Khóa luận Thực hiên quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trang trại Bảy Tuân, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiên quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trang trại Bảy Tuân, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf
Nội dung text: Khóa luận Thực hiên quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trang trại Bảy Tuân, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGỌC THỊ THANH HUYỀN Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN TẠI TRANG TRẠI BẢY TUÂN, HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Thái Nguyên - năm 2019
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGỌC THỊ THANH HUYỀN Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN TẠI TRANG TRẠI BẢY TUÂN, HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp: K47 - TY - N03 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. Hoàng Hải Thanh Thái Nguyên - năm 2019
- i LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian nghiên cứu để hoàn thành khóa luận của mình, em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn, sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y và lãnh đạo trại lợn Bảy Tuân xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Em cũng nhận được sự cộng tác nhiệt tình từ các bạn đồng nghiệp, sự giúp đỡ, cổ vũ động viên của người thân trong gia đình. Nhân dịp này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn TS. Hoàng Hải Thanh đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập để hoàn thành báo cáo tốt nghiệp. Em xin cảm ơn ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, lãnh đạo khoa Chăn nuôi Thú y đã tạo điều kiện thuận lợi cho em thực hiện khóa luận này. Đồng thời, cho em được gửi lời cảm ơn tới toàn thể anh chị em quản lý, kỹ sư, công nhân, sinh viên thực tập trong trang trại Bảy Tuân về sự hợp tác giúp đỡ, theo dõi các chỉ tiêu và thu thập số liệu làm cơ sở cho khóa luận này. Cuối cùng, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân cùng bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ động viên em trong suốt thời gian hoàn thành khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, 25 tháng 06 năm 2019 Sinh viên Ngọc Thị Thanh Huyền
- ii DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Khẩu phần ăn cho đàn lợn tại trại 29 Bảng 3.2. Lịch sát trùng chuồng trại của trại lợn 31 Bảng 4.1. Kết quả tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại Bảy Tuân, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội qua 3 năm 33 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái theo dõi và chăm sóc nuôi dưỡng tại trại trong 6 tháng thực tập 34 Bảng 4.3. Kết quả thực hiện các thao tác trên lợn con 35 Bảng 4.4. Kết quả thực hiện quy trình đỡ lợn đẻ tại trại 36 Bảng 4.5. Kết quả tiêm vắc xin, thuốc phòng bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con tại cơ sở 37 Bảng 4.6. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại. 38 Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại 39 Bảng 4.8. Một số công việc khác được làm tại trại 40
- iii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT Cs: Cộng sự Kg: Kilogam LH: Hoocmon của tuyến yên ML: Mililit MMA: Hội chứng viêm vú, viêm tử cung, mất sữa. Nxb: Nhà xuất bản TS: Tiến sĩ TT: Thể trọng
- iv MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC BẢNG ii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn dề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên dề 2 1.2.1. Mục đích 2 1.2.2. Yêu cầu 2 Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện của trang trại 3 2.1.2. Thuận lợi và khó khăn 6 2.2. Cơ sở khoa học 7 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục lợn nái 7 2.2.2. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản 11 2.2.3. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi 19 2.3. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước 24 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước 24 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 26 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28 3.1. Đối tượng thực hiện 28 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 28 3.3. Nội dung tiến hành 28
- v 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 28 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 28 3.4.2. Phương pháp thực hiện 28 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu và công thức tính 32 PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 33 4.1. Kết quả tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Bảy Tuân, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội 33 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản 34 4.3. Kết quả thực hiện các thao tác trên lợn con tại cơ sở 35 4.4. Kết quả thực hiện quy trình đỡ đẻ cho lợn nái tại trại 36 4.5. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con tại trại 37 4.6. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại 38 4.6.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại 38 4.6.2. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản tại trại 39 4.7. Các công việc khác được làm tại trang trại. 40 PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 41 5.1. Kết luận 41 5.2. Đề nghị 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO 42 PHỤ LỤC
- 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn dề Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong ngành chăn nuôi gia súc ở các nước trên thế giới cũng như ở nước ta. Chăn nuôi lợn cung cấp một lượng lớn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, mang lại thu nhập cho người chăn nuôi, góp phần vào ổn định đời sống người dân. Cùng với xu hướng phát triển của xã hội, chăn nuôi lợn cũng chuyển từ loại hình chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung trang trại từ đó đã giúp cho ngành chăn nuôi lợn đạt được bước phát triển không ngừng cả về vật chất và số lượng. Để phát triển hơn nữa ngành chăn nuôi lợn ở nước ta đã và đang áp dụng những tiến bộ khoa học vào thực tế sản xuất nhằm cải tạo con giống, quy trình chăm sóc luôn được chú trọng. Nhưng một trong những trở ngại lớn của ngành chăn nuôi là dịch bệnh còn xảy ra phổ biến gây thiệt hại lớn cho đàn lợn nái nuôi ở trang trại cũng như ở hộ gia đình. Chăn nuôi công nghiệp bệnh còn xảy ra nhiều do đa số là lợn nái ngoại khả năng thích nghi chưa cao với điều kiện khí hậu nước ta. Trong quá trình đỡ đẻ hay những ca đẻ khó bị các vi khuẩn xâm nhập gây mộ số bệnh cho lợn nái như viêm tử cung, đẻ khó, sót nhau Các bệnh về lợn nái ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả, năng suất, chất lượng của toàn ngành chăn nuôi. Chính vì vậy chúng ta phải có biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái an toàn và đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên và được sự đồng ý của Ban Chủ Nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y cùng với sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn và cơ sở nơi thực tập, em đã tiến hành chuyên đề: “Thực hiên quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trang trại Bảy Tuân, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”.
