Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai

pdf 78 trang thiennha21 19/04/2022 2510
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_tri_thuc_ban_dia_su_dung_cay_thuoc_tai.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THỊ THANH Tên đề tài: NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ Y TÝ, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Quản lý Tài nguyên rừng Khoa : Lâm Nghiệp Khóa học : 2015 - 2019 Thái Nguyên - 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THỊ THANH Tên đề tài: NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ Y TÝ, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Quản lý Tài nguyên rừng Lớp : K47 - QLTNR Khoa : Lâm Nghiệp Khóa học : 2015 - 2019 Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Thu Hiền Thái Nguyên – 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là quá trình điều tra trên thực địa hoàn toàn trung thực, khách quan, chưa công bố trên tài liệu nào. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên. Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019 Người viết cam đoan Hoàng Thị Thanh
  4. ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các thấy giáo, cô giáo trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đặc biệt là các thấy giáo, cô giáo của khoa Lâm Nghiệp đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu và bổ ích trong suốt những năm học vừa qua cũng như trong quá trình em đi thực tập tốt nghiệp. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Thu Hiền đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn UBND xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, và cán bộ Chi cục Kiểm lâm huyện Bát Xát, cùng sự chỉ bảo tận tình của các thấy lang, bà mế thuộc xã Y Tý. Em xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đến toàn thể gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình học tập cũng như trong thời gian thực tập tốt nghiệp. Trong quá trình thực tập và tổng hợp báo cáo do em chưa có được nhiều kinh nghiệm nên Khóa luận tốt nghiệp của em không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Em kính mong được sự góp ý hoàn thiện của Quý thấy cô. Em xin trân trọng cảm ơn ! Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019 Sinh viên HOÀNG THỊ THANH
  5. iii DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu 24 Bảng 4.1: Số loài cây thuốc đã phát hiện được ở khu vực nghiên cứu 29 Bảng 4.2 Số lượng họ, chi, loài thuộc 2 lớp trong ngành Ngọc Lan 30 Bảng 4.3 Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ 31 Bảng 4.4: So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số họ của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) 32 Bảng 4.5. Thống kê các chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc 33 Bảng 4.6 Sự đa dạng về dạng sống của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 34 Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu 37 Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở khu vực nghiên cứu 40 Bảng 4.9. Đa dạng các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc của trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì 41 Bảng 4.10. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì 43 Bảng 4.11. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể 44 Bảng 4.12 . Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Lạc tiên và cây Lá gan 48
  6. iv DANH MỤC HÌNH Hình 2.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài 25 Hình 4.1. tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây ở khu vực nghiên cứu 35 Hình 4.2. Hình ảnh một số dạng sống của nguồn cây thuốc tại khu vực nghiên cứu 36 Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 39 Hình 4.4. Hoạt tính ức chế S. aureus và E. coli của cây Lạc tiên và cây Lá gan 49
  7. v MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC BẢNG iii DANH MỤC HÌNH iv Phần 1 MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 3 1.3. Ý nghĩa của đề tài 3 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học 3 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3 PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4 2.1. Cơ sở thực hiện đề tài 4 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 5 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới 5 2.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam 11 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 18 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 18 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 21 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22 3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu 22 3.2. Nội dung nghiên cứu 22 3.3. Phương pháp nghiên cứu 23 3.3.1. Phương pháp kế thừa 23 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng 23 3.3.3. Phương pháp thu mẫu 25
  8. vi 3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc 26 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp 26 3.3.6. Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn 26 PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29 4.1. Đa dạng nguồn cây thuốc sử dụng trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện Bát xát, tỉnh Lào Cai 29 4.1.1. Đa dạng các bậc taxno 29 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc 34 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc 37 4.1.4. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Y Tý 39 4.2. Đánh giá tình hính sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý. 41 4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc 41 4.2.2 Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc 44 4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì khu vực nghiên cứu 47 PHẦN 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 50 5.1. Kết luận 50 5.2. Tồn tại 51 5.3. Kiến nghị 51 PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  9. vii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ đầy đủ Cc Cả cây Đ Sống ở đồi HTKK Hoạt tính kháng khuẩn KVNC Khu vực nghiên cứu KH&CN Khoa học & công nghệ L Lá Lp Dây leo Me Cây gỗ trung bình Mi Cây gỗ nhỏ Na Cây bụi NCTN&MT Nghiên cứu và tài nguyên và môi trường NĐ – CP Nghị định Chính phủ Pp Kí sinh và bán kí sinh Q Quả, hoa R Rễ R Sống ở rừng ST&TNSV Sinh thái và tài nguyên sinh vật Th Thân thảo/thân UBND Ủy ban nhân dân V Vỏ Vs Sống ven sông ven suối Vu Sống ở vườn
  10. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Cây thuốc dân gian từ lâu đã được nhiều người quan tâm đến đây là nguồn tài nguyên thực vật có giá trị thiết thực cho các cộng đồng địa phương trong việc phòng chữa bệnh, ngoài ra nó còn có giá trị trong việc bảo tồn nguồn gen, cung cấp cho lĩnh vực dược học. Cho đến nay Việt Nam vẫn được đánh giá là nước có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng và phong phú, trong đó có tài nguyên cây thuốc, đặc biệt là khu vực Trường Sơn. Thêm vào đó với những kinh nghiệm đã được tích lũy qua 4000 năm lịch sử, đã sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ cho nhu cầu cuộc sống từ ăn, mặc, ở, chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh vv của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Đó là một ưu thế lớn trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thực vật trong đó có nguồn tài nguyên cây thuốc góp phần nâng cao đời sống và sức khỏe của mọi người đặc biệt là các đồng bào Dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa nơi cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên thiên nhiên trong đó có rừng. Theo các nhà phân loại thực vật ở Việt Nam giàu tài nguyên thực vật nhất Đông Nam Á, nơi có khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao. Trong đó có 3.948 loài được dùng làm thuốc (Viện Dược liệu, 2004) [8] chiếm khoảng 37% số loài đã biết. Đó chưa kể đến những cây thuốc gia truyền của 54 dân tộc thiểu số Việt Nam, cho đến nay chúng ta chỉ mới biết được có một phần. Ngoài ra các nhà khoa học Nông Nghiệp đã thống kê được 1.066 loài cây trồng trong đó cũng có 179 loài cây sử dụng làm thuốc. Theo kết quả điều tra của viện dược liệu trong thời gian 2002 – 2005 số loài cây thuốc ở một số vùng trọng điểm thuộc các tỉnh gắn với dãy Trường Sơn như sau: Đắc Lắc (751 loài), Gia Lai (783 loài), Kon Tum (814 loài), Lâm Đồng (756 loài).
  11. 2 Với hệ thực vật như vậy, thành phần các loài cây thuốc hết sức phong phú và đa dạng. Cây thuốc dân gian từ lâu đã được nhiều người quan tâm đến đây là nguồn tài nguyên thực vật có giá trị thiết thực cho các cộng đồng địa phương trong việc phòng chữa bệnh, ngoài ra nó còn có giá trị trong việc bảo tồn nguồn gen, cung cấp cho lĩnh vực dược học. Dân tộc Hà Nhì là một trong những dân tộc thiểu số ít người. Nguồn kiến thức bản địa của họ vô cùng quý giá, nhất là nguồn kiến thức về các loài thực vật được sử dụng làm dược liệu. Kho kiến thức của họ về dược liệu được đúc kết qua rất nhiều thế hệ và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Nguồn kiến thức này chưa được khoa học công nhận nhưng qua việc sử dụng và kiểm nghiệm trên thực tế đã được người dân sử dụng một cách có hiệu quả và tốt hơn cả mong đợi. Bằng chứng là bao đời nay họ đã sử dụng chúng để chữa bệnh cho cộng đồng, các bài thuốc Đông Nam đều được chế biến từ các loài cây dược liệu có nguồn gốc từ rừng tự nhiên. Những kinh nghiệm quý báu, công thức pha chế, cách sử dụng cây cỏ tự nhiên làm thuốc đã được lưu truyền và tích luỹ qua nhiều thế hệ. Các ông lang, bà mế của đồng bào các dân tộc miền núi nước ta đã tích luỹ nhiều đời tạo nên nhiều bài thuốc dân gian quý giá lấy từ cây cỏ. Những kiến thức này chủ yếu được người dân truyền miệng, truyền từ đời này sang đời khác. Vấn đề đặt ra là làm thế nào có thể ghi nhận và gìn giữ vốn kiến thức qúy báu trong việc trong việc sử dụng cây thuốc, bài thuốc đồng thời làm sao để việc khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì đạt một cách hiệu và bền vững. Xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên và được sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường, ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”.
  12. 3 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài - Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. - Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai sử dụng trong phòng và trị bệnh. - Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện có ở khu vực nghiên cứu. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học - Xác định tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. - Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của loài cây thuốc có giá trị cao tại khu vực nghiên cứu. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
  13. 4 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở thực hiện đề tài Tri thức bao gồm sự hiểu biết về sự vật, hiện tượng của thế giới tự nhiên xung quanh con người. Hệ thống tri thức là sản phẩm trí tuệ của loài người được tích lũy từ những kinh nghiệm của quá trình lao động sản xuất thực tiễn trong cuộc sống hàng ngày. Hệ thống tri thức này hình thành trong thời gian dài lịch sử, tồn tại và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội qua sự trải nghiệm của nhân dân lao động. Vậy tri thức bản địa là gì? Theo định nghĩa chung của tổ chức Di sản văn hóa thế giới (UNESCO), tri thức bản địa là tri thức hoàn thiện được duy trì, tồn tại và phát triển trong một thời gian dài với sự tương tác qua lại gần gũi giữa con người với môi trường tự nhiên nó được truyền miệng từ đời này sang đời khác và rất ít khi được ghi chép lại. Tri thức bản địa là tri thức được tạo ra bởi một nhóm người qua nhiều thế hệ sống và quan hệ chặt chẽ với thiên nhiên trong một vùng nhất định. Tri thức bản địa là nguồn tài nguyên quốc gia giúp ích rất nhiều cho quá trình phát triển theo những phương sách ít tốn kém, có sự tham gia của người dân và đạt được sự bền vững. Các dự án phát triển dựa trên cơ sở tri thức bản địa sẽ lôi kéo được nhiều người dân tham gia, vì nó hợp với suy nghĩ của nhân dân, dân biết phải làm gì và làm như thế nào. Đó chính là cơ sở của sự thành công. Đặc điểm quan trọng của tri thức bản địa là luôn thích ứng với sự thay đổi của môi trường, các cộng đồng cư dân địa phương luôn có ý thức bản địa hóa những du nhập từ bên ngoài có lợi và thích hợp với cộng đồng. Trước đây người ta khái niệm lâm sản chủ yếu là gỗ, ít quan tâm đến các thành phần khác gỗ. Ngày nay, trong các chiến lược phát triển bền vững của các dự án lâm nghiệp xã hội, nông lâm kết hợp người ta đã chú ý nhiều đến
  14. 5 các lâm sản khác ngoài gỗ. Và có khái niệm cơ bản về Lâm sản ngoài gỗ là bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh học và các dịch vụ thu được từ rừng hoặc từ bất kỳ vùng đất nào có kiểu sử dụng đất tương tự, loại trừ gỗ ở tất cả các hình thái của nó. Các loài cây thuốc đa phần là các sản phẩm Lâm sản ngoài gỗ thuộc một phần của tài nguyên thực vật. Tài nguyên thực vật là tổng hợp của sinh quyển trong một loạt các thảm thực vật. Tài nguyên thực vật như là các nhà sản xuất chính, để duy trì chu kỳ dinh dưỡng sinh quyển và cơ sở dòng năng lượng trên trái đất. Tài nguyên thực vật giữ một vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của con người nói riêng và sinh vật nói chung. Nhưng trong thời gian vừa qua tài nguyên này đã bị suy thoái nghiêm trọng do sự tác động tiêu cực của con người, chính vì vậy, gần đây Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương, đường lối mới như: Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật đất đai năm 2013, Luật đa dạng sinh học năm 2008, Nghị định 32 của Chính phủ năm 2010, cùng với hàng loạt các văn bản khác đã ra đời nhằm bảo vệ và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lí. Đây là một cơ sở pháp lí quan trọng để thực hiện thành công đề tài tri thức bản về khai thác và sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì ở xã Y Tý 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới Trên thế giới, nhiều nước đã sử dụng nguồn Lâm sản ngoài gỗ để làm thuốc, họ đã sớm phát hiện những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, các nước đã có các đề tài nghiên cứu về thuốc và họ cũng đã sử dụng nhiều nguồn tài nguyên này để xuất khẩu làm dược liệu và thu được một nguồn tài chính khá lớn. Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên Thế giới:
  15. 6 Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như: “Nghiên cứu việc sử dụng truyền thống cây thuốc giữa các cộng đồng của vùng Manju Panghal và cộng sự (2010) khi nghiên cứu kiến thức bản địa về cây thuốc được sử dụng ở cộng đồng Saperas của làng Khetawas, quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã tìm thấy 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên cứu này cây thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ Fabaceae [10]. Arshad Abbasi và cộng sự (2013) khi thẩm định về thực vật học và các giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học của Lesser dãy Hymalaya đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38 chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và tiêu thụ [34]. Mi-Jang Song và cộng sự (2013) khảo sát cây thuốc ở đảo Jeju, Hàn Quốc đã tìm thấy 171 loài thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, 777 cách sử dụng các loài cây thuốc của người dân bản địa được ghi lại [54]. Auemporn Junsongduang và cộng sự (2013) nghiên cứu về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã chỉ ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng nhiều nhất [35]. Homervergel G. Ong và Young - Dong Kim (2014) nghiên cứu về thực vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản địa Ati
  16. 7 Negrito ở đảo Guimaras, Philippin đã tìm thấy 142 loài cây dược liệu thuộc 55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh [47]. Mi-Jang Song và cộng sự (2014) khi điều tra và phân tích các kiến thức truyền thống về cây thuốc được sử dụng bởi các cư dân tại Vườn quốc gia (VQG) Gayasan, Hàn Quốc đã điều tra và thống kê 200 loài thực vật thuộc 168 chi và 87 họ được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau như: rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết cắt vết thương [55]. Dol Luitel và cộng sự (2014) khi nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal đã tìm thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau [42] Ở châu Âu, những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân bản địa được thực hiện: “Một nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc trong công viên tự nhiên của Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự (2004) khi nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc trong công viên tự nhiên của Sera de Saox Mamede, Bồ Đào Nha đã cung cấp thông tin của 165 loài thực vật được sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [48]. Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ (Cassandra L. Quave và cộng sự 2012) [39]. Những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân bản địa được thực hiện: Maria Leporatti và cộng sự (2007) khi nghiên cứu về một số công dụng của cây thuốc trong khu vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền Nam nước Ý đã chỉ ra 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử dụng
  17. 8 để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da, bệnh về đường hô hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp [50]. Maria Leporatti và Kamel Gheddira (2009) khi phân tích so sánh các cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền tại Ý và Tunisia đã ghi nhận 153 loài thực vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị các bệnh khác nhau [51]. Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) nghiên cứu về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo đã ghi nhận 98 loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae [37]. Gorka Menedez-Baceta và cộng sự (2014) nghiên cứu về cây dược liệu truyền thống được sử dụng ở phía Tây Bắc của xứ Basque, bán đảo Iberia đã chỉ ra 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng để điều trị bệnh, trong đó các cây được sử sụng nhiều nhất thuộc họ Asteraceae [46]. Cecilia Almeida và cộng sự (2006) nghiên cứu cây thuốc phổ biến được sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần [40]. Gabriele Volpato và cộng sự (2009) nghiên cứu sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra 123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [44] Gaia Luziatelli và cộng sự, (2010) khi nghiên cứu cây thuốc của cộng đồng Ashaninka, một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki, Junin, Peru đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu
  18. 9 thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae [45]. Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón và cộng sự, 2014) [43]. Ở châu Phi, nhiều nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của Người dân đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú: Theo nghiên cứu của David J. Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc, Cameroon”, đã xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae (David J. Simbo, 2010) [40]. “Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cộng sự, 2011) [33]. “Nghiên cứu cây thuốc của Otwal và Ngãi ở quận Oyam, Bắc Uganda”, đã chỉ ra 71 loài thực vật thuộc 41 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae (Maud M. Kamatenesi và cộng sự, 2011) [52]. Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển Agnalazaha Đông Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi
  19. 10 nhận 8 loài được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan đến tình dục như bệnh lậu và giang mai (Mendrika Razafindraibe và cộng sự, 2013) [53]. Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng đồng dân tộc thiểu số Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cộng sự, 2014) [38]. Kết quả nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền bởi những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia, đã thống kê được 49 loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [36]. Ở châu Úc: Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được thực hiện ở châu Úc còn rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales, Australia, đã ghi nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị các bệnh (Joanne Packera và cộng sự, 2012) [49]. Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú. Vậy để, phục vụ cho mục đích chăm sóc bảo vệ sức khỏe con người và để chồng lại các bệnh nan y là vấn đề thực sự cần thiết của các nhà khoa học, các nhà y học cổ truyền. Có thể thấy việc điều tra và nghiên cứu các loài cây thuốc của các nhà khoa học, để lại những công trình nghiên cứu mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú.
  20. 11 2.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam Ở Việt Nam, phong tục tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu đời. Hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật. Ngay từ những buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thủy, trong quá trình tìm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra công dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng ta đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [27]. Thế kỷ thứ XI (TCN), nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm miệng, uống nước chè xanh cho mát, nụ vối cho dễ tiêu, điều đó nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Từ thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã biết nấu rượu, biết dùng Thủy ngân để ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ đã biết chữa bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [27]. Thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông bị điên được lương y Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm nước Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [27]. Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên trồng và bán các loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện Dược liệu, 1993) [30].
  21. 12 Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tôn trọng, gọi là “Ông thánh thuốc Nam”. Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không lấy tiền và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt dùng thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Thời kỳ nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện, có lương y chăm lo việc chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt phòng và chống dịch bệnh cho nhân dân. Trong giai đoạn này có làng thuốc ở thôn Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [27]. Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791) đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh dương an toàn trạch” gọi tắt là “Lãn Ông Y Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008) [25]. Suốt 30 năm của cuộc dời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị và dược liệu. Ngoài các bộ sách trên, còn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm” của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang
  22. 13 thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam dược” với 590 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [27]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh, là những danh y nổi tiếng thời này, đã góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về phương thuốc dân gian. Trong thời Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số hoạt động như: thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng chữa bệnh, tổ chức triển lãm y học cổ truyền, (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [27]. Đến đầu thế kỷ XX, đã cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người Việt góp công nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược tính hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc. Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210 TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau: “Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có
  23. 14 giá trị, phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ Văn Chi, 1996) [7]. Vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ sách “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên soạn năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập. Trong đó, tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam (Nguyễn Tập, 2007) [21]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và trrong những năm từ 1959 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các loài cây thuốc trong các công trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản nhiều lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm 2003. Lần tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của tác giả nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [16]. Bộ sách của tác giả đã mang lại giá trị khoa học và giá trị thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại. Trong những năm này, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm Hoàng Hộ, 2006); Trần Đình Lý với cuốn “1900 loài cây có ích” năm 1995, đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [16]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Võ Văn Chi là một nhà thực vật
  24. 15 lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu về các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự 2006) [11]. Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [11]. Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [18]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [3] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [4]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược” (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [11]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [15]; “Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cộng sự, (2000) [22] đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến, Đồng thời, có nhiều công trình nghiên cứu về cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng Quang Châu (2011) [5] đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau; Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải (2003) [6] khi điều tra các loài cây của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ. Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương Lưu Đàm Cư và cộng sự, (2004) [10] khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng: cây lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu,
  25. 16 cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H’Mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc. Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [26] đã xây dựng các mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 năm 2011 tại Hà Nội, đã có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài cây thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam được công bố như: một số kết quả nghiên cứu “Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến (2011) [13] đã chỉ ra 65 loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường sử dụng làm thuốc chữa bệnh về thận; “Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận, (2011) [17] đã thu được 35 loài thuộc 27 chi, 21 họ của 2 ngành thực vật bậc cao được sử dụng làm thuốc chữa bệnh thay thế mật gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên; “Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã (2011) [20] đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. “Tri thức sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, Huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Dương Văn Hưng đã điều tra thống kê được 149 loài thực vật thuộc 137 chi, 74 họ được cộng đồng 2 dân tộc Tày và Sán Chí sử dụng làm thuốc, (Dương Văn Hưng, 2018) Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, [31]. Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã thu
  26. 17 được 183 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Dương xỉ có 2 loài thuộc 2 họ và 2 chi. Thuộc ngành Nấm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, Thuộc ngành Mộc Lan có 180 loài thuộc 156 chi và 87 họ có công dụng làm thuốc chữa bệnh, (Vàng A Lả, 2018) [1] Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. Kết quả “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”của Nông Thái Hòa đã điều tra và thống kê được 137 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 129 chi, 72 họ được cộng động 2 dân tộc Dao và Nùng sử dụng làm thuốc để chữa các bệnh khác nhau, (Nông Thái Hòa, 2018) [29] Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. Việt Nam là một nước có tài nguyên rừng rất đa dạng và phong phú nhưng vì ở trong những khu rừng hay gần rừng lại thường tập trung nhiều thành phần dân tộc sinh sống, có nhiều nền văn hóa đặc sắc khác nhau, kiến thức bản địa trong việc sử dụng cây làm thuốc cũng rất đa dạng và phong phú, mỗi dân tộc có các cây thuốc và bài thuốc riêng biệt, cách pha chế và sử dụng khác nhau. Nên hiện nay nguồn tài nguyên rừng của chúng ta đang bị giảm sút nghiêm trọng, kéo theo sự đa dạng sinh học cũng bị suy giảm trong đó có cả một số cây thuốc bản địa có giá trị chưa kịp nghiên cứu cũng đã mất dần, vậy việc nghiên cứu phát hiện và bảo tồn sử dụng tài nguyên cây thuốc bản địa là một việc rất cần thiết. Đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số, họ có những bài thuốc kinh nghiệm rất hay, đơn giản nhưng chữa bệnh lại hiệu quả rất cao. Lào cai cũng là một tỉnh tập trung nhiều dân tộc thiểu số sinh sống đặc biệt là. Huyện Bát Xát nơi có khá nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống trong rừng và gần rừng, trong đó có dân tộc Hà Nhì. Chính vì vậy, đây là một nơi lý tưởng cho nghiên cứu kiến thức bản địa về sử dụng tài nguyên cây thuốc, các bài thuốc dân gian từ thiên nhiên của cộng đồng dân tộc địa phương nơi đây.
