Khóa luận Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự

pdf 66 trang thiennha21 16/04/2022 4200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tim_hieu_gia_tri_noi_dung_va_nghe_thuat_truyen_hoa.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN    TRẦN THỊ LOAN TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỆN HOA TIÊN CỦA NGUYỄN HUY TỰ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2017
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN    TRẦN THỊ LOAN TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỆN HOA TIÊN CỦA NGUYỄN HUY TỰ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG HÀ NỘI – 2017
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và rèn luyện tại Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Việt Hằng đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em thực hiện khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2017 Sinh viên Trần Thị Loan
  4. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng. Kết quả thu được hoàn toàn trung thực và không trùng khớp với các công trình nghiên cứu khác. Nếu sai sót, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2017 Sinh viên Trần Thị Loan
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Đóng góp của khóa luận 6 7. Bố cục của khóa luận 6 NỘI DUNG 7 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 7 1.1. Tình hình lịch sử – xã hội, văn hóa – tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX 7 1.2. Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên 10 1.2.1. Cuộc đời 10 1.2.2. Truyện Hoa tiên 12 Chương 2. TRUYỆN HOA TIÊN THỂ HIỆN CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA 19 2.1. Thể hiện câu chuyện tình yêu tự do theo tiếng gọi trái tim 19 2.2. Thể hiện câu chuyện tình yêu trong khuôn khỗ lễ giáo phong kiến 28 Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 38 3.1. Kết cấu 38 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 42 3.3. Ngôn ngữ 48 KẾT LUẬN 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong văn học Việt Nam trung đại, truyện Nôm giữ vị trí khá quan trọng không chỉ bởi số lượng tác phẩm còn lại đến ngày nay mà còn bởi chất lượng và sức hấp dẫn của nó đối với nhiều thế hệ độc giả. Có thể nói kết tinh thành tựu văn học trung đại Việt Nam nằm ở thể loại truyện Nôm với đỉnh cao là kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, đồng thời với đó là truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, Sơ kính tân trang của Phạm Thái được coi là niềm tự hào của văn hóa và văn học nước nhà. Với ý nghĩa như vậy, nghiên cứu một tác phẩm truyện Nôm nổi bật là hướng đi hấp dẫn. Những năm gần đây, chương trình giáo dục ở Đại học có nhiều thay đổi, việc đào tạo theo hình thức tín chỉ kéo theo số giờ giảng dạy giảm đi nhiều, một số tác phẩm ít có cơ hội được đề cập đến. Việc tìm hiểu cũng như đào sâu khai thác là cầu nối giúp cho người đọc bước vào thế giới văn học trung đại một cách trọn vẹn, phong phú hơn. Bên cạnh đó, truyện Hoa tiên được đánh giá khá cao trong nhóm truyện Nôm bác học. Song tác phẩm này chưa được giảng dạy trong chương trình, có chăng chỉ được nhắc đến như một ví dụ minh chứng cho thể loại truyện Nôm. Vì vậy lựa chọn truyện Hoa tiên để nghiên cứu là một cách để người viết bổ sung kiến thức về truyện Nôm nói riêng và văn học trung đại nói chung. Với ý nghĩa là một tác phẩm được đánh giá cao của thể loại, Hoa tiên nhận được không ít sự lưu tâm của giới nghiên cứu khai thác trên nhiều khía cạnh song chưa có công trình nào viết một cách bài bản bao quát cả phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm nên chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này. Là một sinh viên khoa Ngữ văn và một giáo viên tương lai, việc nắm được một cách sâu rộng giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Hoa tiên nói riêng 1
  7. và thể loại truyện Nôm nói chung có ý nghĩa quan trọng trong công việc và góp phần bổ sung kiến thức cá nhân. Dựa trên những tiền đề khoa học và thực tiễn, nhận thấy nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật là cách để bao quát đầy đủ thành tựu cũng như hạn chế của một tác phẩm văn học, cộng với hứng thú cá nhân đã thôi thúc người viết lựa chọn đề tài “Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự” cho khóa luận của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Truyện Hoa tiên là tác phẩm được giới nghiên cứu quan tâm trên nhiều phương diện. Chúng tôi bắt gặp một số lượng không nhỏ những cuốn sách, những tài liệu, những công trình liên quan đến truyện Hoa tiên như vấn đề biên khảo, khía cạnh nội dung, nghệ thuật, vấn đề tôn giáo, tác giả, tác phẩm. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau: Năm 1828, Vũ Đài Vấn nhận xét về tác giả và người nhuận sắc truyện Hoa tiên rằng: “Vì Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện còn có những chỗ kém nên ông đã không quản tài thiên lậu mà thêm bớt, mà sửa chữa từng chữ, từng câu; đầy năm mới xong” [4,tr15]. Năm 1843, Cao Bá Quát đánh giá khá cao truyện Hoa tiên, ông khen tác giả đã có công “dùng bụi bặm tấm cám mà hun đúc lên gạch ngói lâu đài khiến cho Kim Vân Kiều sau đó sinh ra được vậy” [4,tr254]. Năm 1943, Đào Duy Anh quan tâm nhiều đến thời điểm ra đời truyện Hoa tiên đồng thời đưa ra những nội dung đánh giá bao quát về tác phẩm trong cuốn Nguồn gốc Hoa tiên ký. Ông chỉ ra truyện Hoa tiên được sáng tác khi Nguyễn Huy Tự còn trẻ và đưa ra những nhận định khách quan về giá trị của tác phẩm. Năm 1961, Lại Ngọc Cang trong khi khảo thích và giới thiệu truyện Hoa tiên nhận xét Nguyễn Huy Tự “đã viết Hoa tiên theo sát cốt truyện của ca bản, 2
  8. theo sát cả kết cấu của nó nữa, trừ phần cuối cùng Ông đã thu gọn hẳn câu chuyện lại , đã tiếp thu hầu hết những ý hay, lời đẹp của ca bản, nhưng ông cũng đã gạt bỏ đi rất nhiều câu rườm rà, không cần thiết” [4,tr12-13]. Năm 1968, Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu nhận định: “văn truyện ấy thật là lối văn uẩn súc, điêu luyện, dùng rất nhiều điển cố; bởi thế cuốn ấy được các học giả thưởng thức, nhưng không được phổ cập như cuốn Truyện Kiều của Nguyễn Du” [8,tr324]. Trong hai năm 1993 – 1994, hội thảo kỉ niệm 200 năm ngày mất (1990) và 250 năm ngày sinh (1993) của Nguyễn Huy Tự đã được tổ chức tại Hà Tĩnh và Hà Nội, bao gồm 25 bản tham luận, về sau được in trong cuốn Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên. Những bài tham luận đã đề cập tới một số khía cạnh có liên quan đến đề tài người viết đang nghiên cứu: Trần Đình Hượu với Hoa tiên và vấn đề của nó trong lịch sử truyện Nôm cho rằng Nguyễn Huy Tự đã “dốc tài năng văn chương quốc âm ra làm một việc hoàn toàn mới: chuyển tác một ca bản chữ Hán thành một truyện thơ. Sau ông có những người làm theo, hoặc chuyển tác như Kim Vân Kiều, hoặc sáng tác như Sơ kính tân trang. Cái hấp dẫn họ hay chủ đề văn học mà họ theo đuổi là tình yêu và điều đó biểu hiện rõ trong công phu gọt rũa văn chương những đoạn mô tả tình yêu tinh tế, sâu sắc” [29,tr188]. Phong Lê với Nguyễn Huy Tự và Hoa tiên trong cảm hứng nhân văn và văn mạch dân tộc đã khen ngợi “Hoa tiên trong sự phát triển của cả một dòng truyện thơ từ bình dân sang bác học quả đã ghi được một dấu ấn quan trọng trên hành trình tinh thần và khát vọng hạnh phúc của con người” [29,tr31]. Đào Thản với công trình Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Huy Tự trong Hoa tiên nhận xét rằng “Nét nổi bật trong ngôn ngữ thơ của Hoa tiên là sức diễn cảm. Từng câu thơ, đoạn thơ cứ như những cánh hoa vụng dại 3
  9. run rẩy nở ra trước gió, đem đến cho ta cảm giác rằng chúng được viết ra không phải bằng giấy mực mà bằng hơi thở nhịp đập trái tim và bằng cả tâm hồn” [29,tr285]. Năm 1996, Ngô Thị Thanh Nga với Truyện thơ Nôm Hoa tiên ký qua sự tiếp nhận của các thế hệ độc giả in trên tạp chí Khoa học và Công nghệ đưa ra nhận định: “Dù sự tiếp nhận của các độc giả về Hoa tiên ký không nhiều, nhưng những giá trị về nội dung, nghệ thuật cũng như giá trị mở đường cho sự phát triển của văn học Nôm nói chung và thể loại truyện thơ nôm nói riêng của tác phẩm cũng đã được các độc giả khẳng định một cách vững chắc” [58(10)]. Năm 2004, Lại Văn Hùng trong cuốn Từ điển văn học cho rằng tác giả viết truyện Hoa tiên vào thời trẻ đồng thời khen ngợi Nguyễn Huy Tự đã biết “biến lối văn “kể và thuật” của ca bản Trung Quốc thành lối văn “tả và gợi” [21,tr1151]. Năm 2004, Nguyễn Lộc quan tâm vấn đề truyện Hoa tiên so với các tác phẩm truyện Nôm khác cùng thời, ông nhận định “Hoa tiên là một câu chuyện tình xảy ra trong cảnh lầu son gác tía. Điều đáng chú ý là trong tác phẩm này là không có một nhân vật phản diện nào cả. Mâu thuẫn giữa tình yêu và lễ giáo phong kiến không thể hiện thành hai tuyến nhân vật đối lập, như trong nhiều truyện Nôm khác cùng thời, mà thành cuộc đấu tranh giữa lý trí và tình cảm ở những nhân vật chính” [21,tr600]. Điểm qua một vài công trình nghiên cứu về vấn đề truyện Hoa tiên, chúng tôi nhận thấy hầu hết các khía cạnh của tác phẩm đã được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan ta có thể thấy các công trình, các bài viết chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó của vấn đề, chưa có công trình nào khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tất cả những công trình, những bài viết, những ý kiến, nhận định, đánh giá của các nhà 4
  10. nghiên cứu trên đây là những gợi ý quý báu trong việc đi sâu khai thác tác phẩm về mặt nội dung và nghệ thuật. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của khóa luận là hoàn thành một công trình nghiên cứu về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Hoa tiên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu về thời đại Nguyễn Huy Tự trên hai phương diện lịch sử, xã hội và văn hóa tư tưởng, từ đó nhìn nhận những căn cứ quan trọng có tác động đến tác giả. - Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Huy Tự cùng những vấn đề liên quan đến tác phẩm. - Làm rõ những khía cạnh cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Hoa tiên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là truyện Hoa tiên. Ở đây chúng tôi sử dụng văn bản trong cuốn Truyện Hoa tiên, Lai Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu, NXB Văn Hóa Hà Nội,1961. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyện Hoa tiên. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu văn học Sử. - Phương pháp liên ngành. - Thao tác thống kê phân loại. - Các thao tác chứng minh, lập luận, phân tích tổng hợp. 5
  11. 6. Đóng góp của khóa luận Đưa ra một công trình nghiên cứu khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Hoa tiên. 7. Bố cục của khóa luận Khóa luận được triển khai theo ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung được chia thành ba chương: - Chương 1: Những vấn đề chung - Chương 2: Truyện Hoa tiên thể hiện câu chuyện tình yêu đôi lứa. - Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật. 6
