Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợnĐỗ Đức Thuận huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

pdf 74 trang thiennha21 19/04/2022 3240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợnĐỗ Đức Thuận huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợnĐỗ Đức Thuận huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HÀ VĂN HAI Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI ĐỖ ĐỨC THUẬN, HUYỆN BA VÌ- THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Thái Nguyên, năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HÀ VĂN HAI Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI ĐỖ ĐỨC THUẬN, HUYỆN BA VÌ- THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp: K47- TY - N01 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015-2019 Giảng viên hướng dẫn: TS.Nguyễn Thu Quyên Thái Nguyên, năm 2019
  3. i LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cũng như trong quá trình thực tập tốt nghiệp, bên cạnh sự nỗ lực và phấn đấu của bản thân em còn nhận được sự giúp đỡ quý báu của các cá nhân và tập thể trong và ngoài trường. Lời đầu tiên em xin được gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi Thú y, Ban lãnh đạo trại lợn ông Đỗ Đức Thuận, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đã đồng ý, cho phép và tạo điều kiện cho em về thực tập tại trại. Đặc biệt em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thu Quyên, các cô, bác, anh, chị công nhân tại trang trại ông Đỗ Đức Thuận huyện Ba Vì, thành phố Hà Nộiđã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn quan tâm, động viên và tạo điều kiện về vật chất, tinh thần giúp em hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Do kiến thức thực tế của em chưa nhiều, nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô, các bạn bè, đồng nghiệp để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, các đơn vị và cá nhân đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện khóa luận tốt nghiệp này. Xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 25 tháng 11 năm 2019 Sinh viên Hà Văn Hai
  4. ii MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i MỤC LỤC ii DANH MỤC CÁC BẢNG v DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vi PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2 1.2.1. Mục tiêu 2 1.2.2. Yêu cầu 2 PHẦN 2.TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3 2.1.2. Điều kiện cơ sở vật chất nơi thực tập 4 2.2. Tổng quan tài liệu và các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến chuyênđề 7 2.2.1. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 7 2.2.2. Đặc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ 11 2.2.3. Những hiểu biết về đặc điểm sinh lý tiết sữa của lợn nái và các yếu tố ảnh hưởng 14 2.2.4. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 16 2.2.5. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi 20 2.2.6. Những hiểu biết về một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 23 2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 31
  5. iii 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 31 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 32 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 34 3.1. Đối tượng và phạm vi tiến hành 34 3.2. Địa điểm và thời giantiến hành 34 3.3. Nội dung nghiên cứu 34 3.4. Phương pháp nghiên cứu 34 3.4.1. Phương pháp theo dõi 34 3.4.2. Công thức tính và phương pháp xử lý số liệu 39 3.4.3. Công thức tính và phương pháp xử lý số liệu 40 Phần 4.KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ 41 4.1. Kết quả đánh giá tình hình sản xuất chăn nuôi tạitrại lợn Đỗ Đức Thuận, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội qua 3 năm từ 2017 - 2019 41 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡngđàn lợn tại cơ sở 42 4.3. Đánh giá một số chỉ tiêu sinh sản của lợn nái tại trại 45 4.4. Kết quả công tác vệ sinh, phòng bệnh cho lợn tại cơ sở 47 4.4.1. Công tác vệ sinh sát trùng 47 4.4.2. Kết quả vệ sinh, sát trùng tại cơ sở 47 4.4.3. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ tại trại bằng thuốc và vắc xin 49 4.5. Kết quả chẩn đoán, điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại 51 4.5.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản của trại 51 4.5.2. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Đỗ Đức Thuận huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội 53 4.6. Kết quả thực hiện các công việc khác 54
  6. iv PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 57 5.1. Kết luận 57 5.2. Đề nghị 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO 59 MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP
  7. v DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1. Kết quả tình hình chăn nuôi lợn trong 3 năm qua 41 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập 43 Bảng 4.3. Kết quả thực hiện quy trình đỡ lợn đẻ tại trại 44 Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái từ 21/11/2018 đến 25/05/2019 45 Bảng 4.5. Lịch sát trùng chuồng trại của trại lợn 47 Bảng 4.6. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại 49 Bảng 4.7. Kết quả thực hiện phòng bệnh cho đàn lợn tại trại 50 Bảng 4.8. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sảntại trại 52 Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản 53 Bảng 4.10. Kết quả thực hiện công việc khác 54
  8. vi DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Cs Cộng sự E. coli Escherichia coli Gr(-) Gram âm Gr(+) Gram dương MMA Hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa Nxb Nhà xuất bản PGF2α Prostaglandin STT Số thứ tự TT Thể Trọng
  9. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Chăn nuôi ngày càng có vị trí hết sức quan trọng trong cơ cấu của ngành nông nghiệp. Sản phẩm của ngành chăn nuôi là nguồn thực phẩm không thể thiếu được đối với nhu cầu đời sống con người. Trong đó, chăn nuôi lợn đang rất phổ biến và trở thành một nghề quan trọng để phát triển kinh tế hộ gia đình nông nghiệp và các trang trại, đặc biệt là mô hình trang trại VAC. Với mục đích đa ngành của nền kinh tế hiện nay, chăn nuôi lợn đã trở thành mũi nhọn trong cơ cấu ngành chăn nuôi nói riêng và phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung. Để hoàn thành chương trình học trong Nhà trường, thực hiện phương châm “Học đi đôi với hành”, “Lý thuyết gắn liền với thực tiễn”, giai đoạn thực tập tốt nghiệp tại cơ sở trước khi ra trường rất quan trọng đối với mỗi sinh viên, nhằm củng cố và hệ thống lại toàn bộ những kiến thức đã học, nâng cao tay nghề, đồng thời tạo cho mình sự tự lập, lòng yêu nghề, có phong cách làm việc đúng đắn,đáp ứng nhu cầu của thực tiễn sản xuất. Thực tập tại các trại chăn nuôi lợn sẽ giúp sinh viên nắm được phương pháp tổ chức và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, khi ra trường sẽ trởthành một người cán bộ khoa học có chuyên môn, đáp ứng nhu cầu thực tiễn,góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước. Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tiễn trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y - trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn và cơ sở thực tập, em tiến hành thực hiện đề tài: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại lợnĐỗ Đức Thuận huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội”.
  10. 2 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại cơ sở - Học và thực hành thành thạo quy trình phòng, trị bệnh và nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái nuôi con tại cơ sở chăn nuôi. 1.2.2. Yêu cầu - Nắm vững quy trình phòng, trị bệnh trên đàn lợn nái nuôi con. - Nắm vững quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con. - Thực hiện tốt các yêu cầu, quy định tại cơ sở. - Chăm chỉ, học hỏi để nâng cao kỹ thuật, tay nghề của cá nhân.
  11. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý -Trang trại lợn Đỗ Đức Thuậnthuộc địa bàn thị trấn Tây Đằng - huyện Ba Vì - thành phố Hà Nội. Vị trí địa lý của huyện được xác định như sau: - Thị trấn Tây Đằng là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của huyện Ba Vì, có chợ, bến sông, quốc lộ 32A, tỉnh lộ 413 chạy qua, có nhiều cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn. + Phía Đông giáp xã Chu Minh. + Phía Tây giáp xã Vật Lại. + Phía Nam giáp xã Tiên Phong. + Phía Bắc giáp xã Phú Châu. - Toàn thị trấn có tổng diện tích đất tự nhiên: 1.208,17 ha. Dân số năm 2017, tổng sốcó 3.924 hộ, với 16.208 khẩu. 2.1.1.2. Điều kiện khí hậu -Huyện Ba Vì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10 với nhiệt độ trung bình 23oC, tháng 6 và tháng 7 có nhiệt độ trung bình cao nhất là28,6oC Tổnglượng mưa là 1832,2mm (chiếm 90,87% lượng mưa cả năm). Lượng mưa các tháng đều vượt trên 100mm với 104 ngày mưa và tháng mưa lớn nhấtlàtháng 8 (339,6mm).
  12. 4 Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 với nhiệt độ xấp xỉ 20oC, tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 15,8oC; Lượng mưa các tháng biến động từ 15,0 - 64,4mm và tháng mưa ít nhất là tháng 12 chỉ đạt 15mm. (Theo trạm khí tượng Ba Vì) 2.1.2. Điều kiện cơ sở vật chất nơi thực tập 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức của trại Cơ cấu tổ chức của trang trại bao gồm: - 01: trại trưởng. - 01: quản lý. - 01: kỹ sư. - 01: côngnhân. - 02: sinh viên Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau như tổ chuồng đẻ, tổ chuồng bầu. Mỗi tổ thực hiện công việc hàng ngày một cách nghiêm túc, đúng quy định của trại. 2.1.2.2. Cơ sở vật chất - Trang trại có tổng diện tích 5ha trong đó: khu chăn nuôi, khu nhà ở, các công trình phụ khác, đất trồng cây xanh, cây ănquả chiếm 2ha, còn lại 3ha diện tích ao hồ. - Trại lợn được chia làm hai khu là khu điều hành và khu sản xuất. Khu điều hành gồm nơi làm việc của quản lý trại và nơi ăn, ở của công nhân. Khu sản xuất gồm: 2 chuồng nuôi lợn thịt (mỗi chuồng có 8 ô nuôi); 1 chuồng đẻ (2 dãy,31 ô), 1 chuồng nuôi chung gồm: 90 lợn nái (cả lợn bầu và hậu bị ) + 2 lợn đực khai thác (2 dãy), (số liệu tháng 11/2018). Lợn sau khi sinh 21 - 25 ngày thì được nuôi ở ô cai sữa rồi chuyển qua chuồng nuôi lợn thịt. Mỗi năm trại cho xuất ra thị trường khoảng 800 - 1.000 lợn thịt.
  13. 5 Trại được xây dựng cách xa với đường lớn, xa trường học và nơi ít dân cư sinh sống, bao quanh trại là hệ thống kênh mương và xung quanh chủ yếu là đồng ruộng. Trại nằm trên địa hình khá cao ráo dễ thoát nước vào mùa mưa nhiều. Xung quanh các chuồng nuôi được trồng cây tạo bóng râm mát cho mùahè.Với việc chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp, các biện pháp phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi của trại được thực hiện chủ động và tích cực. Vệ sinh phòng bệnh nhằm nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn luôn là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với việc vệ sinh thức ăn, nước uống, vật nuôi, dụng cụ chăn nuôi, sinh sản thì việc vệ sinh chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi luôn được kỹ sư và đội ngũ công nhân kỹ thuật thực hiện chặtchẽ. Chuồng trại được thiết kế và xây dựng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Sau mỗi lứa lợn, chuồng trại đều được tẩy uế bằng phương pháp: rửa sạch ô nhốt lợn, để khô sau đó phun thuốc sát trùng như RTD Iodine 10 %, Vikon S và để trống chuồng nuôi tối thiểu là 3 ngày mới đưa lợn nái chờ đẻ khác lên. Với lợn con tuyệt đối không tắm rửa để tránh lạnh và ẩm ướt, định kỳ tiêu độc ở các chuồng nuôi lợn nái, lợn đực sản xuất bằng thuốc sát trùng, trại còn thường xuyên tiến hành vệ sinh môi trường xung quanh như việc dọn cỏ, phát quang bụi rậm, diệt chuột, thu dọn phân hằng ngày ở các ôchuồng. Hiện nay, trại áp dụng quy trình chăn nuôi “cùng vào - cùng ra”, trong đó một chuồng hoặc cả một dãy chuồng được đưa vào để nhốt đồng loạt cùng một loại lợn (có thể tương đồng về khối lượng, tuổi). Sau một thời gian nhất định số lợn này được đưa ra khỏi chuồng, lúc đó chuồng trại được rửa sạch, phun thuốc sát trùng và để trống ít nhất 6 ngày trước khi đưa đàn lợn mới lên đẻ. Như vậy quy trình này có tác dụng phòng bệnh do vệ sinh chuồng trại thường xuyên, định kỳ mỗi khi xuất hết lợn, do đó hạn chế được khả năng lan truyền các mầm bệnh từ lô này sang lô khác.