  27. 18 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu * Vị trí địa lý - Phía đông giáp xã Trịnh Tường. - Phía nam giáp xã Dền Sáng, Sàng Ma Sáo. - Phía tây giáp nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa. - Phía bắc giáp xã Ngải Thầu Xã Y Tý có đủ điều kiện thuận lợi cho phát triển thành khu trung tâm cụm kinh tế quốc phòng trong tương lai. Tuy nhiên do vị trí cách xa trung tâm huyện nên gặp không ít khó khăn trong giao lưu kinh tế, văn hoá - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng. * Địa hình Địa hình xã Y Tý tương đối phức tạp, với các dãy núi cao, khe sâu tạo ra độ chia cắt mạnh, địa hình thấp dần về 2 phía đông nam và tây bắc. Điểm cao nhất có độ cao 2900 m, là đỉnh núi Nhìu Cồ San nằm trên ranh giới tiếp giáp với xã Sàng Ma Sáo và xã Dền sáng. Điểm thấp nhất là 844,6 m cạnh suối Lũng Pô giáp xã Ngải Thầu, độ cao trung bình từ 1000 - 1800m. - Độ dốc > 25o có diện tích 6442 ha chiếm 74,44 % diện tích tự nhiên. - Độ dốc từ 15 - 25o có diện tích 1800 ha chiếm 20,80 % diện tích tự nhiên. - Độ dốc từ 7 - 15o có diện tích là 400 ha chiếm 4,62 % diện tích tự nhiên - Độ dốc từ 3 - 7o có diện tích là 12,0 ha chiếm 0,14 % diện tích tự nhiên. * Khí hậu thời tiết Xã Y Tý nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng do ảnh hưởng của địa hình vùng núi cao, nên khí hậu của xã mang tính chất của khí hậu tiểu vùng cận nhiệt đới và ôn đới ẩm. - Nhiệt độ trung bình cả năm là 150C, năm cao nhất là 16,60C,năm nhiệt độ thấp nhất 14,30C
  28. 19 - Lượng mưa trung bình từ 1800 – 3838 mm - Nắng trung bình cả năm là 1344 giờ, năm cao nhất lên đến 1600 giờ. - Độ ẩm không khí bình quân hàng năm dao động từ 82% - 87 % tháng thấp nhất 74%, cao nhất trong năm 95 %. - Chế độ gió do nằm ở vùng núi cao nên không có bão lớn xảy ra nhưng thường xuyên chịu ảnh hưởng của gió núi. Hiện tượng mưa đá về mùa hè từ 2 - 4 lần/năm, vào mùa đông thường xảy ra sương muối 5 - 6 ngày/ năm, hiện tượng sương mù xảy ra khá phổ biến trong tất cả các mùa trong năm gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông, lâm nghiệp và đời sống con người. * Thuỷ văn Hệ thống suối, khe khá dày phân bố đều trên lãnh thổ, do ảnh hưởng của kiến tạo địa hình nên về mùa mưa thường gây ra lũ ống, lũ quét gây ảnh hưởng lớn tới sản xuất và đời sống dân sinh. - Suối chính chảy qua xã là suối Lũng Pô. - Suối Sim San bắt nguồn từ phía nam dãy núi Nhìu Cồ San. - Suối Sín Chải bắt nguồn từ dãy núi Phan Cán Sử, Mò Phú Chải. - Suối Lủng Pặc là nhánh nhỏ của suối Lũng Pô bắt nguồn từ dãy núi Ma Cheo Va. - Suối Tùng Sáng chảy trong địa phận xã khoảng 6,5 km theo hướng Đông bắc. Ngoài ra là các khe suối nhỏ khác tạo nên mạng lưới thủy văn khá dày phân bố đều trên địa bàn xã. * Tài nguyên rừng Nguồn tài nguyên rừng tuy phong phú về chủng loại nhưng chất lượng rừng còn hạn chế, do hậu quả của quá trình canh tác lạc hậu, khai thác chặt phá bừa bãi và chiến tranh biên giới trước đây để lại. Theo kết kiểm kê năm 2018 diện tích rừng của xã là: 5720,84 ha, chiếm 66,49% Diện tích tự nhiên,
  29. 20 trong đó: Đất rừng sản xuất là 2261,53 ha, chiếm 26,28% Diện tích tự nhiên. Đất rừng phòng hộ là 1091,11 ha, chiếm 12,68% Diện tích tự nhiên, * Tài nguyên nhân văn Là xã có 4 dân tộc anh em cùng định cư, sinh sống lâu đời. Các nét văn hóa riêng mang đậm bản sắc dân tộc như lễ "tết nhảy" của người Dao, lễ hội "xuống đồng" của người Hà Nhì, lễ hội" gàu tào" của người H” Mông. * Tài nguyên nhân lực Theo số liệu được điều tra đầu năm 2018 toàn xã có 930 hộ, 5170 nhân khẩu, gồm 4 dân tộc sinh sống ở 14 thôn bản. Trong đó có 2793/3073 lao động trong độ tuổi, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2009 là 2,1 %, trong tổng số 930 hộ có 905 hộ làm nông nghiệp; còn 25 hộ phi nông nghiệp * Tài nguyên Môi trường Y Tý là xã được đánh giá có điều kiện về cảnh quan - môi trường và hệ sinh thái (rừng nguyên sinh, thứ sinh) đa dạng và phong phú. Một thời gian bị nghèo kiệt do buông lỏng quản lý thời gian trước đây nay đã được nhân dân trồng, chăm sóc khoanh nuôi tăng dần diện tích đất rừng qua từng năm. * Đại chất, thổ nhưỡng Theo báo cáo tổng kết của UBND xã Y Tý năm (2018) [32] Xã Y Tý có tổng diện tích tự nhiên là: 860,78 ha, trong đó nhóm đất nông nghiệp 6650,18 ha, nhóm đất phi nông nghiệp 226,80 ha, đất chưa sử dụng 1725,81 ha. Kết quả điều tra về thổ nhưỡng do trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc gia thuộc địa bàn xã Y Tý cho thấy có các nhóm đất chính sau: + Đất mùn Alít trên núi cao chiếm 11,65 % diện tích tự nhiên - Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi cao chiếm 81,79 % diện tích tự nhiên. + Đất mùn đỏ vàng trên đá sét (HFs) diện tích 2561 ha. + Đất mùn vàng đỏ trên đá biến chất (HFj) diện tích 4517.51 ha.
  30. 21 - Nhóm đất đỏ vàng chiếm 0,3 % diện tích tự nhiên. - Đất thung lũng dốc tụ (DI) chiếm 0,38 % diện tích tự nhiên. - Đất phù sa ngòi, suối (Py) chiếm 0,02 % diện tích tự nhiên. - Núi đá: Diện tích 506,56 ha chiếm 5,86 % tổng diện tích tự nhiên. Phân bố chủ yếu ở các dãy núi phía Bắc và phía Tây nam xã. 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu - Dân cư, dân tộc Y Tý là một xã có 4 dân tộc anh em có Hà Nhì, Dao, H’Mông ,Mông trong đó Hà Nhì chiếm 60% cùng định cư, sinh sống lâu đời.Theo số liệu được điều tra đầu năm 2018 toàn xã có 930 hộ, 5170 nhân khẩu gốm 4 dân tộc sinh sống ở 14 thôn bản. Trong đó có 2793/3073 người trong độ tuổi lao động, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2009 là 2,1 %, trong tổng số 930 hộ có 905 hộ làm nông nghiệp; còn 25 hộ phi nông nghiệp. - Kinh tế Khu vực kinh tế nông nghiệp vẫn là ngành chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của xã y Tý trong những năm qua. Kế hoạch sản xuất vụ Đông năm 2018 kế hoạch trồng 64 ha rau đậu các loại đã thực hiện 64/64 ha (bắp cải 10, 20 ha rau ngắn ngày, đậu Hà Lan 12 ha, củ cải 10ha. su hào 02 ha, cải thảo 10 ha ) - Đời sống người dân: Đời sống nhân dân chủ yếu dựa vào làm rừng để phát triển kinh tế, trồng lúa và trồng các cây lương thực.
  31. 22 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: các loài thực vật được cộng đồng dân tộc tại xã Y Tý sử dụng làm chuốc chữa bệnh; kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. * Phạm vi nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: + Công tác điều tra thực địa được tiến hành, đối tượng cây thuốc được người dân tộc Hà Nhì và tri thức bản địa của đồng bào dân tộc Hà Nhì ở khu vực nghiên cứu tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. + Nghiên cứu thực nghiệm (xác định hoạt tính kháng khuẩn) được tiến hành tại phòng thí nghiệm Khoa Công nghệ sinh học - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 đến tháng 5/2019. - Nghiên cứu tri thức của cộng đồng dân tộc: Hà Nhì 3.2. Nội dung nghiên cứu * Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai: - Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi. - Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc. - Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc. - Xác định những cây thuốc quý thuộc diện cần bảo tồn: đánh giá mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu. * Đánh giá về tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì ở khu vực nghiên cứu: (i) đa dạng về bộ phận sử dụng; (ii) đa dạng về
  32. 23 cách chế biến cây thuốc; (iii) đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc. * Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được cộng đồng dân tộc thiểu số tại khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài thực hiện tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Để đạt được các kết quả gắn với các nội dung nghiên cứu trên, cách thức và giải pháp thực hiện ý tưởng bao gồm như sau: 3.3.1. Phương pháp kế thừa - Kế thừa những những tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở khu vực nghiên cứu và các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các ông lang, bà mế thuộc cộng đồng dân tộc thiểu số thiểu số ở khu vực nghiên cứu. 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng - Điều tra phỏng vấn thu thập cây thuốc: tại khu vực nghiên cứu, phỏng vấn các ông lang, bà mế, người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc và sử dụng các bài thuốc gia truyền của cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại địa bàn nghiên cứu. Điều tra phỏng vấn 20 người dân của dân tộc Hà Nhì trong đó có 4 thấy lang 5 bà mế và 11 người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc. Mẫu phiếu điều tra dựa theo: phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc gian dân (Viện Dược liệu, 1993) [30]. - Thu thập đầy đủ các thông tin cây thuốc gồm: tên phổ thông, tên dân tộc, số hiệu mẫu/ảnh cây thuốc; dạng sống; môi trường sống; bộ phận sử dụng làm thuốc (thân, rễ, hoa, quả, hạt); công dụng. Đồng thời ghi chép những đặc điểm dễ nhận biết của cây ngoài thiên nhiên, ghi rõ thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin. - Định danh tên cây: định danh loài cây theo các bước: (i) định danh tại thực địa; (ii) sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố giám định lại.
  33. 24 + Bước 1: xác định sơ bộ tên địa phương, tên thường gọi được thực hiện ngay ở lần điều tra đầu tiên. Đối với những loài chưa chắc chắn thì ghi chú để kiểm định lại ở bước sau. Các loài không biết tên cần phải lấy mẫu (lá, hoa, quả, ) và ghi vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2, để giám định. + Bước 2: tất cả các cây được thẩm định lại tên cây, lập danh mục cây thuốc bằng sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia về thực vật và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố gồm: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 1999) [14], Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 2012) [8], Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005) [19], Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006) [28]. Danh sách tên cây thuốc sẽ được hoàn thiện ở bước này. Bảng 2.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu Thời gian điều tra: Người điều tra: Địa điểm điều tra: Địa chỉ điều tra: Tên loài Môi Bộ Cách Số hiệu Dạng Công TT Phổ Địa Khoa trườn phận sử sử mẫu/ảnh cây dụng thông phương học g sống dụng dụng (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)
  34. 25 3.3.3. Phương pháp thu mẫu Tiến hành thu mẫu ở thực địa theo nguyên tắc và phương pháp thu mẫu theo Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [24]. Dụng cụ thu mẫu: bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, giây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép, máy theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [23]. Nguyên tắc thu mẫu: mỗi cây thuốc thu từ 3 – 10 mẫu và được gắn nhãn ghi rõ các thông tin về kí hiệu mẫu, thời gian, địa điểm và người thu mẫu (các mẫu cùng cây đánh số cùng một số hiệu mẫu). Mẫu thu thập sẽ được xử lý theo phương pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [24] như sau: + Bước 1: sau mỗi ngày thu mẫu, mẫu vật sẽ được mang về nơi ở, xếp mẫu ngay ngắn vào một tờ báo cỡ 28 x 42 cm, để mẫu ở trạng thái tự nhiên, có lá sấp – lá ngửa, vuốt cho thẳng mẫu và đeo etyket cho mẫu. + Bước 2: xếp khoảng 15 – 20 mẫu thành một chồng, dùng dây dứa buộc lại. + Bước 3: cho mẫu vào túi nilon và tẩm cồn cho chồng mẫu để bảo quản. Hình 2.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài
  35. 26 3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc Để đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Xã Y Tý Huyện Bát Xát Tỉnh Lào Cai đề tài sử dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [23]: - Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài. - Đa dạng về dạng sống: kí sinh, dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi. - Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối hoạc nơi ẩm ướt. - Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, nhựa, cả cây. - Đa dạng về cách chế biến cây thuốc: khô và tươi. - Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương, 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007) [2], Nghị định 32/2006/NĐ-CP (Chính phủ nước Việt Nam, 2006) [9], Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) [27]. 3.3.6. Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn - Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu, cây Lạc tiên và cây Lá gan vì do hai loài chưa có ai phân tích và thấy bà con sủ dụng nhiều Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 900C đến khối lượng không đổi. - Nguyên liệu sau khi sấy khô được nghiền trong máy xay đa năng loại ềutiếp theo. - Bước 2: Tạo cao chiết
  36. 27 Nguyên liệu được tách chiết theo phương pháp ngâm nóng. Nguyên liệu dạng bột khô được đem đi chiết với tỷ lệ 20g/100ml bằng dung môi methanol, sau đó cho vào máy lắc với tần số 200 vòng/phút (để các chất có hoạt tính sinh học tan đều trong dung môi) ở các điều kiện thời gian khác nhau (24h, 48h, 72h), sau đó tiến hành lọc qua giấy lọc, 80ml dịch lọc được đem đi cô đặc bằng máy cô quay (hoặc sấy khô) đến khi có khối lượng khô không đổi và được bảo quản ở 40C để sử dụng trong các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn. - Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn Sử dụng 2 chủng vi khuẩn gồm 1 chủng gram dương và 1 chủng gram âm E.coli (Escherichia coli), lấy từ phòng thí nghiệm Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. Bảo quản giống trên môi trường thạch nghiêng: vi sinh vật được hoạt hóa trong môi trường LB, sau đó được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng, nuôi 24 giờ ở 370C, giữ trong tủ lạnh để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. Cấy chuyển giữ giống trên thạch nghiêng định kỳ 2 tuần một lần. - Bước 4: Thử khả năng kháng khuẩn Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của các loại dịch chiết bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch, thí nghiệm được bố trí 3 lần nhắc lại trên 1 chủng vi khuẩn 3 đĩa petri trên 1 lần nhắc lại. Pha các cao chiết của toàn thân cây thuốc với nước ở nồng độ 100mg/ml sau đó dùng cao chiết của toàn thân cây đã pha để thử hoạt tính kháng khuẩn. Các thao tác được thực hiện trong tủ cấy vô trùng. Khi mật độ vi khuẩn đạt đến nồng độ 108 tế bào/ml, lắc đều ống nghiệm chứa vi khuẩn. Môi trường LB đã được hóa lỏng trong lò vi sóng, khi còn lỏng đổ đều môi trường vào các đĩa Petri, sau đó để nguội để môi trường đông đặc lại tạo thành mặt phẳng. Dùng micropipet hút 100μl dịch vi khuẩn vào giữa đĩa thạch chứa môi trường LB (Thành phần của môi trường LB là như sau (g/l): Peptone - 10;
  37. 28 Cao nấm men - 5; NaCl -10; pH: 7,0), dùng que cấy tam giác trang đều cho đến khi mặt thạch khô. Sau 15 phút đục giếng trên môi trường thạch với đường kính 6mm, đục 5 giếng, mỗi giếng cách nhau 2-3cm. Mỗi giếng thạch nhỏ 100μl các dịch chiết cần nghiên cứu bằng micropipet, sử dụng đối chứng dương là khang sinh Kanamicin và Akamicin với nồng độ 5mg/ml để so sánh, để các đĩa thạch trong tủ lạnh 30 phút để dịch chiết khuếch tán ra môi trường nuôi cấy vi khuẩn, sau đó nuôi cấy trong tủ ấm 370C, sau 24h mang ra đo kích thước vòng kháng khuẩn. Hoạt tính kháng khuẩn được xác định bằng cách đo kích thước vùng kháng khuẩn (BK) bằng công thức: BK=D-d, trong đó D là đường kính vòng kháng khuẩn, d là đường kính giếng thạch.
