Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn con, giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa tại trang trại lợn giống cao sản công ty cổ phần Dinh dưỡng Hải Thịnh

pdf 63 trang thiennha21 18/04/2022 3660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn con, giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa tại trang trại lợn giống cao sản công ty cổ phần Dinh dưỡng Hải Thịnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn con, giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa tại trang trại lợn giống cao sản công ty cổ phần Dinh dưỡng Hải Thịnh

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  BẰNG THỊ CÚC “THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN CON, GIAI ĐOẠN TỪ SƠ SINH ĐẾN CAI SỮA TẠI TRẠI LỢN GIỐNG CAO SẢN CÔNG TY CỔ PHẦN DINH DƯỠNG HẢI THỊNH” KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo :Chính quy Chuyên ngành :Dược thú y Khoa :Chăn nuôi Thú y Khóa học :2014 - 2018 Thái Nguyên, năm 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  BẰNG THỊ CÚC “THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN CON, GIAI ĐOẠN TỪ SƠ SINH ĐẾN CAI SỮA TẠI TRẠI LỢN GIỐNG CAO SẢN CÔNG TY CỔ PHẦN DINH DƯỠNG HẢI THỊNH” KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo :Chính quy Chuyên ngành :Dược thú y Lớp :K46-Dượct húy Khoa :Chăn nuôi Thú y Khóa học :2014 - 2018 Gỉang viên hướng dẫn :TS. Hồ Thị Bích Ngọc Thái Nguyên, năm 2018
  3. i LỜI CẢM ƠN Qua một thời gian học tập rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và sau 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trại Lợn giống cao sản, nhờ sự nỗ lực của bản thân, sự giúp đỡ của thầy cô, gia đình và bạn bè em đã hoàn thành tốt đợt thực tập tốt nghiệp. Nhân dịp này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu Nhà trường, các phòng ban, các thầy cô giáo trong nhà trường, các thầy cô giáo trong Khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập tại trường. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của cô giáo TS. Hồ Thị Bích Ngọcngười đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập, giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Cũng qua đây cho em gửi lời cảm ơn sâu sắc tớitoàn thể cán bộ và công nhân viên của công ty Cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh,phường Đại Phúc, TP Bắc Ninh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành báo cáo thực tập tốt nghiệp và học hỏi nâng cao tay nghề. Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn động viên giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành tốt quá trình thực tập tốt nghiệp. Em xin kính chúc quý thầy cô có thật nhiều sức khỏe, đạt được nhiều thành tích cao trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Khóa luận tốt nghiệp của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong qúy thầy cô xem xét, góp ý và bổ sung, để bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng năm 2018 Sinh viên Bằng Thị Cúc
  4. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 3.1. Lịch sát trùng trại lợn nái 35 Bảng 3.2. Lịch tiêm phòng của trại 36 Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn của trại lợn giống cao sản, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang từ năm 2016 đến tháng 11- năm 2018 39 Bảng 4.2. Tỷ lệ nuôi sống lợn con từ sơ sinh đến cai sữa 41 Bảng 4.3. Kết quả tiêm phòng thuốc và vắc xin cho lợn con theo mẹ từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi 43 Bảng 4.4. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến cai sữa 44 Bảng 4.5. Kết quả điều trị bệnh bệnh cho đàn lợn giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa trong thời gian thực tại cơ sở 45 Bảng 4.6. Kết quả công tác phục vụ sản xuất 47
  5. iii DANH MỤC CÁC HÌNH Trang Hình 4.1: Biểu đồ tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm 40
  6. iv DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nghĩa của từ Cs : Cộng sự Mg2+ : Magie 2+ Nxb : Nhà xuất bản Pr : Protein SS : Sơ sinh STT : Số thứ tự TT : Thể trọng UBND : Uỷ ban nhân dân TP : Thành phố
  7. v MỤC LỤC Trang LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC HÌNH iii DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT iv MỤC LỤC v Phần 1.MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2 1.2.1. Mục tiêu của đề tài 2 1.2.2. Yêu cầu của đề tài 2 Phần 2.TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Quá trình thành lập và phát triển của trại 3 2.1.2. Đánh giá chung 6 2.2. Cơ sở khoa học của đề tài 6 2.2.1. Một số hiểu biết về lợn con 6 2.2.2. Hiểu biết về chăm sóc và nuôi dưỡng lợn con theo mẹ 15 2.2.3. Một số biện pháp phòng bệnh cho lợn con theo mẹ 26 2.2.4. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 27 Phần 3.ĐỐITƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 32 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 32 3.3. Nội dung nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi 32 3.3.1. Nội dung nghiên cứu 32 3.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi 32 3.4. Phương pháp nghiên cứu 33
  8. vi 3.4.1. Phương pháp thực hiện 33 3.4.2. Phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn con từ sơ sinh đến cai sữa nuôi tại trại 37 3.4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu 38 3.5. Phương pháp xử lý số liệu 38 Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 39 4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại 39 Cơ cấu đàn lợn nuôi tại cơ sở trong 3 năm gần đây 39 4.2. Kết quả thực hiện quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến cai sữa tại cơ sở 40 4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến cai sữa trong thời gian thực tập tại cơ sở 42 4.3.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh 42 4.3.2. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn sơ sinh đến cai sữa 43 4.4. Kết quả chẩn đoán bệnh 44 4.5. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến cai sữa tại cơ sở trong thời gian thực tập 45 4.6. Kết quả thực hiện các công tác khác tại cơ sở thực tập 46 Phần 5.KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 48 5.1. Kết luận 48 5.2. Đề nghị 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO 50 PHỤ LỤC
  9. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Song song với sự phát triển đó, ngành chăn nuôi nước ta cũng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Nhiều giống gia súc, gia cầm được lai tạo, du nhập vào sản xuất đã đem lại nhiều lợi nhuận. Chăn nuôi đã thực sự trở thành nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ gia đình đồng thời đã thúc đẩy sự phát triển của một số ngành công nghiệp liên quan như chế biến thực phẩm, sản xuất thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, công nghiệp thuộc da, lông vũ Chăn nuôi lợn là một trong những mũi nhọn của ngành chăn nuôi nước ta, đóng một vị trí quan trọng và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Thịt lợn là nguồn protein động vật có giá trị phục vụ cho nhu cầu của con người, nó không chỉ cung cấp thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho xã hội mà còn là nguồn thu nhập đáng kể cho người chăn nuôi. Ngoài ra, chăn nuôi lợn còn cung cấp một lượng lớn phân bón cho trồng trọt và thủy sản. Có thể nói ngành chăn nuôi lợn đã đóng góp một phần đáng kể vào công tác xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội và thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Chăn nuôi 2018 được đánh giá là một trong những năm được giá, các sản phẩm lớn của ngành chăn nuôi ra đời và tăng trưởng mạnh.Chăn nuôi lợn tăng 0,9% đạt 3,8 triệu tấn. Cũng trong năm nay, lần đầu tiên thịt lợn Việt Nam chế biến được xuất khẩu theo đường chính ngạch sang các nước trong khu vực như Myanmar. Để có được kết quả trên ngoài việc tăng nhanh số đầu lợn, ngành chăn nuôi lợn nước ta đã và đang từng bước đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
  10. 2 thực tế sản xuất, từ khâu cải tạo con giống, nâng cao chất lượng thức ăn đến việc hoàn thiện quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng. Tuy nhiên để thịt lợn có thể nâng cao sức khỏe cho con người, điều quan trọng là quá trình chọn giống, nuôi dưỡng, chăm sóc và phòng trị bệnh cho lợn từ lúc sơ sinh đến lúc xuất bán, đàn lợn phải khỏe mạnh, sức đề kháng cao, các thành phần dinh dưỡng tích lũy vào thịt có chất lượng và có giá trị sinh học cao. Em tiến hành thực hiện chuyên đề:“Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn con, giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa tại trang trại lợn giống cao sản công ty cổ phần Dinh dưỡng Hải Thịnh”. 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu của đề tài - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại. - Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng cho lợn con nuôi tại trại. - Biết được các loại thức ăn dành cho lợn con, khẩu phần ăn và cách cho lợn con ăn qua từng giai đoạn. - Biết được các bệnh hay xảy ra đối với lợn con và phương pháp phòng trị bệnh hiệu quả nhất. - Hoàn thiện thêm kỹ năng, tay nghề trong thời gian thực tập. 1.2.2. Yêu cầu của đề tài - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trại lợn giống cao sản công ty Cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh. - Áp dụng được các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến cai sữa. - Xác định được tình hình nhiễm bệnh, biết cách phòng trị bệnh cho lợn con nuôi tại trại.
  11. 3 Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Quá trình thành lập và phát triển của trại 2.1.1.1. Quá trình thành lập Trại lợn giống cao sản nằm trên địa phận xã Đống Vòng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Là trại lợn gia công của Công ty cổ phần Dinh dưỡng Hải Thịnh, hoạt động theo phương thức: thuê công nhân, công ty cung cấp giống lợn, thức ăn, thuốc thú y, cán bộ kỹ thuật. Hiện nay, trang trại do ông Nguyễn Văn Chuyền làm quản lí, cán bộ kỹ thuật chịu trách nhiệm giám sát mọi hoạt động của trại. 2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của trang trại Cơ cấu tổ chức: gồm 3 nhóm + Nhóm quản lý: 1 quản lí giám sát mọi hoạt động của trại + Nhóm kỹ thuật: 1 kỹ sư. + Nhóm công nhân: 4 công nhân, 2 sinh viên thực tập. Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau như tổ chuồng đẻ, tổ chuồng bầu. Có bảng chấm công riêng cho từng công nhân trong tổ, ngoài ra các tổ trưởng có nhiệm vụ đôn đốc quản lý chung các thành viên trong tổ nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, thúc đẩy sự phát triển của trang trại. 2.1.1.3. Cơ sở vật chất của trại Trại Lợn giống cao sản được xây dựng trên diện tích 13.000m2 gồm trang trại, nhà điều hành, nhà ở cho công nhân, bếp ăn và các công trình phụ phục vụ cho công nhân và các hoạt động khác của trại.
  12. 4 Trong khu chăn nuôi được quy hoạch bố trí xây dựng hệ thống chuồng trại cho 300 nái bao gồm: 2 chuồng đẻ(chuồng đẻ 1 có36 ô và chuồng đẻ 2 có 42 ô kích thước 2,4m × 1,6m/ô), 2 chuồng bầu mỗi chuồng có 110 ô kích thước 2,4m × 0,65m/ô (chuồng bầu 1 có 10 ô lợn đực), 1 chuồng cai hở gồm có 9 ô nuôi nái hậu bị kích 5m × 6m + 12 ô nuôi lợn đực kích thước (2,4m × 1,6m/ô) , và 1 chuồng úm có 12 ô kích thước 5m × 6m. Cùng một số công trình phụ phục vụ cho chăn nuôi như: Kho thức ăn, phòng sát trùng, phòng pha tinh, kho thuốc Hệ thống chuồng xây dựng khép kín hoàn toàn. Phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối mỗi chuồng có 3 quạt thông gió. Hai bên tường có dãy cửa sổ lắp kính, mỗi cửa sổ có diện tích 1,2m², cách nền 1,2m, mỗi cửa sổ cách nhau 50cm. Trên trần đươc lắp hệ thống chống nóng bằng thép. Phòng pha tinh của trại được trang bị các dụng cụ hiện đại như: kính hiển vi, các dụng cụ đóng liều tinh, nồi hấp cách thủy dụng cụ và một số thiết bị khác. Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các hố sát trùng. Hệ thống nước trong trại chăn nuôi cho lợn uống là nước giếng khoan. Nước tắm cho lợn, nước xả gầm, rửa chuồng được bơm từ ao chứa nước trong trang trại lên bể chứa và theo hệ thống ống nước dẫn tới các chuồng khác nhau. 2.1.1.4. Tình hình sản xuất của trang trại * Công tác chăn nuôi Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,25 - 2,3 lứa/năm. Số con sơ sinh là 12con/đàn;số con cai sữa là 10,5 con/đàn; lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày thì tiến hành cai sữa và chuyển sang chuồng úm.