  12. NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tình hình lịch sử – xã hội, văn hóa – tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX Truyện Hoa tiên ra đời trong giai đoạn văn học thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn tổng khủng hoảng một cách trầm trọng, toàn diện. Sự khủng hoảng này được bộc lộ trên nhiều phương diện nhưng nổi bật nhất là sự suy thoái trong toàn bộ cơ cấu của chế độ phong kiến. Những mâu thuẫn chất chứa trong lòng xã hội phong kiến đến giai đoạn này bộc lộ gay gắt và bùng nổ thành những cuộc đấu tranh quyết liệt. Các tập đoàn phong kiến liên tiếp thay thế nhau thống trị đất nước, chỉ trong một thời gian ngắn, vua Lê mất, chúa Trịnh diệt vong, Nguyễn Huệ lên ngôi. Sự biến động này kéo theo mâu thuẫn trong nội bộ triều chính. Tất cả tình hình kinh tế, chính trị như vậy dẫn đến kết quả những cuộc nội chiến kéo dài, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra chống lại triều đình ở cả hai miền Nam, Bắc và giai cấp thống trị cực đoan. Đỉnh cao là phong trào Tây Sơn – cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ giành được những thắng lợi vẻ vang, đánh đổ ba tập đoàn phong kiến thống trị trong nước, đánh tan 20 vạn quân Thanh xâm lược, lập nên một vương triều phong kiến mới với nhiều chính sách tiến bộ, xây dựng nước Việt độc lập, tự chủ, dân giàu, nước mạnh, nhân dân được hưởng thái bình. Chính vì vậy, “thế kỷ XVIII được giới sử học mệnh danh là thế kỷ của chiến tranh nông dân” [28,tr5]. Thời đại nhiều biến cố đã gây ra tác động không nhỏ đến các trí thức nho học và bản thân chính tác giả Nguyễn Huy Tự lúc bấy giờ. Đây là thời điểm các triều đại liên tiếp thay thế nhau, chữ “trung” bị suy đồi, vua tôi đảo lộn dẫn đến bi kịch của giới trí thức nho học mông lung trước chữ “trung” của mình. Phạm Thái từng kêu lên: 7
  13. Dăm bảy năm nay những loạn ly, Cũng thì duyên phận cũng thì thì. Ba mươi tuổi lẻ là bao nả, Năm sáu đời vua khéo chóng ghê. Văn hóa tư tưởng giai đoạn này cũng khủng hoảng nghiêm trọng. Nho giáo vốn được coi như phương tiện đắc lực để các triều đại nắm quyền sử dụng điều hành đất nước đến đây lung lay không thể cứu vãn. Tam cương, ngũ thường của người quân tử bị đảo lộn, mọi kỷ cương bị phá vỡ, chúa hiếp đáp vua, con âm mưu lật đổ cha, bề tôi nhiều người phản trắc, đồng tiền và quyền lực mới là mục đích tối cao, quan lại, nho sĩ biến chất. Điều này được diễn tả khá sinh động trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái. Vua Lê trở thành bù nhìn, toàn bộ việc triều chính nằm trong sự sinh sát của chúa Trịnh. Chúa hiếp đáp vua đến nỗi biến vua thành tên hề ngay trên cung điện của mình, còn vua tự biến mình thành một kẻ hèn nhát với phương châm “Trời xui nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì?”. Trịnh Sâm say đắm, mải mê sắc đẹp của Đặng Thị Huệ mà gây ra sai lầm nghiêm trọng trong việc lựa chọn Trịnh Cán quanh năm ốm yếu làm thế tử; Trịnh Tông vì tham vọng làm chúa mà trái mệnh cha, mưu đồ phản loạn. Ngay cả đạo quần thần cũng bị chà đạp, Tuần huyện Nguyễn Trang đã nộp chúa Trịnh Tông cho Tây Sơn, không chỉ vậy, hắn còn bộc lộ trắng trợn quan điểm của mình trước thầy học Lí Trần Quán “Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để quan lớn để cho lầm lỡ đâu”. Minh chứng này cộng với việc nội bộ các triều đại vì tranh ngôi báu mà phá vỡ mọi rường mối Nho giáo, chữ “trung”, chữ “hiếu” bị kéo đổ thảm hại. Trong bối cảnh này tầng lớp trí thức Nho học bị rơi vào khủng hoảng, bế tắc, hầu hết đều mang trong mình những tâm sự bi kịch. Nguyễn Du viết trong Tạp thi: 8
  14. Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên (Tráng sĩ đầu bạc ngửng nhìn trời, lòng bi đát Hùng tâm, sinh kế cả hai đều mờ mịt) Cao Bá Quát với Bệnh trung: Trắc thân thiên địa bi cô chưởng Hồi thủ yên tiêu khuất tráng đồ (Đất trời đau nỗi bàn tay lẻ Mây khói che đường chí khí to) Tình hình xã hội ngày càng đi vào khủng hoảng, bế tắc, đời sống chính trị ngày càng rối ren thì “con người không có cách nào khác là đi tìm tín ngưỡng tôn giáo để cứu cánh” [6,tr83]. Nếu như Phật giáo và Đạo giáo trước đây suy thoái (thế kỷ XVI) thì đến giai đoạn này lại có điều kiện phục hồi, tuy nhiên không bằng giai đoạn trước đó. Đạo Phật lúc này được coi trọng trở lại, nó phát triển trong lúc các tín ngưỡng dân gian ngày càng được mở rộng, nhiều chùa quán được xây dựng, một số chùa được trùng tu lại. Phật giáo tồn tại, gắn bó, ăn sâu vào tiềm thức tâm linh của con người và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tâm lí, nếp sống của nhân dân. Đạo giáo cũng có những ảnh hưởng nhất định đến đời sống tâm hồn của người dân, nó được coi là “thứ thuốc chính thống cho các vết thương tâm hồn” [14,tr51]. Đạo giáo “thấm nhuần tư tưởng lãng mạn, chủ trương trở về với tự nhiên, thoát li đời sống xã hội, phản kháng những lễ nghi, bổn phận đạo Khổng tạo ra ” [14,tr50]. Dựa trên nền tảng của luận lý xã hội lúc bấy giờ, cụ thể là trên tinh thần Nho – Phật – Đạo, là quy phạm cương thường của người quân tử, lòng từ bi bác ái của con người, là triết lý sống hòa hợp với tự nhiên để được dân gian hóa, trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam. 9
  15. Giai đoạn văn học thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đánh dấu sự ra đời của khuynh hướng văn học “dân chủ nhân văn”. Các tác giả chủ yếu hướng ngòi bút của mình vào thân phận con người, tình yêu và khát vọng hạnh phúc. Thời điểm này truyện Nôm khá phát triển, người ta có xu hướng viết về những vấn đề lịch sử, trong đó có một hướng đi nổi trội lúc bấy giờ là dựa trên cốt truyện có sẵn, tiểu thuyết tài tử giai nhân của Trung Quốc để viết lại. Truyện Kiều là một ví dụ. Nguyễn Du đã mượn cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà sáng tạo ra Truyện Kiều bằng thơ lục bát dài 3254 câu thơ đậm đà bản sắc Việt Nam. Truyện Hoa tiên cũng vậy, dựa theo một ca bản của Trung Quốc có tên gọi Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, Nguyễn Huy Tự đã có những sáng tạo riêng để tạo thành một tác phẩm mang tinh thần dân tộc. Giai đoạn này, mọi giá trị, mọi ràng buộc con người của lễ giáo phong kiến tất yếu có ảnh hưởng tới sáng tác văn chương. Văn học Việt Nam thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX viết nhiều tình yêu và người phụ nữ với kiểu mẫu “công dung ngôn hạnh”, “xuất giá tòng phu” và những khuôn khổ đạo đức của lễ giáo phong kiến. Truyện Hoa tiên là một câu chuyện dài thể hiện tình yêu đôi lứa trong khuôn khổ trật tự phong kiến. 1.2. Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên 1.2.1. Cuộc đời Nguyễn Huy Tự, còn có tên gọi khác là Yên, tự là Hữu Chi, hiệu là Uẩn Trai, sinh ngày 15 tháng 7 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 đời vua Lê Hiển Tông, tức là ngày 2 tháng 9 năm 1743, người làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Can Lộc), tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Huy Tự là con trưởng Nguyễn Huy Oánh và bà chính thất họ Nguyễn, ông nổi tiếng học rộng biết nhiều. Tương truyền “Ông bác thiệt cổ kim, lại giỏi thuật số, cho nên những thi họa, quốc âm, thanh luật, kỹ nghệ 10
  16. không món gì là không tinh tuyệt. Khâm hoài tiêu sái, khí cục hiên ngang, mà lúc trò chuyện bàn bạc thì mãn tọa không ai không lắng tai nghe” [16,tr211]. Ông tổ xa xưa của họ Nguyễn Huy là Nguyễn Uyên Hậu, đậu ngũ kinh bác sĩ đời Hồng Đức. Thế tổ là Nguyễn Hàm Hằng, mười lăm tuổi đậu hương thí, các đời sau đời nào cũng có người đỗ đạt và làm quan. Ông nội của Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Tựu đậu hương giải, làm Tham chính xứ Thái Nguyên, lúc chết được phong Công bộ Thượng thư. Cha Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Oánh, đậu thám hoa, giữ chức Hộ bộ Thượng thư, từng đi sứ Trung Quốc. Chú của Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Quýnh, đậu tiến sĩ, sau đổi sang làm quan võ, giữ chức Đốc thị đạo Quảng Thuận, cũng là một người có tài văn học. Năm 1759 (mười sáu tuổi), Nguyễn Huy Tự đậu thứ năm kỳ thi hương, lúc bấy giờ Nguyễn Huy Oánh đang làm Nhập nội thị giảng ở phủ chúa, ông được bổ chức Thị nội văn chức tùy giảng để giúp cha. Sau đó liên tiếp ông giữ các chức Hồng lô tự thừa (1767), Tri phủ Quốc Oai (1768), Hiến sát phó sứ Sơn Nam (1770). Năm 1774, đổi sang làm quan võ, Nguyễn Huy Tự giữ chức Quản binh, bốn năm sau thăng lên làm Trấn thủ xứ Hưng Hóa. Năm 1779, ông được đặc ban Tiến triều ứng vụ, ngang với tiến sĩ, sau đó làm Đốc đồng trấn Hưng Hóa rồi kiêm Đốc đồng Sơn Tây. Được ít lâu thì mẹ vợ mất, lại có loạn kiêu binh, Nguyễn Huy Tự lấy cớ xin về nhà chịu tang rồi không ra làm quan nữa. Nguyễn Huy Tự lấy hai đời vợ, vợ trước là Nguyễn Thị Bành, vợ kế là Nguyễn Thị Đài, cả hai đều là con gái Nguyễn Khản, anh cả nhà thơ Nguyễn Du và đều giỏi chữ Nôm. Ông có mười ba người con, chín trai và bốn gái. Năm 1790, ông được vua Quang Trung triệu vào Phú Xuân bổ chức Hữu thị lang, ông làm được mấy tháng thì bệnh nặng và mất ngày 27 tháng 7 năm 1790, thọ 48 tuổi. 11
  17. 1.2.2. Truyện Hoa tiên Như chúng tôi đã trình bày, Nguyễn Huy Tự sống trong thời kỳ khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến và sự suy yếu của tập đoàn thống trị Lê – Trịnh. Ông tích cực tham gia hoạt động, tạm thời gác lại nghiệp văn thơ để cầm vũ khí nhằm bảo vệ trật tự xã hội đang bị lay chuyển. Bởi vậy, hẳn đây không phải là thời gian nhàn rỗi và là nguồn cảm hứng để ông có thể sáng tác truyện Hoa tiên. Dựa vào ghi chép về dòng họ Nguyễn Huy, nhà phê bình Hoài Thanh đã đưa ra nhận định “Nguyễn Huy Tự đã viết Hoa tiên hồi còn nhỏ tuổi” [26,tr104]. Ý kiến này có cơ sở và khá chuẩn xác. Vào thời chúa Trịnh Doanh, sau khi đậu thứ 5 kì thi hương khi mới 17 tuổi, Nguyễn Huy Tự rời quê lên Thăng Long giúp cha giảng sách ở phủ Thế tử. Từ lâu, phong trào sáng tác thơ văn chữ Nôm đã thịnh hành ở Thăng Long. Trịnh Doanh, Trịnh Sâm và Nguyễn Huy Oánh đều có tài làm thơ Nôm, Nguyễn Huy Tự cũng là người có sở trường về thơ phong tình. Nguyễn Huy Tự đã đính ước với con gái của Nguyễn Khản. “Tư thất của Nguyễn Khản dựng ở xóm Bích – câu, nhà cửa lộng lẫy, vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, không kém gì vườn chúa nên thường được Trịnh Sâm ra chơi và tỏ lời khen ngợi” [4,tr11]. Khi Nguyễn Huy Tự đến làm rể ở phủ Nguyễn Khản đã cảm nhận được vẻ đẹp cảnh vật, chàng trai đang tuổi hai mươi rạo rực yêu đương mới thấy hết được giá trị của ca bản Hoa tiên ký. Nhà phê bình Tĩnh Tịnh Trai bình luận rằng đó là một truyện “khởi bằng gió trăng, kết bằng gió trăng mà trong khoảng giữa, không có chỗ điểm xuyết nào thoát ra ngoài hai chữ gió trăng” [4,tr10]. Cảm xúc tuổi trẻ trong Nguyễn Huy Tự rất thích hợp viết một truyện dài về yêu đương và công danh như truyện Hoa tiên. Từ việc nghiên cứu nguyên tác kết hợp với tìm hiểu cuộc đời Nguyễn Huy Tự cho phép chúng tôi khẳng định: “Nguyễn Huy Tự đã viết truyện Hoa tiên khoảng giữa thế kỷ XVIII, từ năm 1759 (năm ông tới Thăng Long) đến năm 12
  18. 1768 (năm được bổ làm quan ở Sơn Tây), lúc này ông vào khoảng 17 – 26 tuổi” [4,tr12]. Truyện Hoa Tiên theo GS. Nguyễn Lộc “bản nguyên tác của Nguyễn Huy Tự có độ dài là 1.532 câu lục bát. Sau khi được một người em họ bên vợ là Nguyễn Thiện sửa chữa và thêm thắt thì bản truyện có tất cả là 1.826 câu” [21,tr600], và được Đỗ Hạ Xuyên khắc ván in đầu tiên vào năm Ất Hợi (1875) đời Tự Đức, với nhan đề là Hoa tiên nhuận chính, hay Hoa tiên nhuận chính tân biên. Tuy nhiên, theo văn bản có trong sách Văn học thế kỷ 18 do PGS. Nguyễn Thạch Giang chủ biên, thì “bản nhuận sắc chỉ có 1.766. Nhưng, theo nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm thì bản này có đến 1.858 câu” [9,tr70]. Sự ra đời của truyện Hoa tiên là một thành công lớn của văn học cổ điển dân tộc. Việc nhuận sắc tác phẩm được coi là vấn đề đáng lưu tâm. Nghiên cứu cho rằng Nguyễn Huy Tự viết truyện Hoa tiên vào khoảng từ năm 1759 đến năm 1768, khi ông khoảng 17 đến 26 tuổi. Sau đó tác phẩm đã qua tay nhiều người nhuận sắc, có thể điểm qua như sau: Nguyễn Thiện được coi là người đầu tiên có công nhuận sắc truyện Hoa tiên. Nguyễn Thiện, tự Khả Dục, hiệu Thích Hiên, sinh ra ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Là con nhà quan lại khá giả, cháu gọi Nguyễn Khản bằng bác, gọi thi hào Nguyễn Du bằng chú. Bàn về việc nhuận sắc tác phẩm có nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh vấn đề Truyện Kiều của Nguyễn Du chịu ảnh hưởng từ truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự hay ngược lại? Ông Đào Duy Anh đã đưa ra giả thuyết “Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều trong khoảng 1805 – 1809. Nguyễn Thiện đã đọc tác phẩm ấy rất kỹ và có lẽ chính nó đã tạo nên cảm hứng nhuận sắc truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự” [4,tr18]. Ý kiến này đã giải quyết ổn thỏa vấn đề nhuận sắc của Nguyễn Thiện. Nhận thấy truyện Hoa tiên và Truyện Kiều có mối ảnh 13