  38. 29 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Đa dạng nguồn cây thuốc sử dụng trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai 4.1.1. Đa dạng các bậc taxno 4.1.1.1. Đa dạng bậc Ngành, Lớp Kết quả điều tra, nghiên cứu cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Hà Nhì tại khu vực nghiên cứu đã tìm được 102 loài thực vật bậc cao có mạch được cộng đồng Hà Nhì sử dụng làm thuốc thuộc 90 chi, 52 họ và kết quả được tổng hợp trong bảng sau: Bảng 4.1: Số loài cây thuốc đã phát hiện được ở khu vực nghiên cứu TT Ngành thực vật Số họ Số chi Số loài Ngành Dương xỉ (Pteridophyta) 2 2 2 1 Lớp Dương xỉ (Polypodiopsida) 2 2 2 Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) 52 90 99 2 Lớp hai lá mầm (Magnoliopsida) 49 83 91 Lớp một lá mầm (Liliopsida) 3 7 8 3 Ngành Thạch tùng (Lpcopodiophyta) 1 1 1 Tổng 55 93 102 Kết quả bảng 4.1 cho thấy các loài cây thuốc chủ yếu thuộc nhóm thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) thu thập được 99 loài có công dụng làm (chiếm 94,54% tổng số loài), thuộc 90 chi (chiếm 96,77% tổng số chi) và 52 họ (chiếm 97,05% tổng số họ). Điều này có thể giải thích là hệ thực vật ở khu vực nghiên cứu bao gồm chủ yếu là các đại diện nằm trong ngành Ngọc lan. Chúng là những loài cây mọc phổ biến ở quanh thôn xóm, ở đồi, ven sông suối và rừng. Vì vậy, đây cũng là những loài mà người dân thường gặp, nên đã lựa chọn để làm thuốc nhiều hơn
  39. 30 các loài thực vật khác. Tuy nhiên hiện nay có một số cây cũng đã ít gặp ở khu vực nghiên cứu. Các loài trong ngành Ngọc lan chiếm vai trò đặc biệt quan trọng trong các loài được sử dụng làm thuốc và để phân tích sâu hơn về thành phần các bậc taxon trong hai lớp của ngành Ngọc lan là: lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) và lớp Một lá mầm (Liliopsida) được thể hiện qua số lượng và tỷ lệ phần trăm cụ thể trong bảng 4.2. Lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) có số họ, chi, loài được dung làm thuốc ưu thế hơn hẳn so với lớp Một lá mầm. Lớp Hai lá mầm có 91 loài, chiếm tỷ lệ 91,92%; 83 chi, chiếm tỷ lệ 92,22% và 49 họ chiếm tỷ lệ 94,23% so với tổng số loài, chi, họ trong ngành. Trong số này có các cây có giá trị như: Morinda officinalis How. (Ba kích) chữa xương khớp, Gynostemma pentaphylum. (Giảo cổ lam) chữa huyết áp cao, tim mạch, chống mệt mỏi, Cinnamomum iners Rienw. ex Blume.(Dây tiết dê) đau bụng, đau thắt lưng Bảng 4.2 Số lượng họ, chi, loài thuộc 2 lớp trong ngành Ngọc lan Họ Chi Loài Magnoliophyta Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ lượng % lượng % lượng % Magnoliopsida (lớp hai lá mầm) 49 94,23 83 92,22 91 91,92 Liliopsida (lớp một lá mầm) 3 5,77 7 7,78 8 8,08 Tổng 52 100 90 100 99 100 Dựa vào kết quả bảng 4.2 cho thấy lớp Một lá mầm (Liliopsida) chỉ có 8 loài chiếm tỷ lệ 8,08%; 7 chi chiếm tỷ lệ 7,78% và 3 họ chiếm tỷ lệ 5,77% so với tổng số loài, chi, họ trong ngành Ngọc lan. Tuy chiếm tỷ lệ không lớn, nhưng lớp này cũng có một số cây có giá trị như: Passiflora eberhardtii. (cây Lạc tiên) lợi tiểu, an thần, mất ngủ, mần ngứa. Dioscorea cirrhosa Lour.(Củ nâu) tiểu đường, thận, bổ phổi. Premna coymabosa (Burm.f et Willd) Vọng cách “là gan” chữa bệnh gan, u sơ gan, giải độc gan, giải rượu bia
  40. 31 Như vậy, chúng ta có thể thấy các loài cây trong ngành Ngọc lan, nhất là các loài thuộc lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) chiếm tỷ lệ lớn và đóng vai trò quan trọng trong các loài thực vật làm thuốc được đồng bào dân độc Hà Nhì ở tại địa phương sử dụng. 4.1.1.2. Đa dạng bậc họ Số lượng họ cây thuốc thu được ở khu vực nghiên cứu bao gồm 55 họ. Sự phân bố các họ trong các lớp như sau: Bảng 4.3 Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ > 10 1 2 3 4 5 6 7 8 9 loài và Ngành thực vật loài loài loài loài loài loài loài loài loài < 15 loài Pteridophyta 2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Polypodiopsida 2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Magnoliophyta 35 7 5 2 0 0 2 0 0 1 Magnoliopsida 34 7 4 1 0 0 2 0 0 1 Liliopsida 1 0 1 1 0 0 0 0 0 0 Lycopodiophyta 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Lycopodiophyta 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Tổng số họ 38 7 5 2 0 0 2 0 0 1 Tỷ lệ số họ/ tổng 69,09 12,73 9,09 3,64 0,00 0,00 3,64 0,00 0,00 1,82 số họ (%) Số loài 38 14 15 8 0 0 14 0 0 13 Tỷ lệ số loài/ tổng 37,25 13,73 14,71 7,84 0,00 0,00 13,73 0,00 0,00 12,75 số loài (%) Kết quả bảng 4.3 cho thấy, những ngành có loài tham gia trong các họ có số lượng trên 10 loài và dưới 15 loài chỉ có 1 họ Cúc (Asteraceae) với 13 loài chiếm 12,75% số loài so với tổng số loài và 1,82% số họ so với tổng số họ. Có 2 họ có 7 loài là họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) và họ Bạc hà (Lamiaceae), chiếm 13,73% số loài so với tổng số loài, 3,64% số họ so với số họ. Có 2 họ có 4 loài là họ Gừng (zingiberaceae) và họ Cà phê (Rubiaceae) chiếm 7,84% số loài so vởi tổng số loài, 3,64% số họ so với số họ, 1 họ được phân bố trong lớp 2 lá mầm và 1 họ được phân bố trong lớp 1 lá mầm của ngành Ngọc lan, Có 5 họ có 3 loài, chiếm 9,09% số họ so với tổng số họ, trong đó có 4 họ phần bố trong lớp Hai lá mầm và 1 họ phân bố trong lớp Một
  41. 32 lá mầm. Có 7 họ có 2 loài, chiếm 12,73% số họ so với tổng số họ, được phân bố trong lớp Hai lá mầm. Tuy nhiên, số họ có số lượng là một loài chiếm tỷ lệ cao nhất là 69,09%. Trong đó, chủ yếu tập chung ở trong ngành Ngọc lan và trong lớp Hai lá mầm có 34 cây thuốc. Điều này thể hiện sự đa dạng và các họ thực vật làm thuốc, nhưng số cá thể trong họ lại rất hạn chế. Trong quá trình điều tra, nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc ở đây, chung tôi đã thu được những loài cây thuốc nằm trong họ có nhiều loài nhất ở Việt Nam. Số lượng thống kê và so sánh được liệt kê ở bảng 4.4. Bảng 4.4: So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số họ của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) TT Họ nhiều loài 1 2 Tỷ lệ % giữa (1) và (2) 1 Poaceae - Họ Hòa thảo 3 610 0,49 2 Asteraceae - Họ Cúc 13 380 3,42 3 Euphorbiaceae - Họ Thầu dầu 7 477 1,47 4 Lamiaceae- Họ Bạc hà 7 157 4,46 5 Zingiberaceae - Họ Gừng 4 135 2,96 6 Rubiaceae- Họ Cà phê 4 492 0,81 (Chú thích: (2) theo Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội (2006).Danh lục các loài thực vật Việt nam. Nxb Nông nghiệp, Hà nội, tập 2 – 3 [21]. Theo kết quả Bảng 4.4 cho thấy, có 6 họ có nhiều loài được cộng đồng dân tộc Hà Nhì sử dụng làm thuốc phòng và chữa trị bệnh. Tỷ lệ số loài trong cùng một họ có nhiều loài được sử dụng làm thuốc tại khu vực nghiên cứu so với tổng số loài trong cùng họ đó có tại Việt Nam có sự chênh lệch rất lớn, cụ thể tỷ lệ của từng họ là: với họ có nhiều loài được sử dung làm thuốc nhất là họ Cúc (Asteraceae) chỉ chiếm tỷ lệ 3,42% (13/380) so với số loài trong cùng họ đó có tại Việt Nam; họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) và họ Bạc hà (Lamiaceae) cùng có 7 loài, chiếm tỷ lệ lần lượt là 1,45% (7/477) và 4,46
  42. 33 (7/157). họ Hòa thảo (Poaceae) chiếm tỷ lệ thấp nhất trong các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu là 0,49% (3/610). Như vậy, số loài được sử dụng làm thuốc còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với số lượng loài trong cùng một họ đó có tại Việt Nam, nên khả năng phát hiện ra thêm nhiều loài có thể sử dụng làm thuốc là rất lớn. 4.1.1.3. Đa dạng ở bậc chi Kết quả nghiên cứu về đa dạng bậc chi của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu được tổng hợp tại bảng 4.5. Bảng 4.5. Thống kê các chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc TT Chi có nhiều loài Thuộc họ Số lượng loài 1 Eupatorium Asteraceae- Họ Cúc 2 2 Amomum Zingiberaceae - Họ Gừng 2 3 Elsholtzia Lamiaceae- Họ Bạc hà 2 4 Phyllanthus Euphorbiaceae - Họ Thầu dầu 2 5 Litsea Laauceae- Họ Long não 2 Tổng 10 Kết quả thống kê ở bảng 4.5 cho thấy ở khu vực nghiên cứu có 5 chi có nhiều loài nhất là: Eupatorium, Amomum, Elsholtzia, Phyllanthus, Litsea (2 loài). Một số loài cây thuốc có giá trị phổ biến trong các chi này như: chi Eupatorium, có cây mần tưới (Eupatorium triplinerve Vahl) có tác dụng lợi tiểu, giảm sốt, chữa mụn đinh, cây Chó đẻ (Eupatorium odoratum L. có tác dụng cầm máu. Chi Amomum có cây Sa nhân (Amomum aculeatum Loxb) trị tiêu chảy, dùng để tắm, cây Thảo quả (Amomum aromaticum Roxb) giúp trị ho, cảm cúm. Chi Elsholtzia có cây Kinh giới (Elsholtzia ciliata (Thunb.) Hyland) chữa cảm cúm, dạ dày, cây Chùa dù (Elsholtzia blanda (Benth). Benth) làm thuốc tắm, giải cảm, trị mụn. Chi Phyllanthus có cây Chó đẻ răng cưa (Phyllanthus amarus schum) chữa thiếu máu, chữa bệnh về gan, giảm mệt mỏi.