  13. 5 Lợn thương phẩm tại trại được nuôi từ lúc sơ sinh đến lúc xuất bán khoảng 5 đến 6 tháng với trọng lượng trung bình từ 100 đến 115kg. Thức ăn cho lợn nái là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao, được Công ty Cổ phần Dinh dưỡng Hải Thịnh cấp cho từng đối tượng lợn của trại. * Công tác vệ sinh thú y của trại Vệ sinh phòng bệnh là công tác rất quan trọng. Nó có tác dụng tăng sức đề kháng cho vật nuôi, giảm nguy cơ xảy ra dịch bệnh, hạn chế những bệnh có tính chất lây lan từ đó phát huy tốt tiềm năng của giống. - Công tác vệ sinh: Chuồng trại được xây dựng thoáng mát về mùa Hè, mùa Đông được che chắn cẩn thận, xung quanh các dãy chuồng nuôi đều trồng cây xanh tạo độ thông thoáng và mát tự nhiên. Trước cửa vào các khu có rắc vôi bột từ đó hạn chế được rất nhiều tác động của mầm bệnh bên ngoài sinh chuồng trại, thu gom phân, nước tiểu, khơi thông cống rãnh, phun thuốc sát trùng và rắc vôi theo quy định. Công nhân, kỹ sư, khách tham quan trước khi vào khu chăn nuôi đều phải sát trùng, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo bảo hộ lao động. - Công tác phòng bệnh: Trong khu vực chăn nuôi hạn chế đi lại giữa các chuồng, hành lang giữa các chuồng và bên ngoài chuồng đều được rắc vôi bột, các phương tiện vào trại được sát trùng một cách nghiêm ngặt ngay tại cổng vào. Quy trình phòng bệnh bằng vaccine luôn được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với từng loại lợn có quy trình tiêm riêng. Lợn được tiêm vaccine phòng phải ở trạng thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh mãn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn. Tỷ lệ tiêm phòng vaccine cho đàn lợn luôn đạt 100%. - Công tác trị bệnh: Cán bộ kỹ thuật có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra đàn lợn thường xuyên, các bệnh xảy ra ở lợn nuôi tại trại luôn được phát hiện sớm, cách ly, điều trị ở ngay giai đoạn đầu, nên điều trị đạt hiệu quả từ 80 -
  14. 6 90% trong một thời gian ngắn. Vì vậy, không gây thiệt hại lớn về số lượng đàn gia súc. 2.1.2. Đánh giá chung 2.1.2.1. Thuận lợi Được sự quan tâm tạo điều kiện và có các chính sách hỗ trợ đúng đắn của các ngành, các cấp có liên quan như UBND huyện Hiệp Hòa, Trạm thú y huyện Hiệp Hòa tạo điều kiện cho sự phát triển của trại. Được Công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh cung cấp về con giống, thức ăn, thuốc thú y có chất lượng tốt. Chuồng trại được trang thiết bị hiện đại, điện lưới và hệ thống nước sạch luôn cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt và chăn nuôi. Quản lí trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân. Kèm theo đó là đội ngũ kỹ thuật với chuyên môn vững vàng, công nhân nhiệt tình, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. 2.1.2.2. Khó khăn Đội ngũ công nhân trong trại còn thiếu, do đó ảnh hưởng đến tiến độ công việc. Trong những năm gần đây, thời tiết diễn biến phức tạp kèm theo dịch bệnh xảy ra khó kiểm soát gây khó khăn cho chăn nuôi. Do đó đòi hỏi công tác phòng chống dịch bệnh và nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn tại trại cần phải được đẩy mạnh. 2.2.Cơ sở khoa học của đề tài 2.2.1. Một số hiểu biết về lợn con 2.2.1.1.Các thời kỳ quan trọng của lợn con + Thời kỳ từ sơ sinh đến 1 tuần tuổi: là thời kỳ khủng hoảng đầu tiên của lợn con do sự thay đổi hoàn toàn về môi trường sống, bởi vì lợn con
  15. 7 chuyển từ điều kiện sống ổn định trong cơ thể lợn mẹ, chuyển sang điều kiện tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài. Do vậy, nếu nuôi dưỡng chăm sóc không tốt lợn con dễ bị mắc bệnh, còi cọc, tỷ lệ nuôi sống thấp. Mặt khác lúc này lợn con mới đẻ còn yếu ớt, chưa nhanh nhẹn. Lợn mẹ vừa đẻ xong, cơ thể còn mệt mỏi, đi đứng còn nặng nề vì sức khỏe chưa hồi phục, nên dễ đè chết lợn con. Cần nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo lợn con ở giai đoạn này. + Thời kỳ 3 tuần tuổi: là thời kỳ khủng hoảng thứ 2 của lợn con, do quy luật tiết sữa của lợn mẹ gây nên. Sản lượng sữa của lợn nái tăng dần từ sau đẻ và đạt cao nhất ở giai đoạn 3 tuần tuổi, sau đó sản lượng sữa của lợn mẹ giảm nhanh, trong khi đó, nhu cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng tăng do lợn con sinh trưởng và phát dục nhanh, đây là mâu thuẫn giữa cung và cầu. Để giải quyết mâu thuẫn này, cần tập cho lợn con ăn sớm vào 7 - 10 ngày tuổi. + Thời kỳ ngay sau khi cai sữa: là thời kỳ khủng hoảng thứ 3 do môi trường sống thay đổi hoàn toàn, do yếu tố cai sữa gây nên. Mặt khác, thức ăn thay đổi, chuyển từ thức ăn chủ yếu là sữa lợn mẹ sang thức ăn hoàn toàn do con người cung cấp. Nên giai đoạn này, nếu nuôi dưỡng, chăm sóc không chu đáo, lợn con rất dễ bị còi cọc, mắc bệnh đường hô hấp, tiêu hóa. Trong chăn nuôi lợn nái ngoại, cai sữa bắt đầu lúc 21 ngày, kết thúc lúc 23 ngày thì thời kỳ khủng hoảng 2 và 3 trùng nhau, hay nói cách khác ta đã làm giảm được 1 thời kỳ khủng hoảng của lợn con.
  16. 8 2.2.1.2.Đặc điểm sinh lý của lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi * Đặc điểm về sinh trưởng- phát triển của lợn con Đối với chăn nuôi lợn con nói riêng và gia súc nói chung, thời kỳ gia súc mẹ mang thai được chăm sóc chu đáo, bào thai sẽ phát triển tốt sinh con khỏe mạnh. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [17] so với khối lượng sơ sinh thì khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp 4 lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần, lúc 50 ngày tuổi tăng gấp 10 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần. Lợn con bú sữa sinh trưởng và phát triển nhanh nhưng không đồng đều qua các giai đoạn, nhanh trong 21 ngày đầu sau đó giảm dần. Có sự giảm này là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do lượng sữa mẹ bắt đầu giảm và hàm lượng hemoglobin trong máu của lợn con bị giảm. Thời gian bị giảm sinh trưởng kéo dài khoảng 2 tuần hay còn gọi là giai đoạn khủng hoảng của lợn con. Chúng ta hạn chế sự khủng hoảng này bằng cách cho ăn sớm. Do lợn con sinh trưởng nhanh nên quá trình tích lũy các chất dinh dưỡng mạnh. Ví dụ: Lợn con sau 3 tuần tuổi mỗi ngày có thể tích lũy được 9 - 14 gam protein/kg khối lượng cơ thể, trong khi đó lợn trưởng thành chỉ tích lũy được 0,3 - 0,4 gam protein/kg khối lượng cơ thể. Hơn nữa, để tăng 1kg khối lượng cơ thể, lợn con cần ít năng lượng nghĩa là tiêu tốn năng lượng ít hơn lợn trưởng thành. Vì vậy, cơ thể của lợn con chủ yếu là nạc, mà để sản xuất ra 1kg thịt nạc cần ít năng lượng hơn để tạo ra 1 kg mỡ. * Đặc điểm phát triển của cơ quan tiêu hóa Trọng lượng bộ máy tiêu hóa tăng lên từ 10 - 15 lần, chiều dài ruột non tăng lên gấp 5 lần, dung tích bộ máy tiêu hóa tăng lên 40 - 50 lần, chiều dài ruột già tăng lên từ 40 - 50 lần. Lúc đầu trọng lượng dạ dày chỉ là 6 – 8 g và
  17. 9 chứa được 35 – 50 g sữa nhưng chỉ sau 3 tuần đã tăng gấp 4 lần và đến lúc lợn con dạt 60 ngày tuổi đã nặng 150g và chứa được 700 - 1000g sữa (Nguyễn Quang Linh, 2005) [15]. Một đặc điểm cần lưu ý ở lợn con là có giai đoạn không có axit HCl trong dạ dày. Giai đoạn này được coi như một tình trạng thích ứng tự nhiên. Nhờ vậy nó tạo được khả năng thẩm thấu các kháng thể có trong sữa đầu của lợn mẹ. Trong giai đoạn này dịch vị không có khả năng phân giải protein mà chỉ có khả năng làm vón sữa đầu và sữa. Còn huyết thanh chứa albumin và globulin được chuyển xuống ruột và thẩm thấu vào máu. Ở lợn con từ 14 - 16 ngày tuổi, tình trạng thiếu axit HCl ở dạ dày không còn gọi là trạng thái bình thường nữa. Việc tập cho lợn con ăn sớm có tác dụng thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn thiện. Vì thế sẽ rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl. Bởi vì khi được bổ sung thức ăn thì thức ăn sẽ kích thích tế bào vách dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị (giai đoạn con non khác với con trưởng thành là chỉ tiết dịch vị khi thức ăn vào dạ dày). Lợn con dưới 1 tháng tuổi, dịch vị không có HCl tự do, lúc này lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng kết hợp với dịch nhày của dạ dày, hiện tượng này gọi là hypohydric. Do dịch vị chưa có HCl tự do nên men pepsin trong dạ dày lợn chưa có khả năng tiêu hóa portein của thức ăn. Vì HCl tự do có tác dụng kích hoạt men pepsinnogen không hoạt động thành men pepsin hoạt động và men này mới có khả năng tiêu hóa protein (Hoàng Toàn Thắng và cs, 2006) [19]. Enzym trong dịch vị dạ dày lợn con đã có từ lúc mới đẻ, tuy nhiên lợn trước 20 ngày tuổi không thấy khả năng tiêu hóa thực tế của dịch vị có enzym, sự tiêu hao của dịch vị tăng theo tuổi một cách rõ rệt khi cho ăn các loại thức ăn khác nhau, thức ăn hạt kích thích tiết ra dịch vị mạnh. Hơn nữa
  18. 10 dịch vị thu được khi cho thức ăn hạt kích thích HCl nhiều hơn và sự tiêu hóa nhanh hơn dịch vị thu được khi cho uống sữa. Đây là cơ sở cho việc bổ sung sớm thức ăn và cai sữa sớm cho lợn con. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [17] vì thiếu HCl tự do nên vi sinh vật có điều kiện dễ dàng phát triển gây bệnh đường tiêu hóa, điển hình là bệnh lợn con. Do đó để hạn chế bệnh đường tiêu hóa có thể kích thích vách tế bào dạ dày tiết ra HCl tự do sớm hơn bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Nếu tập ăn sớm cho lợn con vào lúc 5 - 7 ngày tuổi thì HCl tự do có thể tiết ra từ 14 ngày tuổi. Thực nghiệm còn xác nhận rằng nhiều loại vi khuẩn đường ruột đã sinh ra các chất kháng sinh ức chế sự phát triển của vi trùng gây bệnh, khi lợn con sinh ra hệ vi sinh vật đường ruột chưa phát triển đầy đủ số lượng vi khuẩn có lợi, chưa có khả năng kháng lại vi khuẩn gây bệnh nên rất dễ nhiễm bệnh đường tiêu hóa. Vi khuẩn gây bệnh phó thương hàn, vi khuẩn gây thối rữa ở lợn con mới sinh. Hoàng Toàn Thắng và cs, 2006 [19] cho rằng: Lợn con dưới 1 tháng tuổi, dịch vị không có HCl tự do, lúc này lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng kết hợp với dịch nhày của dạ dày, hiện tượng này gọi là hypohydric. Do dịch vị chưa có HCl tự do nên men pepsin trong dạ dày lợn chưa có khả năng tiêu hóa portein của thức ăn. Vì HCl tự do có tác dụng kích hoạt men pepsinnogen không hoạt động thành men pepsin hoạt động và men này mới có khả năng tiêu hóa protein. * Đặc điểm cơ năng điều tiết thân nhiệt Theo nhóm tác giả Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [12] ở lợn con sơ sinh, tỷ lệ nước trong cơ thể chiếm 82%. Vì có nhiều nước, nhiệt độ cơ thể giảm nhanh, 30 phút sau khi sinh lượng nước giảm 1,5 – 2% kèm theo giảm
