Khóa luận Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu

pdf 52 trang thiennha21 16/04/2022 5030
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_van_de_hon_nhan_va_gia_dinh_trong_tieu_thuyet_thoi.pdf

Nội dung text: Khóa luận Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== TRƢƠNG THỊ DUYÊN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI, 2018
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== TRƢƠNG THỊ DUYÊN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ HÀ NỘI, 2018
  3. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên cho phép tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo, ThS. Nguyễn Phương Hà đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong tổ văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ tôi và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt khóa luận. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Sinh viên Trƣơng Thị Duyên
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, khóa luận với đề tài Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được hoàn thành dưới sự cố gắng của bản thân cùng với sự hướng dẫn tận tình của ThS. Nguyễn Phương Hà cũng như các thầy, cô trong Tổ văn học Việt Nam. Khóa luận của tôi không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả nào đã từng công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Sinh viên Trƣơng Thị Duyên
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu 3 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3 6. Phương pháp nghiên cứu 4 7. Cấu trúc khóa luận 4 NỘI DUNG 5 CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI 5 1.1 Khái quát về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới 5 1.1.1 Thời kì trước 1975 5 1.1.2 Thời kì sau 1975 6 1.2 Tác giả Lê Lựu 7 1.2.1 Cuộc đời 8 1.2.2 Sự nghiệp sáng tác 8 1.2.3 Vị trí tiểu thuyết Thời xa vắng trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới 10 CHƢƠNG 2. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU 12 2.1 Vấn đề hôn nhân 12 2.1.1 Sự đổ vỡ, mất mát trong hôn nhân 12 2.1.2 Sự vênh lệch, khập khiễng trong hôn nhân 16 2.2 Vấn đề gia đình 18 2.2.1. Gia đình với những hệ lụy, tàn dư xã hội phong kiến 19
  6. 2.2.2 Gia đình với những khao khát hạnh phúc đích thực 21 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU 25 3.1 Ngôn ngữ 26 3.1.1 Ngôn ngữ đối thoại 26 3.1.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm 29 3.2 Giọng điệu 32 3.2.1 Giọng điệu thương cảm, xót xa 32 3.2.2 Giọng điệu khắc khoải, da diết 34 3.3 Không gian, thời gian nghệ thuật 36 3.3.1 Không gian nghệ thuật 36 3.3.2 Thời gian nghệ thuật 39 KẾT LUẬN 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nền văn học Việt Nam phát triển qua từng thời kì, mỗi giai đoạn mang những đặc trưng riêng. Hòa vào công cuộc đổi mới xây dựng xã hội chủ nghĩa, văn học có sự thay đổi về đề tài, chủ đề, tư tưởng và quan niệm nghệ thuật Tiêu biểu cho công cuộc đổi mới ấy phải kể đến hàng loạt các tác phẩm tiêu biểu như: Dấu chân người lính, Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng) Đặc biệt, với thành công và để lại nhiều dấu ấn trong văn học giai đoạn này, chúng ta không thể không nhắc đến tác giả Lê Lựu với hàng loạt các tiểu thuyết như: Thời xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1991), Hai nhà (2000), Sóng ở đáy sông (2010) đã tạo nên chỗ đứng và vị thế của nhà văn Lê Lựu trong nền văn học Việt Nam sau 1975. Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, ông đã nhanh chóng khẳng định được tên tuổi của mình với độc giả và cả những nhà phê bình nghiên cứu văn học. Lê Lựu được coi là “người lính xung kích” trong trận đánh mở đường ngoạn mục đổi mới văn chương đương đại Việt Nam (Bùi Việt Thắng). Ngòi bút của Lê Lựu hướng đến số phận, vấn đề hôn nhân và gia đình, hạnh phúc của con người từ đó thấy được những đau khổ, mất mát mà nhân vật phải gánh chịu. Nếu coi gia đình là yếu tố cơ bản của mọi hình thái xã hội, thì hôn nhân, gia đình là vấn đề thiết yếu trong văn học. Vấn đề hôn nhân, gia đình trong văn học đã sớm được giới nghiên cứu phê bình quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình mang cái nhìn bao quát về vấn đề này. Nhận thức được tầm quan trọng và sức hấp dẫn của các tác phẩm đó, chúng tôi quết định lựa chọn đề tài: Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu 1
  8. thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu để hiểu rõ hơn về những mặt trái, những mối quan hệ phức tạp trong cuộc sống hôn nhân, gia đình. Qua đó khẳng định tài năng và vị trí của Lê Lựu trong dòng chảy văn học Việt Nam sau 1975. 2. Lịch sử vấn đề Nằm trong xu hướng vận động và phát triển của thể loại, tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời đã tạo nên một tiếng vang lớn với công chúng. Tác phẩm được khẳng định và đánh giá trên nhiều phương diện nội dung và nghệ thuật. Vì thế có không ít độc giả, nhà nghiên cứu quan tâm đến. Tìm hiểu về giá trị nghệ thuật tác giả Đinh Quang Tốn trong công trình Lê Lựu tạp văn nhận xét: “Văn Lê Lựu có giọng điệu riêng, có duyên riêng, không rành rẽ, không mạch lạc, nó có một chất nhựa gì đấy bên trong”. Ông cho rằng: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong số sáu mươi nhà văn ấy” [16]. Đánh giá về sức hấp dẫn trong sáng tác của Lê Lựu, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “Lê Lựu biết cuốn hút người đọc bằng một thứ văn đọc không nhạt. Ngay ở những chuyện xoàng xoàng, người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đó nghĩa là đọc anh không bị lỗ trắng. Cũng bởi Lê Lựu không chấp nhận sự nhạt nhẽo, tầm thường. Ở bất kì tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ Lê Lựu cũng có vấn đề gì đấy gửi gắm” [6, 669]. Gần đây, trong một số luận văn thạc sĩ đã tìm hiểu về tiểu thuyết Thời xa vắng nói riêng và vấn đề hôn nhân và gia đình nói chung. Có thể kể đến luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thu Hà với tên gọi: Bi kịch tình yêu và hôn nhân trong tiểu thuyết Lê Lựu (Trường Đại học Quốc gia Hà Nội) đã nghiên cứu bi kịch tình yêu hôn nhân ở các khía cạnh: Bi kịch yêu nhầm, bi kịch tình yêu thực dụng, toan tính, bi kịch hôn nhân không có tình yêu, bi kịch hôn nhân “cọc cạch” để làm nổi bật lên những bất hạnh mà con người phải gánh 2
  9. chịu. Công trình nghiên cứu này sẽ giúp chúng tôi hoàn thiện thêm đề tài khóa luận của mình. Tóm lại, nhìn một cách khái quát, hầu hết chưa có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. Các bài viết, công trình nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát. Vì vậy, lựa chọn đề tài Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm một cái nhìn, hướng tiếp cận khác về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. Qua đó, khẳng định tài năng, vị thế của Lê Lựu trong dòng chảy văn học sau 1975. 3. Mục đích nghiên cứu Từ tên gọi của đề tài, chúng tôi hướng tới những mục đích sau: - Tìm hiểu và lí giải những đổ vỡ, mất mát và bi kịch trong vấn đề hôn nhân và gia đình qua tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. - Qua đó khẳng định tài năng, phong cách và những đóng góp to lớn của Lê Lựu với nền văn học Việt Nam đương đại 4. Nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu Khoá luận này hướng đến những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu ở một số phương diện nội dung: Sự đổ vỡ, mất mát trong hôn nhân; sự vênh lệch, khập khiễng trong hôn nhân, gia đình. - Tìm hiểu vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắngở một số phương diện nghệ thuật: Ngôn ngữ, giọng điệu, không gian, thời gian nghệ thuật. - Đóng góp thêm cái nhìn mới mẻ về đề tài hôn nhân và gia đình cho văn học Việt Nam sau 1975. 5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3
  10. 5.1 Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề hôn và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu 5.2 Phạm vi nghiên cứu: Thời xa vắng, Lê Lựu (1998), Nxb Hội nhà văn. Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi có thể so sánh với các tác phẩm viết về vấn đề hôn nhân và gia đình như: tiểu thuyết Hai nhà (Lê Lựu) 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp so sánh, tổng hợp - Phương pháp phân tích, bình giảng - Phương pháp liên ngành 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận bao gồm 3 chương: Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy Văn học Việt Nam thời kì đổi mới Chương 2: Một số phương diện nội dung thể hiện vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. 4
  11. NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI 1.1 Khái quát về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới 1.1.1 Thời kì trước 1975 Gia đình là nơi nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người. Chính vì thế đề tài hôn nhân và gia đình được rất nhiều nhà văn quan tâm, đề cập tới. Do mỗi thời kì có bối cảnh lịch sử khác nhau nên vấn đề hôn nhân và gia đình cũng được nhìn nhận, đánh giá ở các mức độ khác nhau. Từ những năm 30 của thế kỉ XX, các nhà văn thuộc nhóm Tự lực văn đoàn đã khai thác thành công mảng đề tài này. Có thể kể đến Nhất Linh, Khái Hưng với các tác phẩm thuộc thể loại văn học lãng mạn như: Lạnh lùng, Đời mưa gió, Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân Các tác phẩm đã thể hiện xung đột giữa cái cũ và cái mới, sự đấu tranh giải phóng cá nhân, hôn nhân tự do, quyền sống của người phụ nữ chống lại những ràng buộc, khắt khe của lễ giáo phong kiến. Ở Lạnh lùng, Nhất Linh viết về những khổ đau, bất hạnh của Nhung- một người phụ nữ bất hạnh, lấy chồng nhưng không nhận được tình yêu thương từ chồng, bị giam hãm tuổi trẻ của mình ở nhà chồng do những định kiến xã hội. Hay trong tiểu thuyết Đời mưa gió, Nhất Linh và Khái Hưng lại lên án quan điểm phong kiến cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, xinh đẹp, đảm đang, hiền lành nhưng Tuyết lại bị cha mẹ ép lấy một ông chồng dốt nát, ngờ nghệch. Bên cạnh các sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn, vấn đề hôn nhân và gia đình còn được các nhà văn hiện thực phê phán đề cập tới. Có thể kể đến các tác phẩm như Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng đã lên án những mặt tiêu cực của gia đình tư sản. Ở đó mọi giá trị thang bậc trong gia đình đều bị đảo 5