- 2 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên dề 1.2.1. Mục đích - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại lợn Bảy Tuân, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. - Thực hiện quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản. - Nhận biết các loại thức ăn dành cho lợn nái sinh sản, khẩu phần ăn và cách cho lợn nái ăn qua từng giai đoạn mang thai. - Theo dõi bệnh hay xảy ra đối với lợn nái sinh sản và phương pháp phòng trị bệnh hiệu quả nhất. 1.2.2. Yêu cầu - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trại Bảy Tuân, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. - Áp dụng quy được trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái nuôi tại trại. - Xác định được tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn nái sinh sản và áp dụng được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng.
- 3 Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện của trang trại 2.1.1.1. Vị trí địa lý Trại lợn Bảy Tuân thuộc Công ty TNHH đầu tư kinh doanh và dịch vụ Bảo Lộc nằm ở xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Địa hình xã một nửa là đồng bằng, một nửa là vùng đồi (một phần của dãy đồi đất cao khoảng 80m chạy dọc lên Quốc Oai). Xã Tiên Phương nằm gần trung tâm của huyện, phía Đông giáp xã Phụng Châu, phía Nam giáp xã Ngọc Hòa, phía Tây giáp xã Phú Nghĩa, phía Bắc giáp xã Tân Hòa. Trại lợn Bảy Tuân có diện tích khoảng 10 ha. Trại được xây dựng cách xa khu dân cư, cách quốc lộ 6 khoảng 7km. Trong trại có hệ thống ao hồ nuôi trồng thủy sản, lượng nước được cung cấp chủ yếu thông qua lượng nước mưa tự nhiên. Trại cách xa khu dân cư, luôn đảm bảo độ thông thoáng, không ảnh hưởng đến môi trường, thuận tiện cho việc phòng chống dịch bệnh ở trại. 2.1.1.2. Đặc điểm khí hậu Khí hậu ở đây mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm ướt. Có 2 mùa chính trong năm là mùa hè và mùa đông. Mùa hè kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, mùa đông thường kéo dài từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 3. Do trang trại nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng có nhiều con sông lớn chảy qua nên lượng nước ngầm tương đối phong phú. Giếng đào ở độ sâu 4 - 5m có nước quanh năm, chất lượng nước đảm bảo, không cần đòi hỏi những biện pháp xử lý đặc biệt.
- 4 Nhiệt độ trung bình năm 23 - 24°C, tổng lượng mưa trung bình năm là 1900 - 2000mm. Độ ẩm không khí trung bình năm là 85%. Nhiệt độ chênh lệnh giữa mùa hè và mùa đông là 10 - 15°C 2.1.1.3. Điều kiện giao thông, địa hình Hệ thống giao thông đi vào trang trại là đường đất rộng 3m. Địa hình: Trại nằm trên địa bàn của khu vực đồng bằng sông Hồng, địa hình bằng phẳng với tổng diện tích của trại là 10 ha. Nguồn nước: Trong trại có hệ thống ao hồ nuôi trồng thủy sản, lượng nước được cung chấp chủ yếu thông qua lượng nước mưa tự nhiên. Ngoài ra còn có trữ lượng nước mưa khá lớn, khả năng khai thác và sử dụng tương đối dễ dàng, hiện nay đã được trại khai thác và sử dụng để phục vụ cho sinh hoạt và chăn nuôi. 2.1.1.4. Cơ cấu tổ chức của trại Cơ cấu tổ chức của trại được tổ chức như sau: Trại gồm có: + 1 quản lý + 2 kỹ thuật trại + 2 kỹ thuật hỗ trợ thức ăn chăn nuôi Deheus + 1 kế toán + 1 kỹ thuật điện nước + 5 công nhân trại + 5 sinh viên + 1 nhân viên nấu ăn, 3 cán bộ công an và 25 phạm nhân Trang trại có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, giàu kinh nghiệm thực tế, có ban lãnh đạo năng động, nhiệt tình. Đội ngũ công nhân giỏi, yêu nghề và đã có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp.