  19. 11 thân nhiệt 5 - 100C, lợn con bị lạnh, các chức năng hoạt động bị rối loạn dẫn đến dễ bị chết non. Cơ năng điều tiết thân nhiệt của lợn con chưa hoàn chỉnh vì vỏ đại não của lợn con chưa phát triển hoàn thiện. Do đó việc điều tiết thân nhiệt và năng lực phản ứng kém, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường (nhiệt độ, độ ẩm). Theo Từ Quang Hiển và cs (1995) [11] ở lợn con, khả năng sinh trưởng và phát triển nhanh, yêu cầu về dinh dưỡng ngày càng tăng cao. Trong khi đó sản lượng sữa của lợn mẹ tăng dần đến 2 tuần sau khi đẻ và sau đó giảm dần cả về chất và lượng. Đây là sự mâu thuẫn giữa nhu cầu dinh dưỡng của lợn con và khả năng cung cấp sữa của lợn mẹ. Nếu không kịp thời bổ sung thức ăn cho lợn con thì lợn thiếu dinh dưỡng dẫn đến sức đề kháng yếu, lợn con gầy còm, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh tăng lên. Vì vậy nên tiến hành cho lợn con tập ăn sớm để khắc phục tình trạng khủng hoảng trong thời kỳ 3 tuần tuổi và giai đoạn sau cai sữa. Lợn con dưới 3 tuần tuổi cơ năng điều tiết thân nhiệt chưa hoàn chỉnh nên thân nhiệt chưa ổn định, nghĩa là sự thải nhiệt và sinh nhiệt chưa cân bằng. Khi còn là bào thai, các chất dinh dưỡng được mẹ cung cấp qua nhau thai, điều kiện sống tương đối ổn định. Lợn con sơ sinh gặp điều kiện sống hoàn toàn mới, nếu chăm sóc không tốt rất dễ dẫn đến bị còi cọc và tỷ lệ chết sẽ tăng cao. Ngoài ra lớp mỡ dưới da của lợn con còn mỏng, lượng glycogen dự trữ trong cơ thể lợn còn thấp, trên cơ thể lợn con lông còn thưa, mặt khác diện tích bề mặt cơ thể so với khối lượng cơ thể chênh lệch tương đối cao nên lợn con dễ bị mất nhiệt và khả năng cung cấp nhiệt cho lợn con chống rét còn thấp dẫn đến lợn con rất dễ mắc bệnh khi thời tiết thay đổi. Ở điều kiện nhiệt độ thấp, độ ẩm không khí cao gây ra hiện tượng tăng tỏa nhiệt ở lợn con bằng phương thức bức xạ. Vì thế ở nước ta vào cuối mùa
  20. 12 Đông đầu mùa Xuân, khí hậu lạnh và ẩm, lợn con sẽ bị toả nhiệt theo phương thức này, làm cho nhiệt lượng cơ thể mất đi, lợn bị lạnh. Đây là điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh phát triển, nhất là bệnh đường tiêu hoá. * Đặc điểm về khả năng miễn dịch Phản ứng miễn dịch là khả năng đáp ứng của cơ thể. Phần lớn các chất lạ chủ yếu là mầm bệnh. Mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể lợn con tương đối dễ dàng, do chức năng của các tuyến phòng vệ chưa hoàn chỉnh. Ở lợn con lượng enzym tiêu hoá và lượng HCl tiết ra còn ít, chưa đủ để đáp ứng cho quá trình tiêu hoá, gây rối loạn trao đổi chất, dẫn đến khả năng tiêu hoá kém, hấp thu kém. Trong giai đoạn này các loại vi khuẩn như: (Salmonella spp, E.coli ) dễ dàng xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá và gây bệnh. Lợn con mới đẻ ra trong cơ thể hầu như chưa có kháng thể. Lượng kháng thể tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu của lợn mẹ. Cho nên khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ sữa đầu của lợn mẹ. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [17], trong sữa đầu của lợn mẹ hàm lượng protein rất cao. Những ngày đầu mới đẻ, hàm lượng protein trong sữa chiếm 18- 19%, trong đó lượng globulin chiếm số lượng khá lớn (30 - 35%). Nó có tác dụng tạo sức đề kháng cho lợn nên sữa đầu có vai trò quan trọng đối với khả năng miễn dịch của lợn con. Lợn con hấp thu lượng globulin bằng con đường ẩm bào. Quá trình hấp thu nguyên vẹn nguyên tử globulin giảm đi rất nhanh theo thời gian. Nó chỉ có khả năng hấp thu qua ruột non của lợn con rất tốt trong 24 giờ đầu sau khi đẻ ra nhờ trong sữa đầu có kháng men antitripsin làm mất hoạt lực của men tripsin tuyến tụy và nhờ khoảng cách tế bào vách ruột của lợn con khá rộng. Cho nên 24 giờ sau khi được bú sữa đầu, hàm lượng globulin trong máu lợn con đạt tới 20,3mg/100ml máu. Sau 24 giờ, lượng kháng men trong sữa đầu giảm dần và khoảng cách giữa các tế bào
  21. 13 vách ruột của lợn con hẹp dần, nên sự hấp thu globulin kém hơn, hàm lượng globulin trong máu lợn con tăng lên chậm hơn. Đến 3 tuần tuổi chỉ đạt khoảng 24mg/100ml máu (máu bình thường của lợn trưởng thành có khoảng 65 mg/100ml máu). Do đó lợn con cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Nếu lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi mới có khả năng tự tổng hợp kháng thể. Do đó những lợn con không được bú sữa đầu thường sức đề kháng kém, dễ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao 2.2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn con Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục của lợn gồm hai nhóm: các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài. * Yếu tố bên trong: Yếu tố di truyền là một trong những yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất ảnh hưởng đến sinh trưởng phát dục của lợn. Quá trình sinh trưởng của lợn tuân theo các quy luật sinh học, nhưng chịu ảnh hưởng của các giống lợn khác nhau. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của lợn là quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Quá trình trao đổi chất xảy ra dưới sự điều khiển của các hoóc môn. Hoóc môn tham gia vào tất cả các quá trình trao đổi chất của tế bào và giữ cân bằng các chất trong máu. * Yếu tố bên ngoài: Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển cơ thể lợn bao gồm dinh dưỡng, nhiệt độ, môi trường, ánh sáng và các yếu tố khác. + Dinh dưỡng: Các yếu tố di truyền không thể phát huy tối đa nếu không có một môi trường dinh dưỡng và thức ăn hoàn chỉnh. Khi chúng ta đảm bảo đầy đủ về thức ăn bao gồm cả số lượng và chất lượng thức ăn thì sẽ góp phần thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát triển của các cơ quan trong cơ thể.
  22. 14 + Nhiệt độ và độ ẩm môi trường: Nhiệt độ môi trường không chỉ ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Nếu nhiệt độ môi trường không thích hợp thì sẽ không thể đảm bảo quá trình trao đổi chất diễn ra bình thường cũng như cân bằng nhiệt của cơ thể lợn. Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004) [6], các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể còn rất yếu. Theo Phạm Khắc Hiếu và cs (1998) [10], lợn con sinh ra phải được sưởi ấm ở nhiệt độ 34oC trong suốt tuần lễ đầu tiên, sau đó giảm dần xuống nhưng không được thấp hơn 30oC, như vậy lợn sẽ tránh được những stress lạnh ẩm. Khi nhiệt độ chuồng nuôi thấp lợn sẽ thất thoát nhiệt rất nhiều, lợn sẽ giảm khả năng tăng khối lượng và tăng tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng khối lượng. Nhiệt độ chuồng nuôi có liên quan mật thiết với ẩm độ không khí, ẩm độ không khí thích hợp cho lợn ở vào khoảng 70%. * Ánh sáng: Ánh sáng có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của lợn. Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của ánh sáng đối với lợn người ta thấy rằng ánh sáng có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng và phát triển của lợn con, lợn hậu bị và lợn sinh sản hơn là lợn vỗ béo. Khi không đủ ánh sáng sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của lợn, đặc biệt là quá trình trao đổi khoáng. Đối với lợn con từ sơ sinh đến 70 ngày tuổi, nếu không đủ ánh sáng thì tốc độ tăng khối lượng sẽ giảm từ 9,5 - 12%, tiêu tốn thức ăn giảm 8 - 9% so với lợn con được vận động dưới ánh sáng mặt trời. * Các yếu tố khác: Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển lợn đã nêu trên còn có các yếu tố khác như vấn đề về chuồng trại, chăm
  23. 15 sóc, nuôi dưỡng, tiểu khí hậu chuồng nuôi như không khí, tốc độ gió lùa, nồng độ các khí thải Nếu chúng ta cung cấp cho lợn các yếu tố đủ theo yêu cầu của từng loại lợn sẽ giúp cho cơ thể lợn sinh trưởng phát triển đạt mức tối đa. 2.2.2.Hiểu biết về chăm sóc và nuôi dưỡng lợn con theo mẹ 2.2.2.1.Kỹ thuật chăm sóc lợn con theo mẹ Chăm sóc là khâu quan trọng nhất trong việc nuôi dưỡng lợn con ở thời kỳ bú sữa vì đây là thời kỳ lợn con chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện ngoại cảnh. Nếu điều kiện ngoại cảnh bất lợi sẽ rất dễ gây ra tỷ lệ hao hụt lớn ở lợn con. + Chuồng nuôi: Chuồng nuôi phải được vệ sinh trước khi lợn mẹ đẻ. Nền chuồng phải luôn sạch sẽ và khô ráo, ấm về mùa đông, mát về mùa hè, đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm thích hợp cho lợn con, vào ban đêm cần phải có đèn sưởi để đảm bảo chống lạnh cho lợn con. Ngoài ra chuồng nuôi phải có máng tập ăn và máng uống cho lợn con riêng. Nền cứng hoặc sàn thưa không có độn khu vực cho lợn con mới sinh cần giữ ấm ở 32 - 35oC trong mấy ngày đầu, sau đó giữ 21 - 27oC cho đến lúc cai sữa 3 - 6 tuần tuổi. Nhiệt độ, độ ẩm và tốc độ gió làm thành một hệ thống tác nhân stress đối với gia súc. Theo Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [12], nhiệt độ môi trường ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và tăng trưởng của lợn. Nhu cầu nhiệt độ của lợn tùy vào từng giai đoạn sinh trưởng, lợn sữa giai đoạn 1 - 7 ngày tuổi cần nhiệt độ 30 – 31oC, lợn trên 20 ngày tuổi cần nhiệt độ 20 - 24oC. Trong mùa đông ở các tỉnh phía Bắc nhiều ngày giá lạnh, nhiệt độ có thể hạ xuống dưới 10oC ảnh hưởng không tốt đến tỷ lệ sống và khả năng tăng trưởng của lợn con. Theo Hồ Văn Nam và cs (2011) [16], khi gia súc bị lạnh ẩm kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác động thực bào, do đó gia súc dễ bị vi khuẩn cường độc gây bệnh.
  24. 16 + Cắt đuôi, bấm răng nanh, thiến: Thường thì trong chăn nuôi công nghiệp cần phải tiến hành cắt đuôi cho lợn nuôi thịt. Vì lợn nuôi thịt thường được nuôi thành các đàn lớn và có mật độ cao cho nên lợn thường tấn công nhau gây mất ổn định, giảm năng suất chăn nuôi. Vị trí tấn công thường là đuôi. Việc cắt đuôi thường tiến hành ngay sau đẻ hoặc trong tuần đầu sau đẻ. Dùng kìm điện cắt sát khấu đuôi sao cho để lại 2,5 – 3 cm. Cắt xong dùng cồn iot 70o để sát trùng. Ngoài ra lợn con mới đẻ đã có răng nanh, nên việc bấm răng nanh cũng tiến hành ngay sau đẻ để tránh tình trạng gây đau cho lợn mẹ khi bú, giảm tỷ lệ gây viêm vú cho lợn mẹ. Khi cắt răng nanh, người cắt tránh không phạm vào nướu hoặc lưỡi lợn con, ngoài ra người cắt cũng nên cẩn thận không để nanh gẫy bắn vào mắt mình. Trong thời kỳ này cũng phải thực hiện thiến cho những lợn đực không dùng làm giống. Có thể thiến trong khoảng từ 8 - 10 ngày tuổi. Cần sát trùng bằng cồn iod trước và sau thiến. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2013) [14], bệnh phó thương hàn là bệnh truyền nhiễm chủ yếu xảy ra ở lợn con 2-4 tháng tuổi. Đặc trưng của bệnh là do vi khuẩn tác động vào bộ máy tiêu hóa gây nên triệu chứng nôn mửa, ỉa chảy, phân khắm, vết loét lan tràn ở ruột già. + Tiêm phòng: Khi lợn con được 20 ngày tuổi nên tiêm phòng những loại vaccine: - Salmonella (2 ml/con) phòng bệnh phó thương hàn. - Giai đoạn lợn được 45 ngày tuổi nên tiêm phòng vaccine dịch tả. - Giai đoạn 60 - 70 ngày tuổi nên tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng và đóng dấu.
