Đề tài Tìm hiểu về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (Thế kỉ III - Thế kỉ V)

pdf 55 trang thiennha21 16/04/2022 3111
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Tìm hiểu về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (Thế kỉ III - Thế kỉ V)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_tai_tim_hieu_ve_qua_trinh_va_nguyen_nhan_dan_den_su_sup_d.pdf

Nội dung text: Đề tài Tìm hiểu về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (Thế kỉ III - Thế kỉ V)

  1. [Type the document title] BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH KHOA LỊCH SỬ  Đề tài: TÌM HIỂU VỀ QUÁ TRÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN SỰ SỤP ĐỔ CỦA ĐẾ QUỐC TÂY LA MÃ CỔ ĐẠI (thế kỉ III-thế kỉ V) SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang Lớp: SP Lịch sử 4B_K37 MSSV: K37.602.104 (Ca 2) Môn: Những vấn đề cơ bản và cập nhật của lịch sử thế giới TP Hồ Chí Minh tháng 12 năm 2014
  2. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 A. Khái quát chung về đế quốc La Mã (27 TCN-1453) 6 I. Địa lí và dân cư 6 I.1. Địa lí 6 I.2. Dân cư 7 II. Tình hình chính trị 7 II.1. Những năm cuối của nền Cộng hòa 7 II.2. Thời kì Quân chủ 7 1. Thời kì Nguyên thủ 7 2. Thời kì Vương chủ 9 III. Tình hình kinh tế 9 IV. Tình hình xã hội 11 B. Quá trình suy yếu và sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V)12 I. Những khủng hoảng trong thế kỉ thứ III sau công nguyên và sự hưng thịnh của đạo Cơ Đốc 12 I.1. Những khủng hoảng trong thế kỉ thứ III sau công nguyên 12 1. Sự khủng hoảng của chế độ nô lệ 13 2. Sự khủng hoảng về kinh tế và sự ra đời, phát triển của chế độ lệ nông 14 3. Sự khủng hoảng về chính trị 19 4. Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân và những cuộc xâm nhập của người “man tộc” 20 a) Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân 20 b) Những cuộc xâm nhập của người “man tộc” 22 I.2. Sự xuất hiện và diễn biến của đạo Cơ Đốc 23 1. Bối cảnh xã hội đã sản sinh ra đạo Cơ Đốc và nguồn gốc tư tưởng của đạo này 24 Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 2
  3. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) 2. Giáo lý và sự tổ chức trong thời kì đầu của đạo Cơ Đốc 25 3. Sự truyền bá và diễn biến của đạo Cơ Đốc 27 II. Thời kì sau của đế quốc La Mã 28 II.1. Sự thống trị của Diocletianus, Constantine và sự thiết lập chế độ Vương chủ 28 II.2. Đạo Cơ Đốc được hợp thức hóa và sự tranh đấu của các giáo phái 31 II.3. Tình huống xã hội và sự chia cắt của đế quốc 34 III. Sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã 35 III.1. Cuộc đại di chuyển của dân tộc và sự thành lập các vương quốc của người Germans 35 Vương quốc VisiGoth (Tây Goth): 36 Vương quốc Suevos: 36 Vương quốc Vandal: 37 Vương quốc Burgondes: 37 Các vương quốc của người Anglo Saxons: 37 Vương quốc OstroGoth (Đông Goth): 38 Vương quốc Francs: 38 Vương quốc Lombard: 38 III.2. Cuộc nổi loạn của Maximus và sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã 40 C. Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại 42 I. Đường lối binh sĩ ngăn cản sự phát triển của nông nghiệp 43 II. Sự phát triển của “chế độ bảo hộ” 44 III. Những cuộc xâm nhập của người “man tộc” 44 IV. Sự ảnh hưởng của đạo Cơ Đốc 46 V. Sự nổi lên của đế quốc Đông La Mã 47 VI. Tình trạng tham nhũng và những bất ổn về chính trị 47 VII.Tình trạng lạm phát 47 Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 3
  4. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) KẾT LUẬN 49 PHỤ LỤC 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO 55 Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 4
  5. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) MỞ ĐẦU Đế quốc La Mã, hay còn gọi là đế quốc Roma (tiếng Latinh: IMPERIVM ROMANVM) là thời kỳ hậu Cộng hòa của nền văn minh La Mã cổ đại, là sự tiếp nối của Cộng hòa La Mã. Lịch sử của đế quốc La Mã trải dài qua 16 thế kỷ, bắt đầu từ năm 27TCN với sự lên ngôi của Hoàng đế Augustus và có nhiều mốc kết thúc khác nhau, bao gồm sự phân chia cuối cùng thành Tây La Mã và Đông La Mã vào năm 395, sự diệt vong của đế quốc Tây La Mã vào năm 476 và cuối cùng là sự diệt vong của đế quốc Đông La Mã vào năm 1453. Lịch sử của đế quốc La Mã bao gồm nhiều giai đoạn phát triển của nhà nước La Mã. Nó bao gồm đế quốc La Mã cổ đại, thời kỳ bị chia làm đế quốc Tây La Mã và đế quốc Đông La Mã, cuối cùng là lịch sử của đế quốc Đông La Mã (còn gọi là đế quốc Byzantine) trong thời Trung cổ. Là quốc gia rộng lớn và hùng mạnh nhất thời kỳ cổ đại, đế quốc La Mã trải dài 6 triệu km2 với dân số khoảng 60 triệu người. Các kỹ sư La Mã đã phát hiện và trùng tu hơn 1.000 thành phố và thị trấn, biến một châu Âu thuần nông thành một đại công trường đô thị hóa. Trong thế kỷ thứ III, quân đội La Mã sở hữu 450.000 bộ binh và 45.000 lính hải quân. Nhưng rốt cuộc nhà nước ấy cũng không tránh khỏi quy luật hưng vong của lịch sử, đạt cực thịnh dưới triều đại Trajan (98-117 sau Công nguyên) để rồi bị diệt vong dưới tay các man tộc. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 5
  6. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) A. Khái quát chung về đế quốc La Mã (27 TCN-1453) I. Địa lí và dân cư I.1. Địa lí La Mã (Roma) là tên của một quốc gia cổ đại ở phương Tây mà nơi phát nguyên là bán đảo Ý (Italia). Đây là một bán đảo dài và hẹp ở Nam Âu, hình chiếc ủng vươn ra Địa Trung Hải, diện tích khoảng 300.000 km2, phía Bắc có dãy núi Anpơ ngăn cách Italia với châu Âu, phía Nam có đảo Sicilia, phía Tây có đảo Corse và đảo Sardegna. Ở đây có nhiều đồng bằng màu mỡ và nhiều đồng cỏ thuận tiện cho việc chăn nuôi gia súc. Ngoài ra còn có nhiều kim loại như đồng, chì, sắt để chế tạo công cụ sản xuất và vũ khí. Bờ biển phía Đông không thuận tiện cho tàu thuyền đi lại nhưng bờ biển phía Nam có nhiều vịnh và cảng do đó vùng Nam Italia đã có quan hệ sớm với Hy Lạp. Bán đảo Italia về mặt địa hình không bị chia cắt thành những vùng biệt lập nên thuận lợi cho việc thống nhất về chính trị. Do đó, sau khi làm chủ bán đảo Italia, La Mã đã lần lượt chinh phục toàn bộ vùng đất đai bao quanh Địa Trung Hải lập thành một đế quốc rộng lớn gồm đất đai của ba châu Âu, Á, Phi. Đế quốc La Mã là một trong những đế quốc lớn nhất trong lịch sử. Trong thực tế, công cuộc bành trướng của người La Mã đã được thực hiện chủ yếu dưới thời Cộng hoà, mặc dù các vùng ở khu vực Bắc Âu đã được chinh phục vào thế kỷ I, khi mà người La Mã đã củng cố quyền lực của họ ở châu Âu, châu Phi và châu Á. Trong suốt triều đại của Augustus, một "bản đồ toàn cầu nổi tiếng thế giới" đã được trưng bày lần đầu tiên trước công chúng tại Roma. Đế quốc đạt tới ngưỡng mở rộng lớn nhất của nó dưới thời Trajanus (trị vì từ năm 98-117), trên một diện tích lên tới 5.000.000 km2 vào năm 2009 và được chia thành bốn mươi quốc gia khác nhau hiện nay. Bất cứ thành phố nào trong ba thành phố lớn nhất của Đế quốc-Roma, Alexandria và Antioch gần như đều có kích thước gấp đôi bất kỳ thành phố châu Âu vào đầu thế kỷ XVII. Vị hoàng đế kế vị Trajanus, Hadrianus đã thông qua một chính sách duy trì thay vì mở rộng đế quốc. Biên giới đã được đánh dấu, còn các phòng tuyến biên giới luôn được tuần tra. Trường thành Hadrian vốn ngăn cách thế giới La Mã khỏi những gì đã được coi là một mối đe dọa man rợ luôn hiện diện. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 6
  7. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) I.2. Dân cư Cư dân chủ yếu và cũng là thành phần cư dân có mặt sớm ở bán đảo Italia gọi là người Italia (Italotes), trong đó bộ phận sống ở vùng Latium gọi là người Latinh. Về sau một nhánh của người Latinh đã dựng lên thành La Mã ở trên bờ sông Tibrơ, từ đó họ được gọi là người La Mã. Ngoài ra còn có người Gôloa, người Eâtơruxcơ, người Hy Lạp. Người Gôloa cư trú ở miền cực Bắc của bán đảo, người Eâtơruxcơ ở miền Bắc và miền Trung, người Hy Lạp ở các thành phố ven biển phía Nam bán đảo Italia và đảo Xixin. II. Tình hình chính trị II.1. Những năm cuối của nền Cộng hòa Vào cuối thời Cộng hòa La Mã, Julius Caesar nổi lên, giành nhiều thắng lợi trong các trận chiến bên ngoài và tiêu diệt các đối thủ chính trị của mình. Ông tiến lên nắm quyền lực to lớn cả về chính trị lẫn quân sự. Sự tập trung quyền lực vào tay Caesar đã làm lung lay thể chế Cộng hòa. Sau khi Caesar bị ám sát vào năm 44 TCN, đã có một cuộc nội chiến xảy ra trong những năm tiếp theo. Cuối cùng, Octavian (người được Caesar chỉ định thừa kế mình) đã giành chiến thắng trước mọi đối thủ. Trong đó đáng chú ý nhất là năm 31 TCN ông đã đánh bại hoàn toàn Mark Antony và Cleopatra trong trận Actium. Octavian cũng cho xử tử con trai của Cleopatra là Caesarion (người có thể là đứa con trai duy nhất của Caesar). Không còn đối thủ chính trị nào ngáng đường, Octavian trở về Rome để nắm quyền. Năm 27 TCN, ông được Viện nguyên lão tôn lên thành Augustus (mang nghĩa “người ở địa vị tối cao hoặc thiêng liêng”). Ông trở thành vị Hoàng đế La Mã đầu tiên và thời đại Cộng hòa La Mã cũng chấm dứt từ đây. II.2. Thời kì Quân chủ 1. Thời kì Nguyên thủ Triều đại của Augustus kéo dài hơn 40 năm (27 TCN-14), ông thường được xem là vị Hoàng đế vĩ đại nhất của đế quốc La Mã và đã tạo nên một nền tảng tư tưởng lâu dài cho ba thế kỷ tiếp theo của đế quốc và được gọi là thời kì "Nguyên Thủ" (27 TCN-284), 200 năm đầu tiên trong số đó theo truyền thống được coi là thời kì Thái bình La Mã (“Pax Romana”). Trong thời gian này, sự gắn kết bên trong đế quốc được đẩy mạnh nhờ Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 7
  8. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) việc góp phần vào đời sống người dân, các quan hệ kinh tế, và sự chia sẻ chuẩn mực văn hóa, luật pháp và tôn giáo. Các cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh thì không thường xuyên nổ ra, nhưng chúng lại bị dập tắt một cách "không thương tiếc và nhanh chóng" khi xảy ra, giống như ở Britain và Gaul. Các cuộc chiến tranh Do Thái-La Mã nổ ra liên tục trong suốt 60 năm là một ngoại lệ về cả mặt thời gian và sự ác liệt của chúng. Triều đại Julio-Claudius sau đó còn có thêm bốn vị Hoàng đế-Tiberius, Caligula, Claudius, và Nero trước khi nó kết thúc vào năm 69. Tiếp theo đó là những cuộc nội chiến trong suốt "Năm tứ đế", và từ đó Vespasianus nổi lên với tư cách là người chiến thắng. Vespasianus đã trở thành người sáng lập của triều đại Flavius chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, trước khi nó được kế tục bởi triều đại Nerva-Antoninus mà tạo nên cái gọi là "Ngũ Hiền Đế": Nerva, Traianus, Hadrianus, Antoninus Pius và vị Hoàng đế triết gia Marcus Aurelius. Năm 212, dưới thời trị vì của Caracalla, triều đại Severus là một triều đại hỗn loạn và các vị Hoàng đế của triều đại này thường xuyên bị sát hại hoặc bị hành quyết. Như vậy, ta có thể thấy từ sau Hoàng đế Nero, ở La Mã đã thay đổi đến mấy vương triều, tình hình nói chung thường không ổn định, việc phế lập các Hoàng đế là nằm trong tay quân đội. "Cuộc khủng hoảng của thế kỷ III" là cái tên để chỉ sự vỡ vụn và gần như sụp đổ của đế quốc La Mã từ năm 235 đến năm 284. Nó cũng được gọi là "sự vô Chính phủ do quân đội". Sau khi Augustus kết thúc nội chiến (thế kỷ thứ I TCN), đế quốc La Mã đã trải qua một thời đại hòa bình, ít bị ngoại xâm và kinh tế phồn thịnh (“Pax Romana”). Tuy nhiên, tới thế kỷ III thì đế quốc phải trải qua những cuộc khủng hoảng chính trị, quân sự, kinh tế và bắt đầu suy sụp. Lúc nào cũng có những cuộc xâm lăng của man tộc, nội chiến và lạm phát. Cuộc khủng hoảng kết thúc bởi Hoàng đế Diocletian. Bằng cả tài năng lẫn vận may, ông đã giải quyết được nhiều vấn đề cấp bách. Thế nhưng, vấn đề cốt lõi của La Mã vẫn còn đó và cuối cùng đã gây nên sự tận diệt của đế chế ở phía Tây. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 8
