Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh cho lợn nái nuôi tại trại lợn Bùi Mạnh Cường, xã Nghĩa Đạo, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

pdf 68 trang thiennha21 19/04/2022 3030
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh cho lợn nái nuôi tại trại lợn Bùi Mạnh Cường, xã Nghĩa Đạo, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh cho lợn nái nuôi tại trại lợn Bùi Mạnh Cường, xã Nghĩa Đạo, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ĐÀO TÚ TÀI Tên chuyên đề: “THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNHHO C LỢN NÁI NUÔI TẠI TRẠI LỢN BÙI MẠNH CƯỜNG, XÃ NGHĨA ĐẠO, HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH” KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Thái Nguyên - năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ĐÀO TÚ TÀI Tên chuyên đề: “THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNHHO C LỢN NÁI NUÔI TẠI TRẠI LỢN BÙI MẠNH CƯỜNG, XÃ NGHĨA ĐẠO, HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH” KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp: K47 - TY - N04 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Nhật Thắng Thái Nguyên - năm 2019
  3. i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này trước hết em xin gửi đến quý thầy, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm - Thái Nguyên lời cảm ơn chân thành. Đặc biệt, em xin gửi đến thầy giáo ThS. Trần Nhật Thắng người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này lời cảm ơn sâu sắc nhất. Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các anh chị kỹ sư, công nhân tại trại lợn Bùi Mạnh Cường, thôn Nhiễm Dương, xã Nghĩa Đạo, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện thuận lợi cho em được học tập và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp trong suốt quá trình thực tập tại trại. Qua công việc thực tập này em học và thực hành nhiều điều mới mẻ và bổ ích về chuyên môn để giúp ích cho công này của bản thân. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên, giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài. Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Đào Tú Tài
  4. ii MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i MỤC LỤC ii DANH MỤC CÁC BẢNG iv DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT v Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề 2 1.2.1. Mục tiêu của chuyên đề 2 1.2.2. Yêu cầu của đề tài 2 Phần 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 3 2.1. Điều kiện của trang trại 3 2.1.1. Vị trí địa lý 3 2.1.2. Đặc điểm khí hậu 4 2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội 4 2.1.4. Cơ cấu tổ chức của trang trại 4 2.1.5. Thuận lợi và khó khăn của trang trại 8 2.2. Tổng quan tài liệu liên quan đến chuyên đề thực hiện 10 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 10 2.3. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn đẻ 16 2.3.1. Những hiểu biết về sinh lý đẻ 16 2.3.2. Quy trình chăm sóc nái đẻ (nái nuôi con) 17 2.3.3. Những hiểu biết về sinh lý tiết sữa của lợn nái các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái 19 2.3.4. Quy trình phòng bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ Error! Bookmark not defined. 2.3.5. Những bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản 24
  5. iii 2.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 34 2.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 34 2.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 35 Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 37 3.1. Đối tượng 37 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 37 3.3. Nội dung tiến hành 37 3.4. Phương pháp tiến hành và các chỉ tiêu theo dõi 37 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 37 3.4.2. Phương pháp theo dõi 37 3.4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi 42 Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 42 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại Bùi Mạnh Cường 42 4.2. Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng đàn lợn nái và lợn con 43 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại lợn Bùi Mạnh Cường 45 4.4. Chỉ tiêu sinh sản của lợn nái nuôi tại trại 46 4.5. Kết quả công tác phòng bệnh cho lợn tại trại 47 4.5.1. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh 47 4.6. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái và lợn con tại trại 47 4.6.1. Kết quả chẩn đoán bệnh ở lợn nái 47 4.6.2. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn con 48 4.7. Kết quả thực hiện các thao tác khác tại trại 50 Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 52 5.1. Kết luận 52 5.2. Đề nghị 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO 54 MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP
  6. v DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Lịch sát trùng áp dụng tại trại lợn nái Error! Bookmark not defined. Bảng 2.2. Lịch tiêm phòng vắc xin áp dụng tại trại Error! Bookmark not defined. Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi của trại trong 3 năm (2017 - 2019) 42 Bảng 4.2. Số lợn nái và lợn con theo mẹ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng qua 6 tháng thực tập 44 Bảng 4.3. Tình hình sinh sản của đàn lợn nái nuôi tại trại 45 Bảng 4.4. Chỉ tiêu sinh sản của lợn nái nuôi tại trại 46 Bảng 4.5. Kết quả vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực tập 47 Bảng 4.6. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái tại trại 47 Bảng 4.7. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn con tại trại 48 Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên lợn nái sinh sản tại trại 49 Bảng 4.9. Kết quả thực hiện các thao tác trên lợn con và lợn nái tại trại 50
  7. vi DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT cs: Cộng sự kg: Ki lô gam Nxb: Nhà xuất bản STT: Số thứ tự
  8. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của nhà nước, ngành chăn nuôi lợn ngày càng phát triển, chăn nuôi lợn cung cấp một lượng lớn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, mang lại thu nhập cho người chăn nuôi, góp phần vào ổn định đời sống người dân. Cùng với xu hướng phát triển của xã hội chăn nuôi lợn cũng chuyển từ loại hình chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung trang trại, từ đó đã giúp cho ngành chăn nuôi lợn đạt được bước phát triển không ngừng cả về chất lượng và số lượng. Ngoài ra, nước ta cũng có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn như có nguồn nguyên liệu dồi dào cho chế biến thức ăn, sự đầu tư của nhà nước Để phát triển hơn nữa ngành chăn nuôi lợn ở nước ta, chăn nuôi lợn nái là một trong những khâu quan trọng góp phần quyết định đến sự thành công trong ngành chăn nuôi lợn. Đặc biệt là trong việc chăn nuôi lợn nái ở nước ta để có đàn con nuôi thịt sinh trưởng và phát triển tốt, cho tỷ lệ nạc cao, và đây cũng chính là mắt xích quan trọng để tăng nhanh đàn lợn cả về số lượng và chất lượng. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng với sự giúp đỡ của thầy hướng dẫn và cơ sở nơi thực tập, em thực hiện chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh cho lợn nái nuôi tại trại lợn Bùi Mạnh Cường, xã Nghĩa Đạo, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ”.
  9. 2 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục tiêu của chuyên đề - Nắm được quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản. - Nắm được các loại thức ăn dành cho lợn nái sinh sản, khẩu phần ăn và cách cho lợn nái ăn qua từng giai đoạn mang thai. - Biết cách chẩn đoán một số bệnh phổ biến đối với lợn nái sinh sản và áp dụng biện pháp phòng trị bệnh hiệu quả nhất. - Chăm chỉ rèn luyện tay nghề để nâng cao hiểu biết kinh nghiệm thực tế. 1.2.2. Yêu cầu của đề tài - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại lợn Bùi Mạnh Cường, xã Nghĩa Đạo, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. - Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái nuôi. - Xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn nái sinh sản và các phác đồ điều trị.
  10. 3 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Điều kiện của trang trại 2.1.1. Vị trí địa lý Trang trại chăn nuôi lợn Bùi Mạnh Cường thuộc địa bàn thôn Nhiễm Dương, xã Nghĩa Đạo, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Vị trí địa lý của huyện được xác định như sau: Thuận thành là một huyện nằm ở phía nam sông Đuống, đồng thời cũng nằm ở phía nam tỉnh Bắc Ninh, tiếp giáp với Hà Nội, Hải Dương và Hưng Yên. Huyện của huyện là thị trấn Hồ - Thuận Thành - Luy Lâu là một trong những vùng đất cổ của người Việt, từng là trung tâm văn hóa kinh tế tôn giáo trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc (sau này vị trí đó nhường cho Thăng Long khi các triều đại phong kiến độc lập của Việt Nam hình thành). Thuận Thành nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội 25 km về phía đông nam, cách trung tâm thành phố Bắc Ninh khoảng hơn 10 km - Phía bắc giáp với huyện Tiên Du và huyện Quế Võ được ngăn cách bởi sông Đuống. - Phía đông giáp huyện Gia Bình và huyện Lương Tài. - Phía nam giáp huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương và huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên. - Phía Tây giáp huyện Gia Lâm của Hà Nội. Diện tích tự nhiên là 117,3 km², dân số khoảng 176.000 người (năm 2018). Thuận Thành là đơn vị hành chính cấp huyện rộng thứ 2 sau huyện Quế Võ.
  11. 4 2.1.2. Đặc điểm khí hậu Bắc Ninh nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Có sự chênh lệch rõ ràng về nhiệt độ giữa mùa hè nóng ẩm và mùa đông khô lạnh. Sự chênh lệch đạt 15 - 16 °C. Mùa mưa kéo dài từ tháng năm đến tháng mười hàng năm. Lượng mưa trong mùa này chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.400 - 1.600 mm. Nhiệt độ trung bình: 23,3°C. Số giờ nắng trong năm: 1.530 - 1.776 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 79%. 2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội Tổng giá trị sản xuất năm 2012 của huyện ước đạt 1.200,86 tỷ đồng, tăng 11,8% so năm 2011; giá trị công nghiệp, xây dựng là hơn 510 tỷ đồng. Năm 2013, huyện tập trung phấn đấu đạt giá trị tăng thêm đạt 1.350 tỷ đồng; sản lượng lương thực có hạt đạt 72.000 tấn, tạo việc làm cho 3.000 lao động. Sáu tháng đầu năm 2012, thu ngân sách toàn huyện Thuận Thành ước đạt 51,483 tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2013, tổng sản phẩm xã hội trong huyện tăng so với cùng kỳ năm 2012, trong đó: Giá trị nông nghiệp đạt 200,745 tỷ, sản xuất nông nghiệp giữ ổn định. 2.1.4. Cơ cấu tổ chức của trang trại Cơ cấu của trại được tổ chức như sau: 01 chủ trại 01 quản lý trại 02 quản lý kỹ thuật của công ty Deheus 01 bảo vệ 13 công nhân và 06 sinh viên thực tập
  12. 5 Với đội ngũ, kỹ thuật, công nhân trên trại phân ra thành các tổ, nhóm khác nhau như tổ đẻ, tổ bầu, tổ cai sữa, tổ thịt. Mỗi một khâu trong quy trình chăn nuôi đều được giao đến cho từng công nhân và sinh viên trực tiếp phụ trách và quản lý, nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, thúc đẩy sự phát triển của trang trại. Trang trại có cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng đều được quan tâm chú trọng. Về cơ sở vật chất - Có đầy đủ các thiết bị máy móc để phục vụ cho công nhân và sinh viên sinh hoạt hằng ngày như: điều kiện ăn ở, bếp nấu, nhà ăn, khu nhà ở tập thể, khu nhà vệ sinh chung, khu sân bóng vui chơi giải trí tham ra các hoạt động ngoại khoá trong trang trại. - Những vật dụng cá nhân như: đồ dung vệ sinh cá nhân (kem đánh răng, dầu gội đầu, xà phòng giặt đồ, xà bông tắm ). - Trang trại đầu tư sân đá bóng cho kỹ thuật, công nhân, sinh viên sử dụng vui chơi giải trí sau giờ làm. Cơ sở vật chất trong chuồng trại chăn nuôi được trang trại chú trọng đầu tư với đầy đủ các trang thiết bị cần thiết. - Trong các chuồng đẻ có tổng số của tổ đẻ gồm có 9 chuồng đẻ, trong đó thì có 6 chuồng đang được hoạt động, mỗi một chuồng đẻ được đánh dấu thứ tự từ 1 đến 9 bằng bảng số và được gắn ở trên đầu bên ngoài của mỗi cửa chuồng đẻ, trong mỗi chuồng đẻ thì lại được đánh dấu từ 1 đến 32 ô nái đẻ. Được thiết kế thành 2 dãy mỗi dãy có 16 ô đẻ. Ở giữa là đường đi lát bằng các miếng bê tông chắc chắn được ghép một cách chặt khít. - Dưới cuối chuồng có hệ thống quạt gió gồm có ba quạt chạy bằng công suất lớn.