  25. 17 + Quản lý lợn con: Đối với những lợn con có dự định chọn làm giống thì cần phải có kế hoạch quản lý tốt. Những con này sẽ được cân và đánh số ở các giai đoạn sơ sinh, lúc cai sữa, lúc 50, 60 hay 70 ngày tuổi. Đây chính là cơ sở giúp cho việc lựa chọn để làm giống sau này. * Giai đoạn từ sơ sinh đến 3 ngày tuổi Bình thường khoảng thời gian giữa lợn con đẻ trước và lợn con đẻ liền kề 15 – 20 phút, cũng có khoảng cách nái đẻ kéo dài hơn. Lợn con đẻ ra phải được lau khô bằng vải màn xô mềm sạch theo trình tự miệng - mũi - đầu - mình - rốn - bốn chân, cho vào ổ úm sau khi nhiệt độ môi trường nhỏ hơn 35oC. Lợn nái đẻ xong con cuối cùng tiến hành bấm nanh, cắt rốn, cố định đầu vú cho lợn con mục đích là tạo điều kiện để đàn lợn con phát triển đồng đều. * Giai đoạn 3 ngày tuổi đến 3 tuần tuổi Trong thời gian này nói chung ổ lợn con đã bú thành thạo và rõ ràng đã bước vào giai đoạn khởi động tốt trong thời gian này việc chăm sóc quản lý rất quan trọng bao gồm cả phòng chống thiếu máu khống chế tiêu chảy, thiến lợn và cắt đuôi. Trong giai đoạn này sữa lợn mẹ đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con trong mọi vấn đề, trừ sắt. Sắt cần thiết cho việc hình thành hemoglobin trong máu nó vận chuyển oxygen đến các bộ phận cơ thể. Thiếu sắt sẽ gây thiếu máu nhưng có thể phòng ngừa bằng cách tiêm sắt. Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [7], một trong các yếu tố làm cho lợn con dễ mắc bệnh đường tiêu hóa là do thiếu sắt. Nhiều thực nghiệm đã chứng minh, trong cơ thể sơ sinh phải cần 40 – 50mg sắt nhưng lợn con chỉ nhận được lượng sắt qua sữa mẹ là 1mg. Vì vậy phải bổ sung một lượng sắt tối thiểu 200 - 250mg/con/ngày. Khi thiếu sắt, lợn con dễ sinh bần huyết, cơ thể suy yếu, sức đề kháng giảm nên dễ mắc hội chứng tiêu chảy. Nhu cầu sắt cho lợn con mỗi ngày cần 7 - 16 mg hoặc 21 mg/kg tăng khối lượng duy trì hemoglobin (hồng cầu) trong máu, sắt dự trữ cho cơ thể tồn
  26. 18 tại và phát triển. Lượng sắt trong sữa mẹ không đủ cho nhu cầu sắt của nhu cầu lợn con, triệu chứng điển hình của thiếu sắt ở lợn con là thiếu máu, hàm lượng hemoglobin giảm, da lợn con màu trắng xanh, đôi khi tiêu chảy, phân trắng, chậm lớn, có khi chết. * Từ 3 tuần tuổi đến cai sữa Thời gian này lợn con đã lớn nhanh hơn, nó trở thành dẻo dai và có khả năng đương đầu tốt hơn với môi trường ngoại cảnh của nó. Vào thời gian này, phần lớn lợn con theo mẹ đã được 3 - 4 tuần tuổi, chúng bắt đầu ăn thức ăn và lớn nhanh, sự tăng khối lượng này là tăng khối lượng có hiệu quả, do đó ta cần cố gắng giảm thấp yếu tố stress cho lợn con. Một cách để đạt năng suất tối đa là lợn con bắt đầu ăn càng sớm càng tốt. Nói chung sự tiết sữa của lợn mẹ đạt đến đỉnh cao lúc 3 - 4 tuần tuổi và bắt đầu giảm, lợn con bắt đầu sinh trưởng nhanh ở tuổi này và cần nhận được thức ăn bổ sung nếu nó sinh trưởng với tiềm năng di truyền của nó, trong giai đoạn này nội ký sinh trùng là vấn đề ở phần lớn các trại lợn và sự phá hoại do ký sinh trùng gây ra có thể bắt đầu từ rất bé. Yếu tố chăm sóc, quản lý chủ yếu cuối cùng của việc nuôi lợn con theo mẹ là cai sữa, tuổi cai sữa lợn con có thể thay đổi tùy theo đàn, tùy theo chuồng trại có sẵn. Nói chung lợn con có thể cai sữa bất cứ khi nào những lợn con càng bé càng đòi hỏi sự quản lý nhiều hơn. Để thực hiện cai sữa được đảm bảo và đạt hiệu quả cao ta cần chú ý những điểm sau để giảm stress khi cai sữa lợn con: + Chỉ cai sữa cho những lợn cân nặng trên 5,5 kg. + Cai sữa trong thời gian trên 2 - 3 ngày, cai sữa trước cho những ổ đông con. + Ghép nhóm lợn con theo tầm vóc cơ thể. + Hạn chế số lượng trong 1 ngăn là 30 con hoặc ít hơn, nếu được.
  27. 19 + Hạn chế mức ăn vào trong vòng 48 giờ nếu có xảy ra tiêu chảy sau cai sữa. + Cứ 4 - 5 lợn con thì đặt 1 máng ăn và cứ 20 - 25 lợn con thì lắp đặt 2 vòi nước uống. + Cho thuốc vào nước uống nếu tiêu chảy. 2.2.2.2. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ * Cho lợn con bú sữa đầu và cố định đầu vú cho lợn con: Lợn con đẻ ra cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Thời gian tiết sữa đầu của lợn nái là 1 tuần kể từ khi đẻ nhưng có ý nghĩa lớn nhất đối với lợn con là trong 24 giờ đầu. Sau khoảng 2 giờ, nếu lợn mẹ đẻ xong thì cho cả đàn con bú cùng lúc. Nếu lợn mẹ chưa đẻ xong thì nên cho những con đẻ trước bú trước. Theo Vũ Đình Tôn và Trần Thị Thuận (2006) [22], lợn con khi mới sinh ra trong máu hầu như không có kháng thể. Song lượng kháng thể trong máu lợn con được tăng rất nhanh sau khi lợn con bú sữa đầu. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [17], lợn con mới đẻ lượng kháng thể tăng nhanh ngay sau khi bú sữa đầu của lợn mẹ, cho nên khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ lợn mẹ. Theo Trần Thị Dân (2008) [5], lợn con mới đẻ trong máu không có globulin nhưng sau khi bú sữa đầu lại tăng lên nhanh chóng do truyền từ mẹ sang qua sữa đầu. Lượng globulin sẽ giảm sau 3 – 4 tuần, rồi đến tuần thứ 5 – 6 lại tăng lên và đạt giá trị bình thường 65 mg/100ml máu. Các yếu tố miễn dịch như bổ thể, lyzozyme, bạch cầu được tổng hợp còn ít, khả năng miễn dịch đặc hiệu của lợn con kém. Vì vậy, cho lợn con bú sữa đầu rất cần thiết để tăng khả năng bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh nhất là hội chứng tiêu chảy.
  28. 20 Sữa đầu có hàm lượng các chất dinh dưỡng rất cao. Hàm lượng protein trong sữa đầu gấp 2 lần so với bình thường, vitamin A gấp 5 - 6 lần, vitamin C gấp 2,5 lần, vitamin B1 và sắt gấp 1,5 lần. Đặc biệt trong sữa đầu có hàm lượng globulin mà sữa thường không có, globulin có tác dụng giúp cho lợn con có sức đề kháng đối với mầm bệnh. Ngoài ra, M++ trong sữa đầu có tác dụng tẩy các chất cặn bã (phân su) trong quá trình tiêu hóa phát triển thai để hấp thu chất dinh dưỡng mới. Nếu không nhận được Mg++ thì lợn con sẽ bị rối loạn tiêu hóa, gây tiêu chảy, tỷ lệ chết cao. Việc cố định đầu vú cho lợn con nên bắt đầu ngay từ khi cho chúng bú sữa đầu, theo quy luật tiết sữa của lợn nái thì lượng sữa tiết ra ở các vú phần ngực nhiều hơn vú ở phần bụng, mà lợn con trong ổ thường con to, con nhỏ không đều nhau. Nếu để lợn con tự bú thì những con to khỏe thường tranh bú ở những vú trước ngực có nhiều sữa hơn và dẫn tới tỷ lệ đồng đều của đàn lợn con rất thấp, có trường hợp có những con lợn yếu không tranh được bú sẽ bị đói làm tỷ lệ chết của lợn con cao. Khi cố định đầu vú, nên ưu tiên những con lợn nhỏ yếu được bú phía trước ngực. Công việc này đòi hỏi phải kiên trì, tỷ mỉ bắt từng con cho bú nhiều lần trong một ngày (7 - 8) lần, làm liên tục trong 3 - 4 ngày để chúng quen hẳn với vị trí mới thôi. Cũng có trường hợp số lợn con đẻ ra ít hơn số vú thì những lợn vú phía sau có thể cho mỗi con làm quen 2 vú, để vừa tăng cường lượng sữa cho lợn con, vừa tránh bị teo vú cho lợn mẹ. Nếu cố định đầu vú tốt thì sau 3 - 4 ngày lợn con sẽ quen tự bú ở các vú quy định cho nó, lợn con quen nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào thế nằm của lợn mẹ, nếu lợn mẹ thường xuyên nằm quay về một phía khi cho con bú thì lợn con nhận biết vú quy định của nó sớm hơn. Ngược lại, nếu lợn mẹ nằm thay đổi vị trí luôn thì lợn con sẽ chậm nhận biết hơn. Theo Duy Hùng (2011) [13], vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng ngày bằng dung dịch sát trùng. Bấm nanh cho lợn con mới sinh, nên cho lợn
  29. 21 con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng bị viêm. Dùng các phương pháp chườm nóng, xoa bóp nhẹ lên vùng bị sưng. Nếu ghép lợn con với lợn mẹ khác thì phun eryzel cho cả đàn con cũ và mới không bị mẹ cắn, những con mới ghép cũng phải cố định vú bú. * Bổ sung sắt cho lợn con Trong những ngày đầu, khi lợn con chưa ăn được, lượng sắt mà lợn con tiếp nhận từ nguồn sữa mẹ không đủ nhu cầu của cơ thể, vì vậy lợn con cần được bổ sung thêm sắt. Nhu cầu sắt cần cung cấp cho lợn con 30 ngày đầu sau đẻ là 30 x 7 mg/ ngày = 210 mg. Trong đó, lượng sắt cung cấp từ sữa chỉ đạt 1 - 2mg/ ngày (36 - 60 mg/30 ngày), lượng sắt thiếu hụt cho một lợn con khoảng 150 - 180 mg, vì vậy mỗi lợn con cần cung cấp thêm lượng sắt thiếu hụt. Trong thực tế thường cung cấp thêm 200 mg. Nên tiêm sắt cho lợn con trong 3 - 4 ngày sau khi sinh. Việc tiêm sắt thường làm với các thao tác khác để tiết kiệm công lao động. Nếu cai sữa lúc 3 tuần tuổi, tiêm 1 lần 100mg là đủ. Nếu cai sữa sau 3 tuần tuổi, nên tiêm 200mg sắt, tiêm 2 lần. Lần 1: 3 ngày tuổi, lần 2: 10 - 12 ngày tuổi. Triệu chứng điển hình của sự thiếu sắt là thiếu máu, hàm lượng hemoglobin giảm. Khi thiếu sắt, da của lợn con có màu trắng xanh, đôi khi lợn con bị ỉa chảy, ỉa phân trắng, lợn con chậm lớn, có khi bị chết. Để loại trừ hiện tượng thiếu sắt cần bổ sung kịp thời cho lợn con bằng cách tiêm, cho uống hoặc cho ăn. Đưa sắt vào cơ thể lợn con bằng cách tiêm là đạt hiệu quả nhất. Nên dùng sắt dưới dạng dextran, hợp chất này có tên là Ferri - Dextran. Ferri -
  30. 22 Dextran là hợp chất có phân tử lớn nên ngấm từ từ, hiệu quả kéo dài. Cách thức sử dụng: - Cách 1: Chỉ tiêm 1 lần vào ngày thứ 3 sau khi đẻ, với liều lượng 200 mg sắt (Fe - Dextran) cho 1 lợn con. - Cách 2: Tiêm lần 2: lần thứ nhất 100mg vào ngày thứ 3 sau khi đẻ, lần thứ 2 (tiêm lặp lại) là 7 ngày sau khi tiêm lần thứ nhất. Cũng với liều lượng 100 mg cho 1 lợn con. Để ngăn ngừa hiện tượng ngộ độc sắt cho lợn con, cần bổ sung thêm vitamin E vào khẩu phần ăn của lợn mẹ 1 ngày trước khi tiêm (khoảng 500mg). Nếu thiếu vitamin E thì cần cung cấp 20 - 30 mg Fe vào ngày thứ 3 sau khi sinh cũng đã gây ngộ độc cho cơ thể lợn con. - Cách tiêm sắt cho lợn con Dùng 1 bơm tiêm sạch lấy dung dịch sắt khỏi lọ chứa, sử dụng kim tiêm 14 hoặc 16 (đường kính lớn) để lấy thuốc. Sau khi lấy thuốc đầy bơm dùng kim 8, dài 1 cm để tiêm. Sắt tiêm quá liều có thể gây hại, thậm chí có thể gây độc. Kiểm tra liều dùng ghi ở trên nhãn sản phẩm, không cần thay hay sát trùng kim tiêm cho từng con lợn, song điểm tiêm nếu bẩn nên lau bằng nước sát trùng. Rửa và sát trùng dụng cụ sau khi tiêm cho nhóm lợn con. Việc sử dụng kim tiêm và tiêm 1 lần tạo điều kiện vệ sinh hơn. Nên tiêm vào cổ, không nên tiêm ở mông vì có thể làm hại đến dây thần kinh và cũng có thể vết sắt dư thừa lưu ở thân lợn thịt mổ bán. Tiêm sắt vào cơ bắp hay tiêm vào dưới da. Cẩn thận không tiêm vào phần xương sống. Giữ mũi tiêm một lúc để tránh hoặc giảm lượng thuốc chảy ngược ra. Điểm khuyến cáo để tiêm dưới da là chỗ da kéo lên được ở phía trước chân trước. * Tập cho lợn ăn sớm: - Mục đích: + Bù đắp phần dinh dưỡng thiếu hụt cho nhu cầu sinh trưởng phát triển của lợn con khi sản lượng sữa mẹ giảm sau 3 tuần tiết sữa.