  9. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) 2. Thời kì Vương chủ Năm 284, Dioccletian lên ngôi Hoàng đế (284–305). Ông đã bỏ danh hiệu Nguyên thủ, tự xưng là Vương chủ. Từ đó Hoàng đế La Mã trở thành người có quyền uy tuyệt đối như các Vua phương Đông. Hoàng đế Diocletianus sau đó đã ổn định tình hình đế quốc và thiết lập hệ thống phân chia quyền lực giữa bốn vị đồng Hoàng đế (gọi là Tứ đầu chế). Sau thời ông tình hình đế quốc lại trở nên bất ổn, nhưng trật tự sau đó lại được Constantinus I-vị Hoàng đế đầu tiên theo Ki-tô giáo và là người thành lập tân đô của đế quốc ở phía Đông là Constantinopolis lập lại. Trong các thập kỷ sau đế quốc thường được phân chia theo một trục Đông-Tây (Constantinopolis/Roma). Theodosius I là hoàng đế cuối cùng trị vì cả Đông lẫn Tây, năm 395, Hoàng đế Theodosius đã chia đế quốc La Mã thành hai phần giao cho hai người con cai quản. Từ đây hình thành hai đế quốc La Mã hoạt động độc lập về mặt chính trị với các vị hoàng đế khác nhau là đế quốc Tây La Mã và đế quốc Đông La Mã. Năm 476, một viên tướng người German là Odoacer nổi dậy làm chính biến lật đổ hoàng đế cuối cùng của Tây La Mã là Romulus Augustus. Đế quốc Tây La Mã diệt vong ở đây. Sau khi Tây La Mã diệt vong vào thế kỷ thứ V, đế quốc Đông La Mã (thường gọi là Đế chế Byzantine), vốn giàu có hơn, đã tồn tại và phục hồi được sức mạnh của mình. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc chiến tranh, lãnh thổ của đế quốc bị thu hẹp dần và cuối cùng đã sụp đổ vào năm 1453 khi Mehmed II của đế quốc Ottoman chinh phục thành Constantinople. III. Tình hình kinh tế Đế quốc La Mã có lẽ được đánh giá tốt nhất ở việc có một mạng lưới các nền kinh tế khu vực, dựa trên một hình thức của "chủ nghĩa tư bản chính trị" trong đó nhà nước giám sát và quy định các hoạt động thương mại để đảm bảo nguồn thu của nó. Tăng trưởng kinh tế của đế quốc mặc dù không thể so sánh với các nền kinh tế hiện đại, nhưng nó đã lớn hơn so với hầu hết các xã hội khác trước khi tiến hành công nghiệp hóa. Nền nông nghiệp và thương mại đã chi phối kinh tế của đế quốc La Mã từ rất sớm, ngoài ra còn có sản xuất công nghiệp quy mô nhỏ và vừa của tư nhân, quy mô lớn của nhà nước. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 9
  10. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Về nông nghiệp, trong các Latiphundia, việc chuyên môn hóa cây trồng ddwuwocj xúc tiến mạnh mẽ. Nho và ôliu vẫn tiếp tục giữ vai trò hàng đầu trong các loại cây trồng ở đế quốc La Mã. Dầu ô liu và rượu vang là những sản phẩm quan trọng nhất trong thế giới văn minh cổ đại và là mặt hàng xuất khẩu của Italy. Từ những năm cuối thế kỉ II-đầu thế kỉ III, một hiện tượng mới trong sản xuất nông nghiệp đã xuất hiện, dù chưa phải là phổ biến: đó là một số ít Latiphundia, trước đây vẫn trồng nho, ôliu đã bắt đầu chuyển sang trồng cây lương thực, thậm chí một số chủ nô cũng đã chia nhỏ điền trang rộng lớn của mình thành những mảnh đất nhỏ, cùng với công cụ sản xuất, giao cho nô lệ tự sản xuất. Những mầm mống đầu tiên của một phương thức canh tác mới trong nông nghiệp đã xuất hiện, tạo những tiền đề cho chế độ lệ nông ở giai đoạn sau hình thành, phát triển. Thời kì này, thủ công nghiệp và thương nghiệp ở đế quốc La Mã đã có những phát triển, trước hết phải kể đến những tiến bộ về mặt kĩ thuật trong sản xuất thủ công nghiệp. Đó là những tiến bộ trong kĩ thuật chế tác kim khí, sự phát minh ra cối xay nước, những cải tiến trong kĩ thuật chế tạo công cụ sản xuất. Sự phân công chuyên môn hóa trong sản xuất thủ công trở nên khá phổ biến trên toàn đế quốc, nhất là ở Bắc Italia và Campanie; đồ gốm vẽ hoa ở Acrotium; đèn thắp ở Mituna Những sản phẩm thủ công, nhất là hàng thủ công xa xỉ phục vụ lối sống vương giả, được hết sức chú trọng, một số nghề thủ công phức tạp, đòi hỏi trình độ tinh xảo, khéo léo được hình thành (ví dụ nghề sản xuất mắt giả cho tượng, sản xuất dụng cụ mổ xẻ ). Ngoài những hướng sản xuất thủ công quy mô nhỏ và vừa của tư nhân, còn có những xưởng thủ công quy mô lớn của nhà nước chuyên khai thác kim loại, đá quý, sản xuất đồ gốm cao cấp Ví dụ Hy Lạp và phía bắc Italy cung cấp đá cẩm thạch; số lượng lớn vàng bạc được khai thác ở Tây Ban Nha để tạo ra tiền xu, đồ trang sức; trong khi các mỏ ở Anh sản xuất sắt, chì và thiếc cho vũ khí. Theo đà phát triển của thủ công nghiệp, thương nghiệp và mậu dịch hàng hải cũng rất phát đạt. Đế quốc La Mã có quan hệ buôn bán rộng rãi với Ả Rập, Ấn Độ, Trung Hoa. Thuyền buồm Roma ngược dòng Danube, sông Rhin, Vistule đến tận cùng vùng Baltique và bán đảo Scandinave. Trên mặt biển Địa Trung Hải, thuyền bè Roma đi lại nhộn nhịp. Những sản phẩm thủ công truyền thống của Roma hầu như có mặt ở khắp Italia, khắp các tỉnh của đế quốc và sang tận các nước phương Đông, Bắc Âu, biển Bantique Ngược lại, những sản phẩm của phương Đông (hương liệu, gia vị, tơ lụa, đá quý) cũng thường Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 10
  11. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) xuyên được các lái buôn Roma chuyển về khu vực Địa Trung Hải. Bên cạnh các thành phố, nhiều thành thị với tư cách là những trung tâm thương mại được xây dựng, như Longdinium (London ngày nay), Lucdunum (Lyon), Vindobora (Vienne) IV. Tình hình xã hội Ngay từ cuối thế kỉ II, chế độ nô lệ ở La Mã đã có những dấu hiệu khủng khoảng mà về sau ngày càng trầm trọng. Nguồn cung cấp nô lệ không còn phong phú như trước nữa, vì nguồn nô lệ chủ yếu là tù binh mà từ đây các cuộc đấu tranh chinh phục ít dần. Chất lượng nô lệ cũng giảm sút, vì số tù binh bắt được trong thời kì này chủ yếu là người các tộc đang sống trong xã hội nguyên thủy. Họ kém xa các tù binh bắt được ở phương Đông về kiến thức và kĩ thuật. Hơn nữa do bị đối xử tàn tệ nên nô lệ thường chây lười trong công việc, cố tình phá hoại công cụ, lãng phí khi thu hoạch. Ngoài ra còn có một số nô lệ còn chống lại chủ, thậm chí giết chủ. Như vậy, việc bóc lột nô lệ theo phương thức cũ đã tỏ ra kém hiệu quả về kinh tế và không an toàn đối với chủ, vì vậy giai cấp chủ nô phải thay đổi thái độ đối xử đối vơi nô lệ, đồng thời phải thay đổi phương thức bóc lột nô lệ. Bắt đầu từ thế kỉ thứ I, cùng với sự khủng khoảng của quan lại nô lệ, một tầng lớp xã hội mới đã ra đời, đó là tầng lớp lệ nông. Đầu tiên một số địa chủ chủ nô đem ruộng đất của mình chia thành những phần nhỏ rồi phát canh cho các đối tượng như nông dân phá sản, dân thành thị chuyển về nông thôn, cư dân các man tộc mới vào La Mã, nô lệ được giải phóng. Họ đều được gọi chung là lệ nông. Lúc đầu lệ nông là người tự do, có một số vẫn có quyền công dân, thân phận của họ không phải suốt đời và tất nhiên không phải cha truyền con nối. Họ chỉ có một nghĩa vụ là phải nộp địa tô cho chủ ruộng đất bằng tiền hoặc bằng sản phẩm. Mức thu địa tô lúc đầu bằng 1/3 thu hoạch. Do quan hệ lệ nông tỏ ra phù hợp với việc phát triển sản xuất ở trong các điền trang nên dần dần các chủ nô thường đem ruộng đất chia cho nô lệ của mình cày cấy và bắt họ phải nộp cho mình một phần thu hoạch, do đó những người nô lệ này cũng biến thành lệ nông. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 11
  12. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Về sau, cùng với sự phát triển của chế độ lệ nông, địa vị của lệ nông ngày càng thấp kém, thân phận của lệ nông phải cha truyền con nối và bị gắn chặt vào ruộng đất. Mức địa tô phải nộp cao hơn trước kia nhiều. Họ không còn là những người có quyền tự do hoàn toàn nữa, do đó không được kết hôn với những phụ nữ có địa vị tự do. Do đó, lệ nông chính là tiền thân của nông nô thời trung đại. B. Quá trình suy yếu và sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) I. Những khủng hoảng trong thế kỉ thứ III sau công nguyên và sự hưng thịnh của đạo Cơ Đốc I.1. Những khủng hoảng trong thế kỉ thứ III sau công nguyên Từ thế kỉ thứ II đến thế kỉ thứ III sau công nguyên, về các mặt kinh tế, chính trị trong xã hội La Mã đã bùng nổ những nguy cơ một cách toàn diện, lịch sử gọi đó là Cuộc khủng hoảng trong thế kỉ thứ III. Khủng hoảng của chế độ nô lệ La Mã ngay từ thế kỉ II đã bắt đầu bộc lộ tại Italia. Đến thế kỉ III, những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội nô lệ ngày càng gay gắt, cuối cùng dẫn tới tình trạng nông nghiệp bị trì trệ, thương nghiệp suy sụp, thành phố tiêu điều, tài chính cạn kiệt, chính trị rối loạn, những cuộc khởi nghĩa của nô lệ diễn ra liên tục khiến xã hội La Mã lầm vào hoàn cảnh chao đảo dữ dội. Mối quan hệ sản xuất trong chế độ nô lệ đã trở thành gông cùm đối với sự phát triển sản xuất. Trong những thời kì trước, sức sản xuất của La Mã vốn đang phát triển, nhưng vì sự lao động của nô lệ là lao động cưỡng bách nên càng ngày họ không những thiếu phần tích cực trong lao động, mà còn chống đối qua nhiều hình thức như phá hoại công cụ sản xuất, bỏ trốn, thậm chí khởi nghĩa vũ trang. Trước tình trạng đó, hiệu quả trong lao động sản xuất ngày càng xuống dốc, khiến việc sử dụng nô lệ càng ngày càng khó có lãi. Mặt khác, cơ cấu thống trị của giai cấp chủ nô đã hủ hóa đến mức trầm trọng, sự ăn bám của họ ngày càng nặng nề. Trong khi đó, tốc độ phân hóa giàu nghèo ngày càng nhanh, nhân số người vô sản lưu manh ngày càng nhiều. Trong thế kỉ I, thành phần vô sản lưu manh ở La Mã có từ 20-30 vạn, đến thế kỉ III-IV đã tăng lên đến 80 vạn. Bộ máy quốc gia La Mã duy trì những cơ cấu to lớn, cần đến nhiều kinh phí. Những kinh phí đó dùng để trấn áp bên trong, dụng binh với bên ngoài, cung cấp cho những cuộc tranh giành Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 12
  13. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) quyền lực giữa các tập đoàn thống trị và còn được dùng vào việc tổ chức vui chơi giải trí trong mùa lễ hội. Trong thời đại đế quốc, do muốn khoe khoang sự giàu có của mình, thỏa mãn nhu cầu hưởng thủ của giai cấp chủ nô, lễ hội hàng năm mỗi lúc được đặt ra nhiều thêm. Trong thế kỉ I, trong cả năm La Mã có 66 ngày lễ hội, đến thế kỉ II tăng lên 123 ngày, đến thế kỉ IV tăng lên 175 ngày. Khi họ thiếu hụt về tài chính lại cho đánh thuế bổ sung vào. Người lao động không chịu nổi mức thuế nặng nề do giới thống trị đặt ra, tất nhiên đối với kinh tế xã hội họ có những hành vi phá hoại. Qua đó, trong mối quan hệ sản xuất của chế độ nô lệ, cũng như trong thượng tầng kiến trúc của chế độ này, những mối mâu thuẫn ngày càng gay gắt hơn và cuối cùng đi đến khủng hoảng toàn diện. 1. Sự khủng hoảng của chế độ nô lệ Nông trang theo chế độ nô lệ ở Italia đã khá phổ biến vào cuối thời kì Cộng hòa, đến đầu thời kì đế quốc vẫn tiếp tục được lưu hành vì các quý tộc nguyên lão vẫn tiếp tục đầu tư lớn vào nông nghiệp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ cuối thế kỉ II, chế độ nô lệ ở La Mã đã có những dấu hiệu khủng khoảng. Sang thế kỉ thứ III, sự khủng hoảng ấy càng tỏ ra nghiêm trọng, sâu sắc hơn. Số lượng nô lệ ngày càng giảm sút, một mặt nguồn cung cấp nô lệ chủ yếu là nô lệ tù binh ngày càng giả đi vì những cuộc chiến tranh xâm lược mở rộng cương vực không diễn ra ồ ạt như giai đoạn trước, biên giới của đế quốc đã vươn khá xa và dường như đã vượt quá khả năng cai quản của đế quốc La Mã, mặt khác sự bóc lột vô cùng tàn khốc của phương thức sản xuất chiếm nô đã làm mất khả năng lao động với một số khá đông nô lệ, tình trạng thiếu lực lượng sản xuất đã xảy ra đối với nền kinh tế toàn diện của đế quốc La Mã. Chất lượng và khả năng lao động của nô lệ cũng giảm sút nghiêm trọng. Phương thức sản xuất chiếm nô không thể làm cho kĩ thuật canh tác tiến bộ lên, công cụ sản xuất vẫn thô kệch nặng nề (để nô lệ đỡ phá hỏng). Những phát minh cải tiến trong kĩ thuật sản xuất hầu như không được áp dụng. Bị bóc lột tàn tệ và bị cưỡng bức lao động, nô lệ đã tìm mọi cách phá hoại nền kinh tế chủ nô (làm hỏng công cụ sản xuất, làm ẩu, trốn tránh lao động, lãng phí khi gieo trồng cũng như khi thu hoạch ). Do vậy năng suất lao động và hiệu quả lao động ngày càng giảm sút theo thời gian. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 13
  14. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Mặc dù không có những cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn của nô lệ như khởi nghĩa Spartacus, nhưng sự phản kháng của nô lệ vẫn thường xuyên xảy ra lúc ngấm ngầm, lúc công khai đã làm cho tầng lớp chủ nô gặp nhiều khó khăn và góp phần làm suy giảm khả năng của chế độ nô lệ trong giai đoạn này. Vào thế kỉ thứ I sau Công nguyên, một nhà nông học người La Mã là Columella đã qui tội cho sự suy sụp nông nghiệp là do sự lao động của nô lệ . Ông nói: “Đem ruộng đất giao cho nô lệ canh tác là điều không thích nghi nhất. Việc làm đó cũng giống như giao ruộng đất cho đao phủ để hành hình” (theo sách Luận nông nghiệp của Columella). Sự khủng hoảng ngày một trầm trọng của chế độ nô lệ đã đặt giai cấp chủ nô Roma đến trước một thực tế: Muốn tiếp tục tồn tại và phát triển, phải có sự nhìn nhận mới về chế độ nô lệ, trước mắt phải thay đổi cách đối xử và hình thức bóc lột. Đây là một công việc rất mới và rất khó đối với qusy tộc chủ nô (vốn rất bảo thủ), do đó, việc giải quyết tình trạng khủng hoảng của chế độ nô lệ ở Roma đã diễn ra nhưng hết sức chậm chạp, không đồng đều, thậm chí còn tạo nên những bất đồng trong nội bộ giới quý tộc chủ nô. Các Hoàng đế La Mã đã cố gắng duy trì và phục hưng chế độ nô lệ. Hoàng đế Claudius đã ban hành luật pháp cấm bắt nô lệ ốm đau lao động nặng, cấm giết chết những nô lệ đau yếu. Nero đã cấm đưa nô lệ ra đấu với dã thú. Antonius ra sắc lệnh nếu không có lí do chính đáng, chủ nô không được giết chết nô lệ của mình Những cố gắng của giai cấp chủ nô trong chừng mực nào đó đã góp phần vào việc cứu vãn sự sụp đổ của chế độ nô lệ. Bô phận quý tộc chủ nô ruộng đất đã tìm thấy lối thoát có hiệu quả hơn. Họ chia xẻ các Latiphundia rộng lớn kia thành những mảnh ruộng nhỏ rồi giao cho nô lệ cày cấy, thu hoạch, nộp cho chủ nô và được giữ sản phẩm của mình. Lối kinh doanh này ngày càng tỏ ra có hiệu quả đã lôi kéo nhiều quý tộc khác thực hành phương pháp bóc lột kiểu mới này. Thân phận và đời sống nô lệ có phần được cải thiện. Về hình thức, chế độ nô lệ được phục hưng nhưng trong thực tế, phương thức bóc lột mới này càng phổ biến thì chế độ nô lệ càng tiến gần đến ngưỡng cửa diệt vong, nhường chỗ cho chế độ mới, chế độ lệ nông. 2. Sự khủng hoảng về kinh tế và sự ra đời, phát triển của chế độ lệ nông Từ giữa thế kỷ I trở đi, chế độ điền trang bắt đầu có những dấu hiệu khủng hoảng. Việc sử dụng sức lao động tập thể nô lệ đã trở nên không thích hợp, năng suất lao động ở các Latiphundia suy giảm. Hiện tượng quý tộc chủ nô xé nhỏ các Latiphundia thành Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 14