  14. 6 Hệ thống thông thoáng đối với chăn nuôi lợn công nghiệp rất quan trọng, ngoài việc cung cấp đủ oxy cho quá trình hô hấp của lợn, nó còn giúp giải phóng khí độc do phân, nước tiểu gây ra. Chính vì vậy, trại đã sử dụng hệ thống làm mát và chống nóng ở mỗi dãy chuồng vào mùa hè và hệ thống sưởiấm vào mùa đông. Bên cạnh đó các dãy chuồng được sắp xếp theo hướng Đông Nam để đảm bảo ấm áp vào mùa đông, thoáng mát về mùahè. Đặc biệt vào mùa hè, thời tiết rất nóng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sinh sản của đàn lợn nái cũng như sự sinh trưởng và phát triển của lợn con. Do đó trại đã lắp đặt hệ thống chống nóng gồm hệ thống quạt gió ở cuối mỗi dãy chuồng có tác dụng hút không khí có hơi nước từ hệ thống dàn mát trên đầu chuồng tạoluồng khí mát,thông thoáng.Chínhvì vậy không khí trong chuồng lợn luôn mát và nhiệt độ luôn duy trì trong khoảng 28oC - 30oC. Trại trang bị hệ thống lồng úm bên trong có treo một bóng đèn sợi đốt 100W (mùa hè) hoặc 200W (mùa đông) với lợn sau cai sữa cũng có một đèn sưởi hoặc tấm sưởi ở mỗi ô chuồng, đảm bảo luôn duy trì nhiệt độ thích hợp cho lợn con. 2.1.2.3. Thuận lợi và khó khăn -Thuận lợi: + Trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi: Xa khu dân cư, thuận tiện đường giao thông. + Cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm cao trong côngviệc. + Công nhân có tay nghề cao, năng động, nhiệt tình và có trách nhiệm với côngviệc. + Trại được xây dựng theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị hiện đại, do đó rất phù hợp với điều kiện chăn nuôi lợn công nghiệp hiện nay.
  15. 7 - Khó khăn: + Trại nằm trong vùng nhiệt đới khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết diễn biến phức tạp nên khâu phòng trừ dịch bệnh gặp nhiều khó khăn. + Giá thức ăn chăn nuôi mỗi ngày một tăng khiến chi phí thức ăn tăng cao là một nỗi lo của trang trại. + Sự bùng phát của 1 số dịch bệnh như đợt dịch lở mồm long móng 12/2018 gây ra gây thiệt hại kinh tế cho trang trại và nguy cơ bùng phát các dịch bệnh khác. 2.2. Tổng quan tài liệu và các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến chuyên đề 2.2.1. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 2.2.1.1. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái đẻ Mục đích chăn nuôi lợn nái đẻ nhằm đảm bảo cho lợn đẻ an toàn, lợn con có tỷ lệ sống cao, lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con. Chính vì vậy quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe lợn mẹ và lợn con. * Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [25], thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 -3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ
  16. 8 đến ngày thứ 4 -5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, kích thước thức ăn nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái, tang khả năng tiêu hóa cho lợn đẻ. * Quy trình chăm sóc Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [25]: cần phải theo dõi thường xuyên sức khỏe lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện các trường hợp bất thường và có biện pháp xử lý kịp thời. Trước khi lợn đẻ 10 -15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 -5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Theo Lê Hồng Mận (2002) [18]việc trực lợn đẻ là công việc rất cần thiết để hỗ trợ lợn đẻ an toàn: - Chuẩn bị dụng cụ: vải xô, vải mềm sạch, cồn Iode 3%, máy mài nanh, kéo cắt rốn, chỉ buộc, Oxytoxin, đèn sưởi ấm v.v - Công việc trợ sản: lợn nái thường đẻ dễ do thai nhỏ, xương chậu rộng hay đẻ vào ban đêm yên tĩnh. Lợn đẻ trong 1 giờ là tốt nhất, nếu đẻ kéo dài thì phải tác động cho đẻ nhanh hơn bằng cách tiêm Oxytoxin. Khoảng cách đẻ giữa con trước đến con sau thường từ 15 - 20 phút hoặc có thể hơn. Không được dùng oxytoxin trong trường hợp lợn nái rặn nhiều và co một chân lên vì rất có thể lợn con nằm ngang bịt kín đường đẩy thai ra. Trường hợp này người trực sản phải can thiệp thò tay vào trong xoay lợn con về đúng tư thế rồi nhẹ nhàng lôi lợn con ra ngoài để cho lợn mẹ tiếp tục đẻ được.
  17. 9 Nhau thai là một phần quan trọng của bào thai, nhau càng nặng lợn con càng khỏe. Nhau thai thường ra sau khi lợn mẹ đẻ con cuối cùng 12 - 20 phút. Người trực trợ sản phải tuyệt đối không để lợn mẹ ăn nhau, nếu để lợn mẹ ăn nhau sẽ lên men và gây sốt sữa, làm rối loạn tiêu hóa, ảnh hưởng đến chất lượng sữa của lợn mẹ, ảnh hưởng đến lợn con làm lợn con sinh trưởng chậm. Trường hợp lợn nái đẻ lâu, đẻ khó, rặn yếu phải tiêm Oxytoxin giúp tử cung co bóp, nếu bị khó đẻ thì bôi vaselin cho trơn để dễ đẻ. Khi có lợn con chết trong bụng lợn mẹ thì người trợ sản phải cho tay vào lôi thai ra kịp thời. Lợn đẻ xong, người trợ sản bơm vào tử cung thuốc tím hoặc rivanol để phòng nhiễm trùng đường sinh dục. Theo dõi liên tục nhiệt độ của lợn nái trong 3 ngày để phát hiện lợn bị sót nhau, sốt sữa, nhiễm trùng vú mà chữa trị kịp thời. Theo Lê Hồng Mận (2002) [18], lợn đẻ xong, dùng nước ấm rửa sạch âm hộ và vú. Chú ý bảo đảm ô úm cho lợn con, che chắn chuồng ấm áp tránh gió lùa. Sau đẻ lợn mẹ khát nước do mất máu phải bổ sung kịp thời nước sạch có pha thêm muối. Chưa cho lợn nái ăn ngay, cho nhịn 6 - 12 giờ hoặc cho ăn ít để đề phòng viêm vú. Sau đẻ 3 ngày cho lợn mẹ ăn theo mức khẩu phần nái nuôi con để đủ sữa cho lợn con bú, cần theo dõi các hiện tượng lợn bị viêm vú, viêm tử cung, nếu bị viêm phải can thiệp điều trị ngay. 2.2.1.2. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con * Quy trình nuôi dưỡng Theo Lê Hồng Mận (2002) [18], khẩu phần thức ăn nái nuôi con phải đảm bảo đầy đủ thành phần và tỷ lệ chất dinh dưỡng để tiết sữa cho con bú, có độ hao mòn lợn mẹ vừa phải tạo thuận lợi cho lấy giống lứa đẻ tiếp. Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [25], trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau:
  18. 10 Đối với lợn nái ngoại: + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1- 2- 3kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: Cho ăn 4kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức ăn/nái/ngày = 2kg + (số con x 0,35kg/con). + Số bữa ăn trên ngày: 2 bữa (sáng và chiều). + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh). + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%. + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. * Quy trình chăm sóc Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [25], vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Theo Lê Hồng Mận (2002) [18], luôn giữ chuồng khô ráo, có đệm lót rơm để giữ ấm cho lợn mẹ và lợn con có đèn sưởi ấm, tránh để lợn con nằm trên nền xi măng lạnh dễ bị bệnh phân trắng. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [25], chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 20ºC, độ ẩm 70 - 75%.
  19. 11 2.2.2. Đặc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ 2.2.2.1. Đặc điểm về sinh trưởng Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [25], lợn con sinh trưởng và phát dục lúc 21 ngày tuổi gấp 4 lần, lúc 30 ngày tuổi gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi gấp 7 - 8 lần, lúc 50 ngày tuổi gấp 10 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 12 - 14 lần. Lợn con bú sữa sinh trưởng nhanh nhưng không đều qua các giai đoạn. Tốc độ sinh trưởng nhanh trong 21 ngày đầu, sau đó giảm. Do sinh trưởng phát dục nhanh nên khả năng tích lũy các chất dinh dưỡng rất mạnh. Ví dụ: lợn con 3 tuần tuổi tích lũy 9 - 14 g protein/1kg khối lượng cơ thể, trong khi đó lợn trưởng thành chỉ tích được 0,3 - 0,4 g. Điều đó cho thấy: nhu cầu dinh dưỡng của lợn con cao hơn lợn trưởng thành rất nhiều, đặc biệt là protein. Theo Vũ Đình Tôn và Trần Thị Thuận (2005) [26], khối lượng sơ sinh và khối lượng lúc 60 ngày tuổi có mối tương quan tỷ lệ thuận với nhau khá chặt chẽ. Khối lượng sơ sinh không chỉ liên quan đến khối lượng cai sữa mà còn liên quan tới tỷ lệ chết khi sơ sinh cũng như tỷ lệ sống đến cai sữa. Ở lợn ngoại, khối lượng sơ sinh từ 1,1 - 1,35 kg thì tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa đạt 75%. Trong khi đó, khối lượng sơ sinh 0,57 kg hoặc nhỏ hơn chỉ sống sót hơn 2% khi cai sữa. 2.2.2.2. Đặc điểm về cơ quan tiêu hóa Sự tăng lên về khối lượng, sự phát triển của các cơ quan trong cơ thể cũng đồng thời xảy ra. Ở lợn con, cơ quan tiêu hóa phát triển nhanh nhưng chưa hoàn thiện. Sự phát triển thể hiện ở sự tăng nhanh dung tích và khối lượng của bộ máy tiêu hóa, chưa hoàn thiện thể hiện ở số lượng cũng như hoạt lực của một số men trong đường tiêu hóa lợn con bị hạn chế. Dung tích dạ dày của lợn con lúc 10 ngày tuổi có thể tăng gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi tăng gấp 8 lần và lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 60 lần (dung tích lúc sơ sinh khoảng 0,03 lít).
  20. 12 Dung tích ruột non của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 6 lần và lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 50 lần (dung tích ruột non lúc sơ sinh 0,11 lít). Trần Văn Phùng và cs (2004) [25] cho biết: dung tích ruột già lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 1,5 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi tăng gấp 2,5 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 50 lần (dung tích ruột già lúc sơ sinh khoảng 0,04 lít). 2.2.2.3. Đặc điểm của bộ máy tiêu hóa lợn con Ở lợn con mới sinh bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh, thể hiện qua sự phân tiết không đủ lượng acid chlohydric và các men tiêu hóa các chất dinh dưỡng. Trên lợn con sơ sinh, khả năng tiết acid chlohydric rất ít, chỉ đủ để hoạt hóa men pepsinogen thành pepsin (men tiêu hóa chất đạm), lượng acid chlohydric tự do quá ít, không đủ để làm tăng độ toan của dạ dày, do vậy độ toan thấp, vi khuẩn bất lợi theo đường miệng có điều kiện sống sót ở dạ dày, vào ruột non vi khuẩn phát triển mạnh gây nên tiêu chảy. Sự phân tiết các men tiêu hóa ở dạ dày và ruột non cũng rất kém, chỉ đủ sức tiêu hóa các loại thức ăn đơn giản như sữa. Dung tích bộ máy tiêu hóa tăng nhanh trong 60 ngày đầu: dung tích dạ dày lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần, lúc 20 ngày tuổi gấp 8 lần và lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 60 lần so với lúc sơ sinh (dung tích dạ dày lúc sơ sinh khoảng 0,03 lít). Dung tích ruột non lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 6 lần, lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích lúc sơ sinh khoảng 0,12 lít). Còn dung tích ruột già lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 50 lần so với lúc sơ sinh. Sự tăng về kích thước cơ quan tiêu hóa giúp lợn con tích lũy được nhiều thức ăn và tăng khả năng tiêu hóa các chất. 2.2.2.4. Đặc điểm về cơ năng điều tiết thân nhiệt Lợn con sơ sinh tỷ lệ nước trong cơ thể cao đến 82%, chỉ 30 giây sau đẻ, lượng nước đã giảm đến 1,5 - 2% kèm theo nhiệt độ cơ thể giảm dần đến 5 -
  21. 13 10ºC. Sau 3 tuần tuổi thân nhiệt của lợn con tương đối ổn định và lên đến 39 - 39,5ºC. Lợn con mới đẻ cần được sưởi ấm những ngày đầu bằng thùng úm, có đèn sưởi hoặc bếp than, củi nhất là những đêm trời lạnh. Chế độ nhiệt như sau: ngày mới sinh 35ºC sau đó cứ mỗi ngày giảm đi 2ºC đến ngày thứ 8 là 21ºC. Nhiệt độ này được duy trì đến lúc lợn con cai sữa. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [25], đã giải thích nguyên nhân của hiện tượng mất nhiệt của lợn con như sau: - Lớp mỡ dưới da còn mỏng, lượng mỡ và glycogen dự trữ trong cơ thể còn thấp, trên thân lợn lông còn thưa. - Hệ thống điều khiển cân bằng nhiệt chưa hoàn chỉnh. - Diện tích bề mặt cơ thể so với khối lượng chênh lệch tương đối cao nên lợn con bị mất nhiệt nhiều khi trời lạnh. 2.2.2.5. Khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn con Theo Babara Straw (2001) [1], hệ thống miễn dịch bắt đầu phát triển ở thai lợn chửa khoảng 50 ngày. Khoảng 70 ngày tuổi thai lợn có thể phản ứng với các tác nhân lạ với sự sản sinh ra kháng thể. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp thì môi trường dạ con là vô khuẩn và lợn con đẻ ra không có kháng thể nào. Vì vậy lợn con mới sinh phụ thuộc vào kháng thể có chứa trong sữa non trong vài tuần đầu cho tới khi hệ thống miễn dịch có thể phản ứng với thách thức với kháng nguyên từ nhiều tác nhân lây nhiễm gặp phải trong môi trường. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [25], lợn con khi mới sinh ra trong máu hầu như không có kháng thể. Lượng kháng thể tăng nhanh ngay sau khi bú sữa đầu của lợn mẹ, cho nên khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ sữa đầu của lợn mẹ đặc biệt là 7 ngày đầu sau khi sinh.