  43. 34 Chi Litsea có cây Bời lời nhớt (Litsea glutinosa (Liou.) C.D robins) trị viêm ruột, tiêu chảy, mụn nhọt, cây Màng tang (Litsea cubeba (Lour.) pers) giúp giải rượu, chữa đau đầu. Như vậy, trong tổng số 93 chi thì số lượng chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc chỉ chiếm 5,38% (5/93) trong khu vực nghiên cứu. Còn lại chủ yếu là các chi có số lượng loài là 1 loài, chiếm một tỷ lệ cao với 94,62%. Điều này đã thể hiện sự phong phú trong việc sử dụng cây cỏ làm thuốc của đồng bào dân tộc Hà Nhì xã Y Tý bởi sự phân bố đồng đều các cây trong các chi, cũng như trong các họ cây thuốc. 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc Sự đa dạng về dạng sống của các loài thực vật làm thuốc tại khu vực nghiên cứu được thể hiện trong bảng 4.6 như sau: Bảng 4.6 Sự đa dạng về dạng sống của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu Gỗ Dạng sống Thân thảo Gỗ nhỏ Cây bụi Dây leo trung Gỗ lớn Tổng bình Số lượng 51 9 17 17 6 2 102 Tỷ lệ (%) 50 8,82 16,67 16,67 5,88 1,96 100 Bảng kết quả 4.6 cho thấy, phần lớn các cây thuốc được cộng đồng dân tộc Hà Nhì ở xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai sử dụng thân thảo, 51/102 chiếm 50% so với tổng số các loài cây thuốc thu được và tập trung chủ yếu trong họ Cúc (Asteraceae) dùng để chữa các bệnh như: chữa sỏi thận, đau lưng, viêm xoang, đau đầu, chữa lợi tiểu Có hai dạng sống cũng được sử dụng nhiều là cây bụi,17/102 chiếm 16,76%. Dạng cây này chủ yếu trong họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) dùng để chữa các bệnh như: chữa gan, mệt mọi, trị nấm ngoài ra, đau nhức xương khớp, viêm thận,viêm phổi, đun tắm, mụm nhọt, nấm ngoài ra
  44. 35 Tiếp đến sau cây bụi đền dây leo với 17/102 loài chiếm tỷ lệ 16,67%. Dạng cây này tập chủ yếu trong các họ Cà phê (Rubiaceae) được dùng để chữa các bệnh như: chữa xương khớp, chữa tiêu chảy, chữa huyết áp cao tim mạch, phong thấp, đau họng, ngoài ra còn có trong họ Nhót (Elaegnus bonii lecomte) dùng để chữa ho, lao phổi, đau họng, chữa thổ huyết Tiếp đến gỗ nhỏ với 9/120 loài, chiếm tỷ lệ 8,82% so với tổng số loài cây thuốc đại diện là họ Long não (Laauceae) dùng để chữa các bệnh như: chữa đau bụng, đau thắt lưng, viên ruột, tiểu chảy, mụn nhọt Tiếp đến cây gỗ trung bình có 6/102 loài chiếm tỷ lệ 5,88% dạng cây này tập chung chủ yếu lá các cây thuộc họ Trám (Burseraceae) và các loài cây thuộc họ Long não, họ Chè (Theaceae), họ Chua me đất (Oxalidaceae) họ Chùm ướt (Bignoniaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) được dùng để chữa các bệnh như: dạ dày,nầm ngoài ra, đau nhức xương khớp, viêm phổi, thoát vị đĩa đệm cột sống. Tiếp đến cây gỗ lớn có 2/102 loài chiếm tỷ lệ 1,96% so với tổng số loài cây thuốc tập trung trong họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) họ Xoan (Mliaceae) được dùng để tắm, trị ghẻ lở, chữa đau lưng, đây cũng là loài cây chiếm tỷ lệ thấp nhất. Hình 4.1. tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây ở khu vực nghiên cứu
  45. 36 Như vậy, các dạng sống chủ yếu của thực vật được sử dụng làm thuốc tại khu vực nghiên cứu là thân thảo, dây cây bụi và dây leo. Vì các dạng sống này mọc rất phổ biến quanh nhà. Quanh làng bản, rất rễ mọc và rễ trồng nên các dạng sống này cũng rất dễ thu hái để sử dụng. B. Dạng gỗ nhỏ A. Dạng sống dây leo (Lá gan - Premna coymabosa (Burm.f et Willd) (Lạc tiên - Passiflora eberhardtii) D. Dạng thảo C. Dạng thảo (Sa nhân - Amomum aculeatum Roxb) (Đương quy – Aradix Angelicae Sinensis) G. Dạng gỗ lớn E . Dạng thảo (Y dĩ - Coix lacryma) (Dâu da đất - Baccaurea sappida) Hình 4.2. Một số dạng sống của nguồn cây thuốc tại khu vực nghiên cứu
  46. 37 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc Để phục vụ cho công tác bảo tồn các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành đánh giá sự đa dạng về môi trường sống của các loài cây thuốc. Việc phân chia các loại môi trường sống được căn cứ vào địa hình, đất đai, khí hậu, nơi mà cây thuốc đó phát triển. Có các dạng môi trường sau: Sống ở đồi : Cây sống ở đồi, đồi hoang, trảng bụi, chân đồi. Sống ở vườn : Cây sống ở vườn, bờ ao, quanh làng bản. Sống ở rừng : Cây sống ở rừng rậm, rừng thứ sinh, ven rừng. Sống ở ven suối : Cây sống ở gần nơi nước chảy, ven khe suối, sông, nơi ẩm ướt, ven sông, ao. Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu TT Môi trường sống Số loài Tỷ lệ % 1 Sống ở vườn 42 41,18 2 Sống ở đồi 33 32,35 3 Sống ở rừng 20 19,61 4 Sống ở ven sông ven suối 7 6,86 Tổng 102 100 Kết quả bảng 4.7 cho thấy có 4 môi trường sống chính của cây thuốc ở khu vực nghiên cứu là: sống ở vườn, sống ở đồi, sống ở rừng và sống ở ven sông ven suối. Tỷ lệ số loài sống ở từng môi trường so với tổng số loài điều tra được: sống ở vườn với tỷ lệ 41,18% với 42 loài một số loài sống ở vướn như: Bông mã đề (plantago major L.) dùng để bổ máu, giải nhiệt, chữa mất ngủ, Khổ sâm cho lá, (Cronton tonkinensis Gagnep), dùng để trị đau dạ dày, đấy bụng khó tiêu, trị nấm ngoài da, Cỏ xước (Achyranthes aspera), để chữa quay bị, viêm màng tai, thấp khớp, Huyết dụ (Coridyline fruticosa) (L.) goepp, dùng để chữa chảy máu cam, ho ra máu, giảm đau, Lược vàng, (Callisia fragrans), dùng để trị ho, viêm khớp, Y dĩ (Coix
  47. 38 lacryma), trị viêm khớp, ung thư, Đương quy (Radix Angelicae Sinensis, dung để trị viêm khớp, bệnh ngoài da, Dây tiết dê (Cissampelis varhrsuta), dùng để chữa sốt xuất huyết, táo bón, Xạ can (Cissampelis varhrsuta). Dùng để chữa viêm họng, giải độc, Tiếp đến số lượng loài sống ở đồi có tỷ lệ 32,35% vời 33 loài một số loài như: cỏ Mầm trầu (Eleusine indica (L.) Gaertn, trị lợi tiểu, Bò khai (Erythropalum seandens Bume), dùng để chữa viêm thận, viêm gan, Hàm ếch (Symplocos racemosa).dùng để chữa dạ dày, lở loét, Roxb, Lạc tiên (Passiflora eberhardtii), chữa mất ngủ, Ba chạc trị ghẻ lở, (Euodia lepta). Tiếp đến số lượng loài cây sống ở rừng có tỷ lệ 19,61% với 20 loài có một số loài như: Khúc khắc ( Heterosmilaxgaudichaudiana (Kunth) dùng để đun uống, mát gan, giải nhiệt, Maxim, Sa nhân (Amomum aculeatum). Roxb dùng để tắm, trị tiêu chảy, Xuyên khung (Ligusticum wallichii Franch) để chữa đau xương khớp, Chuối hột rừng (Musa coccinea), trị bỏng, đun nước uống, giải độc gan, Chỉ có 7 loài sống ven sông, ven suối với tỷ lệ 6,86%. Có một số loài như: Cỏ tháp bút (Equisetum debile), dùng để chữa lợi tiểu, giúp thoát mô hôi, Roxb, Hy thêm (Sigesbeckia glabrescens) dùng để chữa thấp khớp, thanh nhiệt giải độc, Phèn đen (Phyllanthus reticu lantus Poir), trị viêm ngoài da, Như vậy, môi trường sống chủ yếu của cây thuốc ở vườn, với hơn nửa số loài điều tra được sống tại vườn. Người dân tại địa bàn nghiên cứu đã ý thức được giá trị, tầm quan trọng của cây thuốc khi đem cây thuốc khi đem cây thuốc về vườn nhà trồng, và cũng để thuận lợi cho việc thu hái cây thuốc. Tuy nhiên, số lượng cây thuốc sống trong rừng vẫn còn nhiều, nhưng theo người dân nơi đây cây thuốc tong rừng giớ rất khó tìm, phải vào sâu trong rừng tìm do hoạt động canh tác rừng, phá rừng làm rẫy, làm mất môi trường sống và do người dân khai thác tràn lan để bán vì mục đích kinh tế
  48. 39 trước mắt nên giảm đi số lượng của các loài cây thuốc cũng như mất đi môi trường sống của các loài cây thuốc nên rất khó tìm, thầy lang cần phải đi các huyện khác trong tỉnh để tìm kiếm, hoặc có khi phải mua vì không tìm được như loài Ba kích (Morindo officinalis How) sống ở dạng dây leo thuộc lớp Hai lá mầm ở ngành Ngọc lan có tác dụng chữa xương khớp đã được đưa vào phân hạng nguy cấp. Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 4.1.4. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Y Tý Kết quả nghiên cứu của đề tài đã xác định được các loài cây thuốc thuộc diện quý hiếm và cần bảo vệ tại bảng kết quả sau:
  49. 40 Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở khu vực nghiên cứu Cấp quy định Tên phổ TT Tên khoa học 32/NĐ- thông SĐVN DLĐCT CP EN A1c,d, 1 Ba kích Morinda officinalis How B1+2a,b,c Hà thủ Fallopia multiflora VU 2 ô đỏ (Thunb.) Haraldson A1a,c,d Tam thất Panax stipuleanatus Tsai CR A1c,d, 3 hoang & Feng B1+2b,c,e Ghi chú: SĐVN: Sách đỏ Việt Nam; EN – Nguy cấp – Endangered; 32/NĐ-CP; Nghị định 32 của chính phủ; VU – sắp nguy cấp – Vulnerable; DLĐCT: Danh lục đỏ cây thuốc: CR: Cực ký nguy cấp. Trong quá trình nghiên cứu và điều tra ta thấy có 3 loài thuộc dạng quý hiếm ở Việt Nam, đang bị đe dọa tuyệt chủng, thuộc 3 chi, 3 họ của 1 ngành thực vật bậc cao là ngành Ngọc lan (Magnoliophyta). Trong đó có 4 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam (2007) và 3 loài trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam. Dựa vào bảng trên cho ta thấy: - Cấp EN – Đang nguy cấp, có 3 loài: + Ba kích (Morinda officinalis How) thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), dùng để chữa xương khớp. + Hà thủ ô đỏ (Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson) thuộc họ Rau răm (Phlygonum chiensis L.) dùng để chữa đau lung, liệt nửa người, mất ngủ. + Tam thất hoang (Panax stipuleanatus Tsai & Feng) thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae) dùng để chữa rắn cắn. - Cấp VU – sắp nguy cấp, có 1 loài: + Hà thủ ô đỏ (Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson) thuộc họ Rau răm (Phlygonum Chiensis L.) dùng để chữa đau lung, liệt nửa người, mất ngủ. - Cấp CR- Cực ký nguy cấp, có 1 loài:
  50. 41 + Tam thất hoang (Panax stipuleanatus Tsai & Feng) thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae) dùng để chữa rắn cắn, Trong thời gian nghiên cứu và điều tra ở xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, tôi nhận thấy có 3 loài cây thuốc thuộc diện đang bị đe dạo, tuyệt chủng ở Việt Nam. Vì vậy, cần có những giải pháp phú hợp đề nâng cao ý thức của mỗi người về công tác bảo tồn các nguồn gen quý hiếm tại địa phương, để phục vụ cho quá trình chữa bệnh lâu dài của người dân nơi đây. 4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý 4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc Đa dạng về việc sử dụng các bộ phận khác nhau của cây để chữa bệnh của người dân tộc Hà Nhì ở khu vực nghiên cứu được tổng hợp tại bảng 4.9 Bảng 4.9. Đa dạng các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc của trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì TT Bộ phận sử dụng Số loài Tỷ lệ % 1 Cả cây 44 43,14 2 Lá 24 23,53 3 Rễ 8 7,84 4 Thân 7 6,86 5 Hạt 6 5,88 6 Quả 1 0,98 7 Củ 6 5,88 8 Vỏ 6 5,88 Tổng 102 100 (Chú thích): Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc) Từ bảng 4.9 cho thấy, số loài sử cả cây làm thuốc là nhiều nhất với 44 loài, chiếm tỷ lệ 43,14% trong tổng số loài thu được như: một số loài cỏ Mần trầu (Eleusine indica (L.) Gaertn, Bông mã đề (plantago major L.) Phen đen (Phyllanthus reticu lantus Loir), cỏ Xước (Achyranthes aspera), Chùa dù