  31. 23 + Rèn luyện bộ máy tiêu hóa của lợn con sớm hoàn thiện về chức năng, đồng thời kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển nhanh hơn về kích thước và khối lượng. + Giảm bớt sự nhấm nháp thức ăn rơi vãi của lợn con để hạn chế được các bệnh đường ruột của lợn con. + Giảm bớt sự khai thác sữa mẹ kiệt quệ và giảm tỷ lệ hao mòn của lợn mẹ, từ đó lợn mẹ sớm động dục trở lại sau khi cai sữa lợn con. + Tránh sự cắn xé bầu vú lợn mẹ, hạn chế bệnh viêm vú. + Có điều kiện để cai sữa sớm cho lợn con, tăng hệ số quay vòng lứa đẻ/nái/năm. - Phương pháp tập ăn sớm: Khi lợn con đạt 7 - 10 ngày tuổi, ta nên tiến hành cho lợn con làm quen với thức ăn. Thức ăn tập ăn phải đảm bảo có tính thèm ăn cao. Cần lựa chọn loại thức ăn, các chất phụ gia, cũng như phương pháp chế biến sao cho kích thích sự thu nhận thức ăn của lợn con. Lợn con thường rất thích ăn thức ăn dạng viên hay bột nhỏ khô, những thức ăn này thường là các loại tấm, bắp, đậu nành được rang xay để tạo mùi thơm. Phải cho lợn con làm quen với nguồn glucid, lipid, protid của các loại thực liệu thông thường để hệ tiêu hóa của lợn con sớm bài tiết các enzyme tiêu hóa thích hợp. 2.2.2.3. Cai sữa cho lợn con * Điều kiện cai sữa cho lợn con: - Phải chủ động thức ăn, thức ăn cần phải có phẩm chất tốt, giá trị dinh dưỡng cao, cân đối. -Sức khỏe của lợn con và lợn mẹ phải tốt. - Lợn con phải ăn tốt và tiêu hóa tốt các loại thức ăn. - Cần phải có trang thiết bị đầy đủ, đúng kỹ thuật. - Người chăn nuôi phải có tay nghề, tinh thần trách nhiệm cao.
  32. 24 * Các hình thức cai sữa: - Cai sữa thông thường: Cai sữa từ 42 - 60 ngày tuổi. + Ưu điểm: Lợn con biết ăn tốt, thức ăn yêu cầu không cao lắm, lợn con khỏe mạnh hơn, khả năng điều tiết thân nhiệt tốt hơn nên chăm sóc nhẹ nhàng hơn. + Nhược điểm: Khả năng sinh sản thấp, chi phí cho 1kg khối lượng lợn con cao, tỷ lệ hao mòn lợn mẹ lớn hơn. - Cai sữa sớm: Cai sữa từ 21 đến 28 ngày tuổi. + Ưu điểm: Nâng cao sức sinh sản của lợn nái (nâng cao số lứa đẻ lên 2,33 lứa so với 2,19 lứa), tránh được một số bệnh truyền nhiễm từ mẹ sang con, giảm chi phí thức ăn/1kg tăng khối lượng lợn con (20% so với cai sữa thông thường), giảm tỷ lệ hao mòn lợn mẹ. + Nhược điểm: Đòi hỏi thức ăn phải có chất lượng tốt, người chăm sóc nuôi dưỡng phải nhiệt tình với công việc và có nhiều kinh nghiệm. * Kỹ thuật cai sữa: Cần tiến hành từ từ: + Ngày đầu: Tách mẹ từ 7 giờ sáng, buổi trưa cho về với lợn con, 13 giờ tách lợn mẹ đến 17 giờ lại cho lợn mẹ về với lợn con. + Ngày thứ 2: Buổi sáng tách lợn mẹ đi, buổi chiều 17 giờ cho lợn mẹ về với lợn con. + Ngày thứ 3: Buổi sáng tách hẳn lợn mẹ với lợn con, không gây ảnh hưởng tới lợn con. - Trước cai sữa 2 - 3 ngày cần giảm số lần bú của lợn con. - Giảm thức ăn cho lợn mẹ trước khi cai sữa 1 - 2 ngày. - Chế độ ăn đối với lợn con: + Tỷ lệ xơ trong khẩu phần thấp: Khả năng tiêu hóa chất xơ ở lợn con còn kém, tỷ lệ xơ ở trong khẩu phần ăn cao thì lợn con sinh trưởng phát triển
  33. 25 chậm, tiêu tốn thức ăn cao, lợn con dễ táo bón, viêm ruột và có thể dẫn đến còi cọc, tỷ lệ thích hợp là 5 - 6 %. Xu hướng trong những năm gần đây ở các nước chăn nuôi tiên tiến người ta khuyến khích nâng cao tỷ lệ xơ trong khẩu phần ăn của lợn để nâng cao sức khỏe. + Có tỷ lệ ăn thích hợp: Lợn con ở giai đoạn này cần có dinh dưỡng tốt cho phát triển bộ xương và cơ bắp là chủ yếu. Nếu chúng ta cung cấp khẩu phần ăn có lượng thức ăn tinh bột cao, lợn con sẽ béo sớm và khả năng tăng trọng sẽ giảm, tích lũy nhiều mỡ sớm. Tỷ lệ thức ăn tinh thích hợp cho lợn con trong giai đoạn này là 80% trong khẩu phần. + Có tỷ lệ nước thích hợp: Nếu khẩu phần lợn con có tỷ lệ nước cao sẽ dẫn đến tiêu hóa kém, giảm khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng nhất là protein, thức ăn nhiều nước cũng gây nền chuồng bẩn, ẩm thấp và lợn con dễ nhiễm bệnh. Nếu tỷ lệ nước thấp sẽ gây nên thiếu nước cho nhu cầu sinh trưởng và phát triển của lợn con. Tỷ lệ thức ăn tinh : thô phải thích hợp, cứ 1kg thức ăn tinh trộn với 0,5l nước sạch, tối đa có thể là tỷ lệ 1 : 1, ngoài ra người chăn nuôi phải cho lợn con uống nước đầy đủ theo hình thức tự do. Ngoài ra chúng ta còn bổ sung khoáng vi lượng như Mn, Co, Cu, Mg, Fe, và bổ sung cho lợn những chế phẩm vitamin - khoáng. + Phương pháp cho lợn con ăn: Cho ăn nhiều bữa trong ngày, 5 - 6 bữa/ngày thì có tốc độ tăng trọng cao hơn 3 bữa/ngày. Tuy nhiên, cho ăn nhiều bữa trong ngày sẽ tốn công lao động trong chăn nuôi. Từ đó người chăn nuôi cần lựa chọn số bữa thích hợp để cho lợn con ăn. Cho lợn con ăn đúng giờ giấc quy định và tập cho lợn con những phản xạ có điều kiện về tiêu hóa.
  34. 26 Cho lợn con ăn từ từ để tránh vung vãi ra ngoài và hạn chế được lợn con mắc các bệnh về đường tiêu hóa. Cho lợn con ăn đúng tiêu chuẩn và khẩu phần ăn. Theo dõi sức khỏe để điều chỉnh khẩu phần và tiêu chuẩn cho chúng. 2.2.3. Một số biện pháp phòng bệnh cho lợn con theo mẹ * Vệ sinh phòng bệnh: - Vệ sinh chuồng trại: + Ngăn cách khu vực chăn nuôi lợn với các súc vật khác như: Chó, mèo + Rửa và phun thuốc sát trùng chuồng trại sạch sẽ ít nhất 3 - 7 ngày trước khi thả lợn vào chuồng. + Hàng ngày phải quét phân trong chuồng, giữ cho chuồng luôn khô ráo, sạch sẽ. + Xử lý xác chết gia súc nghiêm ngặt: Chôn sâu, đốt + Nên có kế hoạch rửa chuồng, phun thuốc sát trùng và diệt ruồi, muỗi mỗi tuần 2 lần. - Vệ sinh thức ăn và nước uống: + Thường xuyên kiểm tra thức ăn trước khi cho lợn ăn, thức ăn phải đảm bảo chất lượng, không bị mốc + Nếu sử dụng thức ăn trộn thì định kỳ phải trộn kháng sinh để phòng bệnh cho lợn. + Nước uống phải đủ, sạch, không bị nhiễm bẩn. * Tiêm vắc xin phòng bệnh: Bên cạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, cần phòng những bệnh thông thường như dịch tả, cầu trùng, khô thai, giả dại lịch tiêm phòng cụ thể như sau:
  35. 27 Bảng 2.1. Lịch tiêmvắc xin phòng bệnh của trại cho lợn nái Vắc xin/Thuốc Đường Liều lượng Loại lợn Tuần tuổi Phòng bệnh /chế phẩm đưa thuốc (ml/con) Thiếu sắt Prologal Tiêm 1-2 3-4 ngày Cầu trùng Baycox 5% Uống 1 7-14 ngày Suyễn MycoGuard Tiêm bắp 1 Lợn con Porcine 14- 17 ngày Còi cọc Circovirus Tiêm bắp 2 Vaccine 25, 29 tuần tuổi Khô thai Parvo Tiêm bắp 2 26 tuần tuổi Dịch tả Pestvac Tiêm bắp 2 Lợn hậu bị 27, 30 tuần tuổi Giả dại Begonia Tiêm bắp 2 28 tuần tuổi LMLM FMD Tiêm bắp 2 Lợn nái 10 tuần chửa Dịch tả Pestvac Tiêm bắp 2 sinh sản 12 tuần chửa LMLM FMD Tiêm bắp 2 Định kỳ hàng năm vào tháng 4, 8, 12 tiêm phòng bệnh tổng đàn vắc xin giả dại begonia tiêm bắp 2 ml/con. Đối với lợn đực: - Lợn đực hậu bị mới nhập về: 3 tuần tiêm phòng vắc xin dịch tả Pestvac, 4 tuần tiêm phòng vắc xinlở mồng long móng FMD, vắc xingiả dại begonia. - Lợn đực đang khai thác tiêm phòng vào tháng 5, tháng 11 vắc xin dịch tả Pestvac. Tháng 4, 8, 12 tiêm phòng vắc xinlở mồng long móng FMD, vắc xingiả dại begonia. 2.2.4. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 2.2.4.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Việc nghiên cứu về giai đoạn lợn con theo mẹ và sau cai sữa được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm, giai đoạn lợn con theo mẹ có đặc
  36. 28 điểm là lợn con sinh ra không được cung cấp nguồn dinh dưỡng trực tiếp như khi còn là bào thai. Bộ máy tiêu hóa chưa hoàn thiện, môi trường sống thay đổi, lượng sắt do mẹ cung cấp giảm dần, lợn con dễ mắc bệnh đặc biệt là bệnh đường tiêu hóa. Theo Hoàng Văn Thắng và cs (2006) [4], cần tập cho lợn con ăn sớm, vừa bổ sung thêm chất dinh dưỡng vừa có tác dụng bổ sung thêm chất tiết dịch vị, tăng hàm lượng HCl và enzyme vừa kích thích sự phát triển của dạ dày và ruột để thích ứng kịp thời với chế độ ăn sau cai sữa. Theo Nguyễn Quang Linh (2005) [15], lợn con trong giai đoạn bú sữa có khả năng sinh trưởng và phát dục rất nhanh. Từ lúc sơ sinh đến khi cai sữa trọng lượng của lợn con tăng 10 - 12 lần. So với các gia súc khác thì tốc độ sinh trưởng của lợn con tăng nhanh hơn gấp nhiều lần. Tốc độ sinh trưởng của lợn con là không đồng đều. Lợn sinh trưởng nhanh nhất trong 21 ngày đầu sau đó tốc độ sinh trưởng giảm dần. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do lượng sữa của lợn mẹ bắt đầu giảm. Sản lượng sữa mẹ tăng dần từ khi mới đẻ ra cho tới khi lợn con 15 ngày tuổi, lúc này hàm lượng sữa mẹ đạt cao nhất và ổn định cho tới ngày thứ 20, sau đó thì giảm dần. Lợn con trong giai đoạn này sinh trưởng và phát dục nhanh nhất do đó nhu cầu dinh dưỡng yêu cầu ngày càng cao trong khi hàm lượng sữa mẹ thì giảm dần dẫn tới lợn con thiếu dinh dưỡng nếu không có thức ăn bổ sung. Theo , sự phát triển của cơ thể thì các cơ quan bộ phận, hàm lượng các chất dinh dưỡng, các thành phần của cơ thể cũng có sự thay đổi nhanh chóng. Hàm lượng nước trong cơ thể giảm dần, biểu thị bằng tỷ lệ giữa nước so với trọng lượng sống như sau: Lúc sơ sinh tỷ lệ này là 77,88%, lúc 7 ngày tuổi là 68,52%, lúc 14 ngày tuổi là 63,94%. Tỷ lệ nước giảm nhưng tỷ lệ các chất dinh dưỡng so với trọng lượng cơ thể lại tăng. Tỷ lệ Protein với trọng lượng