  19. hưởng qua lại tác động lẫn nhau. Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của truyện Hoa tiên: Truyện Hoa tiên nguyên tác: Bụi hồng dứt nẻo đi về chiêm bao Truyện Kiều viết: Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao Tuy nhiên Nguyễn Du đã tiếp thu một cách có chọn lọc và sáng tạo đem lại sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm của mình. Trong việc nhuận sắc truyện Hoa tiên, Nguyễn Thiện đã dụng công tô đậm quan niệm trung hiếu, tiết nghĩa bằng cách viết lại phần mở đầu. Nguyễn Huy Tự mở đầu tác phẩm bằng cách tả cảnh đêm thông qua việc đối chiếu chuyện Ngưu Lang – Chức Nữ trên trời với chuyện tình yêu của con người mà vào truyện: Nương lan nhẹ hóng mát chiều, Vàng pha gió quế, trắng dìu hương sen. Gác rèm câu nguyệt xiên xiên, Này hôm ả Chức chàng Khiên họp vầy. Ngược lại, Nguyễn Thiện khi nhuận sắc truyện Hoa tiên đã mở đầu bằng hai chữ “trăm năm” như Truyện Kiều: Trăm năm một sợi chỉ hồng Buộc người tài sắc vào trong khuôn trời Ngoài ra, Nguyễn Thiện cũng nhấn mạnh tính chất triết lý, một số tư tưởng Nho giáo thời bấy giờ. Ông thường coi trọng cách diễn tả con người qua hành động và cả nội tâm nhân vật. 14
  20. Kết cấu truyện cũng đã có sự thay đổi đáng chú ý khi Nguyễn Thiện nhuận sắc. Ở bản Hoa tiên nguyên tác sau hồi Phủ Lưu ép duyên, tiếp theo hồi Lương Sinh bàn kế đánh giặc rồi mới đến hồi Ngọc Khanh gieo mình xuống sông. Trong bản Hoa tiên nhuận sắc Nguyễn Thiện đã đổi hồi Ngọc Khanh gieo mình xuống sông lên trước hồi Lương sinh bàn kế đánh giặc để đảm bảo sự hợp lí và lôgic. Xét một cách bao quát, nhận thấy Nguyễn Thiện đã dụng công trong việc nhuận sắc truyện Hoa tiên. Tuy nhiên phần đóng góp sửa chữa của Nguyễn Thiện còn nặng về phần hình thức. Ông đã sửa lại hầu hết những từ ngữ mộc mạc, giản dị thay vào đó bằng ngôn từ bóng bẩy, chải chuốt phù hợp với câu chuyện tình yêu nơi lầu son gác tía. Điều đó làm cho câu chuyện chủ yếu phổ biến trong giới tri thức hơn tầng lớp bình dân. Vũ Đài Vấn là người tiếp theo nhuận sắc truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện năm 1828. Trong bài tựa của mình, ông khen truyện Hoa tiên “từ hồi hai mươi bốn trở về trên, lời và ý đều chu đáo” nhưng ông chê tác phẩm “từ hồi hai mươi bốn trở về sau, lời thì nhiều chỗ trái tai mà ý thì không khỏi có chỗ thiếu sót” [4,tr251]. Khi nhuận sắc truyện Hoa tiên, Vũ Đài Vấn đã kéo dài tác phẩm thêm 86 câu thơ nữa. Ông ý thức sâu sắc hơn trong việc đưa những quan niệm đạo đức vào tác phẩm. Trong bản Hoa tiên nhận chính tân biên, tác giả lên tiếng khẳng định kẻ làm trai đã vì ơn vua mà chết thì: Nát thân danh vẫn chưa sờn, Thôi thôi ngọc lở còn hơn ngõa tuyền Ngoài ra Vũ Đài Vấn còn có công sửa chữa những từ ngữ thô nhám cho thanh thoát, nhẹ nhàng đồng thời uốn nắn tâm lí nhân vật phù hợp với hoàn cảnh. 15
  21. Truyện Hoa tiên nguyên tác: Tôi con chút phận thờn bơn, Nếu dồi dắng lại ra hờn cợt ngay Vũ Đài Vấn chỉnh sửa: Tôi con chút phận thờn bơn Xe duyên là mấy đội ơn cao dầy Xét thấy việc nhuận sắc của Vũ Đài Vấn có phần nặng về nội dung tư tưởng. Tuy nhiên không thể phủ nhận công lao to lớn của ông khi bỏ ra một năm để sửa chữa truyện Hoa tiên cho phù hợp với hoàn cảnh và các quan niệm đạo đức. Cao Bá Quát trong bài tựa của mình cũng đã lên tiếng khẳng định vì yêu mến truyện Hoa tiên nên đã sửa chữa, gọt rũa “mạo muội thêm thắt vào sự điểm chính, ý muốn chữa lại cho đúng những chỗ sai lầm hoặc lạ lùng, tạp nham mà sửa nên cuốn sách của một nhà” [4,tr255]. Hiện nay người ta không rõ Cao Bá Quát đã đính chính cụ thể ở những điểm nào nhưng chắc chắn rằng việc làm của ông có xu hướng điều chỉnh hơn là nhuận sắc truyện Hoa tiên. Điểm qua lịch sử phức tạp của truyện Hoa tiên, chúng tôi nhận thấy tác phẩm đã trải qua hai lần nhuận sắc và một lần “đính chính”. Nhìn chung giá trị nội dung tử tưởng của bản nguyên tác so với các bản nhuận sắc về cơ bản là như nhau. Tuy nhiên xét ở khía cạnh hình thức nghệ thuật, hầu hết các bản nhuận sắc sắp xếp theo trật tự thời gian có giá trị hơn. Truyện Hoa tiên được chia làm ba phần: Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn tụ, có thể tóm tắt như sau: Phương Châu là con một gia đình quyền quý ở Tô Châu. Chàng xin mẹ cho sang trọ học nhà người mợ ở Tràng Châu, cùng học với con bà là Diêu 16
  22. Sinh. Vào một đêm trăng, Phương Châu tình cờ gặp Dao Tiên, con gái quan Đô đốc họ Dương. Say mê trước Dao Tiên, chàng tìm cách làm quen với Dương tướng quân và một lần được vào chơi trong phủ họ Dương, Phương Châu đã họa thơ tỏ tình với Dao Tiên. Lúc đầu Dao Tiên còn e ngại, quyết liệt nhưng nhờ có sự giúp đỡ của hai tì nữ Vân Hương và Bích Nguyệt, Dao Tiên cũng động lòng yêu mến Phương Châu. Dưới ánh trăng vàng dịu hai người đã trao nhau lời thề kết duyên trọn đời. Thế nhưng thề nguyền chưa được bao lâu hai người đã phải chia tay nhau do ở quê nhà, cha Phương Châu đã đính ước cho chàng cùng với con gái quan Lại bộ thượng thư họ Lưu tên là Ngọc Khanh. Mặc dù vô cùng đau khổ nhưng chàng cũng không thể trái lệnh của cha mẹ. Dao Tiên nghe được tin ấy, cho rằng người mình thương đã bội ước nên cũng buồn đau không kém và tự nhủ suốt đời không lấy chồng. Chợt Dương tướng công có lệnh làm quan ở kinh đô. Đến khi ông nhận lệnh cầm quân ra trận diệt giặc Hồ, mẹ con Dao Tiên đành phải đến ở nhà người cậu họ Tiền ở Kinh đô. Phương Châu cùng Diêu Sinh thi đỗ Thám hoa, được bổ làm quan ở kinh đô. Phương Châu tình cờ gặp lại Dao Tiên, hai bên phân trần giãi bày tâm sự. Biết cha nàng bị giặc vây, Phương Châu liền xin vua đi giải vây, nào ngờ đánh thua chàng bị quân đối phương vây chặt. Nhận được tin đồn rằng Phương Châu tử trận, Ngọc Khanh – vị hôn thê chính thức đã thay xiêm y để tang chồng. Sau đó vì thương con đương tuổi trẻ, mẹ Ngọc Khanh ép lấy chồng khác, nàng nhảy xuống sông tự tử may gặp thuyền của quan Đề học họ Long vớt được. Diêu sinh được phái ra trận giải vây đánh tan được quân đối phương, giải vây cho Dương tướng công và Phương Châu. Tất cả đều được nhà vua ban thưởng. Tưởng rằng Lưu Ngọc Khanh đã mất, Phương Châu bèn dâng biểu tâu việc nàng tử tiết, được nhà vua tặng phong cho nàng. Sau đó, Vua lại tự đứng 17
  23. ra làm mối cho Dao Tiên và Phương Châu. Đang khi đó Đề học Long cùng Lưu Ngọc Khanh cũng vừa đến kinh đô. Nhờ Đề học Long dâng sớ tâu việc lên, vua lại để Ngọc Khanh kết duyên cùng Phương Châu. Cuối cùng, Phương Châu không những cưới được Dao Tiên, Ngọc Khanh mà còn cưới cả hai cô tì nữ là Vân Hương và Bích Nguyệt. Kết thúc một nhà đoàn viên vui vẻ. Tiểu kết chương 1 Truyện Hoa tiên là một truyện ái tình, tác phẩm phản ánh tình yêu đôi lứa trong sự biến động về văn hóa, tư tưởng và sự khắt khe của lễ giáo phong kiến của thời đại bấy giờ. Đây là một tác phẩm hấp dẫn và có giá trị tinh thần to lớn đối với dân tộc. 18
  24. Chương 2 TRUYỆN HOA TIÊN THỂ HIỆN CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA 2.1. Thể hiện câu chuyện tình yêu tự do theo tiếng gọi trái tim Giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đánh dấu sự ra đời của khuynh hướng văn học “dân chủ nhân văn”. Nội dung chính của các tác phẩm chủ yếu hướng tới vấn đề thân phận con người, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp quyền sống và hạnh phúc của họ, đặc biệt đề cao khát vọng chính đáng yêu và được yêu của con người. Truyện Hoa tiên nằm trong khuynh hướng văn học thời kì này. Trước cuộc sống bị chi phối bởi những khuôn khổ khắc chế của lễ giáo phong kiến, con người luôn khát khao được giải phóng để có một tình yêu tự do, được hạnh phúc và sống cuộc sống bình đẳng. Để được như vậy, tất yếu con người phải đấu tranh bằng cách vượt ra khỏi những quy phạm của lễ giáo phong kiến. Văn học muốn phát triển thì phải tìm cách phá vỡ khuôn khổ cứng nhắc, khô khan, mang tính quy phạm của lễ giáo phong kiến. Điều này ứng với trào lưu văn học của giai đoạn thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Các nhà tư tưởng lớn, các nghệ sĩ lớn đã tìm cách vượt ra khỏi khuôn khổ đó tìm kiếm quan niệm tiến bộ. Trong truyện Nôm tiếng nói khát khao tự do, phá vỡ rào cản phong kiến không phải hiếm hoi, ta dễ dàng bắt gặp xu hướng này trong hệ thống tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Phan Trần Nguyễn Huy Tự cũng thể hiện sự tiến bộ đó. Tác phẩm của ông cho thấy sự phá vỡ rào cản lễ giáo phong kiến bó buộc con người. Truyện Hoa tiên nằm trong hệ thống truyện Nôm tài tử – giai nhân, tác phẩm hướng tới ca ngợi tình yêu đôi lứa. Câu chuyện tình yêu ở đây vừa mang dáng dấp cổ điển theo lễ nghi thông thường của người Việt; vừa mang dáng dấp chuyện tình yêu tự do, phóng khoáng. Tìm hiểu kĩ mối tình Phương Châu – Dao Tiên chúng ta thấy rõ điều này. 19
  25. Tác giả Hoa tiên đã thành công khi xây dựng mối tình tự do giữa hai nhân vật Phương Châu và Dao Tiên. Điều này được thể hiện trước hết ở nhân vật Phương Châu. Chàng cũng là một kiểu nhân vật của truyện Nôm bác học, mang những nét khái quát của nhân vật tài tử. Phương Châu là một chàng thư sinh đang trên đường học hành thi cử vô tình gặp Dao Tiên, nhận thấy đây là mối tình của cuộc đời mình lập tức “bút nghiên chí nản”, “son phấn tình nồng”. Đây là mô típ quen thuộc của truyện Nôm, các chàng trai khi động lòng với cô gái sẽ ngã vào tình yêu, tạm gác chuyện học hành sang một bên để tìm kiếm thành quả trong tình yêu trước mới quay lại nghiệp thi cử và cuối cùng đỗ đạt. Phương Châu say đắm Dao Tiên ngay từ lần đầu gặp gỡ. Vì vậy trong mọi suy nghĩ, hành động, lời nói của chàng đều hướng tới mục đích đạt được tình yêu của Dao Tiên. Vào một đêm trăng, khi dạo bước một mình trong vườn thoạt nhìn thấy Dao Tiên chàng đã bị quyến rũ bởi vẻ đẹp lộng lẫy của nàng như một cành mẫu đơn dưới ánh trăng mờ tỏ: Lối thơm mở rộng ba đình Xạ đâu thoang thoảng lọt bình phôi pha? Vừa cơn mây bợn, trăng lòa Mảnh tình gửi nét thu ba đưa vào. Cuộc tiên đôi ả má đào Riêng làn xiêm trắng đem vào mắt xanh. Gió đông gờn gợn sóng tình Dưới trăng lộng lẫy một cành mẫu đơn. (87-94) Trong tâm trí Phương Châu kể từ đó “làn xiêm trắng” chưa lúc nào thôi ám ảnh chàng, bóng dáng người đẹp luôn hiện hữu, thổn thức trong tâm tưởng. Bước chân của chàng đột ngột bước đến chỗ Dao Tiên chơi cờ. Xuất hiện người lạ lập tức mọi người dừng cuộc chơi, Dao Tiên vội vàng tránh mặt. Dưới con 20
