại Việt Nam nói chung chính là dựa trên niềm tin vào một thứ gì đó bảo vệ cuộc sống của con người, mong muốn được yên lành, ngoài ra nó còn như một yếu tố bảo trợ cho việc sản xuất của con người, mong muốn mùa màng được bội thu, đồng thời cũng là một bức tường vững trãi mà người ta dựa vào đó để răn dạy, giáo huấn đạo đức, luân lý. Chính niềm tin vào sự nhiệm màu của thần thánh, vào sự tốt đẹp tuyệt đối mà không thể thấy ở cuộc sống thực tại đã giúp con người có được ý chí và niềm tin để vượt qua mọi khó khăn gặp phải trong cuộc sống. Điều này cho thấy được ý nghĩa về mặt đạo đức, chứ không phải chỉ mà sự mê tín của các tín ngưỡng dân gian. 26
  28. Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử xã hội, ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nhân loại. Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen: Tín ngưỡng là một yếu tố của đời sống xã hội, hơn nữa là sản phẩm của lịch sử xã hội do con người sáng tạo ra. Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào sự tồn tại và sự cứu giúp của một thực thể siêu nhiên nào đó được thể hiện qua hệ thống lễ nghi. Xét về phương diện từ nguyên, thứ nhất, tín ngưỡng là “Lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa”(1, Tr.283) - theo Từ điển Hán- Việt của học giả Đào Duy Anh. Thứ hai, trong quyển Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân (chủ biên), tín ngưỡng nghĩa là: “Tin tưởng vào một tôn giáo: Tự do tín ngưỡng”(19, Tr.1209). Như vậy, ở nghĩa từ nguyên, tín ngưỡng chính là niềm tin tôn giáo ở mỗi con người. Có thể thấy rằng không thể tách rời tôn giáo và tín ngưỡng với nhau. Tín ngưỡng được hiểu nôm na theo dân gian là đức tin hay niềm tin và sự ngưỡng mộ. Còn trong khoa học với các văn bản pháp quy thì tín ngưỡng được hiểu là niềm tin hay đức tin tôn giáo. Trong quá trình tồn tại và phát triển mình, con người đã sáng tạo ra nhiều tín ngưỡng khác nhau, đồng thời cũng xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về tín ngưỡng. Tuy nhiên, một trong những quan điểm cụ thể và tổng hợp được nhất đó là: “Tín ngưỡng là một biểu hiện của ý thức về một hiện tượng thiêng, một sức mạnh thiêng do con người tưởng tượng ra hoặc do con người suy tôn, gán cho một hiện tượng, một sức mạnh chỉ cảm thụ được mà chưa nhận thức được. Tín ngưỡng là một sản phẩm văn hóa của con người được hình thành tự phát trong mối quan hệ của con người với chính mình, với người khác và với giới tự nhiên”(17, Tr.7). Theo Từ điển Tôn giáo: “Tín ngưỡng là lòng tin và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu 27
  29. nhiên, thần bí; lực lượng siêu nhiên có thể mang hình thức biểu tượng là “Trời”, “Phật”, “Chúa”, “Thánh”, “Thần”, hay một sức mạnh hư ảo, huyền bí, vô hình nào đó tác động đến đời sống tâm linh của người ta, được con người tin là có thật và tôn thờ”(7, Tr.634-635). Như vậy, tín ngưỡng là một hình thái biểu thị đức tin, niềm tin của con người và của cộng đồng người ở một trình độ phát triển xã hội và nhận thức nhất định vào một đối tượng thiêng liêng, cái cao cả, cái đáng sùng kính trong thế giới người hoặc thế giới siêu nhiên nào đó. Tín ngưỡng như một hệ thống niềm tin mà con người tin vào để giải thích những điều họ chưa lý giải được, thông qua đó tạo ra sự an ủi và cảm giác yên tâm cho chính bản thân họ. Và tín ngưỡng là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Về mối quan hệ giữa tín ngưỡng và tôn giao, có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có quan điểm cho rằng: tín ngưỡng và tôn giáo là một và đều gọi chung là tôn giáo. Lại có những quan điểm cho rằng tín ngưỡng và tôn giáo là hai hiện tượng riêng biệt. Tín ngưỡng có trước và là nền tảng để hình thành tôn giáo, nói cách khác, tôn giáo là sự phát triển của tín ngưỡng mà thành. Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng được thể hiện ở một số điểm như: tôn giáo có hệ thống giáo lý, kinh điển, được truyền thụ và giảng dạy bài bản, có tổ chức giáo hội, hội đoàn quy củ, có nơi thờ cúng riêng như nhà thờ, chùa hay thánh đường, nghi lễ thờ cúng chặt chẽ. Còn tín ngưỡng mới chỉ dừng lại ở sự sùng bái tự do, nó nằm trong tâm thức mỗi con người và được biểu hiện qua sự sinh họat về phong tục tập quán, vì vậy nên nó chưa có giáo lý quy củ, mà mới chỉ là các truyện cổ, truyền thuyết, thần tích. Tín ngưỡng mang tính bản địa, gắn liền với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, không cố định. Như vậy, tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt tinh thần, ra đời và phát triển cùng với đời sống con người từ thuở sơ khai. Với quan niệm cho 28
  30. rằng bất kỳ vật gì cũng có linh tính nên con người đã thờ rất nhiều thần linh, đặc biệt là cư dân nông nghiệp, thờ các sự vật như: mặt trăng, mặt trời, đất, rừng, sông, núi, mưa, gió, sấm, chớp, mây, Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng được hình thành từ lâu đời trong đời sống của người dân Việt Nam, mỗi dân tộc, vùng miền lại có cho mình một tín ngưỡng riêng gắn với đời sống vật chất và tinh thần của mình. Tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất, Quốc Oai cũng được hình thành trải qua nhiều thời đại. Địa hình, cũng như khí hậu tại khu vực này tạo điều kiện cho thiên nhiên phát triển phong phú, đa dạng. Từ những ngày khai hoang lập nên thôn làng, người dân nơi đây đã sống dựa vào khai thác thiên nhiên, sau đó là sống dựa vào nên văn minh lúa nước đến tận bây giờ, phải phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, điều này dẫn đến người dân nơi đây đã hình thành tín ngưỡng thờ các vị thần tự nhiên. Hơn nữa, khu vực này nằm sát sườn phía Tây kinh thành Thăng Long xưa, nơi hội tụ, giao lưu văn hóa của nhiều tộc người, nhiều luồng văn minh. Chính vì vậy, nơi đây đã dần hình thành đa tôn giáo, đa tín ngưỡng. Các tín ngưỡng chủ yếu được hình thành, tồn tại và phát triển tại khu vực này bao gồm: Tín ngƣỡng phồn thực Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở. Những trí tuệ sắc sảo thì tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ xây dựng nên triết lý âm dương, còn những trí tuệ bình dân thì nhìn thấy ở thực tiễn đó một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà họ sùng bái nó như thần thánh và xây dựng nên tín ngưỡng phồn thực (phồn: nhiều, thực: nảy nở). Sự khát vọng con đàn cháu đống và mùa màng bội thu là mong muốn mà người 29
  31. nông dân khao khát nhất. Tín ngưỡng phồn thực từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử, được thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ và thờ hành vi giao phối. Phồn thực hay còn gọi là tín ngưỡng phồn thực, văn hóa phồn thực thật ra là 1 văn hóa tôn thờ hành vi giao phối và bộ phận sinh dục. Đây là 1 nét văn hóa , nó không phải là 1 tôn giáo . Nó là 1 nét văn hóa đặc trưng của không những người Việt Nam mà còn rất nhiều nước trên thế giới. Tín ngưỡng phồn thực gồm các loại: thờ sinh thực khí (Linga – nõ và Yoni – nường) và thờ hành vi giao phối (múa tùng – dí hay linh tinh tình – phộc). Đây là một loại hình tín ngưỡng cổ xuất hiện lâu đời trong đời sống con người, từ khi con người chưa hiểu đến khi hiểu rõ về nguyên nhân sinh sản của muôn vật và loại người, chính là sự kết hợp giữa âm – dương, đực – cái, nam -nữ, Sự sinh sản ấy khiến cuộc sống no đủ, tươi đẹp hơn, chính vì vậy nó trở nên linh thiêng và trở thành một hiện tượng mà con người sùng bái. Các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy tại khu di chỉ Văn Điển (Hà Nội) tượng đá người đàn ông với bộ phận sinh dục được phóng to lên có niên đại gần 4000 năm. Hay là tượng nam nữ với bộ phận sinh dục to hơn bình thường được tìm thấy tại các nhà mồ ở Tây Nguyên. Việc thờ sinh thực khí còn thể hiện ở việc thờ các loại cột (cột đá tự nhiên hoặc là được tạc ra, thể hiện tính dương) và các loại hốc (hốc cây, hốc đá, các kẽ nứt, thể hiện tính âm). Như ở chùa Dạm – Bắc Ninh có một cột đá hình sinh thực khí nam – có khắc đôi rồng thời Lý, hay ngư dân Khánh Hòa có tục thờ kẽ nứt trên một tảng đá gọi là lỗ Lường, và vị nữ thần ngự ở đây là Bà Lường. Và trên nắp thạp đồng tìm được ở Đào Thịnh( Yên Bái), xung quanh hình mặt trời và các tia sáng là tượng bốn đôi nam nữ đang giao hợp, Đặc biệt phải kể đến trống đồng – biểu tượng quan trọng nhất của tín ngưỡng phồn thực, hình dáng trống là sự phát triển của chiếc cối giã gạo, cách đánh trống là mô tả động tác giã gạo, cũng là động tác giao phối, hoa văn trên trống có hình mặt trời với các tia 30