  12. lộn: bố cướp vợ của con, phụ nữ có gia đình nhưng vẫn ngang nhiên đi ngoại tình, chồng bị vợ lừa dối, anh em con cháu chỉ mong bố chết, ông chết để chiếm lấy gia tài, tiểu thuyết Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công Hoan cũng khai thác những bi kịch gia đình, với những phép tắc, hủ tục lạc hậu ép duyên con cái để rồi gây ra những bi kịch xót thương. Viết về đề tài hôn nhân và gia đình chắc hẳn người đọc không thể không nhắc đến truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Giữa lúc người chết như ngả rạ, nạn đói bủa vây khắp xóm làng thì nhân vật Tràng lại đưa được một người phụ nữ về làm vợ chỉ bằng vài câu nói bông đùa và một chầu bánh đúc. Hóa ra giữa lúc đói khổ ấy con người vẫn ánh lên thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp. Các nhà văn lúc này trở thành những người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn học họ hướng ngòi bút của mình đến cách mạng, ca ngợi nhân dân, ca ngợi những người anh hùng với chiến công vang dội. Vì thế đề tài hôn nhân và gia đình tạm được gác lại thay vào đó là đề tài gia đình Cách mạng như: Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Ở thời kì này các tác giả miêu tả tình yêu hôn nhân gắn liền với lợi ích cách mạng, những người vợ người chồng phải hi sinh hạnh phúc cá nhân để làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ với dân tộc. Vì tiếng gọi của Tổ quốc nhiều người vợ, người chồng phải tạm gác lại niềm vui gia đình để lên đường đi chiến đấu. Nhưng càng trong khói lửa đạn bom thì tình yêu thủy chung son sắc càng mãnh liệt. Bom đạn có thể tàn phá được nhà cửa, ruộng vườn nhưng không thể tàn phá được tình cảm gia đình, sự gắn kết giữa gia đình và cộng đồng xã hội. 1.1.2 Thời kì sau 1975 Sau 1975 đất nước hòa bình, miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa kéo theo sự thay đổi trong việc trong việc khám phá, phản ánh và tái hiện hiện 6
  13. thực. Chiến tranh lùi xa, người nghệ sĩ không phải cầm súng ra trận, thay vào đó họ có điều kiện để suy ngẫm và khám phá mọi mặt của đời sống đặc biệt là thân phận con người. Hình ảnh những người anh hùng không phải là đối tượng chủ yếu của các nhà văn nữa mà đối tượng ở đây đã có sự thay đổi con người được nhìn nhận từ góc độ đa chiều: số phận, tính cách và bi kịch của nhân vật được các tác giả phản ánh rõ nét. Năm 1975 với thắng lợi vẻ vang của toàn dân tộc, đây cũng là thời kì mở ra chặng đường mới cho sáng tác văn học. Cảm hứng chủ đạo của các nhà văn vẫn mang cảm hứng ngợi ca, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Sau Đại hội Đảng lần VI, không khí đổi mới - dân chủ tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Giới văn nghệ sĩ được tự do, thoả sức sáng tác, cảm hứng lãng mạn lúc này chìm xuống dần nhường chỗ cho cảm hứng thế sự. Đề tài gia đình một lần nữa trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của đông đảo thế hệ các nhà văn. Văn học thời kì này xuất hiện với mật độ khá lớn các tác phẩm viết về đề tài hôn nhân và gia đình. Trong đó có nhiều tác phẩm xuất sắc đạt giải thưởng cao của Hội Nhà văn và để lại nhiều dư âm trong lòng độc giả như: Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời, Nợ đời, Gái có con ( Ma Văn Kháng), Thời xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông ( Lê Lựu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Gia đình bé Mọn ( Dạ Ngân) Có thể thấy các tác phẩm viết về đề tài hôn nhân và gia đình sau năm 1975 đi sâu vào khai thác mối quan hệ phức tạp, đa chiều của gia đình Việt Nam thời kì đổi mới. Nhà văn tập trung phản ánh cuộc sống cá nhân trong mối quan hệ với gia đình và toàn xã hội. Khác với văn học giai đoạn 1945-1975 thường ca ngợi những người anh hùng kháng chiến, ca ngợi cách mạng thì thời kì sau 1975 các tác giả lại tập trung thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân và gia đình. 1.2 Tác giả Lê Lựu 7
  14. 1.2.1 Cuộc đời Lê Lựu sinh ngày 12-12-1942, tại một làng ngoại đê sông Hồng thuộc xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, Lê Lựu sớm gắn bó với đồng đất quê hương, cái đói, cái nghèo đã ám ảnh cả một tuổi thơ của nhà văn. Lớn lên giữa lúc “Dân có ruộng dập dìu hợp tác” cho nên mọi niềm vui hay nỗi buồn ở làng quê ông đều chứng kiến.Với bản chất là một người nông dân áo lính ông luôn hướng về quê hương chú ý đến những gì về người nông dân và nông thôn. Rời ghế nhà trường, Lê Lựu bước vào quân đội từ đầu những năm 60- lúc phong trào “Ba nhất” đang hừng hực khí thế. Tuổi trẻ háo hức, từ một cậu bé làng quê xa phủ, xa huyện nay được hòa mình vào không khí thi đua của công- nông- binh miền Bắc. Đến những năm 70, ông chuyển về tạp chí Văn nghệ Quân đội và làm nhiều công việc khác nhau như biên tập viên văn xuôi, thư kí tòa soạn.Hiện nay, Lê Lựu đang giữ chức Giám đốc Trung tâm Văn hóa Doanh nhân tai Hà Nội. Ngày 25 tháng 2 năm 2014, Ông thành lập Quỹ văn học Lê Lựu. Đây được coi là quỹ văn học đầu tiên mang tên một nhà văn còn sống, nhằm khích lệ sáng tác cuả thế hệ nhà văn trẻ, tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ cống hiến những tác phẩm có giá trị. Trong cuộc sống đời thường Lê Lựu chân thực, hồn nhiên, đôi lúc có phần lôi thôi, lếch thếch, luộm thuộm nhưng ông sống vô cùng chân thật, cởi mở. Đó chính là nguồn lực khiến ông không khô khan trong cuộc sống văn chương. 1.2.2 Sự nghiệp sáng tác Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông sáng tác ở rất nhiều thể loại: truyện ngắn, kí, tiểu thuyết Lê Lựu vốn khởi nghiệp từ nghề báo nhưng lại hướng ngòi bút của mình sang lĩnh vực văn chương. Truyện ngắn đầu tay của ông là Tết làng Mụa 8
  15. (1964) sáng tác khi mới 21 tuổi. Tiếp theo đó là hàng loạt tác phẩm khác ra đời: Trong làng nho và Người cầm súng (1967). Đặc biệt với truyện ngắn Người cầm súng đã giúp Lê Lựu giành giải nhì trên báo văn nghệ năm 1968, đánh dấu tên tuổi Lê Lựu trong sự nghiệp sáng tác văn học. Thành công và để lại dấu ấn với độc giả phải kể đến lĩnh vực tiểu thuyết. Với cuốn tiểu thuyết đầu tiên Mở rừng (1973) đã đánh dấu sự xuất hiện của Lê Lựu trong làng tiểu thuyết Việt Nam, được nhà thơ Trần Đăng Khoa đánh giá cao: “Theo tôi, đây là cuốn tiếu thuyết vào loại khá của văn học Việt Nam những năm 70”. Năm 1984, tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời đã gây xôn xao dư luận và tạo được tiếng vang lớn với bốn lần xuất bản và 80.000 bản in. Với tiểu thuyết Thời xa vắng Lê Lựu đã vinh dự nhận về giải A Hội nhà văn Việt Nam (1986). Năm 1990, Lê Lựu viết tác phẩm Đại tá không biết đùa tác phẩm ra đời đã khẳng định ngòi bút tài năng của ông trên văn đàn. Ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt các tiểu thuyết khác của Lê Lựu như: Chuyện làng Cuội (1991); Sóng ở đáy sông (1994); Hai nhà (2000); Thời loạn (2009). Cảm hứng chủ đạo ở các cuốn tiểu thuyết này là cảm hứng bi kịch, trong đó tác giả tập trung khai thác những góc khuất trong tâm hồn con người. Ngoài hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Lê Lựu còn có sáng tác kí với hai tác phẩm gây tiếng vang trên văn đàn: Một thời lầm lỗi (1988), Trở lại nước Mĩ (1989). Tóm lại, với gần nửa thế kỉ cầm bút, Lê Lựu đã có một khối lượng tác phẩm tuy không nhiều nhưng đã để lại dấu ấn đối với độc giả. Từ những tác phẩm đầu tay đến những tác phẩm để lại dấu ấn trong văn chương. Lê Lựu đã cho chúng ta thấy một hành trình lao động miệt mài, không ngừng nghỉ, một cây bút quân đội xông xáo, một người nghệ sĩ luôn trăn trở với nghề. Ông từng tâm sự về nghề văn: “Tôi là người ít học, ít đọc vì lười nghĩ ngợi. Toàn bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc là thật. Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật. Tôi chỉ là người 9
  16. chép chuyện, có gì viết nấy”. Lê Lựu là nhà văn đã khẳng định được vị trí của mình trong dòng chảy văn học Việt Nam thời kì đổi mới, nhất là từ khi cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng chính thức ra mắt độc giả. 1.2.3 Vị trí tiểu thuyết Thời xa vắng trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới Tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời đã chiếm một vị trí quan trọng trong dòng chảy văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Tác phẩm đã tốn không ít giấy mực của giới nghiên cứu, phê bình, mang ý nghĩa bước ngoặt trong sự nghiệp của Lê Lựu, giúp nhà văn khẳng định vị thế của mình trong hàng ngũ thế hệ nhà văn sau 1975. Tiểu thuyết đã giúp Lê Lựu nhận giải A hội nhà văn Việt Nam (1986). Đạo diễn Hồ Quang Minh của hãng phim Giải phóng đã chuyển thể thành phim truyện nhựa, ra mắt công chúng vào năm 2004, được đông đảo công chúng đóng nhận. Tiểu thuyết Thời xa vắng gồm mười ba chương, được chia làm hai phần. Lê Lựu đã tập trung khắc họa nhân vật Giang Minh Sài tài năng, giỏi giang nhưng phải sống một cuộc sống đầy o ép, chật chội. Sài bị ép lấy vợ từ rất sớm khi anh mới hơn mười tuổi, anh sợ phải giáp mặt với Tuyết, thậm chí từ lúc kết hôn đến khi đi bộ đội Sài chưa từng ngủ chung giường với vợ mình một ngày nào. Chính sự kiện làng Hạ Vị mênh mông nước lũ đã gắn kết cuộc đời Sài với Hương- một cô gái xinh đẹp, tài năng. Để trở thành đảng viên, Sài buộc phải yêu thương Tuyết theo sự chỉ đạo của cấp trên. Để chạy trốn khỏi Tuyết, Sài đã lên đường đi bộ đội, những lúc rảnh rỗi trong quân ngũ anh thường ghi lại cảm xúc của mình và tưởng tượng ra khung cảnh tươi đẹp cùng Hương. Hòa bình lập lại, Sài đã giải phóng cho cuộc đời mình và Tuyết. Tưởng cuộc đời bước sang trang mới nhưng Sài lại tiếp tục vướng vào bi kịch đó là cuộc hôn nhân với Châu- cô gái Hà Nội xinh đẹp, sắc sảo, đám cưới rình rang được tổ chức. Từ lúc lấy vợ, Sài từ bỏ ước mơ học tập của mình, anh 10
