Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái nuôi con và heo con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi tại Trang trại sinh thái Thanh Xuân - xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang - tỉnh Hưng Yên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái nuôi con và heo con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi tại Trang trại sinh thái Thanh Xuân - xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang - tỉnh Hưng Yên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf
Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái nuôi con và heo con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi tại Trang trại sinh thái Thanh Xuân - xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang - tỉnh Hưng Yên
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM QUÀNG THỊ HOA Tên đề tài: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI NUÔI CON VÀ LỢN CON TỪ SƠ SINH ĐẾN 8 TUẦN TUỔI TẠI TRANG TRẠI SINH THÁI THANH XUÂN- XÃ NGHĨA TRỤ - HUYỆN VĂN GIANG –TỈNH HƯNG YÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi Thú y Khoa:Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2020 Thái Nguyên, năm 2019
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM QUÀNG THỊ HOA Tên đề tài: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI NUÔI CON VÀ LỢN CON TỪ SƠ SINH ĐẾN 8 TUẦN TUỔI TẠI TRANG TRẠI SINH THÁI THANH XUÂN- XÃ NGHĨA TRỤ - HUYỆN VĂN GIANG –TỈNH HƯNG YÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi Thú y Lớp: TY-K47-N03 Khoa:Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2020 Giảng viên hướng dẫn : TS.ĐỖ QUỐC TUẤN Thái Nguyên, năm 2019
- LỜI CẢM ƠN Được sự quan tâm giúp đỡ , chỉ bảo của các thầy cô, bạn bè, cộng sự đến nay e đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình. Để hoàn thành được khóa luận e đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ chỉ bảo của Ban giám hiệu trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa CNTY, thầy hướng dẫn, các thầy cô giáo bộ môn, tập thể trang trại sinh thái Thanh Xuân tại thôn Đại Tài – xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang – tỉnh Hưng Yên. Ngoài ra e còn nhận được những lời động viên cổ vũ của các thành viên trong gia đình, bạn bè, cộng sự. Sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của kĩ thuật trại, các công nhân viên trong trang trại sinh thái Thanh Xuân.Để đáp lại tình cảm đó, em xin gửi lời cảm ơn trân trọng và sâu sắc nhất tới các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện cho em trong suất quá trình học tập và rèn luyện bản thân. Đầu tiên, e xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa, cùng toàn thể các thầy cô giáo bộ môn khoa Chăn Nuôi Thú Y trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình dạy dỗ, dìu dắt chúng e trong thời gian học lý thuyết cũng như thời gian học tập tại cơ sở. Đặc biệt, e xin cảm ơn sự nhiệt tình hướng dẫn của PGS.TS Đỗ Quốc Tuấn, người trực tiếp hướng dẫn em thực hiện thành công khóa luận này. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban giám đốc trang trại sinh thái Thanh Xuân, các anh chị em công nhân trong trang trại đã giúp đỡ tận tình trong suốt quá trình thực tập, hướng dẫn các thao tác kĩ thuật, theo dõi các chỉ tiêu và thu thập số liệu. Cuối cùng, em xin trân trọng gửi tới các thầy giáo, cô giáo trong hội đồng đánh giá khóa luận lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Quàng Thị Hoa
- Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển tiến bộ của khoa học kỹ thuật ngày càng cao, đặc biệt là sự phát triển và ứng dụng công nghệ 4.0 vào sản xuất chăn nuôi.Cùng với sự quan tâm của nhà nước, chăn nuôi lợn đang ngày càng phát triển, tăng nhanh về số lượng và cả chất lượng.Chăn nuôi lợn cung cấp một lượng lớn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, là nguồn phân bón hữu cơ tốt,giữ cân bằng hệ sinh thái giữa cây trồng, vật nuôi và con người. Ngoài ra, chăn nuôi lợn còn mang lại nguồn thu nhập cho người chăn nuôi, góp phần vào ổn định đời sống người dân. Mặt khác, nước ta cũng có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển chăn nuôi lợn như: có nguồn nguyên liệu dồi dào cho chế biến thức ăn và có sự đầu tư của nhà nước. Do đó chăn nuôi lợn giữ vị trí hàng đầu trong ngành chăn nuôi của nước ta. Để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi, sản xuất và tiêu thụ thịt lợn của thị trường trong nước cũng như xuất khẩu thì việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái nuôi con và lợn con trong giai đoạn từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi đóng vai trò rất quan trọng và cần đặc biệt quan tâm để cho ra đời được những lứa lợn con có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, cho hiệu quả kinh tế cao.Đây cũng là một mắt xích rất quan trọng quyết định cả số lượng và chất lượng của đàn lợn. Tuy nhiên, do khí hậu ở Việt Nam là kiểu khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, mầm bệnh biến đổi nhanh và phức tạp, nên việc chăm sóc và nuôi dưỡng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa CNTY - Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên, cùng với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và cơ sở nơi thực tập chúng em thực hiện chuyên đề:“Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái nuôi con và heo con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi tại Trang trại sinh thái Thanh Xuân – xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang – tỉnh Hưng Yên”.
- 1.2.Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục đích của chuyên đề - đánh giá được tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại sinh thái Thanh Xuân-xã Nghĩa Trụ-Văn Giang- Hưng Yên. - Thực hiện có hiệu quả qui trình chăm sóc lợn nái nuôi con và lợn con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi - Thành thạo trong việc sử dụng các loại thức ăn dành cho lợn nái nuôi con và lợn con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi, khẩu phần ăn và cách cho lợn nái ăn qua từng giai đoạn. - Phát hiện và chẩn đoán các bệnh hay xảy ra đối với lợn nái nuôi con, lợn con từ sơ sinh đến 8 tuổi và phương pháp phòng trị bệnh hiệu quả nhất. 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại Trang trại Sinh thái Thanh Xuân – xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang – tỉnh Hưng Yên - Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái nuôi con và heo con theo mẹ sau cai sữa tại trại đạt kết quả cao - Xác định tình hình nhiễm bệnh và áp dụng quy trình phòng trị bệnh trên heo nái nuôi con và heo con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi tại trại. - nắm vững quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng đàn lợn. - chăm chỉ học hỏi để nâng cao kỹ thuật, tay nghề của bản thân.
- PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 ĐIỀU KIỆN CƠ SỞ THỰC TẬP 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1 .Vị trí địa lý Trang trại sinh thái Thanh Xuân của công ty sản xuất và dịch vụ thương mại Ngọc Linh – xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang – tỉnh Hưng Yên có vị trí địa lý được xác định như sau: + Phía Nam giáp huyện Khoái Châu + Phía Đông giáp huyện Yên Mĩ. + Phía Tây giáp huyện Thường Tín và huyện Thanh Trì – TP.Hà Nội + Phía bắc giáp huyện Gia Lâm – Hà Nội và huyện Văn Lâm – Hưng Yên. 2.1.1.2. Khí hậu, thủy văn + Khí hậu Trang trại sinh thái Thanh Xuân chịu ảnh hưởng của vùng nhiệt đới gió mùa, thời tiết trong năm được phân thành 2 mùa rõ rệt: - Mùa hè: nóng ẩm, mưa nhiều. kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 - Mùa đông: lạnh, khô hanh. Thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật gây bệnh phát triển mạnh gây nhiều khó khăn và tổn thất cho người chăn nuôi. + thủy văn Trang trại sinh thái Thanh Xuân thuộc huyện Văn Giang có Sông Hồng và hệ thống sông Bắc Hưng Hải, chậy từ Bắc xuống Đông Nam.Ngoài ra có hệ thống kênh kết hợp với hệ thống thủy lợi nội đồng đảm bảo được yêu cầu chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp. 2.1.1.3 Dân cư Theo thông tin từ kênh điện tử Wikipedia, tháng 12 năm 2015 Huyện Văn Giang có 11 đơn vị hành chính, gồm 1 thị trấn và 10 xã. Dân số hơn 120000 người. Tổng diện tích tự nhiên là 71,79 km2 .
- Dân cư đông đúc, nhộn nhịp, nguồn lao động dồi dào. 2.1.1.4. Giao thông - Giao thông thuận lợi có đường cao tốc QL5B Hà Nội - Hải Phòng và QL5 đi qua. - Toàn bộ đường xá đều được bê tông hóa, người dân và phương tiện đi lại thuận lợi. 2.1.2. Điều kiện của cơ sở 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức của trại Trại được thành lập từ năm 2009. Hoạt động được 10 năm với cơ cấu tổ chức như sau: + 1 chủ trại + 2 nhân viên văn phòng + 1 nhân viên nhà bếp + 1 bảo vệ + 2 nhân viên bảo dưỡng + 1 kỹ thuật trưởng + 3 kĩ sư + 29 lao động phổ thông Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau như tổ chuồng đẻ, tổ chuồng nái chửa, tổ chuồng lợn thương phẩm. Mỗi tổ thực hiện công việc hàng ngày một cách nghiêm túc, đúng quy định của trại. 2.1.2.2. Cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng của trại Trại được xây dựng khá lâu nên cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng cũng đã khá cũ nhưng mọi thứ đều được quan tâm, chú trọng nâng cấp và ngày càng đổi mới. * Về cơ sở vật chất + Có đầy đủ các thiết bị, máy móc để phục vụ cho công nhân và sinh viên sinh hoạt hàng ngày như: Máy giặt, bình nóng lạnh, tivi, tủ lạnh, quạt, điều hòa
- + Những vật dụng cá nhân như: Kem đánh răng, xà phòng tắm, dầu gội đầu, bột giặt cũng được trại chuẩn bị. + Cơ sở vật chất trong chuồng trại chăn nuôi được trại chú trọng đầu tư hơn hết. + Trại được xây dựng trên nền đất ruộng với diện tích 4ha; trong đó: 2,5 ha dùng để chăn nuôi 1 ha là ao cá 0,5 ha đất để xây dựng nhà điều hành, nhà ở cho công nhân, bếp ăn,các công trình phục vụ cho sinh hoạt của công nhân và các hoạt động khác của trại. + Trang trại xây dựng 16 chuồng lớn và nhỏ chạy dài, lợp mái tôn (5 chuồng đẻ, 7 chuồng thịt, 3 chuồng bầu, 1 chuồng đực) + Hệ thống chuồng trại được xây dựng khép kín hoàn toàn. Hai bên tường có dãy cửa sổ lắp kính; Mỗi cửa sổ có diện tích 1,2m²; Cách nền 1,2m; Mỗi cửa sổ cách nhau 0,8m. Trên trần đươc lắp hệ thống chống nóng bằng bạt trắng. + Trong các chuồng có các ô chuồng được ngăn cách bằng tường hoặc rào thép chắn. Có hệ thống quạt gió, dàn mát, điện sáng, vòi uống nước tự động cho lợn. Có hệ thống đèn điện sưởi ấm cho lợn con vào mùa đông. + Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các hố sát trùng. + Có một máy phát điện công suất lớn đủ cung cấp điện cho cả trại sinh hoạt và hệ thống chuồng nuôi những khi mất điện. Ngoài lĩnh vực sản xuất chính là chăn nuôi lợn, trại còn sử dụng diện tích ao hồ chăn nuôi cá và một số loài thủy cầm góp phần tăng thu nhập cho trang trại. * Về cơ sở hạ tầng - Trại xây dựng gồm 2 khu tách biệt: + Khu nhà ở và sinh hoạt của công nhân, sinh viên.