  32. sáng, hình lá, những biểu tượng về động vật hay mùa màng đều thể hiện lên sự thờ sinh thực khí và hành vi giao phối. Tại khu vực Thạch Thất, Quốc Oai, tín ngưỡng phồn thực tuy không được thể hiện việc thờ bộ phận sinh dục hay thờ hành vi giao phối một cách rõ ràng, nhưng loại hình tín ngưỡng này đã lan tỏa và hòa nhập vào trong cuộc sống của người dân nơi đây dưới nhiều hình thức khác nhau. Từ thời xa xưa, chày và cối – bộ công cụ thiết thân của người dân nông nghiệp nơi đây, đồ vật này xuất hiện trong mỗi gia đình. Đây là những vật tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ, còn việc giã gạo là tượng trưng cho hành động giao phối. Hay việc thờ sinh thực khí còn được thể hiện bằng việc thờ các loại cột (trong đình chùa, miếu mạo) hay các loại hốc (hốc cây, hốc đá), Ví dụ hốc cây đa tại thôn Hoàng Xá, xã Lại Thượng, Thạch Thất được người dân nơi đây thờ phụng, cúng bái mỗi dịp lễ, tết. Hay trên mỗi hốc đá trên ngọn núi Thầy (Quốc Oai) đều có đặt bát hương để người dân nơi đây cúng bái quanh năm, Ngoài ra, tín ngưỡng phồn thực nơi đây còn được thể hiện trong những hoa văn, họa tiết trang trí của những công trình kiến trúc xung quanh đời sống nhân dân nơi đây. Ví dụ như: họa tiết cây lá phát triển tươi tốt, muông thú, rồng phượng, trên mỗi cột nhà, gác mái của những ngôi đình, hay ngôi nhà của người dân ở, Thể hiện trong các lễ hội qua các trò chơi dân gian, điển hình như đấu vật: Sới vật ở bất cứ đâu cũng đều có hình tròn và thường được đặt trước sân đình hình vuông. Đó không phải là sự sắp đặt ngẫu nhiên mà đều có ý nghĩa sâu xa của nó, bởi vuông và tròn theo quan niệm của dân tộc Việt là 2 hình toàn vẹn. Hình tròn tượng trưng cho trời, cho tính dương, hình vuông tượng trưng cho đất, cho tính âm, vuông và tròn - âm và đương đặt cạnh nhau nghĩa là một sự kết hợp hài hòa, trọn vẹn và mang lại những điều tốt đẹp. Bởi vậy người Việt xưa không coi đấu vật là trò chơi đơn thuần mà thông qua trò chơi này người ta mong cho dương vượng để có mưa thuận gió 31
  33. hòa, cây cối, mùa màng tốt tươi. Nổi tiếng với trò chơi này tại Thạch Thất có sới vật tại xã Hạ Bằng, hay tại Quốc Oai có lò vật tại xã Cấn Hữu, lò Yên Nội (Đồng Quang), Ngô Sài (thị trấn Quốc Oai), Ngọc Than (Ngọc Mỹ), Nghĩa Hương • Tín ngƣỡng sùng bái tự nhiên Việt Nam là một quốc gia phát triển kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, nên phải lệ thuộc và gắn bó với tự nhiên, điều đó dẫn đến việc sùng bái tự nhiên của người dân nơi đây. Mọi sinh hoạt và lao động hằng ngày đều gắn với tự nhiên, với tâm lý hay sợ hãi và sùng bái, từ đó người dân Việt Nam nhìn nhận tự nhiên như những đấng linh thiêng, tôn nó thành thần, thánh, đưa tự nhiên vào thờ cúng trong gia đình, miếu mạo, quán, điện, Cùng với đó, người dân Việt Nam theo tín ngưỡng đa thần và âm tính (trọng nữ giới), vì thế nên việc thờ cúng tự nhiên cũng hết sức phong phú, mọi sự vật đều được họ thờ cúng, bao gồm các hình thức như: thờ Tam phủ, Tứ phủ; thờ Tứ pháp; thờ động vật, thực vật, Có hai loại động vật phổ biến được thờ phụng là chim và rắn, người Việt đã thần thánh hóa hai động vật này lên thành Tiên(Âu Cơ) và Rồng (Lạc Long Quân) và cho rằng mình là con Rồng cháu Tiên. Trong phong tục, tín ngưỡng dân gian tại Thạch Thất – Quốc Oai, việc thờ cúng tự nhiên đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân. Hình thức thờ Tam phủ, Tứ phủ phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng người dân nơi đây. Tam phủ là để chỉ thờ ba vị thánh thần: Mẫu Thượng Thiên cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng mây mưa, gió bão, sấm chớp; Mẫu Thượng Nghàn trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho chúng sinh; và Mẫu Thoải trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp. Tứ phủ là bao gồm ba vị thánh thần trên và có thêm Mẫu Địa Phủ quản lý vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống. Phủ thờ các Mẫu được mở ra với mật độ khá nhiều tại địa bàn nơi đây. Người dân mở 32
  34. Phủ thờ Mẫu với mong muốn làm ăn thuận buồm xuôi gió, phát tài phát lộc, đem lại yên ấm cho gia đình1, Ngoài ra, thờ từ những con vật mạnh mẽ như hổ, voi, ngựa, rắn, đến các con vật gần gũi với văn hóa nông nghiệp như cóc, chó, cá, hạc, dơi, Đặc biệt, người dân nơi đây cũng như nhân dân Việt Nam nói chung, họ thờ cả những con vật mang tính biểu tượng hóa không có thật như rồng, lân. Về cây cối, người dân nơi đây sinh ra từ làng, sống chủ yếu bằng việc trồng lúa, nên họ tôn sùng nhất là cây lúa. Ngoài ra còn có các “thần cây đa, ma cây gạo”, cây si, cây bàng, cây cau, Các câu chuyện về thần thánh, ma quỷ trú ngụ trên cây cũng khá phổ biến và có ảnh hưởng nhất định đến đời sống sinh hoạt của người dân nơi đây. • Tín ngƣỡng sùng bái con ngƣời Việc thờ cúng, coi trọng con người là một trong những điểm đặc sắc nhất của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Nó bắt nguồn từ niềm tin rằng linh hồn người chết vẫn tồn tại trong thế giới của chúng ta, rằng người sống phải tôn trọng và thể hiện sự biết ơn với những linh hồn đó. Việc coi trọng tổ tiên, coi trọng các vị thần, coi trọng hồn vía của con người, đã làm nên loại hình tín ngưỡng đặc sắc như: thờ cúng tổ tiên, hồn vía, Thành hoàng làng, vua Tổ, Tổ nghề, Điều này còn thể hiện như một nền tảng đạo lý của người Việt Nam. Thứ nhất là việc thờ cúng Tổ tiên, hay còn gọi được gọi khái quát là Đạo Ông Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc biệt là tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên là một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của người dân nơi đây. Đây là cách thể hiện lòng biết ơn và tri ân những người đã khuất. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp 1 Phụ lục 1, Tr. 72. 33
  35. may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi. Trong nhận thức của người Việt nói chung và người dân khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng, con người có hai phần: phần xác và phần hồn. Khi con người còn sống, phần hồn nhập vào xác và điều khiển xác của con người, khi con người chết, thì phần xác sẽ trở về với cát bụi, còn phần hồn sẽ rời khỏi xác và chuyển sang sống ở một thế giới khác mà người ta gọi là cõi âm. Ở cõi âm thì mọi nhu cầu của phần hồn đều giống như cuộc sống ở chốn trần thế. Họ thờ cúng tổ tiên một mặt để thể hiện lòng biết ơn, lòng hiếu thảo kính trọng của mình với những người bề trên, những người sinh thành ra mình, mặt khác, họ cũng lo sợ rằng, nếu không thờ cúng ông bà tổ tiên những người đã khuất một cách tử tế, thì những linh hồn này sẽ trở thành ma đói và quay trở lại quấy nhiễu họ, mang lại đen đủi và rủi ro trong cuộc sống của họ. Việc thờ cúng tổ tiên tại mỗi gia đình được tiến hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm, dù đã khuất nhưng linh hồn của họ vẫn ở bên cạnh con cháu. Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin , không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết Nguyên đán, Thanh minh, Hàn thực, Đoan ngọ , các ngày Sóc (ngày mồng một), Vọng (ngày rằm) theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ gả chồng Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình, người dân nơi đây còn thờ cúng người có công với làng xã, được tôn vinh là Thành hoàng làng – vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng, được thờ cúng tại đình làng. Và thờ cúng người có công dựng nước, đó là các vị vua Hùng. Ở một số gia đình thờ cả Hồ Chủ tịch. 34