  51. 42 (Elsholtzia blanda (Benth), Hoắc hương (Anisomeles indica (L.) Kuntze, Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphylum), Tam thất hoang (Panax stipuleanatus) Tsai & Feng Tiếp đến lá các cây thuốc sử dụng bộ phận lá để làm thuốc với số lượng 24 loài chiếm tỷ lệ 23,53% trong tổng số loài thu được như : một số loài Đại bi (Blumeabalsamifera (L.) dc, Cúc tần (Pluchea indica (L.) less, khổ sâm (Cronton tonkinensis Gagnep), với cây dùng rễ và thân để làm thuốc với số lượng 8 loài, chiếm 7,84% trong tổng số loài thu được như: Chó đẻ rang cưa (phyllanthus amarus Schum), Xuyên khung (Ligusticum wallichii Franch), Ba kích (Morindaofficinalis) How, Tiếp đến cây dùng thân là 7 loài với tỷ lệ 6,86% trong tổng số loài thu được như: Cỏ tháp bút(Equisetum debile). Roxb, Cúc áo hoa vàng (Spilanthes paniculata Wal) L. Ex DC, Máu chó (Knema globularia) với loài dung rễ. Việc sử dụng lá làm thuốc sẽ giúp cho cây thuốc được sử dụng lâu dài, không bị suy giảm và bảo vệ được cây thuốc, nhưng thu hái cả cây, lấy thân và rễ làm thuốc sẽ rất bất lợi trong công tác bảo tồn, khi số lượng loài lấy rễ cũng khá lớn. Tiếp đến 8 loài chiếm 7.84%. và cây sử dụng quả làm thuốc chỉ có 1 loài, chiếm tỷ lệ 0,89% so với tổng số loài thu được, đó là cây (Ké đầu ngựa) Xanthium strumarium L. có tác dụng viêm xoang, sỏi thận, trị mụn. Đồng thời, trong các bài thuốc của người dân tộc Hà Nhì nơi đây, việc sự dụng cả cây, thân và rễ là phổ biến, hầu hết lá các bái thuốc để chữa các bệnh về xương khớp,những bệnh nan y như bệnh gan, bệnh thận, Vì vậy, cần phải có các biện pháp gây trồng các loài cây thuốc sử dụng cả cây, thân hoặc rễ để chữa bệnh nhằm bảo tồn và phát triển bền vững nguồn dược liệu. Những cây sử dụng bộ phận hoa, hạt để làm thuốc có 6 loài, chiếm 5,88% trong tổng số thu được như: Thầu dầu (Amomumvespertilio Gagnep,
  52. 43 Núc nác (Oroxylun indicum (L.), Quế rừng (Cinnamomum iners Rienw). Ex Blume Sử dụng củ và vỏ làm thuốc có 6 loài, chiếm 5,88%, vỏ có 6 loài chiếm 5,88%, ngoài ra không sử dụng nhựa để làm thuốc. Có sự phân bố đều ở hạt, củ và vỏ. Do quan niệm chữa bệnh của đồng báo dân tộc và do hạn chế về số lượng các loài cây thuốc. Ngoài việc sử dụng các bộ phận khác nhau của từng loài cây thuốc để chữa bệnh thì tần số sử dụng các bộ phận trên cây cũng có sự khác nhau. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.10 Bảng 4.10. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì TT Số lượng sử dụng Số loài tham gia Tỷ lệ % 1 1 bộ phận 42 41,18 2 Cả cây 45 44,12 3 2 bộ phận 11 10,78 4 3 bộ phận 4 3,92 Tổng 102 100 Tùy thuộc vào từng loại bệnh mà thầy thuốc sử dụng các bộ phận khác nhau của cây thuốc, bởi vì trên cùng một cây thuốc, các bộ phận khác nhau thì có tác dụng dược tính khác nhau. Người ta có thể dùng cả cây (đa số là cây thảo) như: cây Dền gai (Amaranthus spinosus L.); cây Đơn (Phyllanthus virgatus Forst. & Forst. f); hoặc 2 bộ phận (thân - rễ, thân - lá, vỏ - lá, ) như cây Ổi (Psidium guajava L.) dùng được cả vỏ và lá; cây nhót rừng (Elaeagnus bonii Lecomt.) dùng được cả rễ, lá hoặc là 3 bộ phận (rễ - thân- lá, vỏ-rễ-quả, ) như cây Trám trắng (Canarium album (Lour.) raeusch) dùng
  53. 44 được cả quả - rễ - vỏ. Có các loại dùng kết hợp với các thứ khác nhau như rễ, thân ngâm rượu xoa bóp, ăn với mật ong, sử dụng với muối, 4.2.2 Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc Kết quả nghiên cứu việc sử dụng cây thuốc để chữa bệnh của cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại khu vực nghiên cứu mang nét độc đáo và mang tính gia truyền. Tác giả đã thống kê được 14 nhóm bệnh mà cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại khu vực nghiên cứu tại bảng sau. Bảng 4.11. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể Nhóm bệnh Số Tỷ lệ STT Tên cây chữa trị loài % Đương quy, ba kích tím, hà thủ ô đỏ, Xương khớp xương rồng ông, lá láng, củ ráy, lược (phong thấp, đau 1 15 14,7 vàng, cúc áo hoa vàng, cà dại hoa lưng, đau xương, trắng, cây bạc hà, cây xấu hổ, cây thấp khớp, nhội, hy thêm, lá lốt, xuyên khung Sa nhân, dâu tắm, chùa dù, khế chua, trầu không, trám trắng, thanh táo, gấc, 2 Thuốc tắm 15 14,7 máu chó, cây bông, dâu da đất, ba chạc, cây mua, xoan ta, dây ba mươi Thảo qủa, tía tô, nhót nhà, cúc trắng, Bệnh thời tiết (ho, hương nhu trắng, núc nác, nhót rừng, 3 sốt, cảm, đậu 14 13,7 ngải cứu, dây tiết dê, me đất, thông lào, ) đất, kinh giới, cúc tần, gừng Bệnh Thận (sỏi Lạc Tiên, Cỏ Tháp Bút, Dền Gai, Mần 4 thận, suy thận, lợi 11 10,8 Tưới, Dứa, Chít, Củ Nâu, Mần Trầu, tiểu, ) Đại Bi, Bò Khai, Thòng Bong, cỏ tranh, nhân trần, chuốt hột rừng, xạ Thanh nhiệt, giải can, mang tang, táo méo, lá cẩm, huyết 5 11 10,8 độc, dụ, rau má rứng, lá dong, khúc khắc, bố công anh. Bệnh hệ tiêu hóa Cây găng, cây ổi, muồng, táo méo,bời 6 (đau bụng, dạ dày, 10 9,8 lời nhớt, cây gai, thầu dầu, hàm ếch, trĩ, mơ lông, khổ sâm cho lá Chữa lành vết Phén đen, hoa cứt lợn, hoắc hương, 7 thương, viêm 7 6,86 thồm lồm, dâm bụt, ké đầu ngựa, chó nhiễm, giảm đau, đẻ
  54. 45 bỏng, Bệnh Gan (sơ gan, Cây là gan,cỏ may, vối thuốc răng 8 giải độc gan, viêm 5 4,9 cưa, bạch đồng nữ, nghệ vàng, gan, ) Thuốc bổ, suy Bông mã đề, hà thủ ô trắng, giảo cổ 9 3 2,94 nhược, lam, 10 chữa rắn cắn 3 2,94 tam thất hoang, sắn dây, mào gà đỏ Chữa bệnh hệ tuần 11 hoàn (mỡ máu, 2 1,96 Nhọ nồi, Chó đẻ răng cưa, huyết áp, tim, ) 12 Tiểu đường 2 1,96 Rau sam, atiso, Bệnh sinh lý, bệnh 13 phụ nữ, vô sinh, 2 1,96 Cỏ xước, quế rừng, hậu sản, Bệnh ung bướu 14 (ung thư, u 2 1,96 tam thất hoang, sắn dây, mào gà đỏ hạch, ) Tổng 102 100 Theo kết quả điều tra thì người dân Hà Nhì, nơi đây sử dụng cây thuốc để điều trị 14 nhóm bệnh khác nhau. Trong đó các loài cây thuốc chữa nhóm bệnh xương khớp có số lượng nhiều nhất đều gồm 15 loài, chiếm 14,71% chủ yếu là các loài có trong 1 số họ như: họ Hoa tán (Apiaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ gừng (zingiberaceae), một số loài như: sa nhân (Amomum aculeatum, hy thêm (Sigesbeckia glabrescens Makino), khổ sâm (Cronton tonkinensis Gagnep), nhóm về cây thuốc tắm có 15 loài, chiếm 14,71% tổng số loài cây thu được, một số loài cây thuộc các họ như: họ thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Cà phê (Rubiaceae) họ Hồ tiêu (Piperaceae) một số loài như: cây Trầu không (Piper betle L.), Thanh táo (Pavetta indica L.), dâu da đất (Baccaurea sapida), Sau nhòm bệnh thuốc tắm là các cây thuốc được dùng làm thuốc chữa nhóm bệnh do thời tiết có 14 loài, chiếm 13,73% trong tổng số 102 loài thu
  55. 46 được, chúng thuộc nhiều họ khác nhau như: họ Rau răm (Polygouaceae), họ Bạc hà (Lamiaceae), họ Chua me đất (Oxalidaceae), họ cá phê (Rubiaceae), họ Rau dền (Amarant qceae), Một số loài như: Dền gai (Chiensis polygonum L.), Me đất (Alysicarpus vaginalis (L.) DC), Thanh táo (Pavetta indica L.), Sau đó là nhóm bệnh về thận chiếm tỷ lệ 10,78%, gồm 11 loài trong tổng số 102 loài thu được, các loài phân bố chủ yếu trong các họ: họ Cúc (Asteraceae), họ Rau dền (Amarant Qceae.), họ cỏ roi ngựa (Verbenaceae), nhóm về thanh nhiệt giải độc gồm có 11 loài, chiềm tỷ lệ 10,78% so với tổng số loài, một số dung để chữa bệnh như: vối thuốc rang cưa (Schima superba gard. champ. In Hook), xạ can (Belamcanla Chinensis (L.) DC), dâu tắm (Morus alba L.), vọng cách (lá gan) (Premna coymabosa (Burm.f et Willd), Sau đó nhóm bệnh về hệ tiêu hóa có 10 loài,chiếm 9,8% thuộc một số họ như sau: họ Sim (Myrtaceae), họ Giấp cá (Saururaceae), họ Cà gai (Urticaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) với 1 số loài như cây ổi (Psidium guajava L.), cây găng (Gouania leptoschya), cây thầu dầu (Amomumvespertilio gagnep), táo mèo (Docynia indica (Wall.) Decne), ; Sau đó nhóm bệnh về chữa lành vết thương có 7 loài, chiếm 6,86% so với tổng số loài thu được, gồm một số họ như: họ Cúc (Asteraceae), họ Bạc hà (Lamiaceae), họ Bông (Malvaceae), có một số loài như phèn đen (Phyllanthus reticu lantus poir), cây thồm lồm (polygonum Chiensis L.), ké đầu ngựa (Xanthium strumarium L.), Sau đó nhóm bệnh về gan có 5 loài, chiếm tỷ lệ 4,9% so với tổng số loài thu được, gồm một số họ như: họ Gừng (zeaingiberace), họ Trinh nữ (Mimosaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), với một số loài như: bạch đồng nữ (Clerodendrum Var. Simplex (Mold.) S.L. chen), vọng cách (lá gan)
  56. 47 (Premna coymabosa (Burm.f et Willd), vối thuốc răng cưa (Schima superba gard. champ. In Hook), Sau đó nhóm về cây thuốc bổ có 3 loài, chiếm 2,94%, với một số họ như họ Mã đề (plantaginacea), họ Bầu bí (Cucurbitaceae), họ Thiên lý (Asclepiadaceae), với một số loài như: Bông mã đề (plantagomajor), Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphylum), Những nhóm bệnh về tiểu đường, hệ tuần hoàn là những nhóm bệnh có số loài tham gia ít nhất, mỗi nhóm chỉ có vài loài. Qua quá trình điều tra và thu thập kinh nghiệm chữa bệnh của người dân tộc Hà Nhì ở xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, tôi nhận thấy phương pháp chữa bệnh của người Hà Nhì rất đa dạng và phong phú, mang lại những giá trị và góp phần vào công tác bảo vệ sức khỏe. Đây là những kinh nghiệm quý báu cần được bảo vệ và phát huy, để nâng cao hiệu quả chữa bệnh, đáp ứng nhu cầu của người dân. 4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì khu vực nghiên cứu Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc ở khu vực nghiên cứu trong việc phòng điều tri một số bệnh nhiễm khuẩn, tôi tiến hành lực chọn cây Lạc tiên (Passiflora eberhardtii) và cây Lá gan (vọng cách) (Premna coymabosa (Burm.f et Willd) để tiến hành đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của cây kết quả thể hiện ở bảng 4.12 và Hình 4.3.