- + khu sản xuất. + phân tách khu nhà ở sinh hoạt của công nhân khu vực nái và hậu bị. - Khu nhà ở rộng rãi có đầy đủ nhà tắm, nhà vệ sinh tiện nghi. - Khu nhà ăn cũng được tách biệt có nhà ăn chung. - Khu nhà bếp rộng rãi và sạch sẽ. - Khu hội trường lớn rộng sạch sẽ phục vụ cho các cuộc họp - Trại có ba nhà kho là nơi chứa thức ăn cho lợn và một kho thuốc là nơi cất giữ và bảo quản các loại thuốc, vắc xin, dụng cụ kỹ thuật để phục vụ công tác chăm sóc, điều trị cho đàn lợn của trại. * Hệ thống chuồng nuôi Khu vực chuồng nuôi của trại được xây dựng trên một khu vực cao, dễ thoát nước và xây cách ly xa khu vực sinh hoạt của công nhân. - Có 5 chuồng đẻ, trong đó có 3 chuồng có 66 ô, 2 chuồng có 60 ô - 2 Chuồng bầu có 1200 ô - 6 Chuồng thịt chia làm 10 ô. Mỗi chuồng có thể nuôi từ 500 - 600 con lợn thịt. - Có 1 chuồng cai sữa có 2 ngăn, mỗi ngăn 750 con. - 1 chuồng tân đáo có 100 con Mỗi chuồng có 4 quạt thông gió cỡ lớn và 4 quạt gió cỡ nhỏ. Hệ thống chuồng nuôi có đầy đủ trang thiết bị như bóng đèn sưởi ấm, thắp sáng, quạt thông gió đảm bảo và có giàn mát tạo nhiệt độ ấm áp về mùa đông và mát mẻ về mùa hè. Thuốc và dụng cụ để chăm sóc điều trị bệnh cho lợn được trang trại cung cấp đầy đủ cho từng chuồng riêng biệt. 2.1.2.3.Tình hình sản xuất của trang trại * Công tác chăn nuôi Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất con giống và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45 - 2,5 lứa/năm. Số
- con sơ sinh là 11,23 con/đàn, số con cai sữa: 9,86 con/đàn. Trại hoạt động vào mức khá theo đánh giá của công ty TNHH Deheus Việt Nam. Tại trại, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày thì tiến hành cai sữa và chuyển sang chuồng cai sữa và xuất bán. Trong trại có 18 con lợn đực giống, các lợn đực giống này được nuôi nhằm mục đích kích thích động dục cho lợn nái và khai thác tinh để thụ tinh nhân tạo. Tinh lợn được khai thác từ bốn giống lợn Landrace, Yorshire, Duroc và Pidu. Lợn nái được phối 3 lần và được luân chuyển giống. Thức ăn cho lợn nái là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao, được công ty TNHH Deheus Việt Nam cấp cho từng đối tượng lợn của trại. 2.1.3 Thuận lợi và khó khăn của trại - Thuận lợi: + Trại được xây dựng ở ngoài cánh đồng nên cách xa khu dân cư, không làm ảnh hưởng đến người dân xung quanh. + Đội ngũ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân của trại có năng lực, năng động, nhiệt tình và có trách nhiệm trong công việc. + Trại được xây dựng theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị hiện đại, phù hợp với điều kiện chăn nuôi lợn công nghiệp hiện nay. - Khó khăn: + Do trang trại nằm trong vùng chịu khí hậu 2 mùa mưa nóng và khô lạnh, thời tiết thay đổi thất thường, ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của đàn heo. + nhiều thiết bị, dụng cụ chăn nuôi đã được sử dụng lâu, thường xuyên hỏng hóc. + khu vực xử lí rác thải và xác chết của lợn còn vài hạn chế. Vậy nên tỷ lệ chết trung bình năm nay tăng lên so với các năm trước.
- 2.2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.2.1 kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng heo nái đẻ Mục đích chăn nuôi lợn nái đẻ nhằm đảm bảo cho lợn đẻ an toàn, lợn con có tỷ lệ sống cao, lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con. Chính vì vậy quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe lợn mẹ và lợn con. * Công tác chuẩn bị trước khi lợn đẻ. Trước khi đẻ ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày thì phải đưa lợn chửa lên chuồng đẻ để chờ đẻ. Căn cứ vào ngày đẻ dự kiến dưới chuồng nái chửa mà xếp theo các ô chuồng. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp và rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Phân công trực đẻ, theo dõi đỡ đẻ cho lợn và can thiệp kịp thời khi cần thiết, tránh những thiệt hại đáng tiếc xảy ra. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu chuẩn như sau: - Đối với nái hậu bị, ăn thức ăn mã số 3030 với tiêu chuẩn 2,2 - 2,5kg/ngày/con, chia làm 2 lần trong ngày. - Đối với nái từ lứa 2 đến lứa 4, ăn thức ăn mã số 3030 với tiêu chuẩn 2,5 -3kg/ngày/con, cho ăn 2 lần trong ngày. - Đối với nái dạ (từ lứa 5 trở đi), ăn thức ăn mã số 3030 với tiêu chuẩn 3,5kg/ngày/con, cho ăn 2 lần trong ngày. - Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 4 ngày, giảm tiêu chuẩn ăn xuống 0,5 kg/con/bữa. - Khi lợn nái đẻ được 2 ngày trở đi tăng dần lượng thức ăn từ 0,5 – 0,6 kg/con/ngày, chia làm ba bữa sáng lúc 7 giờ, chiều lúc 15 giờ, tối lúc 17 giờ, mỗi bữa tăng lên 0,5kg. Lưu ý: Lợn nái bỏ ăn thì giảm 50% khẩu phần ăn so với tiêu chuẩn. Vệ sinh chuồng trại, tắm chải lợn mẹ sạch sẽ, diệt ký sinh trùng ngoài da. Cần giữ vệ sinh sạch sẽ vùng giữa âm hộ với hậu môn, vùng này thường chứa
- nhiều lớp nhăn, da chết bẩn hoặc dính phân, chúng dễ nhiễm vào âm đạo khi can thiệp móc thai. * Chuẩn bị ô úm cho lợn con: Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan trọng đó là việc chuẩn bị ô úm lợn cho lợn con. Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [1], ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào những tháng mùa đông. Ngoài ra, ô úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng ăn vào ô úm cho lợn con từ lúc 7 - 10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức ăn của lợn con. Vào ngày dự kiến đẻ của lợn nái, cần chuẩn bị xong ô úm cho lợn con. Kích thước ô úm: 1,2 m x 1,5 m. Ô úm được cọ rửa sạch, phun khử trùng và để trống từ 3 – 5 ngày trước khi đón lợn con sơ sinh. * Chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ: Cần chuẩn bị các dụng cụ đỡ đẻ: kéo, cồn sát trùng, giẻ lau, đèn thắp sáng, khay đựng dụng cụ, các loại thuốc hỗ trợ trong lúc đẻ, khay đựng nhau. * Trực và đỡ đẻ lợn: Trực đẻ rất cần thiết để có thể hỗ trợ lợn nái trong những trường hợp bất thường. Quan sát được những biểu hiện của lợn nái khi có hiện tượng sắp đẻ, để có kế hoạch trực và đỡ đẻ cho lợn nái. Lợn nái sắp đẻ có những biểu hiện: Ỉa đái vặt, bầu vú căng mọng, bóp đầu vú sữa chảy ra, khi thấy có nước ối và phân xu, heo nái rặn từng cơn là lợn con sắp ra. Khi lợn đẻ toàn thân co bóp, thường gọi là cơn đau. Lúc này áp lực tăng cao đẩy thai ra ngoài. Khi thai ra, rốn thai tự đứt. Lợn là một loài đa thai nhưng lợn đẻ từng con một thường thì cứ 15 – 20 phút nái sinh được 1 lợn con, cũng có khi nái sinh liên tiếp nhiều con rồi nghỉ một thời gian. Nếu ra nước ối và phân
- xu sau 1-2 giờ rặn đẻ nhiều mà không đẻ hoặc con nọ cách con kia trên 1 giờ thì phải mời thú y can thiệp. Bình thường thì trong vòng 3 – 4 giờ nái sẽ đẻ hết số con và nhau được tống ra ngoài. Những nái tống nhau ra ngoài hàng loạt sau chót sẽ ít bị viêm nhiễm đường sinh dục vì kèm theo nhau thì có những chất dịch hậu sản cũng được bài thải ra khỏi ống sinh dục. Cũng có trường hợp sau khi nhau đã được bài thải ra ngoài hết nhưng vẫn còn kẹt lại một con cuối cùng, con này thường to và nái trở nên mệt nên không đẻ ra kịp thời, điều này sẽ gây ra chết thai gây sình thối và viêm nhiễm trùng nặng cho nái, nái sốt cao, bỏ ăn, mất sữa, lợn con chết nhiều vì đói Cần cảnh giác các trường hợp nái đang đẻ nhanh thì bỗng nhiên ngừng, cường độ rặn đẻ yếu lúc này cần can thiệp kịp thời để tống những thai chết trước khi sinh ra ngoài, cứu sống những thai sống còn lại trong bụng nái. Không nên can thiệp bằng oxytocin khi nái chưa đẻ được lợn con đầu tiên, nếu cần thiết thì nên khám vùng lỗ xương chậu nhưng không thọc tay vào quá sâu bên trong. Cần chú ý đến dấu hiệu sót nhau: nái đẻ hết con thì nhau sẽ được tống ra ngoài, khi cho con bú nếu nái vẫn còn cong đuôi kèm thỉnh thoảng nín thở, ép bụng thì báo hiệu tình trạng sót con hay sót nhau. Trong khi đẻ nái thường đứng dậy, đi phân, đi tiểu và trở bề nằm nhiều lần. Việc này thường giúp cho thai ở hai bên sừng tử cung phân bố di chuyển để cho việc sinh dễ hơn, vì vậy khi thấy nái đẻ một số con rồi nghỉ thì nên tác động cho nái đứng lên và trở bề nằm (nếu muốn nái nằm bên phải thì xoa nắn bệ vú, hàng vú bên trái và ngược lại). Một số nái khi sắp đẻ thường bị sưng phù âm môn rất nặng và nếu nái rặn đẻ quá mạnh hoặc dùng thuốc kích thích rặn đẻ thì dễ dẫn đến vỡ âm môn, xuất huyết. Cần có biện pháp cầm máu kịp thời (dùng kẹp mạch máu và chỉ cột mạch máu), tránh tử vong cho nái.