  36. Ngoài ra còn có tục thờ Tứ bất tử (bốn người không bao giờ chết, gồm: Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh) trong tín ngưỡng sùng bái con người ở nước ta. Thánh Tản Viên( trong thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh) thể hiện sức mạnh đoàn kết của con người trước thiên tai; Thánh Gióng thể hiện sức mạnh của người dân đất nước trước giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử là biểu tượng ước mơ về một cuộc sống vật chất phồn vinh, ấm no; còn Liễu Hạnh là hiện thân của ước vọng về tự do, trí tuệ và hạnh phúc của con người. Trong tâm thức của người dân Việt Nam, Liễu Hạnh là Mẹ, là thần chủ điện thờ Tam phủ, Tứ phủ, Mẫu Liễu Hạnh cai quản nhân gian, thế giới loài người, và có thể hóa thân vào các Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng nghàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa và sai khiến, chỉ đạo các thế lực tự nhiên làm cho cuộc sống của người dân Việt Nam trở nên ấm no hơn, mùa màng bội thu bởi mưa thuận gió hòa, Vì vậy, Liễu Hạnh là vị thần được người Việt nói chung và người dân khu vực Thạch Thất – Quốc Oai đặc biệt tôn thờ. Tục thờ Tổ nghề cũng là một hình thức trong tín ngưỡng sùng bái con người xuất hiện tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai. Tổ nghề là một hoặc nhiều người có công lớn đối với việc sáng lập và truyền bá một nghề nào đó. Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập vì đã có công tạo ra nghề, gọi là Tổ nghề (hoặc Thánh sư). Tổ nghề chỉ là những con người bình thường, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau. Ở khu vực Thạch Thất, Quốc Oai có một số làng nghề truyền thống thờ tổ nghề như: Làng Ra(thôn Phú Hòa, Bình Phú, Thạch Thất) thờ Thủy tổ múa rối nước là Thiền sư Từ Đạo Hạnh, Như vậy thì quá trình hình thành và phát triển của những tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai cũng đi cùng với lịch sử phát triển chung của Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn phát triển nhất định. Từ thuở khai sơ, khi nhận thức con người chưa phát triển nhiều, họ thờ các hiện tượng 35
  37. tự nhiên, động vật, cây cối, khi nhận thức phát triển, hình thức kinh tế nông nghiệp xuất hiện thì tín ngưỡng phồn thực cũng xuất hiện, rồi từ đó các loại hình tín ngưỡng cũng dần xuất hiện xoay quanh cuộc sống nông nghiệp và tác động lại đến đời sống sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần của người dân nơi đây. Đặc điểm của tín ngưỡng dân gian Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp lúa nước là chủ yếu và người dân đa số là nông dân, vì vậy tín ngưỡng dân gian nơi đây được hình thành từ rất sớm. Nó là sản phẩm tinh thần, văn hóa trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Vì vậy, tín ngưỡng dân gian Việt Nam mang đậm những đặc trưng của văn minh nông nghiệp. Tín ngưỡng dân gian của khu vực Thạch Thất, Quốc Oai cũng là một phần trong Tín ngưỡng dân gian của Việt Nam nói chung, vì vậy, nó cũng mang một số đặc điểm chính như sau: Thứ nhất, tín ngưỡng dân gian tôn trọng và có mối quan hệ mật thiết với thiên nhiên. Điều này có thể thấy rõ trong tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Thứ hai, trong mỗi tín ngưỡng đều có sự hài hòa âm dương: Trời – Đất, Cô – Cậu, Ông đồng – Bà đồng, Rồng – Tiên Thứ ba, các tín ngưỡng đa phần mang tính âm, đối tượng đa số là nữ. Ví dụ như hệ thống Tam phủ, Tứ phủ, hay hệ thồng Tứ pháp(Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), Thứ tư, các tín ngưỡng có sự đan xen, dung hợp và hòa đồng lẫn nhau, không mâu thuẫn gay gắt, kỳ thị, xung đột hay bài trừ nhau. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái và tinh thần đoàn kết của người dân nơi đây. Ví dụ như một gia đình có thể có bàn thờ cúng tổ tiên, trong góc nhà có đặt bàn thờ cúng Thổ 36
  38. địa và ba ông thần Phúc Lộc Thọ, đồng thời cũng lập thêm một Phủ thờ Tam phủ, Tứ phủ. Hình thức này khá phổ biến trong cộng đồng người dân nơi đây. Thứ năm, mỗi tín ngưỡng đều mang những nét văn hóa riêng biệt, nhưng đều hướng đến sự Chân – Thiện – Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc. 1.3. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Thạch Thất – Quốc Oai Mỗi một tôn giáo lại có nguồn gốc và đặc điểm riêng của mình. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, nó lại giao lưu và thâm nhập vào các mảnh đất văn hóa màu mỡ khác cắm rễ, từ đó xảy ra sự tiếp biến, dung hợp lẫn nhau. Và mức độ hỗn dung, hòa hợp của mỗi loại tôn giáo cũng khác nhau, có tôn giáo dù đã du nhập cả mấy trăm năm thì cũng chỉ là một bộ phận riêng biệt so với văn hóa dân tộc, tuy nhiên cũng có tôn giáo, từ khi du nhập, đã dần lan tỏa và hòa vào văn hóa dân tộc như một phần không thể thiếu của nó. Với đặc trưng tư duy và văn hóa của nền nông nghiệp lúa nước, người dân Thạch Thất – Quốc Oai cũng như người Việt nói chung, trong quá trình phát triển thì dần tiếp nhận những giá trị văn hóa từ bên ngoài vào, từ đó chọn lọc và phát triển nên những nét văn hóa riêng cho mình, thể hiện được bản sắc văn hóa của dân tộc. Và sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian chính là một trong những nét văn hóa riêng đặc sắc ấy. Từ xa xưa, trước khi Phật giáo du nhập vào, thì người dân nơi đây đã dần hình thành cho mình những tín ngưỡng riêng. Tuy không phát triển những tín ngưỡng này thành một tôn giáo có giáo lý cũng như tổ chức bài bản, nhưng nó đã ngày càng ăn sâu và ảnh hưởng tới cuộc sống của mỗi người dân. Cho đến khi Phật giáo đi vào với chủ trương hòa bình, từ bi, hỷ xả, những chủ trương này rất gần gũi với tinh thần bao dung đùm bọc, vị tha trong đạo đức 37
  39. truyền thống của người Việt. Chính vì vậy mà Phật giáo đã nhanh chóng có cơ sở để hòa nhập với tín ngưỡng dân gian, từ đó lan rộng và cắm rễ sâu tại đất Việt. Điển hình có thể thấy là tín ngưỡng thờ Mẫu trong tín ngưỡng dân gian của người Việt khi được Phật giáo tiếp nhận đã trở thành những vị Phật bà như: Tứ pháp, Phật bà chùa Hương, Quan âm Tống tử, Ngay từ khi du nhập, Phật giáo đã hỗn dung, hòa hợp với tín ngưỡng dân gian một cách nhanh chóng. Dân ta đón nhận về những triết lý, về luật nhân quả luân hồi, về con đường giải thoát đau khổ, bằng sự cởi mở và gần gũi nhất. Vì vậy, không khó để thấy những tín ngưỡng dân gian có phảng phất màu sắc của Phật giáo. Phật giáo với hệ thống lý luận phong phú đi cùng với triết lý từ bi, hỷ xả, đã góp phần làm cho văn hóa người Việt đa dạng và mang một bản sắc riêng. Sự dung hợp giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai có thể thấy qua những biểu hiện sau: Thứ nhất, đó là hiện tượng thờ đá. Ở những nơi cầu tự, cầu duyên như ở Hang Cắc Cớ của chùa Thầy(Tượng Cậu), tục thờ đá cũng thể hiện sự kết hợp giữa văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Việc ban phát sự sống và tạo ra sự sinh sôi nảy nở vốn là việc của các vị thần linh. Tuy nhiên tín ngưỡng dân gian cùng với các vị thần linh dần ngày càng mất đi sự gần gũi, tin tưởng, thân thiết khi con người ngày càng hiểu rõ được các quy luật của tự nhiên. Do đó, họ không còn tôn sùng các vị thần tự nhiên nhiều nữa. Mặt khác thì Phật giáo lại ngày càng gần gũi với người dân, hiện hữu trong đời sống của nhân dân. Trước tình hình này, sự kết hợp của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian chính là sự kết nối thiết yếu của con người với các vị thần tự nhiên thông qua các nghi lễ thờ cúng, làm cho con người có thêm niềm tin vào các vị Thần Phật. Chính vì vậy, các nơi cầu tự, cầu duyên của người dân dần được chuyển vào các ngôi chùa và việc đi cầu tự, cầu duyên là một hình thức độc đáo trong đời sống tín ngưỡng của người dân. 38