  26. mắt nửa mê nửa tỉnh, Phương Châu cho rằng nàng còn kịp nhìn mình và nở một nụ cười: Rèm Tương động thét tiếng hoàn Vẻ lan vừa chán, gót sen vội dời. Nhác xem chiều mỉm mỉm cười Sóng dầm khóe hạnh chưa dời nét trông (103-106) Mặc dù Bích Nguyệt – cô hầu của Dao Tiên đã cố ý nói với Phương Châu rằng Dao Tiên nếu có cười thật cũng chỉ là cười nỗi “thày lay dại làn”: Nguyệt rằng: Mê mẩn xinh thay! Cười chăng: cười nỗi thày lay dại làn. (147 – 148) Thế nhưng chàng vẫn quyết tâm theo đuổi Dao Tiên không nản chí. Phút gặp người đẹp hôm ấy đã làm chàng mê mẩn vướng phải tơ lòng, lúc nào cũng thổn thức mơ tưởng, khao khát yêu đương. Phương Châu tìm về nơi gặp xưa thấy cảnh vật vắng lặng càng làm chàng buồn rầu: Chập chờn bóng nguyệt trêu ai Hoa đâu rụng, lá đâu rơi trước thềm. Kêu sương tiếng nhạn lay thềm, Phong thư đưa đến cung Thiềm được không? (217-220) Chàng tìm cách dò hỏi về nàng và đã dùng hết số tiền mẹ cho đi ăn học để mua một dinh cơ đồ sộ cạnh nhà Dao Tiên. Phương Châu tìm cách làm quen với Dương tướng quân, một lần được vào chơi trong phủ họ Dương chàng đã họa thơ tỏ tình với nàng. Vì quá say mê trước vẻ đẹp của Dao Tiên, Phương Châu tìm mọi cách năn nỉ xin Vân Hương, Bích Nguyệt làm mối lái giúp đỡ mình. Có thể nói trong tình yêu, chàng là người chủ động và tích cực. 21
  27. Tình cờ gặp Dao tiên lần thứ hai, Phương Châu đã không ngần ngại bỏ hết những phép tắc của thánh hiền để nặng lời gắn bó với nàng bằng giọng điệu tha thiết, nhẹ nhàng, bày tỏ tình cảm của mình: Ngập ngừng, sinh mới rén triềng: Lẽ chung đã vậy tình duyên sao là? Đeo đai chót một tiếng đà Đài thiêng hổ có trăng già chứng lâm. Nghĩ nguyền ví chẳng tòng tâm, Cũng liều đầu bạc cho lầm tuổi xanh! (653-658) Giáo điều phong kiến không cho phép trai gái gặp nhau nhưng Phương Châu đã bất chấp để được gặp mặt người đẹp và bày tỏ tình cảm với nàng. Lễ giáo chưa đủ mạnh để nhắc nhở Phương Châu quay về với những khuôn phép đạo đức, chàng vẫn luôn nghe theo tiếng gọi rạo rực, thổn thức xuất phát từ trái tim mình. Giống như tất cả các chàng trai khác trong nhóm truyện Nôm bác học, Phương Châu đủ kiên nhẫn để chinh phục với tình yêu mà chàng mong đợi. Nhân vật Kim Trọng trong Truyện Kiều cũng vậy. Lần đầu gặp Thúy Kiều, chàng đã vội tương tư nàng: Ba thu dọn lại một ngày dài ghê Cảm giác nhớ nhung của tình yêu làm cho thời gian dường như ngưng đọng. Chàng tìm gặp Thúy Kiều bằng cách quay lại nơi đầu tiên gặp gỡ nhưng không thấy nàng. Chàng tìm đến nhà nàng nhưng cũng không thể gặp. Nếu như Kim Trọng thuê một vườn thúy bên cạnh nhà Thúy Kiều để rồi may mắn gặp được nàng thì Phương Châu cũng dùng hết số tiền ăn học mua một dinh cơ đồ sộ để tìm cách làm quen và họa thơ tỏ tình với Dao Tiên. Như vậy các chàng trai trong nhóm truyện Nôm bác học đều là những người cố gắng để đạt được khát vọng tình yêu của mình. 22
  28. Sau vài lần gặp tiếp theo, dường như Dao Tiên đã chắc chắn được tình cảm của mình, nàng đã bộc lộ rõ những cử chỉ thể hiện tình cảm của mình và khát khao nắm bắt được tình yêu: Thà cho xong một bề nào, Chẳng thà trắc trở hôm dao nhường này! ( 691 – 692) Cô gái quý tộc Dao Tiên ngày nào còn mắng tì nữ của mình nay đã vươn lên vượt qua rào cản lễ giáo để đến với tiếng gọi tình yêu, tiếng nói vọng lên từ đáy lòng mình sau quá trình dằn vặt bản thân, nàng ngại ngùng thanh minh: Người hay gỗ đá chi chi Đã đành tình ấy, còn suy nỗi này. (705 – 706) Đến lần gặp thứ ba, Dao Tiên mới động lòng thực sự với Phương Châu, cuối cùng tình yêu tha thiết và sôi nổi của chàng đã chinh phục được Dao Tiên bước qua bức tường lễ giáo để đến với niềm hạnh phúc dạt dào trong tình yêu. Dưới ánh trăng vàng dịu hai người đã trao nhau lời thề kết duyên trọn đời: Hội này người hợp trăng tròn Niềm son giải một chén son cùng thề (787-788) Dao Tiên cũng nhận ra rằng trót thề nguyền nghĩa là đã vi phạm đạo đức phong kiến, điều đáng hổ thẹn. Tuy nhiên niềm tin và khát vọng hạnh phúc đã giúp nàng nghe theo tiếng gọi của trái tim mình. Lễ giáo phong kiến đối với Dao Tiên lúc này như một cái bóng mờ nhạt ở đâu đó và sức mạnh tình yêu chiến thắng tất cả: Trăm năm nhẹ một tấm nguyền Vừng soi đã hổ với trên đỉnh đầu Thề lòng dãi bến Hà Châu 23
  29. Đãi nhau trên Bộc, trong Dâu ra mà? (817-820) Có thể sống trong thời đại đầy biến động như vậy nên Nguyễn Huy Tự khát khao tự do và luôn đề cao tình yêu ở chỗ dù bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến khắt khe thế nhưng tình yêu tự do vẫn cất cánh. Truyện Kiều của Nguyễn Du mang những lề thói quy định rõ ràng nhưng lại khá tự do khi ông cho nhân vật của mình không chỉ yêu một người mà có đến ba mối tình thật sự trong cuộc đời ở những giai đoạn khác nhau nhưng đều thể hiện khát vọng yêu đương của con người một cách mạnh mẽ. Nằm trong khuynh hướng này tác giả Hoa tiên cũng để cho nhân vật của mình đến với nhau bằng tình yêu tự nguyện “chén son cùng thề”. Sự táo bạo của giai nhân và tài tử đã đưa đến một tình yêu tự do theo tiếng gọi trái tim. Thế nhưng thề nguyền chưa được bao lâu hai người đã phải chia tay nhau do ở quê nhà, cha của Phương Châu đã đính ước cho chàng cùng với con gái quan Lại bộ thượng thư họ Lưu tên là Ngọc Khanh. Mặc dù vô cùng đau khổ nhưng chàng cũng không thể trái lệnh của cha mẹ. Chuyển biến đột ngột khiến cho chàng vô cùng đau đớn. Phương Châu trở lại đi học, đi thi rồi làm quan nhưng những điều đó dường như không còn nghĩa lí với chàng. Khi tình cờ gặp lại Dao Tiên, hai bên phân trần về những chuyện xảy ra. Biết nàng đau khổ vì cha bị giặc vây, chàng quyết định xin vua đi giải vây để tỏ nghĩa với nàng đồng thời cũng mang trong mình hy vọng: Họa khi trời có chiều lòng, Một chuông vàng, một chỉ hồng cũng hay (1309-1310) Theo sát quá trình chinh phục tình yêu của Phương Châu, chúng tôi nhận thấy chàng tượng trưng cho tình cảm thắm thiết sôi nổi, luôn hướng đến tình 24
  30. yêu tự do và khát vọng hạnh phúc. Tuy bị lý trí phong kiến khuất phục nhưng ở chàng vẫn còn nghe được những tiếng thổn thức yêu đương trong tâm hồn. Điều đáng trân trọng ở mối tình Dao Tiên – Phương Châu là bởi nó bắt nguồn từ tình yêu tự do, đôi lứa đến với nhau trên cơ sở tự nguyện chứ không phải do mối lái hoặc thế lực phong kiến nào quyết định. Với Hoa tiên, tác giả đã lồng vào bên trong một nếp sống phóng khoáng, tự do thể hiện được giá trị cũng như cái nhìn tích cực, khác xa với những quan niệm, giáo điều nghiêm ngặt của tầng lớp quý tộc. Điều này được thể hiện một cách rõ ràng chủ yếu qua hai nhân vật tỳ nữ Vân Hương và Bích Nguyệt. Cuộc sống trần tục và niềm vui trần tục luôn đem lại sức hấp dẫn bởi nó hấp dẫn ngay trong phần cơ bản nhất của văn học là phần nội dung hình tượng trong nó. Có thể nói trong các lĩnh vực này thì các triết lí siêu hình của Phật giáo, Nho giáo hay Đạo giáo có tiếng vang rất ít, mà thực sự có ý nghĩa và sức thuyết phục lại là thứ triết lý do kinh nghiệm sống và đấu tranh của con người mang lại. Dao Tiên thấy triết lý hấp dẫn nhất đối với mình là triết lý của những cô hầu gái Vân Hương và Bích Nguyệt về tuổi trẻ, năm tháng và về cả nỗi buồn: Một năm được mấy mùa xuân Một ngày được mấy giờ dần, ai ơi Truyện thơ Nôm thông thường bao giờ cũng xuất hiện những nhân vật “Ông tơ bà Nguyệt”, “bà mối” làm tăng tính hấp dẫn cho tác phẩm. Truyện Hoa tiên cũng được xây dựng theo mô típ như vậy. Tưởng chừng như mối tình Phương Châu – Dao Tiên là mối tình không mối lái, nhưng thực chất để làm nên mối tình đó phải có vai trò rất lớn của hai “bà mối” Vân Hương và Bích Nguyêt. Họ xuất hiện khi Phương Châu năn nỉ giúp đỡ và khi tỉ tê tâm sự với Dao Tiên. Trong đêm thề nguyền của Dao Tiên – Phương Châu, Vân Hương và Bích Nguyệt cũng đứng ra chứng giám cho tình yêu tự do của họ. Đó còn là hai tỳ nữ thân thuộc vô cùng nhạy bén trong việc nắm bắt tâm lí của cô chủ, chỉ 25
  31. thoáng nghe qua giọng nói bâng khuâng có chút gợn buồn của Dao Tiên trước cảnh trời thu thì ngay lập tức Bích Nguyệt đã thấy rõ tâm tư nàng: Ngẫm nên, Hương đã biết chiều Trình: Sao như khổ có điều đắng cay Dạy rằng: Hiu hắt hơi may Chiều thu nhường cũng nên say chiều người (695 – 698 ) Vân Hương tỏ ra rất thông minh, khi ngồi xem trăng cùng Dao Tiên nàng nhận thấy ngay rằng cô chủ buồn rầu vì sao và câu nói dối của Dao Tiên “chiều thu nhường cũng nên say chiều người” không thể qua mặt được cô tì nữ nhanh nhạy này. Tình yêu tự do vượt lễ giáo phong kiến được tác giả thể hiện một cách khá chủ ý khi mượn lời hai nhân vật tì nữ Vân Hương và Bích Nguyệt để đưa ra quan niệm sống phóng khoáng về tình yêu. Những con người bình dân trên cái nền xã hội phong kiến của tầng lớp quý tộc trải lòng một cách chân thật về tình yêu, về tuổi trẻ: Liễu kia thu lại còn xuân Người kia đã dễ mấy lần xuân chăng (587 – 588) Vân Hương còn khéo léo đưa ra những gợi ý bỏ lửng: Làm người nên nghĩ lấy nao Một xuân một tuổi, nỡ nào luống qua? (603 – 604) Khi nói đến nỗi buồn, chuyện trăng xế, chuyện lứa đôi họ tỏ ra rất chiêm nghiệm: Cũng sầu song cũng vừa vừa, Riêng người gối lẻ tương tư là sầu. 26
  32. ( 599 – 600) Chính những lời nói tha thiết, xuất phát tự tận đáy lòng, niềm tâm sự về tuổi trẻ, về hạnh phúc đã thôi thúc Dao Tiên vươn lên mạnh mẽ hướng đến tình yêu tự do vượt rào cản lễ giáo. Nếu không có hai tỳ nữ Vân Hương và Bích Nguyệt chắc hẳn sau nhưng rung động của cảm xúc, Dao Tiên sẽ bị đạo đức phong kiến, những khuôn phép khắt khe chi phối mà từ bỏ tình yêu tự do. Như vậy cho thấy sự quan trọng của họ trong việc hình thành nên mối tình chớm nở trong lòng Dao Tiên. Quan niệm sống mới mẻ cũng được thể hiện rất rõ khi họ tán thành chuyện tình yêu của giai nhân tài tử. Đây là những suy nghĩ mang tính tích cực, đổi mới mà dưới chế độ phong kiến rất khó bắt gặp: Rành rành một vách đôi bài Giai nhân tài tử sánh vai khéo là (393 – 394) Những suy nghĩ và chiêm nghiệm đều bắt nguồn từ kinh nghiệm thực tiễn trong đời sống khi nhìn nhận một vấn đề nào đó của tầng lớp bình dân trong xã hội. Điều táo bạo và giá trị trong suy nghĩ của Vân Hương và Bích Nguyệt là khi họ quan niệm về chung thủy. Nếu như xã hội phong kiến đòi hỏi người phụ nữ dù bị phụ bạc vẫn phải “tam tòng tứ đức” thì họ lại cho rằng một khi người chồng đã phụ bạc thì người vợ có quyền làm lại cuộc đời, tự xây dựng hạnh phúc cho mình: Dù ai nỡ phụ chi ai luống chờ Nhụy đào vẻn vẹn còn tơ, Ví ai bướm lạc ong lừa hiếm ai (974 – 976) Nhận thấy đây là hai nhân vật thông minh, hoạt bát đồng thời đem lại cái nhìn sâu sắc, tích cực về nhân sinh quan mang tinh thần nhân đạo và khao khát 27
  33. hướng tới hạnh phúc tự do. Quan niệm sống phóng khoáng như châm ngòi cho việc thúc đẩy con người vượt qua những rào cản phong kiến đang kìm hãm những tâm hồn. Với Hoa tiên, Nguyễn Huy Tự đã dựng lên một câu chuyện tình yêu khá hấp dẫn. Ở tác phẩm người ta thấy được cảm xúc rạo rực của những người mới lần đầu bước vào tình yêu, thấy được sự mạnh mẽ, quyết liệt của chàng trai cùng sự e lệ ban đầu của cô gái. Người ta cũng thấy được cái tình yêu táo bạo vượt qua mọi rào cản của lễ giáo phong kiến để đôi lứa đến với nhau một cách tự do và yêu nhau không cần bất kì sự sắp đặt nào của lễ giáo. Qua đó tác giả đã lồng vào tác phẩm những tư tưởng tiến bộ, tiếng nói tự do và khát vọng hạnh phúc. 2.2. Thể hiện câu chuyện tình yêu trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến Giai đoạn thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng trầm trọng, Nho giáo đã lung lay từ cội rễ, mọi giá trị cương thường bị đảo lộn song không vì thế mà biến mất hoàn toàn. Nho giáo vẫn tồn tại và luôn là khuôn khổ trói buộc tư tưởng con người một cách mạnh mẽ. Xã hội phong kiến tỏa chiết tình cảm con người trong những mối quan hệ nam nữ, yêu đương, không chấp nhận con người có quyền tự do cả trong tình yêu và hôn nhân. Những quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “áo mặc sao qua nổi đầu”, đã chi phối tư tưởng của con người, đưa họ vào những khuôn phép khắc nghiệt. Truyện Nôm thường xây dựng các câu chuyện dựa trên cơ sở của tình yêu và khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Tình yêu thường được thử thách bởi sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến. Đây là vấn đề trọng tâm đặt ra trong hầu hết các tác phẩm. Ngoài nội dung phản ánh tình yêu, hạnh phúc gia đình và bảo vệ nhân phẩm, truyện Nôm còn tập trung xoáy sâu vào tố cáo bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của 28