  17. phải quay cuồng trong cuộc sống thường ngày. Cuộc hôn nhân đó nhanh chóng đi vào ngõ cụt và tan vỡ bởi sự lệch pha trong tâm hồn hai con người. Sài để hết tài sản cho Châu và nhận nuôi cu Thùy nhưng đau đớn thay cu Thùy lại không phải là con trai của anh. Kết thúc câu chuyện là sự bế tắc của Sài. Anh bỏ công tác ở thành phố trở về quê hương làm chủ nhiệm hợp tác xã. Qua tiểu thuyết Thời xa vắng Lê Lựu đã tập trung khai thác vấn đề hôn nhân và gia đình, đó là bi kịch hôn nhân, bi kịch gia đình, con người luôn bị cuốn vào vòng bi kịch luẩn quẩn mà họ cố vùng vẫy nhưng không thể thoát ra được. 11
  18. CHƢƠNG 2. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU 2.1 Vấn đề hôn nhân Trong các tiểu thuyết của Lê Lựu, nhân vật thường rơi vào những bi kịch hôn nhân: hôn nhân không có tình yêu hạnh phúc, hôn nhân vênh lệch, bi kịch cô đơn của mỗi cá nhân trong gia đình, bi kịch ngoại tình trong hôn nhân Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu đã khắc họa thành công đề tài này. 2.1.1 Sự đổ vỡ, mất mát trong hôn nhân Ở phần đầu câu chuyện, tác giả xây dựng nhân vật Sài trong bối cảnh chiến tranh. Là con út của một thầy đồ, sống trong gia đình mang nặng tư tưởng nho giáo phong kiến, từ nhỏ Giang Minh Sài đã phải chịu sức ép của những hủ tục lạc hậu. Do vậy, dù ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, Sài chỉ biết có chơi và học mà đã bị ép lấy vợ, phải chịu nỗi uất ức “tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn ngụp xuống cái ao đầy bùn của nhà chú Hà lúc nào ” [10, 6]. Sài ghét Tuyết, anh có suy nghĩ bỏ vợ nhưng ý định này vừa mới lóe lên thì đã bị vùi dập bởi sự áp đặt của người cha: “chưa có khi nào con cái lại trái ý cha mẹ cả” [10, 20]. Chính vì vậy mà Sài phải dằn lòng sống theo ý muốn của gia đình, dòng họ. Tuy sống cùng nhà với Tuyết nhưng anh tìm đủ mọi cách để lẩn tránh, để chống đối: không ngủ chung giường, không ăn cùng mâm, không chấm cùng bát Dù Tuyết được người ta khen là khỏe mạnh, chắc chắn, làm ăn đâu ra đấy nhưng trong mắt của Sài thì cô vẫn hiện lên là một con người thô kệch, ngu dốt: “Sài nghĩ bụng có khác gì cái chĩnh đựng đỗ giống, người ngợm, mỗi khi chạy trông cứ như lăn. Người ngoài bình phẩm hiếm thấy người hiền lành như cô Tuyết, Sài 12
  19. cho đấy là loại người ngu, cả ngày không mở mồm nói nổi một câu” [10, 47]. Sài chính là nạn nhân của tục tảo hôn- một hủ tục lạc hậu của xã hội trước kia đã đẩy nhiều cuộc đời vào bất hạnh. Ngược lại ở cuộc hôn nhân này, Tuyết là người con gái thôn quê hiền lành, chân chất được ông đồ Khang cưới hỏi đàng hoàng. Bị gả chồng do sự áp đặt gia đình, Tuyết chưa bao giờ được đón nhận tình yêu thương từ chồng. Lấy nhau từ khi mười ba tuổi nhưng chưa bao giờ Sài coi cô là vợ, chính điều này càng nhen nhóm khát vọng được yêu thương của cô. Khát vọng ấy cứ theo thời gian mà lớn dần, lúc mới đầu khi Sài mười tuổi tình yêu ấy chỉ là giúp Sài quét sân, quét ngõ, giã ngô để anh có thời gian học. Thời gian trôi, tình yêu cũng lớn dần lên, cô thèm một cái nhìn từ chồng, thèm sự quan tâm, thậm chí những câu chửi mắng của Sài cho bớt đơn độc. Lê Lựu đã thấu hiểu và cảm thông với những khao khát của Tuyết: “Tuyết lúc nào cũng thấy hao háo thèm thuồng, thèm cả từ câu quát mắng, thèm một quả đấm, một cái tát Những cái đấy là tục tằn, thô lỗ vẫn là được tiếng là cô có chồng, chồng đánh, chồng chửi chồng giận hờn, hắt nhủi ” [10, 169]. Điểm nhìn bên trong đã giúp Lê Lựu hiểu được những bất hạnh của Tuyết, một người con gái mới lớn khao khát tình yêu, một người phụ nữ cả đời không được chồng nhòm ngó: “Cái tuổi dậy thì của người con gái mỗi ngày như trông thấy cái cơ thể dồi dào sức lực của mình cứ mát mẻ và êm ái căng đầy lên, đã thấy khao khát cháy khô đôi môi mọng đỏ trước cái nhìn đăm đắm của bọn con trai, đã thấy phập phồng mỗi đêm nghe tiếng chồng chạy về” [10, 44]. Phải chăng, trong cuộc hôn nhân này, cả Sài và Tuyết đều là những người đáng thương. Tuyết muốn chăm sóc chồng, muốn đòi hỏi bất cứ điều gì từ chồng, đó là lẽ hoàn toàn bình thường. Cắn răng chịu đựng với mọi việc nhà chồng để đổi lấy duy nhất một lần ơn huệ là có được đứa con với Sài, dù biết rằng đó không phải là kết quả của tình yêu nhưng cô đã sung sướng vồ vập lấy cái hạnh phúc ấy. 13
  20. Tuyết sống trong sự chờ đợi, trông ngóng hi vọng đứa con sẽ là cầu nối tình thương xây dựng tổ ấm gia đình, nhưng niềm khao khát ấy quá xa vời khiến cô không thể nào nắm bắt được. Có thể thấy cuộc hôn nhân của Sài và Tuyết không được xây dựng dựa trên cơ sở tình yêu đích thực của hai người mà xây dựng dựa trên sự sắp đặt của cha mẹ nên nhanh chóng đi vào ngõ cụt để rồi dẫn đến đổ vỡ, mất mát. Lê Lựu đã đi đâu khám phá thế giới nội tâm nhân vật để thấu hiểu, cảm thông cho số phận của nhân vật. Chia tay với Tuyết, Sài tự do làm chủ chính mình, ngỡ rằng nỗi đau sẽ qua đi hạnh phúc sẽ đến với anh nhưng Sài lại tiếp tục rơi vào bi kịch đổ vỡ. Ngay từ lần đầu gặp Châu- một cô gái Hà Thành xinh đẹp, có học vấn anh đã đắm chìm trong tình yêu mặc sức trước sự can ngăn của mọi người: “Bất chấp sự gièm pha can ngăn của Hương và những người thân, Sài quyết chí yêu Châu” [10, 250] mà không hề hay biết đó là cô gái khôn ngoan, sắc sảo. Cô yêu và cưới anh không phải vì một tình yêu đích thực, chân chính mà Châu lấy anh như một tấm bệ đỡ cho bản thân mình. Những ngày tháng chung sống với Châu, Sài trở thành một con rô bốt, một cái máy đã được lập trình sẵn. Mỗi ngày anh đều đầu tắp mặt tối từ bốn giờ sáng để nấu cơm, rửa bát, giặt giũ, cho con ăn và nhiều thứ việc khác nữa. Ở cuộc hôn nhân với Châu, Sài là người được lựa chọn sống theo ý mình, nhưng cách sống của anh vẫn là hệ quả của những ngày tháng sống áp đặt theo suy nghĩ của người khác. Sài tự do, được sống là chính mình và được lựa chọn hạnh phúc cho chính bản thân mình nhưng đây lại là căn nguyên của sai lầm thứ hai dẫn đến bi kịch cho Sài. Sài lấy một người không thuộc về thế giới của anh mà chỉ mượn anh để che đậy lối sống lăng loàn của mình, để hợp thức hóa đứa con trong bụng cô. Đứa con ấy chính là hậu quả của những ngày tháng yêu đương tự do của Châu. Sự khôn ngoan, lọc lõi của Châu đã khiến cho Sài nhanh chóng bị sập bẫy, đổ gục mà anh cứ nghĩ trời ban cho anh diễm 14
  21. phúc “anh thấy như đang bơi mênh mang trong hạnh phúc, trong niềm sung sướng đến ngạt thở” [10, 251]. Sài yêu vợ thương con nhưng lại quá nhẫn nhịn, nhu nhược trái ngược hoàn toàn với bản tính của Châu. Cô sống ích kỉ, coi thường, khinh rẻ người khác, nhanh chóng lấn lướt, áp đặt suy nghĩ của Sài. Chính những lí do đó đã dẫn đến bi kịch đổ vỡ giữa anh và Châu. Sài mơ ước hạnh phúc, chăm lo cho tổ ấm gia đình bao nhiêu thì Châu lại hoàn toàn ngược lại. Tuy sống cùng Sài nhưng cô lại luôn hướng trái tim mình đến tình yêu với Toàn- một anh công nhân điện đẹp trai, biết đánh đàn ghi ta và hát rất hay. Cô ngang nhiên vượt mặt chồng ngoại tình với Toàn. Tuy nhiên, nhìn từ phía của Sài sự nhẫn nhịn ấy một phần anh muốn bảo vệ gia đình, không muốn đổ vỡ, mất mát khổ cho con cái, một phần vì anh đã quen với cuộc sống áp đặt, sống theo ý muốn người khác. Sài đã nhận thấy giữa Châu và anh có quá nhiều điểm trái ngược. Anh cảm thấy chới với, mất phương hướng. Trong bi kịch của cuộc hôn nhân thứ hai, Châu chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đổ vỡ, nhưng nguyên nhân sâu xa lại bắt nguồn từ sự nhu nhược luôn sống áp đặt, sống hộ theo ý người khác của Sài. Có thể dễ dàng nhận thấy cuộc hôn nhân của Sài và Châu có sự tương đồng với cuộc hôn nhân giữa Tâm và Linh Anh trong tiểu thuyết Hai nhà của Lê Lựu. Một người vợ lăng loàn sẵn sàng ngang nhiên ngoại tình khi đã có gia đình. Còn người chồng nhu nhược. Nếu Sài vẫn là người hạnh phúc khi anh còn có con, có làng Hạ Vị để trở về thì Tâm trở về chỉ với hai bàn tay trắng không con cái, không đất đai, tương lai phía trước thì mịt mờ, tăm tối. Ph. Ăng ghen từng cho rằng “Tình yêu chân chính là tình yêu dẫn đến hôn nhân. Hôn nhân là điều kiện khởi đầu cho một gia đình”. Có thể hiểu cơ sở của hôn nhân chính là dựa trên tình yêu chân chính. Trong cả hai cuộc hôn nhân, giữa Sài và Tuyết ở phần đầu và Sài với Châu ở phần hai đều không được xây dựng dựa trên tình yêu chân chính ấy, lấy nhau vì cha mẹ sắp đặt, 15
  22. lấy nhau vì hợp thức hóa đứa con rơi nên dẫn đến đổ vỡ, mất mát là điều tất yếu. 2.1.2 Sự vênh lệch, khập khiễng trong hôn nhân Ở phần đầu của tiểu thuyết Thời xa vắng, nhân vật Sài bị trói buộc vào cuộc hôn nhân sắp đặt theo ý muốn của gia đình với Tuyết. Cuộc hôn nhân ấy đã đẩy anh rơi vào đau khổ, do vệnh lệch, khập khiễng trong hôn nhân. Trong cuộc hôn nhân với Tuyết, người đọc dễ dàng nhận thấy sự chênh lệch về tuổi tác giữa hai con người. Khi lấy vợ Sài chỉ mới hơn mười tuổi còn Tuyết khi ấy hơn Sài ba tuổi: “Nó đã hơn mười tuổi, lại con nhà nghèo nhưng là út, mọi việc đã có các chị dâu làm, khi các anh chị ra ở riêng nó có vợ, dù vợ chỉ lớn hơn ba tuổi, nhưng đã làm được việc nặng nhọc của người lớn” [10, 6]. Cuộc hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ là chuỗi ngày dài những bi, hài kịch và cả những giọt nước mắt khiến người đọc hình dung ra câu ca dao châm biếm của nhân dân ta khi xưa: “Bồng bồng cõng chồng đi chơi/ Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng”. Sài lấy vợ là do sự sắp đặt của gia đình chứ trong lòng anh chưa có ý định lấy vợ. Khái niệm vợ với Sài chỉ là có người quét sân, quét cái ngõ dài thăm thẳm. Ngoài giờ học Sài chỉ biết chơi bắn trận giả với lũ bạn cùng trang lứa khác. Chính sự chênh lệch về tuổi tác đã đẩy cuộc hôn nhân của hai con người không có tình yêu đi xa hơn, khi mà họ chưa ý thức được thế nào là gia đình, thế nào là cuộc sống hôn nhân vợ chồng. Giữa Sài và Tuyết không chỉ chênh lệch nhau về tuổi tác mà về trình độ học vấn. Sài là một người thông minh, giỏi giang, luôn xếp thứ hạng nhất nhì của trường, của thôn. Sài còn vinh dự là một trong năm thiếu niên được tuyên dương trong sao tháng Tám. Bên cạnh việc học tập của mình anh còn dạy các bạn làm tính, viết chữ: “Không đêm nào liên đội của Sài không tập trung đi hô khẩu hiệu rồi về sân nhà ông cần học hát, học múa. Sài còn dạy các bạn làm tính, học viết chữ” [10, 42]. Sau này đi vào bộ đội, cũng nhờ sự thông mà 16