  40. Thứ hai, có thể thấy sự kết hợp rõ nhất giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian qua cách sắp xếp, tên gọi, cách bài bố trang trí các kiến trúc hay các tượng thờ và di vật trong một số ngôi chùa tại khu vực này. Phần lớn các chùa ở khu vực Thạch Thất – Quốc Oai đều thờ tự hết sức đa dạng: Từ các vị Phật, Thần, Thánh, Mẫu đến các vị Thổ địa cũng được thờ chung trong chùa. Các chùa trong khu vực này đa số đều có ban thờ Tam tòa Thánh Mẫu. Với tư tưởng Âm Dương - Tam Tài - Ngũ Hành, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật, thì Mẫu là nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam. Điều đó có nghĩa là từ Mẫu Thiên mà tự đối ứng hoá thành Mẫu Địa (Mẫu Thượng Ngàn) – thứ hai, rồi lại hoá thành Mẫu Thoải (Mẫu Thuỷ) – thứ ba, chính vì thế mới có tên là Tam toà Thánh Mẫu. Trong các vị Thánh Mẫu được thờ thì đứng đầu là Mẫu Liễu Hạnh. Liễu Hạnh công chúa là một trong những vị thần quan trọng trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, là người đứng đầu trong hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu. Tại chùa Thầy còn có đền thờ Tam phủ, thờ ba vị: Vua cha Ngọc Hoàng, Đức Đế Thích, Đức Thủy Tiên. Ba vị này chính là ba vị đứng đầu trong Tam giới: Thiên, Địa, Thủy. Ngoài ra, ta có thể thấy sự gắn bó của những ngôi chùa Việt nói chung và những ngôi chùa trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng với các hình thức biểu diễn dân gian như: Hát chèo đò. Hình thức này thường thấy ở các buổi lễ hay hội tại các sân chùa hay sân tổ của những ngôi chùa. Các nghệ nhân được thuê về hay thường là các Vãi có giọng hay đứng dậy làm động tác chèo đò và hát những đoạn thơ trên sáu dưới tám liên quan đến tích nhà Phật. Các Vãi khác nghe hát chắp tay thành kình và xướng lại theo lời. 39
  41. Một hình thức biểu diễn khác là hát quan họ - một hình thức dân ca đặc sắc bắt nguồn từ vùng Kinh Bắc xưa ( Bắc Ninh ngày nay), và sau đó lan truyền rộng ra các vùng lân cận. Các điệu hát quan họ rất phong phú, được biểu diễn bởi các nhóm nam nữ hay còn gọi là các “liền anh”, “liền chị”. Các nhóm hát quan họ này có mối quan hệ chặt chẽ với các ngôi chùa. Họ thường được mời về biểu diễn tại các ngôi chùa trong các dịp lễ, hội trọng đại. Tại Thạch Thất – Quốc Oai có nhiều nhóm hát quan họ như: CLB quan họ xã Đại Đồng (Thạch Thất), CLB xã Đại Thành (Quốc Oai), Đặc biệt phải kể đến là sân khấu múa rồi nước, một loại hình múa rối độc đáo của người Việt bắt nguồn từ khu vực này, mà Tổ nghề là Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trước mặt chùa Thầy có một Thủy đình ở giữa hồ Long Chiểu để biểu diễn múa rối nước2. Thậm chí, ở chùa Thầy, tượng của nhà sư Từ Đạo Hạnh cũng làm theo kiểu con rối có thể cử động được. Hay tại chùa Tây Phương, trước cổng chùa, ngay dưới chân núi cũng có một hồ mà ở giữa hồ có xây dựng Thủy đình nhằm phục vụ biểu diễn múa rối nước. Qua những điều trên, chúng ta có thể thấy được những ngôi chùa và tư tưởng Phật giáo đã phần nào ảnh hưởng rất quan trọng đến lối sống sinh hoạt văn hóa của người dân nơi đây. Thứ ba, đó là sự giống nhau về tinh thần từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn, tự do, bình đ ng giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người Việt nói chung. Phật giáo khi đi vào Việt Nam dễ dàng được đón nhập và ngày càng cắm rễ sâu trong đời sống nhân dân là bởi sự gần gũi về mặc tư tưởng và giáo lý. Người nông dân quanh năm cúi mặt xuống đất, bán lưng cho trời, không đủ trình độ để hiểu được những giáo lý cao siêu, nhưng trong cuộc sống, họ biết thế nào là thiện, thế nào là ác. Họ hiểu rằng cần phải làm điều thiện, tránh điều ác, họ quan niệm “thương người như thể thương thân”, “ở hiền gặp lành” “gieo gió gặt bão” hay “ác giả ác báo, thiện giả thiện báo”, nhưng điều này 2 Phụ lục 2, Tr.72. 40
  42. hơn bao giờ hết lại cực kỳ gần với triết lý từ bi, nhân quả của Phật giáo. Hay hình tượng Đức Phật cũng được dân gian Việt hóa thành hình tượng ông Bụt (nói lái đi của Buddha – tức Đức Phật) hiền lành, nhân từ, luôn giúp đỡ những người khó khăn. 41
  43. Tiểu kết chƣơng 1 Đồng bằng Bắc Bộ là nơi có nền văn minh lúa nước phát triển, đồng thời cũng là nơi Phật giáo lần đầu tiên du nhập vào Việt Nam. Chính vì vậy, Phật giáo sớm hòa nhập cùng các tín ngưỡng dân gian nơi đây để phát triển mạnh mẽ qua từng thời kỳ lịch sử của dân tộc. Từ thế kỷ X, Việt Nam chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc, bước vào thời kỳ độc lập, Phật giáo với các giáo lý từ bi, hỷ xả, cứu khổ cứu nạn cùng chủ trương hòa bình đã được nhân dân coi trọng. Đến thời Lý, Trần, đây là thời kỳ Phật giáo phát triển đỉnh cao tại Việt Nam nói chung và Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Trong thời kỳ này, nhiều ngôi chùa được xây dựng và biểu hiện rõ nét sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Khoảng thời gian từ thế kỷ XIV – thế kỷ XV, Phật giáo bước vào giai đoạn suy yếu do Nho giáo được đề cao, vì vậy, nó mất đi vị trí quan trọng trong tầng lớp thống trị, chỉ còn len lỏi trong dân gian. Sang thế kỷ XVI – XVII, Phật giáo dần trở lại mạnh mẽ và có nhiều ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân, nhiều ngôi chùa được xây dựng và trùng tu, giữ lại được những nét đặc sắc đến tận bây giờ, điển hình như chùa Tây Phương. Thế kỷ XIX đến nay, Phật giáo tuy không tham gia vào chính trị nhưng lại có ảnh hưởng sâu rộng đến quần chúng nhân dân, nó thấm sâu vào máu thịt con người Việt nói chung, người dân Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, nó hỗn dung, đồng hành cùng các tín ngưỡng dân gian tạo cho nhân dân một đời sống tâm linh phong phú, đa dạng và có nét đặc sắc riêng. Thạch Thất – Quốc Oai là hai huyện nằm ở phía Tây trung tâm thành phố Hà Nội( Kinh thành Thăng Long xưa), lại nằm trên mảnh đất văn hóa xứ Đoài, là một vùng đất thuận lợi trong việc ảnh hưởng và giao lưu văn hóa của các khu vực. Chính vì thế, khi Phật giáo phát triển tại Đồng bằng Bắc Bộ, thì Phật giáo cũng đã dần cắm dễ trên mảnh đất này. Phật giáo tuy là một tôn giáo lớn với hệ thống tư tưởng triết học sâu rộng, nhưng Phật giáo vẫn rất phù hợp và gần gũi với văn hóa truyền thống của người Việt nói chung. Vì vậy, 42
  44. khi du nhập vào, Phật giáo dễ dàng bén rễ và phát triển mạnh mẽ trong đời sống nhân dân. Và người đặt nền móng cho Phật giáo khu vực Thạch Thất – Quốc Oai không ai khác chính là Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Với tính linh hoạt, tổng hợp và hài hòa âm dương sẵn có, Phật giáo tại đây đã tự động dung hợp với các tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người. Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam hết sức phong phú với nhiều loại hình khác nhau, nhưng đều chung mục đích đó là vì con người. Điều này ta có thể thấy rõ trong các ngôi chùa ở Đồng bằng Bắc Bộ, cụ thể hơn là hai ngôi chùa Thầy và chùa Tây Phương. Sự dung hợp này có thể thấy qua những biểu hiện như: hiện tượng thờ đá, hang, hốc, qua kiến trúc hay cách sắp xếp tượng phật trọng chùa, qua các hình thức biểu diễn dân gian, hay là sự giống nhau về tinh thần từ bi, hỷ xả, tinh thần bác ái “lá lành đùm lá rách”, Qua những điều trên, chúng ta có thể thấy được sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian đã được hình thành từ rất lâu và dần phát triển mạnh mẽ, có những ảnh hưởng nhất định đến lối sống sinh hoạt văn hóa của người dân Thạch Thất – Quốc Oai. 43