  15. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) nhiều mảnh, giao trực tiếp cho nô lệ hoặc những người không ruộng đất canh tác ngày càng trở nên phổ biến. Các Latiphundia rộng lớn xưa dần tan vỡ, nhường chỗ cho các điền ấp-Saltus. Nếu trước đây các Latiphundia chuyên canh trồng cây công nghiệp phục vụ cho kinh tế thủ công nghiệp và thương mại, thì bây giờ trong các Saltus người ta đã chuyển dần sang trồng cây lương thực. Việc tan rã của các Latiphundia không những thể hiện sự khủng hoảng suy vong của chế độ chiếm nô Roma, mà còn kéo theo hàng loạt những thay đổi trong phương thức canh tác, phương thức bóc lột và tính chất của nền kinh tế. Khủng hoảng về mặt kinh tế của chế độ nô lệ La Mã, trước tiên thể hiện ở chỗ tình hình nông nghiệp bị suy thoái. Nông nghiệp ở Italia ngay từ đầu thế kỉ thứ II đã dần xuống dốc. Các nhà vua trong vương triều Antonius vì muốn ngăn chặn sự sụp đổ ở Italia nên đã áp dụng nhiều biện pháp. Như đời vua Nerva đã lập quỹ cho vay lãi nhẹ, mua ruộng đất để cấp phát cho những cư dân không ruộng đất. Đời vua Traijan qui định đẳng cấp nguyên lão phải đầu tư 1/3 tài sản của mình vào nông nghiệp Nhưng, tất cả những biện pháp đó đều không thu được hiệu quả gì. Đến cuối thế kỉ thứ hai thì tình trạng nông nghiệp bị suy sụp càng rõ rệt hơn. Trong thời kì đế quốc, tại Italia và tại một số hành tỉnh được sử dụng rất nhiều lao động nô lệ trên cơ sở đại trang trại. Đến thế kỉ thứ III, các trang trại loại này thu vào không đủ chi ra. Nguyên nhân của hiện tượng này là: Thứ nhất, việc cưỡng bức nô lệ thường thu lợi nhuận rất ít, nhất là những cuộc đấu tranh chống đối của nô lệ càng khiến việc sản xuất theo chế độ nô lệ rất khó duy trì, thậm chí còn là nguy hiểm đối với bản thân người người chiếm hữu nô lệ. Thứ hai, từ thế kỉ thứ II trở về sau, đế quốc La Mã đối với các nước bên ngoài đã chuyển sang thế thủ. Nguồn cung cấp nô lệ do đó ít đi, giá bán nô lệ ngày một tăng cao. Thứ ba, thị trường tiêu thụ nông sản thu hẹp. Ở Italia, trước kia những nông sản như rượu nho, dầu oliu do các nô lệ ở các trang trại sản xuất ra, có thể bán sang Tây Ban Nha, Gallia, Bắc Phi và các vùng sông Rhine, sông Danube. Nhưng ngày nay những khu vực đó đang phát triển sản xuất, lại có những sản phẩm của Hy Lạp, Tiểu Á ở phía Đông cạnh tranh. Cho nên sản phẩm của Italia đã mất thị trường tiêu thụ. Hầu hết những trang trại chuyển sang trại chăn nuôi, nên việc sản xuất nông nghiệp ngày càng suy sụp. Quá trình này đến thế kỉ thứ III đã lan rộng đến một số địa phương như châu Phi, Gallia Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 15
  16. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Phương thức bóc lột cũng thay đổi, chủ nô đã không sử dụng sức lao động tập thể của nô lệ mà giao trực tiếp cho nô lệ những mảnh ruộng nhỏ cùng với công cụ lao động để nô lệ tự tiến hành nền tiểu sản xuất của họ, nộp sản phẩm cho chủ. Lối bóc lột mới này vừa có lợi cho chủ, vừa có lợi cho người sản xuất, kích thích hứng thú và khả năng lao động của họ, để tạo ra năng suất lao động cao. Thế là chế độ lệ nông xuất hiện như một thích ứng với kiểu bóc lột này đã càng làm cho chế độ nô lệ bước dần đến ngưỡng cửa của sự suy vong. “Lệ nông” chữ Latinh là Coloni, trước tiên có nghĩa là nông dân tự canh tác, tức đem sức lao động của mình và cũng dùng để chỉ những người di dân canh tác ở những vùng thực dân địa. Lệ nông đã tồn tại trong thời kì cuối của nước Cộng hòa La Mã. Chế độ lệ nông lúc mới đầu chỉ áp dụng ở những điền trang xa mà chủ nô không còn khả năng trực tiếp quản lý, sau đó dần phát triển và phổ biến khắp đế quốc. Chế độ lệ nông đã làm xuất hiện một lớp người mới trong xã hội Rôma. Đó là những người lệ nông. Khái niệm, thân phận và địa vị những người lệ nông cũng có những thay đổi theo thời gian. Trong đó thời kỳ đầu, lệ nông là những người tự do (có thể là nông dân không có ruộng đất, hoặc nô lệ được giải phóng), họ có quyền công dân, có thể đảm nhận các chức vụ tôn giáo hoặc là thành viên của các hội đồng địa phương. Mối quan hệ giữa chủ nô có tư liệu sản xuất và lệ nông đơn thuần chỉ là mối quan hệ về kinh tế, canh tác ruộng của chủ nô, lệ nông phải nộp tô (khoảng từ 1/3 đến 1/2 thu hoạch), ngoài ra, mỗi năm lệ nông phải làm việc không công trên những lô đất của chủ từ 6-12 ngày. Khi chế độ lệ nông thành phổ biến, khi chủ nô đem chia nhỏ Latiphundia rồi giao cho nô lệ của mình canh tác, khái niệm thân phận, địa vị lệ nông thay đổi. Trong thời kì đó, nguồn lệ nông được đáp ứng từ hai loại người, giống như trong thế kỉ thứ I và trong thế kỉ thứ II là nô lệ và những người nông dân nghèo. Đến thế kỉ thứ III thì nguồn lệ nông được tăng thêm từ các “man tộc” như người Germans, họ được Chính phủ La Mã đưa tới những vùng đất hoang để canh tác. Khi chế độ “bảo hộ” dần dần được lưu hành, thì nó là một con đường chuyển hóa mới đối với người nông dân nghèo và người lệ nông. Người nông dân nghèo do không chịu nổi gánh nặng thuế má, cũng như sự áp bức của quan viên, nhất là trong tình trạng xã hội xáo trộn, khó duy trì một đời sống kinh tế độc lập bắt buộc họ phải “hiến đất” cho đại địa chủ để yêu cầu được “bảo hộ”, rồi lại thuê đất từ tay địa chủ để canh tác rồi biến thành lệ nông. Ở các hành tỉnh như Gallia, châu Phi, Ai Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 16
  17. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Cập qua hình thức đó đã sản sinh ra rất đông lệ nông. Riêng việc người Germans di dân vào La Mã và được đưa đến những vùng đất hoang dưới dạng thực dân, đã bắt đầu từ đời vua Adrian và đến đời vua Marcus Aurelius càng tăng thêm nhiều hơn. Cuối thế kỉ thứ III thì con số này càng tăng cao hơn nữa. Những người Germans nói trên khi di trú đến những vùng đất trên, thì dần dần trở thành lệ nông. Từ thế kỷ III, lệ nông (dù có nguồn gốc xuất thân khác nhau) cũng đều là những người trực tiếp sản xuất và bị trói buộc vào ruộng đất của chủ, lệ thuộc vào chủ về thân phận và tư liệu sản xuất. Sang thế kỷ IV-V, địa vị của lệ nông lại càng sút kém. Năm 332, Hoàng đế Constannuco ban ra một sắc lệnh “Bất cứ người nào, chẳng những cần phải trả lệ nông bỏ trốn trở về nguyên chủ của họ, mà còn phải có trách nhiệm đóng thuế người của lệ nông trong thời gian ở đó”. Vì sắc lệnh này, thân phận lệ nông có tính chất thế tập, cha truyền con nối và hoàn toàn bị trói buộc vào ruộng đất. Năm 336, Hoàng đế La Mã xuống lệnh cho phép có thể bán lệ nông cùng một lúc với mảnh đất họ đang canh tác. Theo đó, trong trường hợp chủ nô bán ruộng đất thì những người lệ nông (và gia đình) đang canh tác trên các lô ruộng ấy sẽ bị bán kèm theo. Về mặt xã hội, họ không còn là người tự do có quyền tư hữu, có quyền công dân. Họ cũng không có quyền kết hôn với người tự do và hôn nhân giữa họ với nhau, họ cũng không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, khác hẳn nô lệ, lệ nông là những người được tự do tương đối trong sản xuất và được hưởng một phần thu hoạch. Như vậy, lệ nông không phải là người tự do, nhưng cũng không còn là nô lệ, họ là “tiền thân của nông nô thời trung đại”. Tất cả những điều đó đã nói lên thượng tầng kiến trúc của chế độ nô lệ đang ra sức ngăn chặn sự phát triển của chế độ lệ nông. Đồng thời, cố đè nén địa vị của người lệ nông xuống ngang hàng với địa vị người nô lệ. Do vậy, chỉ còn cách lật đổ chính quyền của chủ nô, mới có thể đưa chế độ lệ nông mới được phát triển thuận lợi. Việc xâm nhập của người Germans đã thúc đẩy cho quá trình này được tiến nhanh hơn. Cảnh ngộ của lệ nông, nô lệ và những người nông dân nghèo ngày càng xích lại gần nhau hơn. Từ đó tạo tiền đề cho một sự liên hợp khởi nghĩa giữa nô lệ và lệ nông. Sự suy sụp của ngành thủ công là có tương quan với sự suy sụp của nông nghiệp, về mặt này ở Italia nổi bật nhất. Cuối thời kì Cộng hòa, đầu thời kì đế quốc, các ngành thủ công ở Italia đều có sự phát triển, hình thành những ngành nghề làm đồ đồng xanh, đồ gốm, gạch ngói, làm đèn Ngoài ra còn có nghề dệt len, nghề ép dầu làm rượu Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 17
  18. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Những người lao động trong các nhành thủ công này, nô lệ và những người nô lệ được phóng thích chiếm từ 80-85% số còn lại là công nhân thuê mướn. Đến thế kỉ thứ III, do các ngành thủ công ở những địa phương như Gallia phát triển, nên ở Italia ngoài nghề dệt len tại Tesrentum, còn các ngành nghề khác như pha lê, đồ gốm, làm đèn, đúc kim loại đều sử dụng lao động nô lệ không có lãi. Nhất là ngoài thị trường các loại hàng hóa lại bị cạnh tranh nên cũng đã suy sụp. Sự suy sụp của nông nghiệp và các ngành thủ công kéo theo sự tiêu điều về mặt thương nghiệp ở thành thị. Trong khi đó, chính sách thuế má cũng như tiền tệ của Chính phủ đã khiến cho cảnh tượng tiêu điều nói trên càng bi đát hơn. Chính phủ do phải đáp ứng đầy đủ những chi tiêu của mình đã thông qua một chính sách đánh thuế nặng nề lên người dân. Công xã thành thị chịu trách nhiệm thu thuế và phụ trách những nghĩa vụ khác. Trái lại, sau khi nền kinh tế xuất hiện khủng hoảng, tài chính khó khăn, nguồn thu thuế ngày càng ít, nên thành thị cũng khó hoàn thành việc nộp thuế hàng năm. Chính phủ vì muốn đảm bảo được mức thuế bình thường, nên đã xuống lệnh cho các nghị viên ở các thành thị phải nộp tiền thuế. Các nghị viên ở thành thị không đủ tiền để nộp, đành phải bán đất đai, phóng thích nô lệ để họ trở thành người lệ nông tự canh tác trên miếng đất nhỏ. Thậm chí, có nhiều nghị viên ở các thành phố do không nộp nổi thuế phải bỏ trốn đi nơi khác, sống một cuộc sống lưu vong. Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành một loại tiền tệ kém chất lượng để lấy đó làm biện pháp giải cứu cho sự khủng hoảng tài chính. Đầu thế kỉ thứ III, tiền tệ bằng vàng đã giảm chất lượng xuống còn 17%, tiền tệ bằng bạc giảm chất lượng xuống 15%. Về sau những đồng tiền này chỉ còn chất lượng 5% so với trước kia. Như vậy, Chính phủ đã tạo ra một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Vì một mặt số tiền tệ cũ bị người ta cất giấu, khiến không đủ tiền tệ lưu thông, trong khi tiền tệ mới thì không ai muốn nhận. Một khi xảy ra khủng hoảng về mặt lưu thông tiền tệ, tất nhiên dẫn tới tình trạng mọi người dùng hàng hóa để trao đổi, thậm chí lương bổng của các quan viên cũng phải phát bằng hiện vật. Đi đôi với tình hình này, những người giàu có cất giấu vàng bạc, vật tư khiến giá cả hàng hóa ngoài thị trường tăng vọt. Chính vì thế nền kinh tế ngày một lụn bại hơn. Mặt khác, do tiền tệ mất giá trị, vật giá tăng cao khiến việc thu thuế không thể đáp ứng đủ. Do vậy Chính phủ lại tăng thuế, phát hành những đồng tiền kém chất lượng. Với vòng luẩn quẩn đó, làm cho thương nghiệp càng tiêu điều, thành thị càng suy sụp, xã hội càng hỗn loạn, ngoại tộc thừa cơ đua nhau xâm nhập. Cướp biển hoành hành mạnh hơn khiến cho những con đường giao thông trên mặt biển bị ách tắc, từ đó gây nhiều khó khăn hơn cho Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 18