  23. Sài được cử đi học và trở thành cán bộ. Ngoài giờ huấn luyện Sài luôn tự học và đỗ vào đại học xuất sắc. Sau này vì cuộc sống quá bế tắc anh xin ra chiến trường nhưng vì là một cán bộ dạy giỏi nên anh bị giữ lại để tiếp tục dạy. Ngược lại với Sài, Tuyết là người phụ nữ chỉ biết chăm lo, vun vén cho gia đình, không được học hành đầy đủ, thậm chí trong mắt của Sài, Tuyết hiện lên là một con người kém cỏi,nhận thức kém: “Cô học hành bình dân năm năm mới đánh vần sách in, một giờ đọc được một trang, mà vật vã như người vật nhau” [10,107]. Cuộc sống hôn nhân không chỉ vênh lệch với Tuyết về tuổi tác, học vấn mà ngay cảcuộc hôn nhân sau này với Châu, giữa Sài và cô còn có sự vênh lệch trong đời sống tâm hồn. Châu là một phụ nữ sắc sảo, khôn ngoan, lọc lõi bao nhiêu thì Sài hiền lành, nhu nhược bấy nhiêu.Sống với Châu, anh luôn rơi vào những ngày tháng mệt mỏi, cay đắng. Lúc nào Sài cũng đầu tắp mặt tối lo cho gia đình từ những việc nhỏ nhất như nấu cơm, rửa bát, quét nhà, đỡ đần, giúp đỡ vợ thì Châu lại vô tâm bấy nhiêu. Cô không hề để ý đến cảm xúc của Sài, luôn coi thường, mắng chửi chồng: “Tiên sư cái đồ ngu như lợn. Đến bây giờ còn chết chìm chết ngạt ở đâu” [10, 294]. Châu không muốn cảm thông với những khuyết điểm của Sài. Cô khinh Sài, khinh cả những người thân yêu ruột thịt của Sài bởi cô cho rằng họ là những người quê mùa. Trước mặt tất cả mọi người, cô luôn sắm vai người phụ nữ hết mực lo cho gia đình chiều chồng, thương con, cô còn dạy đứa cháu gái phải nghiêm túc và đặc biệt lên án những người phụ nữ lăng loàn. Nhưng đằng sau cái bản chất tốt đẹp ấy chính là một bộ đạo đức giả, giả tạo. Dường như Châu chưa thỏa mãn với cuộc sống hiện tại, với một người chồng hết lòng lo cho gia đình như Sài. Sài luôn cố gắng phá bỏ sự vênh lệch giữa anh và cô nhưng dường như mọi cố gắng của anh chỉ là vô ích. Anh ra sức xây dựng vun đắp còn Châu lại ra sức phá hoại. Cũng là một con người có học vấn giống như Hương, lại sinh gia 17
  24. trong một gia đình bề thế có chức có quyền chẳng phải lo lắng điều gì nhưng Châu lại có cách ứng xử hoàn toàn trái ngược với Hương. Cô luôn nghĩ đến bản thân mà không hề để ý đến suy nghĩ của người khác. Nếu suốt ngày Sài đều đầu tắp mặt tối lo cho cuộc sống gia đình, lúc nào anh cũng nghĩ đến việc chăm lo cho vợ con nhưng khi anh phải làm việc về muộn thì Châu để phần anh một nồi cơm đóng chóc, một đĩa rau tưởng không về thì đổ cho lợn nó ăn rồi, đó không phải lần đầu Châu đối xử với chồng như vậy mà đã rất nhiều lần.Trong tiểu thuyết Hai nhà, Lê Lựu đã xây dựng nhân vật Linh Anh mang những nét tính cách và hành động có phần giống Châu, Linh Anh cũng là người phụ nữ xinh đẹp, sắc sảo. Cô kịch liệt phản đối Tâm chồng của mình giao tiếp với bà Nhân nhưng cô cũng lợi dụng lòng tin của một người đàn ông thật thà, yêu gia đình để che đậy cái lối sống buông thả, giả dối của mình, Linh Anh ngang nhiên qua mặt chồng ngoại tình với những người đàn ông khác. Các tác phẩm viết về đề tài hôn nhân và gia đình của Lê Lựu thường kết thúc trong bi kịch. Sự đổ vỡ, mất mát ấy một phần là do sự vênh lệch, khập khiễng giữa người vợ và người chồng trong cuộc sống, mối quan hệ gia đình. Trong tiểu thuyết Thời xa vắng, dưới góc độ hôn nhân, gia đình thì vấn đề tình yêu luôn là cái nhìn đau đáu trong tâm hồn mỗi con người. Cuộc đời Sài là những chuỗi ngày đắng cay. Sau bao mất mát, bi kịch Sài mới đau khổ nhận ra: “ Nửa đời người phải yêu cái người khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không có”. 2.2 Vấn đề gia đình Theo Từ điển triết học: “Gia đình là một hình thức có tính chất lịch sử của đời sống chung loài người giữa nam giới và nữ giới. Trong suốt quá trình lịch sử tất cả những biến đổi diễn ra trong mối quan hệ giữa nam giới và nữ 18
  25. giới, hôn nhân hình thức gia đình đều do sự thay đổi của chế độ kinh tế xã hội, do tính chất của các quan hệ xã hội nói chung quyết định”. Gia đình được hình thành từ rất sớm. Trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữa nước, yêu cầu của hoàn cảnh xã hội khiến con người phải sống quây quần thành làng xã, thôn, xóm. Chính từ không gian gần gũi, quen thuộc ấy các thế hệ người Việt đã kế thừa phát, huy những truyền thống tốt đẹp của ông cha. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp của truyền thống gia đình thì vẫn còn tồn tại những mặt trái như những hệ lụy, tàn dư phong kiến cũng được Lê Lựu phản ánh trong cuốn tiểu thuyết. 2.2.1. Gia đình với những hệ lụy, tàn dư xã hội phong kiến Gia đình là nơi trú ngụ, chở che con người trước những vấp ngã lầm lạc. Cùng với hôn nhân, vấn đề gia đình cũng được Lê Lựu đặc biệt quan tâm trong tiểu thuyết Thời xa vắng. Ông đã đi sâu phản ánh những hệ lụy, tàn dư của xã hội phong kiến vẫn ám ảnh, đè nặng lên cuộc sống của con người để từ đó thấy được những đau khổ, bất hạnh mà họ phải gánh chịu. Sinh ra giữa một vùng quê nghèo còn nhiều hủ tục lạc hậu, gia đình Sài chính là hình mẫu tiêu biểu cho truyền thống Nho giáo với những lề lối phong kiến ngặt nghèo, khắt khe. Với tục tảo hôn và quan niệm “cha mẹ đặt đâu con cái ngồi đấy” đã khiến cho nhiều cuộc đời, số phận rơi vào đau khổ, dang dở, bất hạnh mà nạn nhân chính là Giang Minh Sài và Tuyết- vợ của anh. Sài bị cha mẹ áp đặt lấy vợ từ rất sớm khi anh mới mười tuổi vẫn còn một cậu thiếu chỉ biết học và đánh trận giả,giống như Sài, Tuyết cũng bị cha mẹ ràng buộc vào hủ tục này, cô đã từng tâm sự với Hương: “Nhưng bố mẹ chỉ có chém khi em tự bỏ về. Sống làm người chết làm ma nhà nó, cấm mày được dẫn xác về đây. Bao giờ thằng Sài đuổi mày đi sẽ hay” [10, 249]. Mặc cho sự can ngăn của mọi người, của chú Hà nhưng ông đồ vẫn quyết cưới vợ cho con. Sài tìm đủ mọi cách đề chống đối, cuộc hôn nhân này nhưng tất cả chỉ là vô ích khi 19
  26. ông đồ Khang luôn áp đặt tư tưởng: “giấy rách phải giữ lấy lề”. Không chống lại được quyết định của bố, Sài đành chống đối theo kiểu trẻ con không ngủ cùng giường, không ăn cùng mâm, không chấm cùng bát, không ngồi đối diện trong bữa ăn: “Bất đắc dĩ có phải ngồi cùng một lúc Sài cũng không ngồi cùng một phía, không ngồi đối diện với Tuyết qua đầu nồi, không nhờ xới cơm. Và bát cơm nào Tuyết đã chấm thì Sài nhất định phải tìm bát khác, chấm riêng” [10, 44]. Xây dựng nhân vật Sài, Lê Lựu đã lên án, phê phán tục tảo hôn cùng với quan niệm phong kiến“ cha mẹ đặt đâu con cái ngồi đấy”. Quan niệm này đã đẩy Sài và Tuyết rơi vào bi kịch. Tàn dư, hệ lụy của xã hội phong kiến còn đeo đẳng trong cuộc sống, ý thức hệ những người như ông đồ Khang khiến Sài và Tuyết phải chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ, họ không có quyền lên tiếng, chọn lựa hạnh phúc của chính mình. Là cô gái mười ba tuổi, Tuyết hoàn toàn có thể mơ ước một tình yêu chân thành, đúng nghĩa, hoàn toàn có quyền hưởng một cuộc sống hạnh phúc với người mình yêu. Sống trong một gia đình với những hệ lụy phong kiến Sài và Tuyết trở thành những đứa trẻ ngoan ngoãn biết vâng lời, họ sống một cách thụ động và làm theo sự sai khiến của người khác. Như một con rối bị dật giây, họ chấp nhận lấy người mà mình không hề yêu thương. Bởi họ còn quá nhỏ, quá trẻ để định nghĩa về tình yêu. Vì gia phong, vì phép tắc gia đình mà cả hai không thể đi ngược lại đạo lí. Có thể nói Sài và Tuyết chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ xã hội cũ. Chính lối sống gia đình đã nhào nặn lên một Giang Minh Sài nhu nhược, yếu đuối, sống theo sắp đặt của người khác, một Tuyết luôn lầm lũi, cam chịu và nhẫn nhục. Với Tuyết, cả cuộc đời sống với Sài, cô chưa giây phút nào được đón nhận tình yêu thương thật sự từ chồng.Tuyết chỉ mong ước được làm vợ Sài theo đúng nghĩa, cô đã vui mừng đến nhường nào khi được người làngtán 20
  27. tụng, gán ghép cô với Sài: “Chỉ cần nghe một câu tán tụng, một sự gán ghép, một lời nhắc nhủ có dính líu đến tên Sài và cô, đến “nhà em” và “anh ấy” là cô thấy bừng bừng nóng khắp người, nhâm nha sự sung sướng ấy đến hàng tuần, hàng tháng” [10, 46]. Lê Lựu đã thấu hiểu và cảm thông trước nỗi cô đơn của người phụ nữ cả đời không được chồng ngó ngàng đến và nuôi con một mình trong tủi cực, đau khổ: “Đêm nào cũng phải nghĩ một mình, ôm con khóc mà nghĩ” [10, 169]. Tuyết chính là điển hình cho người phụ nữ chịu nhiều thua thiệt, bất hạnh trong xã hội. Qua tiểu thuyết Thời xa vắng, tác giả đã phơi bày mặt trái của xã hội lúc bấy giờ đó là lối sống bảo thủ, quan niệm phong kiến lạc hậu. Chính những quan niệm ấy đã trở thành sợi dây vô hình trói buộc số phận nhân vật vào những đau khổ, bất hạnh, nhấn chìm những mơ ước, khát vọng của con người gây ra những bi kịch xót thương cho nhiều cuộc đời số phận. 2.2.2 Gia đình với những khao khát hạnh phúc đích thực Trong cuốn Tiểu thuyết đương đại, nhà phê bình Bùi Việt Thắng khẳng định: Những sáng tác của Lê Lựu đều viết theo một phương châm có tính nguyên tắc đó làsự thật: “toàn bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc là thật” [18, 72]. Trong tất cả các cuốn tiểu thuyết của mình, Lê Lựu đều viết về sự thật đó là những đau khổ, bất hạnh mà nhân vật của mình phải gồng mình gánh chịu. Tiểu thuyết Thời xa vắng cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Ông đã đi sâu khai thác và nói lên những cô đơn, tủi cực mà nhân vật như Sài, Tuyết, Hương phải gánh chịu để từ đó thấu hiểu cái khao khát hạnh phúc đích thực củacon người. Trong tiểu thuyết Thời xa vắng, Lê Lựu đã xây dựng nhân vật Hương khá hoàn hảo. Hương không chỉ đẹp ở ngoại hình với đôi mắt to, hai má ửng đỏ. Cô luôn ý thức được vẻ đẹp của mình. Hương chính là người con gái “tài sắc vẹn toàn”. Sự giỏi giang, thông minh của cô được thể hiện qua các kì thi 21