- * Kỹ thuật đỡ đẻ: Người đỡ đẻ cần cắt móng tay và rửa sạch tay trước khi đỡ đẻ, khi thai ra tiến hành các công việc đỡ đẻ như sau: - Lau dịch nhờn: một tay cầm chắc mình lợn, một tay dùng khăn khô lau sạch dịch nhờn ở mồm, mũi và toàn thân cho lợn con, tạo điều kiện cho lợn hô hấp thuận lợi và tránh cho lợn bị cảm lạnh. Các động tác cần làm nhẹ nhàng, khéo léo để lợn con không kêu ảnh hưởng đến lợn mẹ. - Cắt rốn: Dùng chỉ thắt lại chỗ cắt, độ dài rốn để lại là 4 – 5cm rồi cắt bằng kéo đã sát trùng, sau đó dùng cồn sát trùng vết cắt. - Lấy bột khô giáp vào lợn con xong bỏ vào lồng úm. - Đẻ được 4 – 5 con thì cho ra bú sữa đầu. - Mài nanh: Dùng máy mài nanh, số nanh phải mài là 8 cái, trong đó gồm 4 răng nanh hàm trên và 4 nanh hàm dưới. Không mài nanh quá nông vì mài nông răng vẫn còn nhọn dễ làm tổn thương vú lợn mẹ khi lợn con bú, mài quá sâu (sát lợi) dễ gây viêm lợi cho lợn con. - Cắt đuôi: Để tránh hiện tượng cắn đuôi nhau nên cắt đuôi cho lợn con mới sinh ra trong vòng 24 giờ để giảm stress cho lợn con. Sử dụng kéo bấm đã sát trùng để cắt đuôi lợn hoặc dùng kéo điện đã cắm điện. 2.2.2. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái nuôi con - Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [1], thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn bổ sung đạm động vật, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 Kcal, protein 15%, Ca từ 0,9 - 1,0%, phospho 0,7%.
- Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [1], trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: - Đối với lợn nái ngoại: + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 - 3 kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4 kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức ăn/nái/ngày = 2 kg + (số con x 0,35 kg/con) + Số bữa ăn trên ngày: 2 (sáng và chiều) + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh). + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%. + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. - Quy trình chăm sóc Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [1] vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận
- động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. Ngoài ra yêu cầu đối với chuồng trại của lợn nái nuôi con là phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không ẩm ướt, vì vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [1], chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 20oC, độ ẩm 70 - 75%. Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng chủ yếu không thể thay thế được trong những giai đoạn đầu tiên sau khi sinh của lợn con, sản lượng của sữa mẹ và khối lượng của lợn con khi cai sữa liên quan mật thiết đến nhau, nếu lợn mẹ có sản lượng sữa cao thì khối lượng lợn con khi cai sữa cao và ngược lại. Do vậy việc áp dụng các biện pháp để nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ là rất quan trọng. Muốn đạt được mục đích trên yêu cầu phải nắm được quy luật tiết sữa và những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái, từ đó đề ra biện pháp kỹ thuật có hiệu quả. - Sinh lý tiết sữa Tiết sữa của lợn nái trong quá trình nuôi con là một quá trình sinh lý phức tạp, do có những đặc điểm khác với gia súc khác là bầu vú của lợn nái không có bể sữa nên lợn nái không dự trữ sữa trong bầu vú, do vậy lợn mẹ không tiết sữa tùy tiện được và lợn con không phải lúc nào cũng bú được sữa mẹ. Quá trình tiết sữa của lợn nái là một phản xạ, do những kích thích vào bầu vú gây nên. Phản xạ tiết sữa của lợn nái tương đối ngắn và chuyển dần từ trước ra sau. Trong đó yếu tố thần kinh giữ vai trò chủ đạo, khi lợn con thúc vú mẹ, những kích thích này truyền lên vỏ não, vào vùng Hypothalamus, từ đó kích thích tuyến yên sản sinh ra kích tố oxytoxin tiết vào trong máu, kích tố này đi vào tuyến bào kích thích lợn nái thải sữa. Do tác động của oxytoxin trong máu khác nhau cho nên các vú khác nhau có sản lượng sữa khác nhau, những vú ở phần ngực tiết sữa nhiều hơn những vú ở phần sau. Lợn con dùng mõm thúc vào vú lợn mẹ, thời gian thúc vú của lợn con có thể từ 5 - 7 phút, sau đó nằm im hoàn toàn và bú. Sữa tiết ra rõ nhất là lúc lợn
- mẹ kêu ịt ịt, lợn con mút chặt đầu vú, hai chân trước đạp thẳng vào bầu vú, nằm yên theo sự tiết sữa của lợn mẹ. Do thời gian tiết sữa của lợn mẹ rất ngắn chỉ khoảng 30-35 giây, nên một ngày lợn con phải bú nhiều lần mới đủ so với nhu cầu. Trong những ngày đầu sau khi sinh lợn con bú từ 20 - 25 lần trên ngày, mỗi lần lượng sữa tiết ra 25 - 35 gam/con. Lượng sữa của lợn nái tiết ra cao dần từ lúc mới đẻ, cao nhất lúc 21 ngày sau khi đẻ, sau đó giảm dần. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái như giống, cá thể, tuổi và lứa đẻ, số con đẻ ra/lứa, nuôi dưỡng và chăm sóc 2.2.3. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ 2.2.3.1 Đặc điểm sinh trưởng, phát dục của lợn con - Khái niệm sinh trưởng Sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp, duy trì từ khi phôi thai được hình thành đến khi thành thục về tính. Sinh trưởng là quá trình tích lũy các chất do đồng hóa và dị hóa; là sự tăng lên về chiều cao, chiều dài, chiều ngang, khối lượng các bộ phận và toàn bộ cơ thể con vật trên cơ sở đặc tính di truyền từ thế hệ trước. Thực chất sinh trưởng là sự tăng trưởng và sự phân chia các tế bào trong cơ thể. Lợn con trong giai đoạn bú sữa có khả năng sinh trưởng và phát dục rất nhanh. Từ lúc sơ sinh đến khi cai sữa trọng lượng của lợn con tăng 10 – 12 lần. So với các gia súc khác thì tốc độ sinh trưởng của lợn con tăng nhanh hơn gấp nhiều lần (Nguyễn Quang Linh, 2005) [2]. Tốc độ sinh trưởng của gia súc non rất cao, nếu sữa mẹ không đảm bảo chất lượng, khẩu phần thức ăn thiếu dạm sẽ làm cho sự sinh trưởng chậm lại và tăng trọng lượng theo tuổi giảm xuống, làm cho khả năng chống đỡ bệnh của lợn con kém (Phạm Sỹ Lăng và cs, 2003) [3]. Theo Trần Thị Dân (2004) [Error! Reference source not found.]: lợn con mới đẻ trong máu không có glubulin nhưng sau khi bú sữa đầu lại tăng lên nhanh chóng do truyền từ mẹ sang qua sữa đầu. Các yếu tố miễn dịch như bổ
- thể, lyzozyme, bạch cầu, được tổng hợp còn ít, khả năng bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh. - Khái niệm phát dục Cùng với quá trình sinh trưởng các tổ chức trong cơ thể luôn hoàn thiện chức năng sinh lý của mình dẫn đến phát dục. Phát dục là một quá trình thay đổi về chất lượng tức là sự thay đổi tăng thêm và hoàn chỉnh các tính chất, chức năng của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể nhờ vậy vật nuôi hoàn thiện được các chức năng của cơ thể sống và tăng trọng lượng theo tuổi giảm (Pensaet MB de Bouck P. A, 1978) [5]. - Đặc điểm sinh trưởng, phát dục của lợn con Lợn con giai đoạn bú sữa có khả năng sinh trưởng và phát dục nhanh. Trần Văn Phùng và cs (2004) [1] cho biết: Tốc độ sinh trưởng của lợn không đồng đều qua các giai đoạn, sinh trưởng nhanh trong 21 ngày đầu sau đó giảm. So với khối lượng sơ sinh thì khối lượng lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp 4 lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần, lúc 50 ngày tuổi tăng gấp 10 lần và vào lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do lượng sữa mẹ bắt đầu giảm và hàm lượng hemoglobin trong máu lợn con thấp. Do lợn có tốc độ sinh trưởng và phát triển nhanh nên khả năng tích lũy các chất dinh dưỡng rất mạnh. Lợn con 21 ngày tuổi có thể tích lũy 9 -14 g protein/1kg khối lượng cơ thể/ngày. Trong khi đó lợn trưởng thành tích lũy được 0,3 – 0,4 kg protein. Hơn nữa, để tăng 1kg khối lượng cơ thể lợn con cần rất ít năng lượng, nghĩa là tiêu tốn thức ăn thấp vì khối lượng chủ yếu của lợn con là nạc, mà để sản xuất ra 1 kg thịt nạc cần ít năng lượng hơn sản xuất ra 1 kg thịt mỡ. Bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh: Trọng lượng bộ máy tiêu hóa tăng lên từ 10 – 15 lần, chiều dài ruột non tăng lên gấp 5 lần, dung tích bộ máy tiêu hóa tăng lên 40 – 50 lần, chiều dài ruột già tăng lên từ 40 – 50 lần. Lúc đầu trọng lượng dạ dày chỉ là 6 – 8 g và chứa được 35 – 50 g sữa nhưng chỉ sau
- 3 tuần đã tăng gấp 4 lần và đến lúc lợn con đạt 60 ngày tuổi đã nặng 150 g và chứa được 700 – 1000 g sữa (Nguyễn Quang Linh, 2005) [2]. Qua nghiên cứu trên cho thấy, lợn là loài sinh trưởng và phát triển nhanh, nhưng để khai thác hết khả năng sản xuất thịt của chúng thì người chăn nuôi cần nắm vững đặc điểm tiêu hóa của lợn để tác động đúng lúc và thu được hiệu quả kinh tế cao. 2.2.3.2 Lợn con giai đoạn theo mẹ có 3 thời kỳ quan trọng, chúng ta cần tìm hiểu rõ để có biện pháp tác động thích hợp. - Thời kỳ từ sơ sinh đến 1 tuần tuổi: Là thời kỳ khủng hoảng đầu tiên của lợn con do sự thay đổi hoàn toàn về môi trường, bởi vì lợn con chuyển từ điều kiện sống ổn định trong cơ thể mẹ sang điều kiện tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài. Do vậy nếu nuôi dưỡng không tốt, lợn con dễ bị mắc bệnh, còi cọc, tỷ lệ nuôi sống thấp. Mặt khác, lúc này lợn con mới đẻ còn yếu ớt, chưa nhanh nhẹn. Lợn mẹ vừa đẻ xong, cơ thể còn mệt mỏi, đi đứng còn nặng nề vì sức khỏe chưa hồi phục, nên dễ đè chết lợn con. Cần nuôi dưỡng chăm sóc tốt lợn con ở giai đoạn này để giảm tỷ lệ chết. - Thời kỳ 3 tuần tuổi: Là thời kỳ khủng hoảng thứ 2 của lợn con, do quy luật tiết sữa của lợn mẹ gây nên. Sản lượng sữa của lợn nái tăng dần sau khi đẻ và đạt cao nhất ở giai đoạn 3 tuần tuổi, sau đó sản lượng sữa của lợn mẹ giảm nhanh, trong khi đó nhu cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng tăng do lợn con sinh trưởng, phát dục nhanh, đây là mâu thuẫn giữa cung và cầu, để giải quyết mâu thuẫn này, cần tập ăn sớm cho lợn con. - Thời kỳ ngay sau khi cai sữa: Là thời kỳ khủng hoảng thứ 3 do môi trường sống thay đổi hoàn toàn, do yếu tố cai sữa gây nên. Mặc khác thức ăn thay đổi, chuyển từ thức ăn chủ yếu là sữa lợn mẹ sang thức ăn hoàn toàn do con người cung cấp. Nên giai đoạn này,
- nếu nuôi dưỡng chăm sóc không chu đáo, lợn con rất dễ còi cọc, mắc bệnh đường tiêu hóa, hô hấp. Chú ý: trong chăn nuôi lợn nái theo phương thức công nghiệp, tiến hành cai sữa lúc 21 ngày thì thời kỳ khủng hoảng thứ 2 và thứ 3 trùng nhau, hay nói cách khác ta làm giảm được một thời kỳ khủng hoảng của lợn con. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ gồm các thao tác cơ bản sau: + Cho bú sữa đầu và cố định đầu vú cho lợn con + Bổ sung sắt cho lợn con + Tập cho lợn con ăn sớm * Cho bú sữa đầu Lợn con đẻ ra cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Thời gian tiết sữa đầu của lợn mẹ là 1 tuần kể từ khi đẻ nhưng có ý nghĩa lớn nhất đối với cả đàn là trong 24 giờ đầu. Sau khoảng 2 giờ, nếu lợn mẹ đẻ xong thì nên cho những con đẻ trước bú trước. Sữa đầu có hàm lượng các chất dinh dưỡng rất cao. Hàm lượng protein trong sữa đầu gấp 2 lần so với sữa thường, vitamin A gấp 5 - 6 lần, vitamin C gấp 2,5 lần, vitamin B1 và sắt gấp 2,5 lần. Đặc biệt trong sữa đầu có hàm lượng globulin mà sữa thường không có. Ngoài ra, Mg++ trong sữa đầu có tác dụng tẩy các chất cặn bã trong quá trình tiêu hóa ở thời kỳ phát triển thai, để hấp thu chất dinh dưỡng mới, nếu không nhận được Mg++ thì lợn con sẽ bị rối loạn tiêu hóa, gây ỉa chảy tỷ với lệ chết cao. 2.2.2.2. Tập cho lợn con ăn sớm Mục đích của việc cho lợn con ăn sớm là để bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Lợn con ăn được thức ăn có rất nhiều tác dụng: đảm bảo cho lợn con sinh trưởng phát triển bình thường, không hoặc ít bị stress, không bị thiếu hụt dinh dưỡng cho nhu cầu phát triển nhanh của lợn con sau 3 tuần tuổi và khi cai sữa, giảm tỷ lệ hao hụt của lợn mẹ.
- Thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn thiện hơn. Khi bổ sung thức ăn sớm cho lợn con thì kích thích vào tế bào vách dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị. Giảm tỷ lệ hao hụt của lợn nái. Nếu không bổ sung thức ăn sớm cho lợn con thì tỷ lệ hao hụt của lợn nái cao, nhất là đối với lợn nái được nuôi kém, có khi tỷ lệ hao hụt lên tới 30%, sẽ làm giảm số lứa đẻ trong một năm (tỷ lệ hao hụt trung bình của lợn nái là 15%). Nâng cao được khối lượng cai sữa lợn con, qua nghiên cứu cho thấy rằng khối lượng cai sữa chịu ảnh hưởng tới 57% của thức ăn bổ sung, trong khi đó chịu ảnh hưởng của sữa mẹ khoảng 38% và khối lượng sơ sinh là 5%. Qua nhiều thí nghiệm và thực tế chứng minh rằng những lợn con được tập ăn sớm thì tăng khối lượng nhanh hơn, tỷ lệ mắc bệnh ít hơn. Giúp cho lợn con làm quen với thức ăn và sớm biết ăn tốt để tạo điều kiện cho việc cai sữa sớm hơn. Hạn chế tình trạng nhiễm ký sinh trùng và vi khuẩn do lợn con hay gặm nhấm nền chuồng, thành chuồng. Thường sau 6 - 10 ngày tuổi lợn con mọc thêm răng nên hay ngứa lợi, nên có thức ăn nhấm nháp cả ngày đỡ ngứa lợi thì lợn con bớt gặm lung tung. Lợn cai sữa sớm lúc 21 ngày tuổi thì phải tập cho lợn con ăn từ lúc 5 ngày tuổi, tốt nhất là nên sử dụng loại thức ăn hoàn chỉnh sản xuất dành riêng cho lợn con tập ăn đến 8 kg. Thức ăn tập ăn sớm cho lợn con thường ép thành dạng mảnh như cốm, thơm ngon, vệ sinh sạch sẽ. 2.2.3kỹ thuật nuôi dưỡng heo cai sữa 2.2.3. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi 2.2.3.1. Phòng bệnh Vệ sinh phòng bệnh nhằm nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn luôn là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với việc vệ sinh thức ăn, nước uống, vật nuôi, dụng cụ chăn nuôi, sinh sản thì việc vệ sinh chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu
- chuồng nuôi luôn được cán bộ thú y và đội ngũ công nhân kỹ thuật thực hiện chặt chẽ. Chuồng trại được thiết kế và xây dựng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Sau mỗi lứa lợn, chuồng trại đều được tẩy uế bằng phương pháp: rửa sạch ô nhốt lợn, để khô sau đó phun thuốc sát trùng như omniside và farm made để trống chuồng nuôi tối thiểu là 5 ngày mới đưa lợn nái chờ đẻ khác lên. Định kỳ tiêu độc ở các chuồng nuôi lợn nái, lợn đực làm việc bằng thuốc sát trùng, Trại còn thường xuyên tiến hành vệ sinh môi trường xung quanh như việc dọn cỏ, phát quang bụi rậm, diệt chuột, thu dọn phân hằng ngày ở các ô chuồng. Khi ra vào trại, tất cả mọi người đều phải đi qua phòng sát trùng, trước khi xuống trại phải thay bảo hộ lao động (quần, áo, ủng, mũ, khẩu trang) chỉ sử dụng trong khu vực chăn nuôi nhằm hạn chế mang mầm bệnh từ bên ngoài vào. Hiện nay, trại áp dụng quy trình chăn nuôi “cùng vào - cùng ra”, trong đó một chuồng hoặc cả một dãy chuồng được đưa vào để nhốt đồng loạt cùng một loại lợn (có thể tương đồng về khối lượng, tuổi). Sau một thời gian nhất định số lợn này được đưa ra khỏi chuồng, lúc đó chuồng trại được rửa sạch, phun thuốc sát trùng và để trống ít nhất 5 ngày trước khi đưa đàn lợn mới lên đẻ. Như vậy quy trình này có tác dụng phòng bệnh do vệ sinh chuồng trại thường xuyên, định kỳ mỗi khi xuất hết lợn, do đó hạn chế được khả năng lan truyền các mầm bệnh từ lô này sang lô khác. Hệ thống thông thoáng đối với chăn nuôi lợn công nghiệp rất quan trọng, ngoài việc cung cấp đủ oxy cho quá trình hô hấp của lợn, nó còn giúp giải phóng khí độc do phân, nước tiểu gây ra. Chính vì vậy, trại đã sử dụng hệ thống làm mát và chống nóng ở mỗi dãy chuồng vào mùa hè và hệ thống sưởi ấm vào mùa đông. Bên cạnh đó các dãy chuồng được sắp xếp theo hướng Đông Nam để đảm bảo ấm áp vào mùa đông, thoáng mát về mùa hè. Đặc biệt vào mùa hè, thời tiết rất nóng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sinh sản của đàn lợn nái cũng như sự sinh trưởng và phát triển của lợn con. Do đó, trại đã lắp đặt hệ thống chống nóng gồm hệ thống quạt gió ở cuối mỗi dãy
- chuồng có tác dụng hút không khí có hơi nước từ hệ thống dàn mát trên đầu chuồng tạo luồng khí mát, thông thoáng. Hai dãy tường chuồng được phủ một tấm lưới cách nhiệt và có tác dụng giữ ẩm. Chính vì vậy không khí trong chuồng lợn luôn mát và nhiệt độ luôn duy trì trong khoảng 28oC - 30oC. Trại trang bị hệ thống lồng úm bên trong có treo một bóng đèn hồng ngoại công suất 175W hoặc lắp một tấm sưởi ở mỗi ô chuồng. Với lợn sau cai sữa cũng có một đèn sưởi hoặc tấm sưởi ở mỗi ô chuồng, đảm bảo luôn duy trì nhiệt độ thích hợp cho lợn con. Bảng 2.1. Lịch phun sát trùng toàn trại Trong chuồng Ngoài Ngoài khu Thứ Chuồng nái Chuồng Chuồng đẻ Chuồng vực chăn nuôi chửa Cai sữa Phun sát Thứ 2 Phun sát trùng Xả vôi xút gầm Phun sát trùng trùng đầu và cuối chuồng Phun sát trùng Thứ 3 Xả vôi xút gầm Và rắc vôi hành Phun sát trùng lang Xả vôi xút sung Thứ 4 Phun sát trùng Xả vôi xút gầm Xả vôi xút gầm quanh chuồng Phun sát trùng Phun sát Thứ 5 Phun ghẻ + rắc vôi hành Phun sát trùng trùng đầu và cuối lang chuồng Phun sát Thứ 6 Phun sát trùng Xả vôi xút gầm Phun sát trùng trùng đầu và cuối chuồng Phun sát trùng Phun sát trùng và Thứ 7 Phun sát trùng Phun sát trùng toàn bộ khu rắc vôi hành lang vực chăn nuôi Phun sát trùng Phun sát trùng Chủ Phun sát trùng + rắc vôi hành Xả vôi xút gầm đầu và cuối nhật lang chuồng Lịch phun sát trùng tại trại được công nhân và sinh viên được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc, để phòng những mầm bệnh có thể phát sinh. Công việc vệ sinh sát trùng được thực hiện nhanh chóng với tỷ lệ phun hợp lý, khi phun thuốc sát trùng, thuốc ghẻ, các máng ăn của lợn được để ý để không bị dính thuốc vào.