  45. CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN QUA KHẢO SÁT HAI NGỒI CHÙA: CHÙA THẦY VÀ CHÙA TÂY PHƢƠNG. 2.1. Biểu hiện qua nghi lễ của Phật giáo tại hai ngôi chùa Văn hóa hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai được thể hiện rõ qua các nghi lễ, lễ hội. Phật giáo có thể nói là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lễ hội ở Việt Nam nói chung và khu vực này nói riêng. Lễ và hội của Phật giáo gắn bó thân thiết với người dân, trở thành lễ hội dân gian có ảnh hưởng rộng. Đi hành hương, chiêm bái thánh tích, tham gia vào các lễ hội đã trở thành hoạt động, nhu cầu ko thể thiếu của người dân nơi đây. Tham gia các hoạt động này, con người như tạm thoát khỏi những lo toan thường nhật, coi đây là quãng thời gian để tâm an yên, thanh thản, trở về với thiên nhiên, cội nguồn tâm linh. Lễ hội và các nghi lễ, trò chơi dân gian, của tín ngưỡng dân gian đã trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa và món ăn tinh thần không thể thiếu từ xưa đến này của người dân trong khu vực. Xuất hiện cùng với các loại hình tín ngưỡng dân gian gắn liền với văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước thì những cư dân nơi đây cũng nảy nở ra những nghi lễ thờ cúng các hiện tượng tự nhiên. Họ thờ các vị thần mây, mưa, sấm, chớp, thờ Mẹ, thờ Mẫu, thờ cha trời, mẹ đất, Các nghi lễ thờ cúng này cũng đã tác động vào trong chùa, không ngôi chùa nào là không có bàn thờ Thổ Địa, Thiên Lôi, Thờ thần làng, thần núi, Việc này còn được thể hiện mạnh mẽ bằng cách biến một số nhà sự thành Thần thánh và được tôn thờ trong chùa, như Thiền sư Từ Đạo Hạnh được thờ tại chùa Thầy. Về cơ bản, có bốn ngày đại lễ là lễ chính của đạo Phật trong năm, đó là: Lễ Phật đản (Phật sinh), Lễ Phật xuất gia, Lễ Phật thành đạo và Lễ Phật nhập 44
  46. Niết bàn. Tuy nhiên, tại hai ngôi chùa Thầy và chùa Tây Phương thì còn có hai ngày lễ hội riêng của hai ngồi chùa. Lễ Phật Đản, còn gọi là lễ tắm Phật, lễ té nước, hay lễ hoa. Đây là ngày Lễ kỷ niệm ngày sinh của Thích Ca Mâu Ni. Theo Phật thoại “khi Phật sinh có rồng phun nước thơm tắm cho Phật”, vì vậy trong lễ Phật Đản, đều có những hoạt động như hành pháp hội, lấy nước thơm tắm rửa cho Phật, sau đó lau bằng một khăn lụa đỏ, rồi xé ra chia cho mỗi người một mảnh để làm “khước”, trừ ốm đau bệnh tật và chống lại ma quỷ, cúng dàng tăng chúng, bái Phật, té tổ, té nước hay xin nước tắm Phật, Ngày Lễ Phật Đản được tổ chức vào ngày rằm tháng Tư Âm lịch. Theo truyền thuyết, ngày Đức Phật sinh ra, Ngài vững vàng bước đi bảy bước và tuyên bố: “Trên thiên giới, dưới người trần thế, Chỉ có ta cao quý phi thường Thân này kiếp chót Pháp Vương, Không còn trở lại con đường tử sinh”(6, Tr.152) Ở Việt Nam nói chung thì lễ tắm Phật còn được gắn liền với tín ngưỡng cầu mưa của người nông dân. Người ta tin rằng cứ đúng ngày Phật đản, thời tiết thế nào cũng mưa để lấy nước tắm Phật. Và tắm Phật bằng cách dội nước cũng là một hình thức cầu mưa, để cho mùa màng bội thu. Với người dân nơi đây, lấy nghề nông trồng lúa nước làm nghề chính, mà trong đó có 4 nhu cầu thiết yếu là “nước, phân, cần, giống”. Được xếp trong vị trí hàng đầu nên có thể thấy yếu tố nước quan trọng như thế nào. Như vậy, có thể thấy được vị trí của ngôi chùa trong cộng đồng làng xã là hết sức quan trọng. 45
  47. Ngày Lễ Phật xuất gia3 được tổ chức vào ngày 8 tháng 2 Âm lịch. Đây là ngày mà Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ ngôi vị Thái tử, từ bỏ cuộc sống hoàng cung, gia đình để xuất gia tu hành, tìm con đường giải thoát cho con người. Để kỷ niệm ngày lễ này, hầu hết các chùa Tăng, Ni, Phật tử đều tổ chức đọc kinh tụng niệm. Ngày Lễ Phật thành đạo là ngày kỷ niệm Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo Vô thượng chính đ ng chính giác. Trải qua 49 ngày Thiền định dưới gôc cây Bồ Đề. Trước khi ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề, Ngài đã đổi phương pháp tu “khổ hạnh” nhận bát sữa dân cúng của nàng Su Gia Ta. Sau khi thành đạo, Ngài đến Vườn Nai xứ Ba La Nại độ cho 5 anh em ông Kiều Trần Như vốn là những người trước đây đã tu “khổ hạnh” với Ngài. Bài Thuyết pháp đầu tiên mà Đức Phật giảng đó là giáo lý “Tứ thánh đế” hay còn gọi là “Tứ diệu đế” – bốn chân lý cao cả là: khổ(Khổ), nguyên nhân sinh khổ(Tập), sự dứt khổ(Diệt), con đường đưa đến nơi chấm dứt khổ đau(Đạo). Đây cũng là ngày mà các chùa tổ chức lễ quy y cho các giới trong tín đồ Phật giáo. Ngày Lễ Phật nhập Niết bàn được tổ chứ vào ngày 15 tháng 2 Âm lịch. Đây là ngày lễ tưởng nhớ ngày mất của Đức Phật, hay gọi nôm na là ngày giỗ của Phật. Tương truyền bốn mươi năm sau, khi đức Phật được tám mươi tuổi, ngài nhập Niết bàn trước sự chứng kiến của rất nhiều thánh nhân đệ tử của Ngài, loài người lẫn chư thiên. Trong ngày lễ Phật nhập Niết bàn, hầu hết các chùa đều tổ chức pháp hội Niết bàn, đọc kinh “Di giáo kinh” Các Lễ Phật đản, Lễ Phật xuất gia, Lễ Phật thành đạo, Lễ Phạt nhập Niết bàn đều kỷ niệm những cột mốc lớn trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca 3 Có 2 thuyết xuất gia: Đại thừa cho rằng Đức Phật xuất gia năm 19 tuổi, trải qua 6 năm tu hành khổ luyện và 5 năm tìm thầy học đạo, đến năm 30 tuổi Ngài mới đắc đạo và đi Thuyết pháp 49 năm. Còn theo Tiểu thừa, Ngài xuất gia năm 29 tuổi, trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh, Ngài thành đạo lúc 35 tuổi và Thuyết pháp trong 45 năm. 46
  48. Mâu Ni. Qua đây giúp mọi người nhận thức rõ rằng trong mỗi bản thân con người, ai ai cũng có tính Phật, ai cũng có thể trở thành Phật nếu tu hành tinh tiến theo Phật pháp. Dưới ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian, mỗi ngôi chùa lại có một ngày lễ hội chính hằng năm. Trong hội chùa, có những nghi kễ Phật giáo như tụng kinh, lễ Phật, chạy đàn, phóng sinh, Nhưng vì nhiều ngôi chùa Việt Nam không chỉ có thờ Phật mà còn thờ cả Thần, Mẫu nên thông qua hội chùa ta sẽ thấy rõ sự dung hợp tín ngưỡng tôn giáo được biểu hiện rõ ràng. Các vị thần được thờ trong chùa kiểu “tiền Phật hậu Thánh”, và các chùa thờ kiểu này thường tổ chức hội trong cùng một ngày. Chùa Thầy và chùa Tây Phương cùng tổ chức khai hội vào ngày 6 tháng 3 Âm lịch và kéo dài ba ngày sau đó. Các hội chùa này không chỉ có ảnh hưởng đến thôn làng quanh đó mà còn có ảnh hưởng tầm rộng, thu hút sự quan tâm của người dân quanh xã, thậm chí là quanh huyện và các vùng lân cận về tham dự. Qua đây có thể thấy được rằng, hội chùa không chỉ gắn bó với sinh hoạt văn hóa làng, mà còn ảnh hưởng đến cả văn hóa vùng. Ngoài ra còn có Lễ Vu Lan được tổ chức dựa trên kinh Vu Lan Bồn. Lễ Vu Lan là một lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của nhân dân Việt Nam, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Lễ hội này trở thành lễ hội của Phật giáo và được tổ chức vào 15 tháng 7 Âm lịch hằng năm. Đây là ngày để con cháu báo hiểu cho ông bà, cha mẹ, những đấng sinh thành. Ngoài ra thì đây cũng là ngày lễ cúng cô hồn, phổ độ chúng sinh, người ta dâng lễ vật để cúng với mục đích cầu xin cho vòng hồn của người thân mình được thoát khỏi địa ngục và được siêu độ. Lễ này thể hiện tư tưởng từ bi, hỷ xả của Phật giáo cùng với sự lương thiện, tu nhân tích đức , đạo hiếu tốt đẹp của người dân nơi đây. Thêm nữa, mỗi năm trong chùa còn diễn ra các ngày lễ khác của dân, như Lễ dâng sao giải hạn. Người dân nơi đây cho rằng, hàng năm mỗi người đều 47