  19. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) cư dân ở thành thị và nông thôn. Đồng thời, khuynh hướng tự cấp trong nông nghiệp, kết hợp với sự suy sụp của thành thị, cũng đã thúc đẩy cho nhau càng trở nên bi đát hơn. 3. Sự khủng hoảng về chính trị Những khủng hoảng về kinh tế vào thế kỉ thứ III cũng đã phản ánh đầy đủ trên các mặt chính trị và quân sự. Sự phá sản về kinh tế thường đi đôi với những biến động về chính trị. Ngay từ cuối vường triều Antonius (96-192), sự khủng hoảng về chính trị của đế quốc La Mã đã bộc lộ rõ nét. Đầu thế kỉ III, sự phân hóa và tranh chấp trong nội bộ giai cấp chủ nô càng quyết liệt hơn. Nội bộ của tập đoàn thống trị liên tục tranh giành và đánh nhau không lúc nào ngưng nghỉ. Sau khi nhà vua cuối cùng của vương triều Antonius là Commodius bị giết chết, chỉ trong vòng sáu tháng, quân cận vệ đã đưa lên hai vị Hoàng đế. Bọn quý tộc địa phương và ở các tỉnh thuộc đế quốc cũng nổi dậy xưng hùng xưng bá với khuynh hướng tách dần khỏi sự lệ thuộc vào Roma. Trong nội bộ La Mã bùng nổ một cuốc chiến tranh đoạt ngôi vị Hoàng đế kéo dài suốt bốn năm (193-197). Về sau. Vị Tổng đốc Pannonia là Severus đã xây dựng vương triều Severus (193-235). Severus là người dựa vào quân đội để lên ngôi vua, tất nhiên ông ta phải khao thưởng binh sĩ và nuôi dưỡng lực lượng quân đội là điều quan trọng nhất. Ông ta đã nâng lương cho quân đội, trọng dụng kị sĩ và tổ chức lại quân cận vệ riêng, ưu đãi binh sĩ, sử dụng quân nhân giữ các chức vụ hành chính. Đồng thời, tăng cường tập quyền về Trung ương, bổ nhiệm những người xuất thân kỵ sĩ thay thế cho tầng lớp nguyên lão giữ chức Tổng đốc các hành tỉnh, thực hiện chính sách kết hợp quân đội với quan liêu. Mặt khác, ông còn tiếp tục sử dụng vũ lực để mở mang bờ cõi, ở phương Đông, tấn công Parthia, ở phương Tây tiến quân vào Anh. Kết cục, ông đã bị giết chết trong một cuộc chiến tranh với các bộ lạc thổ dân. Sau khi con trai của Severus là Caracalla, ngoài việc tăng lương cho binh sĩ, mua chuộc quân đội, năm 212 ông còn ban bố một sắc lệnh cấp quyền công dân La Mã cho tất cả những người dân tự do trong đế quốc. Sắc lệnh này có tên là “Sắc lệnh Caracalla”. Mục đích của sắc lệnh này vừa làm dịu lại mâu thuẫn trong xã hội, vừa mở rộng nguồn thu thuế, sau khi được ban quyền công dân thì phải có trách nhiệm đóng thuế. Tuy nhiên cũng không đem lại hiệu quả gì. Năm 217, ông bị quân cận vệ giết chết. Đền đời vua cuối cùng của vương triều Severus là Alexander Severus (222-235), mọi việc triều chính đều do mẫu hậu nắm giữ, các quý tộc nguyên lão được nhiều ưu thế. Các nguyên lão tổ chức Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 19
  20. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) một ủy ban đặc biệt để thi hành những biện pháp cứu vãn tình thế: hạ thấp mức thuế, mức chi tiêu, cho phép những công dân tự do trên 20 tuổi được quyền bán mình làm nô lệ Những biện pháp trên không những không thể thi hành được lúc bấy giờ, mà còn bị quân đội chống đối kịch liệt, do đó cũng không đem lại lợi ích gì. La Mã vẫn tiếp tục hỗn loạn và alexander severus đã bị giết chết trong cuộc nổi loạn của binh sĩ (235). Trong vòng 15 năm sau đó, những vụ mưu sát, chính biến thường xuyên xảy ra, La Mã đã thay đổi 10 đời Hoàng đế. Từ năm 253 đến năm 268, La Mã tiến vào thời kì “30 tiếm chủ”. Các quân đoàn cũng như các hành tỉnh đều lập Hoàng đế riêng, tàn sát lẫn nhau, khiến tình hình chính trị càng thêm rối loạn. Trong thời kì này, vùng Gallia đã xuất hiện một “đế quốc Gallia”, ở Syria, Ai Cập cũng từng li khai. Chính quyền của Chính phủ Trung ương thật ra đã hoàn toàn tê liệt. 4. Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân và những cuộc xâm nhập của người “man tộc” a) Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Khủng hoảng và nội chiến đã làm cho người nô lệ cũng như bao nhiêu người lao động khác lâm vào cảnh khốn khổ triền miên. Chính vì vậy mà nô lệ, lệ nông và nhiều giai tầng khác trong nhân dân đã nổi lên khởi nghĩa nhiều lần. Những cuộc khởi nghĩa gần như bùng nổ khắp đất nước La Mã. Vào đầu thế kỉ thứ III, trong thời kì vương triều Severus thống trị, có một người bị bọn chủ nô gọi là “ăn cướp”, tên Bura, chỉ huy một đội ngũ hơn 600 người xông xáo khắp đất Italia, giết chết người giàu, cướp của cứu tế cho người nghèo. Thành phần đội ngũ của Bura rất phức tạp, trong đó có đào binh, những quan lại thất chí, nhưng chủ yếu là nô lệ và lệ nông bỏ trốn. Mục tiêu đấu tranh của họ nhắm thẳng vào giai cấp chủ nô, quan lại, binh lính nên được dân nghèo đồng tình, che giấu, cuộc đấu tranh kéo dài được hai năm. Năm 273, “công nhân đúc tiền” (gồm công nhân và nô lệ quốc gia) ở thành La Mã phát động một cuộc khởi nghĩa, được dân nghèo thành thị hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa đã làm quân đội La Mã tổn thất 7.000 người. Tại Sicily, năm 263, bùng nổ một cuộc khởi nghĩa của nô lệ (có thể đây là cuộc khởi nghĩa thứ ba của nô lệ ở Sicily), có quy mô lớn cũng giống như “chiến tranh nô lệ” trước kia. Tại Bắc Phi, năm 238, khi thế lực địa phương tại tỉnh Kfrica tự lập nguyên thủ của mình để chống lại Hoàng đế Maximinus của La Mã, thì một cuộc khởi nghĩa của nô lệ và lệ nông bùng nổ. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 20
  21. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Trong thời kì “30 tiếm chủ”, tại Bắc Phi cũng đã xảy ra một cuộc khởi nghĩa nô lệ. Cuộc khởi nghĩa này đã liên minh với người Moors và đã chiếm đóng rất nhiều vùng ở Mauritania và Numidia. Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa này là triệt hạ quý tộc địa chủ và những người thống trị La Mã. Ở Tiểu Á, người Isauria bị người La Mã gọi là “ăn cướp” đã tập kích những khu vực xung quanh Tiểu Á. Tại Ai Cập, ngay từ giữa thế kỉ thứ II đã bùng nổ cuộc khởi nghĩa của người du mục kéo dài vẫn chưa dập tắt được. Những cuộc khởi nghĩa tập trung tại vùng tam giác sông Nile để chống lại những cuộc đàn áp. Nô lệ và lệ nông quanh vùng đưa nhau tới gia nhập. Nhưng, cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất và thời gian lâu nhất phải kể đến là phong trào Bagaudae. Đội ngũ của Bagaudae chủ yếu gồm nô lệ và lệ nông. Năm 269, khởi nghĩa Bagaudae bùng nổ. Chẳng bao lâu sau, những ngươi khởi nghĩa đã bao vây ngôi thành của người Gallia. Ngôi thành này trước kia đã kí kết điều ước liên minh anh em với thành La Mã. Do vậy, người trong thành bèn phái sứ giả đến cầu viện La Mã, nhưng vì Hoàng đế La Mã đang đánh nhau với người Goth, không thể tiếp viện được. Sau bảy tháng bao vây, quân khởi nghĩa Bagaudae đã hạ được thành, giết chết một số quý tộc chủ nô, tước đoạt tài sản của họ. Cuộc khởi nghĩa duy trì được hơn ba năm, sau bị Hoàng đế La Mã trấn áp trong những năm 270-275. Nhưng phong trào Bagaudae vẫn chưa bị tiêu diệt. Năm 283 họ lại mở ra những cuộc đấu tranh đại quy mô hơn. Lần đấu tranh này họ dựa vào thành phố trước kia làm trung tâm và dùng nông dân làm bộ binh, dùng người du mục làm kỵ binh để xông pha ra trận, giết chết phú hào, thiêu hủy trang trại, chia đất, chia tài sản đã chiếm được. Họ cử ra hai người thủ lính để làm Hoàng đế và tự đúc tiền. Năm 268, Hoàng đế La Mã là Diocletianus phái một người cùng nắm quyền thống trị là Maximian đưa quân tới Gallia để trấn áp. Quân đội của Maximian bị quân khởi nghĩa phân tán đánh bại nhiều trận, do đó không dám tiến công đánh quân khởi nghĩa nữa. Về sau, Maximian phải dùng kỉ luật, đội quân nào bỏ chạy thì cứ mười một người sẽ rút ra chém một người, khiến binh sĩ của ông ta sợ hãi, phải liều chết đánh nhau với quân khởi nghĩa. Lúc đó, họ mới trấn áp được cuộc khởi nghĩa của Bagaudae. Nhưng sau đó, một số lực lượng tàn dư của Bagaudae vẫn tiếp tục hoạt động. Mãi đến cuối thế kỉ V mới hoàn toàn tan rã, kéo dài cuộc chiến đến hơn 200 năm. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 21
  22. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) b) Những cuộc xâm nhập của người “man tộc” Ở ngoài cương giới của đế quốc La Mã có các bộ lạc người Celt, người Germans và người Slavo cư trú. Đến trước thế kỉ thứ V, họ vẫn đang sống trong xã hội nguyên thủy nên người Roma gọi họ là “man tộc”. Trong các tộc ấy, người Celt vốn sinh sống trên một địa bàn rất rộng bao gồm các xứ Britain (nước Anh), Bắc Italia, Gaul (Pháp) và Tây Ban Nha, nhưng từ sớm họ đã bị Roma chinh phục và đã đồng hoá với người Roma ở đó. Người Germans thì sống rải rác trên một vùng đất đai rộng lớn từ sông Rhine (ở phía Tây) đến tận sông Vixtuyn (ở phía Đông), từ Danube (ở phía Nam) đến biển Baltic (ở phía Bắc). Còn người Slavo thì ở phía Đông khu vực đó. Trong số những người “man tộc” sống ở phía Bắc đế quốc La Mã, người Germans đóng vai trò quan trọng đối với sự diệt vong của đế quốc Tây bộ La Mã. Người Germans là một trong những bộ tộc lớn thuộc chủng tộc Arian đến sinh sống ở vùng biên giới phía Bắc và Đông Bắc của đế quốc La Mã từ nhiều thế kỉ trước Công nguyên. Người Germans bao gồm các bộ lạc Goth (Tây Goth và Đông Goth), các bộ lạc Vandal, Francs, Anglo Saxon, Burgondes Vào những thế kỉ đầu Công nguyên, chế độ công xã nguyên thủy của người Germans trong quá trình tan rã. Do sự phát triển kinh tế và gia tăng dân số nhanh chóng, người Germans có nhu cầu mở thêm đất đai để sinh sống. Đến cuối thế kỷ thứ II, tính chất và mức độ của mối đe dọa mà La Mã phải đối mặt xuất phát từ phía bên kia đường biên giới phía Tây đã thay đổi chóng vánh. Các bộ lạc liên minh với nhau, dưới sự chỉ huy chiến binh lãnh đạo và sở hữu những quân đội tinh nhuệ. Họ vẫn thường xuyên tấn công và cướp phá các khu định cư của người La Mã bên phía biên giới của mình. Các cuộc tấn công như vậy đôi khi dẫn đến đòn giáng trả khốc liệt của La Mã. Mùa đông năm 166, hai bộ lạc Germans là Langobardi và Ubii đã đột kích tỉnh Pannonia của La Mã (thuộc Hungary ngày nay ở phía nam sông Danube). Một năm sau, hai bộ lạc hùng mạnh khác là Marcomanni và Victuali yêu cầu vượt sông Danube đến định cư bên trong đế quốc. Sở dĩ họ làm như vậy là do chịu sức ép từ các bộ lạc cách xa biên giới muốn tìm cách chiếm đóng khu vực này. Rome đã phản ứng chậm chạp. Hoàng đế Marcus Aurelius (161-180) đang có chiến tranh với đế quốc Pathia và phải tập trung lực lượng cho cuộc chiến đó. Các cuộc chiến của bộ lạc Marcomanni không chỉ đơn Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 22
  23. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) thuần là những cuộc đột kích biên giới. Các bộ lạc Germans đã cướp phá một số thành phố và gây thiệt hại ở khắp nơi. Khi chiến sự đang diễn ra thì một số bộ lạc tìm cách di cư ồ ạt. Đến thế kỉ III, do nội bộ của La Mã bị khủng hoảng và luôn chao đảo, nên đối với việc phòng thủ ở bên ngoài bị suy giảm hơn trước rất nhiều. Các bộ lạc Germans lúc này đã kết thành nhiều liên minh bộ lạc như: Ostrogoth (Đông Goth), Visigoth (Tây Goth), Vandal, Francs, Anglo Saxons, Lombard và thường tập kích vùng biên cương của đế quốc La Mã, họ đột phá được các tuyến phòng thủ của La Mã ở hai mặt Đông và Tây. Từ năm 235-275, các “man tộc” đã phát động những cuộc tấn công quy mô lớn dọc đường biên giới phía Tây của La Mã, một số bộ tộc đã định cư ở bên trong biên giới đế quốc. Người Francs đã phá hủy những đồn trại của La Mã ở hạ lưu sông Rhine, tiến vào vùng đất trung tâm Gallia và về sau họ đã định cư tại nơi đó. Một chi khác của người Alemani cũng kéo xuống Lycia ở phía Nam và cửa phải của dãy núi Alps. Năm 261 và tiếp tục những năm sau đó, họ đã tiến xuống đến vùng Bắc và Trung bộ của Italia. Cùng một lúc đó, tại hạ lưu sông Danube, người Goth tiến vào lãnh thổ của người La Mã. Bắt đầu từ năm 230, họ lại tiến vào bờ biển Caspian. Sau năm 250, họ chiếm cứ Bosporus. Tiếp đó, họ lại tiến vào biển Aegean. Kể từ đó người Goth đã trở thành một lực lượng quan trọng ở phía Đông Nam châu Âu. Tại vùng phía Đông của đế quốc La Mã, lại có đế quốc Sasanid-Ba Tư bắt đầu cường thịnh lên và đã tranh đoạt vùng Armenia và lưu vực Lưỡng Hà lâu dài với La Mã. Năm 259, Hoàng đế Valerianus (253-259) dẫn quân cùng đánh nhau với Ba Tư, bị thua và bị bắt sống, sau đó trở thành người phục dịch trong vương triều của Ba Tư. Thế lực của đế quốc Sasanid-Ba Tư bành trướng đến vùng Cappadacia. Từ đó trở về sau, Germans tiếp tục tràn vào các địa phương La Mã. I.2. Sự xuất hiện và diễn biến của đạo Cơ Đốc Vào thế kỉ I, đạo Cơ Đốc đã xuất hiện trong tầng lớp dưới của dân tộc Do Thái đang sống rải rác tại vùng Tiểu Á (cũng có thuyết cho rằng đạo Cơ Đốc là một chi phái mới của đạo Do Thái). Đạo này đã xuất hiện trong dân chúng nông thôn vùng Palestin vào khoảng những năm 30 của thế kỉ I sau công nguyên. Chẳng bao lâu sau, tôn giáo này đã truyền rộng ra khắp đế quốc La Mã và trở thành một trong ba tôn giáo lớn của thế giới là đạo Phật, đạo Islam và đạo Cơ Đốc. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 23