  13. 6 - Trên đầu chuồng là hệ thống làm mát, và hệ thống nước tưới tự động luôn luôn chảy nước làm ướt giàn mát, điều hoà và làm mát nhiệt độ trong chuồng nuôi. Tạo được nhiệt độ phù hợp nhất đới với nái đẻ và chuẩn bị sinh. - Hệ thống bóng điện sưởi ấm cho lợn con, đặc biệt quan trọng giai đoạn tuần đầu. Số lượng bóng úm được trang bị đầy đủ trong các chuồng đẻ. Đặc biệt là số lượng bóng úm sẽ được tăng lên vào mùa đông. Bởi vì thời tiết của mùa đông rất phù hợp cho nái chuẩn bị đẻ và nái đẻ, tuy nhiên lại không phù hợp đối với lợn con, vậy nên là số bóng úm phải được tăng lại để đảm bảo nhiệt độ thích hợp cho lợn con trong chuồng nuôi. - Ngoài ra, trại còn trang bị có trạm máy phát điện, máy phát điện, công tơ để sẵn sàng thay thế khi có các trường hợp bất ngờ xảy ra như: cháy quạt, cháy máy bơm, mất điện - Đặc biệt trong trang trại áp dụng, lợi dụng nguồn nước thải trong chăn nuôi sử dụng công nghệ, kỹ thuật để chuyển đổi lượng hơi gas thành điện phục vụ cho chăn nuôi sản xuất. tạo thành chất đốt phục vụ cho mọi hoạt động đun nấu trong chăn nuôi và trong đời sống. Cung cấp một phần đáng kể cho toàn trại trong tăng gia sản xuất, nâng cao năng xuất và sinh hoạt đời sống Về cơ sở hạ tầng - Trang trại được xây dựng rất khoa học và hiện đại. Có 03 cổng vào trước các cổng vào có hố sát trùng bằng vôi được thay, rửa liên tục đảm bảo sạch sẽ, có bình, vòi phun sát trùng cho con người, các phương tiện trước khi vào trại lợn. Trang trại được xây dựng gồm các khu nhà ở, khu sinh hoạt chung, khu chuồng nuôi riêng biệt. + Khu nhà ở cho sinh viên và công nhân rộng rãi có đầy đủ nhà tắm, nhà vệ sinh tiện nghi. + Khu nhà ở dành cho quản lý và kỹ sư trại có phòng riêng, nhà vệ sinh, nhà tiếp khách. Tất cả các phòng ở của quản lý, kỹ sư, công nhân, sinh
  14. 7 viên đều có các vật dụng thiết yếu cho sinh hoạt cá nhân như: gường, chiếu, đệm, chăn, gối, quạt, màn ở bên ngoài thì có mái che, hành lang rộng rãi. + Khu nhà bếp rộng rãi và sạch sẽ + Bên cạnh các khu chuồng lợn của trại là dãy nhà sát trùng gồm 02 phòng thay đồ: 01 phòng dành cho nam, 01 dành cho nữ, mỗi phòng lại được chia ra làm 02 ô phòng nhỏ để thay đồ treo quần áo, để giầy, ủng, dép, tiếp đó là hố vôi được thiết kế lối đi rích rắc để cho người tham gia vào công việc trên trại lợn đi qua. Sau khi đi qua hố vôi thì sẽ đi qua khu vực giặt giũ sát trùng. khi từ chuồng trở về khu nhà ở sẽ phải đi qua 01 hố vôi nữa trên đầu các dãy chuồng. Trước khi bước vào mỗi chuồng đều đươc bước qua các thùng đựng vôi đã được chuẩn bị sẵn bên trong ở cả đầu chuồng và cuối chuồng nuôi. + Khu nhà cám (kho cám) nằm ở bên phải khu nhà sát trùng. Được xây dựng chắc chắn, cáo ráo, để chứa cám chăn cho lợn con tập ăn và cai sữa trong vòng 01 tuần cuối sau 21 ngày theo mẹ để chuyển sang khu cai sữa. + Đối diện với khu sát trùng là khu chuồng trại chăn nuôi lần lượt được sắp xếp theo thứ tự như sau: bên phải là dãy chuồng đẻ là đẻ 09, đẻ 08, đẻ 07, đẻ 06, đẻ 05, đẻ 04, đẻ 03, đẻ 02, đẻ 01. Bên trái là dãy chuồng bầu group 2 (nhà an thai số 02), chuồng bầu group 1 (nhà an thai số 01), chuồng bầu, chuồng đực, chuồng hậu bị. - Trang trại được xây dựng trên nền đất trước đây là đồng ruộng, khai hoang, san lấp, tôn đất được chia làm 02 khu vực rộng lớn, trong 02 khu vực đó thì khu vực 01 là gồm chuồng đẻ và chuồng bầu, còn khu 02 là gồm cai sữa và nuôi lợn thịt được ngăn cách bằng việc đi qua 01 hố vôi, bên tay trái của chuồng cai sữa là khu nhà để cám, tiếp nối là nơi để cầu cân để bán lợn chuyển lợn ra ngoài luôn. 02 Khu chuồng lớn của khu chuồng đẻ và chuồng bầu, khu chuồng cai sữa và khu thịt hình chữ U. Bên tổ đẻ và tổ bầu được chia
  15. 8 làm 02 dãy chuồng lớn chạy dài (01 chuồng bầu, 02 chuồng an thai, 01 chuồng đực, 01 chuồng hậu bị, 09 chuồng đẻ). Tất cả các khu chuồng được xây dựng khép kín hoàn toàn trên một bề mặt cao ráo , để thoát nước và được bố trí tách biệt với khu sinh hoạt, chuồng nuôi được đặt theo hướng đông - tây, nam - bắc, đảm bảo thoáng mát về mùa hè và ấm áp vào mùa đông, chuồng nuôi xây dựng theo kiểu 02 mái gồm 02 dãy chuồng chạy dài - Chuồng đẻ gồm 32 ô chuồng nhỏ trong 1 chuồng lớn: kiểu chuồng cũi sắt. Các chuồng nuôi đều được lắp đặt hệ thống điện chiếu sang và hệ thống máng ăn, nước uống, dầy chuyền chạy cám tự động cho mỗi ô nuôi nái. - Trong khu chăn nuôi đường đi lại giữa các ô chuồng đều được đổ bê tông và có hố sát trùng. - Hệ thống nước cung cấp cho lợn uống đều là nước lấy từ giếng khoan lên sau đó được đưa vào các lớp lọc của bể lọc nước. Nước tắm, xả gầm, xịt nền, phun giàn mát, phục vụ cho các nhu cầu sử dụng khác. được bố trí từ bể lọc và được đưa vào từng chuồng nuôi qua hệ thống ống nước. 2.1.5. Thuận lợi và khó khăn của trang trại Thuận lợi - Được sự quan tâm của uỷ ban nhân dân xã Nghĩa Đạo tạo điều kiện cho sự phát triển của trang trại. - Trang trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi xa khu dân cư thuận tiện đường giao thông. - Chủ trại có năng lực về mọi mặt, năng động nắm bắt được tình hình xã hội, luôn quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân. Cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn vững vàng, nền tảng kinh nghiệm từng trải qua nhiều năm, công nhân nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao trong lao động sản xuất.
  16. 9 - Toàn bộ cán bộ công nhân viên của trại là 1 tập thể đoàn kết có ý thức trách nhiệm cao và lòng yêu nghề. - Con giống đạt chuẩn, xuất sứ nguồn gốc chọn lọc, rõ ràng, chất lượng cao. - Cám sử dụng trong chăn nuôi lợn là cám được mua từ công ty cám deheus dành cho các loại lợn sau: lợn bầu, lợn đẻ, lợn con, lợn cai sữa, lợn thịt. - Quy trình chăn nuôi kép kín và khoa học đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trang trại. Khó khăn Vào tháng 2/2019, Việt Nam là nước châu Á thứ ba, sau Trung Quốc hay Mông Cổ, tuyên bố có dịch tả lợn châu Phi, Lê Quỳnh của BBC cho biết. Dịch này đã lan sang 63 thành phố và tỉnh thành. Chính phủ cảnh báo dịch tả lợn là thách thức lớn nhất đối với ngành chăn nuôi. Hồi tháng Ba, thủ tướng Việt Nam cấm việc chuyên chở, buôn bán, giết mổ và tiêu thụ heo và các sản phẩm thịt heo được nhập lậu vào Việt Nam. Các hộ nuôi heo được nhà nước hứa hẹn đền bù 80% giá thị trường cho heo bị tiêu hủy vì mắc dịch. Bất chấp những nỗ lực của chính phủ, dịch tả heo vẫn rất nghiêm trọng. Trại được xây dựng trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa thời tiết diễn biến phức tạp, nên khâu phòng trừ dịch bệnh còn gặp nhiều khó khăn. Năm 2019, khi trại đang hoạt động ổn định thì dịch bệnh tả lợn châu Phi bùng phát làm thiệt hại về kinh tế nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác giống, thay đổi cơ cấu vật nuôi. Làm dãn đoạn hoạt động chăn nuôi trong trang trại. - Bên cạnh đó, nguồn kinh tế gặp khó khăn, mọi khoản chi tiêu đầu tư cần phải cân nhắc. Đặc biệt là diễn biến phức tạp, chi phí cao dành cho việc phòng và trị bệnh. Làm ảnh hưởng đến giá thành và khả năng sinh sản của lợn. - Số lượng lợn đông, lượng nước thải lớn, việc đầu tư cho công tác xử lý nước thải của trại còn gặp nhiều khó khăn.
  17. 10 - Trang thiết bị sử dụng trong trại xuống cấp, sập sệ cần được bảo trì, tu sửa và thay mới lại. 2.2. Tổng quan tài liệu liên quan đến chuyên đề thực hiện 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 2.2.1.1. Chu kỳ động dục Chu kỳ động dục Chu kỳ động dục (chu kỳ tính) là khoảng thời gian giữa hai lần rụng trứng liên tiếp hay khi gia súc đã thành thục về tính, cứ sau mỗi khoảng thời gian nhất định cơ quan sinh dục có biến đổi, đặc biệt kèm theo rụng trứng và biểu hiện động dục, hiện tượng này lặp đi lặp lại một cách có chu kỳ. Lợn nái sau khi thành thục về tính thì bắt đầu có biểu hiện động dục, lần thứ nhất thường biểu hiện không rõ ràng, cách sau đó 15 - 16 ngày lại động dục, lần này biểu hiện rõ ràng hơn và sau đó đi vào quy luật mang tính chu kỳ. Chu kỳ động dục là một quá trình phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể đã phát triển hoàn chỉnh, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tựơng bệnh lý thì bên trong buồng trứng có quá trình phát triển của noãn bao, noãn bao thành thục, trứng chín và thải trứng. Kèm theo đó là sự thay đổi của toàn bộ cơ thể và nhất là cơ quan sinh dục về hình thái cấu trúc và chức năng sinh lý. Tất cả những biến đổi đó lặp đi lặp lại và mang tính chất chu kỳ. Ở những cơ thể đã có thai do sự tồn tại của thể vàng nên không còn chu kỳ tính và nó được tiếp tục sau khi sinh sản xong một thời gian. Thời gian phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả về cơ thể con vật và ngoại cảnh bên ngoài tác động.  Giai đoạn trước động dục Đặc điểm chung của lợn cái khi bắt đầu động dục là thay đổi tính cách, kêu rít, bỏ ăn hoặc kém ăn, phá chuồng, dũi đất, cơ thể bồn chồn, tai đuôi ve vẩy, thích gần lợn đực, nếu trong trường hợp nhốt nhiều cá thể trong một
  18. 11 chuồng thì chúng có biểu hiện nhảy lên lưng con khác, âm hộ đỏ tươi sung mọng, có nước nhờn chảy ra nhưng chưa chịu cho đực nhảy, trong giai đoạn này dịch nhờn chảy ra với một lượng nhiều, trong và loãng. Tính mốc: từ khi thể vàng tiêu huỷ tới lần động dục mới. Mức độ: Chưa rõ nét chỉ là giai đoạn chuẩn bị môi trường đường sinh dục, nhung mao của vách ống dẫn trứng đang phát triển, màng nhầy tử cung. Giai đoạn này kéo dài 1 - 2 ngày. Đây là giai đoạn cần chú ý không nên dẫn tinh và phối ép vì trứng chưa rụng, lợn cái không có khả năng thụ thai.  Giai đoạn động dục Thời gian của giai đoạn này phụ thuộc vào tuổi, giống, chế độ chăm sóc quản lý, thông thường chỉ kéo dài trong vòng 2 - 3 ngày, giai đoạn này là giai đoạn quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ thai. Ở giai đoạn này nếu được thụ thai thì chu kỳ sẽ dừng lại do sự tồn tại của thể vàng và chu kỳ sẽ xuất hiện trở lại sau một thời gian con vật đẻ xong, nếu con cái không thụ thai thì sẽ chuyển sang một giai đoạn kế tiếp. Giai đoạn này gồm 03 thời kì tiếp là hưng phấn, chịu đực và hết chịu đực. + Thời kỳ hưng phấn: Lượng estrogen tăng cực đại. Biểu hiện rất rõ nét, một cách mãnh liệt: Kêu la, phá chuồng, bỏ ăn hoặc ăn kém, nhảy lên lưng con khác, âm hộ sung huyết đỏ mọng, dịch nhầy tiết nhiều, loãng. + Thời kỳ chịu đực: con vật có biểu hiện đứng yên cho con khác nhảy lên, âm hộ chuyển sang hơi tí, héo đi đôi chút, dịch nhầy ít đi, và keo dần lại. Còn gọi là thời kỳ mê đực, khi sờ tay lên mông lợn nái thì lợn đứng yên, đuôi cong lên, hai chân choãi rộng ra, lưng võng xuống, có hiện tượng đái són, âm hộ chuyển màu sẫm hoặc màu mận chín, chảy dịch nhờn. Khi lợn đực lại gần thì đứng im cho phối. Thời gian này kéo dài khoảng 02 ngày lợn nội thường ngắn hơn thường khoảng 28 - 30 giờ. Nếu được phối giống ở giai đoạn này thì tỷ lệ thụ cao.