- 5 2.1.1.5. Cơ sở vật chất của trang trại * Khu chuồng nuôi: - Khu vực chuồng nuôi của trại được xây dựng trên một khu đất cao, dễ thoát nước. Bao gồm 2 chuồng đẻ (tổng có 200 ô kích thước 2,4 × 1,6m/ô), 2 chuồng bầu (có 800 ô kích thước 2,4m × 0,65m/ô, một chuồng đực giống + nái hậu bị có 12 ô kích thước 5m × 6m), 6 chuồng thương phẩm (mỗi chuồng có 12 ô kích thước 5m x 6m), 2 chuồng cai sữa (gồm 40 ô kích thước mỗi ô là 25m2 mỗi ô nuôi 50 - 60 con, 2 ô cuối dãy chuồng dùng để chứa lợn cai sữa có vấn đề). Cùng một số công trình phụ phục vụ cho chăn nuôi như: Kho thức ăn, phòng sát trùng, phòng pha tinh, kho thuốc. - Hệ thống chuồng nuôi xây dựng khép kín hoàn toàn. Phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối chuồng có 4 quạt thông gió đối với các chuồng đẻ, 5 quạt đối với các chuồng bầu, các chuồng thương phẩm, chuồng nái hậu bị, chuồng đực giống và chuồng úm. Chuồng nuôi xây dựng theo kiểu 2 mái và được lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng và hệ thống vòi uống nước tự động ở mỗi ô chuồng. - Hai bên tường có dãy cửa sổ lắp kính. Trên trần được lắp hệ thống chống nóng bằng tôn lạnh. - Mùa hè có hệ thống làm mát bằng quạt thông gió và giàn mát. Mùa đông có hệ thống làm ấm bằng đèn hồng ngoại. - Phòng pha tinh của trại được trang bị các dụng cụ hiện đại như: Kính hiển vi, thiết bị cảm ứng nhiệt, các dụng cụ đóng liều tinh, nồi hấp cách thủy và một số thiết bị khác. Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các hố sát trùng. Hệ thống nước trong khu chăn nuôi đều là nước giếng khoan. Nước uống cho lợn được cấp từ một bể lớn được xây dựng ở đầu chuồng đẻ 3. Nước tắm,
- 6 nước xả gầm và nước phục vụ cho công tác khác được bố trí từ tháp bể lọc và được bơm qua hệ thống ống dẫn tới bể chứa ở giữa các chuồng. Hệ thống điện: Điện cung cấp cho trang trại được được lấy từ Điện lực huyện Chương Mỹ. Đối với chuồng đẻ, hệ thống điện được cung cấp đầy đủ đảm bảo độ sáng phục vụ cho công tác đỡ đẻ, chăm sóc nuôi dưỡng lợn mẹ và lợn con. Mỗi dãy chuồng đẻ được lắp đặt cố định 6 bóng thắp sáng và có hệ thống bóng sưởi cho lợn con mới đẻ. Hệ thống xử lý môi trường: Cuối mỗi chuồng sẽ có rãnh thu nước thải rộng 30 cm, sâu 40 cm sau đó đấu nối vào hệ thống bể gom, bể Biogas để xử lý rồi chảy xuống mương thoát nước phía Tây Nam trang trại và có hố hủy lợn xa khu vực chăn nuôi. * Khu vực nhà ở và sinh hoạt: - Khu nhà ở rộng rãi có đầy đủ các trang thiết bị, máy móc phục vụ cho công nhân và sinh viên sinh hoạt hàng ngày như bình nóng lạnh, tivi, điều hòa, tủ lạnh, quạt - Những vật dụng cá nhân cũng được trại chuẩn bị như: kem đánh răng, xà phòng, dầu gội, xà bông tắm - Khu nhà ở rộng rãi có đầy đủ nhà tắm, nhà vệ sinh tiện nghi. - Khu nhà bếp rộng rãi, sạch sẽ và hợp vệ sinh. - Ngoài ra trại còn đầu tư thêm khu giải trí cho công nhân và sinh viên sau giờ làm việc như sau: Sân bóng, chỗ tập thể hình nâng cao sức khỏe 2.1.2. Thuận lợi và khó khăn 2.1.2.1. Thuận lợi - Trại được xây dựng ở vị trí cách xa khu dân cư. - Đội ngũ quản lý và cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm trong công việc. - Công nhân có tay nghề cao, năng động, nhiệt tình và yêu nghề.