  22. 14 Theo Nguyễn Như Thanh và cs (2001) [28], ở lợn con mức độ đáp ứng miễn dịch không những phụ thuộc vào sự có mặt của kháng thể mà còn phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng của hệ thống miễn dịch đối với tác nhân gây bệnh. 2.2.3. Những hiểu biết về đặc điểm sinh lý tiết sữa của lợn nái và các yếu tố ảnh hưởng 2.2.3.1. Đặc điểm sinh lý tiết sữa của lợn nái  Cấu tạo: Tuyến sữa của lợn gồm 2 phần: phần phân tiết và phần dẫn sữa: - Phần phân tiết gồm vô số các tuyến bào tạo thành từng chùm như các chùm nho, các tế bào phân tiết nằm mặt trong của các tuyến bào, tổng hợp sữa và phân tiết vào xoang tuyến bào. - Phần dẫn sữa: gồm hệ thống ống dẫn sữa nhỏ xuất phát từ các xoang tuyến bào, các ống dẫn sữa nhỏ dược tập trung lại thành ống dẫn sữa trung bình rồi thành ống dẫn sữa lớn.  Quy luật tiết sữa của lợn nái: Theo Nguyễn Quang Linh và cs (2005) [16] cho biết: đối với lợn bầu vú không có bể sữa. Sữa được sản xuất ra từ các tuyến bào và được tích lũy trong các xoang tuyến bào. Việc tiết sữa của chúng được thực hiện theo cơ chế thần kinh thể dịch và ba pha. Khi lợn con mút bú, đầu tiên lợn con ngậm và thúc vào vú mẹ, luồng xung động hưng phấn thần kinh hướng tâm truyền về vỏ não, rồi tới vùng dưới đồi, tiết các yếu tố giải phóng, các yếu tố giải phóng tác động lên thùy sau tuyến yên, kích thích tiết kích tố oxytocin đi tới tuyến vú làm co bóp tế bào biểu mô, cơ tuyến bào và cơ tuyến vú. Nhờ vậy, sữa được thải ra từ các xoang tuyến bào qua ống dẫn sữa nhỏ, qua ống dẫn sữa lớn và chảy ra ngoài theo ống tiết sữa, từ đó lợn con mới bú được. Do vậy khi lợn con bú sữa, chúng thực hiện theo 3 pha như sau: Pha ngậm và thúc vú (80-100s), pha nằm im (20s), pha mút vú (20s).
  23. 15 Sự tiết sữa không đều theo lứa đẻ: sản lượng sữa tăng dần từ lứa 1 đến lứa 5 sau đó giảm dần. 2.2.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái Giống: các giống lợn khác nhau thì có sản lượng sữa khác nhau lợn Berkshire có sản lượng sữa là 1,9 - 3,3 kg/ ngày; Duroc 1,9 - 3,0 kg/ ngày; Landrace 2,5 - 3,5 kg/ ngày. Các tài liệu gần đây cho biết lợn nái Yorkshire và Landrace có thể tiết > 10 lít sữa/ ngày. Số con để nuôi trong một ổ: số con để nuôi trong ổ với sản lượng sữa của lợn mẹ có mối tương quan chặt chẽ với nhau, sản lượng sữa của lợn mẹ phụ thuộc vào số con để nuôi trong một ổ. Tuổi và lứa đẻ của lợn mẹ: sản lượng sữa của lợn mẹ lứa đầu thấp, sau đó tăng dần, đạt đỉnh cao ở lứa thứ 3, sau đó ổn định và giảm dần từ lứa để thứ 8 trở đi. Số vú lợn mẹ: giữa số vú và sản lượng sữa có tương quan dương (r = 0,262). Vị trí của vú: sản lượng sữa giảm dần từ cặp vú phía trước ngực ra sau bụng. Chế độ dinh dưỡng: ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sản lượng sữa, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ nuôi sống của lợn con tăng lên nếu chúng ta cho lợn mẹ ăn khẩu phần ăn có nhiều chất béo của giai đoạn cuối của giai đoạn chửa và thời kì tiết sữa đầu. Ảnh hưởng mức protein đến năng suất và chất lượng sữa: khi lượng ăn vào tăng sẽ nâng cao sản lượng sữa. Khi lượng ăn giảm, dinh dưỡng để sản xuất sữa phải sử dụng từ nguồn dinh dưỡng dự trữ của cơ thể. Nước: nước chiếm 80 - 85%, vì lợn tiết sữa đòi hỏi một lượng nước rất lớn. Thời tiết, khí hậu: thời tiết mát mẻ lợn mẹ sẽ tăng ăn vào, tăng sản lượng sữa.Nhiệt độ cao giảm ăn vào giảm sản lượng sữa.
  24. 16 2.2.4. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 2.2.4.1. Sự thành thục về tính và thể vóc -Sự thành thục về tính: Một cơ thể được gọi là thành thục về tính khi bộ máy sinh dục của cơ thể phát triển căn bản đã hoàn thiện. Dưới tác dụng của thần kinh, nội tiết tố (các phản xạ về sinh dục), cơ quan sinh dục lợn nái có các noãn bào chín và tế bào trứng rụng, có khả năng thụ thai, tử cung cũng sẵn sàng cho thai làm tổ. Tuy nhiên sự thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính biệt, các điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc, nuôi dưỡng. -Giống: Các giống khác nhau thì thành thục về tính cũng khác nhau, những giống có tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn những giống có tầm vóc lớn, những giống thuần hoá sớm thành thục sớm hơn các giống thuần hóa muộn. Tuổi thành thục về tính của các lợn cái ngoại và lợn cái lai muộn hơn các loại lợn cái nội thuần chủng (Ỉ, Móng cái ). Các giống lợn nội này thường có tuổi thành thục về tính vào khoảng 4 - 5 tháng tuổi, lợn ngoại là 6 - 8 tháng tuổi, lợn lai F1 (nội x ngoại) thường động dục lần đầu vào lúc 6 tháng tuổi. -Điều kiện nuôi dưỡng, quản lý: Cùng một giống nhưng nếu điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý tốt, gia súc phát triển tốt thì sớm thành thục và ngược lại. Điều kiện ngoại cảnh: khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính của gia súc. Theo Paul Hughes và James Tilton (1996) [34], lợn cái hậu bị ngoài 90kg thể trọng ở 165 ngày tuổi cho tiếp xúc 2 lần/ngày với lợn đực, mỗi lần tiếp xúc 15 - 20 phút thì tới 83% lợn cái hậu bị động dục lần đầu dài hơn lợn nuôi chăn thả. -Tuổi thành thục về tính của gia súc: Tuổi thành thục về tính ở gia súc thường sớm hơn tuổi thành thục về thể
  25. 17 vóc, nghĩa là sau khi con vật đã thành thục về tính vẫn tiếp tục sinh trưởng, lớn lên. Đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi, không nên cho gia súc sinh sản quá sớm để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường của lợn mẹ và phẩm chất giống của đời sau. - Sự thành thục về thể vóc Theo Nguyễn Đức Hùng và cs (2003) [14], tuổi thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, tầm vóc ổn định. Tuổi thành thục về thể vóc thường chậm hơn so với tuổi thành thục về tính. Thành thục về tính được đánh dấu bằng hiện tượng động dục lần đầu tiên. Lúc này sự sinh trưởng và phát dục của cơ thể vẫn còn tiếp tục, trong giai đoạn lợn thành thục về tính mà ta cho giao phối ngay sẽ không tốt, vì lợn mẹ có thể thụ thai nhưng cơ thể mẹ chưa đảm bảo cho bào thai phát triển tốt, nên chất lượng đời con kém, đồng thời cơ quan sinh dục, đặc biệt là xương chậu vẫn còn hẹp dễ gây hiện tượng khó đẻ. Điều này ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Do đó không nên cho phối giống quá sớm. Đối với lợn cái nội khi được 7 - 8 tháng tuổi khối lượng đạt 40 - 50 kg nên cho phối, đối với lợn ngoại khi được 8 - 9 tháng tuổi, khối lượng đạt 100 - 110kg mới nên cho phối. 2.2.4.2. Chu kỳ động dục Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể đã phát triển hoàn hảo, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng có quá trình phát triển của noãn bao, noãn bao thành thục, trứng chín và thải trứng. Song song với quá trình thải trứng thì toàn bộ cơ thể nói chung đặc biệt là cơ quan sinh dục có hàng loạt các biến đổi về hình thái cấu tạo và chức năng sinh lý. Lợn nái sau khi thành thục về tính thì bắt đầu có biểu hiện động dục, lần thứ nhất thường biểu hiện không rõ ràng, cách sau đó 15- 16 ngày lại động dục, lần này biểu hiện rõ ràng hơn và sau đó đi vào quy luật mang tính chu kỳ.
  26. 18 Một chu kỳ tính ở lợn thường dao động trong khoảng 18 - 22 ngày, trung bình 21 ngày theo Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006) [29] cho biết: Chu kỳ động dục của gia súc chia làm 4 giai đoạn: giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục và giai đoạn nghỉ ngơi: - Giai đoạn trước động dục (kéo dài 2-3 ngày). Đây là giai đoạn từ khi thể vàng tiêu huỷ đến lần động dục tiếp theo, chuẩn bị điều kiện cho cơ quan sinh dục lợn cái và trứng để tiếp nhận tinh trùng, đón trứng và thụ tinh. + Bao noãn phát triển về khối lượng và chất lượng, nổi lên trên bề mặt buồng trứng và tăng tiết Oestrogen, kích thước noãn bao thay đổi rất nhanh, đầu giai đoạn này kích thước của noãn bao có đường kính là 4mm, đến cuối giai đoạn kích thước của noãn bao có đường kính 10 -12mm. + Tuyến sinh dục phụ tiết dịch nhày, loãng làm trơn cơ quan sinh dục. - Giai đoạn động dục (kéo dài 2-3 ngày). Khi gia súc đã có biểu hiện tính dục thì đây là giai đoạn tiếp theo, giai đoạn này gồm 3 thời kỳ liên tiếp là: hưng phấn, chịu đực, và hết chịu đực. Động dục là giai đoạn quan trọng nhưng thời gian lại ngắn. Đối với lợn là 2 - 3 ngày, đặc điểm của giai đoạn này là: + Lượng Oestrogen tiết ra đạt mức cao nhất do đó gây hưng phấn mạnh mẽ toàn thân. + Các biểu hiện ở cơ quan sinh dục: âm hộ sung huyết, tấy sưng lên chuyển từ hồng nhạt sang hồng đỏ, càng gần tới thời điểm rụng trứng thì âm hộ càng thẫm màu chuyển màu mận chín. Tử cung hé mở rồi mở rộng, âm đạo tiết niêm dịch nhiều chuyển từ trong suốt và loãng sang đặc dần, keo dính có tác dụng bôi trơn cơ quan sinh dục và ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn. + Các biểu hiện về thần kinh: thần kinh hưng phấn, con vật ít ăn hoặc bỏ ăn, bồn chồn không yên tĩnh hoặc kêu rít phá chuồng, nhảy lên lưng con khác lúc đầu chưa cho con đực nhảy lên sau đó mới chịu đực, mắt đờ đẫn đứng yên cho con đực nhảy.
  27. 19 + Trứng rụng: ở lợn sau động dục 24 - 30 giờ thì trứng rụng và thời gian rụng trứng kéo dài 10 - 15 giờ vì vậy nên phối 2 lần cho lợn sẽ có hiệu quả thụ thai cao. + Các biến đổi khác về sinh lý khi trứng rụng: thân nhiệt tăng 0,8 - 1,2ºC, nhịp tim tăng, bạch cầu trung tính tăng. Sau khi trứng rụng mà được thụ tinh thì chuyển sang thời kỳ chửa, nếu không được thụ tinh thì chuyển sang giai đoạn sau động dục. - Giai đoạn sau động dục (kéo dài 1 ngày). Giai đoạn này bắt đầu sau khi kết thúc động dục và kéo dài vài ngày. Thể vàng được hình thành, tiết Progesterone ức chế trung khu sinh dục ở vùng dưới đồi dẫn đến làm giảm tiết Oestrogen, do đó làm giảm các hưng phấn thần kinh. Sự tăng sinh và tiết dịch tử cung ngừng lại. Biểu hiện về hành vi sinh dục là không muốn gần con đực, không cho con đực nhảy, con vật dần trở lại trạng thái bình thường. - Giai đoạn yên tĩnh. Giai đoạn này kéo dài nhất, thường bắt đầu từ ngày thứ tư sau khi trứng rụng nếu không được thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu huỷ, con vật không có biểu hiện về sinh lý sinh dục. Đây là giai đoạn con vật hoàn toàn yên tĩnh, cơ quan sinh dục trở lại trạng thái sinh lý bình thường, trong buồng trứng thể vàng bắt đầu teo đi, noãn bao bắt đầu phát dục nhưng chưa nổi rõ lên bề mặt buồng trứng. Đây là giai đoạn nghỉ ngơi, yên tĩnh để khôi phục lại cấu tạo, chức năng cũng như năng lượng cho chu kỳ tiếp theo. Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, nắm được chu kỳ tính và các giai đoạn của quá trình động dục sẽ giúp cho người chăn nuôi có chế độ quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng cho phù hợp và phối giống kịp thời, đúng thời điểm, từ đó góp phần nâng cao năng suất sinh sản cho lợn nái.