  49. có một sao chiếu mệnh, tất cả có chín ngôi sao và cứ chín năm lại luân phiên trở lại. Và chín ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dân sao giải hạn. Các sao chiếu mệnh gồm: Thái Dương, Thái Âm, Mộc Đức, Vân Hán, Thổ Tú, Thái Bạch, Thủy Diệu, La Hầu và Kế Đô. Dưới ảnh hưởng của Đạo giáo, Lễ dâng sao giải hạn được các chùa tổ chức vào đầu năm, cầu bình an, giải hạn cho các tín đồ Phật giáo. Tại chùa Tây Phương và chùa Thầy, lễ dâng sao được tổ chức vào ngày Rằm tháng Giêng hằng năm. Bên cạnh đó thì các ngày lễ tết trong năm, rằm, mồng một hàng tháng, người dân trong vùng cũng thường lên chùa đi lễ. Trong lễ Phật, người ta chỉ dâng lục cúng: hương, hoa, đăng, trà, quả, thực. Và các lễ này hoàn toàn là đồ chay. Tuy nhiên, trong hai ngôi chùa này còn có ban thờ Mẫu, Sơn Thần, nên người đi lễ chùa còn thêm cả lễ mặn. Ví như ban thờ Mẫu thì được tiến hành theo các nghi thức như sau: Ban thờ Mẫu có thể sắm lễ chay: hương, hoa, quả, oản. Hay lễ mặn gồm: xôi, thịt, lợn, gà, nấu chín, hay lễ đồ sống như trứng sống, thịt lợn sống, gạo, muối, để đặt tại ban Ngũ hổ, Thanh xà, Bạch xà. Lễ mặn Sơn Trang gồm: cua, ốc, bún, chanh, ớt, mắm tôm, gừng, măng tươi, lại thường được sắm theo con số 15 phần và đây là số lượng các vị thần thuộc ban Sơn Trang( chúa Thượng Ngàn Bạch Anh công chúa, 2 chầu hầu cận, 12 cô Sơn Trang). Lễ ban thờ cô, cậu: gồm hương hoa, oản quả còn có cả đồ làm bằng giấy, tượng trưng cho các đồ chơi của trẻ con như cành hóa, con chim, chiếc kèn, trống, Tuy lễ vật có là gì, thì đều không câu nệ, cốt yếu là thành tâm và giữ điều thanh tịnh. Việc tiến hàng các nghi lễ trong chùa cũng được diễn ra theo một trình tự nhất định: 48
  50. Thường thì người ta dâng lễ ở chính điện trước, rồi mới đến các ban Đức Ông, ban Thánh Hiền Nhưng cũng có người nhận thấy được vai trò quan trọng của Đức Ông, vì theo quan niệm của tín ngưỡng dân gian thì Đức Ông là người cai quản ngôi chùa nên đã thỉnh lễ Đức Ông trước, rồi mới đặt lễ dâng hương tại chính điện và các ban thờ khác. Đặt lễ vật và thắp hương làm lễ tại ban Đức Ông trước. Vì theo giáo lý của Phật giáo, Đức Ông là vị cai quản tất cả các công việc của chùa. Đồng thời khi làm lễ ở ban Đức Ông cũng xin phép được vào làm lễ ở chính điện. Cũng tương tự như trình tự thờ cúng tổ tiên, trước tiên người ta phải thắp nhang làm lễ tại bàn thờ Thổ Công để xin phép cho tổ tiên của mình được về. Vì dân gian quan niệm “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Tiếp theo là đặt lễ vật lên hương án ở chính điện. Thắp đèn, nhang rồi thỉnh ba hồi chuông, vái ba vái hoặc năm lạy. Tiếp đến là xuống điện Mẫu lễ, dâng hương và cầu nguyện. Người dân đến điện Mẫu thường cầu tài lộc, con cái, sức khỏe. Lễ vật dâng Mẫu có thể là đồ chay hoặc đồ mặn. Cuối cùng là lễ ở nhà Tổ. Lễ ở nhà tổ thì các lễ phẩm cũng tùy tâm người đến lễ. Điểm đặc biệt thể hiện sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, cụ thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chính là trong chùa còn có nhà vong4. Nhiều gia đình có người thân mất từ 35 đến 49 ngày thường làm lễ cầu siêu đưa vong linh của người quá cố vào chùa để “thính pháp văn kinh”, qua đó mà giác ngộ vạn vật vô thường, tu tâm dưỡng tính, xóa bỏ tham sân si để được giải thoát, siêu sinh. Tại chùa Thầy có nhà vong, nên những người đi lễ chùa nếu có thân nhân quá cố gửi tại chùa, sẽ xuống thắp hương và cầu lễ mong người quá cố “phù hộ độ trì” cho gia đình mình. 4 Phụ lục 3, Tr.73. 49
  51. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai được thể hiện trong nghi lễ chùa rất linh thiêng và được người dân coi trọng, nó đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân nơi đây. Họ đi chùa cầu mong được Phật, Thánh phù hộ cho bình an, tài lộc, cầu xin khỏi bệnh. Ngoài ra họ còn bán khoán trẻ nhỏ lên chùa để mong con cháu mau lớn, khỏe. Đây là một tập tục thường làm ở đền thờ, nhưng trong chùa cũng xuất hiện lên này. Tức là làm lễ cầu Phật, cầu Đức Ông nhận trẻ nhỏ làm con cái, bảo vệ và phù hộ cho trẻ khỏe mạnh, thông minh cho đến lúc trưởng thành. Thường trẻ sẽ được làm lễ bán khoán cho đến hết một giáp (13 tuổi), hết thời gian bán khoán thì có thể chuộc khoán hoặc tiếp tục làm lễ bán khoán đến hết đời. Như vậy, tuy trong giáo lý của Phật giáo nguyên thủy vốn mang tinh thần xuất thế gian, nhưng trong quá trình phát triển, với tính linh động và sự tùy duyên của mình, Phật giáo đã thể hiện tinh thần nhập thế một cách khá toàn diện đến với quần chúng nhân dân Việt nói chung và người dân khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng. Thông qua tinh thần nhập thế đó, ta có thể thấy được chính là sự hòa hợp, hỗn dung của Phật giáo với tín ngưỡng dân gian của người dân nơi đây trong từng nghi lễ trong chùa. 2.2. Biểu hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa Sự hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian không chỉ thể hiện qua nghi lễ, mà còn thể hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa Tây Phương và chùa Thầy. Những kiến trúc này thể hiện được đặc điểm riêng biệt về kiểu dáng của các ngôi chùa vùng Đồng bằng Bắc Bộ nói chung và khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng. Kiến trúc của hai ngôi chùa này không cao lớn, đồ sộ và lộng lẫy như các ngôi chùa mới được xây dựng gần đây. Lý giải về điều này, là do tư duy muốn hài hòa với cảnh sắc thiên nhiên, tạo cho con người cảm giác thanh tao, thoát tục. 50
  52. Kiến trúc của chùa Thầy đã thể hiện rõ sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Với khởi đầu là lối tu theo dòng Thiền Mật tông huyền bí (Mật tông khi được truyền vào Việt Nam đã nhanh chóng hòa nhập cùng tín ngưỡng dân gian cùng với những hình thức như yểm bùa, cầu hồn, chân thế, ) với huyền tích của Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã tạo nên những điểm riêng biệt trong kiến trúc, không gian và bố cục của chùa. Chùa Thầy là nơi khởi nguồn của lối kiến trúc “tiền Phật hậu Thánh”, cụm kiến trúc này nằm trên trục chính dọc phía sau tòa nhà Tam bảo. Cung thánh là một không gian đóng kín với diện tích nhỏ nhằm tạo sự linh thiêng . Toàn bộ kiến trúc chùa trải dài, cao dần theo sườn núi, hình thành theo bố cục nội công ngoại quốc – đây là kiểu kiến trúc Phật giáo phổ biến bào thế kỷ XVII. Khu Tam bảo gồm cả tòa nhà Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện được thiết kế theo kiểu chữ Công. Hai bên có hai dãy hành lang nối gác chuông, gác chống, nhà Hậu tạo nên một khung chữ Nhất làm cho chùa có một không gian thoáng bên trong nhưng nhìn từ ngoài vào lại rất kín đáo. Và việc Phật hóa miếu thờ Thần tại đây chính là điểm đặc sắc nhất thể hiện sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Hang Thánh hóa5 trước đây chỉ là một cái am nhỏ (Hương Hải am), ứng với Bồ đề viện của Từ Đạo Hạnh. Ngoài ra, bố cục của chùa còn chú trọng đến vấn đề âm dương hài hòa. Hai cây cầu đá Nhật tiên và Nguyệt tiên cong cong hai bên trái phải, là biểu tượng của mặt trời và mặt trăng. Ngoài không gian kiến trúc cảnh quan, chùa Thầy còn sử dụng tổng hợp các yếu tố sắp đặt kiến trúc không gian ánh sáng để truyền tải một cách rõ ràng nhất giáo lý Phật giáo đến với Phật tử. Đó là yếu tố phong thủy với sự hòa hợp của con người, thiên nhiên và vạn vật. Khi đặt chân vào chùa, là đã chuyển từ cuộc sống ồn ào, thế tục sang một trạng thái yên tĩnh, thanh tịnh. Tiền đường là nơi yên tĩnh, không gian thoáng đãng, ít tượng. Tượng Hộ pháp 5 Phụ lục 4, Tr.74. 51