- 7 - Trại được xây dựng theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị hiện đại do vậy rất phù hợp với điều kiện chăn nuôi lợn công nghiệp hiện nay. 2.1.2.2. Khó khăn - Dịch bệnh diễn biến phức tạp nên chi phí dành cho phòng và chữa bệnh cao. - Chi phí thức ăn chăn nuôi ngày một tăng cao gây ảnh hưởng tới việc chăn nuôi của trang trại. - Trại nằm trong vùng nhiệt đới khí hậu gió mùa, thời tiết diễn biến phức tạp nên khâu phòng trừ dịch bệnh rất khó khăn. - Trên thị trường giá thịt lợn giảm sâu không chỉ làm ảnh hưởng đến tâm lý người tiêu dùng, mà còn gây không ít khó khăn đối với các trang trại chăn nuôi. 2.2. Cơ sở khoa học 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục lợn nái Khả năng sinh sản của lợn nái: Người ta đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái thông qua các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật như: Số con sơ sinh sống đến 24h trên lứa đẻ, số con cai sữa trên lứa, số con bán, tỷ lệ lợn con chết trong thời gian bú sữa mẹ, thời gian động dục trở lại sau cai sữa, thời gian lợn con theo mẹ, số lợn con cai sữa/nái. Sinh lý sinh dục của lợn nái: + Tuổi động dục lần đầu: Tính từ lúc sơ sinh cho đến lợn nái hậu bị lần đầu tiên động dục, mỗi giống có tuổi động dục đầu tiên khác với giống lợn khác. Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [5] cho rằng: Tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng khi khối lượng đạt từ 20 - 25 kg. Ở lợn nái ngoại (Yorkshire, Landrace) tuổi động dục đầu tiên vào 6 - 7 tháng tuổi với khối lượng 65 - 70kg, còn lợn nái lai F1 tuổi động dục đầu tiên lúc 6 tháng tuổi với khối lượng cơ thể 50 - 55kg.
- 8 Trần Văn Phùng và cs (2004) [25], Lê Hồng Mận (2002) [22] cho biết: tuỳ theo giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý mà có tuổi động dục lần đầu khác nhau. Lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 - 5 tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi), lợn nái lai lúc 6 tháng tuổi, các giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace) có tuổi động dục lần đầu muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi. Ở lợn Ỉ, lợn Móng Cái lúc 3 tháng tuổi đã có con có biểu hiện động dục, lúc bấy giờ thể trọng của chúng chỉ bằng 1/4 so với lợn trưởng thành. Động dục lần đầu phụ thuộc vào mùa vụ. Lợn cái hậu bị được sinh vào mùa thu sẽ động dục sớm hơn so với lợn hậu bị được sinh vào mùa xuân. + Tuổi phối giống lần đầu: Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [5], Lê Hồng Mận (2002) [22] cho rằng: Không nên cho phối giống ở lần động dục đầu tiên vì lợn nái động dục lần đầu cơ thể lợn chưa phát triển đầy đủ, chưa tích tụ được chất dinh dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách hoàn chỉnh. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con nái lâu bền cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục rồi mới cho phối giống. Thường cho phối giống vào lần động dục thứ 2 - 3. Đối với lợn nội (Ỉ, Móng Cái) thường phối giống lần đầu lúc 7 tháng tuổi, khi lợn đạt khối lượng 45 - 50kg. Lợn lai phối giống vào lúc 8 tháng tuổi với khối lượng không dưới 65 - 70 kg, nái ngoại cho phối vào lúc 9 tháng tuổi, khối lượng cơ thể đạt 80 - 90 kg. Tuổi phối giống lần đầu của lợn nái hậu bị là một vấn đề cần được quan tâm. Nếu phối giống quá sớm sẽ ảnh hưởng đến tầm vóc và sức khoẻ của lợn mẹ. Nhưng thực tế đã chứng minh rằng nếu phối giống quá muộn sẽ lãng phí về kinh tế, ảnh hưởng đến sinh sản phát dục của lợn cũng như hoạt động về tính của nó. + Tuổi đẻ lứa đầu: Lê Hồng Mận (2002) [22] lợn Ỉ, Móng Cái cho đẻ lứa