  28. 20 - Thời điểm phối giống thích hợp: Theo Nguyễn Thiện và cs (1993) [31], trứng rụng tồn tại trong tử cung 2-3h và tinh trùng sống trong âm đạo lợn cái 30 - 48h. Thời điểm phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4. Đối với lợn nái ngoại, thời điểm phối giống tốt nhất là sau khi có hiện tượng chịu đực 6 - 8 giờ, hoặc cho phối vào cuối ngày thứ 3 và sang ngày thứ 4 kể từ khi bắt đầu chịu đực. Đối với lợn nái nội, nên phối giống vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 vì thời gian động dục ngắn hơn. 2.2.5. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi 2.2.5.1. Phòng bệnh Trong chăn nuôi ngoài giống và thức ăn thì công tác thú y luôn được trú trọng. Đây là điều kiện không thể thiếu để công tác chăn nuôi luôn bền vững và hiệu quả. Công tác thú y gồm phòng bệnh và trị bệnh cho vật nuôi, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạṇ chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. - Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt: Theo Nguyễn Ngọc Phụng [24] bệnh xuất hiện trong một đàn lợn thường do nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm, hoặc không truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh tật trên đàn lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn. Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [25] từ 3 - 5 ngày trước dự kiến đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như Crezin 5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước khi đẻ. -Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng
  29. 21 mát mùa hè, ấm áp mùa đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh.Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: Rửa sạch, để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 15 ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Cần phun sát trùng 1-2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 30 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng nuôi. - Phòng bệnh bằng vắc xin: Phòng bệnh bằng vắc xin là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Theo Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [12] vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền như ARN, AND ) đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thếhệ mới -vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễm dịch làm cho động vật có miễm dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ướng. Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch. 2.2.5.2.Điều trị bệnh Theo Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [12] nguyên tắc để điều trị bệnh là: - Toàn diện: phải phối hợp nhiều biện pháp như: hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. - Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan. -Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng.
  30. 22 -Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. -Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa. Theo Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [12] các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: - Hộ lý: cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó.Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh. -Dùng kháng huyết thanh: chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). - Dùng hóa dược:phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. -Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn.Tuy nhiên sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh.Vì vậy, khi dung thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây:
  31. 23 + Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. + Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. + Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh. + Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. + Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, tiêm nước sinh lý 2.2.6. Những hiểu biết về một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 2.2.6.1. Bệnh viêm tử cung * Nguyên nhân gây bệnh Theo các tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [4], Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [15], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. - Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. - Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung. - Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khoẻ.
  32. 24 - Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sẩy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao gây viêm. - Dovệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm. Đoàn Kim Dung và Lê Thị Tài (2002) [7] cho biết: Nguyên nhân gây viêm tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebriella, E.coli . Lê Văn Năm (1999) [19], cho rằng có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại cảnh gây bệnh như: do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ bằng dụng cụ hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến Muxin của chất nhày các cơ quan sinh dục bị phá hủy hoặc kết tủa, kết hợp với việc chăm sóc nuôi dưỡng bất hợp lý và thiếu vận động đã làm chậm quá trình thu teo sinh lý của dạ con (trong điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về khối lượng kích thước ban đầu khoảng 3 tuần sau đẻ). Bệnh còn xảy ra do thiếu sót về dinh dưỡng và quản lý: khẩu phần thiếu hay thừa protein trước, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm tử cung. Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột gây đẻ khó, viêm tử cung do xây xát. Khoáng chất, vitamin cũng ảnh hưởng đến viêm tử cung. Theo Nguyễn Thị Thuận(2010)[32], khoáng chất, vitamin ảnh hưởng đến viêm tử cung. Thiếu vitamin A gây sưng niêm mạc, sót nhau. Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa phối nhưng đã bị viêm tử cung. * Triệu chứng Thể hiện qua các thể viêm sau: - Viêm dạng nhờn là thể viêm nhẹ xuất hiện sau khi sinh 2-3 ngày, niêm
  33. 25 mạc tử cung bị viêm nhẹ, tử cung tiết dịch nhờn, trong hoặc đục có mùi tanh vài ngày sau tiết dịch nhờn giảm lại đặc và hết hẳn. Con vật không sốt họặc sốt nhẹ, vẫn cho con bú bình thường. - Viêm dạng mủ là thể viêm nặng thường xuất hiện trên con vật có thể trạng xấu, số lượng vi sinh vật nhiễm vào tử cung nhiều, cũng có thể viêm tử cung dạng nhờn kế phát. Con vật thường sốt 40-41ºC, khát nước, kém ăn, nằm nhiều, tiểu ít, nước tiểu vàng, phân có màng nhầy, mệt mỏi ít cho con bú hay đè con. - Viêm dạng mủ lẫn máu là phản ứng ăn sâu vào lớp tử cung, tổn thương mạch mao quản gây chảy máu. Các biểu hiện như: viêm sền sệt có mủ lẫn máu mùi rất tanh. Thân nhiệt rất cao sốt kéo dài. Không ăn kéo dài, sản lượng sữa giảm hoặc mất hẳn, thở nhiều khát nước, mệt mỏi kém phản xạ với tác động bên ngòai đôi khi đè con. * Hậu quả Tử cung là bộ phận quan trọng của cơ quan sinh dục, nơi thai làm tổ và được đảm bảo mọi điều kiện để thai phát triển. Mọi quá trình bệnh lý ở tử cung đều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản của con vật, khi con vật bị viêm tử cung lúc con vật động dục niêm dịch không thoát ra được do cổ tử cung bị tắc. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8] và Trần Thị Dân (2004) [5], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả sau: - Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sẩy thai. Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng
  34. 26 trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sẩy thai. - Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu. Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc. - Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. Nếu tử cung bị viêm mạn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone. - Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. * Chẩn đoán bệnh viêm tử cung Để chẩn đoán bệnh viêm tử cung thường dựa vào các triệu chứng lâm sàng điển hình cục bộ ở cơ quan sinh dục và triệu chứng toàn thân như thân nhiệt và dịch viêm. Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [17], lợn nái bị viêm tử cung còn có những biểu hiện mất sữa, âm đạo có dịch tiết không bình thường trong 3 - 4 ngày sau khi đẻ, nếu sau khi đẻ kiểm tra âm đạo sẽ thấy những miếng nhau thai sót hay thai chết lưu ở tử cung mùi hôi đặc biệt.
  35. 27 Cũng theo F.Madec và C.Neva (1995) [10], bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kì tiền động đực, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu máu cá. Ngoài ra, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra. Khi lợn nái măng thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viên từ đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất. 2.2.6.2. Bệnh viêm vú * Nguyên nhân Theo Nguyễn Như Pho (2002) [23], nguyên nhân gây viêm vú thông thường nhất là trầy xước vú do sàn, nền chuồng bị nhám, vi trùng xâm nhập vào tuyến sữa. Hai loại vi trùng chính gây bệnh là Staphylococcus aureus và Streptococcus agalactiae. Các nguyên nhân khác gây viêm như số con quá ít không bú hết lượng sữa sản xuất, kế phát từ viêm tử cung nặng, do kỹ thuật cai sữa chưa hợp lý. * Triệu chứng Biểu hiện rõ tại vú viêm với các đặc điểm: vú căng cứng, nóng đỏ, có
  36. 28 biểu hiện đau sau khi sờ nắn, không tiết sữa nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều cặn lẫn máu, sau 1-2 ngày thấy có mủ lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40,5ºC -42ºC. Tuỳ số lượng vú bị nhiễm, nái có biểu hiện khác nhau. Lợn nái thường lười cho con bú, lợn con thiếu sữa liên tục đòi bú, kêu rít, đồng thời do bú sữa bị viêm lợn con dễ bị nhiễm trùng đường ruột, lợn con bị tiêu chảy toàn đàn. Trường hợp kế phát bệnh viêm tử cung có mủ dẫn đến nhiễm trùng máu, thì toàn bộ các bầu vú đều bị viêm. * Hậu quả Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ: - Theo Nguyễn Đức Lưu,Nguyễn Hữu Vũ(2004) [17], bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con. - Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [4], cũng khẳng định: mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau. 2.2.6.3. Bệnh sát nhau Trong quá trình sinh đẻ bình thường của lợn mẹ, sau khi thai ra một thời gian từ 10 - 60 phút nhau thai sẽ được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ. Nếu quá thời
  37. 29 gian trung bình trên, nhau thai còn nằm lại trong tử cung thì được gọi là bệnh sát nhau. * Nguyên nhân Theo Văn Lệ Hằng và cs, (2009) [11] bệnh sát nhau có thể do nhiều nguyên nhân. - Giai đoạn chửa nhất là thời gian cuối lợn không được vận động thích hợp, dẫn đến cơ tử cung bị liệt, khi đẻ tử cung co bóp yếu, không đẩy được nhau và thai ra. -Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau đẻ nhau không ra hết. -Can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau thai bị đứt và sót lại. - Tử cung co bóp kém không đẩy được nhau thai ra được. - Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, lợn mẹ quá gầy hoặc quá béo. - Khẩu phần ăn thiếu khoáng, nhất là canxi. - Tất cả những ca đẻ khó → ảnh hưởng đến quá trình co bóp của tử cung → giảm sức rặn của con mẹ. - Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt bệnh Brucellosis (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của nhau làm cho nhau mẹ và nhau con liên kết chặt chẽ. * Triệu chứng: Tuỳ thuộc vào mức độ xảy ra của bệnh, có thể chia ra các loại như sau: - Thể sát nhau hoàn toàn: toàn bộ hệ thống nhau thai con còn dính với niêm mạc tử cung mẹ ở cả hai sừng tử cung. - Thể sát nhau không hoàn toàn: phía sừng tử cung không thai, nhau thai con tách ra khỏi niêm mạc tử cung mẹ. - Thể sát nhau từng phần: một phần của màng nhung hay một ít núm nhau con còn dính với niêm mạc tử cung, đa phần màng thai đã tách ra khỏi niêm mạc tử cung.
  38. 30 Theo Đỗ Quốc Tuấn (2005)[27], biểu hiện triệu chứng khi lợn nái bị sát nhau: Con vật đứng nằm không yên, nhiệt độ hơi tăng, thích uống nước, sản dịch chảy ra màu nâu. Để dễ phát hiện có sát nhau hay không khi đỡ đẻ cho lợn người ta thường gom toàn bộ nhau lại cho đến khi lợn đẻ xong, đếm số nhau ra và số lợn con sẽ phát hiện lợn nái có bị sát nhau hay không. * Hậu quả - Khi gia súc bị bệnh sát nhau nếu không xử lý kịp thời và triệt để sẽ kế phát sang nhiều bệnh nguy hiểm khác: viêm âm đạo, viêm tử cung, viêm ống dẫn trứng, ảnh hưởng nhiều đến quá trình thụ tinh và khả năng sinh đẻ lần sau. - Ngoài ra bệnh thường kế phát gây nên chướng hơi, liệt dạ cỏ, sản lượng sữa giảm hoặc mất hẳn, ngay sau khi khỏi bệnh vẫn hoàn toàn mất sữa. Sát nhau là bệnh gây nhiều tổn thất kinh tế, vì vậy việc đề phòng và điều trị bệnh kịp thời, tránh hiện tượng kế phát. * Chẩn đoán: Để chẩn đoán bệnh sát nhau chủ yếu dựa vào các triệu chứng cục bộ và toàn thân như: lợn mẹ không yên tĩnh, đau nhẹ, thỉnh thoảng cong lưng rặn, thân nhiệt tăng, lợn hay uống nước. Từ cơ quan sinh dục chảy ra hỗn dịch màu nâu. Quan sát trực tiếp trực tiếp qua âm đạo: trường hợp sát nhau hoàn toàn, chỉ nhìn thấy màng mỏng và trong suốt (màng ối, màng niệu) còn ở trong âm đạo, hay còn treo lòng thòng ở mép âm môn. Trường hợp sát nhau không hoàn toàn nhìn thấy được các màng thai và một số núm nhau con (trâu, bò) hay nhung mao trên bề mặt màng nhung (ngựa, lợn). Trường hợp sát nhau từng phần thì quan sát phần rau đã ra ngoài. Trải nó lên mặt đất có thể phát hiện được những phần mang thai đã bị đứt, phần màng thai còn lại nằm trong tử cung.