  19. 12 Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7] cho biết sau khi động dục khoảng 24 - 30 giờ lợn cái bắt đầu rụng trứng, trứng rụng kéo dài 10 - 15 giờ. Vì vậy nên phối giống theo kỹ thuật tối thiểu là 02 lần để đạt kết quả cao. + Thời kỳ hết chịu đực: Con vật không đứng yên cho con đực hay con khác nhảy lên nữa. Các biểu hiện động dục giảm dần.  Giai đoạn sau động dục Lợn nái trở lại trạng thái bình thường, ăn uống như cũ, âm hộ giảm độ nở, se nhỏ, thâm, cụp đuôi khối cho giao phối. Giai đoạn sau động dục kéo dài 3 - 4 ngày, toàn bộ cơ thể nói chung và cơ quan sinh dục nói riêng dần dần được khôi phục về trạng thái sinh lý bình thường. Tất cả mọi phản xạ động dục, tính hưng phấn mất hẳn và chuyển sang giai đoạn yên tĩnh.  Giai đoạn yên tĩnh Giai đoạn này kéo dài khoảng 10 - 12 ngày, đây là giai đoạn dài nhất và tuỳ thuộc vào sự tồn tại của thể vàng, khi thể vàng tiêu biến thì chu kỳ động dục mới lại bắt đầu. Trong thực tế còn gặp trưởng hợp lợn cái sau khi thụ thai thường không có biểu hiện động dục, nhưng cá biệt có những con có biểu hiện động dục, hiện tượng này gọi là động dục giả, hiện tượng này thường thấy ngay ở ngày thứ 1 - 2 của chu kỳ thứ nhất hay thứ hai sau khi đã phối giống. Động dục giả thường biểu hiện không rõ ràng và chỉ có trong thời gian ngắn, cần quan sát kỹ để xác định chính xác. Ngoài ra có những nái tuy đã phối giống không thụ thai, nhưng đến chu kỳ động dục lần sau không có biểu hiện động dục, gọi là hiện tượng chửa giả. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do thể vàng tồn tại quá lâu trong buồng trứng, hoặc do rối loạn tuyến nội tiết. Cần theo dõi để có biện pháp kích thích động dục cho những nái này.
  20. 13 2.2.1.2. Thời điểm phối giống thích hợp Việc xác định thời điểm phối giống thích hợp cho lợn nái có một vai trò rất quan trọng. Vì muốn đạt được tỷ lệ thụ thai cao và lợn nái đẻ nhiều con thì cần xác định chính xác thời điểm thích hợp cho lợn nái. Dựa vào chu kỳ động dục, sự vận động và tồn tại của tinh trùng trong đường sinh dục cái để xác định thời gian phối giống thích hợp cho lợn cái. Khi phối giống cho lợn nái, nếu những con nào không cho cưỡi lên lưng nó thì không nên phối, vì tỷ lệ thụ thai kém. Đối với lợn nái ngoại và nái lai cho phối giống ngay khi chịu đực và phối lặp lại sau khi phối giống lần đầu 12 giờ và có thể phối tới 03 lần cho một lợn nái khi động dục, nhất là đối với lợn ngoại. 2.2.1.3. Sự điều hòa chu kỳ động dục Chu kì tính của lợn được điều khiển bởi thần kinh và thể dịch theo cơ chế điều hòa ngược. Hoạt động của chu kỳ này phụ thuộc vào sự điều tiết của các hoóc môn quan trọng nhất là FSH (follicle stimulating hormone) và LH (lutrinizing hoóc môn). FSH kích thích sự phát triển của buồng trứng còn LH kích thích quá trình rụng trứng. Hai hoóc môn này phải có một tỷ lệ nhất định mới có thể đảm bảo được cho quá trình chín và rụng trứng diễn ra tốt nhất. Trong quá trình bao noãn phát dục và thành thục, tế bào thượng bì bao noãn tiết ra oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn. Hàm lượng này trong máu kích thích con vật gây hiện tượng động dục. Đồng thời dưới tác động của hormone, cơ quan sinh dục dần biến đổi, tử cung, âm đạo hé mở, sừng tử cung, ống dẫn trứng tăng sinh tạo điều kiện cho sự làm tổ của hợp tử sau này. Cuối chu kỳ động dục, oestrogen lại kích thích tuyến yên tiết LH, giảm FSH. Khi LH được tiết ra nó kích thích trứng chín và rụng. Tại vị trí rụng trứng, mạch quản và tế bào sắc tố vàng phát triển tạo thể vàng. Thể vàng tiết
  21. 14 progesterone giúp cho quá trình tiếp nhận hợp tử ở sừng tử cung, đồng thời ức chế tiết FSH và LH của tuyến yên cho trứng không phát triển được. Thời gian mỗi lần trứng rụng thông thường kéo dài 4 - 6 giờ, ở lợn hậu bị kéo dài tới 10 giờ. Trứng rụng không được thụ tinh đến ngày thứ 15 thì thể vàng bị tiêu biến chuyển sang thể bạch, lúc này không tiết progesterone nữa và một chu kỳ mới bắt đầu. 2.2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thành thục về tính Tuổi thành thục về tính phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giống, di truyền, thời tiết, khí hậu, mùa vụ, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng Các yếu tố di truyền Các giống khác nhau thì có tuổi thành thục về tính khác nhau. Thời điểm rụng trứng lần đầu tiên xảy ra vào lúc 3 - 4 tháng tuổi đối với các giống lợn thành thục sớm (lợn nội và một số giống lợn Trung Quốc) và 6 - 7 tháng tuổi đối với hầu hết các giống lợn phổ biến ở các nước phát triển. Lợn lai F1 bắt đầu động dục lúc 6 tháng tuổi, khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55 kg. Lợn ngoại động dục lần đầu muộn hơn so với lợn lai vào lúc 6 - 7 tháng tuổi, khi lợn có khối lượng 65 - 68 kg. Còn đối với lợn nội tuổi thành thục về tính từ 4 - 5 tháng tuổi. Các yếu tố ngoại cảnh Bên cạnh yếu tố di truyền, các yếu tố ngoại cảnh như chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, mùa vụ, khí hậu, nhiệt độ tất cả đều có ảnh hưởng tới sự thành thục của lợn nái. Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng Ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn nái. Thường những lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì tuổi thành thục về tính sớm hơn những lợn nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém.
  22. 15 Nhu cầu dinh dưỡng đối với lợn nái hậu bị cần chú ý đến cách thức nuôi dưỡng. Cho ăn tự do đến khi khối lượng đạt 80 - 90 kg, sau đó cho ăn hạn chế đến lúc phối giống (chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3) 2 kg/ngày (14% protein thô). Điều chỉnh mức ăn hợp lý để khối lượng đạt 120 - 140 kg ở chu kỳ động dục thứ 3 và được phối giống. Trước phối giống 14 ngày, cho ăn chế độ kích dục, tăng từ từ lượng thức ăn (1 - 2,5 kg), bổ sung thêm khoáng và chất điện giải sẽ kích thích lợn nái ăn nhiều hơn và tăng số trứng rụng từ 2 - 2,1 trứng/ lợn nái. Trong quá trình nuôi dưỡng chăm sóc cần điều chỉnh chế độ ăn hợp lý để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho lợn nái. Sau khi phối giống cần chuyển chế độ ăn hạn chế và thay thế bằng mức năng lượng trung bình để hạn chế tối thiểu tỷ lệ chết phôi, chết thai làm giảm số con sinh ra/ổ. Mùa vụ và thời gian chiếu sáng Thành thục về tính phục thuộc vào mùa vụ. Lợn nái hậu bị được sinh vào mùa thu sẽ động dục sớm hơn so với sinh vào mùa xuân. Mùa hè lợn nái hậu bị thành thục chậm hơn so với mùa thu - đông, điều đó có thể do ảnh hưởng của nhiệt độ chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng thấp trong các tháng nóng bức. Mùa đông có thời gian chiếu sáng ngắn và mùa hè thì ngược lại. Nếu lợn cái được chiếu sáng 12 giờ/ngày sẽ động dục sớm hơn những con được chiếu sáng trong ngày ngắn. Mật độ nuôi nhốt Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt với mật độ cao trên 1 đơn vị diện tích trong suốt thời gian phát triển sẽ làm chậm tuổi động dục. Tuy nhiên, nếu nuôi tách biệt từng cá thể cũng sẽ làm chậm sự thành thục về tính so với nuôi nhốt theo nhóm. Bên cạnh đó, đực giống cũng ảnh hưởng tới sự động dục của lợn cái.
  23. 16 2.3. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn đẻ 2.3.1. Những hiểu biết về sinh lý đẻ Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7], gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ, dưới tác động của cơ chế thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài. Đẻ là quá trình đưa thai đã phát triển thành thục theo đường sinh dục của mẹ ra ngoài. Nếu không đủ hai điều kiện trên tức là đẻ không bình thường. Trước khi đẻ, cơ thể mẹ có nhiều thay đổi quan trọng có liên quan tới việc đẩy thai ra ngoài như: dây chằng xương chậu giãn, gia tăng chiều dài từ 25 - 30% so với bình thường (người ta gọi là hiện tượng sụt lưng), nút cổ tử cung loãng. Trước khi đẻ từ 12 - 48 giờ thân nhiệt hơi hạ xuống. Cổ tử cung mở, sữa bắt đầu tiết. Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia súc đẻ: + Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra nước trong. + Trước khi đẻ 1 ngày, hàng vú giữa vắt được sữa đầu. + Trước khi đẻ 1/2 ngày, hàng vú trước vắt được sữa đầu. + Trước khi đẻ 2 - 3 giờ, hàng vú sau vắt được sữa đầu. Đẻ là một quá trình sinh lý phức tạp chịu sự điều hòa của cơ chế thần kinh - thể dịch. Khi thai đã thành thục thì quan hệ sinh lý giữa mẹ và nhau thai không còn cần thiết nữa, lúc này thai đã trở thành như một ngoại vật trong tử cung nên được đưa ra ngoài bằng động tác đẻ. Khi lợn đẻ toàn thân co bóp, thường gọi là cơn đau, lúc này áp lực bên trong tăng cao đẩy thai ra ngoài. Khi thai ra rốn thai tự đứt, lợn là một loài đa thai nên đẻ từng con một, cách khoảng 10 - 15 hoặc 20 phút đẻ 1 con. Thời gian đẻ của lợn trung bình kéo dài từ 1 - 6 giờ, nếu quá 6 giờ mà thai chưa ra thì cần xem xét để có biện pháp tác động ngay.