  28. học sinh giỏi và thi hết cấp. Sau này vào đại học cô cũng là một sinh viên xuất sắc của trường Bách Khoa khiến mọi người nể phục. Thành công trên con đường công danh, sự nghiệp nhưng Hương lại thất bại trong tình yêu. Sở hữu ngoại hình xinh đẹp cùng tài năng xuất sắc Hương hoàn toàn có thể lựa chọn cho mình một tình yêu đích thực, nhưng cô lại chọn Giang Minh Sài. Chính tình yêu bồng bột với anh nông dân chân chất, ngờ nghệch năm nào đã vô tình đẩy cô rơi vào bi kịch, khiến Hương luôn sống trong những tháng ngày cô đơn, chờ đợi. Sự cô đơn ấy cứ kéo dài triền miên được cô gửi gắm qua những dòng nhật kí, những lá thư tay viết cho Sài: “Em chỉ cần có một mình anh yêu em anh ở bên em. Hầu như không đêm nào em không khóc” [10, 75]. Nhớ nhung, dằn vặt Hương chỉ chỉ biết gửi tình cảm vào những trang nhật kí. Nhiều lần không gặp được Sài, quá cô đơn nhớ anh, Hương đã tìm đến Hiểu- bạn của Sài để giãi bày tâm sự, cô mong Hiểu sẽ là cầu nối gắn kết tình cảm giữa hai người. Trong bức thư gửi cho Hiểu cô viết: “Anh ơi, tại sao Sài vẫn không viết thư cho em. Anh nói với Sài đã đến lúc em không cho phép Sài im lặng nữa. Sài có biết em chết đi từng giờ từng phút vì Sài không. Sao Sài lại ích kỷ, lại nhẫn tâm “kiên trì” im ắng đến thế” [10, 146]. Chỉ bằng vài dòng tâm sự ngắn ngủi trong bức thư Lê Lựu đã phần nào diễn tả được cảm xúc nhớ nhung, cô đơn đến tuyệt vọng và có một chút gì đó oán trách, dằn vặt tại sao Sài lại không hồi âm, không viết thư cho cô. Có thể nói, trong tiểu thuyết Thời xa vắng, Tuyết là một nhân vật mang đầy những bất hạnh, thiệt thòi. Lấy chồng theo sự áp đặt của cha mẹ, về nhà chồng lại không được chồng quan tâm, nhòm ngó đã có lúc Tuyết có ý định về với bố mẹ nhưng cô lại không dám làm theo ý định ấy. Chính sự thờ ơ, vô tâm, lạnh nhạt của Sài đã đẩy Tuyết vào sự cô đơn. Nhà văn đã nhìn thấu nỗi bất hạnh của một người con gái cả đời không được chồng nhòm ngó tới, cô đơn, tủi cực Tuyết chỉ còn cách khóc để vơi đi nỗi buồn, đêm nào Tuyết cũng 22
  29. ép mình xuống giường chịu cho qua hết đêm này đến đêm khác.Sau này nhờ sự tác động hay nói chính xác nhờ sự ép buộc của mọi người mà Sài buộc phải yêu thương Tuyết như sự thương hại. Ngỡ rằng, đứa con, tiếng cười trẻ thơ chính là sẽ là niềm động viên, an ủi giúp Tuyết bớt cô đơn nhưng ngược lại đêm nào cô cũng ôm con khóc, khóc trong sự tủi thân, cô độc. Tất cả những dằn vặt, đau khổ, cay đắng cô đều phải nếm trải và cắn răng chịu đựng, không có ai để chia sẻ, để giãi bày. Thậm chí Tuyết đã trải lòng mình với Hương: “Chị ơi, em biết anh Sài khổ quá mà em cũng có sung sướng gì. Em yêu anh ấy nhưng anh ấy không thể yêu thương được em, em phải cắn răng vào mà chịu. Chị bảo, cả một thời con gái không được chồng nhòm ngó đến một lần, nuôi con một mình. Cả hàng chục năm trời, những khi anh ấy chưa đi xa em cứ nằm mong tưởng được chồng hỏi đến, Chị là phụ nữ chị biết thời con gái đang độ ăn không biết no, ngủ không biết chán như em mà cứ phải ép mình xuống giường chịu cho qua hết đêm này đến đêm khác có nỗi cực nào hơn” [10, 248]. Nhưng có lẽ so với Hương thì Tuyết còn cô đơn, bất hạnh gấp nhiều lần. Nếu Hương cô đơn nhưng cô vẫn có nơi trút bầu tâm sự là viết nhật kí, viết thư, có tình yêu thương của gia đình, của Sài chia sẻ cho nhẹ lòng thì Tuyết lại hoàn toàn ngược lại, cô không có ai để tâm sự ngay cả gia đình Tuyết không chấp nhận cho cô bỏ Sài. Người ta thường nói tình yêu đầu tiên là tình yêu sẽ khắc sâu, in đậm trong tâm trí con người mãi mãi nhưng tình yêu đầu tiên của Tuyết lại là một tình yêu áp đặt, phải sống cô đơn trong tuyệt vọng. Lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ, để rồi suốt ngày lầm lũi, cô đơn trong đau khổ. Đọc đến đây người đọc phần nào hình dung cuộc đời của Tuyết giống với cuộc đời của nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ- Tác phẩm được Tô Hoài viết nằm trong chủ đề gia đình cách mạng. Nếu Mị cũng bị ép buộc, bắt cóc trở thành con dâu nhà thống lí Pá- Tra, suốt ngày sống và làm việc lẳng lặng, câm nín, cô đơn, bất hạnh nhưng ít ra Tô Hoài 23
  30. cũng mở cho nhân vật của mình một hướng đi mới đó là để Mị bỏ trốn theo A Phủ và được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. Cuộc đời Mị bước sang một trang mới thì Tuyết lại có phần bất hạnh hơn khi cô không đủ bản lĩnh để tự giải thoát cuộc đời mình, Tuyết luôn buộc mình vào lề lối không dám trái ý cha mẹ, cha mẹ đã gả chồng ở đâu thì đó chính là nơi nương tựa cuối cùng của cuộc đời mình, dù có đau khổ, có bất hạnh thì cũng phải cắn răng mà chịu đựng. Trong tiểu thuyết Thời xa vắng, Giang Minh Sài cũng là nhân vật mang trong mình nhiều cô đơn, bất hạnh. Ở cái tuổi chỉ biết ăn, biết ngủ, biết học hành thì Sài phải lấy vợ. Dù có vợ chăm sóc, yêu thương nhưng chưa khi nào anh cảm thấy hạnh phúc, vui vẻ. Sài luôn tìm cách lẩn tránh chống đối Tuyết. Anh đã chọn con đường cho riêng mình là vào quân ngũ. Cũng giống như Hương, không có ai để tâm sự, trải lòng, quá cô đơn, Sài đã tìm đến những trang nhật ký để gửi tình cảm của mình vào đó: “Đêm tôi quyết định ghi nhật ký từ đêm nay. Đây là những công việc đầu tiên của cuộc đời tôi Nhưng từ hơn nửa tháng nay thành “anh bộ đội” tôi không có ai để chia sẻ” [10, 87],“Đêm, toàn tiểu đội bắn đạn thật bài 1. Có đến hàng trăm sĩ quan cấp úy, cấp tá và cả thiếu tướng Tư lệnh Quân khu cũng về theo dõi cuộc bắn thí điểm của toàn quân ta” [10, 88]. Cứ thế triền miên từ đêm này qua đêm khác, cuốn nhật ký đã trở thành người bạn giúp anh vượt qua những cô đơn, bất hạnh. Vì quá cô đơn không có ai để tâm sự, cảm xúc bị dồn nén lâu ngày khiến anh rơi vào bệnh tật mà mọi người lại cho rằng Sài mang tư tưởng phản động. Bị cấm không được viết nhật kí anh lại vùi mình vào học tập, vào công việc tăng gia sản xuất để vơi bớt cô đơn, để không có thời gian nghĩ đến những chuyện khác. Dưới góc độ hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng, vấn đề tình yêu hạnh phúc luôn là nỗi trăn trở, day dứt. Cuộc đời Sài, Tuyết, 24
  31. Hương là những chuỗi ngày đắng cay, chua xót, họ luôn mang trong mình những đau khổ đó là nỗi cô đơn, bất hạnh. Khi con người phải sống trong hoàn cảnh cô đơn, tủi cực thì họ sẽ hướng trái tim mình đến hạnh phúc đến tình yêu đích thực. Đối với mọi người đó là khát vọng bình dị nhưng đặt trong hoàn cảnh xã hội bấy giờ con người bị đè nặng, ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến, những hủ tục lạc hậu thì đó là một khát khao quá xa vời. Sài và Tuyết đều là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng đồng thời họ cũng chính là thủ phạm gây nên bi kịch của đời mình luôn cam chịu, nhẫn nhục không dám đứng lên đòi quyền hạnh phúc cho chính mình. 25
  32. CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU 3.1 Ngôn ngữ “Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt giá trị nghệ thuật- thẩm mĩ” [13, 98]. Ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa là chất liệu để biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Trong tiểu thuyết Thời xa vắng, Lê Lựu đã xây dựng thành công ngôn đối thoại và đọc thoại nội tâm qua đó người đọc phần nào hình dung được cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. 3.1.1 Ngôn ngữ đối thoại Khai thác khía cạnh ngôn ngữ trong tiểu thuyết Thời xa vắng, ta thấy nổi bật lên là ngôn ngữ đối thoại. Lê Lựu sử dụng ngôn ngữ đối thoại với một mật độ dày đặc khiến cho diễn biến câu chuyện trở nên bất ngờ, hấp dẫn. Nhân vật rất đa dạng và phong phú với những kiểu đối thoại khác nhau. Qua ngôn ngữ đối thoại, người đọc có thể hình dung được phần nào trình độ học vấn, thành phần phần xuất thân cũng như tính cách của từng nhân vật. Cuộc đối thoại giữa Sài và Tuyết cho ta thấy được sự lạnh lùng, thờ ơ, vô cảm của Sài, dành cho Tuyết, của cặp vợ chồng không có tình yêu, hạnh phúc. “ Người ta bảo trong kia đẹp lắm, mai vào xem đi” - Cô thích cứ đi, tôi đang bận học -Ngày mai mua ít cua bể về ăn, nghe bảo bổ lắm, có tiền thầy mẹ hai nhà cho đây - Tôi không thích loại đó 26
  33. - Thế anh có thích tôm he không - Tôi lạy cô để im cho tôi nhờ tí” [10,108]. Tuyết càng khao khát vun đắp hạnh phúc bao nhiêu thì Sài lại ra sức phá vỡ bấy nhiêu. Cả cuộc đời dường như Sài chưa một lần để ý đến tâm trạng, cảm xúc của vợ mình, anh luôn tỏ ra vô tình, lạnh lùng khiến cho người đọc thương cảm, xót xa anh một phần thì thương Tuyết đến hai, ba phần. Còn đây là cuộc đối thoại giữa Sài và Châu: “ Anh nói nữa đi - Hình như em không yêu anh - Anh thích thế à? - Anh chỉ thiếu nước nhảy xuống Hồ Tây vào lúc này nếu em muốn - Nhảy xuống đi Anh có thể đứng phắt dậy để cô nhận thấy sự kiên quyết của mình rồi ngồi xuống sát lại hơn - Khổ nhiều quá rồi anh rất sợ sự đùa bỡn - Anh cho là em đùa bỡn à? - Chưa bao giờ anh nghĩ như thế. Nhưng anh rất sợ sự im lặng của em - Chả nhẽ em thích thích đến chỗ này để đùa với anh cho vui? - Có bao giờ em nói được với anh cái điều mà anh mong đợi ấy đâu - Anh thích nói ra mồm ư? - Hoàn toàn không, nhưng anh lại thích nghe cái tiếng mà anh cho là rất thiêng liêng ấy - Thế đã bao giờ anh hỏi em một cách nghiêm chỉnh chưa? - Bây giờ nhé! ” [10, 205]. Lời đối thoại ngắn gọn, rành mạch của hai người trong câu chuyện, khiến người đọc hình dung ra sự khôn ngoan, sắc sảo của Châu cùng sự ngờ nghệch của Sài. Ngay từ lần gặp đầu tiên, Sài đã để Châu lấn át và trở nên mù 27