  39. 31 * Điều trị: theo Trịnh Đình Thâu và cs, (2010) [30] can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytoxin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục. 2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con. Theo Trần Ngọc Bích và cs (2016) [3]: đã khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục,chiếm tỷ lệ 74,13%. Theo Nguyễn Xuân Bình (2005) [4] cho biết: Ở những nái bị viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt nặng). Theo Phạm Hữu Doanh và cs (2003) [6] cho biết: Trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1h đẻ, cắt răng nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục.
  40. 32 Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và cs, 2004) [17]. Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh viêm tử cung của nái là do: thiếu về dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe, kích dục tố, nhiễm trùng sau khi sinh. Từ những yếu tố đó ta có thể đề ra phương pháp phòng bệnh viêm tử cung. Do nhiễm vi khuẩn Staphylococcus, Streptococcus vì các nguyên nhân như lợn con có răng nanh làm xây xát vú mẹ tạo điều kiện vi trùng xâm nhập. Lợn nái nhiều sữa con bú không hết làm sữa ứ đọng nhiều tạo môi trường cho vi trùng sinh sản gây viêm vú. Lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng còn lại căng sữa quá nên viêm. 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thế giới đang rất phát triển, các nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Tuy nhiên vấn đề hạn chế bệnh sinh sản là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết, đặc biệt là bệnh viêm đường sinh dục. Viêm tử cung thường sảy ra trong lúc sinh do nhiễm vi khuẩn E.coli gây dung huyết và các vi khuẩn Gram dương. Theo Urban (1983) [38]: Các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp. Tuy nhiên, các nghiên cứu của các tác giả khác lại ghi nhận các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm
  41. 33 vi sinh vật hiếu khí có mặt ở nền chuồng, lúc lợn nái sinh cổ tử cung mở, vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh. Do đó Pierre Brouillt và Bernand Faralt (2003) [22], Smith (1995) [36], Taylor (1995) [37]: Tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Winson khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Ở Pháp các tác giả Pierre Brouillt và Bernand Faralt (2003) [22] đã nghiên cứu và kết luận: Điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả, xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của 30 phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược động học cho phép đáp ứng tốt hơn cách điều trị. Các nghiên cứu của Trekaxova A.V., và cs (1983) [33]: Về chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng Novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch Novocain 0,5% liều từ 30 - 40ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 88 - 10cm. Dung dịch Novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị Penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong Novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần.
  42. 34 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng và phạm vi tiến hành - Lợn nái và lợn con theo mẹ nuôi tại trại lợn của ông Đỗ Đức Thuận huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. 3.2. Địa điểm và thời giantiến hành - Địa điểm: Trại chăn nuôi lợn Đỗ ĐứcThuận huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - Thời gian: Từ ngày 21 tháng 11 năm 2018 đến ngày 25 tháng 5 năm 2019. 3.3. Nội dung nghiên cứu - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại. - Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho lợn nái và lợn con theo mẹ nuôi tại trại. - Đánh giá một số chỉ tiêu sinh sản của lợn nái tại trại. - Áp dụng quy trình phòng bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ nuôi tại trại. - Xác định tình hình mắc bệnh, chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái và lợn con theo mẹ tại trại. 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp theo dõi 3.4.1.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, chúng em tiến hành thu thập thông tin từ trại qua việc phỏng vấn cán bộ kỹ thuật, công nhân viên trực tiếp làm việc tại trại lợn. Thu thập thông tin từ sổ sách ghi chép lưu trữ tại trại và kết hợp với kết quả trực tiếp theo dõi của bản thân trong thời gian thực tập 6 tháng tại trại.
  43. 35 3.4.1.2. Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại Trên cơ sở kiến thức đã được học từ trường Đại học, chúng em áp dụng các nguyên lý cơ bản của kiến thức về quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái chửa, lợn nái đẻ và lợn con theo mẹ để áp dụng vào thực tế sản xuất của trại. Kết hợp với việc thực hiện nghiêm túc quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng của trại đề ra. * Quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản, lợn con tại trại Trong quá trình thực tập tại trang trại, em đã tham gia chăm sóc nái đẻ, tham gia đỡ đẻ, chăm sóc cho lợn con theo mẹ đến cai sữa. Em trực tiếp vệ sinh, chăm sóc, theo dõi trên đàn lợn. Quy trình chăm sóc nái chửa, nái chờ đẻ, nái đẻ, đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa được áp dụng theo đúng quy trình như sau:  Quy trình chăm sóc nái đẻ (nái nuôi con) Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp, sát trùng và cọ, rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu chuẩn như sau: Đối với nái hậu bị, ăn thức ăn 567S với tiêu chuẩn 2,2 kg/ngày/con, cho ăn 2 lần trong ngày. Đối với nái từ lứa 2 đến lứa 4, ăn thức ăn 567S với tiêu chuẩn 3,5 kg/ngày/con, cho ăn 2 lần trong ngày. Đối với nái dạ (từ lứa 5 trở đi), ăn thức ăn 567S với tiêu chuẩn 5 kg/ngày/con, cho ăn 2 lần trong ngày. Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 4 ngày, giảm tiêu chuẩn ăn xuống 0,5 kg/con/bữa.
  44. 36 Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn từ 0,5 - 1 kg/con/ngày, chia làm ba bữa sáng lúc 7 giờ, 10 giờ, chiều lúc 17 giờ. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc nuôi nhiều con có thể cho ăn tăng lượng thức ăn lên 2 kg/con/ngày. Lưu ý: Lợn nái bỏ ăn thì giảm 50% khẩu phần ăn so với tiêu chuẩn. - Quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn con theo mẹ + Ngay sau khi đẻ ra lợn được tiến hành cắt rốn và sau khi lợn con bú sữa đầu được 2-3 giờ đồng hồ thì tiến hành mài nanh. + Lợn con 3 ngày tuổi đầu tiên được cho uống thuốc phòng phân trắng lợn con và tiêu chảy. + Lợn con 4 ngày tuổi lợn con được cắt đuôi, tiêm sắt và cho uống thuốc phòng cầu trùng. + Lợn con 7 - 10 ngày tuổi tiến hành thiến lợn đực. + Lợn con được từ 4 - 6 ngày tuổi tập cho ăn bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh tomahawk plus + Lợn con được 15 ngày tuổi tiêm phòng suyễn. + Lợn con được 18 ngày tuổi tiêm phòng dịch tả. + Lợn con được 21 ngày tuổi tiêm chống còi cọc. + lợn con được 25 ngày tuổi tiến hành cai sữa.  Đối với đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa: Giữ chuồng luôn khô ráo, sạch sẽ, điều chỉnh nhiệt độ phù hợp với nhiệt độ từng giai đoạn lợn con (giai đoạn lợn con từ 1 - 7 ngày tuổi, giai đoạn lợn con từ 7 - 14 ngày tuổi và giai đoạn lợn con từ 14 đến 21 ngày tuổi). Mỗi ngày tiến hành kiểm tra thường xuyên sức khỏe của lợn để xử lý nhanh nhất như: tiêu chảy, viêm khớp, thiếu sắt, thiếu sữa, gầy yếu, không đủ ấm cho lợn uống thuốc kịp thời. Đánh dấu sau khi điều trị cho lợn để theo dõi và kiểm tra dễ dàng hơn.
  45. 37  Công tác chăn sóc và nuôi dưỡng đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa tại trại: + Ngay sau khi đẻ ra lợnđược tiến hành cắt rốn và sau khi lợn con bú sữa đầu được 2-3 giờ đồng hồ thì tiến hành mài nanh. + Lợn con 3 ngày tuổi đầu tiên được cho uống thuốc phòng phân trắng lợn con và tiêu chảy. + Lợn con 4 ngày tuổi lợn con được cắt đuôi, tiêm sắt và cho uống thuốc phòng cầu trùng. + Lợn con 7 - 10 ngày tuổi tiến hành thiến lợn đực. + Lợn con được từ 4 - 6 ngày tuổi tập cho ăn bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh tomahawk plus + Lợn con được 15 ngày tuổi tiêm phòng suyễn. + Lợn con được 18 ngày tuổi tiêm phòng dịch tả. + Lợn con được 21 ngày tuổi tiêm phòng chống còi cọc. + lợn con được 21 - 25 ngày tuổi tiến hành cai sữa.  Công tác tách lợn con. Do đặc thù của trại lợn ông Đỗ Đức Thuận là trại lợn tư nhân nên trang trại nuôi theo quy mô khép kín tự sản xuất con giống để nuôi và xuất bán chủ yếu là lợn thịt, nên không thực hiện việc xuất bán lợn con cũng như mua lợn con từ bên ngoài vào trại. + Lợn con ở trại được nuôi theo mẹ cho đến 21 ngày tuổi, những lợn con đủ tiêu chuẩn về cân nặng sẽ được tách mẹ, những lợn con không đủ cân nặng sẽ tiếp tục được ghép với những đàn có ngày nhỏ tuổi hơn để tiếp tục cho bú. + Những lợn con đủ cân nặng sẽ tách mẹ và nuôi ở ô chuồng tách riêng. +Số lợn con sách sẽ được ghi lại đầy đủ thông tin cụ thể như: số con, các loại vắc xin đã được tiêm, ngày tách mẹ
  46. 38 3.4.1.3. Phương pháp xác định tình hình nhiễm, áp dụng và đánh giá hiệu quả quy trình phòng trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại Để xác định được tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản tại trại, hàng ngày, chúng em tiến hành theo dõi, quan sát về những biểu hiện của đàn lợn nái thông qua các bước sau: * Kiểm tra tình trạng ăn uống bằng cách trực tiếp quan sát, theo dõi con vật hàng ngày. - Trạng thái cơ thể bình thường: con vật ăn uống bình thường, vận động nhanh nhẹn. - Trạng thái bệnh lý: ăn uống giảm hoặc bỏ ăn. * Kiểm tra thân nhiệt: - Quan sát, cảm nhận bằng tay: + Trạng thái bình thường: toàn thân lợn nái có màu bình thường, không đỏ, dùng mu bàn tay sờ không nóng. + Trạng thái bệnh lý: toàn thân đỏ ửng, dùng mu bàn tay sờ thấy nóng ran. - Đo thân nhiệt qua trực tràng bằng nhiệt kế 43ºC: + Trước khi đo nhiệt độ phải vẩy nhiệt kế cho cột thủy ngân tụt xuống hết thang độ. + Dùng bông cồn lau nhiệt kế trước và sau khi sử dụng. + bôi 1 lớp mỏng vaseline lên một đoạn từ đầu nhiệt kế. + Cho từ từ nhiệt kế vào trực tràng theo hướng hơi xiên xuống dưới để tránh niêm mạc bị tổn thương. + Để nhiệt kế ở trực tràng từ 5 - 10 phút, rồi lấy ra xem nhiệt độ trên thang nhiệt kế. + Trạng thái bình thường: thân nhiệt bình thường, ổn định ở 38 - 40ºC. + Trạng thái bệnh lý: hơi sốt hoặc sốt cao 41 - 42ºC.
  47. 39 * Quan sát bên ngoài cơ quan sinh dục: - Trạng thái bình thường: màu sắc âm hộ bình thường, không sưng, không sung huyết hay thủy thũng. - Trạng thái bệnh lý: âm hộ sưng, sung huyết, thủy thũng, có dịch viêm chảy ra từ âm hộ, gốc đuôi có dính nhiều dịch viêm. * Kiểm tra âm đạo: - Rửa sạch và sát trùng mép âm môn. - Dùng mỏ vịt có hệ thống đèn soi đã được vô trùng để kiểm tra. + Trạng thái bình thường: con vật không đau, màu sắc niêm mạc âm đạo, màu và mùi niêm dịch bình thường. + Trạng thái bệnh lý: con vật đau đớn, niêm mạc âm đạo đỏ, tổn thương, niêm dịch đục, có mùi tanh, hôi. * Kiểm tra nước tiểu: + Trạng thái bình thường: nước tiểu trong, mùi khai tự nhiên, không có mùi tanh, hôi thối. + Trạng thái bệnh lý: nước tiểu đục, lẫn tổ chức hoại tử, dịch viêm, mùi tanh, hôi thối. Trên cơ sở biểu hiện lâm sàng khác thường của lợn nái chúng em tiến hành ghi số tai hoặc đánh dấu từng con bằng cách phun sơn màu đỏ, sau đó tiến hành chẩn đoán lâm sàng, ghi rõ tuổi, thân nhiệt, triệu chứng lâm sàng và ghi vào sổ nhật ký thực tập. Từ những triệu chứng thu thập được chúng em tiến hành điều trị cho lợn nái bị bệnh theo sự hướng dẫn của kỹ sư phụ trách tại trại. 3.4.2. Công thức tính và phương pháp xử lý số liệu Công thức tính: - Tỷ lệ lợn mắc bệnh:
  48. 40 ∑sốlợnmắcbệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100  số lợn theo dõi - Tỷ lệ lợn khỏi bệnh: ∑ số lợn khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%) = x 100  số con điều trị Xử lý số liệu - Các số liệu thu thập được xử lý theo phần mềm Excel bằng máy tính cá nhân bởi các tham số: - Tính trung bình mẫu: - Tính độ lệch chuẩn: - Sai số trung bình: Chú giải: X : Số trung bình cộng S X : Độ lệch tiêu chuẩn mX : Sai số trung bình x1, x2, xn : Giá trị của các biến số n : Dung lượng mẫu 3.4.3. Công thức tính và phương pháp xử lý số liệu Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel 2007.