  37. 29 cơ thể sống lúc mới sinh là 11,2%, đến lúc 7 ngày tuổi là 13,57%, đến 14 ngày tuổi là 14,37%. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [17], lợn con cho bú sữa có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh nhưng không đều qua các giai đoạn, tốc độ nhanh nhất là 21 ngày đầu, sau 21 ngày tốc độ giảm xuống có sự giảm này là do nhiều nguyên nhân song chủ yếu là do lượng sữa của lợn mẹ bắt đầu giảm xuống, hàm lượng trong máu của lợn con bị giảm. Bị giảm tốc độ phát triển thường kéo dài 2 tuần và còn là giai đoạn khủng hoảng của lợn con tập ăn sớm để bổ sung thức ăn cho lợn con trong giai đoạn này. Lê Văn Thọ (2007) [21], đã sử dụng kích tố kích thích quá trình tạo máu để duy trì và thúc đẩy quá trình phát triển của gia súc. Theo Đặng Minh Phước và cs (2006) [18], bổ sung chế phẩm axit hữu cơ có thành phần axit lactic, formic, photphoric với tỷ lệ 0,3 – 0,5% vào thức ăn lợn con sau cai sữa ở giai đoạn 42 – 56 ngày tuổi đã có tác dụng cải thiện tăng khối lượng từ 4,75% - 10,29%. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng giảm từ 7,57% - 8,11%. Tỷ lệ tiêu chảy giảm từ 33,78% - 49,23% so với đối chứng. Công ty Pig Việt Nam (1998) [3], đã khẳng định rằng: Dù cho lợn nái ăn tốt và nhiều sữa vẫn nên cho lợn con dùng thức ăn tập ăn sớm để tăng khối lượng sau cai sữa, thêm vào đó giúp lợn con làm quen với thức ăn khô sau khi cai sữa 3 - 4 tuần tuổi, cho lợn con tập ăn sớm ở 7 ngày tuổi, dùng loại máng ăn nhỏ, nhẹ, dễ cọ rửa, cho lợn con ăn bằng cách rải một ít thức ăn phía trước, tạo cho chúng niềm vui thích và mong muốn được ăn, không để máng ăn trực tiếp dưới bóng đèn sưởi và gần vòi uống. Cho lợn tập ăn 3 - 4 lần/ngày, dần tăng lượng cám lên, cung cấp nước uống thường xuyên cho lợn con. Công ty Cargill tại Việt Nam (2003) [2], đưa ra lý do mà các nhà chăn nuôi cần phải cho lợn tập ăn sớm từ 7 - 10 ngày là:
  38. 30 + Sau 21 ngày tiết sữa, lượng sữa mẹ bắt đầu giảm dần. Nên chỉ đáp ứng được 95% nhu cầu dinh dưỡng cho lợn con. + Cho lợn tập ăn sớm, thức ăn tập ăn sớm sẽ kích thích hệ tiêu hóa lợn con sớm phát triển. Điều đó giúp lợn con khi cai sữa sẽ ăn, tiêu hóa và hấp thu tốt thức ăn và làm giảm được sự hao hụt lợn mẹ. + Tránh được nguy cơ lợn mẹ bị yếu chân, bại liệt và giảm số con đẻ ở những lứa đẻ tiếp theo. + Rút ngắn được thời gian chờ phối của lợn nái, làm giảm chi phí thức ăn cho lợn nái trong thời gian này. + Tăng nhanh lứa đẻ, số lợn con thu được của một nái trên năm. Công ty liên doanh Việt Pháp Guyo mare (2003) [1], đã đưa ra những lời khuyến cáo: Sự tiết sữa của lợn nái chỉ tăng lên đến ngày thứ 21 kể từ khi sinh, sau đó giảm dần. Ngược lại, khối lượng lợn con tăng dần theo thời gian. Vì vậy, trong thời gian lợn con theo mẹ cần phải tập ăn sớm cho chúng trước khi lượng sữa của lợn mẹ cung cấp thiếu bằng cách cho lợn tập ăn sớm từ 7 ngày tuổi. 2.2.4.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Sokol (1981) [26], cho rằng, vi khuẩn E.coli cộng sinh có mặt thường trực trong đường ruột của người và động vật, trong quá trình sống vi khuẩn có khả năng tiếp nhận các yếu tố gây bệnh như: yếu tố bám dính (K88, K99), yếu tố dung huyết (Hly), yếu tố cạnh tranh (Colv), yếu tố kháng kháng sinh (R) và các độc tố đường ruột. Các yếu tố gây bệnh này không được di truyền qua DNA của chromosome mà được di truyền qua DNA nằm ngoài chromosome gọi là plasmid. Những yếu tố gây bệnh này đã giúp cho vi khuẩn E.coli bám dính vào nhung mao ruột non, xâm nhập vào thành ruột, phát triển với số lượng lớn. Sau đó vi khuẩn thực hiện quá trình gây bệnh của mình bằng cách sản sinh độc tố, gây hội chứng tiêu chảy, phá huỷ tế bào niêm mạc ruột.
  39. 31 Smith (1967) [25], thông báo có 2 loại độc tố là thành phần chính của Enterotoxin được tìm thấy ở các vi khuẩn gây bệnh. Sự khác biệt của độc tố này là độc tố chịu nhiệt (Heat Stabletoxin – ST) chịu được nhiệt lớn hơn 1000C trong 15 phút, còn độc tố không chịu nhiệt (Heat labiletoxin – LH) bị vô hoạt ở nhiệt độ 600C trong 15 phút. Glawischning E. (1992) [24], xác định Clostridium perfringens type A và type C là một trong những nguyên nhân gây tiêu chảy và đã gây thiệt hại kinh tế lớn cho người chăn nuôi. Akita (1993) [23], đã nghiên cứu sản xuất kháng thể đặc hiệu qua lòng đỏ trứng gà dùng trong phòng và chữa bệnh tiêu chảy ở lợn con. Cùng với sự phân lập và nghiên cứu các yếu tố gây bệnh của E.coli, việc nghiên cứu và sản xuất các chế phẩm phòng tiêu chảy ở lợn cũng được các nhà khoa học trên thế giới đặc biệt quan tâm.
  40. 32 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Đàn lợn con từ sơ sinh đến cai sữa. - Phạm vi nghiên cứu: Lợn nuôi tại trại lợn giống cao sản. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Tại trại lợn giống cao sản,huyện Hiệp Hòa,tỉnh Bắc Giang. - Thời gian: Từ 18 tháng 05 năm 2018 đến 18 tháng 11 năm 2018. 3.3. Nội dung nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi 3.3.1. Nội dung nghiên cứu - Đánh giá tình hình chăm sóc nuôi dưỡng lợn tại trại lợn giống cao sản trong 3 năm (2016-2018). - Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng trên đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại. - Áp dụng các biện pháp phòng và trị bệnh cho đàn lợn con tại trại. - Tham gia các công tác khác trong 6 tháng thực tập tại cơ sở. 3.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi - Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn giống cao sản, xã Đống Vòng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (2016-2018). - Số lượng lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại. - Thực hiện các biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng trên đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại. - Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh. - Lịch tiêm phòng đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại. - Tình hình mắc bệnh của đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại. - Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn tại trại.
  41. 33 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp thực hiện 3.4.1.1. Phương pháp thu thập thông tin Để đánh giá được tình hình chăn nuôi lợn tại trại Lợn giống cao sản chúng tôi tiến hành thu thập thông tin thông qua sổ sách của trại kết hợp với theo dõi trực tiếp về tình hình thực tế trên đàn lợn con từ sơ sinh đến cai sữa nuôi của trại. 3.4.1.2. Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến cai sữa của trại Chúng tôi sử dụng quy trình đang được áp dụng cho đàn lợn nuôi tại trại và theo dõi, đánh giá hiệu quả. + Hàng ngày trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh viên chúng tôi tất cả đều phải đi qua phòng sát trùng và tắm sạch sẽ mặc quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. + Kiểm tra bóng đèn, quạt, lợn con, lợn nái khi nhận bàn giao ca giữa ca ngày và ca đêm. + Đập lợn dậy, cào phân, tránh lợn mẹ nằm đè phân. + Vệ sinh máng ăn của lợn nái và cho lợn nái ăn thức ăn hỗn hợp. + Bắt nhốt lợn con vào ô úm rồi lau sàn nhựa (hoặc rắc vôi rồi quét). Chú ý sử dụng 2 chổi lau sàn nhựa 1 chổi để lau ô lợn bình thường, 1 chổi để lau ô lợn bị tiêu chảy. + Thay thảm ướt thảm bẩn vào đầu buổi sáng và đầu buổi chiều rồi cho vào bể ngâm. + Vệ sinh máng tập ăn cho lợn con và tra thức ăn tập ăn thường xuyên. + Rắc vôi lối đi giữa, xung quanh chuồng và dưới gầm chuồng. + Vắt sữa đầu lợn nái đang đẻ hoặc pha sữa để cho đàn lợn còi và những con nhỏ không tranh bú được.
  42. 34 + Lau vú và tắm sát trùng sạch sẽ cho lợn nái sắp đẻ. + Đỡ đẻ cho lợn nái. + Cho lợn con uống thuốc phòng bệnh cầu trùng khi được 3 ngày tuổi. + Cho lợn con uống thuốc amoxicol và điện giải phòng tiêu chảy đối với lợn con sau sinh 1 và 2 ngày tuổi. + Mài nanh, bấm tai cho lợn con được 2-3 ngày tuổi. + Phun sát trùng chuồng vào đầu giờ chiều lúc 14h (thuốc sát trùng ommicide 2 lần hàng ngày, pha với tỷ lệ 320ml/1000 lít nước) + Thu phân vào bao và quét dọn sạch sẽ quanh chuồng. + Đếm lợn con và ghi vào sổ theo dõi vào cuối ngày. 3.4.1.3. Quy trình phòng bệnh cho lợn tại trại * Công tác vệ sinh Vệ sinh là một trong những khâu quan trọng quyết quan trọng của vệ sinh trong chăn nuôi nên trong suốt quá trình thực tập, em tiến hành vệ sinh: - Hàng ngày, vệ sinh chuồng trại, tẩy rửa sàn chuồng, dọn rửa máng ăn, trút bỏ thức ăn định tới hiệu quả chăn nuôi. Vệ sinh bao gồm vệ sinh chuồng nuôi, vệ sinh đất, nước và môi trường xung quanh trang trại Hiểu được tầm thừa và ẩm ướt. - Định kỳ vệ sinh môi trường xung quanh chuồng trại như: Khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm, rắc vôi bột trong chuồng, diệt động vật mang mầm bệnh như: Ruồi, chuột nhằm ngăn chặn dịch bệnh xảy ra. - Hàng ngày phun thuốc sát trùng omnicine để tránh mầm bệnh từ bên ngoài vào khu vực chăn nuôi. - Mỗi tuần tiến hành khử trùng hành lang, gầm chuồng một lần bằng nước vôi. - Mỗi tháng quét vôi hành lang ngoài chuồng, khơi thông cống rãnh thoát nước 2 lần.