  24. 17 2.3.2. Quy trình chăm sóc nái đẻ (nái nuôi con) Mục đích của chăn nuôi lợn nái nuôi con là áp dụng các biện pháp khoa học để tăng sản lượng sữa mẹ, đảm bảo cho lợn mẹ có sức khỏe tốt. Lợn con sinh trưởng phát triển nhanh, đạt số con sau cai sữa và khối lượng cai sữa cao. Lợn nái chóng được phối giống trở lại sau khi tách con. Thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có tác động tốt đến sản lượng sữa và chất lượng sữa. Đó là thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, loại củ quả đạm động vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng chất theo đúng quy định như năng lượng trao đổi 3100 Kcal, protein 15%, canxi từ 0,9 - 1,0%, photpho 0,7%. - Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con. Trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: Đối với lợn nái ngoại: + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, thứ 2 và thứ 3 cho thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 - 3 kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho lợn ăn 4 kg thức ăn hỗn hợp/ nái /ngày. + Từ ngày thứ 8 đến ngày cai sữa cho lợn mẹ ăn theo công thức tính: Lượng thức ăn/ nái/ ngày = 2 kg + (số con x 0,35 kg/con) + Số bữa ăn trên ngày: 2 bữa (sáng, chiều)
  25. 18 + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì bớt đi 0,5 kg thức ăn/ ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ ngày sau bữa ăn tinh, nếu có rau xanh. + Một ngày trước khi cai sữa, cho lợn mẹ ăn giảm đi 20 - 30% + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn. + Đối với những lợn nái có số con lớn hơn 10, đàn con mập, lợn mẹ gầy thì cho lợn mẹ ăn theo khả năng (không hạn chế) bằng cách tăng số bữa ăn/ ngày cho lợn mẹ. Đối với lợn nái nội Công thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/ 1 ngày đêm: Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100 kg, mức ăn trong 1 ngày đêm được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,2 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg) Thức ăn thô xanh: 0,3 đơn vị. Lợn nái nội có khối lượng 100 kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,4 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg) Thức ăn thô: 0,4 đơn vị Định mức ăn cho một lợn nái nội nuôi con/ 1 ngày đêm. Kỹ thuật cho ăn + Lợn nái nuôi con trong thời gian mới đẻ mỗi bữa cho ăn một ít một, nhưng cho ăn làm nhiều lần, thường một ngày cho ăn 3 - 4 bữa. Khoảng cách giữa các bữa nên chia đều nhau. + Cho ăn đúng giờ, đúng tiêu chuẩn quy định. + Cung cấp đủ nước uống cho lợn nái nuôi con.
  26. 19 + Khi chuyển sang dùng thức ăn cho giai đoạn nuôi con, để tránh gây ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa do thay đổi thức ăn, ta phải thay dần dần. + Chú ý theo dõi khả năng ăn và tình trạng sức khỏe của lợn nái để có biện pháp can thiệp kịp thời. Kỹ thuật chăm sóc và quản lý + Vận động: là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh chóng hồi phục sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, về sau tăng số giờ vận động lên. Khi thời tiết xấu thì không cho vận động, khi cho vận động chú ý đề phòng cảm lạnh, bẩn vú, những lợn nái có vú quá sệ thì chỉ cho vận động trong sân chơi. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các khung đẻ, không được vận động, vì vậy phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt là các khoáng và vitamin. + Chuồng trại của lợn nái nuôi con yêu cầu phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không có mùi hôi thối, ẩm ướt. Vì vậy hằng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn sạch sẽ. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 24ºC, ẩm độ là 70 - 75%. Chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Diện tích chuồng cho lợn nái nuôi trên nền cứng là: 4 - 5 m chuồng ở/ 1 lợn nái và 15 m sân chơi/1 lợn nái. Còn đối với lợn công nghiệp nuôi trên chuồng sàn thì kích thước 2,4 m x 1,6 m, với mỗi khung cho lợn mẹ trong chuồng có kích thước từ 2,2 - 2,4 m x 0,7 m. 2.3.3. Những hiểu biết về sinh lý tiết sữa của lợn nái các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái Sinh lý tiết sữa của lợn nái Sữa là sản phẩm tiết ra từ tuyến vú, là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa, hấp thu, rất cần thiết cho gia súc non đang bú sữa và là loại
  27. 20 thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao đối với con người (Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn, 2006) [21]. Sự tiết sữa của lợn nái trong quá trình nuôi con là một quá trình sinh lý phức tạp. Theo Nguyễn Thiện và cs (1996) [20], ở lợn không có bể sữa nên ở lợn nái không có dự trữ sữa trong bầu vú, do vậy lợn mẹ không tiết sữa tùy tiện được và lợn con không phải lúc nào cũng bú được sữa mẹ. Quá trình tiết sữa của lợn nái là một quá trình phản xạ, do những kích thích vào bầu vú gây nên. Phản ứng tiết sữa của lợn nái tương đối ngắn và chuyển dần từ trước ra sau. Trong đó yếu tố thần kinh đóng vai trò chủ đạo, khi lợn con thúc vú mẹ, những kích thích này truyền lên vỏ não, vào vùng Hypothalamus, từ đó kích thích tuyến yên sản sinh ra kích tố oxytocin tiết vào máu, kích tố này đi vào tuyến bào kích thích lợn nái thải sữa. Do tác động của oxytocin trong máu khác nhau cho nên các vú khác nhau cho sản lượng sữa khác nhau. Sản lượng sữa và chất lượng sữa ở các vị trí khác nhau của bầu vú cũng không giống nhau: các vú trước ngực sản lượng sữa cao, phẩm chất tốt, các vú phía sau nhìn chung kém (Nguyễn Khánh Quắc và cs, 1995) [18]. Theo Trương Lăng (1996) [10], vú nằm ở trước ngực sản lượng sữa tiết nhiều hơn, trong thời kỳ tiết sữa lợn con bú ở vú sau được 32 - 39 kg thì vú trước cho 36 - 45 kg sữa vì oxytocin theo máu đến vú trước sớm hơn. Vì vậy để đảm bảo tính đồng đều của toàn ổ lợn ta nên cố định những con nhỏ hơn bú vú trước. Cần tách riêng lợn con để trước chờ đến khi cả đàn đẻ xong mới cho cả đàn vào bú, nhưng nhất thiết phải cho lợn con bú sữa đầu chậm nhất là 2 giờ sau đẻ để lợn con có đủ kháng thể sau khi sinh vì trong sữa đầu của lợn mẹ có chứa  globulin giúp cho cơ thể lợn con có sức đề kháng với ngoại cảnh. Nhất thiết phải cho lợn con bú sữa đầu vì trong sữa đầu có hàm lượng  globulin cao hơn sữa thường và đây là chất chủ yếu giúp lợn con có sức đề kháng.
  28. 21 Quan sát đàn lợn con bú mẹ chúng ta thấy đầu tiên lợn con dùng mõm thúc vào vú lợn mẹ, thời gian thúc vú mẹ của lợn con có thể từ 5 - 7 phút, sau đó đột nhiên nằm im hoàn toàn và tiến hành bú. Sữa tiết ra thể hiện rõ nhất là lúc lợn mẹ kêu ịt ịt, lợn con mút chặt đầu vú, hai chân trước đạp thẳng vào bầu vú, nằm yên mút theo đợt tiết sữa của lợn mẹ. Do thời gian tiết sữa của lợn mẹ rất ngắn chỉ khoảng 25 - 30 giây, nên một ngày lợn con phải bú nhiều lần mới đủ so với nhu cầu. Trong những ngày đầu sau khi sinh lợn con bú từ 20 - 25 lần/ngày, mỗi lần lượng sữa tiết ra khoảng 25 - 35 gam/con. Lượng sữa của lợn nái tiết sữa tăng cao dần từ lúc mới đẻ, cao nhất lúc 21 ngày sau khi đẻ, sau đó giảm dần. * Sữa lợn mẹ Sữa lợn mẹ có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao tỷ lệ nuôi sống của lợn con. Việc cai sữa cho lợn con có thể thực hiện được ngay từ khi đẻ ra, tuy nhiên sữa lợn mẹ luôn được coi là nguồn thức ăn lý tưởng cho lợn con. Nguyên liệu để tạo nên sữa đều được lấy từ máu, phải có một lượng máu rất lớn chảy qua bầu vú mới đảm bảo cho nhu cầu tạo sữa: khoảng 540 lít máu chảy qua bầu vú mới tạo được thành 1 lít sữa lợn mẹ. Sữa lợn mẹ tiết ra trong vòng 2 - 3 ngày đầu sau khi đẻ gọi là sữa đầu. Thức ăn đầu tiên của lợn con là sữa đầu. Sữa đầu có đặc điểm là màu vàng đặc và hơi mặn, khi đun dễ ngưng kết. Thành phần dinh dưỡng của sữa đầu khác hẳn so với sữa thường, trong sữa đầu các thành phần như protein, vitamin đều cao hơn so với sữa thường. Trong sữa đầu lượng vật chất khô đạt 22,3%, cao hơn sữa thường chỉ có 19,6%. Hàm lượng protein cũng cao hơn là 11,5% so với 6,8% của sữa thường, tuy nhiên hàm lượng khoáng, chất béo và đường lactose lại thấp hơn. Đặc biệt trong sữa đầu có chứa nhiều kháng thể  globulin (gama globulin) và các chất khác bảo vệ lợn con mới đẻ chống lại sự tấn công của các vi rút, vi trùng gây bệnh. Lượng  globulin chiếm khoảng 50% tổng số
  29. 22 protein của sữa đầu, sau đó giảm dần. Khả năng hấp thụ  globulin của lợn con chỉ xảy ra trong những giờ đầu sau khi sinh (trong vòng 24 giờ đầu tiên). Do vậy sữa đầu đóng vai trò quan trọng đối với lợn con theo mẹ 200C, độ ẩm 70 - 75%. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái Theo Trương Lăng (1996) [10], khả năng tiết sữa của lợn mẹ phụ thuộc vào mức độ dinh dưỡng thức ăn, giống lợn và số lượng lợn con. + Giống và cá thể Các giống lợn khác nhau có khả năng tiết sữa khác nhau. Các giống lợn được cải tạo có năng suất sữa cao hơn các giống lợn chưa được cải tạo. Ví như lợn Ỉ có sản lượng sữa bình quân là 20,1 - 25 kg, lợn Móng Cái là 27,5 - 29,1 kg, lợn Đại Bạch nuôi tại Việt Nam có sản lượng sữa bình quân là 40 - 50 kg. Thể trạng của lợn mẹ cũng ảnh hưởng đến năng suất sữa trong thời kỳ đầu của quá trình tiết sữa. Lợn mẹ gầy yếu thì khả năng tiết sữa kém hơn lợn mẹ có thể trạng trung bình. Chúng ta có thể tăng lượng thức ăn sử dụng cho lợn mẹ trong những ngày đầu tiên sau khi đẻ, tuy nhiên nếu lợn mẹ gầy yếu được ăn thức ăn cao chỉ có thể làm tăng tỷ lệ mỡ sữa mà không làm tăng sản lượng sữa. Đối với lợn có thể trạng trung bình, nếu cho ăn nhiều thức ăn trong giai đoạn đầu của quá trình tiết sữa sẽ làm tăng sản lượng sữa và có xu hướng làm giảm hao hụt của lợn mẹ trong quá trình tiết sữa. + Tuổi và lứa đẻ Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [5], lứa đẻ tốt nhất là lứa thứ 2 đến lứa thứ 6 - 7. Tuổi sinh sản ổn định từ năm tuổi thứ 2 đến năm tuổi thứ 4, sang năm đẻ thứ 5 lợn có thể đẻ tốt nhưng con đẻ ra bị còi cọc, chậm lớn, nái già thường hay đẻ khó, thai chết lưu và cắn con. Sản lượng sữa của lợn mẹ tăng dần từ lứa thứ 1 - 3, ổn định từ lứa 3 - 8, sau đó giảm dần theo sự tăng lên của tuổi. Đó là do lợn nái đẻ lứa đầu, các
  30. 23 tuyến bào chưa phát dục hoàn chỉnh, chưa có thói quen cho lợn con bú. Còn ở lứa đẻ tiếp theo sản lượng sữa bắt đầu tăng. Trong một chu kỳ tiết sữa, lượng sữa tăng dần sau khi đẻ và đạt cao nhất ở tuần thứ 3, sau đó giảm dần đến tuần thứ 8. + Số con đẻ ra/lứa Nếu số lượng con đẻ ra/lứa cao thì sản lượng sữa/chu kỳ sẽ cao, song lượng sữa của một con bú được trong 4 tuần sẽ ít và ngược lại. + Nuôi dưỡng và chăm sóc Là yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến sản lượng sữa của lợn nái. Nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sản lượng sữa vì những chất dinh dưỡng cần thiết để tạo thành sữa đều lấy từ thức ăn. Tỷ lệ nuôi sống ở lợn con được tăng lên nếu chúng ta cho lợn mẹ ăn khẩu phần ăn có nhiều chất béo ở giai đoạn cuối của giai đoạn chửa và thời kỳ tiết sữa đầu. Cơ sở của vấn đề này là khi cho lợn mẹ ăn nhiều chất béo sẽ làm tăng tỷ lệ mỡ sữa, do vậy cung cấp cho lợn con nhiều năng lượng hơn. Khẩu phần ăn của lợn nái trong quá trình có chửa và tiết sữa có ảnh hưởng đến các thành phần hóa học của sữa. Khi cho lợn nái ăn tăng khẩu phần ăn, sẽ làm tăng thành phần hóa học của sữa thông qua tăng quá trình trao đổi đến bầu vú lợn mẹ. Quá trình hình thành các chất dinh dưỡng của sữa lợn mẹ được thông qua quá trình tổng hợp, một số thông qua quá trình lọc và một số chuyển thẳng trực tiếp từ máu. Hàm lượng các vitamin của sữa phụ thuộc vào hàm lượng các vitamin trong thức ăn và cả lượng vitamin dự trữ ở gan hoặc các tế bào. Kỹ thuật chăm sóc quản lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiết sữa của lợn nái, các động tác không thích hợp như đánh đuổi lợn, gây tiếng động mạnh trong khu vực chuồng nuôi lợn nái nuôi con đều gây ức chế quá trình tiết sữa của lợn nái. Ngoài ra nếu chăm sóc không chu đáo dễ gây cho lợn mẹ các bệnh như viêm vú từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng sữa.