  49. 41 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ 4.1. Kết quả đánh giá tình hình sản xuất chăn nuôi tạitrại lợn Đỗ Đức Thuận, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội qua 3 năm từ 2017 - 2019 Trong thời gian thực tập tại trại, em đã tiến hành theo dõi thu thập số liệu từ việc nghiên cứu sổ sách theo dõi của trại từ năm 2017 cho đến nay. Kết hợp với việc phỏng vấn quản lý trại và cán bộ công nhân của trại. Kết quả về tình hình sản xuất của trang trại lợn Đỗ Đức Thuận được trình bày ở bảng 4.1. Bảng 4.1. Kết quả tình hình chăn nuôi lợn trong 3 năm qua 2019 STT Loại lợn 2017 2018 (5 tháng đầu năm) 1 Lợn đực giống (con) 03 02 02 2 Lợn nái hậu bị (con) 15 05 03 3 Lợn nái sinh sản (con) 70 83 88 4 Lợn con cai sữa (con) 894 926 957 Lợn con chuyển qua nuôi 5 876 906 937 thịt (con) Tổng chung 1858 1922 1987 (Nguồn: Sổ sách ghi chép của trại) Kết quả ở bảng 4.1 cho thấy trong 3 năm từ 2017 - nay, cơ cấu đàn lợn của trại có xu hướng tăng, nhưng không nhiều. Tổng số đầu lợn có tại trại luôn dao động nằm trong khoảng từ 1858 - 1987 con. Trong đó, số lợn nái sinh sản dao động từ 70 - 88 nái tại trại.
  50. 42 Từ kết quả này cũng cho thấy: mặc dù quy mô chăn nuôi cũng chưa phải là nhiều so với các trang trại chăn nuôi lớn khác. Nhưng trang trại được xây dựng rất bài bản. Việc áp dụng quy trình chăn nuôi được thực hiện nghiêm túc. Nuôi theo vòng tròn khép kín trại tự sản xuất lợn giống để nuôi lợn thịt, không phải mua lợn giống từ bên ngoài. Do đó, tình hình dịch bệnh của trại hầu như rất ít, không ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi. Số lợn các loại có xu hướng tăng nhẹ. Hiện nay trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,4- 2,5 lứa/năm. Số con sơ sinh trung là 11,32 con/ đàn, số con cai sữa 10,52 con/đàn. Số con nuôi lợn thịt 10,3 con/đàn. Chu kỳ lứa đẻ nái = 115 ngày mang thai + 25 ngày nuôi con + 5 ngày lên giống sau cai sữa = 145 ngày. Trại có 93 nái sinh sản,trong đó 80 nái có cùng Chu kỳ lứa đẻ là 145 ngày, và trong đó có 13 nái có Chu kỳ lứa đẻ tăng lên thêm 21 ngày (145 + 21 ngày). Như vậy, Chu kỳ lứa đẻ của trại được tính như sau: (145 ngày x 80 nái ) + (166 x 13 nái) Chu kỳ lứa đẻ trang trại = ——————————————– = 147.1 ngày Tổng 93 nái 365 ngày Hệ số lứa đẻ/nái/năm trang trại là = ————— = 2.46 lứa/nái/năm 147.1 ngày 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡngđàn lợn tại cơ sở Trong thời gian thực tập 6 tháng tại trại em đã thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái tại trại được trình bày trong bảng 4.2.
  51. 43 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập Nái đẻ, Số lợn con sống Tháng Số lợn con nuôi con đến khi cai sữa 21-30/11/2018 4 45 40 12/2018 13 149 140 1/2019 13 147 135 2/2019 12 137 130 3/2019 13 146 139 4/2019 12 136 129 1-25/05/2019 6 69 64 Tổng 73 829 777 Kết quả bảng 4.2 cho thấy: Trong 6 tháng thực tập em được phân công thực tập tại chuồng lợn nái đẻ và nuôi con. Tổng số lợn nái đẻ được trực tiếp chăm sóc trong 6 tháng là 73 nái. Số con được sinh ra từ 73 nái là 829 lợn con. Đến khi cai sữa lợn con giai đoạn 21 ngày, thì số lợn con theo mẹ còn sống là 777 con, tỷ lệ nuôi sống của lợn con đến khi cai sữa là 92,73 %. Từ việc chăm sóc đàn lợn hàng ngày em học được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản là: phải giữ chuồng trại luôn sạch sẽ, cho lợn nái ăn đúng bữa và đủ lượng thức ăn theo quy định. Lợn nái chửa kỳ cuối, nái đẻ và nuôi con được cho ăn 3 lần/ngày (bữa sáng, trưa và chiều). Ta cần lưu ý những điều sau: + Cách cho ăn: ăn đúng 3 bữa và ăn theo khẩu phần ăn trên bảng cám đã được chỉnh sửa liên tục theo ngày + Loại thức ăn theo từng giai đoạn: nái chửa kỳ đầu (tuần 1 - 13) sử dụng thức ăn HI-GRO 566, chửa kỳ cuối (tuần 14 - 16) sử dụng thức ăn 567s
  52. 44 +Nhu cầu dinh dưỡng của lợn nái trong từng thời kỳ: trước đẻ 3 ngày lượng thức ăn sẽ giảm dần 0,5 kg/con/ngày, sau đẻ lượng thức ăn sẽ tăng dần từ 0,5 - 1kg/con/ngày tùy thuộc vào giống, giai đoạn mang thai, thể trạng lợn nái, tình trạng sức khỏe, nhiệt độ môi trường, chất lượng thức ăn + Không nên tắm cho lợn mẹ vì sẽ làm ướt sàn lợn con dẫn đến bệnh phân trắng ở lợn con theo mẹ. Đảm bảo chuồng luôn khô ráo, nhiệt độ, ẩm độ thích hợp. Ngoài ra em còn học được cách chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con từ sơ sinh đến cai sữa, cần chú ý các công việc sau: khi trộn thức ăn phải hòa thuốc vào nước theo đúng tỷ lệ rồi trộn, máng lợn con phải luôn có thức ăn, sàn phải khô ráo sạch sẽ và nhiệt độ phải thích hợp. Qua đây em đã học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm cho bản thân như: cách sửa bảng cám cho lợn mẹ và vệ sinh chuồng đẻ hàng ngày, cách tra thức ăn, Trong thời gian thực tập tại chuồng lợn nái đẻ, em đã được học cách đỡ đẻ và tham gia theo dõi xử lý các trường hợp đẻ khó của lợn nái tại trại cùng kỹ sư. Em đã thống kê lại những con đẻ bình thường, đẻ khó và được em trình bày ở bảng 4.3. Bảng 4.3.Kết quả thực hiện quy trình đỡ lợn đẻ tại trại Số con Đẻ bình Tỷ lệ Số con đẻ khó Tỷ lệ Tháng đẻ thường (%) phải can thiệp (%) 21/11/2018 4 4 100 0 0 12/2018 13 12 92,31 1 7,69 1/2019 13 11 84,62 2 15,38 2/2019 12 11 91,67 1 8,33 3/2019 13 12 92,31 1 7,69 4/2019 12 10 83,33 2 16,67 25/5/2019 6 5 83,33 1 16,67 Tổng 73 65 89,65 8 10,35
  53. 45 Qua bảng 4.3 cho biết:Trung bình mỗi tháng, chuồng lợn nái đẻ mà em phụ trách có 12 - 13 lợn nái đẻ. Tháng 11 và tháng 5 số lợn nái đẻ có giảm đi so với các tháng khác, là do tháng 11 là sinh viên mới về thực tập tại cơ sở, thời gian cách ly dài ngày, chưa được vào chuồng lợn. Tháng 5 là thời gian chuẩn bị kết thúc đợt thực tập, do đó số lượng lợn theo dõi trong 2 tháng này có giảm hơn so với các tháng khác. Trong tổng số 73 lợn nái đẻ có 65 lợn nái đẻ thường và 8 lợn nái đẻ khó phải can thiệp. Lợn nái đẻ khó phải can thiệp là do lợn đẻ ở những lứa đầu. Lợn ăn nhiều vào kì cuối của thai kì làm thai quá to, do ngôi thai không thuận, do lợn mẹ ít được vận động và do sức khỏe của lợn mẹ không tốt Tỷ lệ lợn nái đẻ khó phải can thiệp tại trại tương đối cao chiếm 10,35 %. Từ kết quả này cho thấy cần phải thực hiện nghiêm túc hơn nữa quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái giai đoạn mang thai, để cho lợn mẹ và bào thai phát triển tốt, không ảnh hưởng đến quá trình đẻ của lợn mẹ. 4.3. Đánh giá một số chỉ tiêu sinh sản của lợn nái tại trại Trong thời gian thực tập tại cơ sở em đã được tham gia chăm sóc và nuôi dưỡng lợn con từ sơ sinh đến cái sữa. Kết quả một số chỉ tiêu sinh sản của đàn lợn nái mà em chăm sóc được trình bày ở bảng 4.4. Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái từ 21/11/2018 đến 25/05/2019 Số con còn Số con đẻ Số lợn Số lợn sống đến Tỷ lệ ra/lứa Tháng nái đẻ con cai sữa sống (con) (con) ( x m ) (%) x ( ) 21/11/2018 4 45 11,25 ± 0,55 10,0 ± 0,47 88,90 12/2018 13 149 11,46± 0,30 10,80 ± 0,21 94,00 1/2019 13 147 11,31± 0,29 10,40 ± 0,19 91,80 2/2019 12 137 11,42± 0,30 10,80 ± 0,22 94,90 3/2019 13 146 11,23± 0,27 10,70 ± 0,18 95,20 4/2019 12 136 11,33± 0,29 10,80 ± 0,23 94,90 25/05/2019 6 69 11,50± 0,47 10,60 ± 0,37 92,80 Tổng/ Trung bình 73 829 11,36 ± 0,35 9,70 ± 0,27 93,20
  54. 46 Trong quá trình thực tập em đã chăm sóc nuôi dưỡng và theodõi 73 lợn nái, số con đẻ ra trung bình/ nái là 11,36 ± 0,35 con/lứa/nái, số con còn sống đến cai sữa là 9,70 ± 0,27 con/lứa/nái, chiếm tỷ lệ93,20 % Trong quá trình nuôi dưỡng từ sau khi đẻ đến 21 ngày số lượng lợn con cai sữa giảm. Có nhiều nguyên nhân là do lợn mẹ đè chết, do loại thải, một số lợn con nhiễm trùng hay mắc bệnh dẫn đến chết. Tại trại, trong 6 tháng theo dõi em thấy lợn con có tỉ lệ sống cao nhất là 95,20% vào tháng 11và thấp nhất là 88,90% vào tháng 11/2018 (số lượng lợn được chăm sóc ít do thời gian đến thực tập tại trại vào cuối tháng 11). Năng suất sinh sản đạt 2,4 -2,5 lứa/nái/năm. Để có tỷ lệ lợn con cai sữa cao phải chú ý chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, nếu nhiệt độ môi trường thấp phải đưa lợn con vào ô úm, không nên để chuồng, sàn chuồng ẩm để tránh lợn con bị tiêu chảy. Nên cho lợn con tập ăn sớm lúc 3 ngày tuổi để tăng khả năng tăng trọng của lợn. Phải tạo mọi điều kiện thích hợp, tối ưu nhất để lợn con có khả năng phát triển tốt nhất.Vì vậy trong quá trình nuôi dưỡng cần đảm bảo có sự có mặt của công nhân trong chuồng đang đẻ để can thiệp khi lợn mẹ đè lợn con để giảm tỷ lệ chết do đè. Trong quá trình đỡ đẻ, thiến, mổ hecni phải đảm bảo sát trùng đúng kỹ thuật. Tuân thủ đúng yêu cầu trên thì có thể hạn chế được tỷ lệ lợn con chết, đảm bảo tỷ lệ lợn con được chuyển qua nuôi chuồng thịt cao, mang lại hiệu quả kinh tế cho trang trại.