  34. quần chúng lao động và đưa ra những cách giải quyết tích cực các vấn đề xã hội. Nguyễn Huy Tự được sinh ra trong thời điểm như vậy nên ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng của những quy định, lề thói phong kiến nhất định. Điều này thể hiện rõ trong truyện Hoa tiên. Trong tác phẩm, lễ giáo phong kiến đã ràng buộc mối tình của Phương Châu với Ngọc Khanh thông qua việc đính ước trên thuyền của cha Phương Châu với quan Lại bộ thượng thư họ Lưu. Đó là một biểu hiện của lễ giáo phong kiến quan niệm về việc hôn nhân là do “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, là quan niệm hà khắc về hôn nhân của lễ giáo phong kiến. Quan niệm này thường xuất hiện ở các sáng tác truyện Nôm bác học, hầu hết các nhân vật đều thuộc tầng lớp phong kiến, nhiều nhân vật xuất thân từ tầng lớp cấp cao. Sở dĩ vậy là bởi trong truyện Nôm bình dân, con người ở tầng lớp bình dân tự do trong chuyện tình yêu, hôn nhân. Trong ca dao có rất nhiều câu nói đến việc trai gái tự do bày tỏ tình cảm của mình, chẳng hạn: Hôm qua tát nước đầu đình, Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen. Em lượm thì cho anh xin, Hay là em để làm tin trong nhà? Đó là lời ngỏ của chàng trai đối với cô gái, nhưng không chỉ có các chàng trai chủ động chuyện ngỏ lời mà các cô gái cũng rất táo bạo: Vào vườn hái quả cau xanh, Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu. Trầu này têm những vôi tàu, Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay. Trầu này ăn thiệt là say, Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng. Dùng chăng nên đạo vợ chồng, Xoi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương! 29
  35. Trong truyện Nôm bình dân, tác giả còn xây dựng những câu chuyện tình yêu, hôn nhân của những người không cùng đẳng cấp, hầu hết các cô gái trong loại truyện này được giới thiệu là con vua, con quan, nghĩa là những người thuộc đẳng cấp quý tộc lại yêu những anh học trò nghèo, có nguồn gốc từng cao quý nhưng sa cơ lỡ vận phải thất thế, nuôi chí công danh và tương lai làm quan to. Ở truyện Nôm bác học lại không xây dựng chuyện tình yêu như vậy, dưới sự sắp đặt của lễ giáo phong kiến, con người không được tự quyết định hôn nhân của mình, sự quyết định ấy là của cha mẹ, nếu trái lời thì đó được coi là sự bất hiếu. Hơn thế nữa “việc hôn nhân tuy là của hai người nhưng kéo theo việc xác lập quan hệ giữa hai gia tộc” [27,tr143] mà “lựa chọn một dòng họ, một gia đình phải xem cửa nhà hai bên có tương xứng không, có môn đăng hộ đối không” [27,tr143]. Có thể thấy rằng, Lương gia và Lưu gia là hai gia đình “môn đăng hộ đối”, đều có truyền thống nho học, hơn nữa Lương tướng công và Lưu tướng công vốn là người đồng quận và là bạn đồng liêu nên đã dễ dàng hợp ý nhau và mong kết thông gia: Hứng vui, thóc mách chuyện nhà Họ Lưu một gái tên là Ngọc Khanh. Tuần mười lẻ bảy xuân xanh, Người trang trọng, nết đoan trinh vẹn mười. Rõ tin Lương mượn chén mồi: Đường quan, anh cũng nhác đời như em, Vòng trần hẳn đã không thêm Chút nguyền du Nhạc còn hiềm chưa nguôi. Dám toan kén lứa chọn đôi Tấn thời có lẽ với người phồn hoa Thôi thì ta lại biết ta, 30
  36. Chỉ e rêu cỏ biết là nên chăng? (849-860) Cả hai bên đều đang tính đến việc yên bề gia thất cho con cái và muốn kết thông gia với nhau. Với lời “chỉ e rêu cỏ biết là nên chăng?” Lương Công đã lựa cách nói nhún rằng gia đình ông hèn mọn như rêu cỏ nên không biết Lưu Công liệu có nhận lời cầu thân không. Thế rồi họ đi đến quyết định đính hôn cho Phương Châu và Ngọc Khanh: Một lời đã với nước non Vâng xe mối chỉ cho tròn tơ duyên (863-864) Yếu tố phong kiến trong truyện về cơ bản còn thể hiện ở chỗ nêu lên bài học to lớn của Nho giáo về chữ “trung”, chữ “hiếu” và chữ “trinh”. Phương Châu yêu Dao Tiên tha thiết nhưng bởi chữ “hiếu” nên dù đau khổ vì phải bội ước thì chàng vẫn phải vâng lời cha mẹ lấy Ngọc Khanh: Dẫu vàng dẫu đá với người Nặng tình đâu dám nhẹ lời song thân (949 – 950) Tình yêu dang dở, Phương Châu không còn đoái hoài đến việc học hành thi cử cho đến khi được Diêu Sinh nhắc nhở rằng việc thi cử đỗ đạt là chuyện hệ trọng, phải công thành danh toại để đáp nghĩa đền ơn cha mẹ sinh thành: Sinh rằng: Duyên nghiệp dở dang Thì thôi còn nghĩ chi đường công danh Thưa rằng: Dạy thế sao đành Lầu Ban sáu kỷ, song huỳnh mười thu (1131 – 1134) Không chỉ Phương Châu, Diêu Sinh mà tất cả những bậc nam nhi thời bấy giờ đều chịu sự chi phối lễ giáo phong kiến về tư tưởng. Trong quan niệm chính thống thời đại phong kiến, đã làm trai thì “đầu đội trời, chân đạp đất”, phải có 31
  37. “chí”, “công danh”, có khát vọng để theo đuổi ước mơ, hoài bão. Bậc nam nhi phải luôn đặt mình trong những mối quan hệ với quốc gia, dân tộc, đi liền với đó là những mục tiêu và hành động tương xứng: “Nam nhi khoa cử đỗ đạt thành danh chấp chính là mẫu người lý tưởng của thời trung đại” [23,tr42]. Chí làm trai vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực của Nho giáo: lập đức, lập công (có công danh sự nghiệp), lập danh (có danh tiếng tốt đẹp), nam nhi phải vẫy vùng tứ bể, phải cống hiến sức trai phục vụ non sông, đất nước và như một tất yếu, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Hình tượng nam nhi đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với các nhà thơ, sức hấp dẫn của hình tượng ấy còn kéo dài đến cả thể kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Nói đến hình tượng nam nhi trong văn học trung đại giai đoạn này, có thể nhắc tới Nguyễn Công Trứ: Trong vũ trụ đã đành phận sự Phải có danh mà đối với non sông (Chí nam nhi) Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông (Nợ tang bồng) Trong truyện Hoa tiên, chí nam nhi thể hiện rõ ràng khi đôi bạn Phương Châu – Diêu Sinh quyết tâm dùi mài kinh sử để thi đỗ ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình liên tiếp: Bảng thu sơm sớm đề tên Tiện đường kíp lại ruổi liền hội xuân Đi về đường quẫn dưới chân Vũ môn ba đợt trao lần nay mai (1153-1156) Phương Châu đỗ làm quan ở Kinh đô, tình cờ gặp lại Dao Tiên, hai bên phân trần về những chuyện xảy ra trước đó. Biết nàng đau khổ khi cha bị giặc 32
  38. vây, chàng quyết định xin vua đi giải vây để tỏ tình nghĩa với nàng. Sau đó, nghe tin Phương Châu tử trận nơi chiến trường, Ngọc Khanh ở nhà thay xiêm y để tang chồng: Ngọc Khanh xiết nỗi ngại ngùng Đổi màu xiêm trắng, kém thưng cơm vàng (1397 – 1398) Đến khi Phương Châu được giải vây và chiến thắng trở về, nhận được tin Ngọc Khanh vì mình mà tự tử. Vua đứng ra kết duyên cho chàng với Dao Tiên. Phương Châu lại đang canh cánh trong lòng xót thương cho Ngọc Khanh vì mình mà tử tiết. Chàng băn khoăn do dự và được Diêu Sinh động viên, khuyên bảo: Tình phu phụ, nghĩa quân thân Trong tam cương ấy xem phân nào hơn Tôi con một phận thờn bơn Xe duyên là mấy đội ơn cao dầy (1661 – 1664) Không chỉ Phương Châu, Dao Tiên và Ngọc Khanh cũng chịu sự chi phối sâu sắc của lễ giáo phong kiến. Văn học trung đại quan niệm về người phụ nữ đẹp là người phụ nữ có vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Trái ngược với việc bước vào tình yêu một cách mạnh dạn và tự nhiên của Phương Châu, để đi đến tình yêu, Dao Tiên đã phải trải qua một quá trình dằn vặt tâm lí nội tâm khá phức tạp và nhiều do dự. Nếu như Thúy Kiều mới lần đầu gặp Kim Trọng đã: Tình trong như đã mặt ngoài còn e (Truyện Kiều – Nguyễn Du) thì Dao Tiên sau lần đầu gặp Phương Châu lại tỏ ra khó chịu và mắng các cô hầu: “ Đi đâu mà để người đâu xông càn?”, nàng thẳng từng tuyên bố: 33
  39. Tự ta đóng nguyệt cài mây, Buồng thơm chớ lọt mảy may gió tà (251 – 252) Đến lần gặp thứ hai, thái độ của Dao Tiên không còn quyết liệt nữa nhưng nàng lại khéo léo gợi ý Phương Châu tìm người mai mối cho mối tình của mình: Dẫu cho nền lễ, sân thi, Cùng nhau đôi lứa cũng tùy nơi xe. Chia đường hãy lánh cho về Lẽ thường hẳn chẳng e nề chút ru? (661-664) Tuy nhiên Phương Châu đã nhanh chóng gạt đi con đường mai mối của Dao Tiên: Lời vàng ý ngọc dám sai? Lửa gần, lại bảo cho bài nước xa? (667-668) Chàng cho rằng lời của Dao Tiên quả là vàng ngọc không sai chút nào nhưng việc nàng bảo chàng đi tìm mối mai chẳng khác nào lửa đang cháy ngay cạnh mà lại đi tìm nước xa, tình yêu đang mãnh liệt, sục sôi trong lòng khiến chàng không thể chờ lâu đến thế. Trong mối tình này, khuôn khổ lễ giáo phong kiến không phải là rào cản của Phương Châu nhưng lại cản đường đến với tình yêu tự do của Dao Tiên. Thái độ điềm đạm và nghiêm túc của cô gái quý tộc thời xưa vẫn luôn hiện hữu trong con người Dao Tiên. Nàng nhắc nhở tì nữ của mình “mạch rừng bưng bít” bởi cái đạo đức phong kiến đã thấm nhuần trong tâm tưởng không cho phép nàng rời bỏ lễ giáo: Là điều thuận miệng vắng đây, Mạch rừng bưng bít cho hay mới vừa (533 – 534 ) 34
  40. Với tác phẩm, Dao Tiên chính là nhân vật mang những nét tiêu, thể hiện sự giằng co giữa tiếng gọi tình yêu tự do với những bài học đạo đức phong kiến, là mâu thuẫn giữa tình yêu và lí trí. Cuối cùng tình yêu đã chiến thắng lí trí, tình yêu đã thuyết phục Dao Tiên. Sau lời thề ước, những tưởng tình yêu sẽ nở hoa thế nhưng họ lại buộc phải chia cắt bởi Phương Châu không thể trái lại sự sắp đặt hôn ước của gia đình. Về sau, khi vô tình gặp lại, tưởng bị Phương Châu phụ bạc, nàng đau đớn không kìm lòng và tiếng nói có phần chua chát, nặng nề: Phận đàn bà ngỡ là chơi Một ngày tăm tiếng muôn đời mắt tai (981 – 982) Có lẽ bởi nỗi nhớ nhung da diết người xưa vẫn luôn canh cánh trong lòng và tình yêu lúc nào cũng phấp phỏng nên khi nghe chàng thanh minh, Dao Tiên đã vội tin để lúc hai người từ biệt lại: Biệt ly ai vẽ nên lòng? Càng mau giọt tủi, càng nồng tấm thương. (1321 – 1322) Đó còn là sự kết hợp hài hòa của nhan sắc và đức hạnh “tam tòng tứ đức”. Dao Tiên khi nhận tin Phương Châu đã tử trận, quá đau đớn nàng ý định tự tử, thế nhưng khi nghĩ đến chữ “hiếu”, nghĩ đến bổn phận của con đối với cha mẹ nàng đành gạt ý định đó qua một bên: Tình kia bể núi thực rằng, Tình này sao lại nhắc bằng hiếu kia? Gìn lòng ngọc tạc, vàng ghi Hiếu tình cân lại nhắc đi cho toàn (1357 – 1360) 35