  31. 24 2.3.4. Những bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản 2.3.4.1. Hiện tượng đẻ khó * Nguyên nhân - Đẻ khó do nguyên nhân cơ thể mẹ: Khi chăm sóc, nuôi dưỡng không tốt, thức ăn không đầy đủ, chất dinh dưỡng thiếu so với nhu cầu của lợn mang thai dẫn đến cơ thể mẹ suy nhược, sức khỏe kém. Lợn ăn quá nhiều tinh bột, protein dẫn đến béo cũng gây ra đẻ khó. Lợn quá gầy cũng dẫn đến đẻ khó. Do cấu tạo tổ chức các phần mềm như: Cổ tử cung, âm đạo giãn nở không bình thường có chỗ giãn quá mạnh, chỗ lại không giãn nên việc đẩy con ra ngoài gặp khó khăn. Khung xoang chậu bị biến dạng, khớp bán động háng phát triển không bình thường, vôi hóa cột sống hay xoang chậu hẹp. Trong quá trình đẻ độ giãn nở kém, thai bị mắc trước cửa xoang chậu không ra được. Ở thời gian có thai kỳ cuối, thai quá to, lợn nái vận động mạnh, chèn ép tử cung làm tử cung bị xoắn vặn lại, tư thế tử cung thay đổi, đường sinh dục trở nên không bình thường cũng gây đẻ khó. Do rối loạn hormone tuyến sinh dục cái: Kích tố nhau thai Relaxin lúc đẻ tiết ra ít nên không làm mất lớp canxi ở bán động háng, không giãn dây chằng xương chậu (không sụt mông) hoặc Prostagladin tiết ít không đủ gây co bóp tử cung nên không tống thai ra ngoài được. - Đẻ khó do nguyên nhân bào thai. Chiều hướng, tư thế của thai lúc đẻ không bình thường. Theo Nguyễn Huy Hoàng (1996) [9]: các trường hợp lợn con nằm không đúng tư thế. Bốn chân lợn con hướng về xương sống lợn mẹ, lợn con nằm đưa vai ra trước, lợn con đầu ngước ra sau lưng, lợn con đầu quẹo sang một bên, lợn con đưa đầu
  32. 25 và bốn chân ra một lượt, lợn con mõm ra trước, hai chân trước co xuống bụng, lợn con đầu cúp xuống ngực. Chế độ dinh dưỡng không phù hợp hoặc do quá ít thai, làm thai quá to không phù hợp với kích thước của xương chậu và đường sinh dục của lợn mẹ. Thai bị dị hình hay quái thai. * Triệu chứng Lợn nái đến ngày đẻ, nước ối vỡ ra, trong nước ối có lẫn phân su nhưng không thấy thai ra. Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng thai vẫn không ra. Do thời gian rặn đẻ mạnh và kéo dài mà thai vẫn không ra làm cho lợn nái mệt mỏi. Nếu để lâu có thể dẫn đến hiện tượng thai bị ngạt mà chết. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to hoặc ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu. * Hậu quả Tử cung co bóp mạnh mà thai không ra, thai bị chèn ép, bị ngạt thở dẫn đến lợn con bị chết. Nếu mổ để lấy thai ra ngoài thì lợn mẹ hay bị chết hoặc không thể dùng sinh sản lứa sau. Do lợn nái rặn đẻ mạnh và kéo dài làm lợn nái mệt mỏi, kéo dài thời gian đẻ, sức co bóp của tử cung giảm, gây ra hiện tượng sót nhau, sót con dẫn đến viêm đường sinh dục. Lợn bị nhiễm một số bệnh: Viêm tử cung, viêm vú, sảy thai truyền nhiễm, khi đó, niêm mạc sẽ có những vết sẹo gây cản trở cho quá trình thụ thai, thai làm tổ, dẫn đến xảy thai, tiêu thai, đẻ non ở những lần sinh sản tiếp theo, thậm trí là vô sinh. * Cách can thiệp Xác định nguyên nhân đẻ khó để đề ra biện pháp can thiệp thích hợp.
  33. 26 - Do khô đường sinh dục: Dùng vaseline, nước xà phòng ấm đặc bôi trơn âm đạo. - Do hẹp âm môn: Giải phẫu mở rộng âm môn lôi thai ra. - Do rặn đẻ yếu: Tiêm VTM B1, VTM C, cafein trợ sức, đồng thời tiêm oxytoxin kích thích co bóp. - Do vị trí, tư thế thai không thuận: Dùng tay đẩy thai vào trong, xoay thai đúng tư thế từ từ lôi thai ra theo nhịp rặn của lợn nái. Viêm âm môn, tiền đình và âm đạo Trong quá trình sinh đẻ, niêm mạc âm môn, tiền đình và âm đạo bị xây xát, tổn thương do bào thai hay do can thiệp các trường hợp đẻ khó. Do trong quá trình đỡ đẻ thao tác kỹ thuật không đúng, dụng cụ đỡ đẻ không vô trùng gây tổn thương các bộ phận sinh dục bên ngoài. Ngoài ra, bệnh có thể kế phát từ hiện tượng sảy thai, thai thối rữa trong tử cung hoặc từ bệnh sát nhau. Lúc đầu niêm mạc bộ phận bị viêm xung huyết nhẹ, có nhiều dịch thẩm xuất. Kiểm tra âm đạo bằng mỏ vịt, con vật không có phản xạ đau, không có triệu chứng toàn thân. Con vật rặn vặt, đi đái rắt. Nhiều dịch viêm lẫn tổ chức hoại tử màu trắng chảy ra ngoài. 2.3.4.2. Bệnh viêm tử cung * Nguyên nhân bệnh viêm tử cung Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sau sinh sản. Quá trình viêm phá hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Theo Bilken (1994) [1], viêm tử cung thường xảy ra trong lúc sinh do nhiễm khuẩn E.coli gây dung huyết và các vi khuẩn gram dương. Theo Urban và cs (1983) [28]; Bilken (1994) [1], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi
  34. 27 khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus Spp. Tuy nhiên các nghiên cứu của tác giả khác lại ghi nhận các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm vi sinh vật hiếu khí có mặt ở nền chuồng, lúc lợn nái sinh cổ tử cung mở, vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh. Theo tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [2]; Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [11], Lê Minh và cs (2017) [17], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: + Cơ quan sinh dục lợn nái phát triển không bình thường gây khó đẻ hoặc lợn nái khó đẻ do thai quá to, thai ra ngược, thai phát triển không bình thường, + Phối giống quá sớm đối với lợn đẻ lứa đầu hoặc lợn nái già mang nhiều thai. Khi đẻ tử cung co bóp yếu, do lứa đẻ trước đã bị viêm tử cung làm cho niêm mạc tử cung biến đổi nên nhau thai không ra gây sát nhau, thối rữa tạo điều kiện cho sự phát triển của vi khuẩn. + Trong quá trình có thai, lợn nái ăn uống nhiều chất dinh dưỡng, tinh bột, protein và ít vận động cơ thể nên cơ thể béo dẫn đến khó đẻ. Hoặc do thiếu dinh dưỡng lợn nái sẽ ốm yếu, sức đề kháng giảm nên không chống lại vi trùng xâm nhập cũng gây viêm. + Do dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng, gây xây sát sẽ tạo ra các ổ viêm nhiễm trong âm đạo hoặc tử cung hoặc do tinh dịch bị nhiễm khuẩn. Những thao tác đỡ đẻ không đúng kỹ thuật, đưa dụng cụ vào cổ tử cung không an toàn, không đảm bảo vệ sinh. + Kế phát từ các bệnh khác như bệnh viêm âm đạo, tiền đình, bàng quang hoặc các bệnh truyền nhiễm: sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao thường gây ra các bệnh viêm tử cung + Bệnh còn xảy ra khi chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý kém hoặc do thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột, thời tiết quá nóng, quá lạnh, ẩm ướt kéo dài.
  35. 28 Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Minh (2014) [14], yếu tố thời tiết, khí hậu, ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội chứng viêm tử cung: mùa hạ có tỷ lệ nhiễm cao nhất 53,37%, mùa đông 46,05%, mùa thu 43,70%. Theo Đoàn Thị Kim Dung và Lê Thị Tài (2002) [6], nguyên nhân gây viêm tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Stphylococcus aureus), Liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitycus) và các loại Proteus vulgais, Kleriella, E.coli Theo Nguyễn Văn Thanh (2013) [22], tỷ lệ lợn nái mắc viêm tử cung tương đối cao, bệnh thường tập trung ở lợn nái đẻ lứa đầu hoặc đã đẻ nhiều lứa. Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13% (Trần Ngọc Bích và cs, 2016) [3]. * Triệu chứng: Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4 - 5 ngày, cá biệt tới 6 - 7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang vàng hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có màu đen hôi thối, mùi tanh rất khó chịu. Theo tác giả Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7]: khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể: + Thể cấp tính: Con vật sốt 41 - 42 °C trong vài ngày đầu âm môn sưng tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ nhờ.
  36. 29 + Thể mãn tính: Không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch nhầy trắng đục chảy ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử cung lan sang thai làm chết thai. * Hậu quả của viêm tử cung: Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7]; Trần Thị Dân (2004) [4], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: - Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai. - Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc chết lưu. - Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. - Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. - Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Nguyễn Văn Thanh và cs (2013) [22] cho rằng: bệnh viêm tử cung, viêm vú là nguyên nhân chính gây ra mất sữa ở lợn nái nuôi con, làm lợn nái đau đớn, giảm sút cân nhanh. * Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động đực, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu máu
  37. 30 cá. Người ta thấy rằng thời kỳ sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mãn tính thường gặp trong thời kỳ cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung. Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra. Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ra ở thời kỳ động đực thì có thể bị nhầm lẫn. Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với một trại có biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính xác. Mỗi thể viêm khác nhau biểu biện triệu chứng khác nhau và có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm từ đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất. * Phòng bệnh: Theo Gardner (1990) [25], Smith (1995) [26], Taylor (1995) [27], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Theo Nguyễn Tài Năng và cs (2016) [16], vệ sinh chuồng trại sạch sẽ một tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi 20% sau đó rửa sạch bằng nước thường, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú.