  43. 35 Dưới đây là lịch sát trùng của trại: Bảng 3.1. Lịch sát trùng trại lợn nái Trong chuồng Ngoài Ngoài khu Thứ Chuồng nái Chuồng Chuồng Chuồng vực chăn chửa đẻ cách ly nuôi Phun sát Phun sát CN Trùng Trùng Phun sát Quét Phun sát trùng hoặc rắc Phun sáttrùng Phun trùng Thứ 2 toàn vôi đường + rắc vôi sát trùng toàn bộ bộ khu đi khu vực vực Quét Phun sát trùng Phun sát hoặc rắc Thứ 3 + quét vôi Trùng vôi đường đi đường đi Xả vôi xút Thứ 4 Phun sát trùng Rắc vôi Rắc vôi gầm Phun sát trùng Thứ 5 Phun ghẻ + xả vôi, xút Phun ghẻ gầm Phun sát Phun sát Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 6 trùng Trùng Trùng Trùng trùng + rắc vôi Vệ sinh Vệ sinh Vệ sinh tổng Vệ sinh Thứ 7 tổng tổng chuồng chuồng tổng khu chuồng
  44. 36 * Công tác phòng bệnh Mầm bệnh có ở khắp nơi và sẵn sàng xâm nhập vào cơ thể khi có được điều kiện thích hợp để gây bệnh. Do đó, bên cạnh việc vệ sinh phòng bệnh thì phòng bệnh bằng vắc xin nhằm tạo ra miễn dịch chủ động và nâng cao sức đề kháng cho lợn luôn được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với từng loại lợn (lợn nái hậu bị, lợn đực, lợn con) có quy trình riêng. Tuy nhiên, hiệu quả của vắc xin phụ thuộc vào trạng thái sức khỏe của con vật, trên cơ sở đó trại chỉ tiêm vắc xin cho lợn khỏe mạnh để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất. Trại thực hiện công tác tiêm phòng theo lịch sau: Bảng 3.2. Lịch tiêm phòng của trại Ngày tuổi Vắc xin phòng bệnh 1. Lợn con 3 ngày Bổ sung sắt lần 1 7 ngày Suyễn lần 1 14 ngày Circo 2. Lợn nái sinh sản 7 tuần trước đẻ Dịch tả 5-7 tuần trước đẻ Tiêu chảy cấp lần 1 2-3 tuần trước đẻ Tiêu chảy cấp lần 2 Định kỳ 6 tháng/ lần Giả dại Định kỳ 6 tháng/ lần Tai xanh 3. Lợn đực Định kỳ 6 tháng/ lần Dịch tả Định kỳ 6 tháng/ lần Lở mồm long móng Định kỳ 6 tháng/ lần Giả dại Định kỳ 6 tháng/ lần Tai xanh
  45. 37 Với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh, việc tiêm phòng vắc xin là một việc làm bắt buộc. Tiêm vắc xin cho đàn lợn sẽ tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động trong cơ thể chúng để chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh (vi rút, vi khuẩn ), tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Nhận thức rõ vấn đề này, trại luôn luôn thực hiện quy trình tiêm phòng vắc xin thường xuyên, nghiêm túc nhằm ngăn chặn dịch bệnh. Thời gian tổ chức tiêm phòng thường vào buổi sáng khi thời tiết mát. Công tác chuẩn bị và tiêm phòng được thực hiện một cách nghiêm túc, cẩn thận. Trong thời gian thực tập, em đã cùng cán bộ kỹ thuật của trại tiến hành tiêm phòng cho đàn lợn theo đúng quy định. 3.4.2. Phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn con từ sơ sinh đến cai sữa nuôi tại trại Để xác định được tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại hàng ngày chúng tôi tiến hành theo dõi, quan sát vềnhững biểu hiện của đàn con thông qua các bước sau: * Kiểm tra trạng thái bên ngoài ăn uống bằng cách trực tiếp quan sát, theo dõi con vật hàng ngày. - Trạng thái cơ thể bình thường: con vật ăn uống bình thường, vận động nhanh nhẹn. - Trạng thái bệnh lý: ăn uống giảm hoặc bỏ ăn. * Kiểm tra thân nhiệt: - Đo thân nhiệt qua trực tràng bằng nhiệt kế 42°C: + Trước khi đo nhiệt độ phải vẩy nhiệt kế cho cột thủy ngân tụt xuống hết thang độ. + Dùng bông cồn lau nhiệt kế trước và sau khi sử dụng. + Cho từ từ nhiệt kế vào trực tràng theo hướng hơi xiên xuống dưới để tránh niêm mạc bị tổn thương.
  46. 38 + Để nhiệt kế ở trực tràng từ 5 – 10 phút, rồi lấy ra xem nhiệt độ trên thang nhiệt kế. + Trạng thái bình thường: thân nhiệt bình thường, ổn định ở 38 – 40˚C. + Trạng thái bệnh lý: hơi sốt hoặc sốt cao 41 – 42˚C. * Kiểm tra trạng thái phân: - Trạng thái bình thường: màu sắc trạng thái phân bên ngoài bình thường. - Trạng thái bệnh lý: hậu môn dính phân, chân siêu vẹo, sưng. Trên cơ sởnhững biểu hiện khác thường của lợn con chúng tôi tiếnhành đánh dấu từng con bằng cách phun sương màu đỏ, sau đó tiến hành chuẩnđoán lâm sàng, ghi rõ tuổi, tính biệt thân nhiệt và triệu chứng vào nhật kí thực tập. Từ những triệu chứng thu thập được chúng tôi tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn con theo sự hướng dẫn của kỹ sư trại. Để phục vụquá trình chẩn đoán bệnh được chính xác hơn, những lợn con bị chết, chúngtôi tiến hành mổ khám để kiểm tra bệnh tích theo sự hướng dẫn của kỹ sư và ghi chép đầy đủ các bệnh tích điển hình vào biên bản mổ khám. 3.4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu Các chỉ tiêu theo dõi: tỷ lệ lợn con mắc bệnh qua các tháng, theo dõi tỷ lệ lợn con mắc bệnh theo độ tuổi, theo dõi tỷ lệ lợn con mắc bệnh, tỷ lệ chếttỷ lệ khỏi bệnh, tỷ lệ tái phát và thời gian trung bình được tính theo công thức: 푆ố 표푛 ắ ệ푛ℎ ( 표푛) Tỷ lệ mắc bệnh (%) = x 100% 푆ố 표푛푡ℎ푒표 õ𝑖 ( 표푛) 푆ố 표푛 ℎế푡 ( 표푛) Tỷ lệ chết (%) = × 100 % Số con mắc bệnh (con) 푆ố 표푛 ℎỏ𝑖 ( 표푛) Tỷ lệ khỏi (%) = x100% 푆ố 표푛đ𝑖ề 푡 ị ( 표푛) 3.5. Phương pháp xử lý số liệu Tất cả các số liệu thu được xử lý theo phương pháp thông kê sinh vật học của Nguyễn Văn Thiện (2002) [20] và phần mềm Exell trên máy vi tính.
  47. 39 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại Cơ cấu đàn lợnnuôi tại cơ sở trong 3 năm gần đây Qua điều tra từ số liệu sổ sách theo dõi của trại 3 năm gần đây từ 2016- tháng 11 năm 2018 tình hình chăn nuôi của trang trại được thể hiện ở: Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn của trại lợn giống cao sản, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang từ năm 2016 đến tháng 11- năm 2018 Loại lợn Số lượng lợn của các năm (con) Năm 2016 Năm 2017 Tháng 11-năm 2018 Lợn đực giống 16 20 19 Lợn nái sinh sản 243 254 266 Lợn nái hậu bị 38 43 40 Tổng số 297 317 325 Bảng 4.1 cho thấy,số lượng lợn nái sinh sản của trại không có biến động lớn qua các năm. Số lượng lợn nái có xu hướng tăng lên, đi dần vào sự ổn định. Đặc biệt lợn nái hậu bị tăng lên số lượng lớn nhằm thay thế cho các lợn nái sinh sản không đủ tiêu chuẩn và loại thải.Từng lợn nái được theo dõi tỉ mỉ các số liệu liên quan của từng nái như: số tai, ngày phối giống, ngày đẻ dự kiến. Số liệu về cơ cấu đàn lợn tại trại được thấy rõ hơn qua hình 4.1
  48. 40 Con 300 250 200 Lợn đực giống Lợn nái sinh sản 150 Lợn nái hậu bị 100 50 0 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm Hình 4.1: Biểu đồ tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm 4.2. Kết quả thực hiện quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến cai sữa tại cơ sở Trong quá trình thực tập tại trại em đã tham gia nuôi dưỡng chăm sóc, quản lý đàn lợn con như sau: - Lợn con sinh ra sau thời gian 3 ngày tuổi, tiến hành tiêm bổ sung sắt với liều 2 ml/con và nhỏ thuốc Baycox 5% phòng và điều trị bệnh cầu trùng cho lợn con. Sau 7 ngày bắt đầu tập cho lợn con làm quen với thức ăn, thức ăn tập ăn cho lợn con mà trang trại sử dụng là loại thức ăn hỗn hợp dạng viên 517s cho lợn con từ 7 ngày tuổi đến 15 kg của công ty Hải Thịnh. Thức ăn tập ăn cho lợn con được bỏ vào máng tập ăn riêng và để ở khu vực dành riêng cho lợn con, luôn giữ máng tập ăn khô, sạch với lượng thức ăn được bổ sung thường xuyên trong ngày cho lợn con tập ăn tuỳ thích.
  49. 41 - Lúc lợn con được 7 ngày tuổi, tiến hành thiến những lợn đực không được giữ lại làm giống. Đồng thời hàng ngày điều trị cho những lợn con mắc hội chứng tiêu chảy, bệnh phân trắng lợn con. - Cai sữa cho lợn con: khi lợn con được 21 ngày tuổi chúng em tiến hành cai sữa cho lợn con đối với những đàn có khối lượng từ 5,5kg đến 7kg, không có mắc bệnh và có sức khoẻ tốt. Trước khi cai sữa tiến hành quá trình tập ăn cho lợn con kéo dài khoảng 2 tuần, sau đó bắt đầu cai sữa, quá trình cai sữa được diễn ra từ từ bằng cách giảm dần số lần bú, sau đó chuyển hẳn lợn con sang chuồng úm. Quá trình thực hiện đề tài, em đã tiến hành theo dõi tỷ lệ nuôi sống lợn con từ sơ sinh đến cai sữa tại trại. Kết quả được trình bày qua bảng 4.4: Bảng 4.2. Tỷ lệ nuôi sống lợn con từ sơ sinh đến cai sữa Con đực Con cái Số con Số con Tháng Số con Tỷ lệ Số con Tỷ lệ còn còn theo dõi (%) theo dõi (%) sống sống 6 57 55 96,49 82 79 96,34 7 48 47 97,91 96 93 96,875 8 55 50 90.9 87 85 97,7 9 65 63 96,92 79 75 94,93 10 67 64 95,52 84 83 98,8 11 72 69 95,83 98 96 97,95 Tổng 364 348 95,6 526 511 97,1 Kết quả bảng 24. cho thấy: Tỷ lệ nuôi sống của lợn con đực là 95,6% : lợn con cái là 97,1%. Tỷ lệ nuôi sống phụ thuộc vào quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng. Tỷ lệ nuôi sống lợn
  50. 42 đực thấp hơn lợn cái là do trong quá trình làm kĩ thuật sinh viên, công nhân chưa có kinh nghiệm nhiều và do không quan sát kĩ, nhưng con bị héc ni bẩm sinh, sau khi thiến xong bị lòi ruột, không phát hiện kịp thời nên chết. Lợn con có thể chết do nhiều nguyên nhân như: khi lợn con sinh ra có thể chết do quá yếu, mắc bệnh hay trong quá trình sống bị mẹ dẫm đè, lợn mẹ dậy ăn uống, vệ sinh lợn con đến bú khi lợn mẹ nằm xuống sẽ nằm đè lên lợn con, không phát hiện kịp thời, lợn con sẽ chết. Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị được thực hiện tốt sẽ đạt hiệu quả tốt hơn, các chế độ chăm sóc tốt hơn như đối với những lợn con gầy yếu, không thể tranh bú hoặc những con trong thời gian mắc bệnh, sau khi khỏi bệnh sẽ cho lợn con uống thêm sữa được vắt từ những mẹ đang đẻ, pha thêm cám cháo cho ăn. Những con có dấu hiệu mắc bệnh được chẩn đoán và điều trị kịp thời. 4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến cai sữa trong thời gian thực tập tại cơ sở 4.3.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh Vệ sinh phòng bệnh nhằm nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với việc vệ sinh thức ăn, nước uống, vật nuôi, dụng cụ chăn nuôi, sinh sản thì việc vệ sinh chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi luôn được cán bộ thú y và đội ngũ công nhân thực hiện chặt chẽ. Chuồng trại được thiết kế và xây dựng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Sau mỗi lứa lợn, chuồng trại đều được tẩy uế bằng phương pháp: Rửa sạch ô nhốt lợn, để khô sau đó phun thuốc sát trùng và để trống chuồng nuôi tối thiểu là 5 ngày mới đưa lứa lợn khác lên. Với lợn con tuyệt đối không tắm rửa để tránh lạnh và ẩm ướt, định kỳ tiêu độc ở các chuồng nuôi lợn nái, lợn đực làm việc bằng thuốc sát trùng. Thường xuyên tiến hành vệ sinh môi trường xung quanh như dọn cỏ, phát quang bụi rậm, diệt chuột, gián, thu dọn phân hàng ngày ở các ô chuồng.