  41. Xã hội phong kiến quy định người con gái chỉ được yêu một lần, đã yêu thì cho dù bị người yêu phụ bạc vẫn phải giữ trọn tấm lòng trinh tiết. Chẳng thế mà Dao Tiên thà chết chứ không chịu lấy người khác: Mặc ai dặn nhạt, nguyền phai Tự ta xuân khóa, mây cài với ta! (983 – 984) Cô tiểu thư Ngọc Khanh cũng mới tuổi xuân đã thủ tiết thờ chồng mặc dù đó là người nàng chưa từng biết mặt, chưa từng cưới mà chỉ do cha mẹ mai mối đính ước cho nàng. Ngọc Khanh được ngợi ca là “tuyết sạch giá trong” danh tiết của nàng khó ai hơn được. Thương con, mẹ Ngọc Khanh khuyên đi lấy chồng khác bởi đương còn tuổi trẻ nhưng nàng nhất định không nghe, sau sự phản kháng quyết liệt Ngọc Khanh đã gieo mình xuống sông tự tử, mâu thuẫn thể hiện giữa một bên tình và một bên hiếu. Tất cả tư tưởng ấy đều do đạo đức phong kiến chi phối, xã hội phong kiến đã chỉ rõ bổn phận của người con gái chỉ được lấy chồng một lần và Ngọc Khanh đã làm đúng với những “cương thường” nhưng dường như việc tự tử của nàng còn nghiêng về tình mà nhẹ về hiếu: Rằng: Cương thường nặng núi non, Hãy còn trời đất, hãy còn di luân. (1403 – 1404) Ở Hoa tiên, lễ giáo phong kiến chưa bao giờ bị gạt bỏ hay bị chê trách mà nó luôn là thứ uy quyền chi phối toàn bộ xã hội. Trong cảnh đoàn tụ, tác phẩm đã dùng mệnh vua cho Phương Châu kết hôn với cả Dao Tiên và Ngọc Khanh, đồng nghĩa với việc cưới luôn hai tỳ nữ Vân Hương và Bích Nguyệt. Dễ hiểu kết thúc đó không làm ta lấy làm lạ bởi xã hội phong kiến cho phép kết hôn một chồng nhiều vợ. 36
  42. Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm đưa ra ý kiến “Truyện Hoa tiên, tuy là một câu chuyện tình, nhưng có chủ ý khuyên răn người đời về đường luân thường” [8,tr318]. Các nhân vật xuất hiện, hành động, suy nghĩ đều do lễ giáo chi phối nhằm mục đích giáo huấn dăn dạy. Điều này có thể nhận thấy ở hai nhân vật Ngọc Khanh và Diêu Sinh, họ là sản phẩm của lễ giáo “tiếng nói của họ trong truyện từ đầu đến cuối là những lời thuyết minh cho giáo lý của Khổng, Mạnh” [17,tr222]. Tác giả Hoa tiên đã xây dựng tình yêu lồng vào khuôn khổ phong kiến. Tình yêu của họ đã phần nào vượt qua vòng lễ giáo nhưng suy nghĩ cũng như tư tương của họ vẫn không thể nào thoát khỏi những bài học đạo đức phong kiến, người đọc cũng dễ dàng chấp nhận những yếu tố phong kiến bên trong tác phẩm. Tiểu kết chương 2 Với sự tinh tế và tâm hồn nhạy bén, Nguyễn Huy Tự đã xây dựng câu chuyện tình yêu tự do trước sự ràng buộc, chi phối mạnh mẽ của lễ giáo. Truyện Hoa tiên chứa đựng giá trị nội dung sâu sắc và đậm chất nhân văn, nhân đạo, đồng thời thể hiện sự sáng tạo của tác giả. Tác phẩm mang đậm nét hiện đại và cả nét truyền thống. 37
  43. Chương 3 MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 3.1. Kết cấu Kết cấu là hệ thống những yếu tố, những mối quan hệ, liên hệ giữa bộ phận và tổng thể. Kết cấu tác phẩm gắn liền với văn bản, ngôn từ, quan hệ không gian, thời gian, quan hệ nhân quả với các phương thức riêng biệt, tạo nên thế giới nghệ thuật mới mẻ. Kết cấu là sự sắp xếp, tổ chức các thành tố của văn bản thành một đơn vị thống nhất, hoàn chỉnh và ý nghĩa. Bất kì một văn bản nào cũng có một kết cấu nhất định hàm chứa dụng ý của tác giả sao cho phù hợp với nội dung văn bản. Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm [24,tr156]. Nó sắp xếp, gắn kết toàn bộ các yếu tố, thành phần để tạo nên một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn. Không có kết cấu, những yếu tố, những thành phần chỉ là những mảnh vụn rời rạc. Như vậy, kết cấu là một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Có nhiều hướng khi nghiên cứu mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, trong các hướng nghiên cứu, trong các công trình, mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, giới khoa học đã nhất trí với kết luận: thứ nhất, cách kể chuyện theo trình tự tuyến tính của thời gian; thứ hai, kết cấu cốt truyện theo ba sự kiện lớn: Gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ; thứ ba là chiều hướng kết thúc có hậu. TS. Nguyễn Thị Nhàn đã có công trình nghiên cứu về mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, công trình này có hướng nghiên cứu mới, đó là: mô hình kết cấu cốt truyện thơ Nôm theo trình tự thời gian và mô hình kết cấu cốt truyện thơ Nôm không theo trình tự thời gian, trong đó lại chia nhỏ thành nhiều loại. Truyện Nôm là tác phẩm tự sự và dường như “các truyện Nôm đều cho thấy một cấu trúc truyện tương đồng” [22,tr19]. Truyện Hoa tiên cũng được xây dựng theo mô hình ổn định của hệ thống cốt truyện với ba sự kiện cơ bản: 38
  44. Gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ. Sự kiện gặp gỡ được tác giả miêu tả khá sinh động. Nguyễn Huy Tự còn dụng công xây dựng sự kiện tai biến khá hấp dẫn ở chỗ nhân vật chàng trai bị cha mẹ đính ước với người con gái khác là Ngọc Khanh trong khi lòng vẫn luôn hướng về tình yêu tự do của mình, vì thế ở đây lại xuất hiện thêm một câu chuyện khác là chuyện hôn nhân chứ không phải tình yêu. Sau khi tình cờ gặp lại, chàng tìm cách trả nghĩa cho Dao Tiên, sẵn sàng xông pha chiến trường giải vây cho cha nàng. Sự kiện đoàn tụ với kết thúc có hậu được tác giả xây dựng đồng nhất các truyện Nôm thông thường. Kết cấu truyện Hoa tiên rất chặt chẽ và gọn gàng. Tác phẩm được chia thành nhiều hồi, từ hồi này sang hồi khác mà không bị rối loạn, kết cấu tóm trước, mở sau gọn gàng mà đầy đủ, tài tình mà tinh tế. Trong truyện Nôm bác học thường xuất hiện mô típ chàng trai đang trên đường ứng thí gặp cô gái đẹp “bút nghiên chí nản” mà “son phấn tình nồng”. Chàng muốn đặt chuyện chiến thắng trong tình yêu trước rồi mới quay về nghiệp thi cử. Phương Châu trong truyện Hoa tiên là một chàng trai như vậy. Chàng xin đến trọ học ở Tràng Châu, tình cờ gặp nàng Dương Dao Tiên, say đắm và đã họa thơ tỏ tình với nàng. Hai người cùng nhau nặng lười thề thốt. Ngờ đâu ở nhà, cha của Phương Châu đã đính ước cho chàng cùng Ngọc Khanh. Mặc dù vô cùng đau khổ, nhưng chàng cũng đành phải theo lệnh của cha mẹ. Dao Tiên nghe được tin ấy, cho rằng người mình thương đã bội ước, nên cũng buồn đau không kém và tự nhủ suốt đời không lấy chồng. Phương Châu không còn đoái hoài đến việc học hành thi cử cho đến khi được Diêu Sinh nhắc nhở rằng việc thi cử đỗ đạt là chuyện hệ trọng. Chàng thi đỗ, được cử làm quan tình cờ gặp lại Dao Tiên, rồi giãi bày tâm sự cùng nàng. Biết cha nàng bị giặc vây, chàng liền xin vua đi giải vây, nào ngờ đánh thua, chàng bị quân đối phương vây chặt. Nhận được tin đồn rằng Phương Châu tử trận, Lưu Ngọc Khanh, vị hôn thê chính thức đã thay xiêm y để tang chồng. Sau, vì mẹ khuyên lấy chồng khác, 39
  45. nàng nhảy xuống sông tự tử may gặp thuyền của quan Đốc học Long cứu vớt. Sự kiện đoàn tụ ở đây được tác giả xây dựng một cách vô cùng viên mãn, đôi lứa sum họp. Phương Châu lấy được cả Dao Tiên và Ngọc Khanh làm vợ. Truyện khép lại bằng một kết thúc đẹp. Tuy nhiên, kết cấu truyện Hoa tiên có phần khác với các truyện Nôm thông thường. Nguyễn Huy Tự đã khiến câu chuyện hấp dẫn hơn ở chỗ chàng trai không phải ngay lập tức đã đến được với tình yêu của mình mà gặp phải rào cản buộc phải lấy người khác trong khi lòng không yêu bởi vậy Phương Châu vẫn luôn canh cánh hướng về tình yêu của mình. Kiều Thu Hoạch có nhận xét như sau: “Về mặt xây dựng cốt truyện, hình thái cấu trúc của truyện Nôm cũng vẫn là truyện cổ tích, tức là cấu trúc theo mô hình kết thúc có hậu”. Ở đây, truyện Hoa tiên cũng là truyện Nôm với một cái kết có hậu như đã nói ở trên. Do quá trình giao lưu văn hóa, văn học khu vực nên văn học Việt Nam thời trung đại thường có đặc biệt là hiện tượng “vay mượn” đề tài, cốt truyện. Nguồn gốc đề tài cốt truyện truyện Nôm rất đa dạng, có thể khái quát và chia thành ba nhóm chính: Sử dụng cốt truyện dân gian (truyện cổ tích, thần tích, ) lưu hành từ lâu trong đời sống dân gian và sáng tác dân gian; Mượn cốt truyện trong kho tàng tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc – chủ yếu là Minh Thanh; Những tác phẩm có cốt truyện bắt nguồn từ đời sống thực tại xã hội. Phần lớn các truyện Nôm đều mượn kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân gian hay các sự tích, truyện cổ và bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ. Cơ sở cốt truyện là xung đột xã hội, xung đột giữa thiện – ác hay chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc, chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến. Truyện Hoa tiên viết dựa theo một ca bản Trung Quốc có nhan đề là Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, một ca bản mang giá trị nghệ thuật cao. Nhà phê bình Tĩnh Tịnh Trai nhận định rằng Hoa tiên là một câu chuyện “khởi bằng gió trăng, kết bằng gió trăng mà 40
  46. trong khoảng giữa, không có chỗ điểm xuyết nào thoát ra ngoài hai chữ gió trăng” [3,sđd,tr10] và “tác phẩm ấy là do hai người, một ông Giải nguyên và một ông Thám hoa cùng viết” [4,tr7]. Nguyễn Huy Tự theo sát cốt truyện của ca bản Trung Quốc, chỉ riêng đoạn cuối có thay đổi đồng thời ông diễn lại ca bản bằng thể thơ dân tộc, ông đã bỏ đi những chi tiết rườm rà, làm cho màu sắc trữ tình của tác phẩm nổi bật hơn. Nguyễn Huy Tự đã để cho Phương Châu dẫn hai vợ về thăm quê chứ không để cha mẹ Phương Châu lên kinh hay để Ngọc Khanh về thăm cha mẹ nàng như trong ca bản. Bên cạnh đó, không chỉ diễn nôm ca bản, Nguyễn Huy Tự cũng đã góp phần thu gọn câu chuyện, cắt bớt những phần dài dòng và những ý quanh quẩn. Ý thơ của Nguyễn Huy Tự trở nên nhẹ nhàng, cô đọng và hàm súc hơn bao giờ hết. Mở đầu tác phẩm ca bản có viết: Từng nghe một truyện kỳ phong nguyệt, Chung tình dằng dặc như biển trời Mai một phong lưu ai biết được? Nên đem truyền cho hậu thế xem! Nguyễn Huy Tự viết: Từng nghe trăng gió duyên nào, Bề sâu là nghĩa, non cao là tình Người dung hạnh, bậc tài danh, Nói vay mượn tiếng chập chành để gương Như vậy, Nguyễn Huy Tự đã có những nét sáng tạo riêng của mình khiến câu văn nhẹ nhàng nhưng vẫn thấm đẫm ý nghĩa sâu sắc. Điều quan trọng hơn cả là tác phẩm vẫn trung thành với ca bản, không làm mai một ý nghĩa ca bản Hoa tiên ký. Kết cấu chặt chẽ, tình tiết phong phú nhưng không rườm rà của tác phẩm đã thể hiện được tài năng và sáng tạo của tác giả Nguyễn Huy Tự. Nhờ sự sáng 41
  47. tạo ấy, truyện được dựng lên như vừa có chủ tâm nghệ thuật, vừa có ngẫu nhiên, đơn giản, tinh tế. Với cách kết cấu như vậy, tác giả đã khiến cho mạch kể của tác phẩm nhanh chóng phát triển theo khuynh hướng của nó đồng thời tạo ra độ gấp khúc. Tác phẩm kết thúc có hậu thể hiện chính mong ước, khát vọng mãnh liệt của nhân dân về một tình yêu tự do, cuộc sống hạnh phúc, công bằng. 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Nhân vật văn học là những con người được miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không làm ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Bettong Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải đơn giản là những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”. Để xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Điều này đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời, hiểu người. Nhưng có một điều không kém phần quan trọng là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy ra sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học. Nhân vật trong truyện Nôm thường là những bậc giai nhân – tài tử. Có thể nói, một trong những thành công rực rỡ nhất về phương diện nghệ thuật của Hoa tiên là xây dựng nhân vật. Nhân vật trong truyện Hoa tiên có số lượng như sau: Nhân vật chính: 3. (gồm Phương Châu, Dao Tiên, Ngọc Khanh). Nhân vật trung tâm: 3. (gồm Phương Châu, Dao Tiên, Ngọc Khanh). Nhân vật phụ: 3. (gồm Vân Hương, Bích Nguyệt, Diêu Sinh). 42