  57. 48 Bảng 4.12 . Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Lạc tiên và cây Lá gan Đơn vị tính: mm Đối chứng Cao chiết Đối chứng Đối chứng âm Lạc tiên Lá gan dương dương (Dung Vi Khuẩn (Amikacin) (Kanamicin) môi) S. aureus 18,0±1,2 22,5±0,5 19,2±1,3 25,1±1,1 0 E. coli 13±1,3 20±0,8 21±0,5 24±0,5 0 (Chú thích: Đối chứng là kháng sinh Amikacin và Kanamicin) Qua bảng 4.12 cho thấy, hai loại khảo sát (Lạc tiên và Lá gan) điều có hoạt tính ức chế với vi khuẩn gây bệnh. Trong đó, cả 2 loài Lạc tiên và lá gan đều có hoạt tính ức chế với cả vi khuẩn gây bệnh Gram âm ( E. coli). Và Gram dương (S.aureus). Trong đó Lạc tiên có khả năng ức chế với vi khuẩn gây bệnh Gram âm ( E.coli) và Gram dương (S.aureus). với vòng ức chế đạt 18 mm và 13 mm còn là gan có tính ức chế với vi khuẩn gây bệnh Gram âm (E.coli) và Gram dương (S.aureus) với vòng ức chế 22,5 mm và 20 mm so sánh giữa hai loài cho thấy cây Lá gan có hoạt tính kháng khuẩn mạnh hơn Lạc tiên. Cả hai loài chưa thấy xuất hiện hoạt tính kháng khuẩn. Từ kết quả phân tích hoạt tính kháng khẩu chúng tôi đề xuất, có thể sử dụng cây Lạc tiên và Lá gan để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S.aureus (Tụ cầu vàng); đồng thời cây Lá gan có thể sử dụng để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E.coli gây ra. Kết quả này là một bằng trứng khoa học chừng minh kinh nghiệm sử dụng các cây thuốc này trong việc phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn của đồng bào dân tộc ở khu vực nghiên cứu.
  58. 49 Hình 4.4. Hoạt tính ức chế S. aureus và E. coli của cây Lạc tiên và cây Lá gan Chú thích: TVC: S. aureus; Ecoli: E. coli; ĐC: Đối chứng âm (Dung môi); KS1: Đối chứng dương (Amikacin); KS2: Đối chứng dương (Kanamicin); LT: Lạc tiên; LG: Lá gan
  59. 50 PHẦN 5 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì ở xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, chúng tôi đã thu được những kết quả sau: - Đã thu được 102 loài thực vật bậc cao thuộc ngành thạch tùng có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dương xỉ với 2 loài thuộc 2 chi và 2 họ, ngành Ngọc lan có 99 loài thuộc 90 chi và 52 họ, có công dụng làm thuốc chữa bệnh. Trong đó có họ Cúc là họ có nhiều loài nhất với 13 loài, họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 7 họ Bạc hà (Lamiaceae), họ gừng (zingiberaceae) có 4 loài, họ Cà phê (Rubiaceae) có 4 loài. Trong 93 chi, có tới 5 chi có 2 loài và 1 chi có 3 loài được sử dụng làm thuốc đó là chi Amomum. - Dạng cây thuốc được người dân sử dụng nhiều nhất là dạng cây thảo với 51 loài, cây leo có 17 loài, cây gỗ nhỏ có 9 loài, cây bụi có 17 loài, cây gỗ trung bình có 6 và gỗ lớn có 2 loài. - Nơi sống chủ yếu của cây thuốc là chủ yếu ở Rừng với 20 loài và ở vườn với 42 loài, ở đồi 33 loài, ở ven sông ven suối 7 loài. - Số lượng cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn có 3 loài, chiếm 2,94% tổng số loài cây thuốc thu được đó là loài Ba kích (Morinda officinalis How), và Hà thủ ô đỏ (Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson),Tam thất hoang (Panax stipuleanatus Tsai & Feng) - Sử dụng các bộ phận để làm thuốc bao gồm: Cả cây có 44 loài, lá có 24 loài, rễ có 8 loài, vỏ có thân có 7 loài, hạt có 6 loài, củ và vỏ có 6 loài, quả có 1 loài. Sử dụng cả cây có 45 loài, 1 bộ phận để làm thuốc có 42 loài, 2 bộ phận có 11 loài và 3 bộ phận cũng có 4 loài. Đã thống kê được 14 nhóm bệnh khác nhau được sử dụng để chữa bệnh.
  60. 51 - Qua kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn, cho thấy có thể sử dụng cây Lạc tiên và Lá gan để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S.aureus (Tụ cầu vàng); đồng thời cây Lá gan có thể sử dụng để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E.coli gây ra. 5.2. Tồn tại - Do các thầy lang, bà mế là người dân tộc thiểu số nên trong quá trình điều tra vẫn còn hạn chế về thông tin cây vì đa số thầy lang bà mế gọi tên cây bằng tiếng dân tộc nên còn khó khăn trong việc điều tra thu thập thông tin cây thuốc. 5.3. Kiến nghị - Cần tiếp tục mở rộng khu vực điều tra và nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc để có kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho tương lai. - Tiếp tục nghiên cứu và đánh giá tính hiệu quả của các loài cây thuốc mà đồng bào dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai sử dụng. - Cần thời gian nghiên cứu và vốn kiến thức sâu rộng hơn để xác định lương y lượng người dân khai thác và sử dụng các loài cây thuốc.
  61. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Vàng A Lả (2018) Nghiên cứu Tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Nông lâm Thài Nguyên 2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật, Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội. 3. Tào Duy Cần (2001), Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật. 4. Tào Duy Cần (2006), Thuốc bệnh 24 chuyên khoa, Nxb. Y học, Hà Nội. 5. Đặng Quang Châu (2011), “Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An”, Tạp chí Sinh học, tập 23. 6. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 7. Võ Văn Chi (1996), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Y học, Hà Nội. 8. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Hà Nội, tập 1 - 2. 9. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định 32/2006/CP – NĐ về nghiêm cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động thực vật hoang dã. 10. Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), Các cây có ích của dân tộc H’mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 11. Nguyễn Thượng Dong (chủ biên) và nhiều tác giả (2006), Nghiên cứu thuốc từ thảo dược, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 12. Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam, trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến (2011), Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
  62. 14. Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây cỏ Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 15. Phạm Hoàng Hộ (2006), Cây có vị thuốc ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 16. Lê Thị Thanh Hương (2007), Điều tra và đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Tày ở một số xã của huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội. 17. Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận (2011), Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 18. Âu Anh Khâm (2001), 577 bài thuốc dân gian gia truyền (sách dịch), Nxb. Thanh niên, Hà Nội. 19. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 20. Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã (2011), Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam, Nxb. Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội. 22. Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương (2000), Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược, Nxb. Y học, Hà Nội. 23. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà nội. 24. Nguyễn Nghĩa Thìn (2007), Các phương pháp nghiên cứu thực vật, Nxb. Đại Học Quốc gia Hà Nội. 25. Nguyễn Nhân Thống (2008), Danh y tuổi tý, Hội Đông y Việt Nam – Tạp chí Đông y – số 405/2008. 26. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh (2004), Nghiên cứu xây dựng và bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa, Thái Nguyên, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 27. Trần Thúy, Vũ Nam, Nguyễn Văn Toại (2005), Lý luận Y học cổ truyền, Nxb. Y học, Hà Nội.
  63. 28. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Sinh thái & Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn Lâm Việt Nam (2006). Danh lục các loài thực vật Việt nam. Nxb. Nông nghiệp, Hà nội, tập 2 – 3. 29. Nông Thài Hòa (2018) Nghiên cứu Tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên 30. Viện Dược Liệu (1993), Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 31. Dương Văn Hưng (2018) nghiên cứu Tri thức sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, Huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Nông lâm Thài Nguyên 32. UBND xã Y Tý (2018), Báo cáo sơ kết Kết quả thực hiện nhiệm vụ của Ban lâm nghiệp xã Y Tý trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đầu năm 2018, phương hướng nhiệm vụ cuối năm 2018. B. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 33. Ahmad Cheikhyoussef, Martin Shapi, Kenneth Matengu và Hina Mu Ashekele (2011), “Research on the botany of indigenous knowledge of medicinal plants used by traditional healers in the area Oshikoto, Namibia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 34. Arshad Abbasi, Mir Khan, Munir H Shah, Mohammad Shah, Arshad Pervez, Mushtaq Ahmad (2013), “Ethnobotanical appraisal and cultural values of medicinally important wild edible vegetables of Lesser Himalayas - Pakistan”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 35. Auemporn Junsongduang, Henrik Balslev, Angkhana Inta, Arunothai Jampeetong, Prasit Wangpakapattanawong (2013), “Medicinal plants from swidden fallows and sacred forest of the Karen and the Lawa in Thailand”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 36. Balcha Abera (2014), “Medicinal plants used in traditional medicine by Oromo people, Ghimbi District, Southwest Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine.