  55. 47 4.4. Kết quả công tác vệ sinh, phòng bệnh cho lợn tại cơ sở 4.4.1.Công tác vệ sinh sát trùng Bảng 4.5. Lịch sát trùng chuồng trại của trại lợn Trong chuồng Ngoài Ngoài khu vực Thứ Chuồng Chuồng Chuồng đẻ chuồng chăn nái chửa cai sữa nuôi Chủ Phun sát trùng Phun sát trùng Rắc vôi Rắc vôi nhật Phun Phun sát trùng Thứ 2 sát trùng + rắc vôi + rắc vôi Phun Thứ 3 Phun sát trùng Rắc vôi sát trùng Phun sát trùng Thứ 4 Rắc vôi + rắc vôi Phun Thứ 5 Rắc vôi Rắc vôi Rắc vôi sát trùng Phun Thứ 6 Phun sát trùng Xả gầm sát trùng Vệ sinh Vệ sinh Vệ sinh Vệ sinh Vệ sinh Thứ 7 tổng chuồng tổng chuồng tổng chuồng tổng khu tổng khu 4.4.2. Kết quả vệ sinh, sát trùng tại cơ sở Việc vệ sinh sát trùng chuồng trại có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Vê ̣sinh bao gồm nhiều yếu tố: vê ̣sinh môi trường xung quanh, vê ̣sinh đất, nước, vê ̣sinh chuồng trại
  56. 48 Để góp phần nâng cao chất lượng, năng suất của đàn lợn trong thời gian thực tập tại trại em đã tích cực tham gia công tác vệ sinh cùng cán bộ kĩ sư, công nhân trong trại với lịch trình như sau: - Hàng ngày, trước khi vào chuồng làm việc, các kỹ sư, công nhân và sinh viên tất cả đều phải đi ủng, mặc đồ bảo hộ, đi qua hố chứa vôi bột rồi mới vào chuồng. - Việc đầu tiên vào chuồng là cào phân tránh lợn mẹ nằm đè lên phân. - Cho lợn ăn, vệ sinh máng ăn sạch sẽ, chuẩn bị thức ăn. - Hàng ngày chúng em tiến hành thu gom phân thải, rửa chuồng, quét lối đi lại giữa các dãy chuồng. - Định kỳ tiến hành phun thuốc sát trùng, quét vôi, phun thuốc diệt muỗi, quét mạng nhện trong chuồng và rắc vôi bột ở cửa ra vào chuồng nhằm đảm bảo vệ sinh chuồng trại. * Đối với chuồng lợn nái mang thai: Sau khi lợn cách ngày đẻ dự kiến khoảng 1 tuần sẽ được tắm chải sạch sẽ rồi được đưa sang chuồng đẻ, ô lợn rời đi sẽ được xịt rửa và phun sát trùng đợi đón lợn mẹ cai sữa. * Đối với chuồng lợn đẻ: Ở các chuồng nái đẻ sau khi cai sữa, lợn mẹ được chuyển sang chuồng nái chửa. Sau khi lợn con được xuất bán, tham gia tháo dỡ các tấm đan chuồng mang ra ngâm ở bể sát trùng bằng dung dịch NaOH 10%, ngâm trong 1 ngày, sau đó cọ sạch mang phơi khô. Ô chuồng và khung chuồng cũng được cọ sạch bằng dung dịch NaOH pha với nồng độ loãng khoảng 5%. Gầm chuồng cũng được tiêu độc khử trùng sạch sẽ. Để khô rồi tiến hành lắp các tấm đan vào, sau đó đuổi lợn chờ đẻ vào. Khi có dịch bệnh xảy ra công tác vệ sinh thú y được tiến hành thường xuyên và triệt để hơn bao giờ hết. Chuồng nuôi được tiêu độc bằng thuốc sát trùng Ommicide vào cuối buổi sáng hoặc cuối buổi chiều hàng ngày, pha với tỷ lệ 320ml sát trùng/1000 lít nước.
  57. 49 Kết quả thực hiện công tác vệ sinh, sát trùng chuồng trại trong thời gian thực tập tại cơ sở, được trình bày tại bảng 4.6. Bảng 4.6. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại Số lượng Kết quả Tỷ lệ STT Công việc (lần) (lần) (%) 1 Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 186 186 100 Phun sát trùng định kỳ xung 2 95 90 94,70 quanh chuồng trại 3 Quét và rắc vôi đường đi 40 35 87,50 Qua bảng 4.6 ta có thể thấy việc vệ sinh, sát trùng hàng ngày luôn được trại quan tâm và làm thường xuyên hàng ngày. Theo quy định của trại việc vệ sinh chuồng và rắc vôi đường đi sẽ được thực hiện ít nhất 1 lần/ngày, và trong 6 tháng thực tập tại trại em đã thực hiện được 186 lần đạt 100% số lần phải vệ sinh trong 6 tháng. Thực hiện được 35 lần rắc vôi bột đường đi đạt tỉ lệ 87,50%. Phun sát trùng tổng chuồng và xung quanh chuồng trại được phun định kỳ 1 lần/tuần. riêng tháng 12 xảy ra dịch lở mồm long móng trại phải thực hiện phun sát trùng 15 ngày liên tiếp từ khi xuất hiện dịch và phun liên tiếp hàng ngày trong hai tháng từ tháng 4 đến tháng 5 khi dịch tả lợn châu phi có dấu hiệu đe dọa trại. 4.4.3. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ tại trại bằng thuốc và vắc xin Tiêm phòng vắc xin cho đàn vật nuôi là một trong những biện pháp phòng bệnh chủ động và hiệu quả, đặc biệt là đối với các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm để đảm bảo phát triển chăn nuôi ổn định, bền vững và cung cấp thực phẩm an toàn cho người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái.
  58. 50 Việc phòng bệnh trong chăn nuôi hiện nay là một khâu vô cùng quan trọng trong quy trình chăn nuôi, vì nếu xảy ra dịch bệnh thì thực phẩm chăn nuôi sẽ bị ngừng lưu hành, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Chính vì vậy, để bảo vệ an toàn cho đàn gia súc, gia cầm, người chăn nuôi cần thực hiện tốt công tác phòng bệnh bằng tiêm phòng vắc xin sẽ mang lại nhiều lợi ích, giảm thiểu được những rủi ro về sau. Quy trình tiêm phòng vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn luôn được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng kỹ thuật, đúng quy trình. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra trong cơ thể lợn có miễn dịch chủ động, để chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, vi rút gây bệnh, tăng sức đề kháng cho cơ thể, nhằm hạn chế những rủi ro, bất cập trong chăn nuôi. Để đạt được hiệu quả tiêm phòng tốt nhất cho đàn lợn thì ngoài hiệu quả của vắc xin, phương pháp sử dụng vắc xin, loại vắc xin còn phải phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ lợn. Trên cơ sở đó, trại chỉ tiêm phòng vắc xin cho những con khoẻ mạnh không mắc bệnh truyền nhiễm hoặc các bệnh mạn tính khác để tạo khả năng miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn. Từ lịch tiêm phòng trên, chúng em đã tiến hành tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin cho từng loại lợn. Kết quả thực hiện công tác tiêm phòng cho đàn lợn được trình bày ở bảng 4.7. Bảng 4.7. Kết quả thực hiện phòng bệnh cho đàn lợn tại trại Số con Số lợn Tỷ lệ Loại lợn Tên bệnh thực hiện an toàn (%) (con) (con) Tai xanh 73 73 100 Lợn nái Giả dại 73 73 100 Lở mồm long móng 93 93 100 Fe-B12 829 829 100 Suyễn 816 816 100 Lợn con Circovirus 814 814 100 Dịch tả 777 777 100 Lở mồm long móng 775 775 100
  59. 51 Qua bảng 4.7 cho thấyvề việc tiêm phòng vắc xin của trại đã được thực hiện nghiêm ngặt theo quy trình tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái và lợn con theo mẹ. Trang trại thưởng làm vắc xin như: dịch tả, lở mồm long móng, tai xanh, giả dại. Lợn nái được tiêm phòng trong lúc mang thai tuần thứ 10 và tuần thứ 12 đạt tỷ lệan toàn khi tiêm phòng là 100%. Từ việc làm vắc xin cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ tại trại, em đã rút ra được nhiều kinh nghiệm trong công tác tiêm phòng. Để việc phòng bệnh cho lợn bằng vắc xin đạt hiệu quả, cần phải nâng cao trách nhiệm của cán bộ kỹ thuật trong việc thực hiện nghiêm túc lịch làm vắc xin cho đàn lợn. Các kỹ thuật làm vắc xin phải chính xác để không bị ảnh hưởng đến lợn cũng như không làm giảm chất lượng của vắc xin khi đưa vào cơ thể lợn. Trong quá trình tiêm có 1 số trường hợp lợn bị sốc vắc xin, lợn thường có biểu hiện tím tái toàn thân hay co giật, nếu nặng có thể chết ngay.Vì vậy cần phải có kỹ năng phòng chống sốc cho lợn.Trong trường hợp lợn bị sốc nhẹ hoặc lợn nhỏ thì bế lợn lên dùng đá lạnh trườm lên đầu lợn nhằm tránh máu dồn lên não và đông cứng, sau đó đặt lợn xuống máng nước dội nước lên người. Nếu bị nặng thì dùng thuốc cafein kết hợp với vitamin B1, C tiêm bắp 1 lần/ ngày/ 3 - 5 ngày liền, kết hợp cho uống chất điện giải gluco - C và vitamin ADE. 4.5. Kết quả chẩn đoán, điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại 4.5.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản của trại Để đánh giá tình hình mắc một số bệnh trên đàn lợn nái sinh sản của trại, chúng em tiến hành theo dõi 73 con lợn nái. Kết quả được trình bày ở bảng 4.8.
  60. 52 Bảng 4.8. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sảntại trại Chỉ tiêu Số nái Số nái Tỷ lệ theo dõi mắc bệnh (%) Tên bệnh (con) (con) Viêm tử cung 73 5 6,84 Viêm vú 73 2 2,74 Mất sữa 73 1 1,37 Sát nhau 73 1 1,37 Bảng 4.8cho thấy, trong 73 con lợn nái chăm sóc và nuôi dưỡng có5 con mắc bệnh viêm tử cung, 1 con mắc bệnh sát nhau, 2 con mắc bệnh viêm vú, 1 con mắc bệnh mất sữa.Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái nuôi tại trại cao nhất chiếm 6,84 % là do trong quá trình phối giống cho lợn nái bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Quá tŕnh can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thaiđã làm cho vi khuẩn từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập vào gây viêm. Số lợn nái mắc bệnh sát nhau là 1 con chiếm 1,37 %, nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, do cho ăn quá nhiều ở giai đoạn chửa kỳ 2 làm thai to, khó đẻ, lợn nái dặn đẻ yếu không đẩy được hết nhau ra ngoài, do các thao tác đỡ đẻ không đúng làm đứt nhau, sót nhau. Tỷ lệ mắc viêm vú là 2,74 % lợn mắc viêm vú thường do kế phát viêm tử cung, do nền chuồng bẩn, vú bị tổn thương
  61. 53 4.5.2. Kết quảđiều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại lợn Đỗ Đức Thuận huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội Căn cứ vào triệu chứng điển hình của bệnh, em xác định được chính xác bệnh xảy ra trên từng đối tượng lợn nái và tiến hành đưa ra phác đồ điều trị cho từng bệnh cụ thể. Đối với lợn nái đẻ và nuôi con được nuôi riêng trong từng ô chuồng nên thuận tiện cho việc chẩn đoán, kiểm soát bệnh cũng như công tác điều trị. Bảng 4.9.Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản Số nái Số nái Thời Tên điều khỏi Tỷ lệ Liều lượng Đường gian STT Tên thuốc bệnh trị bệnh (%) (ml) tiêm điều trị (con) (con) (ngày) Viêm Vilamoks - 1ml/10kgTT Tiêm 1 5 4 80,00 4 ngày tử cung LA 2 ngày/1 lần bắp Viêm Vilamoks - 1ml/10kgTT, Tiêm 2 2 2 100,00 3 ngày vú LA 2 ngày/1 lần bắp Mất Vilamoks - 1ml/10kgTT, Tiêm 3 1 1 100,00 3 ngày sữa LA 2 ngày/1 lần bắp Sát Vilamoks - 1ml/10kgTT Tiêm 4 1 1 100,00 3 ngày nhau LA 2 ngày/1 lần bắp Kết quả bảng 4.9. cho thấy: Kết quả điều trị một số bệnh trên đàn lợn nái sinh sản. Tỷ lệ khỏi bệnh là khá cao từ 80 - 100 %. Trong đó, điều trị 5 lợn mắc bệnh Viêm tử cung, khỏi 80%. Bệnh viêm vú, bệnh mất sữa và sát nhau ở lợn nái sinh sản tỷ lệ khỏi bệnh là 100 %. Qua quá trình thực tập em đã học được một số kinh nghiệm như sau: Đối với bệnh viêm tử cung, sát nhau ngoài việc sử dụng kháng sinh đúng thời gian, liều lượng thì các biện pháp can thiệp phải đảm bảo vệ sinh và kĩ thuật.