  48. Số lượng nhân vật trong tác phẩm không nhiều, tuy vậy không làm giảm sự hấp dẫn của tác phẩm bởi tác giả đã xây dựng câu chuyện với những tình tiết hay và mới lạ. Nhân vật trong Hoa tiên ít nhiều đã mang bản sắc và cá tính riêng biệt. Truyện Nôm luôn chia nhân vật thành hai tuyến đối lập: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Thông thường trong truyện Nôm khi miêu tả nhân vật là người tốt sẽ là những người có dung mạo đẹp, có học vấn và ăn nói văn hoa, cử chỉ, hành động thì đoan trang, mực thước ngược lại đối với nhân vật phản diện. Nếu như trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chia thành hai loại hình nhân vật: tuyến nhân vật chính diện tả theo bút pháp ước lệ, tuyến nhân vật phản diện tả theo bút pháp tả thực thì truyện Hoa tiên tác giả lại không chia giống như vậy. Sở dĩ vậy là bởi trong truyện Hoa tiên không có tuyến nhân vật phản diện mà các nhân vật trong tác phẩm đều là những nhân vật chính diện. Phương Châu là một chàng trai sống trong khuôn khổ giáo điều nhưng giàu tình cảm, chấp nhận chạy theo tình yêu một cách tha thiết, mãnh liệt. Dao Tiên lại là một cô gái quý tộc e dè, không chủ động, có đời sống nội tâm phức tạp với khá nhiều dằn vặt trong suy nghĩ và cũng là nhân vật được xây dựng thành công nhất trong truyện. Ngọc Khanh và Diêu Sinh luôn bó mình trong khôn khổ lễ giáo phong kiến với tính cách khô khan, chưa bao giờ làm điều gì trái với đạo lí Khổng, Mạnh. Hai tì nữ Vân Hương và Bích Nguyệt đều mang điểm chung ở sự lạc quan, yêu đời và tư tưởng sống tiến bộ. Các tác giả truyện Nôm thường làm nổi bật ngoại hình, phẩm chất nhân vật bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ pháp quen thuộc của văn chương trung đại, không chỉ có tác giả của truyện Hoa tiên mới sử dụng mà hầu hết các nhà thơ, nghệ sĩ của văn học trung đại đều sử dụng đến. 43
  49. Tác giả Hoa tiên đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả nhân vật của mình từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động mà ở đây tiêu biểu là Phương Châu và Dao Tiên. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu cho người đọc một trang văn nhân tài mạo, với tầm thước đĩnh đạc hơn người: Húy Phương Châu, tự Diệc Thương Phong tư điềm giá, từ chương toát loài. Mặt hoa, tài gấm gồm hai, Đua chân nhảy phượng, sánh vai cưỡi kình. (17 – 20) Chỉ bằng vài nét vẽ, dăm ba từ ngữ chấm phá tác giả đã làm hiện lên một chàng thư sinh có tướng hiền quý. Hình ảnh Phương Châu tượng trưng cho một “trang văn nhân tài tử” tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tương xứng “đua chân nhảy phượng, sánh vai cưỡi kình”. Đó là một vẻ đẹp cân đối, hài hòa, tỏ rõ chí nam nhi, một người vừa có sức vóc, vừa có tài năng, nhân tài này sẽ làm nên được việc lớn. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng bút pháp ước lệ khi miêu tả Từ Hải: Râu hùm hàm én mày ngài, Vai năm thước rộng thân mười thước cao. Từ Hải được nhà thơ xây dựng giống như hình tượng người anh hùng trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là người anh hùng với dáng hình “vai năm thước rộng, thân mười thước cao”. Có thể nói qua câu thơ miêu tả của Nguyễn Du về hình dáng của Từ Hải ta thấy được một hình ảnh người anh hùng thứ thiệt, mang tầm vóc ngang tàng, hoành tráng của những anh hùng thời xưa. Đó chính là nét đẹp phương phi của những người anh hùng thời xưa mà qua đây chúng ta biết thêm về nét đẹp ấy. Nếu Từ Hải được miêu tả với những vẻ đẹp của người anh hùng thì Kim Trọng lại được miêu tả là một văn nhân với phong thái trang nhã, lịch sự: 44
  50. Trông chừng thấy một văn nhân, Lòng buông tay khấu bước lần dặm băng. Đề huề lưng túi gió trăng, Sau lưng theo một vài thằng con con. Tuyết in sắc ngựa câu dòn, Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời. Không chỉ Phương Châu, nhân vật Dao Tiên cũng được tác giả sử dụng triệt để bút pháp ước lệ để miêu tả vẻ đẹp của nàng. Văn học trung đại thường sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ, lấy thiên nhiên làm thước đo vẻ đẹp con người. Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều: Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Với Nguyễn Du, “nét ngài nở nang” là nét đẹp hài hòa, duyên dáng, là cân đối, phù hợp với “khuôn trăng đầy đặn” của Thúy Vân, vẻ đẹp đoan trang báo hiệu cho nàng một cuộc sống an nhàn, hạnh phúc. Vẻ đẹp của Thúy Vân tưởng chừng không ai sánh được, nhưng Thúy Kiều lại có vẻ đẹp vượt trội “sắc sảo mặn mà” hơn, vẻ đẹp ấy khiến “hoa ghen”, “liễu hờn”. Vẻ đẹp khiến tạo hóa phải ghen tị báo hiệu cho một cuộc bể dâu của kiếp hồng nhan. Thúy Vân, Thúy Kiều của Nguyễn Du có vẻ đẹp như vậy thì Dao Tiên của truyện Hoa tiên cũng đẹp không thua kém: Gió đông gờn gợn sóng tình 45
  51. Dưới trăng lộng lẫy một cành mẫu đơn. Mặn mà chìm cá, rơi nhàn Nguyệt ghen gương khép, hoa hờn thắm bay Thiên nhiên sẵn đúc dầy dầy, Càng tươi tỉnh nét, càng say sưa tình. (93 – 98) Ta bắt gặp vẻ đẹp của Dao Tiên trong sự si tưởng của Phương Châu: Người sao ngọc đúc, tuyết đông Vẻ sao mây chuốt gương trong hỡi người ( 159 – 160) Cũng giống như Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp Thúy Kiều “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” thì vẻ đẹp của Dao Tiên ở đây cũng khiến trăng phải ghen “nguyệt ghen” với sắc đẹp của nàng mà mờ đi, hoa hờn vì kém đẹp nên màu thắm như cũng phôi pha “thắm bay”, cái vẻ đẹp do trời ban của Dao Tiên cứ dần lộ ra một cách rực rỡ. Truyện Nôm thường ít khi miêu tả nội tâm nhân vật, nếu có thì chỉ là một vài dòng tâm lí. Tiêu biểu cho số ít truyện Nôm miêu tả nội tâm nhân vật chính là Truyện Kiều của Nguyễn Du, chẳng hạn với đoạn trích Trao duyên, nỗi đau xót của Thúy Kiều cao trào ở hai câu cuối: Ôi kim lang! hỡi kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! Tác giả truyện Hoa tiên cũng xây dựng nhân vật của mình, tiêu biểu là nhân vật Dao Tiên với những nét tâm lý. Dao Tiên là nhân vật thể hiện sâu sắc nhất mối giằng co giữa lí trí và tình cảm với biết bao nhiêu dằn vặt trong suy nghĩ: Nẻo lần mượn lối trao cho Ý tròn gương nguyệt, lọ mờ bóng mây 46
  52. Là điều thuận miệng vắng đây Mạch rừng bưng bít cho hay mới vừa (531 – 534) Dao Tiên dằn vặt trong mối suy nghĩ như tơ vò rằng nếu Phương Châu đã say mê mình như vậy sao không mời người đến mối lái, hẳn khi dùng con đường hợp lễ như vậy thì chẳng phải đàng hoàng, trọn vẹn hơn sao? Nhưng dẫu sao cuối cùng tình yêu đã chiến thắng, Dao tiên tâm sự với hai cô hầu: Mảnh tiên từng thấy thơ nào, Ruộng tình dễ thấm nên hao bể lòng (527 – 528) Tiếng nói tình yêu đã thôi thúc nàng khiến Dao Tiên xúc động mãnh liệt: Đàn đâu réo rắt bên tai, Lửa đâu chất chứa nhường khơi trận hằng (607 – 608) Tâm trạng day dứt của Dao Tiên còn được bộc lộ ở những trang truyện về sau, khi tình duyên dang dở Dao Tiên vô cùng đau xót: Phận đàn bà ngỡ là chơi Một ngày tăm tiếng muôn đời mắt tai (981 – 982) Sau này khi đã được vua tứ hôn lấy Phương Châu, Dao tiên vẫn mang nhưng nét đáng quý và tấm lòng ân tình. Nàng nói đến 18 câu thơ ca tụng phẩm giá của Ngọc Khanh, tự nhận Ngọc Khanh chịu thiệt thòi là do mình gây ra nên khi vua tứ hôn cho Phương Châu lấy cả Ngọc Khanh, Dao Tiên không ích kỉ mà còn khuyên Phương Châu cưới nàng, cho rằng việc Ngọc Khanh còn sống gặp lại Phương Châu là trời thấm được nỗi oan của nàng: Bây giờ lầm cát mặc ai Vinh hoa riêng lấy một đời hay sao? 47
  53. Khi ăn nói, lúc ra vào Nghĩ nguồn cơn ấy, lòng nào cho yên? Dao Tiên và Ngọc Khanh sau này trong cảnh chung chồng luôn sống nhường nhịn và yêu kính nhau. Có thể nói Dao Tiên là nhân vật thể hiện sâu sắc nhất nội tâm, tâm lí nhân vật và là nhân vật đáng quý nhất trong toàn bộ những chương truyện. Bằng việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật lý tưởng, nhân vật chính diện có vẻ đẹp hài hòa giữa thể chất và tâm hồn, trở thành người đại diện cho những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Đặc sắc trong xây dựng nhân vật của Nguyễn Huy Tự còn được thể hiện khi ông xây dựng thành công hai nhân vật đại diện cho tư tưởng lễ giáo phong kiến là Diêu Sinh và Ngọc Khanh. Có thể nói đây là hai nhân vật luôn hành động và suy nghĩ theo khuôn khổ gò bó lý tưởng đạo đức của lễ giáo khắt khe. Mọi lời nói của họ đều mang ý nghĩa khuyên bảo, đồng tình với giáo lý Khổng, Mạnh, chưa từng làm điều gì trái với luân thường đạo lí. Với biệt tài xây dựng nhân vật tiêu biểu cho lý tưởng đạo đức phong kiến và nhân vật mang những phẩm chất tốt đẹp, hài hòa đã góp phần lớn trong việc tô đậm lý tưởng đạo đức đang hình thành trong tâm tưởng người đọc. 3.3. Ngôn ngữ Trong văn học trung đại, truyện Nôm là một bộ phận khá độc đáo. Giá trị của truyện Nôm đã được khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng hâm mộ của quần chúng ở nhiều thế hệ. Truyện Nôm thường sử dụng nhiều các điển tích, điển cố, các hình ảnh tượng trưng, ước lệ và hệ thống dày đặc từ Hán Việt, đưa thơ ca bác học nguồn thi liệu quý giá của tục ngữ, ca dao góp phần tạo nên tính uyên bác, tao nhã, tinh tế cho tác phẩm. 48
  54. Trong truyện Hoa tiên, tác giả sử dụng vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng được biểu hiện rõ ràng và cụ thể nhất việc sử dụng nhiều điển cố, điển tích và sử dụng chất liệu dân gian, chính điều này đã làm nên những giá trị nghệ thuật to lớn cho tác phẩm. Ngôn ngữ trong truyện Hoa tiên rất đặc biệt, nó là ngôn ngữ lấy chất liệu từ dân gian như ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ngôn ngữ đời thường của quần chúng nhân dân nhưng nó còn có sự kết hợp với ngôn ngữ bác học với các điển cố hàm súc, cô đọng, và những từ Hán Việt. Trong tác phẩm có nhiều câu thơ được rút ra trực tiếp từ ca dao: So le ai khéo đọc đường Tiếc thay cho cái dã tràng luống công ( 473 – 474 ) Được rút ra từ câu ca dao: Dã tràng xe cát bể dòng Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì Những câu thơ trong truyện Hoa tiên được rút từ ca dao không câu nào tác giả sử dụng hoàn toàn mà đều có sự nhào nặn, cấu tạo lại để phù hợp với nội dung và hoàn cảnh trong tác phẩm. Nhà thơ còn sử dụng các tục ngữ, thành ngữ để đan cài trong truyện: Là điều thuận miệng vắng đây Mạch rừng bưng bít cho hay mới vừa (533 – 534 ) Nguyễn Huy Tự đã khéo léo vận dụng và sử dụng phép đảo ngữ của thành ngữ “ tai vách mạch rừng”. Hay trong câu thơ: Bên cờ từ nhác vẻ sao Trước trăm năm, ngẫm duyên nào chi không? 49
  55. ( 461 – 462 ) “Vẻ sao” chỉ vẻ đẹp của Dao Tiên, được viết thoát ý từ thành ngữ: “Đẹp tựa sao băng”. Cùng một loạt những thành ngữ, tục ngữ khác được nhà thơ sử dụng: Ví bằng cá lạnh đông câu Phận kia là vậy, thôi dầu vậy thôi ( 499 – 500 ) “Cá lạnh đông câu” ý nói câu cá trong mùa đông lạnh. Tục ngữ Hán văn có câu: “Thủy hàn ngư bất nhị” ( nước lạnh cá chẳng cắn mồi ) ý nói làm việc không có kết quả, chỉ phí công vô ích. Nhân dân ta thuở xưa cũng hay ví việc tình duyên như câu cá: – Kiếm mồi, ta thả câu chơi Họa may cá nước, chim trời gặp nhau – Cái cần câu trúc, cái lưỡi câu vàng Anh sắm mồi ngọc, ném sang hàm rồng. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ dân gian đi vào trang thơ truyện Hoa tiên thật tự nhiên, nhẹ nhàng mà tinh tế, hài hòa, cân đối khiến cho trái tim người đọc rung động. Thông qua đó ta thấy được sự tài tình, khéo léo của tác giả. Vốn là một trí thức nho học nên ngôn từ ông sử dụng trong tác phẩm khá tinh tế và uyên bác. Truyện Hoa tiên cũng giống như các tác phẩm văn học đương thời, mang đậm dấu ấn của từ ngữ Hán Việt, những điển cố, điển tích. Trong nghệ thuật sử dụng điển cố của văn học trung đại có hai cách: thứ nhất là dụng điển, sử dụng những điển cố có tích truyện; thứ hai là vận chữ. Việc tác giả sử dụng những điển cố từ văn học Trung Quốc là một trong những khía cạnh thể hiện sự tài hoa của tác giả trong việc lựa chọn, sắp xếp các hình ảnh, câu chuyện. 50