- 2.2.3.2 Công tác phòng bệnh bằng vắc xin tại trại Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [6] vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền như ARN, ADN ) đã được làm giảm độc lực hay vô hoạt bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ mới - vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ướng. Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch. Việc phòng bệnh bằng vắc xin luôn được cán bộ kĩ thuật coi trọng và đặt lên hàng đầu với mục tiêu phòng hơn chống. Do đặc thù trại nái ngoại chuyên sản xuất con giống nên trại có đủ các loại lợn ở mọi lứa tuổi khác nhau. Chính vì vậy việc theo dõi và thực hiện lịch tiêm phòng vắc xin chính xác là rất quan trọng. Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin cho đàn lợn được thể hiện qua bảng 2.2. Định kỳ hàng năm vào tháng 4, 8, 12 trại đã tiến hành tiêm phòng toàn bộ đàn lợn bằng vắc xin giả dại Begonia, với liều lượng 2 ml/con, tiêm bắp. Đối với lợn đực: - Lợn đực đang khai thác tiêm phòng vào tháng 5, tháng 11 vắc xin dịch tả Coglapest. Tháng 4, 8, 12 tiêm phòng vắc xin lở mồng long móng Aftopor, vắc xin giả dại Begonia
- Bảng 2.2. Lịch phòng bệnh cho heo con áp dụng tại trang trại Tên vắc Liều Thời Phòng bệnh Lần Vị trí xin lượng 10- 14 Mycopac Suyễn 2ml Mũi 1 Tiêm bắp ngày 21- 23 Cercovac Cerco 0.5ml Mũi 1 Tiêm bắp ngày 28 ngày Colapest Dịch tả 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 5 Tuần JXA1-R Tai xanh 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 7 tuần APP Viêm phổi dính sườn 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 8 Tuần Colapest Dịch tả 2ml Mũi 2 Tiêm bắp 9 Tuần Aftogen leo Lở mồm long móng 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 10 tuần APP Viêm phổi dính sườn 2ml Mũi 2 Tiêm bắp 2.2.3.2.Điều trị bệnh Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [6] nguyên tắc để điều trị bệnh là: + Toàn diện: phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. + Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan. + Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng. + Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. + Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa. + Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa.
- Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [6] các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: + Hộ lý: cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân, nước tiểu, phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh. + Dùng kháng huyết thanh: chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). + Dùng hóa dược: phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn. + Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây: - Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. - Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng.
- - Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh. - Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. - Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, nước sinh lý 2.2.4. Một số bệnh thường gặp ở lợn mẹ 2.2.4.1. Bệnh viêm tử cung Lợn là loài sinh sản đa thai, khả năng sinh sản ngày càng cao nên bộ phận sinh dục hoạt động nhiều, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập nhất là trong điều kiện dinh dưỡng không phù hợp, điều kiện chăm sóc vệ sinh kém thì bệnh dễ xảy ra. Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh, Trần Ngọc Bích và cs (2016) [7], đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13%. Viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái, làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái (Trần Tiến Dũng và cs, 2002) [8]. a. Nguyên nhân Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2003) [3], Nguyễn Xuân Bình (2000) [9], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Cơ quan sinh dục lợn nái phát triển không bình thường gây khó đẻ hoặc lợn nái khó đẻ do thai quá to, thai ra ngược, thai phát triển không bình thường Phối giống quá sớm lợn nái tơ, nái già mang nhiều thai. Khi đẻ tử cung co bóp yếu, do lứa đẻ trước đã bị viêm tử cung làm cho niêm mạc tử cung biến đổi
- nên nhau thai không ra gây sát nhau, thối giữa tạo điều kiện cho sự phát triển của vi khuẩn (Black W. G., 1983) [10]. - Bệnh kế phát từ các bệnh khác như bệnh viêm âm đạo, tiền đình, bàng quang hoặc các bệnh truyền nhiễm: sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao thường gây ra các bệnh viêm tử cung. - Trong quá trình có thai, lợn nái ăn uống nhiều chất dinh dưỡng, tinh bột, protein và ít vận động cơ thể nên cơ thể béo dẫn đến khó đẻ. Hoặc do thiếu dinh dưỡng lợn nái sẽ ốm yếu, sức đề kháng giảm nên không chống lại vi trùng xâm nhập cũng gây viêm. - Do dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây sây sát sẽ tạo ra các ổ viêm nhiễm trong âm đạo hoặc tử cung hoặc do tinh dịch bị nhiễm khuẩn. - Lợn đực bị viêm niệu quản và dương vật khi nhảy trực tiếp sẽ truyền bệnh sang lợn nái. - Bệnh còn xảy ra khi chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý kém hoặc do thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột, thời tiết quá nóng, quá lạnh, ẩm ướt kéo dài. Kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm thử cung trên 620 lợn nái ngoại nuôi tại một số trại tại vùng Bắc Bộ cho thấy: Tỷ lệ nhiễm viêm tử cung ở đàn lợn tương đối cao, biến động từ 36,57% tới 61,07%. Tỷ lệ mắc tập trung ở những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8 (Nguyễn Văn Thanh, 2007) [11]. Viêm tử cung là một bệnh khá phổ biến ở gia súc cái, nếu không được chữa trị kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gia súc cái. Viêm tử cung là một trong những yếu tố gây vô sinh, rối loạn chức năng cơ quan sinh dục vì các quá trình viêm ở trong dạ con cản trở sự di chuyển của tinh trùng, tạo độc tố có hại cho tinh trùng như: Spermiolisin (độc tố làm tiêu tinh trùng). Các độc tố của vi khuẩn, vi trùng và các đại thực bào tích tụ gây bất lợi với tinh trùng, ngoài ra nếu có thụ thai được thì phôi ở trong môi trường dạ con bất lợi cũng dễ bị chết non (Lê Văn Năm và cs, 1999) [12]. b. Các thể viêm tử cung
- Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], triệu chứng viêm tử cung thể hiện qua 3 thể viêm: - Viêm nội mạc: lợn có biểu hiện sốt nhẹ, dịch viêm có mầu trắng hoặc xám và có mùi tanh. Con vật có phản ứng đau nhẹ, phản ứng co bóp tử cung giảm nhẹ. - Viêm cơ: lợn có biểu hiện sốt cao, dịch viêm có mầu hồng hoặc nâu đỏ và có mùi tanh thối. Con vật có phản ứng đau rõ rệt, phản ứng co bóp tử cung yếu ớt. Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung, niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm lớp cơ và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. - Viêm tương mạc: Lợn có biểu hiện sốt rất cao, dịch viêm có mầu nâu rỉ sắt và có mùi thối khắm. Con vật rất đau kèm lợn triệu chứng viêm phúc mạc, phản ứng co bóp tử cung mất hẳn. c. Biện pháp điều trị Sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao: streptomycin 0,25 g, penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml + VTM C (Smith và cs, 1995) [13]. Popkov (1999) [14] đã sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái viêm tử cung đạt kết quả cao. Streptomycin: 0,25 g, Penicillin: 500.000 UI, Dung dịch MgSO4 1% 40 ml + VTM C. Khi lợn bị viêm âm đạo, âm hộ, dùng rửa không sâu (qua ống thông) trong âm đạo bằng dung dịch nước etacridin 1/1.000 và 1/5.000, furazolidon 1/1.000. Đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm amoxi 15% 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao.
- Đối với lợn nái sau khi đẻ, sảy thai và viêm nặng: Thụt rửa tử cung bằng dung dịch Iodine 10% pha 10 ml/2 lít nước, thụt rửa 2 lần/ngày trong 2 ngày đầu và thụt rửa 1 lần/ngày từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 sau khi đẻ. Sau khi thụt rửa bơm thuốc kháng sinh O.T.C 10% (5 ml thuốc pha 20 ml nước sinh lý) hay 4 g streptomycin + 40.000 UI penicillin ngày 1 lần trong 3 ngày liên tiếp vào tử cung. Đồng thời tiêm oxytocin liều 10 - 15 UI (2 ống 5 ml/ 1 lần) nhiều lần trong ngày để tử cung co bóp tống dịch sản ra ngoài. Tiêm kháng sinh phổ rộng chống viêm như: tetramycin LA, amoxi 15% 3 lần liên tiếp mỗi lần cách nhau 48 giờ. Ngoài ra, tiêm các loại thuốc bổ trợ như: urotropin giúp tăng cường bài tiết độc tố, thuốc hạ sốt, vitamin C liều cao và canxi hỗ trợ co bóp tử cung, các thuốc kháng viêm: ketovet, 2.2.4.2. Bệnh viêm vú a. Nguyên nhân gây bệnh viêm vú + Khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy, vi khuẩn chính gây viêm vú là: Staphylococcus spp và Arcanobacterium pyogenes (Christensen và cs, 2007) [15]. + Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn, Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây ra viêm vú. + Thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập gây viêm như: E.coli, Streptococus, Staphylococus, Klebsiella (Đỗ Duy Hùng, 2011) [16]. + Lợn con mới đẻ có răng nanh mà không bấm khi bú làm xây sát vú mẹ tạo điều kiện cho vi trùng xâm nhập tạo ra các ổ viêm nhiễm bầu vú. + Chỉ cho lợn con bú một hàng vú, hàng còn lại căng quá nên viêm. + Do thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh quá hoặc nóng quá hay thức ăn khó tiêu cũng ảnh hưởng đến cảm nhiễm vi trùng. b. Triệu chứng
- Bình thường bệnh viêm vú xảy ra ngay sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 5 - 7 ngày, có khi đến một tháng. Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [17], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng, ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% (Lê Hồng Mận, 2002) [18]. Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu. Theo Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [19], trước khi đẻ cần lau vú, xoa vú, tắm cho nái. Cho con bú mẹ sau 1 giờ đẻ, cắt răng nanh lợn con. Tiêm kháng sinh 1,5 - 2 triệu đơn vị với 100 ml nước cất tiêm quanh vú, tiêm liên tục trong 3 ngày. c. Hậu quả của bệnh viêm vú Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ. Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [20], bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con. Nguyễn Xuân Bình (2000) [9] cũng khẳng định: Mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú
- sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau d. Điều trị Chườm đá lạnh vào bầu vú viêm. Tiêm thuốc chống viêm như prednizolon, hydro – cortizone Dùng novocain tiêm ven tai, tiêm chỗ giáp nhau giữa hai bầu vú và phần sườn của lợn, tiêm nhắc lại sau một ngày. Dùng kháng sinh: streptomycin, penicillin, ampicillin, lincomycin liều đạt trên 200.000 - 500.000 UI, mỗi loại trên một lần tiêm cho 1 - 2 lần/ngày trong 3 - 5 ngày. Thực hiện phòng bệnh: Vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng ngày bằng dung dịch sát trùng. Bấm răng sữa cho lợn con mới sinh, nên cho lợn con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng bị viêm. Dùng các phương pháp nhân tạo như chườm nóng, xoa bóp nhẹ lên vùng vú bị sưng (Đỗ Duy Hùng, 2011) [16]. 2.2.4.3. Bệnh sót nhau Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. a. Nguyên nhân Theo Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [21] nguyên nhân của bệnh sót nhau là do: sau khi đẻ tử cung co bóp yếu, trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức
- ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Ca và P. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. + Kế phát sau các bệnh khó đẻ khác. + Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt bệnh Brucellosis (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của nhau. b.Triệu chứng Căn cứ vào mức độ sót nhau người ta chia ra làm 2 loại: + Sót nhau hoàn toàn: Toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc thường có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn. + Sót nhau không hoàn toàn: Ở động vật đơn thai một phần màng nhau còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ. c. Điều trị Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytoxin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục (Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh, 2010) [21]. 2.2.5. Một số bệnh thường gặp ở lợn con 2.2.5.1. Tiêu chảy Tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý ở đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật đi ỉa nhanh, nhiều lần trong ngày, phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu hóa, ruột tăng cường co bóp và tiết dịch hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay đổi tạm thời của phân gia súc đang thích ứng với những thay đổi trong khẩu phần ăn. Tiêu chảy xảy ra ở nhiều bệnh và bản thân nó không phải là bệnh đặc thù.