  24. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) 1. Bối cảnh xã hội đã sản sinh ra đạo Cơ Đốc và nguồn gốc tư tưởng của đạo này Đạo Cơ Đốc không phải là sản phẩm của một dân tộc riêng lẻ nào trong lãnh thổ của đế quốc La Mã, mà nó là sản phẩm của cả xã hội La Mã. Nó là kết quả của quảng đại nhân dân thuộc tầng lớp dưới trong xã hội La Mã, cảm thấy tuyệt vọng trong những cuộc đấu tranh hiện thực và đã tìm ra lối thoát về mặt tôn giáo. Sự thống trị của đế quốc La Mã đã mang đến nhiều tai họa to tát cho nhân dân tầng lớp dưới. Sự chinh phạt và áp bức đẫm máu cũng như chà đạp lên các dân tộc bị họ chinh phục, đặt ra nhiều thuế khóa nặng nề cho người dân, với những biện pháp tàn bạo, họ đã trấn áp những cuộc khởi nghĩa của nô lệ hay người dân. Tầng lớp dưới trong nhân dân kể từ thế kỉ II TCN, đã mở ra nhiều cuộc đấu tranh liên tục chống lại giai cấp thống trị, nhưng do thiếu một giai cấp lãnh đạo, không được vũ trang bằng những tư tưởng khoa học nên đều thất bại. “Trong tình trạng thời bấy giờ, lối thoát chỉ có thể tìm được trong lĩnh vực tôn giáo”. Đạo Cơ Đốc ngay từ lúc đầu đã xuất hiện trong tầng lớp dưới của nhân dân Do Thái là có một căn nguyên lịch sử của nó. Trong lịch sử thời cổ đại, người Do Thái là một dân tộc chịu nhiều tai họa nhất. Vùng Palestine, nơi có vương quốc Do Thái tồn tại, bắt đầu từ thế kỉ VIII đến thế kỉ VII TCN, đã lần lượt bị Assyria và Ai Cập khống chế. Năm 586 TCN, vương quốc Babylon đã tiêu diệt vương quốc Do Thái, bắt cư dân Do Thái mang về thành Babylon (có một phần trong số đó trở thành nô lệ). Kể từ đó quốc gia Do Thái không còn tồn tại nữa. Đến năm 538 TCN, sau khi Ba Tư tiêu diệt Babylon, họ mới cho người Do Thái trở về quê hương cũ của mình, làm thần dân của đế quốc Ba Tư. Sau khi đế quốc Ba Tư bị diệt vong, người Do Thái lại bị rơi vào sự thống trị của Selecid. Từ đó, người Do Thái phải gánh chịu đủ thứ tai nạn trong những cuộc chiến tranh hùng giữa người Selecid với người Ai Cập. Bắt đầu từ năm 167 TCN, người Do Thái đã vùng lên khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Judas Galiaeus. Năm 141 TCN, người Do Thái từng giành được độc lập một thời gian. Nhưng đến năm 63 sau công nguyên, người Do Thái lại bị La Mã chinh phục. Dưới sự thống trị của người La Mã, vào các năm 66, 132 sau công nguyên, người Do Thái lại một lần nữa thực hiện cuộc khởi nghĩa to lớn nhưng vẫn bị trấn áp một cách tàn bạo. Người Do Thái hoặc bị giết, hoặc phải bỏ quê hương trốn sang những miền đất xa lạ. Trong những cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, đã phản ánh vào ý thức Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 24
  25. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) tôn giáo của họ nên đã xúc tiến một tôn giáo mới sản sinh. Qua một văn kiện viết trên giấy được phát hiện ở gần biển Chết hồi năm 1947, cho thấy vào thế kỉ II TCN, cho đến thế kỉ II sau công nguyên, trong tầng lớp dưới người dân Do Thái, có một giáo phái bí mật đang tuyên truyền “Chúa cứu thế” sắp xuất hiện. Trong người Do Thái ở các nới vùng Tiểu Á, xuất hiện rất nhiều người “tiên tri” truyền giáo. Đạo Cơ Đốc được hình thành từ trong giáo phái mới này. Văn hiến sớm nhất của đạo Cơ Đốc là “Khải huyền của John” (khoảng năm 68) chỉ thấy đề cập tới công xã tôn giáo tại bảy thành thị ở vùng Tiểu Á. Dựa vào đó có thể thấy được đạo Cơ Đốc có khả năng hình thành sớm nhất trong người Do Thái sống rải rác ở vùng Tiểu Á. Về nguồn gốc tư tưởng của đạo Cơ Đốc: Một trong những nguồn gốc chính là đạo Do Thái. Đạo Do Thái tin thờ một vị thần mà tín đồ đạo Cơ Đốc gọi là Yahveh và xem đó là một vị thần duy nhất, Do Thái là dân được chọn của vị thần đó. Quan niệm “Chúa cứu thế” ban đầu của đạo Cơ Đốc và tư tưởng một vị thần rõ ràng là bắt nguồn từ đạo Do Thái. Đồng thời, “Thánh kinh” của đạo Do Thái cũng được tín đồ đạo Cơ Đốc tiếp nhận và được gọi là “Cựu ước”, để phân biệt với “Tân ước”. Ngoài đạo Do Thái ra, đạo Cơ Đốc còn tiếp thu những tư tưởng tôn giáo được lưu hành rộng rãi ở các vùng đất phương Đông như Ai Cập, Syria, Tiểu Á và Iran (chủ yếu là quan niệm nhất thần giáo). Tư tưởng thần vì cứu vớt chúng sinh mà phải chết nhưng được sống trở lại, cũng như tư tưởng chuộc tội và hiến tế (giống với tín ngưỡng Osiris của Ai Cập). Những tư tưởng triết học của Hy Lạp, La Mã, đặc biệt là học thuyết Philo Judaeus của học phái Alesandria; triết học của phái Stoicoi và luân lý học của học phái Cynicos cũng có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành của đạo Cơ Đốc. Vậy, đạo Cơ Đốc chính là một tôn giáo “đã âm thầm sản sinh ra từ sự hỗn hợp của thần phương Đông đã được phổ biến, đặc biệt là thần học của Do Thái và triết học Hy Lạp đã được dung tục hóa, nhất là từ trong triết học của Stoicoi” (trích: Tổng kết triết học của Ludwig Feuerbach và triết học cổ điển Đức). 2. Giáo lý và sự tổ chức trong thời kì đầu của đạo Cơ Đốc Thế kỉ I sau công nghuyên, trong cư dân lớp dưới ở thành thị có xuất hiện một số người truyển giáo (trong Thánh kinh gọi là “Sứ đồ”). Họ đi khắp nơi truyền việc “Chúa cứu thế” sắp giáng lâm và thần thoại về Jesus Christ. Thần thoại nói: Jesus là con Thượng đế, cũng tức là “Chúa cứu thế”. Ông sinh ra tại Beth’lehm (tiếng Hebrew). Ông đã đến Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 25
  26. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) thế gian và thu nạp được 12 môn đồ lo việc truyền giáo ở Palestine. Về sau, ông bị người đệ tử là Joudas Iskariotes bán đứng nên bị giết. Các phần tử thuộc tầng lớp trên Do Thái đã cấu kết với viên Tổng đốc La Mã là Philato kết tội Jesus và xử tử bằng cách đóng đinh lên thập tự giá, nhưng chết được ba ngày sau thì sống lại và đã bay về trời. Mẩu chuyện này lúc đầu chỉ truyền miệng, đến thế kỉ II sau công nguyên, mới bắt đầu ghi chép thành văn tự. Nhưng, Jesus chỉ là một nhân vật truyền thuyết, chứ chưa hẳn là một người có thực. Trên thực tế, không phải Jesus sáng lập ra đạo Cơ Đốc, mà chính là đạo Cơ Đốc sáng lập ra Jesus. Tuy nhiên, qua thần thoại này cũng phản ánh sự thật lịch sử là đạo Cơ Đốc bắt nguồn từ tầng lớp dưới trong nhân dân, nhằm chống lại những người giàu có và bọn thống trị La Mã. Thế kỉ II sau công nguyên, những người truyền đạo soạn ra sách “Phúc âm” lưu truyền cho đến ngày nay. Trong giai đoạn đầu, đạo Cơ Đốc chủ yếu tuyên truyền tư tưởng “Thiên quốc”, còn được gọi là “Thiên quốc đã gần đến rồi”. Tư tưởng Thiên quốc phản ánh quan niệm về xã hội của tín độ Cơ Đốc giáo, một là chống đối người giàu, chống đối sự thống trị tàn bạo của La Mã; hai là thể hiện tinh thần bình đẳng thô sơ trong xã hội. Mọi người đứng trước Thượng đế đều bình đẳng, mọi người ai cũng có tội, Thượng đế cứu vớt mọi người, cố gắng chịu đựng nổi khổ trong nhân gian, để khi chết được lên Thiên quốc. Tín đồ đạo Cơ Đốc trong giai đoạn đầu là nô lệ, là những người nô lệ được phóng thích và dân nghèo khó. Họ tổ chức thành những công xã tiểu quy mô tại thành trấn của họ đang cư trú, lấy thập tự giá làm biểu tượng. Họ sống một đời sống mà mọi thứ tài sản đều là của chung. Ở phần nói với các Sứ đồ trong Tân Ước chép: “Rất nhiều người tin đạo một lòng một dạ như nhau, không có ai bảo những gì của riêng họ có là của riêng họ, mà đều xem là của chung ”. Tín đồ đều bình đẳng và sống chung một chỗ để giảng đạo, để cầu nguyện và ăn cơm chung, giúp đỡ lẫn nhau. Sứ đồ là người tổ chức và truyền giáo đối với loại công xã này và cũng quyên góp tiền bạc cung cấp cho công xã tiêu dùng. Người lãnh đạo công xã là Trưởng Lão và Chấp Sự, về sau còn đặt thêm người giám đốc tài vụ. Đến cuối thế kỉ II, công xã ở các thành thị dần dần liên hợp lại và thành lập giáo hội. Do tín đồ đạo Cơ Đốc chống lại sự thống trị của La Mã, không tin vào những vị thần cũ của La Mã, không sùng bái Hoàng đế nên chính quyền La Mã đã tiến hành đàn áp. Năm 63, Hoàng đế Nero đã mở một cuộc sát hại tín đồ Cơ Đốc giáo đại quy mô. Đến giữa thế kỉ III, những cuộc khởi nghĩa chống La Mã ở các địa phương liên tục nổi lên, do Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 26
  27. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) đó, Chính phủ La Mã đã đàn áp tín đồ đạo Cơ Đốc quyết liệt hơn, cấm không cho tín đồ xem lễ hàng tuần, tịch thu tài sản của họ, giết chết người truyền đạo. Nhưng, sự đàn áp về chính trị vẫn không thể ngăn cản được sự phát triển nhanh chóng của đạo Cơ Đốc. Trong giai đoạn đầu, đạo Cơ Đốc chống lại sự thống trị chuyên chế và áp bức dân tộc của đế quốc La Mã; chống lại sự tham lam tàn bạo của nhà giàu là giai cấp chủ nô, thể hiện một tinh thần chiến đấu, nên có tính chất tiến bộ nhất định. Nhưng sự phản đối của đạo Cơ Đốc đối với hiện thực là tiêu cực, đối với lí tưởng tương lai là hư ảo. 3. Sự truyền bá và diễn biến của đạo Cơ Đốc Từ giữa và cuối thế kỉ II, do đạo Cơ Đốc được truyền bá nhanh chóng, nên cư dân có tài sản bậc trung ở thành thị cũng như ở nông thôn, cũng như những người sở hữu khác đã đua nhau vào đạo. Việc số người này vào đạo là do: Thứ nhất, trước tình hình khủng hoảng của chế độ nô lệ, họ bị tổn hại về quyền lợi ở những mức độ khác nhau nên cảm thấy hoang mang thất vọng; Thứ hai, do đạo Cơ Đốc từ công xã chuyển lên thành lập giáo hội, khắp cả nước La Mã đã có 5% dân số vào đạo, giáo hội đã có sức mạnh nhất định. Giáo hội ở các địa phương có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các thương nhân, các nhà làm thủ công kinh doanh, hoạt động. Sau khi những người có tài sản gia nhập giáo hội, đã làm thay đổi thành phần xã hội trong đạo Cơ Đốc ở giai đoạn đầu, khiến về mặt tổ chức và tư tưởng của đạo Cơ Đốc cũng thay đổi theo. Họ quyên góp tiền bạc cho giáo hội, nhất là họ có trình độ văn hóa cao hơn nên có ảnh hưởng khá lớn trong giáo hội, dần dần năm được địa vị lãnh đạo. Đồng thời, tinh thần bình đẳng bác ái, giúp đỡ lẫn nhau, thù ghét nhà giàu, chống đối La Mã trong thời kì đầu cũng dần được xóa đi, mà trái lại, giáo lý khuyên người nên thuần phục yêu kẻ thù như yêu chính mình, đặt hy vọng vào kiếp sau được đề cao lên địa vị chủ yếu. Do đó, đến cuối thế kỉ II, sau khi đạo Cơ Đốc đã diễn biến và đạo đã lọt vào tay nhà giàu và những người chủ nô. Thời bấy giờ, có một phái truyền đạo tại vùng Bắc Phi vẫn kiên trì giáo lí của đạo Cơ Đốc lúc ban đầu và đã bị xem là sai lạc nên bị bài xích. Trong cuộc khủng hoảng ở thế kỉ III đã giúp cho đạo Cơ Đốc phát triển nhanh chóng. Những chủ nô, đại địa chủ, đại thương gia, quan liêu, thậm chí bà con của Hoàng đế trước đây bị đạo Cơ Đốc đả kích dữ dội, nay cũng có một số xin gia nhập đạo này. Giáo hội cũng phát triển lên một bước và ở các thành thị tại La Mã, Byzantin, Carthage, Alexandria, đã trở thành trung tâm của các giáo hội ở các địa phương đó. Quyền lãnh đạo Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 27
  28. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) của giáo hội đã chuyển vào tay những người hữu sản, nên đạo Cơ Đốc từ đó mất đi tính chất tôn giáo của người bị áp bức và thoát xác trở thành công cụ trong tay của giai cấp bóc lột. Đến thời kì sau, cuối cùng thì nó đã kết hợp với chính quyền đế quốc. II. Thời kì sau của đế quốc La Mã Sự khủng hoảng của thế kỉ III đã làm cho chế độ nô lệ bị rung chuyển mạnh mẽ và cũng làm cho tiềm lực của đế quốc bị thương tổn nặng nề. Trong vòng 200 năm sau của đế quốc, mặc dù có một số Hoàng đế cố gắng canh tân với hy vọng chuyển biến được tình thế đang tụt dốc, nhưng rốt cục cũng không sao ngăn chặn được xu thế suy sụp toàn diện của đế quốc và đi tới tan rã. II.1. Sự thống trị của Diocletianus, Constantine và sự thiết lập chế độ Vương chủ Sau cuộc khủng hoảng kéo dài ba thế kỉ, các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội chỉ có đại địa chủ (tức những người có đất đai nhiều chuyên bóc lột lệ nông và về mặt kinh tế có khuynh hướng tự cấp tự túc. Thuật ngữ địa chủ ở phía sau cũng có nghĩa như thế này) là phát triển được thế lực. Họ có sức mạnh kinh tế hùng hậu và có chỗ dựa chính trị kinh tế vững chắc, nên đã thừa cơ hội này thu nhận những nhân khẩu đang sống lang thang và ra sức thôn tính những ruộng đất của người khác để tăng cường sức mạnh cho mình. Những sĩ quan phát tài trong cuộc nội chiến, một phần lớn cũng trở thành địa chủ. Đại địa chủ vừa câu kết với Chính phủ La Mã nhưng lại vừa có mâu thuẫn với nhau. Chính quyền đế quốc đã đẩy mạnh sự thống trị quân sự và đã dần hình thành sự liên minh với đại địa chủ, giúp cho đế quốc đang trên đà sụp đổ lại có thời gian nghỉ ngơi để lấy sức. Từ năm 168 đến 283, có tất cả năm vị Hoàng đế nhưng trong đó có bốn vị xuất thân từ quân nhân Illyria, nên lịch sử gọi là các vua Illyria. Họ đã cố gắng tổ chức các lực lượng quân sự cho chính mình khống chế, để trấn áp những cuộc khởi nghĩa của nô lệ và lệ nông, tiêu diệt những đối thủ muốn tranh giành ngôi vua và cũng tạm thời ngăn chặn được sự tấn công của “man tộc”, giúp đế quốc tranh thủ được một giai đoạn ổn định tạm thời. Năm 284, vị trưởng quan quân cận vệ là Diocletianus (284-305) giành được chính quyền. Ông đã trút bỏ danh hiệu nguyên thủ, tự xưng là Vương chủ, nắm cả vương quyền và thần quyền. Một chế độ chính trị mới được thiết lập-Đó là chế độ Vương chủ. Diocletianus cũng giống như những nhà vua ở phương Đông, đầu đội vương miện, mình Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 28