  51. 43 4.3.2. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn sơ sinh đến cai sữa Ngoài việc phòng bệnh bằng công tác vệ sinh thú y, trại còn chủ động tiêm phòng vắc xin cho lợn con để tạo miễn dịch cho đàn lợn chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Kết quả được trình bày qua bảng 4.3: Bảng 4.3. Kết quả tiêm phòng thuốc và vắc xin cho lợn con theo mẹ từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi Thời Số Số Tỷ lệ điểm Bệnh Đường Loại vắc xin, Liều con con an phòng được đưa thuốc phòng dùng tiêm an toàn (ngày phòng thuốc (con) toàn (%) tuổi) Thiếu Tiêm 3 Prolongal 2ml 890 890 100 sắt bắp Cầu Cho 3 Baycox 5% 1ml 890 890 100 trùng uống Tiêm 7 Suyễn MycoGuard 2ml 859 859 100 bắp Porcine Tiêm 14 Circo 2ml 859 859 100 Circovirus bắp Phòng bệnh cho lợn con không chỉ làm tốt công tác vệ sinh mà còn phải tiêm phòng vắc xin đầy đủ trong từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của lợn con. Khi ra khỏi cơ thể mẹ sống ngoài môi trường cơ thể lợn con dễ bị mầm bệnh xâm nhập nếu chúng ta không phòng bằng cách tiêm vắc xin. Để đề phòng các bệnh xảy ra đối với lợn con và để duy trì công tác sản xuất, kinh tế thì lợn con được chăm sóc và nuôi dưỡng tại trại đều được tiêm vắc xin phòng bệnh đầy đủ, 3 ngày sau khi đẻ lợn con được cho uống baycox 5% và được tiêm sắt để phòng thiếu sắt. Tiêm vắc xin là 1 trong những cách để giảm khả năng mắc bệnh của lợn con. Trong thời gian thực tập tại trại em
  52. 44 cho 890 lợn con uống cầu trùng tỷ lệ an toàn đạt 100%, tuy nhiên do khi cho uống em đã không cho uống đúng liều lượng nên lợn con vẫn có dấu hiệu mắc bệnh, tham gia tiêm vắc xin phòng bệnh suyễn cho 859 con, tỷ lệ an toàn đạt 100%. Kết quả bảng 4.3 cho thấy, trong thời gian thực tập số lợn con giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi được tiêm bổ sung sắt và tiêm phòng vắc xin suyễn, đạt tỷ lệ 100%. 4.4. Kết quả chẩn đoán bệnh Bảng 4.4. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi Số con Số con Tỷ lệ Loại bệnh Triệu chứng, bệnh tích theo dõi mắc (%) (con) (con) Ủ rũ, kém ăn, ỉa chảy phân Phân trắng lợn con lỏng, màu trắng có mùi hôi 890 256 28,76 tanh, khắm, gầy sút nhanh. Bú ít, sốt cao, phân lúc đầu Bệnh phó táo sau chuyển sang lỏng 890 182 20,44 thương hàn màu đen thối khắm. Rìa tai, gốc tai tím đỏ xuất huyết. Lợn sốt nhẹ, kém ăn, ho vào Hội chứng hô hấp sáng sớm và chiều tối, khó 890 143 16,06 thở, toàn thân tím tái. Kết quả bảng 4.4 cho thấy: Tổng số lợn theo dõi là 890 con. Trong đó có 256 con mắc phân trắng lợn con, chiếm 28,76 %. Bệnh phó thương hàn mắc 182 con chiếm 20,44 % và hội chứng hô hấp mắc 143 con chiếm 16,06 %. Theo Trần Đức Hạnh (2013) [9], lợn con ở một số tỉnh phía Bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84 % và 5,37 %, tỷ lệ mắc tiêu chảy và chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21- 40 ngày (30,97 % và 4,93 %) và giảm ở giai đoạn từ 41- 60 ngày (30,27 % và 4,75 %).
  53. 45 Lợn con mắc bệnh phó thương hàn là 182 con chiếm 20,44%. Do vi khuẩn Salmonella chloleraesuis và Salmonella typhisuis gây nên. Sự lây nhiễm chủ yếu qua đường tiêu hoá, khi sử dụng thức ăn, nước uống đã nhiễm vi trùng. Do lây từ lợn mẹ sang lợn con. Lợn mẹ, lợn con mang trùng nhưng chưa phát bệnh. Khi gặp các điều kiện bất lợi cho cơ thể như thời tiết thay đổi, sức đề kháng cơ thể giảm, kế phát bệnh, ký sinh trùng, bệnh truyền nhiễm. Lợn con mắc bệnh về hô hấp là 143 con chiếm 16,06%. Bệnh hô hấp lợn con chủ yếu do lợn mẹ mắc và truyền nhiễm sang lợn con hoặc do lây lan giữa các lợn trong chuồng. 4.5. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại cơ sở trong thời gian thực tập Bảng 4.5. Kết quả điều trị bệnh bệnh cho đàn lợn giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tại cơ sở Số Cách dùng Số con Tên con Tỷ lệ STT Thuốc điều bệnh khỏi (%) trị Liều lượng (con) (con) Amoxisol Phân 1 L.A 1ml/con, tiêm bắp trắng lợn 256 251 98,04 ADE – 1ml/con, tiêm bắp con B.complex Phó Norcoli - 1ml/con, tiêm bắp 2 thương ADE – 182 174 95,6 1ml/con, tiêm bắp hàn B.complex Hội Navet.Marb 1ml/50kgTT1ml/ 3 chứng hô ocin 10 143 138 96,5 con, tiêm bắp hấp Brom Hexin
  54. 46 Bảng 4.5 cho thấy: Bệnh phân trắng lợn con, sử dụng phác đồ điều trị: - Amoxisol L.A: 1ml/con - ADE – B.complex: 1ml/con. Điều trị liên tục 3 ngày. Điều trị 256 con, khỏi 251 con, đạt tỷ lệ 98,04 %. Lợn mắc bệnh phó thương hàn, sử dụng phác đồ: - Norcoli : 1ml/con. - ADE – B.Complex: 1ml/con. Điều trị liên tục 3 ngày, kết hợp hạn chế cho ăn, giảm ăn hoặc cho lợn con nhịn đói. Điều trị182 con, kết quả khỏi 174 con, đạt tỷ lệ 95,6 %. Hội chứng hô hấp, sử dụng phác đồ - Navet Marbocin 10 : 0.5ml/con. - Brom hexin : 1 ml/con Điều trị liên tục 3 ngày. Điều trị 143 con, khỏi 138 con, tỷ lệ khỏi cao đạt 96,5%. 4.6. Kết quả thực hiện các công tác khác tại cơ sở thực tập Ngoài việc chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn và tiến hành nghiên cứu chuyên đề khoa học, em còn tham gia một số công việc khác như: Đỡ đẻ cho lợn nái: 62 con. Xuất lợn con: 816 con. Tiêm sắt : 890 con. Thiến lợn đực : 364 con. Tỷ lệ an toàn đạt 100%. Các công việc chuẩn bị cho lợn nái sinh là: Vệ sinh lợn mẹ, vệ sinh ô chuồng, khâu, lấy thảm lót cho vào lồng úm lợn con, lấy bóng điện sưởi ấm cho lợn con, trực lợn đẻ, tiêm Prolongal cho lợn con
  55. 47 Bảng 4.6. Kết quả công tác phục vụ sản xuất Số lượng Kết quả Nội dung (con) Số lượng (con) Tỷ lệ (%) 1. Phòng bệnh cho lợn An toàn Vắc xin dịch tả 890 890 100 Vắc xin suyễn 890 890 100 Vắc xin Circo 890 890 100 Vắc xin giả dại 890 890 100 Vắc xin phó thương hàn 890 890 100 2. Công tác khác An toàn Trực lợn đẻ 62 62 100 Tiêm Prolongal 890 890 100 Thiến lợn đực 364 364 100 Xuất lợn con 816 816 100
  56. 48 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua thời gian thực tập tại trang trại Lợn giống cao sản công ty Hải Thịnh với chuyên đề: "Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn con, giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa tại trại lợn giống cao sản công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh" em có kết luận sau: - Đàn lợn con giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa nuôi tại trại lợn giống cao sản được tiêm phòng đầy đủ, đạt tỷ lệ 100%. - Kết quả chẩn đoán bệnh cho thấy, lợn con ở giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi lợn chủ yếu mắc bệnh phó thương hàn 20,44 %, bệnh phân trắng lợn con chiếm 28,76 %, hội chứng hô hấp 16,06 %. - Sử dụng phác đồ điều trị bệnh phó thương hàn cho lợn, thuốc norcoli và ADE – B.complex, tỷ lệ khỏi bệnh là 95,6 %. - Dùng amoxisol L.A, ADE - B.complex điều trị bệnh phân trắng lợn con, kết quả khỏi 98,04%. -Sử dụng phác đồ điều trị hội chứng hô hấp cho lợn, thuốc Navet.Marbocin và brom hexin, tỷ lệ khỏi bệnh là 96,5 %. 5.2. Đề nghị Kết thúc đợt thực tập tại trại em đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi cũng như giảm tỷ lệ mắc bệnh trên lợn con theo mẹ như sau: - Công tác vệ sinh thú y cần được nâng cao hơn nữa, đặc biệt nâng cao tinh thần trách nhiệm của công nhân và sinh viên thực tập trong việc vệ sinh chuồng trại và chăm sóc cho lợn mẹ cũng như lợn con.
  57. 49 - Cần có kỹ thuật chuyên theo dõi, phát hiện và điều trị bệnh cho lợn con nhằm đem lại kết quả điều trị cao nhất. - Nên tiến hành tiêm phòng vắc xin E.coli phòng bệnh phân trắng lợn trước khi đẻ 2 - 4 tuần. - Cần tập cho lợn con ăn sớm đặc biệt là trong chăn nuôi tập trung.
  58. 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu trong nước 1. Công ty liên doanh Việt Pháp Guyo mare (2003), Sổ tay kỹ thuật chăn nuôi lợn, Viện Chăn nuôi. 2. Công ty Cargill tại Việt Nam (2003), Sổ tay kỹ thuật chăn nuôi lợn, Sách tham khảo, lưu hành nội bộ. 3. Công ty Pig Việt Nam (1998), Kỹ thuật chăn nuôi lợn, Sách tham khảo, lưu hành nội bộ. 4. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý động vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Trần Thị Dân (2008), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp, TP Hồ Chí Minh. 6. Đoàn Thị Kim Dung (2004), Sự biến động của một số vi khuẩn hiếu khí đường ruột, vai trò của E.coli trong hội chứng tiêu chảy của lợn con. 7. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng (1996), Bệnh ở lợn nái và lợn con. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ. 9. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn tại 3 tỉnh phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp. 10. Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Lộc (1998), Stress trong đời sống con người và vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Từ Quang Hiển, Phan Đình Thắm, Ngôn Thị Hoán (1996), Giáo trình thức ăn và dinh dưỡng học gia súc – gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 12. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc gia cầm,
  59. 51 Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Duy Hùng (2011), “Bệnh viêm vú ở lợn nái”, Báo nông nghiệp Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 14. Phạm Sĩ Lăng , Nguyễn Bá Hiên,Trần Đức Hạnh, Nguyễn Văn Diên, Tạ Thúy Hạnh( 2013), Bệnh của lợn tại Việt Nam, trang 151. 15. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Hồ Văn Nam, Chu Đức Thắng, Phạm Ngọc Thạch (2011), Giáo trình bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 17. Trần Văn Phùng, Hà Thị Hảo, Trần Thanh Vân, Từ Quang Hiển (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội. 18. Đặng Minh Phước, Dương Thanh Liêm (2006), “Nghiên cứu sử dụng axit hữu cơ bổ sung vào thức ăn để kích thích tăng trưởng và phòng bệnh lợn con tiêu chảy trên lợn con sau cai sữa”, Tạp chí khoa học chăn nuôi số 10. 19. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2005), Giáo trình sinh lý học động vật, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 20. Nguyễn Văn Thiện (2008), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Lê Văn Thọ (2007), Một số bệnh truyền nhiễm thường gặp ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Lao Động Xã Hội. 22. Vũ Đình Tôn, Trần Thị Thuận (2006), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tài liệu nước ngoài 23. Akita (1993), “Comparison of four purification methols for the production of immunoglobulins from eggs laid by hens immunological methols”, Vet 160(1993), P.207 – 214.
  60. 52 24. Glawisching E (1992). The Efficacy ofE costat on E. Coliinfected weaning pigg, 12th IPVS Congress, August. 25. Smith (1976). “Observations by the ligated segment and oral inoculation methods on Escherichia coli infections in pigs, calves, lamb and rabbits”, Journal of Pathology and Bacteriology 93, 499. 26. Soko (9/1981). Neonatal coli – infecie laboratoriana diagnostina a prevencia
  61. Phụ lục MỘT SỐ HÌNH ẢNH Hình 1: Lau máng ăn lợn Hình 2: Ghi số liệu vào sổ Hình 3: Tiêm sắt lợn con Hình 4: Cắt đuôi lợn con
  62. Hình 5: Bấm số tai Hình 6: Tiêm phòng vắc xin Hình 7: Thiến lợn con Hình 8: Lau vú lợn
  63. Hình 9: Lợn con mới đẻ Hình 10: Lợn con tập bú Hình 11: Thuốc sắt Hình 12: Thuốc cầu trùng