  34. quáng, anh tin và yêu cô bằng tất cả sự chân thành. Hay trong một cuộc đối thoại khác giữa Sài và Châu, ta lại thấy Châu hiện lên có phần bất chấp, nhất là khi hai vợ chồng cãi nhau: “ Chuyện gì thì với trẻ con cũng không thể trị nó kiểu Pôn- Pốt được. - Nuông chiều con như em rồi cũng có ngày mất xác - Đừng độc mồm, con tôi, tôi đẻ ra, tôi không khiến ai phải xót hộ” [10, 333]. Những lời đối thoại của Châu đã cho người đọc thấy cách cư xử, bản chất của con người cô, đồng thời cũng dự báo về sự rạn nứt của cuộc hôn nhân đầy toan tính này. Khi cuộc sống vợ chồng luôn chứa đựng những mâu thuẫn thì việc đổ vỡ là điều tất yếu. Có lẽ trong toàn bộ cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng, tác giả Lê Lựu đã dành nhiều sự ưu ái cho Hương, cô được nhà văn xây dựng gần như hoàn hảo nhất trong toàn bộ tác phẩm “đẹp người, đẹp nết”có trình độ học vấn nhưng Hương lại không được hưởng hạnh phúc, cả cuộc đời cô luôn hướng trái tim mình đến Sài. Sau này dù đã có gia đình, có một ông chồng hiền lành yêu chiều hết mực, trở thành mẹ của hai đứa con nhưng tình cảm của cô dành cho Sài vẫn nguyên vẹn, không hề thay đổi: “ Nếu anh lấy vợ rồi em có đến với anh nữa không? - Thôi. - Thế là em không muốn rồi. - Còn phải tùy thuộc vào lúc bấy giờ người ta đối sử như thế nào. - Thì mình cứ bình thường như những người bạn khác ‟‟ [10, 246]. Hay trong một đoạn hội thoại khác giữa Sài và Hương : „„ Anh không thể hiểu em là người như thế nào nữa. - Gần hai chục năm nay anh vẫn còn nhầm à ? - Em còn nhớ đã bao nhiêu lần anh bàn với em thế nào không ? - Nhưng em có cấm anh lấy vợ đâu. 28
  35. - Không cấm mà nghe tin anh lấy vợ lại giận dỗi không bằng lòng với anh ‟‟[10, 247]. Với những lời đối thoại ngắn gọn, Lê Lựu đã giúp người đọc hình dung ra tính cách, con người của Hương. Chính sự nhẹ nhàng,thấu hiểu cùng tình yêu tha thiết, chân thành của cô đã tạo nên sự day dứt trong lòng Sài suốt bao năm qua, khiến anh luôn khao khát, dằn vặt trong mối tình dang dở nhưng không bao giờ nắm bắt được. Như vậy, ngôn ngữ đối thoại được Lê Lựu triển khai khá đa dạng trong tiểu thuyết Thời xa vắng. Tất cả những lời đối thoại của Sài với những người xung quanh đã toát lên phần nào tính cách, con người của anh. 3.1.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm Theo Từ điển thuật ngữ văn học: „„Độc thoại nội tâm là lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó‟‟ [8, 122]. Đây là một thủ pháp nghệ thuật giúp Lê Lựu thâm nhập vào tận bên trong tâm hồn con người qua đó ông thấy những bản chất, suy nghĩ, tâm lí, nhân vật. Có thể nói ngôn ngữ độc thoại là một phương pháp để nhà văn thể hiện tính cách nhân vật giúp người đọc hiểu rõ ngọn nguồn gây ra bi kịch tình yêu, hôn nhân của họ. Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại thì độc thoại nội tâm cũng đóng vai trò chủ yếu trong phương thức nghệ thuật của tiểu thuyết Thời xa vắng. Lê Lựu đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm một cách hiệu quả. Ông đi sâu vào thế giới bên trong bí ẩn của tâm hồn con người để nói lên những suy tư, trăn trở, cảm xúc của nhân vật điều mà những người ngoài không thể hiểu cũng như không hề biết. Tác giả đã đặt nhân vật của mình vào hoàn cảnh sống khắc nghiệt để họ tự nói lên suy nghĩ của mình qua lời độc thoại nội tâm. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết Thời xa vắng khá phong phú, có khi 29
  36. nhân vật tự suy tư về cuộc đời, số phận của mình đôi khi lại là sự ý thức, đánh giá về chính bản thân. Ngôn ngữ độc thoại nổi bật lên trong tiểu thuyết chính là Giang Minh Sài. Khi đi bộ đội anh có một thói quen đó là viết nhật kí để ghi chép lại những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Mỗi khi đau khổ, anh đắm mình trong những trang nhật kí coi đó là người bạn để tâm sự. Thông qua độc thoại nội tâm tất cả những đau khổ, dằn vặt của Sài đều hiện lên một cách rõ nét nhất. Từ nhỏ bị cha mẹ áp đặt cuộc hôn nhân với Tuyết, sau này lớn lên anh mới đau đớn nhận ra: “Ôi, tình yêu! anh biết rằng anh cũng có khao khát đối với một người con gái như tất cả bạn bè. Chỉ có khác, anh khác họ ở chỗ anh không có quyền, nói cho đúng anh không được phép có một tình yêu” [10, 114]. Lời độc thoại ấy cho ta thấy nhân vật hiện lên thật đáng thương, qua đó người ta cũng thấy hình ảnh một con người nhu nhược luôn chấp nhận sống theo ý của người khác. Trong mắt Sài cuộc hôn nhân với Tuyết là một cuộc hôn nhân đầy bi kịch, đã không ít lần anh có ý định thoát khỏi cô. Sài luôn hi vọng: “có một ông giời nào đó xuống đây để cho hai người được li hôn” [10, 128]. Sài đã nhu nhược, không đủ bản lĩnh để giải thoát mình và Tuyết trong cuộc hôn nhân luẩn quẩn này. Sau này, ở cuộc hôn nhân thứ hai với Châu anh lại tiếp tục rơi vào bi kịch sống theo ý của người khác, để rồi anh đau đớn nhận ra: “Anh không thể tiếp tục cuộc sống không phải là mình, không còn là mình, cái mình có thì thừa ra, cái không có thì phải ứng xử hàng ngày vẫn thiếu hụt, vẫn thấy không phải, vẫn bị chê trách” [10, 331]. Bên cạnh việc khắc họa Sài qua những lời độc thoại, Lê Lựu còn chú ý đến nhân vật Hương. Ông dành cho nhân vật này những lời độc thoại chân thực và sâu sắc qua bức thư mà cô viết cho Sài. Trong bức thư ấy cô đã thẳng thắn thể hiện tình yêu mãnh liệt của mình dành cho Sài: “gần một tháng nay 30
  37. kể từ khi đến lớp em mang tiếng đi theo. Nhưng em cần gì. Ai muốn xa lánh, khinh bỉ em, em xa hẳn và khinh họ luôn. Em chỉ cần có một mình anh yêu em, anh ở bên em Hầu như không đêm nào em không khóc và lần nằm mơ anh đang bị bủa vây em hét lên lao đến ôm chầm lấy anh” [10,75]. Qua lời độc thoại thế giới bên trong của nhân vật hiện lên đầy chân thực, cụ thể đó là giằng xé, khát khao khát yêu thương và được yêu thương của Hương một người phụ nữ có cả sắc lẫn tài nhưng tình yêu thì lại không được như mong muốn. Trong một đoạn khác, qua lời độc thoại của Hương, ta cũng thấy hiện lên một con người có đời sống nội tâm khá sâu sắc. Trong cuốn nhật kí của mình, cô viết: “em vẫn ở bên anh, một người đàn bà có chồng và sắp có hai mặt con. Không thể nào bỏ chồng, bỏ con để trở về với anh, nhưng em vẫn là tình yêu suốt đời của anh, cũng như anh mãi mãi là tình yêu duy nhất của đời em. Đừng khóc khi trở về thấy em âu yếm chồng con mà câm lặng, lẩn tránh em. Anh bé bỏng của em ơi. Nhưng anh ơi nhưng đến bao giờ em mới có thể để anh hiểu nỗi lòng em, để anh bớt đau đớn, tủi hận. Bao giờ, đến bao giờ hả anh!!!” [10,208]. Lời độc thoại nội tâm của Hương không chỉ thể hiện tình yêu thủy chung mà cô dành cho Sài mà còn nói lên những dằn vặt, đau khổ mà cô phải gánh chịu, cùng một lúc Hương phải lo cho cả hai nơi một bên là gia đình không có hạnh phúc nhưng cũng không thể từ bỏ, một bên là người yêu đầy rạo rực, cháy bỏng nhưng cũng không thể chạy tới. Dòng tâm trạng cứ miên man, trải dài trong toàn bộ cuốn nhật kí, như vậy Lê Lựu đã thể hiện một góc nhìn tinh tế qua việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm nhằm diễn miêu tả tâm lí nhân vật. Tóm lại, ngôn ngữ trong tiểu thuyết Thời xa vắng cũng là một lĩnh vực khá thành công của Lê Lựu. Tìm hiểu về tác phẩm này, chúng ta dễ dàng nhận thấy tác phẩm chính là sự hòa quyện, pha trộn giữa chất đối thoại và độc 31
  38. thoại. Sử dụng ngôn ngữ ấy Lê Lựu đã khắc họa thế giới nghệ thuật một cách đầy chân thực, cụ thể, qua đó những day dứt, đau khổ và khát vọng yêu thương mãnh liệt của nhân vật cũng được bộc lộ rõ. 3.2 Giọng điệu Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ gần xa, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [8,134] . Đánh giá về vai trò giọng điệu đối với tác phẩm văn học, Giáo sư Trần Đình Sử trong Một số vấn đề thi pháp học hiện đại cho rằng: “Phân tích tác phẩm mà bỏ qua giọng điệu tức là tước đi cái phần quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo cho nhà văn”.Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, đóng vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và truyền cảm cho người đọc. Đến với tiểu thuyết của Lê Lựu ta bắt gặp nhiều loại giọng điệu khác nhau nhưng nổi bật chính là: giọng điệu xót xa, thương cảm và giọng điệu khắc khoải, da diết đầy trải nghiệm. Những yếu tố đó hòa quyện, pha trộn tạo nên sức hấp dẫn riêng trong tiểu thuyết của ông thời kì sau 1975. 3.2.1 Giọng điệu thương cảm, xót xa Trong tiểu thuyết Thời xa vắng Lê Lựu đã đi sâu khám phá những số phận đau đớn đầy bi kịch của cuộc sống hôn nhân và gia đình, ông đã sử dụng giọng điệu thương cảm, xót xa để tái hiện lên chiều sâu bên trong số phận nhân vật. Giọng điệu này xuất hiện khá dày đặc trong tác phẩm. Lê Lựu đã dành tình cảm yêu thương và trái tim nhân hậu để cảm thông với số phận những con người bất hạnh có số phận éo le. Mỗi nhân vật hiện lên với những bất hạnh riêng nếu Sài yếu thế, Tuyết cô đơn, bất hạnh, Hương yêu hết mình 32