  29. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) mặc áo bào, được xem như một vị thần linh. Ông đã ra tay trấn áp những cuộc khởi nghĩa ở Gallia và Bắc Phi, tàn sát tín đồ đạo Cơ Đốc. Đối ngoại thì tích cực đánh nhau với người Ba Tư, người Germans, tạm thời giữ vững được tuyến phòng thủ ngoài biên cương. Đối nội, Diocletianus thực hiện một số biện pháp có tính tăng cường. Về mặt hành chính cũng như quân sự, ông ta chia đế quốc thành bốn bộ phận, do bốn người thống trị, chịu trách nhiệm cai quản, thực hiện “chế độ bốn vua cùng cai trị”. Trong số bốn nhân vật thống trị đó có hai người được gọi Augustus, giữ nhiệm vụ chính, do Diocletianus và Maximianus đảm nhiệm. Riêng hai người kia được gọi là Ceasar là phó, do Gallia và Constansia đảm trách. Khi người chính vắng mặt người phó thay thế. Khu vực của mỗi người thống trị được phân chia rõ rệt. Diocletianus cai trị vùng Nicomedia, Thrace, Mexia hạ, Asia, Ai Cập và Cyrene. Người phó là Gallia thì đảm trách thống trị một số tỉnh ngoài Nicomedia và Thrace. Maximianus chịu trách nhiệm thống nhất vùng đất Italia, Africa, Lycia. Người phó của ông này là Constansia thì chịu trách nhiệm vùng Gallia , Anh Nhưng cả đế quốc thì không chia cắt mà vẫn duy trì sự thống nhất. Quyền lực tối cao nằm trong tay Diocletianus. Đồng thời, ông cũng quy định rõ hai người Augustus cần phải nhận người phó của mình là con nuôi hay con rể, phải có mối quan hệ huyết thống hôn nhân, để từ đó duy trì việc cha truyền con nối trong vấn đề chính trị. Chế độ này được thiết lập rõ ràng nhằm tăng cường sự thống trị trong tình hình chính trị đang rối ren. Diocletianus còn có biện pháp nhằm thu hồi bớt quyền lực địa phương, nhằm đề phòng các hành tỉnh có thể tách khỏi đế quốc để xây dựng chính quyền độc lập, bằng cách thu hẹp lãnh thổ của các hành tỉnh. Ông ta chia đế quốc ra thành 100 hành tỉnh, cả vùng đất Italia cũng chỉ là một hành tỉnh. Cứ mỗi 10 hoặc 12 hành tình hợp lại thành khu đại hành chính và thực hành việc chia quyền giữa quân sự và chính trị, không cho một người giữ hết. Diocletianus cũng chia quân đội ra thành bộ đội biên phòng và bộ đội cơ động trong nước, gồm có 72 quân đoàn, binh số lên đến khoảng 600.000 người. Do dioletianus bắt đầu việc chiêu mộ lệ nông vào làm lính, đồng thời cũng thu nhập các man tộc để bổ sung quân số cho quân biên phòng, nên quân đội tiến lên một bước “man hóa” mạnh mẽ hơn. Một biện pháp quan trọng khác của Diocletianus là thực hành chế độ thuế mới. Trước đó, chế độ thuế của La Mã rất hỗn loạn: có những địa phương (như tại Italia) không thu thuế trực tiếp (thuế đầu người, thuế ruộng đất); có những địa phương nộp thuế bằng hiện vật (như Ai Cập, Africa nộp thuế bằng lương thực); có những địa phương nộp Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 29
  30. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) thuế bằng vàng hoặc vừa bằng vàng vừa bằng hiện vật. Cuộc khủng hoảng ở thế kỉ III đã làm cho mức thu thuế giảm đi rất nhiều, quốc khố trống rỗng, cho nên việc sửa đổi chế độ thu thuế là việc tất nhiên phải làm. Chế độ thuế mới của Diocletianus quy định toàn thể nông dân ở nông thôn phải nộp thuế đầu người và thuế ruộng đất chung. Người con trai đúng tuổi được coi là “một đầu người”, một con gái đúng tuổi được coi là “nửa đầu người” và dựa vào đó để tính thuế. Thuế ruộng đất chia thành loại ruộng canh tác lương thực và loại vườn trồng cây ăn quả để có mức thuế khác nhau (đơn vị đất để tính thuế là 25 are). Các ngành thủ công, thương nghiệp ở thành thị, do ngành nghề khác nhau nên có mức thuế không giống nhau. Riêng quan lại, lão binh, người vô sản và nô lệ được miễn thuế. Chế độ thuế mới này làm cho người lao động phải gánh vác càng nặng nề hơn. Nhưng do nô lệ được miễn thuế nên chủ nô có lợi rất nhiều. Chế độ đánh thuế mới phải đo lại ruộng đất nên phải tăng thêm nhiều nhân viên thuế. Vì muốn đảm bảo cho nguồn thu thuế được ổn định cũng như muốn củng cố sự thống trị của mình, Diocletianus đã ra lệnh cố định người nông dân tự do và lệ nông phải dính liền với mảnh đất của mình, không cho phép dời đi nơi khác và ông cũng cố định người hành nghề thủ công và thương nhân phải giữ nguyên nghề nghiệp của mình, không được thay đổi. Ông còn xuống lệnh dùng biện pháp liên gia liên bảo để trưng thu cho đủ số thuế. Các nghị viên thành thị không được thay đổi nghề nghiệp và chịu trách nhiệm thu đủ số thuế trong phạm vi của mình. Tóm lại, tất cả những nghề nghiệp của người dân phải cố định và cha truyền con nối, ai bỏ trốn sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Việc thực hiện chế độ thu thuế mới có giúp cho Chính phủ thu nhập khá hơn, nhưng nó lại trói buộc sự phát triển của kinh tế, làm cho mâu thuẫn trong xã hội càng gay gắt hơn. Diocletianus cũng tiến hành cải cách chế độ tiền tệ, cho đúc một loại tiền vàng có sức nặng 1/60 cân La Mã (tương đương với 327,45g), tức so với đồng tiền do Octavius chỉ nặng bằng 1/3, nhưng nếu so với dồng tiền vàng kém chất lượng trong thời kì khủng hoảng thì số vàng trong đồng tiền này nhiều hơn chút đỉnh. Do vật tư khiếm khuyết nên vật giá tăng vọt, đồng tiền mới của Diocletianus vẫn không thể lưu thông rộng rãi. Để giới hạn vật giá, vào năm 301, Diocletianus đã ban hành “sắc lệnh vật giá”, quy định giá tối cao của các loại vật phẩm, ai tự ý nâng giá sẽ bị xử tử. Nhưng do những quy định đó thoát li với tình trạng kinh tế trước mắt, nên dẫn đến một kết quả trái ngược, tức việc đầu cơ và chợ đen ngày càng thịnh hành hơn. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 30
  31. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Năm 305, Diocletianus và Maximianus cùng thoái vị. Sau một thời gian hỗn chiến tranh giành ngôi vua, chính quyền lọt vào tay Constantine (306-337). Năm 323, sau khi một người cạnh tranh khác với Costantine được gọi là “Augustus” bị giết chết, thì Costantine trở thành vị quân chủ độc tài duy nhất. Ông hủy bỏ cách bốn vua cùng cai trị, mở rộng cơ cấu quan liêu, do chính nhà vua bổ nhiệm các quan viên cao cấp trong các ngành dân chính, bộ binh và kỵ binh. Đồng thời, ông chia đế quốc thành bốn khu hành chính lớn là Gallia, Italia, Illyria và Đông Phương. Bên dưới là các hành tỉnh. Năm 330, Costantine dời Thủ đô đế quốc đến Byzantine ở phía Đông và đổi tên lại là Constantinople, lấy quốc hiệu là Tân La Mã. Constantine cho phép chủ nô được quyền giết chết nô lệ (trong thế kỉ II, pháp luật cấm chủ nô không được tùy ý giết chết nô lệ); quy định xử phạt nghiêm khắc đối với những nô lệ bỏ trốn và những nô lệ kích động những người xung quanh bỏ trốn. Ngoài ra, pháp luật còn cho phép dân nghèo có quyền bán con cái của mình làm nô lệ, cho phép chủ nô bắt những người nô lệ đã phóng thích trước đây trở lại làm nô lệ cho mình. Đồng thời ông cũng nghiêm cấm lệ nông bỏ trốn. Những biện pháp nói trên của Constantine chính là sự thể hiện nổi bật đối với việc bảo vệ chế độ nô lệ đã thối nát và cưỡng bách mọi người thi hành một cách phi lí. II.2. Đạo Cơ Đốc được hợp thức hóa và sự tranh đấu của các giáo phái Do thế lực của đạo Cơ Đốc ngày càng mạnh, hơn nữa, do tín đồ tôn giáo này không chịu đi quân dịch, không chịu sùng bái những vị thần của La Mã, cho nên trong thế kỉ III, đạo này vẫn bị giới thống trị của đế quốc xem là một sức mạnh uy hiếp mình và đã tiếp tục đàn áp. Trong số đó, Diocletianus là người đàn áp với quy mô to lớn nhất. Một số tín đồ đạo Cơ Đốc kiên trì tín ngưỡng của mình, đã bị đưa đi xử tử, tài sản của giáo hội bị tịch thu, các văn hiến của giáo hội bị thiêu hủy, ngăn cấm không cho tập hợp để xem lễ. Nhưng khi giới thống trị La Mã không thể tiêu diệt được đạo Cơ Đốc ngay từ khi mới thành lập, đến nay giáo hội đã trở thành một lực lượng trong xã hội, tất nhiên càng khó ngăn cấm được sự truyền bá của đạo này. Năm 306, Hoàng đế La Mã là Constantine nhận thấy đạo Cơ Đốc đã trở thành một sức mạnh hiện thực, nên vào năm 313, ông đã ban bố “Sắc lệnh Milan” (cũng gọi là sắc lệnh khoan dung). Sắc lệnh này quy định các tín đồ tôn giáo có quyền tự do tín ngưỡng, tức cho phép đạo Cơ Đốc cũng như các tôn giáo khác cùng chung tồn tại và thừa nhận địa Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 31
  32. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) vị hợp pháp của đạo Cơ Đốc. Đồng thời, pháp lệnh còn quy định hoàn trả lại số tài khoản của giáo hội bị tịch thu trong thời kì bị đàn áp, bảo vệ tín đồ và cho phép giáo hội được quyền nhận lại những di sản ruộng đất trước đây. Trên thực tế, ngay từ thế kỉ IV, đạo Cơ Đốc đã kết hợp với chính quyền đế quốc và đã bị giai cấp thống trị lợi dụng. Đi đôi với sự thay đổi tính chất của đạo Cơ Đốc, một cuộc đấu tranh giữa giáo phái chiếm địa vị thống trị (phái “Chính giáo” và phái “Dị đoan”). Sở dĩ gọi là phái “Dị đoan” là do phái này đã phản ánh tư tưởng của các tín đồ Cơ Đốc thuộc tầng lớp dưới (nô lệ, lệ nông, dân nghèo thành thị). Họ phản đối sự quý tộc hóa của đạo Cơ Đốc thuộc khối giáo hội thỏa hiệp với quốc gia, phản đối giáo hội có tài sản riêng và họ luôn mong chờ “sự phán xét của ngày tận thế” một cách nghiêm trang đầy chính nghĩa. Do vậy, sự tranh đấu của các hệ phái trên thực chất là một hình thức thể hiện giai cấp đấu tranh. Khoảng trước và sau thế kỉ IV, có một phái “Dị đoan” rất nổi tiếng là hệ phái Arius (do vị giáo chủ Arius ở tại thành Alexandria chủ trì hệ phái này). Sự tranh chấp nổi bật nhất giữa các hệ phái là về mặt giáo lí, tập trung vào vấn đề thuộc tính của Thượng đế Cơ Đốc. Phái “Chính giáo” chủ trương tam vi nhất thể, gồm có Cha, Con và Thánh thần. Tức thánh Cha và thánh Con cùng là một thể và là Thần chứ không phải người. Hệ phái Arius phủ nhận tính Thần của Jesus, mà cho rằng Jesus phải thấp hơn thánh Cha và có nhân tính. Hệ phái Arius còn phản đối việc tầng lớp trên trong giáo hội trở thành một tập đoàn đặc quyền và phản đối tập đoàn đó gồm có một số rất nhiều ruộng đất, tiền của. Chính vì vậy mà hệ phái này được người lao động ủng hộ và cũng được lưu truyền rộng rãi trong các “man tộc”. Năm 325, Constantine đã chủ trì một cuộc đại hội tại Nicaea, quyết định đạo Cơ Đốc phải tuân thủ tín điều Jesus và thánh Cha là đồng thể, lên tiếng khiển trách hệ phái Arius không chịu tiếp nhận tín điều đó. Riêng bản thân Arius thì bị lưu đày ở Illyria. Cuộc hội nghị này còn quy định hàng năm vào ngày chủ nhật đầu tiên sau Tiết xuân phân và có trăng tròn là ngày lễ Phục sinh. Từ đó, hệ phái được sự ủng hộ tại hội nghị Nicaea đã tự xưng là phái tín ngưỡng chính thống (phái “Chính giáo”, về sau phát triển Chính giáo ở phía Đông). Hệ phái Arius bị thất bại trong phiên họp nói trên nhưng về sau họ vẫn tiếp tục đấu tranh và có ảnh hưởng rất lớn ở Ai Cập, Syria và trong một số “man tộc”. Ngoài ra còn một hệ phái khác cũng chủ trương giống phái Arius và cũng xuất hiện ở Africa, nên có rất nhiều tín đồ tại Numidia, Mauritius. Họ nghiêm khắc chỉ trích những tín đồ đạo Cơ Đốc đã bỏ đạo trong những ngày bị trấn áp và kiên quyết phản đối giáo hội Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 32
  33. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) nhà nước được đế quốc ủng hộ tại Carthage, cho nên họ đàn áp thẳng tay, một số lớn tín đồ của họ bị giết chết, nhà thờ bị tịch thu. Nhưng những hệ phái này vẫn không đình chỉ hoạt động của mình, họ đã kết hợp chặt chẽ với những phong trào của nô lệ và lệ nông ở Bắc Phi để tiếp tục đấu tranh. Sau khi đạo Cơ Đốc được hợp thức hóa, về phần giáo lí cũng như phần tổ chức giáo hội đã phát triển thêm một bước. Bắt đầu từ thế kỉ III, một số nhà thần học đại biểu cho tập đoàn thống trị đạo Cơ Đốc đã tiến hành cải tạo đạo Cơ Đốc trong thời kì đầu. Họ lợi dụng một số thành phần tiêu cực trong triết học cổ Hy Lạp và La Mã, sáng tạo ra thần học của tôn giáo. Những nhà thần học này về sau được tôn trọng như những “cha cố”, trong đó những người tiêu biểu quan trọng là Origenes (185-254) và Orelius Augustinus (354-430) Riêng về môn thần học của họ được gọi là “môn học của cha cố”, Augustinus từng làm chủ giáo ở Bắc Phi, có viết những quyển sách như “Ngôi thành của Thượng đế” có ảnh hưởng rất lớn về amwtj tư tưởng đối với đạo Cơ Đốc sau này. Về môn học của cha cố nêu rõ những tín điều cơ bản trong giáo lí đạo Cơ Đốc là thuyết: “Tam vị nhất thể”, “Sáng thế”, “Nội tổ tông”, “Cứu chuộc”, “Báo ứng trên Thiên quốc”. Nó được xem là lí luận thần học quyền uy cao tột nhất và cũng là kinh điển thiêng liêng không thể làm trái, có ảnh hưởng sâu sắc đến quần chúng nhân dân. Về mặt tổ chức trong giáo hội, vào khoảng thế kỉ IV, ở Ai Cập có thành lập “tu viện”. Về sau loại hình này được mở rộng khắp các nơi và trở thành một lực lượng quan trọng trong việc truyền bá đạo Cơ Đốc. Vào thế kỉ IV và V, ở khắp các địa phương tại đế quốc La Mã đã xây dựng giáo hội, nhà thờ đạo Cơ Đốc một cách rộng rãi, tín đồ có mặt ở khắp mọi nơi. Năm 392, Hoàng đế Thedosius (379-395) từng hạ lệnh cấm Dị giáo và lấy đạo Cơ Đốc làm quốc giáo. Ai tin theo Dị giáo sẽ bị trừng phạt. Từ đó, đạo Cơ Đốc đã thẳng tay dồn ép và hãm hại thẳng tay mọi thứ Dị giáo. Đồng thời đã phá hoại văn hóa cổ đại một cách nghiêm trọng, khiến nhiều kiến trúc, nhiều tác phẩm nghệ thuật quý báu và nhiều văn hiến đã bị hủy diệt. Nhưng vẫn không thể đạt được sự thống nhất hoàn toàn. Về mặt tôn giáo vẫn không thể xóa bỏ sự tranh chấp trong nội bộ đạo Cơ Đốc. Đi đôi với tình hình đế quốc La Mã ngày càng suy sụp, đạo Cơ Đốc ngày càng trở thành một tôn giáo lệ thuộc vào giai cấp bóc lột và cũng trở thành công cụ của tầng lớp thống trị. Về sau, tôn giáo này cũng trở thành cây trụ chống tinh thần quan trọng của xã hội phong kiến. Trong thời cận đại, tôn giáo này cũng bị giai cấp tư sản lợi dụng. Marx từng nói: “Đạo Cơ Đốc về mặt nguyên tắc xã hội đã từng biện hộ cho chế độ nô lệ cổ đại Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 33