  64. 37. Behxhet Mustafa, Avni Hajdari, Feriz Krasniqi, Esat Hoxha, Hatixhe Ademi, Cassandra L Quave và Andrea Pieroni (2012), “Medical ethnobotany of the Albanian Alps in Kosovo”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 38. Berhane Kidane, Tinde van Andel, Laurentius van der Maesen, Zemede Asfaw (2014), “Use and management of traditional medicinal plants by Maale and Ari ethnic communities in southern Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 39. Cassandra L. Quave, Manuel Pardo-de-Santayana, and Andrea Pieroni (2012), “Medical Ethnobotany in Europe: From Field Ethnography to a More Culturally Sensitive Evidence-Based CAM?”. Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine. Volume 2012, Article ID 156846, 17 pages 40. Cecilia Almeida, Elba de Amorim, Ulysses de Albuquerque, Maria Maia (2006), “Medicinal plants commonly used in the area Xingo - a place in the semi - arid northeastern Brazil”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 41. David J Simbo (2010), “A survey of the botany of medicinal plants in Babungo, northwestern region, Cameroon”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 42. Dol Luitel, Maan B Rokaya, Binu Timsina, Zuzana Münzbergová (2014), “Medicinal plants used by the Tamang community in the Makawanpur district of central Nepal”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 43. Eduardo Estrada-Castillón, Miriam Garza-López, José Villarreal-Quintanilla, María Salinas-Rodríguez, Brianda Soto-Mata, Humberto González-Rodríguez, Dino González-Uribe, Israel Cantú-Silva, Artemio Carrillo-Parra, César CantúAyala (2014), “Ethnobotany in Rayones, Nuevo León, México”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 10:62pp 44. Gabriele Volpato, Daimy Godínez, Angela Beyra, Adelaida Barreto (2009), “Use of medicinal plants of Haitian immigrants and their descendants in the province of Camagüey, Cuba”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine.
  65. 45. Gaia Luziatelli, Marten Sørensen, Ida Theilade, Per Mølgaard (2010), “Ashaninka medicinal plants: a case study from the indigenous communities of the Bajo Quimiriki, Junín, Peru”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 46. Gorka Menendez-Baceta, Laura Aceituno-Mata, María Molina, Victoria ReyesGarcía, Javier Tardío, Manuel Pardo-de-Santayana (2014), “Medicinal plants traditionally used in the northwest of the Basque Country (Biscay and Alava), the Iberian Peninsula”, Journal of Ethnopharmacology. 47. Homervergel G. Ong, Young-Dong Kim (2014), “The study of botany quantification of the medicinal plants used by indigenous Ati Negrito groups in the island of Guimaras, Philippines”, Journal of Ethnopharmacology. 48. Joana Camejo-Rodrigues, Lia Ascensão, M Angels Bonet, Joan Valles (2004), “An ethnobotanical study of medicinal plants and aromatic in nature park of Serra de São Mamede (Portugal)”, Journal of Ethnopharmacology. 49. Joanne Packera, (2012), “New South Wales, Australia”. 50. Maria Leporatti and Massimo Impieri (2007), “Ethnobotanical notes about some uses of medicinal plants in Alto Tirreno Cosentino area (Calabria, Southern Italy)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 52. Maud M Kamatenesi, Annabel Acipa, Hannington Oryem-Origa (2011), “Medicinal Plants of Otwal and Ngai in Oyam District, Northern Uganda”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 53. Mendrika Razafindraibe (2013) Agnalazaha ,(Southeast Madagascar). 54. Mi-Jang Song, Hyun Kim, Brian Heldenbrand, Jongwook Jeon, Sanghun Lee (2013), “Ethnopharmacological survey of medicinal plants in Jeju Island, Korea”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 55. Mi-Jang Song, Hyun Kim, Byoung-Yoon Lee, Heldenbrand Brian, Chan-Ho Park, Chang-Woo Hyun (2014), “Analysis of traditional knowledge of medicinal plants from residents in Gayasan National Park (Korea)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine.
  66. PHỤ LỤC Một số số hình ảnh trong quá trình điều tra H. Dạng thảo I. Dạng thảo Bông mã đề - (Plantago major) Khổ sâm - (Cronton tonkinensis) K. Dạng dây leo L. Dạng thảo Nhót rừng - Elaeagnus bonii Cây chit - (Thysanolaena) Lecomte eo Hoàng Thị Thanh đang phỏng Lấy mẫu cây Lạc tiên vấn về bà mế Sần Thị Sui Thôn chảo thèn 1 xã Y Tý Tại thôn chảo thèn 1 xã Y Tý
  67. số dạn tên phổ tên dân MT Các TT tên khoa học hiểu g BPSD Cộng dụng thông tộc sống h sd ảnh sống A Ngành Dương Xỉ- PTERIDOPHYTA A1 lớp dương xỉ-polypodipsida 1 Schizaeaceae Họ bòng bong thòng 1.1 Lygodium japoniam Thunb. Sw th đ.vs r t.k tiểu ra máu bong 2 Equiestaceae Họ mộc tặc cỏ tháp 2.1 Equisetum debile Roxb th vs th k lợi tiểu, giúp thoát mồ hôi bút B Ngành ngọc lan- MAGNOLIOPYTA B1 Lớp một là mầm- liliopsida 1 poaceae Họ hòa thảo cỏ mần 1.1 Eleusine indica(L.)Gaertn th đ,vs cc k,t lợi tiểu trầu 1.2 Imperata cylindrica (L.) Beauv cỏ tranh th đ,vs r t giải nhiệt, chảy máu cam 1.3 Thysanolaena maxima (Roxb.) Kuntze cây chít th đ cc t.k sỏi thận 2 Smilacaceae Họ Khúc khắc Heterosmilaxgaudichaudiana(Kunth) khúc giải nhiệt, đun uống mát 2.1 pl r củ t,k Maxim khắc gan
  68. 3 zingiberaceae Họ gừng nghệ 3.1 Curcuma longa L th vu củ t,k viêm loét dạ dày, viêm gan vàng 3.2 Amomum aculeatum Roxb sa nhân th r l t trị tiêu chảy, dùng để tắm 3.3 Zingrberoffcinale Rosc gừng th vu củ t.k trị cảm lạnh, ho, đau bụng 3.4 Amomum aromaticum Roxb thảo quả th r ha k trị ho, cảm cúm B2 lớp hai là mầm- Magnolipsida 4 Asteraceae Họ cúc 4.1 Eclipta prostrata (L.) L nhọ nồi th vu cc t cảm cúm hoa cứt 4.2 Ageratum conyzoides L th đ cc t viêm xoang, dị ứng lợn 4.3 Artemeia japonica Thunb ngải cứu th vu cc t,k đau đầu 4.4 Eupatorium Odoratum L chó đẻ na đ l t cầm máu 4.5 Blumea balsamifera (L.) DC đại bi th đ l,r t,k đau đầu, cảm sốt, sỏi thận ké đầu viêm xoang, sỏi thận, trị 4.6 Xanthium strumarium L na đ quả k ngựa mụn bồ công thanh nhiệt, giải độc, nhọt, 4.7 Taraxacum officinale wigg th đ l, th t, k anh sưng đau cảm nóng, phong thấp tê 4.8 Pluchea indica (L.) Less cúc tần na vu l, th t, k bại, đau mắt cúc áo 4.9 Spilanthes paniculata Wall. Ex DC hoa na đ th, r t chữa sâu răng vàng mần 4.10 Eupatorium triplinerve Vahl na đ cc t, k lợi tiểu, chữa sốt, mụn đinh tưới 4.11 Cynara scolymus Atiso th vu cc t,k ăn kiêng, đái tháo đường
  69. hy phong thấp, thanh nhiệt, 4.12 Sigesbeckia glabrescens Makino na vs,đ cc k thiêm giải độc, chữa đau lưng cúc 4.13 chrysanthemum maximum Ramond th vu hoa t trị sốt trắng 5 plantaginacea Họ mã đề bông mã bổ màu, giải nhiệt, chữa 5.1 Plantago major L th vu cc t,k đề mất ngủ 6 Myrtaceae Họ sim 6.1 Psidium guajava L. ổi mắc ổi mi vu, đ l t đau bụng 7 Euphorbiaceae Họ thầu dầu (đại kích) chó đẻ 7.1 phyllanthus amarus Schum th vu r t,k chữa gan, mệt mọi răng cưa 7.2 Amomumvespertilio Gagnep thầu dầu th vu ha,r,l t tao bón, chữa trị khổ sâm trị đau dạ dày, đầy bụng 7.3 Cronton tonkinensis Gagnep th vu l t cho lá khó tiêu, trị nấm ngoài da đau nhức xương khớp, 7.4 Bischfia javanica Blume nhội me vu l t viêm phổi, mụn nhọt dâu da 7.5 Baccaurea sapida mp đ,vs v t,k đun tắm đất phèn 7.6 Phyllanthus reticu lantus Poir mi vs cc t,k viêm đen xương thoát vị đĩa điệm cột sống, 7.7 Euphorbi antiquorum L. rồng th đ cc k đau lưng ông 8 Erythropalaceae Họ hạ hòa (Dây hương) long 8.1 Erythropalum seandens Bume bò khai pl đ l t chữa viêm thận, viêm gan châu
  70. sói 9 Bignoniaceae Họ chùm ớt chữa viêm họng, mán tính, 9.1 Oroxylun indicum (L.) Kurz núc nác me r,đ v,ha t bệnh gan 10 Polygouaceae Họ rau răm thồm chữa viêm họng, viêm gan, 10.1 polygonum Chiensis L th đ, vs cc t lồm viêm ruột Fallopia multiflora (Thunb.) hà thủ ô đau lưng, liệt nửa người, 10.2 lp r củ t,k Haraldson đỏ mất ngủ 11 Polygonaceae Họ rau sam (sam) chữa tiểu đường, rồi loại 11.1 protulaca Oleracea L rau sam th vu cc t thần kinh, trị viết thương 12 Amarant Qceae họ rau dền(Giền) mào gà 12.1 celosia var. cristata(L.) Kuntze th vu th t chữa rắn cắn đỏ quay bị, viêm màng 12.2 Achyranthes aspera cỏ xước th vu cc t tai,thấp khớp, đau bụng kinh trị sỏi thận, thoát vị đệm, 12.3 Amaranthus spinosus L Dền gai th vu cc t ho có đờm 13 Lamiaceae họ bạc hà kinh 13.1 Elsholtzia ciliata( Thunb.) Hyland th vu cc t chữa cảm cúm, dạ dày giới nhân 14.2 Acrocephalus th vu cc k giải nhiệt cơ thể trần 14.3 Elsholtzia blanda(Benth). Benth chùa dù na đ cc t,k tắm, giải cảm, trị mụn
  71. hoắc 14.4 Anisomeles indica (L.) Kuntze th vs cc k viêm xoang hương hương lợi thấp, trị cảm lạnh, giảm 14.5 Ocimum gratissimum L nhu th na th.l,hoa k sốt trắng 14.6 Perilla frutescens(L.) Britt tía tô th vu cc t cảm cúm, đau đầu 14.7 Mentha arvensis L bạc hà th vs cc t viêm xoang, thấp khớp 14 Marantaceae Họ hoàng tinh 14.1 Phrynium dispermum Gagenp lá dong na r l t giải độc rượu 15 Oxalidaceae Họ Chua Me đất (me đất) khế trị ngứa, tắm bệnh ngoài 15.1 Averrhoa carambola me vu v, l t,k chua da, trị ho viêm họng, viêm gan, suy 15.2 Alysicarpus vaginalis (L.) DC me đất th vu cc t, k nhược thần kinh 16 Rubiaceae Họ cà phê 16.1 Paederia scandens (Lour.) Merr mơ lông lp vu l k chữa tiêu chảy cây 16.2 Gouania leptoschya na r cc t,k chữa dạ dày găng 16.3 Morinda officinalis How ba kích lp r r k chữa xương khớp thanh 16.4 Pavetta indica L th vu cc t,k tắm, dị ứng táo 17 Piperaceae Họ hồ tiêu (Tiêu) chữa đau nhức răng, đau 17.1 Piper lolot C. DC lá lốt na vu cc t, k khớp, ra mồ hôi chân tay cây trầu 17.2 Piper betle L lp đ cc t,k tắm không