- a.Nguyên nhân - Do thời tiết khí hậu: các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể (Đoàn Thị Kim Dung, 2004) [22]. - Lợn con bị nhiễm khuẩn: Theo Phạm Sỹ Lăng (2009) [23], bệnh tiêu chảy ở lợn có nguyên nhân do vi khuẩn E.coli, Salmonella trong đó Salmonella là vi khuẩn có vai trò quan trọng trong quá trình gây ra hội chứng tiêu chảy (Radosits và cs., 1994) [24]. - Theo Glawisschning, Bacher (1992) [25], nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt. - Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung. - Lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần. - Bệnh tiêu chảy trên heo con do E.coli có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi theo mẹ nào nhưng thường có hai thời kỳ cao điểm là 0 - 5 ngày tuổi và 7 - 14 ngày tuổi (Nagy và cs, 2005) [26]. b. Triệu chứng - Sàn chuồng có phân lợn lỏng, màu vàng hoặc màu trắng. - Trong chuồng có hiện tượng lợn nôn ra sữa. - Người lợn con bị bẩn do dính phân. - Vú lợn mẹ dính phân lợn con. 2.2.5.2. Viêm khớp a. Nguyên nhân Streptococcus suis là vi khuẩn gram (+), Streptococcus suis gây viêm khớp lợn cấp và mãn tính ở mọi lứa tuổi. Bệnh này thường gây ra trên lợn con 1 - 6 tuần tuổi. Vi khuẩn xâm nhập qua đường miệng, cuống rốn, vết thương khi
- cắt đuôi, bấm nanh, các vết thương trên da, đầu gối khi chà sát trên nền chuồng, qua vết thiến (Nagy và cs., 2005) [26]. b. Triệu chứng Lợn con đi khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi, khớp chân sưng lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh nhưng tử vong thường xảy ra lúc 2 - 5 tuần tuổi. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn chân. Lợn ăn ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ, sưng, sờ nắn vào có phản xạ đau (Nguyễn Ánh Tuyết, 2015) [27]. 2.2.5.3. Viêm phổi a. Nguyên nhân Do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra, bệnh xảy ra trên lợn con ngay từ khi mới sinh ra, bệnh xâm nhập chủ yếu qua đường hô hấp. Bệnh cũng có thể do điều kiện chăn nuôi vệ sinh chuồng trại kém, thời tiết thay đổi , do sức đề kháng của lợn giảm. Bệnh thường lây lan do nhốt chung với con nhiễm bệnh. - Viêm phổi thường xuất hiện ở giai đoạn sau của quá trình chăn nuôi, nhất là khi heo sắp xuất chuồng dẫn đến thiệt hại nặng nề về kinh tế cho bà con.
- Phần 3 ĐỐI TƯỢNG,NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng Lợn nái nuôi con và lợn con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi tại Trang trại Sinh thái Thanh Xuân – xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang – tỉnh Hưng Yên 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: tại Trang trại Sinh thái Thanh Xuân – xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang – tỉnh Hưng Yên - tiến hành: từ ngày 20/11/2018 đến ngày 20/5/2019. 3.3. Nội dung thực hiện - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại tại Trang trại Sinh thái Thanh Xuân – xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang – tỉnh Hưng Yên - Thực hiện qui trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái nuôi con và lợn con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi. - biện pháp phòng và trị bệnh cho lợn nái nuôi con và lợn con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi. 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện - Tình hình chăn nuôi lợn tại Trang trại Sinh thái Thanh Xuân – xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang – tỉnh Hưng Yên trong 3 năm (2017– 2019). - Cơ cấu của đàn nái sinh sản tại trại. - Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại. - Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái sinh sản. - Biện pháp vệ sinh phòng bệnh. - Lịch tiêm phòng vaccin cho đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ đến cai sữa tại trại. - Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ đến cai sữa của trại
- - Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ đến cai sữa của trại. 3.4.2. Phương pháp thực hiện - Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại: để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, tiến hành thu thập thông tin từ trại,kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại trang trại. - Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc,nuôi dưỡng cho đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại: Thực hiện các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn mà trang trại đang thực hiện. - Phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn: Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, tiến hành theo dõi hàng ngày, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ thể, bộ phận sinh dục ngoài, dịch rỉ viêm, phân ghi chép vào nhật ký thực tập hàng ngày. Từ các triệu chứng thu thập được, tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại. 3.4.3.Phương pháp xử lý số liệu - Tỉ lệ lợn mắc bệnh: Σsố lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 Σ푠ố 푙ợ푛 푡ℎ푒표 õ𝑖 - Tỷ lệ lợn khỏi: Σsố con khỏi Tỷ lệ khỏi (%)= x 100 Σ푠ố 표푛 đ𝑖ề 푡 ị - Các số liệu thu thập được xử lý theo phương pháp thống kê sinh vật học của Nguyễn Văn Thiện (2008) và phần mềm minitab17.0 - Tính số trung bình mẫu: x x x x X 1 2 n i n n -Tính độ lệch tiêu chuẩn S m X n 30 X n 1
- - Sai số trung bình: Chú giải: X : Số trung bình cộng 푆 Độ lệch tiêu chuẩn x1, x2, xn : Giá trị của các biến số : Sai số trung bình n: Dung lượng mẫu PHẦN 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN 4.1.Tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên 3 năm (2017-2019). Trong quá trình thực tập tốt nghiệp tại trại e đã tiến hành theo dõi tình hình chăn nuôi của trại trong vòng 3 năm từ 2017- 2019 thông qua số liệu thực tế tại thời điểm thực tập và trên hệ thống sổ sách của trại. Bảng 4.1. tình hình chăn nuôi tại trại 3 năm(2017-2019) Số lượng lợn qua các năm(con) STT Năm 2019 (5 Loại lợn Năm 2017 Năm 2018 tháng đầu năm) 1 Lợn đực giống 17 21 24 2 Lợn nái hậu bị 110 89 100 3 Lợn nái sinh sản 1.008 987 996 4 Lợn con 26.625 27.564 8.124
- Kết quả của Bảng 4.1 cho thấy, do trại chủ yếu sản xuất lợn giống do đó cơ cấu của trại chủ yếu là lợn nái và lợn con. Số lợn đực giống trong 3 năm từ 2017- 2019 dao động từ 17-24 con; lợn nái hậu bị năm 2018 giảm so với 2017 là 21 con, nhưng đến 5 tháng đầu năm 2019 tăng từ 89 lên 100 con (tăng 11con); lợn nái sinh sản năm 2018 giảm so với năm 2017 là 21 con, đến 5 tháng đầu năm 2019 tăng từ 987 con lên 996 con(tăng 9 con). Có sự biến động như vậy là do số lượng nái loại thải do hết tuổi khai thác,tỷ lệ đậu thai và sinh sản 2 lứa đầucủa nái hậu bị không đạt tiêu chuẩn, heo mắc các bệnh sinh dục nặng ảnh hưởng đến chất lượng giống. số heo con tăng dần qua các năm,từ năm 2017 đến 2018 tăng 939 con;trong 5 tháng đầu năm đã có 8.124 heo con. có sự tăng trưởng cao như vậy là vì chất lượng nái sinh sản được cải thiện, tỷ lệ phối giống cao, sô heo con chết sau sinh thấp. 4.2. Kết quả chăm sóc và nuôi dưỡng đàn lợn nái đẻ, nuôi con, lợn con đẻ ra, lợn con cai sữa đến 8 tuần tuổi trong 6 tháng TTTN tại trại • Công việc hàng ngày: + Nhận ca: Cho lợn dậy vệ sinh, kiểm lợn và kiểm tra quạt gió, bóng đèn. Kiểm tra nhiệt độ đầu chuồng (nhiệt độ thích hợp đầu chuồng là 27oC). + Lật máng rồi vệ sinh máng ăn và cho lợn nái ăn theo khẩu phần. Nái chửa cho ăn 2 bữa/ngày, nái nuôi con cho ăn 4 bữa/ngày. Bón thức ăn cho lợn bỏ ăn. Lợn con sau cai sữa cho ăn tự do trong ngày. + Thay thảm lót bẩn vào đầu buổi sáng và buổi chiều cho ra bể ngâm sát trùng. + Lau máng và tra thức ăn lợn con tập ăn. + Hót phân vào bao tải cho lên xe rùa đẩy ra đổ ra kho phân. + Rắc vôi, quét 2 đường hành lang, cuối chuồng. + Đỡ đẻ cho lợn nái: Lau vú, lau mông, lau sàn: 2 chổi, 1 chổi để lau ô lợn bình thường, 1 chổi lau ô lợn bị tiêu chảy. + Mài nanh cho heo con sau khi đẻ xong, nhỏ amoxcolis sau khi đã mài nanh. + Trích sắt, bấm tai, cắt đuôi cho heo con 1 ngày tuổi. + Cho lợn con uống thuốc phòng bệnh cầu trùng khi được 3 ngày tuổi.
- + Phun thuốc sát trùng ngày 1 lần sau khi đã vệ sinh chuồng sạch sẽ. + Tiêm kháng sinh cho lợn nái vừa đẻ xong (tiêm liên tục 3 ngày) vào buổi sáng. + Điều trị lợn nái viêm. + Điều trị lợn còi, lợn viêm phổi, viêm khớp, lợn tiêu chảy. + Đếm lợn con và ghi vào sổ theo dõi vào cuối ngày + Chỉnh lại số liệu bảng thức ăn vào cuối ngày. • Công việc hàng tuần + Cai sữa tuần 2 lần vào thứ 3 và thứ 7 + Thiến lợn con khi được 4 tuần tuổi + Làm vắc xin lợn con vào thứ 2 và thứ 6 + Tổng vệ sinh cả trại vào thứ 7 Trong quá trình thực tập tại trại, chúng em đã tham gia chăm sóc lợn nái đẻ, tham gia đỡ đẻ cho lợn, chăm sóc và điều trị cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi, điều trị lợn nái sau khi sinh. Quy trình chăm sóc lợn nái đẻ, đàn lợn con theo mẹ đến 8 tuần tuổi như sau: * Đối với lợn nái đẻ: Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng dành cho lợn đẻ trước ngày đẻ dự kiến 5- 7 ngày.Trước khi chuyển lợn lên, chuồng dành cho lợn nái đẻ phải được dọn dẹp sạch sẽ và để khô.lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thong tin lên bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 3 ngày, giảm thức ăn hỗn hợp để phân trong trực tràng không quá lớn, tạo điều kiện cho lợn nái đẻ dễ, tránh được lợn con bị chết ngạt do ở trong tử cung quá lâu. Mỗi ngày giảm 0,5 kg thức ăn hỗn hợp đến ngày đẻ dự kiến chỉ cho uống nước. Khi lợn nái đẻ được 01 ngày, khẩu phần ăn tăng dần và tuỳ theo số lượng lợn con. Điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp nhu cầu của lợn nái.