  62. 54 Đối với bệnh viêm vú, mất sữa sau đẻcần thực hiện các thao tác nhẹ nhàng, tránh hiện tượng stress, làm đau cho lợn nái. 4.6. Kết quả thực hiện các công việc khác Trong thời gian thực tập tại trại em vừa tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn vừa được học và làm một số các thao tác trên lợn con như đỡ lợn đẻ, mài nanh, thiến lợn đực và phối giống cho lợn nái. Bảng 4.10. Kết quả thực hiện công việc khác Kết quả Số lượng (An toàn/khỏi) STT Nội dung công việc (con) Số lượng Tỷ lệ (con) (%) 1. Điều trị bệnh Khỏi 1.1 Hội chứng tiêu chảy lợn con 134 132 98,51 1.2 Hội chứng viêm phổi 54 50 92,59 2. Công tác khác An toàn 2.1 Đỡ đẻ cho lợn 829 734 88,54 2.2 Mài nanh 829 1250 100,00 Tiêm chế phẩm Fe-B12 phòng 2.3 829 764 92,16 bệnh thiếu máu 2.4 Bấm đuôi 829 764 92,16 2.5 Cầu trùng (cho uống) 829 764 92,16 2.6 Thiến lợn đực 457 285 62,36 Từ kết quả bảng 4.10 cho thấy trong134 lợn con mắc bệnh tiêu chảy, sau khi điều trị có 132lợn khỏi bệnh chiếm tỷ lệ 98,51%, số lợn mắc bệnh viêm phổi là 54 con, sau điều trị khỏi 50 con chiếm 92,59%. Tỷ lệ khỏi bệnh khá cao là do ngoài việc dùng thuốc để điều trị thì chúng em còn kết hợp với khâu nuôi dưỡng chăm sóc tốt để nâng cao sức đề kháng cho lợn con đồng thời tăng cường công tác vệ sinh thú y.
  63. 55 Bên cạnh công tác nuôi dưỡng, trong thời gian thực tập em còn tham gia vào các khâu kỹ thuật khác trên đàn lợn nái đẻ như: đỡ đẻ cho lợn, làm công tác hộ lý cho lợn con sơ sinh. Trong quá trình thực hiện đã giúp em củng cố thêm về kiến thức liên quan đến chăm sóc lợn nái sinh sản.  Quy trình đỡ đẻ Để công tác đỡ lợn đẻ thành công cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ phục vụ cho việc đỡ đẻ, dụng cụ bao gồm: lồng úm, bóng đèn hồng ngoại, khay đựng cồn, khăn khô, kéo và chỉ buộc rốn phải được ngâm trong khay đựng nước sát trùng. - Thao tác đỡ đẻ: Trước khi đẻ lợn mẹ phải được vệ sinh (tắm) sạch sẽ, bộ phận sinh dục và bầu vú cũng được lau chùi sạch sẽ. Khi lợn con được đẩy ra ngoài nhanh chóng dùng tay vuốt mồm cho lợn dễ thở sau đó dùng khăn khô lau sạch nhớt và lớp màng trên người lợn con, phải lau thật khô và sạch lợn con thì nó mới nhanh khỏe. Sau đó dùng chỉ buộc dây rốn cách rốn 1 khoảng 3cm rồi cắt bên dưới nút buộc, bôi cồn vào rốn và thả lợn vào lồng úm đã chải sẵn thảm và thắp đèn úm. Thường thì cứ 15 - 20 phút nái sinh được 1 lợn con, cũng có khi nái sinh liên tiếp nhiều con rồi nghỉ một thời gian. Trường hợp nếu ra nước ối và phân xu sau 1 - 2 giờ rặn đẻ nhiều mà không đẻ hoặc con nọ cách con kia trên 1 giờ thì phải can thiệp. Sau khi lợn mẹ đẻ xong cần vệ sinh sạch sẽ bầu vú, cơ quan sinh dục và cho lợn con vào bú sữa đầu. Trong khi lợn con bú mẹ cần chú ý quan sát để tránh trường hợp lợn mẹ đè con. - Thao tác mài nanh, cắt đuôi và tiêm sắt cho lợn con: Lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt hơn, cứng cáp hơn sẽ được tiến hành mài nanh, dùng máy mài nanh lợn để tránh tình trạng lợn con cắn nhau hoặc cắn vú gây viêm vú cho lợn mẹ. Trong thời gian thực tập chúng tôi đã tiến hành bấm nanh cho 829 con lợn con và tất cả đều an toàn.
  64. 56  Công tác chăn sóc và nuôi dưỡng đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa: + Ngay sau khi đẻ ra lợnđược tiến hành cắt rốn và sau khi lợn con bú sữa đầu được 2-3 giờ đồng hồ thì tiến hành mài nanh. + Lợn con 3 ngày tuổi đầu tiên được cho uống thuốc phòng phân trắng lợn con và tiêu chảy. + Lợn con 4 ngày tuổi lợn con được cắt đuôi, tiêm sắt và cho uống thuốc phòng cầu trùng. + Lợn con 7 - 10 ngày tuổi tiến hành thiến lợn đực. + Lợn con được từ 4 - 6 ngày tuổi tập cho ăn bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh tomahawk plus + Lợn con được 15 ngày tuổi tiêm phòng suyễn. + Lợn con được 18 ngày tuổi tiêm phòng dịch tả. + Lợn con được 21 ngày tuổi tiêm phòng chống còi cọc. + lợn con được 21 - 25 ngày tuổi tiến hành cai sữa.  Công tác chuyển lợn con qua nuôi chuồng thịt. + Lợn con ở trại được nuôi theo mẹ từ 21 - 25 ngày tuổi, những lợn con đủ tiêu chuẩn về cân nặng sẽ được tách mẹ, những lợn con không đủ cân nặng sẽ tiếp tục được ghép với những đàn có ngày nhỏ tuổi hơn để tiếp tục cho bú. + Lợn con khi đạt tiêu chuẩn chuyển qua nuôi ở ô chuồng tách,lợn con sẽ được đánh dấu từ trước, sau đó được công nhân bắt ra khỏi chuồng và được đuổi đến khu ô chuồng tách. Ở đây lợn con được nuôi từ 15- 20 ngày khi đã khỏe mạnh sẽ được chuyển qua nuôi ở chuồng nuôi lợn thịt.
  65. 57 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tại trại lợnem có một số kết luận như sau: -Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn tại trại lợn Đỗ Đức Thuận được thực hiện nghiêm ngặt, đúng theo quy trình chăn nuôi lợn công nghiệp. - Tỷ lệ lợn nái đẻ bình thường là 89,65%, đẻ khó phải can thiệp chiếm tỷ lệ 10,35%. - Số lợn con được đẻ ra trung bình là 11,36 ± 0,35 con/lứa/nái; Số lợn con còn sống đến cai sữa là 9,70 ± 0,27 con/lứa/nái; Tỷ lệ sống trung bình là 93,2%.Năng suất sinh sản của lợn nái đạt 2,4 -2,5 lứa/nái/năm - Lợn nái ở trại thường mắc các bệnh: bệnh viêm tử cung (6,84%), viêm vú ( 2,74%), mất sữa (1,37%), sát nhau (1,37% ); - Kết quả điều trị cho lợn nái đạt hiệu lực cao:tỷ lệ khỏi bệnhviêm tử cung đạt 80,00 %, viêm vú đạt 100%, mất sữa đạt 100%, sát nhau đạt 100%. Những chuyên môn đã được học tại trại + Đỡ lợn đẻ + Mài nanh, bấm đuôi, tiêm chế phẩm Fe - B12 cho lợn con. + Thiến lợn đực. + Tham gia vào công tác tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn con. + Tham gia vào quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn con và lợn mẹ của trại (cho lợn ăn, tắm chải cho lợn mẹ, dọn vệ sinh chuồng, ) 5.2. Đề nghị Xuất phát từ thực tế của trại, qua phân tích đánh giá bằng những hiểu biết của mình, em có một số ý kiến nhằm nâng cao hoạt động của trại như sau:
  66. 58 - Trại lợn cần thực hiện quy trình vệ sinh phòng bệnh và quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái đúng kỹ thuật để giảm tỷ lệ lợn nái mắc các bệnh về sinh sản nói riêng và bệnh tật nói chung. - Quy trình phòng bệnh tiêm vắc xin phải được thực hiện nghiêm ngặt. - Theo dõi,quản lý và chăm sóc đàn lợn nái cũng như đàn lợn bầu tốt nhất để chất lượng đàn lợn con được sinh ra cao nhất. - Chẩn đoán và điều trị bệnh sớm để tỷ lệ khỏi bệnh trên đàn lợn là cao nhất để không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất.
  67. 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài Liệu Tiếng Việt 1. Barbara E.Straw (2001), Cẩm nang chăn nuôi lợn, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. 2. Bilken (1994), Quản lý lợn nái và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả. 3. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh(2016), “Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, Tập XXIII (số 5), Trang 51- 56. 4. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội, Trang 29 - 35. 5. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp Tp. HCM. 6. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội. 8. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ. 10. F.Madec, Neva.C (1995), “Viêm tử cung và chức năng sinh sản của lợn nái”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập 2. 11. Văn Lệ Hằng, Đạo Đức Thà, Chu Đình Tới (2009), Sinh sản vật nuôi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  68. 60 12. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), Giáo trình bệnh truyền nhiễm thú y, Nxb Đại học Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Từ Quang Hiển, Phan Đình Thắm, Ngôn Thị Hoán (2001), Giáo trình thức ăn và dinh dưỡng học gia súc - gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 14. Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huê Viên, Phan Văn Kiểm (2003), Giáo trình Truyền giống nhân tạo vật nuôi, Nxb, Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, Trang 44 - 52 16. Nguyễn Quang Linh, Hoàng Nghĩa Duyệt, Phùng Thăng Long (2005), Giáo trình kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông nhiệp, Hà Nội. 17. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 18. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 19. Lê Văn Năm (1999), Cẩm nang bác sĩ thú y hướng dẫn phòng và trị bệnh lợn cao sản, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 20. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên (2016), Giáo trình Dược lý học Thú y, Nxb Đại học Hùng Vương. 21. Nguyễn Thị Ngân, Phan Thị Hồng Phúc, Nguyễn Quang Tính (2016), Giáo trình chẩn đoán bệnh gia súc, gia cầm, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội 22. Pierre Branillet và Bernand Faralt (2003), Điều trị viêm vú lâm sàng, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 23. Nguyễn Như Pho (2002), Ảnh hưởng của một số yếu tố kỹ thuật chăn nuôi đến hội chứng M.M.A và năng suất sinh sản heo nái, Luận án tiến sĩ Nông Nghiệp, trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh.
  69. 61 24. Nguyễn Ngọc Phụng, Công tác vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn, Nxb lao động xã hội, Hà Nội. 25. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 26. Vũ Đình Tôn và Trần Thị Thuận (2005), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 27. Đỗ Quốc Tuấn (2005), Bài giảng môn sản khoa gia súc, Đại học Nông Thái Nguyên. 28. Nguyễn Như Thanh, Nguyễn Bá Hiên, Trần Lan Hương (2001), Giáo trình Vi sinh vật thú y, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội. 29. Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý vật nuôi, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội 30. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập 17. 31. Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993), Thụ tinh nhân tạo cho lợn ở Việt Nam, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội. 32. Nguyễn Thị Thuận (2010), ”Nghiên cứu thực trạng bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái sinh sản nuôi theo mô hình trang trại tỉnh Thái Bình và thử nghiệm một số phác đồ điều trị” Luận văn Thạc Sỹ Nông Nghiệp, Đại học Nông Nghiệp Hà Nội. 33. Trekaxova A.V., Đaninko L.M., Ponomareva M.I., Gladon N.P., (1983), Bệnh của lợn đực và lợn nái sinh sản, (Nguyễn Đình Chí dịch), (hiệu đính Phạm Quân) Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
  70. 62 II. Tài Liệu Tiếng Anh 34. Barbara E.Straw, Tefery J.jimmerman, Slylie D.Allaire, David, Taylc (2006), Diseases of swine, Blackwell publishing, pp.129. 35. Paul Hughes and James Tilton (1996), Maximissing pig production and reproduction, Campus, Hue University of Agricuture an Forestry, pp.23 – 27. 36. Smith, B.B. Martineau, G., Bisaillon, A. (1995), “Mammary gland and lactaion problems”, In disease of swine, 7thedition, Iowa state university press, pp. 40- 57. 37. Taylor D.J. (1995), Pig diseases 6th edition, Glasgow university, U.K.Urban, V.P., Schnur, V.I., Grechukhin, A.N. (1983), “The metritis mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik sel,skhozyaistvennoinauki. 38. Urban, V.P., Schnur, V.I., Grechukhin, A.N. (1983), “The metritis, mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnikselskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69 – 7.
  71. MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Một số hình ảnh thuốc và vắc xin sử dụng tại trại Hình 1: Thuốc Nova- Hình 2: Thuốc Hình 3: Vắc xin Aftogen colispec Analgin Hình 4: Thuốc phòng Hình 5: Vắc xin Hình 6: Vắc xin cầu trùng Coglapest Circovirus
  72. Hình 7: Bột giữ ấm, làm khô Hình 8: Vắc xin giải dại lợn con khi đỡ đẻ
  73. Một số hình ảnh trong sản xuất Hình 9: Trực đỡ đẻ lợn Hình 10: Đàn lợn con khỏe mạnh đang bú mẹ Hình 11: Thiến lợn đực con Hình 12: Mài nanh lợn con
  74. Một số hình ảnh bệnh lợn nái sinh sản Hình 13: Lợn mắc bệnh viêm Hình 14: Lợn bị viêm vú tử cung có mủ