  38. 31 Theo Lê Văn Năm (2009) [15], trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát trùng kĩ bằng cồn, xoa trơn tay bằng vaselin hoặc dầu lạc. Cho lợn nái chửa vận động, đảm bảo ăn uống đầy đủ, vệ sinh sạch sẽ. Kiểm tra nghiêm ngặt đảm bảo dụng cụ dẫn tinh đúng quy định và không để nhiễm khuẩn. Không sử dụng lợn đực bị nhiễm khuẩn đường sinh dục để nhảy trực tiếp hoặc lấy tinh. Phòng bệnh truyền nhiễm Leptospirosis, Brucellosis . bằng cách dùng vắc xin đúng quy định, đúng thời gian cho đàn lợn sinh sản tránh những trường hợp bị sốt đột ngột gây sẩy thai. * Điều trị Bơm rửa tử cung ngày 1 - 2 lần, mỗi lần 2 - 4 lít nước đun sôi để nguội pha cồn iod 10% Tiêm oxytocin 2ml/con/ngày, acimoxyl 20ml/con/ngày Tiêm thuốc trợ sức: B - complex, vitamin ADE. Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [8], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm amoxicillin 15% 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao. 2.3.4.3. Bệnh viêm vú * Nguyên nhân gây bệnh viêm vú + Khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy, vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus spp và Arcanobacterium pyogenes (Christensen và cs, 2007) [24]. + Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn, Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây ra viêm vú.
  39. 32 + Thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập gây viêm như: E.coli, Streptoccocus, Staphylococus, Klebsiella, (Duy Hùng, 2011) [30]. + Lợn con mới đẻ có răng nanh mà không bấm khi bú làm xây sát vú mẹ tạo điều kiện cho vi trùng xâm nhập tạo ra các ổ viêm nhiễm bầu vú. + Chỉ cho lợn con bú một hàng vú, hàng còn lại căng quá nên viêm. + Do thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh quá hoặc nóng quá hay thức ăn khó tiêu cũng ảnh hưởng đến cảm nhiễm vi trùng. * Triệu chứng Theo White (2013) [29], biểu hiện rõ tại vú viêm với các đặc điểm: Vú căng cứng, nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa, nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều con lẫn máu; sau 1 - 2 ngày thấy có mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,5 oC. Tùy số lượng vú bị viêm mà lợn nái có biểu hiện khác nhau. Nếu do nhiễm trùng trực tiếp vào bầu vú, thì đa số trường hợp chỉ một vài bầu vú bị viêm. Tuy vậy, lợn nái cũng lười cho con bú, lợn con thiếu sữa nên liên tục đòi bú, kêu rít, đồng thời do bú sữa bị viêm, gây nhiễm trùng đường ruột, lợn con bị tiêu chảy, thiếu máu. * Hậu quả của bệnh viêm vú Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ. - Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [13]: Bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con.
  40. 33 * Điều trị: Trekaxova và cs (1983) [19] cho biết: Chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 - 40 ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 88 - 10 cm. Dung dịch novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần. Các loại kháng sinh thường dùng: Acimoxyl, pen-strep, ampicillin, gentamycin, norfloxacin, và có thể dùng corticoide để giảm viêm kết hợp với vitamin. Ngoài ra trong trường hợp nái đẻ bị viêm nặng chúng ta có thể chườm cát nóng kết hợp xoa bóp bầu vú. 2.3.4.4. Bệnh sót nhau Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. * Nguyên nhân: Theo Trịnh Đình Thâu và cs (2010) [23], sau khi để tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các khoáng chất, nhất là canxi và phospho. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. Do viêm niêm mạc tử cung trước lúc đẻ làm dính nhau với tử cung hoặc nhau chưa ra hết thì người đỡ đẻ đã kéo đứt còn lại một ít sót lại trong tử cung. Do lợn con còn sót lại ở trạng thái nằm sai vị trí làm tắc đường ra của nhau.
  41. 34 - Triệu chứng: Sau khi đẻ 4 - 5 giờ không thấy nhau ra hoặc ra không hết là bị sót nhau. Lợn nái rặn nhiều, đôi khi bỏ ăn, sốt cao liên tục 40 - 41 ℃ trong vòng 1 - 2 ngày, lợn mẹ cắn con, không để cho con bú, niêm dịch chảy ra màu đục, lẫn máu. - Điều trị: Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh gây tổn thương. Tiêm oxytoxin để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục (Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh, 2010) [23]. 2.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Theo Smith B.B. và cs. (1995) [26], Taylor D.J. (1995) [27], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Theo Urban và cs. [28], điều trị viêm vú trong thời kỳ cho sữa làmột yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả. Trekaxova A.V. [19] cho biết: chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 - 40ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 88 - 10cm. Dung dịch novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hay kháng sinh khác. Đồng
  42. 35 thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần. Theo Urban V.P. và cs [28]: các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp. 2.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Nước ta ngành chăn nuôi rất được nhà nước quan tâm và phát triển, ngành chăn nuôi lợn đã được nhà nước đầu tư kinh phí cho rất nhiều dự án để nghiên cứu về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nói chung và lợn nái nói riêng. Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [5], trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1 giờ đẻ, cắt răng nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10 ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục. Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [7], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ
  43. 36 non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ(2004) [13]). Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2002) [11], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [7] cho biết, khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Tác giả đề nghị nên dùng oxytocin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ.
  44. 37 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng Đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại lợn Bùi Mạnh Cường, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành Địa điểm: Trang trại lợn Bùi Mạnh Cường, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh Thời gian: Từ 18/5/2019 đến 25/11/2019. 3.3. Nội dung tiến hành - Nắm bắt tình hình chăn nuôi tại trại. - Thực hiện quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái sinh sản. - Chẩn đoán và điều trị một số bệnh sinh sản của lợn nái sinh sản. 3.4. Phương pháp tiến hành và các chỉ tiêu theo dõi 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi - Cơ cấu của đàn nái sinh sản tại trại. - Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại. - Biện pháp vệ sinh phòng bệnh. - Lịch tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại. - Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại. - Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái của trại. - Số lượng lợn con được can thiệp thủ thuật. 3.4.2. Phương pháp theo dõi - Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi: để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại chúng em tiến hành thu thập thông tin từ trại, kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại trang trại.
  45. 38 - Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại: thực hiện các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái chửa, lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ theo quy trình chăn nuôi của công ty Deheus. - Phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn: để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, chúng em tiến hành theo dõi hàng ngày, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ thể, bộ phận sinh dục ngoài, dịch rỉ viêm, phân ghi chép vào sổ theo dõi hàng ngày. Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại. 2.3.4. Quy trình phòng bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ 3.4.2.1. Công tác vệ sinh, sát trùng chuồng trại Công tác vệ sinh trong chăn nuôi là một trong những khâu rất quan trọng. Nếu công tác vệ sinh được thực hiện tốt thì gia súc ít mắc bệnh, sinh trưởng và phát triển tốt, chi phí thuốc thú y thấp, làm cho hiệu quả chăn nuôi cao hơn. Vì vậy, trong suốt thời gian thực tập, chúng tôi đã thực hiện tốt các công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại như sau: + Hàng ngày, trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh viên đều phải đi qua phòng sát trùng và tắm sạch sẽ mặc quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. + Việc đầu tiên vào chuồng là cho lợn nái ăn rồi cào phân tránh lợn mẹ nằm đè phân. + Bắt nhốt lợn con vào ô úm rồi lau sàn nhựa (hoặc rắc vôi rồi quét) + Rắc vôi lối đi giữa, xung quanh chuồng và dưới gầm chuồng. + Thu phân vào bao và quét dọn sạch sẽ quanh chuồng. + Phun sát trùng máng lợn mẹ khi ăn xong. + Vệ sinh sạch sẽ nái đè phân.
  46. 39 Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ và được tiêu độc bằng thuốc sát trùng Beta Q 1 lần hàng ngày, pha với tỷ lệ 320ml/1000 lít nước. Lịch sát trùng của trại được thực hiện như sau:
  47. 40 Bảng 2.1. Lịch sát trùng áp dụng tại trại lợn nái Trong chuồng Ngoài khu Ngoài Thứ Chuồng nái Chuồng vực chăn Chuồng nái đẻ Chuồng chửa cách ly nuôi Phun sát trùng Phun sát trùng Phun sát Phun sát trùng Phun vôi xút Phun vôi xút Thứ 2 trùng Phun vôi xút Quét hoặc rắc vôi Rắc vôi Phun vôi xút đường đi đường đi Phun sát Phun sát trùng Phun sát trùng Quét hoặc rắc Thứ 3 trùng Phun vôi xút Phun vôi xút vôi đường đi Phun vôi xút Phun sát trùng Phun sát trùng Phun sát Phun sát trùng Phun vôi xút Phun vôi xút Thứ 4 trùng Phun vôi xút Quét hoặc rắc vôi Rắc vôi Phun vôi xút đường đi đường đi Phun sát Phun sát trùng Phun sát trùng Phun sát trùng Quét hoặc rắc Thứ 5 trùng Phun vôi xút Phun vôi xút Phun vôi xút vôi đường đi Phun vôi xút Phun sát trùng Phun sát trùng Phun sát Phun sát trùng Phun vôi xút Phun vôi xút Thứ 6 trùng Phun vôi xút Quét hoặc rắc vôi Rắc vôi Phun vôi xút đường đi đường đi Phun sát Phun sát trùng Phun sát trùng Phun sát trùng Quét hoặc rắc Thứ 7 trùng Phun vôi xút Phun vôi xút Phun vôi xút vôi đường đi Phun vôi xút Phun sát trùng Phun sát trùng Phun sát Chủ Phun sát trùng Phun vôi xút Phun vôi xút trùng Nhật Phun vôi xút Quét hoặc rắc vôi Rắc vôi Phun vôi xút đường đi đường đi 3.4.2.2. Công tác phòng bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ Quy trình tiêm phòng vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn luôn được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng kỹ thuật. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra trong cơ thể chúng miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi
  48. 41 khuẩn, vi rút gây bệnh, tăng sức đề kháng cho cơ thể, nhằm giảm đáng kể thiệt hại về kinh tế do dịch bệnh xảy ra. Bảng 2.2. Lịch tiêm phòng vắc xin áp dụng tại trại Loại Phòng Loại vắc Liều dùng Đường đưa Ngày tuổi lợn bệnh xin (ml/con) thuốc 25,29 tuần Tiêm dưới Khô thai Parvo 2 tuổi da cổ Lợn 26 tuần Tiêm dưới Dịch tả Coglapest 2 hậu bị tuổi da cổ 28 tuần Tiêm dưới Tai xanh PRRS 2 tuổi da cổ 10 tuần Tiêm dưới Lợn nái Dịch tả Coglapest 2 chửa da cổ sinh 16 tuần Tiêm dưới sản Tai xanh PRRS 2 chửa da cổ 2 - 3 ngày Iron Dextran Tiêm dưới Thiếu sắt 1.5 tuổi 20% da cổ 3 - 4 ngày Diacoxin Cầu trùng 1 Uống tuổi 5% Lợn 10 - 14 Tiêm dưới Tai xanh PRRS 2 con ngày tuổi da cổ 18 – 24 Myco Mycoplasma Tiêm dưới 2 ngày tuổi Circo Circo da cổ 28-35 Tiêm dưới Dịch tả Coglapest 2 ngày tuổi da cổ
  49. 42 3.4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi Số liệu thu được được xử lý trên phần mềm Microsoft Excel 2010 với các tham số như sau: - Tỉ lệ lợn mắc bệnh: ∑ số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 ∑ số lợn theo dõi - Tỷ lệ lợn khỏi: ∑ số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%) = x 100 ∑ số con điều trị Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại Bùi Mạnh Cường Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45 - 2,5 lứa/năm. Số con sơ sinh là 11,23 con/đàn, số con cai sữa: 9,86 con/đàn. Trại hoạt động vào mức khá theo đánh giá của công ty chăn nuôi Deheus Việt Nam. Tại trại, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày thì tiến hành cai sữa và chuyển sang các trại lợn khác của công ty. Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi của trại trong 3 năm (2017 - 2019)
  50. 43 STT Chỉ tiêu khảo sát ĐVT Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 1 Lợn đực giống Con 7 4 6 2 Lợn nái hậu bị Con 120 150 130 3 Lợn nái sinh sản Con 578 650 476 4 Lợn con Con 5927 8060 6987 Qua bảng 4.1 cho thấy: Tại trại lợn con theo mẹ có xu hướng được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 28 ngày tuổi tiến hành cai sữa và chuyển sang chuồng cai sữa của trại. Số lợn đực giống từ 2017 - 2018 giảm 3 con và 2018 - 2019 giữ nguyên vì hầu hết lượng tinh đều nhập bên ngoài về. Lợn nái giảm từ 578 xuống 476 con, lợn hậu bị dao động trong khoảng 90 đến 150 con, lợn con dao động trong khoảng 5927 đến 8060 con. Từ năm 2017 đến 2019 số đầu lợn tăng lên cho thấy quy mô chăn nuôi lợn của trại có xu hướng phát triển theo hướng ổn định. Số lượng nuôi của các loại lợn của trại là rất khác nhau và có sự chênh lệch rõ rệt. Số lợn con là cao nhất sau đó là lợn thịt và tiếp là lợn nái, số lợn nái có xu hướng tăng lên nhiều qua các năm. Đặc biệt là lợn hậu bị tăng lên nhằm thay thế cho các lợn nái sinh sản không đủ tiêu chuẩn và phải loại thải. Hàng tháng vẫn có sự loại thải những con nái sinh sản kém, không đủ tiêu chuẩn để làm giống. Từng lợn nái được theo dõi tỉ mỉ các số liệu liên quan của từng nái như: số tai, ngày phối giống, ngày đẻ dự kiến được ghi trên thẻ gắn tại chuồng nuôi. 4.2. Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng đàn lợn nái và lợn con Chăm sóc nuôi dưỡng là một quy trình không thể thiếu của bất kỳ trại chăn nuôi nào, chính vì vậy trong suốt 6 tháng thực tập tại trại em đã được tham gia và làm các công việc về nuôi dưỡng, chăm sóc cho đàn lợn nái nuôi con tại trại. Em đã được học và mở mang kiến thức rất nhiều về cách cho ăn, thức ăn nào dành cho những loại lợn nào, các thao tác kỹ thuật để chăm sóc lợn mẹ tốt Và dưới đây là kết quả em đã thực hiện được.