- Bảng 4.2. Năng suất sinh sản của lợn qua 2 tháng Theo dõi Lợn con Số con đẻ Số con cai Tháng Số nái đẻ Cai sữa đẻ ra ra/nái sữa/nái 04 63 731 712 11,60 11,30 05 63 746 723 11,84 11,48 Tổng 126 1477 1435 11,72 11,39 Trung bình Kết quả bảng 4.2 cho ta thấy số lợn nái đẻ em trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong 6 tháng thực tập là 126 lợn nái đẻ; nuôi con là 126 con; lợn con đẻ ra là 1477 con; lợn con cai sữa là 1435 con. Số liệu bảng 4.2 cũng cho thấy năng suất sinh sản của đàn lợn nái tại trại dao động từ 11,60 đến 11,84 con/lứa. Số lợn con/nái đến khi cai sữa dao động từ 11,30 đến 11,48 con/lứa. Năng suất sinh sản có khác nhau qua các tháng song không nhiều bởi điều kiện tiểu khí hậu chuồng nuôi, thức ăn, chế độ chăm sóc không khác nhau nhiều. Từ việc chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn hằng ngày em đã học được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản là phải giữ chuồng trại luôn sạch sẽ, cho lợn ăn đúng bữa và đủ lượng thức ăn theo quy định. Lợn nái chửa kì cuối, nái đẻ và nuôi con đ ược cho ăn 3 lần/ngày. * Đối với đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa: Lợn con sau khi đẻ xong tiến hành bấm nanh, dùng kìm bấm nanh lợn để tránh tình trạng lợn con cắn nhau hoặc cắn vú gây viêm vú cho lợn mẹ. Trong thời gian thực tập em đã tiến hành bấm nanh cho 724 con lợn con và tất cả đều an toàn. Sau khi lợn con đẻ được 1 ngày cần bấm tai, cắt đuôi cho lợn con để tránh trường hợp cắn đuôi nhau dẫn đến stress và em đã cắt đuôi cho 724 con và an toàn 100%.Bấm số tai theo mã trại và tuần đẻ. Trong 6 tháng em đã bấm tai cho 724 con và tất cả đều an toàn. Lợn con được từ 4 – 6 ngày tuổi tập cho ăn bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh ký hiệu là 9271, cho nhiều lần trong ngày và mỗi lần cho một ít thức ăn nhằm kích thích tính thèm ăn. Khi đặt máng ăn nên tạo tiếng động để tạo chú ý và cho lợn con tập liếm láp, không để thức ăn cũ thừa trong máng. Lợn con được 21-16 ngày tuổi tiến hành cai sữa cho lợn.
- Lợn con ở đây được cai sữa sớm (21-26 ngày tuổi) và được cho tập ăn từ 7 – 10 ngày tuổi nhằm nâng cao khối lượng lợn con cai sữa, giảm hao mòn lợn mẹ, tăng sức đề kháng cho lợn con. Giữ chuồng luôn khô ráo, sạch sẽ, điều chỉnh nhiệt độ phù hợp với nhiệt độ từng giai đoạn lợn con (giai đoạn lợn con từ 1 – 7 ngày tuổi, giai đoạn lợn con từ 7 – 14 ngày tuổi và giai đoạn lợn con từ 14 - 21 ngày tuổi). Mỗi ngày tiến hành kiểm tra thường xuyên sức khỏe của lợn để xử lý nhanh nhất như: tiêu chảy, đau chân, thiếu sắt, thiếu sữa, gầy yếu, không đủ ấm cho lợn uống thuốc kịp thời. Đánh dấu sau khi điều trị cho lợn để theo dõi và kiểm tra dễ dàng hơn Bảng 4.3. Kết quả công tác chăm sóc lợn con tại cơ sở Kết quả Nội dung Số lượng công việc (con) An toàn (con) Tỷ lệ (%) Bấm nanh 724 724 100 Bấm số tai 724 724 100 Cắt đuôi 724 724 100 Ngoài ra em còn học được cách chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con từ sơ sinh đến cai sữa, cần chú ý các công việc sau: khi trộn thức ăn phải trộn thuốc vào nước theo đến đúng tỷ lệ rồi trộn với thức ăn hỗn hợp, lợn con phải luôn có thức ăn, sàn phải khô ráo sạch sẽ và nhiệt độ phải thích hợp. *đối với lợn con từ sau cai sữa đến 8 tuần tuổi. Heo con được 21- 26 ngày tuổi được tiến hành cai sữa,và chuyển sang chuồng cai sữa.mỗi ô cai sữa chứa khoảng 30 heo con.trước khi chuyển heo 3-5 ngày chuồng được vệ sinh sát trùng sạch sẽ và để khô giáo. Các ô chuồng được lắp sàn nhựa; có mái úm, ván gỗ cho heo cai sữa vào mùa đông.Mỗi ô được lắp 2 bóng sưởi để giữ ấm cho đàn heo. Heo con sau khi chuyển đến chuồng mới được bổ sung orerol bù nước, điện giải và giảm stress. Thức ăn dùng cho heo cai sữa là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có mã là 3810 do công ty TNHH De Heus, trung bình mỗi ô 0.5kg trong ngày đầu tiên.Mục đích để lợn làm quen với môi trường ở mới và loại cám mới; lợn con trước khi sang được nhịn ăn nên cho ăn với lượng ít cám để tránh heo ăn nhiều 1 lúc dễ gây bội
- thực hay bị tiêu chảy. 3 ngày đầu cai sữa đàn heo được ăn tự do.sau 3 ngày thì được điều chỉnh theo công thức của trại để đảm bảo khối lượng tăng trưởng của đàn heo. 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại được thể hiện qua bảng 4.4 Bảng 4.4. Kết quả theo dõi tình hình sinh sản của lợn nái Đẻ bình Số con đẻ Tỷ lệ Tháng Số con đẻ Tỷ lệ (%) thường khó (%) 04 63 60 95,24 3 4,76 05 63 58 92,06 5 7,94 Tổng 126 118 93,65 8 6,35 Qua bảng 4.4 cho thấy: Số lượng lợn đẻ mỗi tháng, số con đẻ bình thường và số con đẻ phải can thiệp tại cơ sở. Tỷ lệ lợn nái đẻ phải can thiệp thấp chỉ từ 4,76-7,94, trung bình là 6,35%. Số lợn nái đẻ phải can thiệp với tỷ lệ thấp là do trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng đã thực hiện đúng quy trình về thức ăn cho lợn nái mang thai và kỹ thuật chăm sóc lợn nái đẻ. Số lợn nái đẻ khó chủ yếu tập trung nhiều ở nái đẻ lứa đầu, cổ tử cung chưa giãn nở, một số ít là do lợn mẹ trong quá trình mang thai quá béo, ít vận động làm ảnh hưởng đến quá trình đẻ. Ngoài ra trường hợp đẻ khó còn do các nguyên nhân khác như chiều hướng, tư thế của bào thai không bình thường, thai quá to, thai dị hình. Trong quá trình đỡ đẻ cho lợn nái, em rút ra được một số bài học kinh nghiệm đó là: Việc ghi chép chính xác ngày phối giống cho lợn nái là rất quan trọng, sẽ giúp cho người chăn nuôi xác định được thời điểm lợn sắp đẻ để có kế hoạch chuẩn bị các dụng cụ hỗ trợ quá trình đẻ, chuẩn bị ổ úm cho lợn con. Trong thời gian lợn sắp đẻ thì phải thường xuyên theo dõi, quan sát lợn, không nên để lợn tự đẻ vì lợn mẹ có thể sẽ đè con, cắn con hoặc khi lợn mẹ đẻ khó sẽ không kịp thời xử lý.
- Khi đỡ đẻ cho lợn người thực hiện phải thao tác nhẹ nhàng, khéo léo, để tránh làm tổn thương cơ quan sinh dục của lợn mẹ, toàn bộ dụng cụ, tay của người thực hiện đỡ đẻ phải được sát trùng, người đỡ đẻ cho lợn không được để móng tay dài có thể làm tổn thương cơ quan sinh dục của lợn nái trong quá trình can thiệp đẻ khó. 4.4. Kết quả vệ sinh, sát trùng tại trại Nhìn vào bảng 4.5 ta có thể nhận thấy việc vệ sinh, sát trùng hàng ngày luôn được trại quan tâm và làm thường xuyên hàng ngày. Theo quy định của trại việc vệ sinh chuồng phun sát trùng sẽ được thực hiện ít nhất 1 lần/ ngày và trong 6 tháng thực tập tại trại em đã thực hiện được việc vệ sinh chuồng là 123 lần (đạt tỉ lệ 68,33% so với quy định) là do đây là công việc mọi người phân công thay nhau làm, và em được phân công thực hiện 123 lần/ 6 tháng. Việc phun sát trùng thực hiện được 61 lần (đạt tỉ lệ 69,32%). Việc quét và rác vôi đường đi theo quy định của trại cũng được tiến hành ít nhất 1 lần/ngày; trong 2 tháng làm việc tại chuồng đẻ em đã thực hiện 43 lần (đạt tỷ lệ 71,67%). Bảng 4.5. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại Số lượng theo Số lượng thực Tỷ lệ STT Công việc quy định (lần) hiện (lần) (%) 1 Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 180 123 68,33 2 Phun sát trùng định kỳ 88 61 69,32 3 Quét và rắc vôi đường đi 60 43 71,67 Quét và rắc vôi đường đi thực hiện được 60 lần (đạt tỉ lệ 71,67%) công việc được thực hiện tại chuồng đẻ vào cuối buổi sáng trước khi giao ca. Ngoài ra còn một lý do nữa đó là điều kiện môi trường như mưa hay độ ẩm cao hoặc nhiệt độ xuống thấp thì sẽ không xả vôi xuống gầm thay vào đó là giáp vôi khô xuống gầm để tránh cho lợn bị nhiễm lạnh. Mỗi công việc trên đều được phân công giờ giấc hoặc là việc trước việc sau để đảm bảo an toàn vệ sinh trong chuồng trại.