  53. oai phong với vai trò như trấn giữ những sự phàm tục, không phù hợp với nơi cửa Phật. Đi sâu vào trong chùa, không gian càng thêm thanh tịnh, với ánh sáng thiên nhiên bên ngoài hiên cùng với ánh sáng đèn nến trong các gian thờ đã giúp cho con người có được sự an yên, tĩnh tâm, tạm rời xa cuộc sống thế tục bon chen ngoài kia. Đây chính là một trong những giá trị nhân văn làm nên giá trị của ngôi chùa trong lòng người dân nơi đây. Tại chùa Tây Phương, ngôi chùa nổi tiếng với lối kiến trúc độc đáo, thì ta có thể dễ dàng nhận ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian được thể hiện trong đó. Bước qua khoảng sân, là vào chùa Hạ đại diện của chữ Nhân, tiếp đến là chùa Trung - chữ Thiên, chùa Thượng - chữ Địa. Vì được thiết kế theo hình chữ Tam, nên ở giữa chùa Thượng – Trung – Hạ có hai sân thiên tỉnh (giếng trời) hẹp và dài xen giữa để lấy ánh sáng từ trên trời cao dọi xuống. Ánh sáng trời tỏa vào bên trong các ngôi chùa, tạo được sự trong trẻo tĩnh mịch cho thị giác cũng như trong tâm thức của con người. Phật giáo không chỉ kết hợp với tín ngưỡng thờ thần tự nhiên, mà còn kết hợp với cả tín ngưỡng thờ nhân thần (thờ cúng tổ tiên, thờ thành hoàng, thờ những người có công với đất nước, thờ thầy chữa bệnh, ) Ở hai ngôi chùa này, các bộ cột thường được xây dựng bằng gỗ lim, được bào tròn hình trụ, để mộc hoặc sơn. Kiến trúc của chùa Tây Phương có tường bao quanh được xây kín, chỉ để hở những cửa thông khí ở hai bên có hình tượng “sắc sắc, không không” (bán âm, bán dương). Hầu như trong chùa chính, khắp nơi đều có chạm trổ rất tinh xảo. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long được trang trí bằng những đề tài quen thuộc ở miền đồng bằng sông Hồng với hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, hổ phù, tứ linh v.v, hài hòa, tô điểm cho kiến trúc, làm cho công trình kiến trúc mang tính nghệ thuật cao. Xung quanh diềm mái của 3 toà nhà trong chùa Tây Phương đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn 52
  54. nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng, biểu tượng cho sự sinh sôi này nở của vạn vật. Như vậy, sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của khu vực Thạch Thất – Quốc Oai đã ảnh hưởng đến lối kiến trúc của chùa Thầy và chùa Tây Phương, từ đó tạo nên nét đặc sắc trong Phật giáo của khu vực này nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung. 2.3. Biểu hiện qua nghệ thuật bài trí tƣợng thờ trong hai ngôi chùa Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người dân trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai là vô cùng đa dạng, không chỉ biểu hiện qua kiến trúc của hai ngồi chùa, mà cụ thể chi tiết hơn, mối quan hệ này còn được thể hiện trong từng cách sắp xếp tượng trong hai ngôi chùa này. Trong hai ngôi chùa, hệ thống tượng Phật vô cùng phong phú, thể hiện được sự sáng tạo của trí tưởng tượng vô cùng phong phú của người dân lao động nơi đây. Hai chùa này đều là hai chùa theo Đại Thừa nên chính điện và các tòa nhà khác trong chùa đều thờ rất nhiều Phật, Bồ tát cùng các vị thần Phật giáo khác. Nhìn chung thì hệ thống tượng Phật tại hai ngôi chùa này khá đa dạng và phong phú. Cách sắp xếp tượng Phật của chùa Thầy và chùa Tây Phương cơ bản là giống nhau, chia trên hai chục chính: Trục ngang (thời gian) là bộ tượng Tam Thế (Quá khứ, hiện tại, tương lai) và trục dọc (không gian) gồm tượng Tuyết Sơn – Di Lặc – Thích Ca sơ sinh. Bộ tượng Tam Thế tượng trưng cho ba ngàn đức Phật trong ba kiếp, cho tính bình đ ng về Phật tính, do đó ba pho tượng hình dáng, kích thước tư thế tọa thiền tương tự nhau chỉ khác thế tay và một vài chi tiết trang trí. Ba vị Phật này là đại biểu cho vô số Phật trong mọi thời gian và không gian theo quan niệm của Phật giáo Đại Thừa. Tượng Tuyết 53
  55. Sơn-Di Lặc-Thích Ca sơ sinh tượng trưng cho ba đoạn đời tu hành của Phật. Tuyết Sơn là Phật ở giai đoạn tu khổ hành, chưa thành Phật, còn đau đáu về cuộc đời, với hình dạng một nhà sư gầy gò, ngồi an tịnh, trầm mặc, khuôn mặt đầy suy tư. Di Lặc được coi là vị Phật của tương lai, đấng Từ Tôn cứu thế, người ta cho rằng “Di Lặc xuất thế thiên hạ thái bình”. Bởi vậy tượng Di Lặc thường béo tốt, mặt tròn, bụng phệ, chân tay ngắn, tư thế một chân co, một chân chống, khuôn mặt tượng luôn cười hớn hở bắt nguồn từ đại tâm từ bi hỉ xả của ngài. Cuối cùng là tượng Thích Ca sơ sinh một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất ý nghĩa “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”, xung quanh có chín con rồng tượng trưng cho mây trời linh thiêng hội tụ lấy nước thiêng tẩy trừ những uế trọc cho đức Phật. Dưới các chân bệ tượng đều có những hoa văn trang trí tinh xảo với những chủ đề hoa, lá, các hoa văn liên quan đến lực lượng tự nhiên. Phía dưới Tam thế xếp ba pho tượng, gọi là “Di Đà Tam Tôn” bao gồm Bồ Tát Đại Thế Chí – A di đà – Bồ Tát Quan Âm. Ba tượng này có thế ngồi tọa thiền kiết già (yoga), khiến tâm không thể lay động. Tượng Phật A di đà có kích cỡ lớn hơn các tượng khác. Với vị trí đăc biệt, sự có mặc của tượng Phật A di đà cùng các vị Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ Tát Quan Âm đã nói lên tín ngưỡng Tịnh độ trong Phật giáo Bắc Bộ nói chung. Tuy ở Bắc Bộ ko có phái Tịnh độ riêng biệt, nhưng tín ngưỡng Tịnh độ lại phổ biến rộng rãi, làm nên một cơ tầng bình dân cho Phật giáo. Theo tín ngưỡng này, con người tin rằng có một cõi gọi là cõi Tịnh độ, hay Tây Phương Cực Lạc, nơi đó có Phật A di đà ngự trị, các Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí đã tiếp dẫn những linh hồn về đó. Người ta chỉ cần nhất tâm niệm Phật A Di Đà là có thể vãng sinh ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Tên “A Di Đà Phật” từ đó đã trở thành câu chào của các tín đồ Phật giáo tại Việt Nam. Bộ tượng Di Đà Tam Tôn vừa biểu đạt triết lý Phật giáo, lại vừa mang những đặc điểm thể hiện sự dung hòa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Tạo hình của các pho tượng mang 54
  56. nhiều yếu tố nữ giới: Tượng Bồ Tát với hình dáng, y phục mang nhân dạng nữ nhân của tầng lớp trên, nhưng yếu tố nữ giới được nhấn mạnh hơn nữa ở những chi tiết: Tóc của tượng Bồ Tát Đại Thế Chí kết theo hình nút không đầu không cuối và xõa rủ xuống vai. Cấu trúc bộ phận hai pho tượng Bồ Tát theo tỷ lệ và đặc điểm của nữ giới như eo thon, bụng hẹp, ngực đầy, vai xuôi, cổ cao ba ngấn, Tượng Phật A Di Đà thể hiện trong nhân dạng nam giới nhưng một số chi tiết trên cơ thể như trang sức ở thùy tai kết hoa sen bằng hạt bảo châu, hay những nếp quần áo cũng uốn lượn cho gần với tính chất nữ giới. Thêm nữa, các tượng này thường được trang trí bởi các hoa văn liên quan đến lực lượng tự nhiên như văn xoắn, lửa, bảo châu, đồ án lửa tam muội, cây thiên mệnh, Bàn đến chùa Tây Phương, không thể không nhắc đến 18 pho tượng của 18 vị Tổ kế đăng (18 vị La Hán), bao gồm: Tượng Ma Ha Ca Diếp, Tượng A nan đà, Tượng Thương Na Hòa Tu, Tượng Đề Đa Ca, Tượng Bà Tu Mật, Tượng Đà Nan Đề, Tượng Đà Mật Đa, Tượng Hiếp Tôn Giả, Tượng Bồ tát Mã Minh, Tượng Ca Tỳ Ma La, Tượng Long Thụ Tôn Giả, Tượng La Hầu La Đa, Tượng Tăng Già Nan Đề, Tượng Già Da Đa Xá, Tượng Cưu Ma La Đa, Tượng Xà Dạ Đa, Tượng Bát Nhã Đa La, Tượng Bồ Đề Đạt Ma. Các vị tổ được chọn ở đây là những nhân vật đại diện cho mọi thành phần của xã hội, nhằm nói lên tính chất rộng mở hòa đồng, trên cơ sở Đại Từ Đại Bi, lấy giác ngộ Phật pháp làm trung tâm ứng xử. Đồng thời các vị tổ này cũng đại diện cho những khâu phát triển cốt yếu của lịch sử Phật giáo. Trong hai chùa còn có tượng của 8 vị thần Hộ pháp Bát bộ Kim Cương gồm: Thanh Trì Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích Thanh Hỏa, Đinh Trì Tai, Tử Hiền, Đại Lực Thần. Đây là mẫu hình đích thực của các võ tướng với nhiều dáng vẻ trong một nguyên tắc thể hiện giống nhau, xây dựng trên cơ sở “âm dương” luận. Cụ thể là các động tác tay của tượng trong hình thức bao giờ cũng một cao một thấp, một động một tĩnh 55