  51. 44 Bảng 4.2. Số lợn nái và lợn con theo mẹ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng qua 6 tháng thực tập Kết quả Tháng Nái hậu bị (con) Nái đẻ (con) Lợn con theo mẹ (con) 5 0 11 126 6 0 32 378 7 0 15 186 8 0 24 283 9 0 32 386 10 0 12 168 11 0 32 381 Tổng 0 158 1908 (Nguồn: Phòng kế toán trang trại) Kết quả bảng 4.2 cho thấy trong 6 tháng thực tập tốt nghiệp em đã trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng được 158. Công việc hàng ngày em đã được thực hiện như sau: cho nái ăn khẩu phần ăn đúng quy định. Nếu nái nuôi con quá gầy, nuôi nhiều con cho ăn tăng lượng thức ăn lên, theo dõi nái ăn, nếu nái bỏ ăn kiểm tra nhiệt độ cơ thể để có biện pháp xử lý kịp thời. Chăm sóc lợn con để ý khẩu phần ăn đến ô úm, bóng úm, chú ý để lợn không bị đè. Nếu lợn con còi quá thì cho uống thêm sữa ngoài. Vệ sinh ô chuồng, lau bầu vú, lau mông cho nái bằng bằng nước sát trùng. Trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng em đã được học hỏi và mở mang rất nhiều kiến thức từ việc vệ sinh đến các khâu chăm sóc như sau: Đối với lợn nái trước và sau đẻ cần chú ý đến khẩu phần ăn, quy trình dùng thuốc luôn được đảm bảo và công tác vệ sinh luôn được quan tâm. Đối với lợn con khi sinh ra cần được lau khô mũi vuốt sạch nhớt tránh bị ngạt chết lợn con, miệng và toàn thân lau khô xong buộc dây rốn tránh không để rốn chảy máu gây thiếu máu lợn con, mài nanh và cho bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Tiêm chế phẩm Fe - Dextran cho lợn con vào 3 ngày tuổi.
  52. 45 Tập ăn sớm cho lợn con khi được 7 - 10 ngày tuổi bằng thức ăn hỗn hợp 3800 của công ty De Heus. Thức ăn cho lợn con phải giàu đạm và năng lượng. Theo dõi thường xuyên để phát hiện bệnh và điều trị kịp thời đối với nái và lợn con. Chuồng trại phải được vệ sinh thường xuyên sạch sẽ. Chuồng nuôi đảm bảo luôn khô ráo, thoáng mát, tránh gió lùa và đảm bảo giữ ấm cho lợn con. 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại lợn Bùi Mạnh Cường Kết quả theo dõi tình hình sinh sản của lợn nái tại trại được trình bày ở bảng 4.3. Bảng 4.3. Tình hình sinh sản của đàn lợn nái nuôi tại trại Nái đẻ bình thường Nái đẻ khó phải can thiệp Số nái đẻ Tháng Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ (con) (con) (%) (con) (%) 5 11 8 72,73 3 27,27 6 32 29 90,63 3 9,37 7 15 11 73,33 4 26,67 8 24 19 79,12 5 20,88 9 32 24 75,00 8 25,00 10 12 9 75,00 3 25,00 11 32 26 81,25 6 18,75 Tổng 158 126 79,75 32 20,25 Kết quả bảng 4.3 cho thấy: Trong 158 nái theo dõi có nái đẻ bình thường chiếm tỷ lệ 79,75%, có 32 nái đẻ khó phải can thiệp chiếm tỷ 20,25 %. Biểu hiện đẻ khó như sau: Khi lợn đã vỡ nước ối mà lợn mẹ lại không có biểu hiện rặn đẻ, hoặc trường hợp khi đẻ được 1 đến 2 con sau 30 phút đến 1 giờ mà không thấy lợn đẻ nữa nhưng lợn mẹ vẫn tiếp tục rặn liên tục thì nhanh chóng sát trùng tay, bôi gel bôi trơn. Đưa tay vào trong tử cung, nắm lấy lợn con, đưa lợn con ra ngoài. Trong khi thực hiện đỡ đẻ em rút ra một số bài học sau: Việc chăm sóc, nuôi dưỡng nái đẻ và nuôi con cần chú ý giảm khẩu phần ăn đối với lợn nái
  53. 46 quá béo, điều chỉnh tăng hoặc giảm thức ăn thích hợp đối với những lợn nái đẻ lứa đầu để con đẻ không quá to dẫn đến đẻ khó, loại thải những nái già đã đẻ quá nhiều lứa. Trong lúc nái đẻ cần phải trực liên tục cho đến khi lợn đẻ xong, khi có biểu hiện khó đẻ cần xử lý kịp thời. Kỹ năng học được trong 6 tháng vừa qua là cho nái ăn đúng khẩu phần, biết được quy trình đỡ đẻ và can thiệp đúng lúc. 4.4. Chỉ tiêu sinh sản của lợn nái nuôi tại trại Bảng 4.4. Chỉ tiêu sinh sản của lợn nái nuôi tại trại Số nái đẻ Tổng số lợn con TB số lợn đẻ ra/lứa Tháng (con) (con) (con) 5 11 126 11,45 6 32 378 11,81 7 15 186 12,4 8 24 283 11,79 9 32 386 12,06 10 12 168 14,00 11 32 381 11,91 Tổng 158 1908 12,08 Qua bảng 4.4 cho ta thấy chỉ tiêu về sinh sản là khá cao, trong tổng 158 nái đẻ với 1908 lợn con được sinh ra, trung bình số lợn con đẻ ra/ lứa/ nái là 12,08 con. Để duy trì và tăng tỷ lệ đẻ cần chú ý việc chăm sóc, nuôi dưỡng nái, cho nái ăn đủ khẩu phần ăn, đủ dinh dưỡng, thay thế những nái già, yếu. Trong quá trình chăm sóc chú ý khi sinh lợn con cần được bú sữa đầu, số lượng lợn nhiều thì tiến hành ghép đàn hoặc chia ra 2 đợt bú. Ngoài ra còn cần chú ý đến nhiệt độ nếu nhiệt độ chuồng nuôi thấp cần đưa lợn con vào úm, tránh nền, sàn ẩm ướt để giảm tỷ lệ mắc bệnh ở lợn con, nên cho lợn con tập ăn sớm để phòng tiêu chảy và tăng khả năng tăng trọng của lợn.
  54. 47 4.5. Kết quả công tác phòng bệnh cho lợn tại trại 4.5.1. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh Công tác vệ sinh trong chăn nuôi là một trong những khâu rất quan trọng. Nếu công tác vệ sinh được thực hiện tốt thì gia súc ít mắc bệnh, sinh trưởng và phát triển tốt, chi phí thuốc thú y thấp, làm cho hiệu quả chăn nuôi cao hơn. Do nhận thức rõ được điều này nên trong suốt thời gian thực tập, em đã thực hiện tốt và đạt kết quả như sau: Bảng 4.5. Kết quả vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực tập Số lượng Kết quả đã thực hiện Công việc được giao Số lượng Tỷ lệ (lần) (lần) (%) Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 184 184 100 Phun sát trùng 184 184 100 Quét và rắc vôi đường đi 108 108 100 Nhìn vào bảng cho thấy công việc vệ sinh, sát trùng của trại được thực hiện thường xuyên hàng ngày. Theo quy định của trại mỗi ngày công việc vệ sinh chuồng trại, quét vôi rắc đường đi thực hiện cách ngày, phun sát trùng ngày/ 1 lần. Trong 6 tháng thực tập tại cơ sở em được giao trực tiếp tham gia vệ sinh chuồng trại 184 lần, quét và rắc vôi đường đi 108 lần, phun sát trùng 184 lần, đã hoàn thành 100% công việc được giao. Qua quá trình làm em đã nắm được quy trình vệ sinh sát trùng trong chăn nuôi như thế nào là hợp lý, sử dụng thuốc sát trùng với liều lượng phù hợp và điều quan trong là khi phun sát trùng phải mặc quần áo lao động, đi ủng, đeo khẩu trang, đội mũ 4.6. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái và lợn con tại trại 4.6.1. Kết quả chẩn đoán bệnh ở lợn nái Bảng 4.6. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái tại trại
  55. 48 Số lợn nái theo Số nái mắc Tỷ lệ mắc Tên bệnh Biểu hiện dõi bệnh (con) (%) bệnh (con) Viêm tử cung 158 12 7,59 Viêm vú 158 6 3,80 Sát nhau 158 38 20,05 Qua bảng 4.6 cho thấy: Đàn lợn nái của trại mắc các bệnh như sau: bệnh viêm tử cung, bệnh viêm vú, bệnh sát nhau. Trong đó, lợn nái mắc bệnh viêm tử cung chiếm tỷ lệ 7,59%, tiếp đến là bệnh viêm vú chiếm 3,80% và bệnh sát nhau chiếm tỷ lệ là 20,05 %. Để giảm thiểu tỷ lệ mắc các bệnh trên lợn nái nhằm hạn chế bệnh sản khoa ở lợn nái cần nâng cao sức đề kháng cho lợn trong thời kỳ mang thai và sinh đẻ. Điều chỉnh tăng, giảm thức ăn hỗn hợp thích hợp đối với những lợn nái đẻ lứa đầu để con đẻ không quá to dẫn đến đẻ khó. Có như vậy mới hạn chế được việc can thiệp bằng tay hay dụng cụ sản khoa, từ đó sẽ hạn chế được việc làm tổn thương đường sinh dục của lợn nái. Bên cạnh đó cần đảm bảo chuồng nuôi phải đầy đủ ánh sáng, thoáng mát về mùa Hè và kín gió về mùa Đông. Qua đây em thấy rằng trong chăn nuôi cần quan tâm chú ý hơn nữa đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn nái vì khi lợn nái nhiễm bệnh thì không những ảnh hưởng trực tiếp đến con nái bị bệnh, mà còn ảnh hưởng đến chất lượng đàn lợn con. 4.6.2. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn con Bảng 4.7. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn con tại trại Số lợn con theo dõi Số lợn con mắc bệnh Tỷ lệ Tên bệnh (con) (con) (%) Hội chứng tiêu chảy 1908 512 26,83 Viêm khớp 1908 395 20,70
  56. 49 Kết quả bảng 4.7 cho thấy nhìn chung tình hình mắc bệnh ở đàn lợn con nuôi tại trại vẫn còn xảy ra khá cao. Có 512 lợn con mắc hội chứng tiêu chảy chiếm 26,83%, có 395 lợn con mắc hội chứng viêm khớp chiếm 20,70%. Cách khắc phục tốt nhất để hạn chế lợn con mắc bệnh tiêu chảy là cho lợn con bú sữa đầu ngay sau khi đẻ và giữ ấm cơ thể cho lợn con. Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên lợn nái sinh sản tại trại Chỉ tiêu khảo sát Số nái Thời Số Loại Tên Tỷ lệ điều Đường gian nái lợn bệnh Thuốc và liều lượng khỏi trị tiêm điều trị khỏi (%) (con) (ngày) (con) + Dufamox: 1ml/ 10 kg TT Viêm tử + Oxytoxin: 2ml/ con Tiêm 12 3 - 5 10 83,33 cung + Hanalgin: 1ml/ 10 kg TT bắp + Dexamethasone: 1ml/ 10 kg TT Lợn + Dufamox: 1ml/ 10 kg TT Tiêm nái Viêm vú 6 + Hanalgin: 1ml/ 10 kg TT 3 - 5 4 66,67 bắp + Oxytoxin: 2ml/ con + Oxytocin: 2ml/ con Tiêm Sát nhau 38 + Dufamox: 1ml/ 10 kg TT 3 37 97,37 bắp + Kết hợp thụt rửa Hội + Tiêm Dufafloxacin: 1ml/ 10 kg Tiêm chứng 512 1 - 2 495 96,68 TT, Atropin: 1ml/ 10 kg TT bắp Lợn tiêu chảy con + Dufamox: 1ml/ 10 kg TT Viêm Tiêm 395 + Dexamethasone: 1ml/ 20 kg TT 1 - 3 368 93,16 khớp bắp + Catosal: 1ml/ 10 kg TT Qua bảng 4.8 cho thấy kết quả điều trị một số bệnh trên đàn lợn nái nuôi con và một số bệnh đối với lợn con tại trại có tỷ lệ khỏi bệnh là khá cao: Đối với lợn nái sau khi điều trị các bệnh viêm vú tỷ lệ khỏi đạt 66,67%, sát nhau tỷ lệ khỏi đạt tỷ lệ khỏi đạt 97,37%, bệnh viêm tử cung tỷ lệ khỏi là 83,33%.