- Thông qua việc trực tiếp thực hiện các công việc trên, em đã biết được cách thực hiện vệ sinh, sát trùng trong chăn nuôi như thế nào cho hợp lý nhằm hạn chế được dịch bệnh cùng như nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi. 4.5. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn tại trại * Kết quả phòng bằng thuốc và vắc xin Quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lợn của trang trại được thực hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra trong cơ thể chúng một sức miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Trong 6 tháng thực tập tại trại, em đã được tham gia vào quy trình phòng bệnh cho đàn lợn con tại trại. Kết quả của việc áp dụng quy trình phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho đàn lợn con tại trại được trình bày qua bảng 4.6 Bảng 4.6. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn tại trại Hiệu Tiêm thuốc và vắc Số lợn Loại Tỷ lệ quả Tỷ lệ xin Số lợn được lợn (%) tiêm (%) phòng bệnh tiêm phòng Đối với Fe-dextran-B12 phòng 1477 724 49,01 724 100 đàn lợn bệnh thiếu máu con Cầu trùng 1477 724 49,01 724 100 theo mẹ Vắc xin Mycoplasma 1451 500 34,46 486 97,20 Đối với Vắc xin Cerco 6246 1322 21,16 1322 100 đàn lợn Vắc xin dịch tả lợn 1 5764 1172 20,33 1172 100 sau cai Vắc xin tai xanh 4037 1102 27,30 1102 100 sữa đến Vắc xin viêm phổi 8 tuần 679 236 34,76 236 100 dính sườn tuổi
- Qua kết quả bảng 4.6, ta có thể thấy được kết quả tổng quát về việc phòng và trị bệnh cho đàn lợn con và lợn nái tại trại bằng thuốc và vắc xin. Lợn con sau 2 - 3 ngày tuổi được tiêm Fe + B12 để phòng thiếu sắt, thuốc phòng trị cầu trùng và nâng cao sức đề kháng cho lợn con, 100% lợn con sau khi sinh sẽ được tiêm. Trong 6 tháng thực tập, em đã tiêm Fe + B12 cho 320 lợn con được 3 ngày tuổi và đạt an toàn 100%, nhỏ thuốc phòng trị bệnh cầu trùng cho 320 lợn con và an toàn 100%. Ngoài ra, em còn được tiêm vắc xin phòng bệnh dịch tả lợn cho 46 lợn con từ 10 - 15 ngày tuổi và Mycoplasmas cho 45 lợn con từ 7 - 10 ngày tuổi và an toàn 100%. Trong quá trình thực tập, tại trại em xảy ra dịch tiêu chảy cấp (PED), em đã tham gia làm auto vắc xin cho 30 lợn nái, tỷ lệ nái xuất hiện tiêu chảy là 15 nái, đạt 50% đạt yêu cầu an toàn của auto vắc xin. 4.6. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn con tại cơ sở Song song với việc phòng trị bệnh cho lợn nái, trại thường xuyên phải quan tâm đến phòng trị bệnh cho lợn con vì chất lượng đàn con sẽ quyết định lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của công ty. Kết quả điều trị bệnh ở lợn con cụ thể được trình bày ở bảng 4.7 Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con Chỉ Kết quả tiêu Số Số Tỷ lệ Số Tên Thuốc điều con con mắc Số Liệu trình con Tỷ lệ bệnh trị theo mắc bệnh con điều khỏi (%) Đối dõi bệnh (%) trị (con) tượng (con) Heo Ampyseptryl Tiêu Tiêm bắp, con 1ml/10kg 1477 125 8,46 125 124 99,20 chảy Tiêm 1 lần theo mẹ TT/ngày
- Tiêm bắp, Dùng Viêm ngày/lần. Tiamulin: 1477 150 3,75 87 80 91,95 phổi Điều trị từ 1,5ml/con 3 – 6 ngày Vimenro: Tiêu Tiêm bắp, 1ml/10kg 6246 2119 33,93 926 915 98,81 chảy tiêm 1 lần TT/ngày Heo Tiêm bắp. con từ Amocixillin+ Viêm Ngày/lần. sau cai catosal: 6246 267 4,27 53 47 88,68 phổi Điều trị 3-5 sữa đến 2ml/con ngày 8 tuần Tiêm bắp, tuổi Penstrep: ngày/lần, Khớp 1ml/10kg 6246 126 2,02 44 38 86,36 điều trị từ TT/ngày 3-5 ngày Kết quả bảng 4.7 cho thấy: Hội chứng tiêu chảy: Em đã tham gia điều trị 926 lợn con bị tiêu chảy trong quá trình thực tập. Tuy nhiên, chỉ thực hiện điều trị khỏi 915 lợn con, đạt 96,15%. Kết quả đạt như vậy là do sức đề kháng lợn con còn yếu và trong tháng 1 xảy ra dịch tiêu chảy cấp (PED) làm giảm sức đề kháng, gây tổn thất nghiêm trọng cho đàn lợn tại trại. Bệnh viêm phổi trên đàn lợn con: Em đã tham gia điều trị 87 lợn con bị viêm da trong quá trình thực tập. Tuy nhiên chỉ thực hiện điều trị khỏi 80 con, đạt 91,95%. Bệnh tiêu chảy sảy ra nhiều ở lợn con nhưng do công việc nhiều nên em chỉ được thực hiện điều trị bệnh với số lượng ít. 4.7. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái Trong thời gian thực tập tại trại em đã tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với các kỹ sư của trại. Qua đó chúng em đã
- được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và các biện pháp điều trị bệnh. Phác đồ điều trị bệnh: + Bệnh viêm tử cung: Dùng oxytocin, cồn iod 10% làm sạch tử cung, đồng thời tiêm clamoxon 20ml/con/ngày. Điều trị 3-5 ngày. + Bệnh viêm vú: Chườm nước đá lạnh Tiêm diclofenac kết hợp với tiêm clamoxon: 20ml/con/ngày. Điều trị 3-5 ngày. Kết quả của công tác chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái tại trại được trình bày ở bảng 4.9. Kết quả bảng 4.9 cho thấy số lợn mắc bệnh viêm tử cung là cao nhất và cao hơn số lợn mắc bệnh viêm vú rất nhiều. Theo em sở dĩ tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái nuôi tại trại cao là do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi cao độ với điều kiện của nước ta, như nuôi dưỡng, chăm sóc chưa thật tốt và thời tiết không thuận lợi. Đây chính là nguyên nhân cơ bản gây nên bệnh viêm tử cung của lợn nái. Bảng 4.9. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái Số nái Số nái điều Số nái Tỷ lệ khỏi Stt Bệnh lợn nái mắc mắc bệnh trị khỏi theo dõi (%) (con) (con) 1 Bệnh viêm tử cung 66 3 3 100 2 Bệnh viêm vú 66 5 5 100 Mặt khác, do trong quá trình phối giống cho lợn nái bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều
- kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Hoặc do quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai làm cho vi khuẩn từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập vào gây viêm. Số lợn nái mắc bệnh viêm vú là 5 con, theo em thấy nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, vi khuẩn theo máu đến vú gây viêm vú, ngoài ra còn có thể do trong quá trình mài nanh ở lợn con sơ sinh chưa tốt, trong quá trình lợn con bú sữa gây tổn thương đầu núm vú lợn mẹ. 4.8. Công tác khác Ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn và tiến hành thực hiện đề tài tốt nghiệp, em còn tham gia một số công việc như: đỡ đẻ cho lợn nái, thiến lợ n đực, mài nanh, bấm tai lợn con. Ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn và tiến hành nghiên cứu nghiên cứu khoa học, em còn tham gia một số công việc sau: - Trực và đỡ đẻ cho lợn: Trước khi đỡ đẻ chuẩn bị 2 xô nước sạch, thảm, khăn lau, ổ úm lợn con, máy bấm nanh, panh kẹp, kéo, bông cồn, xilanh, thuốc oxytocine, dây buộc rốn, bột khô, vỏ bao cám (để kê vào mông lợn để đảm bảo vệ sinh cho lợn con và nhau k bị rơi xuống hầm). Em đã tham gia đỡ đẻ 57 ca, các ca đều đạt về số lượng lợn con sơ sinh an toàn. Khi lợn con đẻ ra dùng khăn lau sạch nhớt ở mũi, miệng, toàn thân, thắt rốn, buộc rốn từ gốc rốn đến chỗ buộc cách 2 đốt ngón tay, từ chỗ buộc đến chỗ cắt cách 1 đốt ngón tay (để đảm bảo an toàn vẹ sinh cho lợn con), sau đó dùng cồn sát trùng vị trí cắt rốn và xung quanh gốc rốn xong giáp bột khô vào lợn con. Cho lợn con nằm sưởi dưới bóng điện hồng ngoại 30 phút sau đó cho lợn con bú sớm sữa đầu.
- Sau khi lợn nái đẻ xong tiêm oxytocine: 2ml/con nhằm co bóp đẩy hết dịch bẩn ra ngoài và tiêm kháng sinh vetrimoxin: 1ml/10kgTT/con/ngày nhằm mục đích phòng bệnh viêm tử cung. - Xuất bán lợn con cho các trang trại hay hộ chăn nuôi cần giống tốt để chăn nuôi nhanh đạt hiệu quả. Em đã tham gia xuất bán 5110 con, đạt 100%. - Chăm sóc lợn con: Lợn con sau khi sinh ra, ngoài các công việc như lau khô, cắt rốn, giáp bột khô, bấm nanh, cắt đuôi, bấm số tai, cho bú sữa đầu, cần luôn luôn giữ nhiệt độ ổn định phù hợp với lợn con. Sau khi đẻ 1 ngày thì tiêm chế phẩm của sắt, sau 3 ngày đẻ thì nhỏ thuốc phòng tiêu chảy và hô hấp, 5-10 ngày tuổi thì bắt đầu cho lợn tập ăn bằng thức ăn dùng tập ăn cho lợn con. Chúng em đổ thức ăn vào máng chuyên dụng cho lợn ăn tự do suốt ngày đêm mức cho ăn là 10g/con/ngày.
- Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, em đã theo dõi và thực hiện một số công việc sau: - Về tình hình chăn nuôi của trại: + Quy mô đàn tính đến tháng 5/2019 là 996 lợn nái, 100 lợn hậu bị, 8.124 lợn con. + Chăm sóc, nuôi dưỡng cho 126 lợn nái, lợn nái đẻ trung bình 11,72 con/nái/lứa. + Chăm sóc, nuôi dưỡng 1477 lợn con, số con còn sống đến cai sữa là 1435 con. - Về công tác phòng bệnh : + Thực hiện được 123 lần vệ sinh chuồng (đạt tỷ lệ 68,33 %) vệ sinh chuồng và 43 lần rắc vôi bột đường đi (đạt tỷ lệ 71,67 %), 61 lần phun sát trùng định kỳ xung quanh chuồng (đạt 69,32 %) + Thực hiện tiêm phòng các loại vắc xin suyễn Mycoplasma, chế phẩm sắt Fe - Dextran - B12, thuốc phòng trị cầu trùng toltrazuril cho lợn con; vắc xin Cerco, dịch tả lợn, tai xanh, vắc xin viêm phổi dính sườn cho đàn lợn sau cai sữa đến 8 tuần tuổi. - Về công tác chẩn đoán, điều trị bệnh: + Số lợn nái điều trị khỏi tại trang trại mắc các bệnh viêm tử cung 3 con, viêm vú 5 con. + Số lợn con điều trị khỏi tại trang trại mắc các bệnh viêm phổi 80 con, tiêu chảy 150 con. - Ngoài ra: Thực hiện đỡ đẻ 57 con, bấm tai, mài nanh, cắt đuôi 724 con. 5.2. Đề nghị Xuất phát từ thực tế của trại, qua phân tích đánh giá bằng hiểu biết của mình, em có một số ý kiến nhằm nâng cao hoạt động của trại như sau:
- - Trại lợn cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái để giảm tỷ lệ lợn nái mắc bệnh. - Đầu tư nâng cấp thêm về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, dụng cụ thú y. - Tăng cường công tác chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý, thực hiện tốt công tác vệ sinh thú y. - Cần nâng cao tay nghề cho đội ngũ kỹ thuật của trại cũng như là công nhân tại trại nhằm nâng cao chất lượng phục vụ sản xuất. - Đưa khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, cố gắng thực hiện tốt mục tiêu và phương hướng đã đề ra.
- MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Một số hinh ảnh thuốc và vắc xin sử dụng tại trại