  34. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) và cũng từng khen ngợi không tiếc lời chế độ nông nô thời trung cổ. Khi cần thiết, mặc dù cũng làm ra vẻ ít nhiều thương xót, nhưng lại có thể tiên shanhf biện giải cho tình trạng giai cấp vô sản bị áp bức” (theo Marx-Engels toàn tập). II.3. Tình huống xã hội và sự chia cắt của đế quốc Dưới sự cai trị của Diocletianus và Constantine, mặc dù có làm dịu bớt những mặt nào đó trong cuộc khủng hoảng của thế kỉ III nhưng vẫn không thể cứu vãn một cách cơ bản sự sụp đổ chế độ nô lệ. Trái lại, đời sống của nô lệ và những người lao động khác ngày càng khó khăn hơn. Sự đáu tranh giữa nô lệ, lệ nông và giai cấp chủ nô gay gắt chưa bao giờ có. So với trước, phong trào đấu tranh này cũng lan rộng hơn. Tình hình kinh tế xã hội ở mỗi địa phương trong thời kì sau đều mỗi khác. Những vùng nô lệ phát triển ở phía Tây của đế quốc, nông nghiệp, thủ công và thương nghiệp tiếp tục suy thoái. Nông thôn hoang vắng, thành thị tiêu điều. Về mặt kinh tế, xã hội càng hiện rõ đặc điểm của một nền kinh tế tự nhiên. Ở phía Đông đế quốc cũng đang trên đà suy sụp. Nhưng có một số hành tỉnh, quá trình này diễn ra chậm chạp hơn và có một vài khu vực kinh tế vẫn duy trì được mức độ phát triển kinh tế chậm. Thời kì sau của đế quốc, mối quan hệ trong xã hội nổi bật nhất là địa vị của lệ nông ngày càng thấp kém. Nói chung, một người lệ nông chỉ canh tác được chừng 25 are. Sản phẩm họ thu hoạch được phải nộp cho địa chủ 1/3. Ngoài ra, họ còn phải làm một số nghĩa vụ khác đối với địa chủ như nộp thuế cho nhà nước, cũng ước chừng 1/3 số thu hoạch đó. Mặt khác, họ còn bị quan lại địa phương vơ vét đủ điều nên sản phẩm còn lại chẳng bao nhiêu, đời sống vô cùng cực khổ. Chính vì thế việc lệ nông bỏ trốn hay tham gia các cuộc khởi nghĩa là một hiện tượng rất phổ biến trong xã hội. Từ Hoàng đế Costantine đến những Hoàng đế sau đó mấy đời đã ban bố rất nhiều pháp lệnh để khống chế lệ nông. Những pháp lệnh này còn quy định, nếu ai chứa chấp những lệ nông bỏ trốn thì sẽ bị phạt vàng; quy định chủ nhân khi bán đất thì cũng phải bán luôn lệ nông trên mảnh đất ấy; lệ nông không được kết hôn với người tự do; lệ nông được tố cáo chủ nhân; khi lệ nông đi lính cần phải được sự cho phép của chủ nhân; lệ nông không được quyền có tài sản riêng, không có quyền bán nông cụ và những sản phẩm mình làm ra. Quốc gia La Mã cứ năm năm thì tiến hành điều tra về đất, về lệ nông cũng như nô lệ nông nghiệp một lần, rồi dựa vào đó để thu thuế. Riêng đối với người làm nghề thủ công, người buôn bán thì bị nhà nước cố định trong nghề nghiệp đang làm của họ. họ phải tổ chức những Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 34
  35. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) công hội cùng ngành nghề và công hội có trách nhiệm thu thuế các hội viên để nộp cho nhà nước, cũng như đưa các hội viên đi làm khi cần. Đối với các nghị viên ở các đô thị cũng bị cố định nghề nghiệp của mình. Họ chịu trách nhiệm thu thuế của thị dân đem nộp cho quốc gia. Đối với những nghị viên đô thị bỏ trốn sẽ bị quốc gia trừng trị nghiêm khắc như đánh bằng roi, bỏ tù, thậm chí giết chết. Đến cuối thế kỉ IV, có những pháp lệnh quy định những thành thị nào thu thuế không đủ hoặc không nộp đúng kì hạn thì các nghị viên ở đô thị đó sẽ bị xử tử. Có ba nghị viên đã bị xử tử trong trường hợp này. Do vậy, việc các nghị viên trốn tránh trách nhiệm hoặc bỏ trốn là tình hình hết sức nghiêm trọng. Có những nghị viên đô thị bỏ nhà trốn đi xứ khác để tránh những trách nhiệm trên. Chính vì vậy, trong thời kì cuối của đế quốc, số người của tầng lớp này chỉ còn lại 1/10 so với trước kia. Năm 337, sau khi Costantine chết, tập đoàn thống trị trong đế quốc đã đánh nhau suốt 16 năm để tranh giành ngôi vua. Sau đó, họ cũng không có cách nào xây dựng được một chính quyền ổn định. Mặc dù Theodosius (379-395) đã khôi phục lại sự thống nhất trong một thời gian, nhưng sau khi ông chết (395), ông đã chia đế quốc La Mã thành hai phần và trao cho hai người con cai quản. Accadius-con trưởng-được cai quản nửa phía Đông với Thủ đô là Constantinople. Horonius được cai quản nửa phía Tây, Thủ đô là Roma. Đến đây sự thống nhất của đế quốc La Mã không còn nữa và cảnh tượng phồn vinh trước kia của La Mã cũng không còn xuất hiện nữa. Nhân dân nghèo khó, dân số tụt giảm nhanh chóng, tình hình chính trị hỗn loạn, quốc gia chia cắt. Tất cả những điều đó là dấu hiệu ngày tàn của đế quốc La Mã. III. Sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã III.1. Cuộc đại di chuyển của dân tộc và sự thành lập các vương quốc của người Germans Cuộc đại di chuyển của dân tộc mở đầu từ khi người Hung Nô xâm lược sang phía Tây. Năm 374, người Hung Nô từ Tây Á đi theo bờ biển Caspian tiến vào lưu vực sông Don và sông Dnepr để chinh phục người Aran và người Đông Goth sống tại đây. Mặc dù La Mã từng phải đối mặt với nhiều kẻ thù, nhưng có lẽ không thế lực nào hung hãn và đáng sợ hơn người Hung. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 35
  36. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Vương quốc VisiGoth (Tây Goth): Khi người Hung Nô tấn công vào người Tây Goth sống trên bờ biển phía Bắc Hắc Hải, buộc 15.000 người Tây Goth sau khi được Hoàng đế La Mã cho phép, vào năm 376 đã vượt sông Danube, di chuyển về hướng bán đảo Balkan, định cư trên vùng đất của La Mã, với tư cách là “bạn đồng minh”, để giữ vùng biên cương cho đế quốc này. Năm 378, người Tây Goth do không chịu nổi sự nô dịch của người La Mã, nên đã khởi nghĩa vũ trang chống lại La Mã. Trong một trận đánh ác liệt giữa người Tây Goth và quân La Mã, hai phần ba quân đoàn của La Mã bị tiêu diệt, Hoàng đế La Mã là Valens bị thương, trốn vào ngôi chòi lá, bị người Goth phóng hỏa đốt chết. Năm 401, người Tây Goth từ bán đảo Balkan tràn sang phía Tây, đột nhập vào Italia. Thành Roma cổ kính huy hoàng một thời bị vây hãm. Hơn 40.000 nô lệ Roma đã chạy theo người Tây Goth. Hoàng đế La Mã bị bắt buộc phải cống nạp cho thủ lĩnh của người Tây Goth 5.000 pound vàng, 30.000 pound bạc trắng. Ngoài ra còn phải cống nạp 4.000 chiếc áo dài bằng lụa, 3.000 chiếc áo da và 3.000 pound hồ tiêu để họ chấm dứt cuộc bao vây La Mã. Về sau, vào năm 410, họ phối hợp với bốn vạn nô lệ, mấy vạn binh sĩ La Mã xuất thân từ “man tộc”, đánh chiếm thành phố La Mã một lần nữa. Họ cướp bóc thẳng tay trong suốt ba ngày mới kéo đi. Năm 419, người Tây Goth đã xây dựng một vương quốc “man tộc” trên vùng đất của Tây Ban Nha nằm về phía Nam của Gallia. Đó là vương quốc Tây Goth (Visigoth) được La Mã thừa nhận. Tiếp đó, họ mở rộng thế lực sang bán đảo Iberia và đuổi người Vandal và người Alanh đến đó từ trước ra khỏi bán đảo này. Đến nửa sau thế kỉ V, vương quốc VisiGoth đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất, nhưng đến năm 507, trước sự tấn công của vương quốc Francs,VisiGoth phải dời đô sang Tây Ban Nha, toàn bộ đất đai ở phía Bắc dãy núi Pyrénées bị rơi vào tay người Francs. Năm 711 VisiGoth bị Arập chinh phục. Vương quốc Suevos: Năm 401, khi người VisiGoth tràn vào Italia, người Vandal, người Suevos và người Alanh cũng vượt sông Danube rồi tiến dần về phía Tây. Năm 409, từ xứ Gaul họ tiến vào Tây Ban Nha. Sau khi người VisiGoth xâm nhập Tây Ban Nha, người Suevos phải rút lên phía Tây Bắc của bán đảo và thành lập ở đó vương quốc của mình. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 36
  37. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Vương quốc Vandal: Sau vương quốc Tây Goth lại xuất hiện vương quốc Vandal tại Bắc Phi. Người Vandal trước kia sống tại hai bên bờ trung du của sông Odra (Oder). Trong quá trình dân tộc đại di chuyển, họ vượt qua Gallia tiến vào Tây Ban Nha. Sau đó, bị người VisiGoth dồn đuổi, người Vandal và người Alanh phải rút xuống phía Nam bán đảo và đến năm 429, thủ lĩnh của họ là Gaiseric đã đưa toàn bộ bộ tộc của mình vượt qua eo biển (tức eo biển Gibraltar ngày nay) sang Bắc Phi. Năm 439, họ chiếm được thành Carthage và thành lập ở đó vương quốc Vandal. Tiếp đó, họ chinh phục được miền Tây đảo Sicilia, đảo Sardegna, đảo Corse và quần đảo Baleares. Hầu hết các quý tộc giàu sang người La Mã ở đây đều bị tàn sát, phải bỏ chạy sang những tỉnh phía Đông. Năm 454, Valentinian III giết Aetius để rồi một năm sau ông cũng bị ám sát chết bởi những người ủng hộ viên tướng này. Tháng 6/455, người Vandal nhân cơ hội đó để tiến vào cướp phá Roma, hạ được thành Roma, thẳng tay cướp bóc trong 14 ngày liền. Vương quốc Vandal tồn tại gần một thế kỉ, đến năm 534 thì bị Hoàng đế Đông La Mã tiêu diệt. Vương quốc Burgondes: Tiếp sau người Vandal, vào khoảng những năm 30 của thế kỉ V, người Burgondes vốn cư trú ở khu vực giữa sông Oder và sông Vistula cũng vượt sông Rhine đến định cư ở Đông Nam xứ Gaul. Năm 436, họ từng bị một danh tướng La Mã đánh bại, buộc phải tạm rút lui. Năm 457, họ thành lập vương quốc Burgondes đóng đô ở Lyon ngày nay. Quốc gia này tồn tại không đầy một thế kỉ, đến năm 532 bị vương quốc Francs thôn tính. Đến năm 613, họ trở thành một hành tỉnh của vương quốc Francs. Các vương quốc của người Anglo Saxons: Ở Britain, từ năm 407, Roma đã rút hết các binh đoàn của mình về bảo vệ phần lãnh thổ của đế quốc ở lục địa, do đó đã kết thúc sự thống trị của Roma đối với vùng này. Ngay sau đó cư dân bản địa đã nổi dậy làm chủ đất đai của mình. Giữa thế kỉ V, các bộ lạc Anglo Saxons, Jutes thuộc tộc Germans mà trong đó phần lớn là người Anglo và người Saxons nên được gọi chung là người Anglo Saxons. Họ vốn cư trú ở vùng bờ biển Bắc đã di cư sang miền Nam Britain và thành lập ở đó nhiều vương quốc nhỏ. Mãi đến thế kỉ IX mới thống nhất thành một quốc gia. Trong khi đó, ở Đông Bắc xứ Gaul, từ thế kỉ III, người Francs đã vượt sông Rhine và đến định cư ở đó. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 37
  38. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Như vậy, đến giữa thế kỉ V, phần lớn đất đai trên lãnh thổ phía Tây của đế quốc Tây La Mã đã thuộc về người Germans, Roma chỉ còn lại vùng lưu vực sông Seine ở xứ Gaul, nhưng đã bị vương quốc Burgondes cắt rời khỏi đế quốc, vì vậy về thực tế, đế quốc Tây La Mã chỉ còn khống chế được đất đai ở Italia mà thôi. Kể từ năm 455, thành La Mã sau khi bị người Vandal cướp phá, thì đế quốc cũng suy sụp theo, không thể gượng lên được. Năm 476, một viên tướng người Germans là Odoacre nổi dậy làm chính biến, lật đổ Hoàng đế cuối cùng của Tây La Mã là Romulus Augustus. Đế quốc Tây La Mã diệt vong. Sau sự kiện ấy, về danh nghĩa, Odoacre thừa nhận quyền lực của Hoàng đế Đông La Mã, nhưng thực tế thì chính ông là chúa tể của bán đảo Italia. Vương quốc OstroGoth (Đông Goth): Người Ostrogoth vốn sinh sống ở vùng thảo nguyên gần biển Đen sau đó dời đến vùng Panoni. Năm 488, để tránh nạn đói đang đe dọa, dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh người Ostrogoth đã di cư sang Italia. Năm 493, họ tấn công Raven, kinh đô của các Hoàng đế cuối cùng của Tây La Mã. Odoacre bị đánh bại và sau đó bị giết chết. Trên đất đai chinh phục được bao gồm Italia và Danmati, Theodoric đã thành lập vương quốc Ostrogoth, đóng đô ở Raven. Năm 535, Ostrogoth bị Hoàng đế của Đông La Mã tấn công và đến 555 thì bị diệt vong. Vương quốc Francs: Thời gian trước và sau khi Tây La Mã bị tiêu diệt, người Francs nguyên cư trú tại vùng hạ lưu sông Rhine, bèn thừa cơ hội đó xâm chiếm Gallia. Clovis được giáo hội, người Francs và người La Mã ủng hộ đã thành lập vương quốc Francs vào năm 481. Đến năm 486, quốc vương Francs là Clovis đánh bại binh tướng La Mã tại vùng Soissons (phía Đông Bắc Paris). Kể từ đó, Clovis lấy Soissons làm Thủ đô, củng cố nền thống trị của Francs. Vương quốc Lombard: Cuộc đại di chuyển cuối cùng của dân tộc xảy ra vào năm 568 của người Lombard xâm nhập vào Italia. Bộ tộc này nguyên cư trú ở vùng trung và thượng lưu sông Danube, Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 38