  57. 50 Đối với lợn con: tỷ lệ khỏi đối với hội chứng tiêu chảy là 96,68%, bệnh viêm khớp là 93,16%. Qua chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái và lợn con, em nhận thấy: để giảm tỷ lệ mắc bệnh chúng ta phải đảm bảo tiểu khí hậu chuồng nuôi, khi thời tiết nóng ta phải tăng quạt thông gió, bật giàn mát, đóng kín cửa tránh nhiệt độ bên ngoài ùa vào làm ảnh hưởng đến tiểu khí hậu trong chuồng nuôi, làm tăng nhiệt độ trong chuồng. Thực hiện tốt công tác vệ sinh trước, trong và sau khi đẻ, có thao tác đỡ đẻ khoa học để giảm bớt tỷ lệ mắc các bệnh. Ngoài ra việc lựa chọn được loại thuốc phù hợp sẽ đem lại hiệu quả điều trị cao và giảm chi phí điều trị bệnh, từ đó giúp nâng cao năng suất và hiệu quả trong chăn nuôi. 4.7. Kết quả thực hiện các thao tác khác tại trại Bảng 4.9. Kết quả thực hiện các thao tác trên lợn con và lợn nái tại trại Tỷ lệ Số lợn được Tỷ lệ đạt Số con an toàn sau Loại lợn Tên công việc thực hiện yêu cầu (con) thực hiện (con) (%) (%) Mài nanh, bấm đuôi 1908 1691 88,63 100 Tiêm chế phẩm 1908 1691 88,63 100 Lợn con Fe –Dextran Nhỏ Diacoxin 5% 1908 1691 88,63 100 (uống) Thiến lợn con 1908 1187 62,21 100 Qua 6 tháng thực tập em đã được hướng dẫn cũng như thực hiện các thao tác kỹ thuật trên đàn lợn con. Trong 1908 theo dõi đã được thực hiện công việc mài nanh, bấm đuôi 1691 con đạt tỷ lệ 88,63%. Lợn con sau khi sinh phải được mài nanh, bấm đuôi thường là nửa ngày hoặc một ngày sau khi
  58. 51 đẻ nếu không sẽ làm tổn thương vú lợn mẹ cũng như tránh được việc lợn con cắn lẫn nhau, được thể hiện qua bảng sau. Khi 3 ngày tuổi lợn được tiêm chế phẩm Fe - Dextran phòng bệnh thiếu máu ở lợn, sau đó cho uống Diacoxin 5% phòng bệnh cầu trùng với số lượng là 1691 con chiếm tỷ lệ 88,63%. Khi lợn được 5 ngày tuổi thì tiến hành thiến được 1187 con.
  59. 52 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua thời gian thực tập tại trang trại với chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái và lợn con theo mẹ tại trại lợn Bùi Mạnh Cường, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh” em có một số kết luận sau: 1. Về hiệu quả chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị của trại: - Hiệu quả chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị của trại khá tốt. - Tỷ lệ đẻ thường chiếm khoảng 79,75%. - Tỷ lệ đẻ khó phải can thiệp chiếm khoảng 20,25%. - Tỷ lệ lợn sơ sinh đạt 12,08 con/đàn. - Chẩn đoán phát hiện và điều trị: Ở lợn nái: + 7,59% lợn nái bị viêm tử cung, tỷ lệ khỏi đạt 83,33%. + 3,80% lợn bị viêm vú, tỷ lệ khỏi đạt 66,67%. + 20,05% lợn bị sát nhau, tỷ lệ khỏi đạt 97,37 % . Ở lợn con: + 26,83% lợn bị hội chứng tiêu chảy, tỷ lệ khỏi đạt 96,68%. + 20,70% lợn bị viêm khớp, tỷ lệ khỏi đạt 93,16%. 2. Về công tác thú y của trại: - Đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại chăn nuôi Bùi Mạnh Cường được tiêm phòng đầy đủ, đạt tỷ lệ 100%. - Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn của trại luôn được thực hiện nghiêm ngặt với sự giám sát chặt chẽ của cán bộ kỹ thuật.
  60. 53 - Em đã trực tiếp tham gia vệ sinh chuồng trại 184 lần, quét và rắc vôi đường đi 108 lần, phun sát trùng 184 lần, đã hoàn thành 100% công việc được giao. 5.2. Đề nghị - Trại lợn cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh, phòng bệnh và quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn để giảm tỷ lệ mắc bệnh. - Thực hiện tốt công tác vệ sinh trước, trong và sau khi đẻ, có thao tác đỡ đẻ khoa học để giảm bớt tỷ lệ mắc các bệnh về đường sinh sản ở lợn nái. - Nâng cao hơn nữa tay nghề cho đội ngũ công nhân tại trại nhằm nâng cao chất lượng sản xuất. - Cần có cán bộ kỹ thuật chuyên theo dõi, phát hiện và điều trị bệnh cho lợn con kịp thời nhằm đem lại kết quả điều trị cao nhất.
  61. 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu Tiếng Việt 1. Bilken (1994), Quản lý lợn nái và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội. 2. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr 29 - 35. 3. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016), “Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập XXIII (số 5), tr. 51 - 56 4. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. 5. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Đoàn Thị Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ. 9. Nguyễn Huy Hoàng (1996), Tự trị bệnh cho heo, Nxb Tổng hợp, Đồng Tháp 10. Trương Lăng (1996), Nuôi lợn gia đình, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 12. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Bá Hiên, Nguyễn Văn Diên, Tạ Thúy Hạnh, Trần Đức Hạnh, Nguyễn Hữu Hưng, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Văn Năm, Phạm
  62. 55 Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thọ (2014), Bệnh của lợn tại Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 13. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr.165 - 169. 14. Nguyễn Thị Hồng Minh (2014), Nghiên cứu biến đổi của một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội 15. Lê Văn Năm (2009), Phòng và trị bệnh ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên (2016), Giáo trình Dược lý học thú y, Nxb Đại học Hùng Vương 17. Lê Minh, Nguyễn Văn Quang, Phan Thị Hồng Phúc, Đỗ Quốc Tuấn, La Văn Công (2017), Giáo trình thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 18. Nguyễn Khánh Quắc, Từ Quang Hiển, Nguyễn Quang Tuyên, Trần Văn Phùng (1995), Giáo trình chăn nuôi lợn, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên 19. Trekaxova A.V, Bệnh của lợn đực và lợn nái sinh sản (người dịch Nguyễn Đình Chi), Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 20. Nguyễn Thiện, Phan Địch Lân, Hoàng Văn Tiến, Võ Trọng Hốt, Phạm Sỹ Lăng (1996), Chăn nuôi lợn ở gia đình và trang trại, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học động vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Thị Hồng Minh, Trịnh Đình Thâu (2013), “Thực trạng hội chứng viêm tử cung, viêm vứ, mất sữa (M.M.A) và ảnh hưởng của hội chứng này đến năng suất sinh sản của lợn nái”, Tạp chí KHKT thú y.
  63. 56 23. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị, Tạp chí KHKY thú y tập 17. III. Tài liệu nước ngoài 24. Christensen R. V., Aalbaek B., Jensen H. E. (2007), “Pathology of udder lesions in sows”, J. Vet. Med. A Physiol. Patho.l Clin. Med. 2007 Nov., 54(9), p. 491. 25. Gardner J.A.A., Dunkin., Lloyd LC. (1990), “Metritis – Mastitis – Agalactia”, in Pig production in Autralia. Butterwoths, Sydney, pp. Hughes, PE. (2000), “Feed sow by their backfat”, Feed international, Kotowski, K. (1990), “The efficecy of wisol – T in pig production”, Medycyna weterynaryjna, 46(10) 26. Smith B.B., Martineau G., Bisaillon A.(1995), “Mammary gland and lactaion problems”, In disease of swine, 7th edition, Iowa state university press, pp. 40- 57. 27. Taylor D.J. (1995), Pig diseases 6th edition, Glasgow university, U.K, pp. 315 – 320. 28. UrbanV.P., SchnurV.I., Grechukhin A.N. “The metritis, mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik selskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69 - 75. 29. White B. R., Mc Laren D. G., Dzink P. J., Wheeler M. B. (2013), “Attainment of puberty and the mechanism of large litter size in Chinese Meishan females versus Yorkshire females”, Biology of Reproduction, 44, p. 160 III. Tài liệu internet 30. Duy Hùng (2011), Bệnh viêm vú ở lợn nái, viem-vu-o-lon-nai-post65605.html | NongNghiep.vn.
  64. MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Công tác nuôi dưỡng và chăm sóc lợn Hình ảnh 1: Lau vú lợn mẹ Hình ảnh 2: Lau mông lợn mẹ Hình ảnh 3: Mài nanh lợn con Hình ảnh 4: Cắt đuôi lợn con
  65. Hình ảnh 5: Rắc vôi đường đi Hình ảnh 6: Thiến lợn con Hình ảnh 7: Tiêm lợn nái Hình ảnh 8: Buộc dây rốn lợn
  66. Các loại thuốc sử dụng trong quá trình thực tập chăn nuôi lợn Hình ảnh 9: Thuốc nhỏ cầu trùng Hình ảnh 10: Thuốc kháng sinh Hình ảnh 11: Thuốc sắt Hình ảnh 12: Cồn iod cho lợn con
  67. Hình ảnh 13: Vắc xin Circo Hình ảnh 14: Thuốc bổ Hình ảnh 15: Vắc xin PRRS Hình ảnh 16: Vắc xin Pavo