  39. nhưng thất bại thì Châu ghê gớm nhưng cũng phải chịu nhiều cay đắng. Ngòi bút của Lê Lựu dường như không thiên vị một ai mà mở rộng cảm thương, san sẻ với tất cả nhân vật của mình. Tuyết cũng như bao người con gái khác, lấy chồng với mong ước có một gia đình hạnh phúc nhưng lại bị Sài coi thường, khinh rẻ. Tuyết chính là điển hình cho người phụ nữ thôn quê chịu nhiều bất hạnh, cay đắng. Điểm nhìn bên trong đã giúp nhà văn hiểu thấu nỗi khát khao và cô đơn của một cô gái mười bảy tuổi: “Cái tuổi dậy thì của người con gái mỗi ngày như trông thấy cái cơ thể đồi dào sức lực của mình cứ mát mẻ và êm ái, căng đầy lên, đã khao khát đến cháy khô đôi môi mọng đỏ trước cái nhìn đăm đắm của con trai, đã thấy phập phồng mỗi đêm nghe tiếng chồng chậy về” [10, 44]. Lê Lựu thấu hiểu, quan tâm và cảm thông cho số phận của người phụ nữ cả đời không được chồngyêu thương, sống cuộc sống tủi nhục, cam chịu như cái bóng lặng lẽ, lầm lũi hết ngày này qua ngày khác. Sau này có con với Sài, nhưng dường như Sài chỉ biết đến con mà quên mất đi sự tồn tại của người phụ nữ đã sinh ra đứa con ấy. Sự mất mát dang dở cứ gắn chặt với cuộc đời Tuyết. Nhà văn đã dùng ngòi bút của mình để cảm thông cho số phận người phụ nữ bất hạnh này. Rõ ràng chính xã hội đã tạo nên một Giang Minh Sài yếu thế, không có chứng kiến, không dám sống với chính bản thân mình. Mười tuổi đầu nhưng Sài đã phải sống một cuộc sống đầy giả dối và ép buộc, phải sống vừa lòng mọi người, làm đẹp vì mọi người,lấy vợ nhưng không hề có tình cảm với vợ, yêu mà không dám đến với người mình yêu. Trước những đau khổ, dằn vặt, nhà văn không kìm được cảm xúc xót xa đối với nhân vật mà đành phải thốt lên “thật khốn khổ thay”. Đất nước hòa bình, tưởng rằng Sài sẽ cùng với Hương xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng anh lại vướng vào cuộc hôn nhân thứ hai với Châu- song bi kịch ở chỗ Sài không được là chính mình. Mỗi ngày 33
  40. anh đều đầu tắp mặt tối từ bốn giờ sáng để nấu cơm, rửa bát, giặt giũ, cho con ăn và nhiều thứ việc khác nữa. Chính cái khoảng thời gian sống cùng với Châu ấy khiến anh trở nên thay đổi: “Sài già đi đến hơn chục tuổi, nhom nhem và bê tha như anh đạp xích lô trực đêm trước cửa ga” [10, 310]. Anh không có thời gian dành cho bản thân, không có thời gian quan tâm đến bạn bè, những người đhã cưu mang, giúp đỡ mình. Anh trở thành con người âm thầm, lặng lẽ với bao nhiêu giằng xé, day dứt: “hàng tiếng đồng hồ đứng lặng như chết, chỉ có hai làn môi động đậy run run và khuôn mặt như méo mó hẳn đi”. Cuộc đời Sài là cả một chuỗi ngày bi kịch, bỏ vợ, cuộc hôn nhân thứ hai tan vỡ, Sài nhận quyền nuôi con nhưng cuối cùng anh đau đớn nhận ra đứa con anh vẫn yêu thương, chăm sóc ấy lại không phải con của mình mà là kết quả những ngày tháng yêu đương tự do của Châu. Thật trớ trêu, ngay cả tình yêu với Hương, Sài cũng không đủ dũng cảm để dành lấy gần hai chục năm theo đuổi một mối tình tuyệt vọng với anh. Cũng gần hai mươi năm sống trong tình cảm khắc khoải. Hướng ngòi bút của mình đến những số phận bất hạnh nhà văn không chỉ lên án mà còn bày tỏ niềm cảm thông, xót xa, trân trọng những khát vọng hạnh phúc cá nhân của con người. Giọng điệu cảm thương, xót xa đã giúp Lê Lựu viết lên những trang văn đầy ý nghĩa và mang giá trị nhân đạo cao. 3.2.2 Giọng điệu khắc khoải, da diết Trong tiểu thuyết của Lê Lựu nhân vật hiện lên đầy tâm sự: Sài khát khao, lẩn tránh, Tuyết luôn chờ đợi và hy vọng, Hương luôn ngóng trông. Giọng điệu khắc khoải, da diết đã giúp nhà văn thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật. Tác giả đã dựa vào giác quan để bày tỏ những tình cảm của mình với nhân vật: đó là nỗi niềm tha thiết yêu thương của Hương, là ước mơ cháy bỏng của Sài. 34
  41. Thời xa vắng chính là câu chuyện của Sài và Hương- cô gái xinh đẹp, mạnh mẽ, học giỏi. Chính trận lụt ở làng Hạ Vị đã gắn kết cuộc đời Sài với cô, cũng từ đây hàng loạt bị kịch đã đến với họ. Lúc này Sài đã có gia đình, Hương chỉ biết sống âm thầm và gửi tình yêu của mình vào những lá thư từ niềm vui, nỗi buồn và cả niềm khát khao và sự chờ đợi. Đó là những háo hức, mong chờ “ liệu ở nhà anh đã biết tin này chưa! Em chỉ cần biết có một mình anh yêu em, anh ở bên em” [10, 75]. Ngay cả trong giấc mơ, hình ảnh Sài cũng luôn thường trực trong trái tim. Cô mơ thấy người yêu bị đánh đập, hung hãm: “Không đêm nào em không khóc và đã có lần nằm mơ thấy anh đang bị bủa vây có hàng trăm, hàng nghìn người cầm dao, cầm súng, xô vào chém và bắn anh” [10, 75] những ý nghĩ ấy cứ dồn dập trong suy nghĩ của Hương chứng tỏ tình yêu của cô dành cho Sài quá lớn, nó luôn thường trực trong tâm trí của Hương, tình yêu tha thiết, chân thành nhưng không đến được nhau nên trong Hương luôn mang một nỗi lòng khắc khoải, ngóng trông. Giọng điệu khắc khoải còn được tác giả khắc họa rõ nét khi Hương đọc bài báo viết về chiến công của Sài: “Đừng khóc khi trở về thấy em âu yếm, vỗ về chồng con mà câm lặng, lẩn tránh em. Nhưng anh ơi Nhưng đến bao giờ em mới có thể để anh hiểu nỗi lòng của em để anh bớt đau đớn, tủi thân. Bao giờ! Đến bao giờ hả anh!!!” [10, 208]. Giọng đệu khắc khoải, da diết không chỉ bộc lộ ở ngôn từ mà còn nằm trong những dấu chấm lửng, những dấu chấm than, và cả những câu hỏi cứ thường trực, trở đi, trở lại trong đầu cô. Hương mạnh mẽ bao nhiêu thì Sài lại trầm lắng, suy tư bấy nhiêu, anh gửi gắm nỗi nhớ, tình yêu với Hương vào những trang nhật kí. Anh tưởng tượng ra nỗi nhớ nhung, khuôn mặt hạnh phúc của cô, cảnh hai người cùng học, cùng dắt nhau đi ăn kem quanh Hồ Gươm anh mường tượng ra cảnh Hương trở thành con dâu nhà họ Giang, ra cuộc sống tươi đẹp cuả hai người. 35
  42. Trong cả tập tiểu thuyết, giọng điệu khắc khoải, da diết tập trung diễn tả tâm trạng nhân vật Sài và Hương những con người khát khao yêu thương mà không được yêu thương. Khát vọng tình yêu cháy bỏng của họ chính là minh chứng rõ rệt nhất của ý thức cá nhân về hạnh phúc. Viết về mối tình của Sài và Hương, tác giả cũng bày tỏ niềm cảm thông, xót xa trước hạnh phúc của con người. Giọng điệu khắc khoải của Lê Lựu khi viết về con người, cuộc đời đã trở thành tiếng nói riêng khá độc đáo trong sáng tác của ông. Cuộc sống đời tư của Lê Lựu không mấy bình lặng, có lẽ chính cuộc sống ấy đã giúp ông có nhiều trải nghiệm và những trang viết có giá trị về vấn đề hôn nhân và gia đình. 3.3 Không gian, thời gian nghệ thuật 3.3.1 Không gian nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật” [8,160]. Khái niệm không gian văn học được tác giả Hoàng Phê định nghĩa trong cuốn Từ điển Tiếng việt: “Không gian là khoảng không gian bao la trùm lên tất cả sự vật, hiện tượng xung quanh cuộc sống con người” [14]. Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học,Trần Đình Sử lí giải thêm: “Không gian nghệ thuật là một phạm trù qua trọng của thi pháp học nó là hình thứ tồn tại cùng thế giới nghệ thuật. Đó là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống” [15,108]. 36
  43. Tóm lại, có rất nhiều khái niệm về không gian nghệ thuật, nhưng chúng ta đều hiểu không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Đó là không gian tồn tại sinh hoạt của nhân vật, là bối cảnh để nhân vật thể hiện tính cách, suy nghĩ, hành động, không gian nghệ thuật còn là nền tảng cho các sự kiện. Mở đầu cuốn tiểu thuyết hiện lên trong mắt người đọc đó chính là không gian nông thôn làng Hạ Vị: “Làng bập bềnh trôi trong đêm sương muối. Những cây cau thẳng tuột cao vóng như chỉ chực lao thẳng đến tận trời chìm ngập giữa âm thầm giá lạnh. Đã năm đêm nay sương làm táp đen những luống khoai làng và những cây đòn tay bằng tre ngâm nổ toang toác” [10,5]. Bối cảnh của câu chuyện là làng Hạ Vị- một làng quê nghèo khó, con người luôn mang lối sống bảo thủ quanh năm quen với cuộc sống làm thuê, cuốc mướn, họ không thiết tha với ruộng đồng, nhưng cũng không đủ can đảm để vứt bỏ: “Họ không yêu tha thiết với đồng ruộng nhưng không đủ sức dứt bỏ những gì quen thuộc từ thủa cha sinh mẹ đẻ ở cái nơi mà ai cũng quen thuộc gọi là quê hương” [10, 26]. Có thể nói, làng Hạ Vị chính là mô hình thu nhỏ của nông thôn Việt Nam giai đoạn trước thời kì đổi mới. Khi được giao đất, giao ruộng tự mình làm chủ thì họ lại trở nên bối rối, họ có thể bỏ ruộng chứ không bỏ nghề làm thuê. Những người nông dân ấy chỉ quen với việc làm tôi tớ, ăn xin, ăn nhặt ngửa tay xin việc kiếm miếng ăn, còn lúc tự mình làm chủ lấy việc, làm chủ lấy ruộng, làm chủ lấy đời mình thì lại phá ngay.Lê Lựu lớn lên trong một gia đình nông thôn nên việc tạo dựng không gian nông thôn trong tác phẩm của ông không phải là điều khó khăn, ông xây dựng lên những khung cảnh làng quê rất đỗi gần gũi, dân dã, thân thuộc thông qua đó nhà văn nêu lên những hủ tục lạc hậu từ xa xưa đã in đậm trong tiềm thức con người cụ thể là tục tảo hôn mà nạn nhân chính là Giang Minh Sài chính cuộc hôn nhân ép buộc đã đẩy anh vào đau khổ, bất hạnh. 37
  44. Bên cạnh không gian nông thôn thì không gian phố phường, thành thị cũng là một hình ảnh tiêu biểu trong tiểu thuyết Thời xa vắng. Trong tác phẩm, Lê Lựu đã giúp người đọc hình dung ra một không gian chật chội, bế tắc, đầy rẫy những vấn đề xã hội: hôn nhân gia đình, lối sống đạo đức Tuy được sinh ra ở làng quê nhưng đã có một khoảng thời gian Lê Lựu sống ở thành phố vì vậy ông rất am hiểu cuộc sống sinh hoạt của con người nơi đây. Ở tiểu thuyết Thời xa vắngLê Lựu tập trung khắc họa cuộc sống chật chội, bế tắc của vợ chồng Sài và Châu: “Trong căn nhà chật chội của Sài đã che kín một nửa như buồng trò. Nửa còn lại không thểdựng hết ngần ấy khách ở quê”[10, 301] hay “Đứa cháu ngủ chiếc giường một còn ba người ở chiếc giường đôi bừa bộn tã lót, chai, phích sữa, chậu đựng tã lót, lọ để “hứng chim” khi đái, không còn chỗ nào mà cựa mình, mà thở” [10, 304]. Tác giả đã miêu tả căn phòng của vợ chồng Sài nhỏ bé, chật hẹp đựng đầy thứ đồ nào là quà quê, nào là đồ dùng sinh hoạt. Ngay từ khi xây dựng không gian phố phường Lê Lựu đã vạch ra sự đối lập giữa thành thị và nông thôn. Nếu không gian nông thôn rộng lớn là nơi dù đi bất đâu con người vẫn có thể trở về và cảm thấy nhẹ nhàng, bình yên thì không gian thành thị lại mang đầy chật chội, bế tắc, ngột ngạt ở đó con người thiếu sự cảm thông, Châu luôn tỏ ra hách dịch, coi thường chồng. Con người thôn quê sống có tình, có nghĩa bao nhiêu thì thì con người thành thị lại thực dụng, toan tính bấy nhiêu. Ngoài không gian nông thôn, không gian thành thị thì không gian chiến trường với những đêm Sài ngồi viết nhật kí cũng được tác giả chú ý đến: “Đêm tôi quyết định ghi nhật kí từ đêm nay. Đây là công việc đầu tiên của của riêng tôi” [10, 87]; “ Đêm anh thương yêu của riêng em. Từ khi anh ra đi đến nay đã được sáu tháng, năm ngày.” [10, 87]; “Đêm toàn tiểu đội bắn đạn thật bài một. Có đến hàng trăm sĩ quan cấp úy, cấp tá và cả thiếu tường Tư lệnh Quân khu cũng về theo dõi cuộc bắn thí điểm cho toàn quân 38