  57. để biểu hiện sự điều hòa của hai lực đối đãi nhau, tạo thành một cường lực xung mãn trong các thế võ của Kim Cương. Đặc biệt ở chùa Thầy, đặc trưng thể hiện mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian được thể hiện ở trong điện Thánh, thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở ba kiếp khác nhau: tượng kiếp tu tiên đặt trong khám thờ bên trái, giữa là tượng chân thân của họ Từ, bên phải là tượng Lý Thần Tông, hóa thân Từ Đạo Hạnh. Nếu pho chân thân Từ Đạo Hạnh mang tính chân dung thể hiện khuôn mặt khắc khổ gân guốc, trong trang phục áo cà sa, mũ pháp sư, ngồi thiền định thì tượng Lý Thần Tông mang nhiều yếu tố tượng trưng, kích thước lớn hơn người thực. Sinh động, độc đáo nhất là tượng Từ Đạo Hạnh ở kiếp tu tiên đặt trong khám thờ với kích thước bằng người thật, làm bằng gỗ chiên đàn. Ngoài ra, gian thờ Mẫu cũng chính là điểm đặc trưng thể hiện sự dung hợp giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian trong hai ngôi chùa này. Cách trang trí bàn thờ Mẫu đã thể hiển rõ mối quan hệ này. Ở trên bàn thờ Mẫu có treo rất nhiều đồ vàng mã như: nón, hài, thuyền rồng, đèn lồng, đủ các loại và kích cỡ khác nhau với màu sắc sặc sỡ. Sở dĩ như vậy vì các vị thần được thờ ở ban Mẫu từ các Thánh Mẫu cho đến các hàng quan, hàng chầu, ông Hoàng, các cô, các cậu đều gồm các vị thần linh có gốc gác từ mọi miền trên đất nước, vì vậy đồ thờ mới có sự đa dạng và phong phú như vậy. Cách bài trí các vị thần trên bàn thờ Mẫu cũng rất đặc trưng: Cung đệ nhất, còn gọi là hậu cung, đây là ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, mà Mẫu Liễu Hạnh là Đệ nhất Thánh Mẫu mặc áo đỏ, trùm khăn đỏ ngồi ở chính giữa, ở vị trí trang trọng nhất, là Mẫu chủ thể của tín ngưỡng thờ Mẫu trong dân gian. Hai bên Mẫu đệ nhất là Mẫu đệ nhị và Mẫu đệ tam. Mẫu đệ nhị mặc áo xanh, khăn xanh, tức Mẫu Thượng Ngàn, còn Mẫu đệ tam mặc áo trắng, khăn trắng, tưc Mẫu Thoải. 56
  58. Cung đệ nhị: ban chính giữa thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu. Tiếp đến là ban thờ Ngũ vị quan lớn (Quan thượng thiên mặc áo đỏ, Quan giám sát mặc áo xanh, Quan thủy phủ mặc áo trắng, Quan khâm sai mặc áo vàng, Quan tuần chanh mặc áo màu tím đen). Đây là màu sắc thuộc ngũ hành tương ứng với: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ. Cung đệ tam: ban chính giữa thờ các quan Hoàng Bảy, Hoàng Mười. Hai gian bên thờ Đức Thánh Trần và Nhị vị Vương cô, tức là Nhâm từ Hoàng hậu – vợ của vua Trần Nhân Tông và Thủy Tiên Đại hoàng công chúa – vợ của Thượng tướng Phạm Ngũ Lão. Cung đệ tứ: Gian giữa nhà Mẫu là ban Công đồng, hai bên có ban cô và ban cậu, trên cao có Thanh xà, Bạch xà. Gian bên là động Sơn Trang hoặc Thổ thần, Chầu Thủ đền. Nhìn chung, chùa là một quần thể kiến trúc, không gian tâm linh khá đa dạng và phong phú, ngoài thờ Phật ra thì còn có cả ban thờ Mẫu, thờ Thánh, thờ Tổ. Bộc lộ ra sự dung hợp khá mật thiết giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Như vậy, việc sắp xếp và bố trí các vị thần trong hai ngôi chùa này đã thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, đó cũng là kết quả của quá trình tác động và điều chỉnh lẫn nhau của Phật giáo và nhu cầu xã hội của người dân. Sự thờ mang tính dung hợp này được diễn qua trong suốt quá trình phát triển của Phật giáo khu vực này nói riêng và Phật giáo Bắc Bộ nói chung. Đặc biệt là những năm gần đây, khi mà Phật giáo phát triển, nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người, thì việc phối thờ Thần, Thánh ngày càng được chú trọng, và hình thức này giống như một chiếc cầu nối để đưa quần chúng nhân dân ngày càng đến gần với giáo lý nhà Phật. Tất cả những điều này đã cho chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết, khăng 57
  59. khít giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng và của Việt Nam nói chung. 2.4. Một số vai trò xu hƣớng phát triển chủ yếu của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai Vai trò Phật giáo tuy là một tôn giáo ngoại lai, nhưng đã du nhập vào Việt Nam từ rất lâu. Nó kết hợp với tín ngưỡng dân gian để dần hòa mình vào nền văn hóa của cư dân lúa nước Việt. Vì vậy, sự dung hợp này cũng có những vai trò ảnh hưởng đến xã hội người Việt nói chung và người dân khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng. Thứ nhất, tạo cho người dân một đời sống tâm linh sâu sắc và hướng thiện. Giáo lý của Phật giáo kết hợp cùng triết lý của tín ngưỡng dân gian tạo nên nét văn hóa có nhiều điểm gần gũi với tâm tư, tình cảm của người dân Việt nói chung và mang những ý nghĩa nhân văn sâu sắc, có giá trị trong đời sống xã hội. Trước hết đó là việc luôn hướng con người đến những giá trị tốt đẹp, lương thiện, bài trừ những mê lầm cố chấp, những ham muốn trái đạo lý để tự hoàn thiện bản thân mình trong mối quan hệ với mọi người, với xã hội. Những tư tưởng từ bi, hỷ xả, khoan dung, hòa bình, khuyến thiện, ngừa ác của Phật giáo hòa cùng những tư tưởng “uống nước nhớ nguồn”, truyển thống yêu nước, tôn sư trọng đạo, hay mưu cầu những điều tốt đẹp của tín ngưỡng dân gian đã làm phong phú hơn đời sống tâm linh của người dân nơi đây, thức tỉnh lương tri con người để hướng tới hòa bình và hạnh phúc, đem lại sự an lạc cho tâm hồn. Thứ hai, bảo tồn giá trị văn hóa, góp phần tạo nên sự phong phú và đa dạng trong kiến trúc và lễ hội. 58
  60. Giá trị văn hóa của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian được thể hiện rõ nhất ở trong không gian các ngôi chùa. Với một hệ thống chùa tháp có mặt ở hầu hết từng thôn, xã trong hai huyện, đã làm giàu đẹp, phong phú thêm nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của khu vực Thạch Thất – Quốc Oai. Đa phần các ngôi chùa đều được xây dựng trong một phong cảnh thiên nhiên trữ tình, thanh tịnh, có tính chuẩn mực, hệ thống và tổng hợp, gắn bó hữu cơ giữa kiến trúc, điêu khắc, hội họa và cảnh trí thiên nhiên tạo thành những danh lam thắng cảnh. Hai ngôi chùa Thầy và chùa Tây Phương cũng là hai trong số các danh lam thắng cảnh nổi tiếng cả nước. Xen với những ngôi chùa thuần Việt, tại khu vực này còn xuất hiện những loại kiến trúc khác như “tiền Thần hậu Phật”, “tiền Phật hậu Thánh”, mà điển hình là lối kiến trúc của chùa Thầy như đã trình bày, góp phần làm phong phú thêm các loại hình kiến trúc tín ngưỡng – tôn giáo nói riêng, kiến trúc dân gian truyền thống nói chung. Chùa cũng là nơi hình thành nên những không gian văn hóa điển hình, biểu hiện sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian như: Lễ Vu Lan, Lễ Phật đản, đàn tràng giải oan, chạy đàn cầu mưa, cầu an giải hạn, hay còn cả nhảy đồng, Ngoài ra, trong lễ hội còn có sự kết hợp nhiều hình thức nghệ thuật độc đáo khác như nghệ thuật sân khấu (chèo) gắn với các Phật thoại, các huyền tích, Thánh thoại, tạo nên hình thức sinh hoạt tinh thần rất phong phú. Mặt khác, có nhiều ngôi chùa có những pho tượng mang tính nghệ thuật cao, điển hình như pho tượng Tuyết Sơn, bộ tượng La hán tại chủa Tây Phương. Đây cũng là một điểm để thu hút khách thập phương, các Phật tử về chùa một mặt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các pho tượng, mặt khác thông qua đó để cảm nhận được cái nhìn soi thấu của Đức Phật. 59