  39. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) vào thế kỉ VI, họ di cư đến vùng Pannonia. Tháng 4/568, quốc vương của Lombard là Alboin (568-572) đã chỉ huy một đoàn quân chinh phục được miền Bắc và miền Trung Italia, sau đó dựng lên ở đây vương quốc Lombard đóng đô ở Bavie. Chỉ ít lâu sau họ lại chinh phục được cả vùng Benevento ở phía Nam nước Italia. Trong khi vương quốc Lombard đang tồn tại ở Italia thì ở miền Trung bán đảo này còn một tổ chức chính trị nữa, đó là khu giáo hoàng. Tuy về danh nghĩa, giáo hoàng vẫn chịu sự chi phối của Hoàng đế Đông La Mã, nhưng về thực tế, là một ông vua quản lí cả việc đạo lẫn việc đời ở khu vực La Mã. Đến thế kỉ VIII, vua Lombard có mưu đồ quản lí cả lãnh địa của giáo hoàng nên giáo hoàng đã dựa vào thế lực của vương quốc Francs, quốc gia hùng mạnh nhất ở Tây Âu lúc bấy giờ. Vì vậy, năm 754 và 755, Lombard bị vua Francs là Pepanh (Lùn) giáng cho những đòn thất bại đầu tiên và đến năm 774 thì bị vua Saclo chinh phục. Như vậy, trước và sau đế quốc Tây La Mã diệt vong, trên đất đai cũ của đế quốc đã thành lập nhiều vương quốc của người Germans, nhưng phần lớn các quốc gia ấy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhiều lắm là đến thế kỉ VIII thì bị diệt vong. Chỉ có đế quốc Francs không những tồn tại lâu dài mà còn có vai trò hết sức quan trọng trong toàn bộ lịch sử Tây Âu thời sơ kì trung đại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc La Mã không thể ngăn cản nổi sự xâm nhập của những người “man tộc”. Thứ nhất, do những cuộc khởi nghĩa của nô lệ và các tầng lớp bị trị nên đế quốc Tây La Mã ngày càng suy yếu. Cùng với sự phân liệt cát cứ của các thế lực quý tộc và sự rệu rã của quân đội, đế quốc không còn đủ sức ngăn chặn các làn sóng xâm nhập này nữa. Thứ hai, do tình trạng nội chiến giữa các hoàng đế và những kẻ âm mưu tiếm quyền, thường là những tướng lĩnh hay các sĩ quan khác ủng hộ một số nhân vật giành ngôi báu. Giao tranh gây thương vong lớn, làm gián đoạn các hoạt động huấn luyện và nguồn cung nhân lực đồng thời khiến Rome phải rút các đơn vị từ vùng biên ải dọc sông Rhine và Danube. Trong các cuộc xung đột lần lượt với Hoàng đế Theodosius I, Magnus Maximus (383-388) và Flavius Eugenius (392-394), các doanh trại La Mã trên biên giới bị suy yếu đến mức việc phòng thủ ở Rhine chủ yếu phụ thuộc vào sự trung thành của các tiểu quốc khu vực. Trước khi Marcus Aurelius lên ngôi, đế quốc Tây La Mã trải qua rất ít những cuộc nội chiến nghiêm trọng. Nhưng trong khoảng thời gian từ sau cái chết của Aurelius đến khi vị hoàng đế cuối cùng của Tây La Mã Romulus Augustus bị phế truất năm 476, đế Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 39
  40. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) quốc này đã chứng kiến hơn 100 vụ bạo động vũ trang khi những kẻ nổi loạn thách thức Hoàng đế. Một số cuộc xung đột kéo dài hàng năm, khiến La Mã kiệt quệ nguồn nhân lực quân sự và suy yếu sức mạnh biên phòng. Trong cuộc dân tộc đại di chuyển này, đế quốc La Mã chẳng những bị người Germans tấn công, mà còn bị người Hung Nô giày xéo. Giữa thế kỉ thứ V, vương quốc Hung Nô dưới sự thống trị của vua Attila, có một vùng lãnh thổ rộng lớn từ sông Volga đến sông Rhine. Năm 450, Honoria, nguyên là chị gái của hoàng đế Tây La Mã Valentinian III, tự ý gửi nhẫn đính hôn cho Attila. Ông ta đòi một nửa Tây La Mã làm của hồi môn, và khi bị từ chối, Attila đã lấy cớ này để dẫn quân tràn sang phía Tây. Năm 451, Attila chỉ huy 50 vạn đại quân, từ Pannonia tiến vào tàn phá xứ Gaul, đe dọa chiếm cả Tây Âu và chỉ bị chặn lại sau trận những cánh đồng Catalaunia trước liên quân La Mã và Visigoth do tướng Aetius lãnh đạo. Trận chiến này được ghi nhận như một trong những trận chiến khốc liệt nhất trong lịch sử với những tổn thất thương vong ghê gớm cho cả hai bên. Sang năm sau, Attila lại một lần nữa kéo quân vào Tây La Mã, lần này thì tấn công Italy và dự định tiến thẳng vào Roma. Thế nhưng khi đã tiến tới gần Roma thì Attila lại dừng lại và rút quân trở về. Nguyên do của việc này có thể là do sự kết hợp giữa dịch bệnh đang hoành hành trong nội bộ quân Hung, cuộc đàm phán của giáo hoàng Leo I và việc quân Đông La Mã tấn công vùng đất của ông ta từ phía sau. Mối nguy hiểm từ người Hung chỉ kết thúc sau cái chết của Attila vào năm 453. III.2. Cuộc nổi loạn của Maximus và sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã Maximus (396-455) xuất thân từ hàng vọng tộc, là một nguyên lão nổi tiếng và là một tay cự phú của La Mã. Ông ta từng giữ chức trưởng quan hành chính của La Mã (năm 420), đồng thời cũng hai lần giữ chức chấp chính quan. Đến tuổi già, do quá nhiều tham vọng nên đã làm mưa làm gió trong giới chính trị bằng cách ly gián và khiêu khích, để chiếm lấy ngôi vị Hoàng đế trong một thời gian ngắn. Quá trình cướp ngôi vua của ông ta rất đáng sợ. Trước tiên, ông ta ra tay hãm hại một danh tướng La Mã là Aetius vào năm 454. Aetius là một vị thống soái và cũng là một nhà chính trị lỗi lạc của đế quốc La Mã. Ông từng đi theo vua Velentinial đệ III suốt 30 năm (từ năm 425 đến năm 455) và lần lượt đã chỉ huy quân đội La Mã đánh bại người Francs, người Burgondes, người Goth. Đồng thời, trong cuộc “đại chiến bách tộc” (năm 451) ông đã chỉ huy một đội quân gồm nhiều dân tộc chặn đứng cuộc tấn công của vua Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 40
  41. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) Hung Nô là Attila, tạo được chiến công hiển hách, tên tuổi vang lừng nên với một người đầy tham vọng như Maximus, ông muốn giết chết Aetius. Ông ta mua chuộc được những cận thần của Hoàng đế, vu cáo Aetius định cướp ngôi vua. Nhà vua là người u mê lại bất tài không phân biệt được trắng đen, tin lời vu cáo là thật. Thế là một cái bẫy được bày ra. Một hôm, Aetius nhận lệnh nhà vua vào ra mắt, nhưng ông chưa kịp mở miệng nói một lời nào , thì bỗng nhà vua nhảy tung lên, la to là có người muốn hành thích và nhanh nhẹn tuốt gươm ra. Những đao thủ mai phục sẵn, nghe động liền ào tới. Chỉ trong chớp mắt, một vị tướng tài của Tây La Mã đã bị giết chết. Sau khi sự việc đó xảy ra, có người trách vua: ngài đã dùng cánh tay trái của mình chặt đứt cánh tay phải của mình rồi. Từ nay làm sao có tướng đủ tài năng chống đối với người Vandal, bảo vệ đất Italia? Thứ hai là Maximus đã âm mưu thí vua (năm 455). Sau khi giết xong tướng Aetius, Maximus tiếp tục dùng kế ly gián để mượn tay người khác giết vua. Có hai thân binh người Germans nguyên là người thân tín của Aetius, thường phục vụ sát bên nhà vua, cả hai đều chất phác, rất trung thành với vị tướng của mình. Maximus giả vờ đau xót nói với họ: tướng quân đã theo nhà vua mấy mươi năm, vào sinh ra tử, lúc nào cũng trung thành, thế mà lại bị chết oan dưới lưỡi dao của nhà vua, vậy các anh phải trả thù cho vị tướng của mình. Hai thân binh này nghe thấy lấy làm tức giận, bèn thực hiện theo kế hoạch của Maximus, thừa dịp vua Velentinianl đi ra ngoài, chúng đã giết nhà vua tại vùng Campus Martius. Thứ ba, cái chết của một con người đầy tham vọng (năm 455). Sau khi giết được vua, hai thân binh nói trên đã lột lấy y phục của nhà vua đang mặc trao cho Maximus. Thế là ông ta lên ngôi Hoàng đế rồi cưỡng bức vợ vua lấy ông ta. Có lẽ bà này quá căm tức và đang nóng lòng muốn trả thù nên đã cầu cứu với lãnh tụ người Burgondes. Người Burgondes được tin hết sức vui mừng, lập tức kéo quân lên phía Bắc, đánh cướp thành La Mã (năm 455). Trong chiến loạn, Maximus định bỏ trốn nhưng bị nhân dân trong thành phố đang phẫn nộ bắt được và giết chết. Maximus lên ngôi vua được hai tháng rưỡi (từ ngày 17/3/455 đến ngày 31/5/455). Tương truyền người Burgondes đã cướp phá thành La Mã suốt 14 ngày đêm, bắt sống ba vạn người mang đi (trong đó có Hoàng hậu của nhà vua bị giết). Hồi thế kỉ II, dân số La Mã sống tại thành là 1.000.000 người, nay chỉ còn lại 7.000 người. Cuộc nổi loạn của Maximus (454-455) đã gây ra một hậu quả bi thảm. Aetius là một tướng tài của La Mã cuối cùng bị giết chết. Cái chết của ông chứng tỏ lực lượng vũ Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 41
  42. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) trang của La Mã đang lâm vào tình trạng hỗn loạn. Từ đó không có một cuộc chiến tranh chống “man tộc” nào đạt kết quả nữa, mà bằng chứng là việc người Burgondes chiếm thành cướp bóc. Kế đó cái chết của nhà vua cũng chứng tỏ hệ thống của Chính phủ đã hoàn toàn bị sụp đổ. Đại quyền về hai mặt quân sự và chính trị cũng như việc phế lập các đời vua sau đó, đã tạo điều kiện cho giới quý tộc quân sự người “man tộc” nắm trọn quyền hành của La Mã. Suốt hai mươi năm sau khi vua Velenttinianl chết, mặc dù ở Tây La Mã đã xuất hiện đến tám đời Hoàng đế (không kể Maximus), nhưng thực ra họ đều là bù nhìn, đều là những vị Hoàng đế giả, còn bốn thủ lĩnh “man tộc” đang nắm quyền hành quân sự mới là chủ nhân thật sự của nước Italia. Trong số tám đế thời bấy giờ, đã do họ phế lập đến sáu người, chỉ có một người do Hoàng đế phía Đông là Leo I là một người tự giành được ngôi vua. Qua đó cho thấy, chế độ truyền thống trong việc kế thừa ngôi vua của La Mã (con nuôi kế thừa ngôi vua cha nuôi) đã không còn tồn tại nữa. Năm 476, Odoacer đã truất phế Hoàng đế Romolus Augustulus một cách dễ dàng và đã xưng “vương” ở Italia chứ không xưng đế. Chế độ Hoàng đế xem như đã diệt vong ở Tây La Mã. Sự diệt vong của đế quốc Tây La Mã là một quá trình lịch sử, Chính phủ bị diệt vong trước rồi đế chế mới bị diệt vong sau. Khoảng cách thời gian giữa hai hiện tượng này là 22 năm (454-476). C. Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại Sự diệt vong của đế quốc Tây La Mã là sự tự diệt vong của một phương thức sản xuất và cũng là sự diệt vong của một mô thức văn hóa. Tình trạng kinh tế là nền tảng, “còn các nhân tố của thượng tầng kiến trúc”, kể cả sự hoạt động các biệt của từng nhân vật đối với quá trình phát triển của lịch sử cũng có những ảnh hưởng. Nhưng “nói cho cùng”, vẫn là sự chuyển động của kinh tế thông qua vô số những “sự kiện ngẫu nhiên” để phát triển về phía trước (theo sách Tuyển tập Marx-Engels). Cuộc nổi loạn của Maximus chính là một sự kiện ngẫu nhiên như thế. Vậy tại sao những cuộc chính biến cung đình bằng hình thức âm mưu hoặc hình thức đổ máu là chuyện thường xảy ra trong cung đình của đế quốc La Mã, nhưng chính quyền của Tây La Mã lại bị diệt vong qua cuộc phản loạn của Maximus? Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 42
  43. Tìm hiều về quá trình và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ sụp đổ của đế quốc Tây La Mã cổ đại (thế kỉ III-thế kỉ V) I. Đường lối binh sĩ ngăn cản sự phát triển của nông nghiệp Trước hết, do đường lối binh sĩ đã bóp nghẹt sự phát triển của nông nghiệp, nhà tư tưởng Hy Lạp Xenophanes có nói: “Nông nghiệp là mẹ đẻ của các ngành kĩ nghệ”. Ở Trung Quốc, Lưu Triệt (tức Hãn Võ Đế, 156-87 TCN) cũng có nói: “Nông là cái gốc của đất nước vậy”. Thế nhưng vị nguyên thủ của đế quốc La Mã là Severus (193-211) là xem “binh sĩ là cái gốc của quốc gia, phải đối đãi tốt với binh sĩ, còn những người khác thì không cần biết tới”. Qua lời nói đõ cũng đã phản ánh chân thực tình trạng mà các đế vương đời sau đều tuân thủ: quân đội là ông chủ của đất nước. Hoàng đế ngoại trừ đồng ý theo lời của họ thì không còn cách nào khác. Quân đội đã trở thành một quân đội mới do “man tộc” làm nòng cốt, chứ không còn là bộ phận của nhân dân La Mã nữa, “phải dựa vào sự hi sinh của quốc dân để nuôi sống họ và nhờ họ đi tác chiến với kẻ địch bên ngoài”. Chính vì vậy mà nhiệm vụ hàng đầu của Hoàng đế là phải “kiếm tiền bạc, lương thực, y phục, vũ khí cho quân đội mình”. Những người thuộc lớp tiền nhân của Severus đã quan liêu hóa bộ máy Chính phủ, còn chính ông ta thì đã quân nhân hóa bộ máy này, để nó trở thành “một chế độ khủng bố có tổ chức”. Một trong những đặc trưng của nó là “nguyên tắc cưỡng chế”, tức cưỡng chế trưng thu tiền, lương thực và tất cả những tài vật khác; cưỡng chế đi làm lao động hoặc phái đi làm những việc khác mà không có thù lao. Đồng thời, cố định từng người, từng nơi ở đầu tiên của họ, cũng như những ngành nghề mà họ đang làm. Hai vị Hoàng đế Diocletianus và Constantine là hai vị Hoàng đế điển hình nhất về mặt này. Theo sự ghi chép của các sử gia thì Diocletianus chia đế quốc ra thành bốn phần và mỗi ông vua đều có trong tay một số binh sĩ nhiều hơn, đánh thuế nặng nề hơn, khiến người nông dân phải bỏ trốn, “người đi thu thuế còn đông hơn người đóng thuế”. Để đề phòng người bỏ trốn và bảo đảm cho việc thu thuế, Diocletianus đã bắt buộc tất cả các ngành nghề đều phải cha truyền con nối, kể cả lệ nông cũng vậy. Năm 332, Constantine định ra luật pháp: những lệ nông thay đổi chủ cần phải trả về nguyên tịch, tức trả về chủ cũ. Những người nào có ý định bỏ trốn thì bị xiềng xích lại, tức trả về chủ cũ, sau đó tiếp tục bắt họ làm việc trong tình trạng xiềng xích như thế. Kết quả, lệ nông bị cố định trên miếng đất đang canh tác, mất quyền tự do đi lại, địa vị cũng giống như nô lệ. Đường lối binh sĩ đã phá hoại nông nghiệp, dẫn đến tình trạng hỗn loạn trong xã hội; phá hoại nếp sống lễ nghĩa truyền thống của xã hội La Mã. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 43