  56. Trong tác phẩm chúng tôi đã thống kê ngôn ngữ sử dụng điển tích, điển cố được thể hiện dưới bảng sau: Từ, cụm từ (câu thơ số) – Dụng điển Từ, cụm từ (câu thơ số) – Vận chữ Ải mây (725) Bóng câu (1562) Ải Nhàn (1038) Bóng thừa (292) Bóng chim (264) Bóng Tố (217) Châu nên đấu (722) Bữa huân (780) Chim xanh (909) Cặp Lý (1158) Chúa Sở (272) Chiếc bách (1298) Dải đồng (1469) Chính phong (1724) Doành Nhâm (334) Công chín chữ (1506) Duyên Việt Hồ (192) Chữ đề thiếp Tuyết (198) Dưới tùng trong quít (100) Cửa viên (300) Dương đài (271) Đài xuân (292) Đào thôn (77) Đào non (791) Đáy giếng (1466) Đình Cao (902) Động tỏa (141) Gấm ngày (841) Đồng tước (1754) Gấm nhuần (930) Gấm nên xe (722) Ghềnh Thái (1709) Giấc hồ (373) Gió bằng (1137) Giấc lá hươu (837) Hồ thỉ (35) Ghềnh Mã đương (756) Hội đào (1755) Giọt thắm (1402) Hùng bi (1844) Gót sen (104) Huyên đình (22) Kết cỏ (1646) Huỳnh song (209) Khoán bể (1608) Lòng hữu thất (1666) Lá hồng (482) Ngọc quan (1110) 51
  57. Lá ngô (334) Ngọn hạnh (1274) Lá thắm (909) Phượng cầu (221) Lầu Ban sáu kỷ (1134) Quả mai (910) Lầu xanh (242) Rồng trúc (1819) Liễu Chương đài (1092) Sóng đào (1819) Loan gầy bóng treo (694) Sông Thú (415) Long môn (862) Tấm lòng du Nhạc (856) Mảnh gương (1277) Tấm Tần (858) Mây mưa (271) Thân hiển danh giương (934) Mây ngồi mưa đi (824) Trên Bộc (810) Ngàn mây trắng bạc (1211) Trong Dâu (810) Ngậm vành (1646) Trướng loan (437) Nguyên phong (141) Túi Đào (1458) Non Mã (726) Vũ Tần (30) Non Vu (270) Phượng xo phím lựa (694) Quê Vị (37) Sàng đông (412) Sông Ô (728) Tăm cá (264) Tham lầu (1466) Thư sông (1608) Tiêu đông nhủ phượng (745) Tin sương (537) Tuần ráo cỏ (1412) Trúc lệ (1031) Vạc mai (835) 52
  58. Người đọc thông thường khó để hiểu được điển cố, từ Hán Việt nhưng do tương quan về văn cảnh nên vẫn có thể hiểu được ý của câu thơ, chẳng hạn: Một người bề gọi là dì, Thái cơ họ Mã, trăng kì đoàn viên Ấy người rủ bức xiêm huyền Với em, mới tạm kết duyên Việt Hồ (189 – 192) “Duyên Việt Hồ” ý nói đến duyên vợ chồng, đã có duyên số với nhau thì dù có ở cách xa vạn dặm như Hồ (Bắc Trung Quốc) và Việt (Nam Trung Quốc) rồi cũng lấy được nhau. Nguyễn Huy Tự chủ yếu sử dụng điển cố theo cách “dụng điển” buộc người đọc phải tra cứu mới có thể hiểu được: Non xuân trễ chút mái mây, Phượng xo phím lựa, loan gầy bóng treo ( 693 – 694 ) “loan gầy bóng treo” ở đây “loan” chỉ gương, văn học cổ điển thường nói gương loan, tác giả vận dụng tích Diệm Tân Vương nuôi chim loan ba năm không kêu, bà phu nhân cho chim soi gương, thấy bóng trong gương, nhớ đồng loại kêu lên mà chết, có câu: Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi Ở đoạn Vân Hương kể nhưng câu chuyện về người con gái tài sắc cho Dao Tiên nhằm giúp nàng chủ động, mạnh dạn hơn trong tình yêu Nguyễn Huy Tự đã sử dụng một loạt điển tích điển cố trong cùng một đoạn: Ải mây oán điệu tỳ bà Dấu giày non Mã sương pha nên đồ Buồm nan khói tỏa năm hồ 53
  59. Lâm tâm bờ cỏ sông Ô khắp đường ( 725 – 728 ) Câu thơ “Ải mây oán điệu tỳ bà” lấy từ tích Chiêu Quân, cung nữ thời Hán Nguyên đế, phải vâng lệnh vua sang Hồ cầu hòa. Đến Nhạn môn quan nàng ôm đàn tỳ bà đánh một khúc oán trách vua Hán bất lực để nàng phải long đong cực khổ. Ở câu tiếp theo lấy tích từ chuyện Dương Ngọc Hoàn là quý phi hết mực yêu dấu của Đường Minh Hoàng. Khi xảy ra loạn lạc, vua phải bỏ chạy vào đất Thục. Đến núi Mã ngôi (non Mã), quân sĩ đồng lòng xin vua giết Ngọc Hoàn rồi mới chịu đi tiếp, vua phải nghe theo. Tình sử chép: Sau khi nàng chết, có bà lão bán hàng bắt được chiếc giày, định giá 100 đồng tiền cho mỗi vị khách qua đường muốn xem, nhờ vậy mà trở nên giàu có ở đây ý nói câu chuyện bi thảm đó còn lưu lại cho đến ngày nay. Thông qua việc sử dụng những điển cố, nhà thơ đã làm cho những câu thơ trong bài thơ của mình trở nên hàm súc, cô đọng. Chỉ với đôi ba điển cố được lồng một cách khéo léo trong câu thơ đã có thể bộc lộ những điều cần nói và muốn nói, giúp người đọc dễ dàng nhận ra ý nghĩa và tiếp nhận ý nghĩa của câu thơ cũng như của cả tác phẩm một cách sâu sắc hơn. Nhận thấy trong tác phẩm của mình, Nguyễn Huy Tự chủ yếu sử dụng ngôn ngữ bác học. Khi nói đến tình yêu, phần lớn đều là ngôn từ đài các, bay bướm. Ngược lại, khi viết về cuộc sống đời thường ông lại sử dụng từ ngữ bình dân, mộc mạc. Việc thể hiện ngôn ngữ nhân vật ít nhiều thể hiện sự tinh tế của tác giả. Ngoài ra, việc sử dụng ngôn ngữ nhân vật trong truyện cũng rất đặc biệt. Đinh Thị Khang cho rằng Nguyễn Huy Tự chủ yếu thể hiện ngôn ngữ nhân vật ở dạng ngôn ngữ hội thoại: “Ngôn ngữ độc thoại chỉ có 47 câu (chiếm tỉ lệ 3,1% ) còn ngôn ngữ đối thoại là 443 câu (chiếm tỉ lệ gần 30%). Đây là tỉ lệ có tính chất phổ biến của ngôn ngữ đối thoại trong hệ thống 54
  60. truyện Nôm” [29,tr293]. Như vậy đủ để thấy được ngôn ngữ đối thoại chiếm vai trò quan trọng nhất định trong tác phẩm. Như vậy, bằng việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu giá trị biểu cảm cùng các điển cố, điển tích, từ Hán Việt, thành ngữ kết hợp chất liệu dân gian cùng nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật đã cho thấy được tài năng và sự am hiểu của tác giả. Tiểu kết chương 3 Vốn được đánh giá là một trí thức nho học, với trí tuệ uyên bác Nguyễn Huy Tự đã vận dụng thể loại truyện Nôm để sáng tạo nên một câu chuyện tình yêu. Trên các khía cạnh của phương diện nghệ thuật, Nguyễn Huy Tự đều được đánh giá khá cao: kết cấu chặt chẽ và hấp dẫn; nghệ thuật xây dựng nhân vật đã khắc họa nên những nhân vật sinh động Việc sử dụng nhiều điển tích, điển cố một mặt thể hiện phông văn hóa, vốn hiểu biết giàu có và phong phú của tác giả, với những người đọc hiện đại đây lại được coi là nhược điểm bởi việc sử dụng quá nhiều điển tích nên người đọc phải tra cứu nhiều mới có thể hiểu được tác phẩm. Vì vậy truyện Hoa tiên chủ yếu phổ biến trong giới trí thức nhiều hơn tầng lớp bình dân. 55
  61. KẾT LUẬN Truyện Hoa tiên là một trong những tác phẩm đánh dấu sự ra đời của truyện Nôm mang nhiều giá trị sâu sắc cả về phương diện nội dung và nghệ thuật. Hoa tiên là một truyện ái tình trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến, không chứa đựng nhiều dung lượng xã hội. Nhưng đó là một trong những truyện ái tình đầu tiên và Nguyễn Huy Tự có công mở đầu cho một con đường có ý nghĩa lớn trong đời sống tinh thần của xã hội phong kiến. Tác phẩm viết về mâu thuẫn giữa tình yêu và lễ giáo phong kiến xoay quanh ba nhân vật chính vượt ra ngoài khuôn khổ để yêu đương nhưng vẫn yêu trong vòng khuôn phép, nội dung này có sức hấp dẫn lớn đối với độc giả. Truyện đồng thời phản ánh nội dung khá lớn của thời đại đó là khát vọng chiếm lĩnh hạnh phúc, tình yêu tự do, cá nhân, bảo vệ phẩm chất và giá trị của con người. Truyện Hoa tiên đã đánh dấu bước vươn lên phần nào vượt bức tường thành kiên cố của chế độ phong kiến giam hãm con người trong khuôn khổ cứng nhắc, trong những thiết chế hẹp hòi và khắc nghiệt. Con người chưa có sức mạnh để chống trả trước sự chi phối mạnh mẽ ấy nên cam chịu và chấp nhận nhưng bằng sức mạnh tình yêu họ đã đứng lên để hướng đến tình yêu tự do và hạnh phúc. Tuy nhiên, tình yêu của họ dường như vẫn nằm trọn trong lòng khuôn khổ lễ giáo đương thời. Tác phẩm không chỉ thành công về phương diện nội dung mà còn đặc sắc ở phương diện nghệ thuật. Truyện Hoa tiên có kết cấu chặt chẽ, mạch lạc, ngắn gọn, tác phẩm đã ít nhiều phá vỡ kết cấu nghệ thuật truyền thống của truyện Nôm, đem lại sự mới lạ hấp dẫn cho người đọc. Truyện thành công trong việc xây dựng nhân vật, đặc biệt là xây dựng nhân vật người phụ nữ, xây dựng hình tượng “tài tử – giai nhân”. Tác giả còn sử dụng thành công những điển cố, điển 56
  62. tích; sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng; nhiều từ ngữ Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ chải chuốt, nhẹ nhàng; nhiều câu thơ mang âm hưởng của ca dao, tục ngữ, thành ngữ được đan cài, lồng ghép trong tác phẩm một cách khéo léo, nhuần nhị, uyển chuyển giúp câu thơ vừa có sức gợi, vừa có sức tả. Chính vì vậy mà dù tả cảnh hay tả tình đều có những đoạn đặc sắc. Qua tất cả những khía cạnh trên đã chứng tỏ được tài năng và sự sáng tạo tài tình của tác giả. Truyện Hoa tiên là một tác phẩm hay và có sức hấp dẫn không chỉ đối với độc giả và giới nghiên cứu hôm nay mà còn mãi sau này. 57
  63. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh, (1943), Hoa tiên truyện, Tri Tân, số 86. 2. Đào Duy Anh, (1943), Nguồn gốc Hoa tiên ký, Tri Tân, số 91. 3. Lại Ngọc Cang dịch, Tiểu tượng đệ bát tài tử Hoa tiên chú, Hoa tiên đại ý, Thư viện Khoa học Trung ương. 4. Lại Ngọc Cang (1961) (khảo thích, giới thiệu), Truyện Hoa tiên, NXB. Văn Hóa. 5. Nguyễn Du, Truyện Kiều, (2011), NXB. Văn hóa thông tin Hà Nội 6. Nguyễn Đăng Duy, (2001), Đạo giáo với văn hóa Việt Nam, NXB. Hà Nội. 7. Nguyễn Thạch Giang, (2004), Văn học thế kỉ 18, NXB. Khoa học xã hội. 8. Dương Quảng Hàm, (1968), Văn học Việt Nam sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản, Bản in lần thứ 10, Sài Gòn. 9. Dương Quảng Hàm, (1968) Việt Nam thi văn hợp tuyển, Trung tâm học liệu xuất bản. Bản in lần thứ 9, Sài Gòn. 10. Kiều Thu Hoạch (1993), Truyện Nôm - Nguồn gốc và bản chất thể loại, NXB. KHXH&NV, Hà Nội. 11. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm, lịch sử hình thành và thi pháp thể loại, NXB. Giáo dục. 12. Đinh Xuân Hội, (1930), Truyện Hoa tiên dẫn giải, NXB. Tân Dân. 13. Trần Đình Hựu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB. Phú Yên. 14. Nguyễn Hiến Lê dịch (1999), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, NXB. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 15. Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, NXB. ĐH Quốc gia, TP HCM.
  64. 16. Nguyễn Lộc (1992), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX tập 1, NXB. Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. 17. Nguyễn Lộc (1992), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX tập 2, NXB. Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. 18. Nguyễn Lộc (1992), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX tái bản lần 3, NXB. giáo dục, TP. HCM. 19. Tôn Thất Lương, (1960), (khảo thích và chú giải), Truyện Hoa Tiên, NXB. Tân Việt. 20. Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam tập 2, NXB. ĐHSP. 21. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), NXB. Thế giới. 22. Nguyễn Thị Nhàn (2009), Thi pháp truyện thơ Nôm và Truyện Kiều, NXB. ĐHSP. 23. Nguyễn Thị Nhàn (2010), Hành xử của nam nhi khoa cử thành danh và nghệ thuật tự sự truyện Nôm, Tạp chí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. 24. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội 25. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB. Giáo dục, Hà Nội 26. Văn Tân, Hoài Thanh, Nguyễn Đổng Chi (1959), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, quyển 4, NXB. Văn - Sử - Địa, Hà Nội. 27. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB. Giáo dục. 28. Nguyễn Khắc Thuần (2006), Đại cương lịch sử văn học Việt Nam, tập IV, NXB. Giáo dục, TP.HCM. 29. Kỷ yếu hội thảo, Nguyễn Huy Tự và Truyện Hoa Tiên, Viện văn học, NXB. Khoa học xã hội.
  65. 30. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB. Văn nghệ TP.HCM. 31. Trần Ngọc Vương chủ biên (2007), Văn học Việt Năm từ thế kỉ X- thế kỉ XIX, Những vấn đề lý luận và thực tiễn lịch sử, NXB. Giáo dục, Hà Nội. 32. Lê Thu Yến tuyển chọn (2000), Văn học Việt Nam – Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, NXB. Giáo dục, Tp. HCM.