  45. khu.” [10, 88]; “Đêm 25 ”; “ Đêm 29 ” [10, 90]. Có thể nói không gian này cứ trở đi, trở lại trong toàn bộ cuốn nhật kí của Sài. Đưa không gian quân ngũ với những đêm dài ngồi viết nhật kí, Lê Lựu đã diễn tả nỗi cô đơn cuả Sài mà anh không thểtrò chuyện, tâm sự với ai bao nhiêu nhớ nhung, tình cảm dành cho Hương anh đều gửi gắm vào cuốn nhật kí, nó như một người bạn cùng anh chia ngọt sẻ bùi giúp anh bớt cô đơn, hưu quạnh. Đặt nhân vật của mình vào những không gian nghệ thuật này, Lê Lựu đã diễn tả thành công những suy nghĩ, tâm trạng, hành động, những đau khổ, dằn vặt mà con người phải gánh chịu. Điều này cũng góp phần tạo nên sự sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn cho tác phẩm. 3.3.2 Thời gian nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chính chính thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thế giới. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật” [8, 322]. Theo Gs.Trần Đình Sử trong Một số vấn đề thi pháp học hiện đạiđã nhận định: “Thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới thực tại chỉ tồn tại trong không gian và thời gian, thì cũng như thế, thế giới nghệ thuật chỉ tồn tại trong không gian và thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là cái thời gian được cảm nhận bằng tâm lí, qua chuỗi liên tục các biến đổi (biến cố) có ý nghĩa thẩm mĩ xảy ra trong thế giới nghệ thuật. Là thời gian cảm nhận bằng tâm lí mang ý nghĩa thẩm mĩ nên thời gian nghệ 39
  46. thuật khác với thời gian khách quan đo bằng lịch và đồng hồ, nó có thể đảo ngược, từ hiện tại hồi tưởng lại quá khứ”. Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể thấy. Thời gian nghệ thuật là thời gian mà tác giả thể hiện trong một tác phẩm văn chương với độ dài, ngắn, nhịp độ nhanh chậm khác nhau và các chiều quá khứ, hiện tại, tương lai. Lê Lựu viết tác phẩm Thời xa vắng vào năm 1984 khi đất nước đang trong quá trình đổi mới đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh của cuốn tiểu thuyết chính là những năm 60 của thế kỉ XX với cuộc sống của những người dân quê lao động quanh năm chỉ trực làm thuê cuốc mướn.Thời gian nghệ thuật trong cuốn tiểu thuyết là thời gian tuyến tính, nó không dừng lại ở bất kì thời thời điểm nào. Đọc tiểu thuyết Thời xa vắng người đọc dễ dàng nhân thấy thời gian đêm tối xuất hiện trở đi trở lại trong cuốn tiểu thuyết. Đó là thời gian đêm khi mà làng Hạ Vị chìm trong nước lũ, mọi người dân trong làng thi nhau đi sơ tán: “Đến qua nửa đêm đê quai vỡ ở chỗ cây đa còn cách dầu làng đến dăm cây số mà nghe tiếng nước ầm ầm rung chuyển như bom” hay: “Đêm ấy Sài cùng các công nhân, chở hết người chưa chạy kịp trong các xóm, xong lại chở nốt người, lợn ,gà, trâu bò đã chạy lên đê quai vào đê chính” [10, 51]. Đó còn là thời gian đêm mà dân làng Hạ Vị dậy từ sớm khi trời còn chưa sáng để gọi nhau đi làm thuê: “Đêm nào cũng khoảng nửa đêm là ông đồ tỉnh dậy, đun nước ủ tích nụ vối và hút thuốc lào chờ khi nào nghe được tiếng ơi ới gọi nhau ở xung quanh hoặc tiếng nói oàm oàm như lội nước của vợ chồng nhà Mồng là ông chỉ cần hỏi khẽ khàng: Bà đồ đã tỉnh dậy chưa” [10,27]. Có thể nói, thời gian đêm tối cứ trở đi trở lại trong cuốn tiểu thuyết, phải chăng xây dựng thời gian nghệ thuật này cũng là dụng ý của tác giả, khi thời gian đêm tối cứ triền miên mà cuộc đời nhân vật cứ nối dài những bi kịch. 40
  47. Thời gian đêm ấy còn là thời gian mà Sài đã gặp và có những phút giây bên Hương: “Đêm nay, cái đêm chỉ còn những tiếng kêu yếu ớt. Em sợ. Đừng làm thế. Và cái giây phút ấy có thể đánh đổi cả trời đất, đánh đổi cả cuộc đời để lấy một phút giây” [10, 66] có thể nói đây chính là những phút giây yên bình nhất trong toàn bộ tác phẩm ở đó Sài được sống với tình yêu, không phải giáp mặt với Tuyết cũng không bị chèn ép như sống với Châu nhưng cũng chính từ giây phút ấy đã dự báo hàng loạt những bi kịch sẽ ập xuống cuộc đời của Sài và Hương. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Thời xa vắng còn là thời gian lịch sử. Đó là thời gian nghệ thuật từ khi Sài còn là cậu thiếu niên nhi đồng mới lớn luôn hăng hái, tích cực tham gia các phong trào thi đua của đoàn đội, Sài luôn làm tốt trách nhiệm của mình được giao bên cạnh việc học hành Sài còn dạy các bạn viết chữ, làm toán: “không đêm nào liên đội của Sài không tập trung hô khẩu hiệu rồi về sân nhà ông Cần học hát, học múa. Sài còn dạy các bạn học hành làm tính, học viết chữ. Liên đội của Sài làm gì cũng đông đủ, được khen, được giải nhất. Dăm bảy tháng sau toàn xã Hạ Vị đã “ăn nên làm ra”, các đoàn thể tiến rầm rập, Sài là một trong năm thiếu niên tiêu biểu nhất của toàn xã trở thành thiếu niên tháng 8” [10, 42], đến những ngày tháng học tập và rèn luyện trong quân ngũ: “Có đến hàng trăm sĩ quan cấp úy, cấp tá và cả thiếu tướng. Tư lệnh Quân khu cũng về dõi theo cuộc bắn thí điểm cho toàn quân khu. Chú Hà và đoàn thăm quan của tỉnh mình cũng đến ” [10, 88]. Có thể nói, trong toàn bộ tác phẩm thời gian cứ trôi đi nhẹ nhàng không gấp gáp nhưng vẫn tạo được sự lôi cuốn, gay cấn đối với người đọc. Cùng một giai đoạn nhưng Lê Lựu vẫn luôn khẳng định tên tuổi của mình bằng sự sáng tạo cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Với việc sử dụng thành công thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Thời xa vắng, Lê Lựu đã tạo nên một 41
  48. ánh sáng mới cho cuốn tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 nói chung và tiểu thuyết Thời xa vắng nói riêng. 42
  49. KẾT LUẬN Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước hoàn toàn độc lập. Nền văn học dân tộc cũng có sự thay đổi để phù hợp với nhận thức của con người và yêu cầu của thời đại. Tiểu thuyết của Lê Lựu được đánh giá cao và dần khẳng định được giá trị của mình. Tác phẩm Thời xa vắng không chỉ khắc hoa bức tranh sống động về một thời kì lịch sử mà còn đó còn là trang viết mang đậm giá trị hiện thực nói lên những đau khổ, bất hạnh, những bi kịch mà con người phải gánh chịu. Đi sâu vào đề tài hôn nhân và gia đình Lê Lựu đã phản ánh những bi kịch giằng xé trong tâm hồn con người, giúp người đọc hình dung những vấn đề của thời đại, những nỗi đau, bất hạnh mà nhân vật phải gánh chịu. Ông diễn tả nỗi đau đớn mà con người phải gánh chịu trên các phương diện: sự đổ vỡ, mất mát trong hôn nhân, hôn nhân vênh lệch giữa hai con người, đến những cô đơn, bất hạnh vẫn đè nặng lên đôi vai của họ vẫn đè nặng lên đôi vai của họ. Đó là những con người cả đời chỉ biết sống theo ý của người khác luôn cam chịu, nhẫn nhục không dám đấu tranh, lên tiếng để đòi quyền hạnh phúc cho chính bản thân mình và rồi cuối cùng họ cũng bị cuộc sống xã hội nhẫn chìm. Trong tác phẩm Thời xa vắng Lê Lựu đã đi vào khai thác số phận, cuộc đời nhân vật chủ yếu ở góc độ đời tư thông qua các phương diện nghệ thuật như ngôn ngữ, giọng điệu, không gian, thời gian nghệ thuật. Vận dụng những thủ pháp nghệ thuật này tính cách nhân vật hiện lên một cách rõ nét, chân thực và sinh động nhất. Với những sáng tác của mình nói chung và đặc biệt là tiểu thuyết Thời xa vắng nói riêng Lê Lựu đã có những góp không nhỏ cho kho tàng văn học dân tộc đồng thời giúp Lê Lựu có một vị thế vững chắc trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam. Từ đây, bộ mặt của nền văn học dân tộc cũng có sự thay 43
  50. đổi. Với những trang viết của mình Lê Lựu đã xây dựng được hình ảnh của ông trong mắt người đọc, đó là hình ảnh một nhà văn xông xáo, từng trải, am hiểu sâu sắc cuộc sống của những người dân quê mà bất kì ai khi đọc cũng thấy bóng dáng của mình ở trong đó. 44
  51. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Nguyễn Chí Điệp (2014), Yếu tố bi kịch trong tiểu thuyết Lê Lựu, Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. 3. Lê Thu Hà (2016), Bi kịch tình yêu và hôn nhân trong tiểu thuyết Lê Lựu, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Nguyễn Hoà (2002), Suy tư từ một thời xa vắng, Lê Lựu tạp văn, Nxb văn hóa thông tin. 5. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 6. Trần Đăng Khoa (2002), Lê Lựu: Chân dung văn học, Lê Lựu tạp văn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 7. Nguyễn Công Khanh (2007), Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam sau 1975, Tạp chí khoa học. 8. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Lê Lựu (2002), Về Thời xa vắng, Lê Lựu tạp văn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 10. Lê Lựu (1998), Thời xa vắng, Nxb Hội nhà văn. 11. Lê Lựu (2006), Hai nhà, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 12. Lê Hồng Lâm (2002), Nhà văn Lê Lựu: Đi đến tận cùng tính cách nhân vật, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 13. Phan Trọng Luận (2006), Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  52. 14. Hoàng Phê (2017), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Văn Lang. 15. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục. 16. Đinh Quang Tốn (2002), Lê Lựu tạp văn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 17. Ngô Thảo (2003), Về truyện ngắn Lê Lựu, Văn học về người lính, Nxb Quân đội Nhân dân Việt Nam. 18. Bùi Việt Thắng (2009), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.