- 9 đầu vào 11 - 12 tháng tuổi, lợn nái lai, ngoại cho đẻ vào lúc 12 tháng tuổi không nên để quá 14 tháng tuổi. + Chu kỳ động dục của lợn nái và động dục trở lại sau khi đẻ: Chu kỳ tính dục của lợn nái thường diễn biến trong phạm vi 19 - 21 ngày. Thời gian động dục thường kéo dài quãng 3 - 4 ngày (lợn nội) hoặc 4 - 5 ngày (lợn lai, lợn ngoại). Lê Hồng Mận (2002) [22] cho biết: Lợn nái sau khi đẻ có hiện tượng động dục trở lại sau 3 - 4 ngày thấy nhiều ở giống lợn nội. Những lúc này bộ máy sinh dục của lợn mẹ chưa phục hồi, trứng chín chưa đều, vì thế không nên cho lấy đực. Thường sau khi cai sữa lợn con sớm từ 28 - 35 ngày tuổi hoặc muộn hơn (50 - 55 ngày) khoảng 3 - 5 ngày thì lợn mẹ động dục trở lại, cho lấy đực dễ đậu thai và trứng chín nhiều sẽ có nhiều con. Lê Hồng Mận (2002) [22] cho rằng động dục chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn trước khi chịu đực: Không nên cho phối giống ở giai đoạn này. Giai đoạn chịu đực: Cho phối giống sẽ thụ thai cao. Giai đoạn sau chịu đực: Lợn nái trở lại bình thường. + Thời điểm phối giống thích hợp: Theo Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [16] cho biết trứng rụng tồn tại trong tử cung 2 - 3 giờ, còn có giá trị thụ thai. Tinh trùng sống trong âm đạo lợn cái 30 - 48 giờ. Thời điểm phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4, tính từ lúc bắt đầu động dục. Đối với lợn nái nội sớm hơn một ngày vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 do thời gian động dục ở lợn nái nội ngắn hơn. Thời điểm phối giống có ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu thai và sai con. Phối sớm hoặc phối chậm đều đạt kết quả kém nên cho nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm tối ưu. + Quá trình mang thai và đẻ: Người ta cho biết thụ thai là sự kết hợp giữa tinh trùng và trứng tạo thành hợp tử, hay nói cụ thể hơn là quá trình đồng
- 10 hoá giữa trứng và tinh trùng. Đó là kết quả của sự tái tổ hợp các gen từ hai nguồn gen khác nhau. Thời gian mang thai của lợn trung bình là 114 ngày (113 - 115 ngày), khi mang thai thì thể vàng tồn tại và tiết ra kích tố progesterol ức chế sự phát triển của bao noãn. Do đó con vật có chửa sẽ không động dục và không thải trứng. Người ta cho rằng: Thời gian chửa của lợn nái được chia làm hai thời kỳ: Chửa kỳ I: Là thời gian lợn có chửa từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 84. Chửa kỳ II: Là thời gian lợn chửa từ ngày thứ 85 đến khi đẻ. + Giai đoạn tiết sữa và nuôi con. Khả năng tiết sữa của lợn mẹ phụ thuộc vào mức độ dinh dưỡng thức ăn, giống lợn và số lượng lợn con. Lượng sữa mẹ tiết ra nhiều nhất vào tuần thứ 2 - 3. Giống khác nhau thì khả năng tiết sữa của lợn mẹ khác nhau. Qua theo dõi, sản lượng và chất lượng sữa ở các vị trí vú khác nhau cũng không giống nhau. Các vú phía trước ngực sản lượng sữa cao phẩm chất tốt, các vú phía sau nhìn chung kém hơn. Vì vậy, để đảm bảo tính đồng đều của ổ lợn ta nên cố định những con nhỏ hơn bú vú trước, cần tách riêng lợn con đẻ trước chờ đến khi đẻ xong mới cho cả đàn vào bú, nhưng nhất thiết phải cho lợn con bú sữa đầu, chậm nhất là 2 giờ sau đẻ, để lợn con có đủ kháng thể trong năm tuần đầu sau khi sinh vì trong sữa đầu của lợn mẹ có chứa Y globulin giúp cho cơ thể lợn con có sức đề kháng. Trần Văn Phùng và cs (2004) [25] cho biết: Quá trình sinh trưởng của lợn con từ khi mới đẻ đến khi cai sữa gặp phải thời kỳ khủng hoảng lúc 3 tuần tuổi. Thể trọng hầu như tăng theo tuần tuổi, nhưng tỷ lệ tăng có sự biến đổi khá rõ rệt. Vào 4 tuần tuổi, tăng trọng giảm xuống vì giai đoạn đó nhu cầu dinh dưỡng của lợn con không đủ do sữa mẹ thiếu, thức ăn bổ sung chưa có hoặc kém. Vì vậy, muốn đảm bảo cho lợn con sinh trưởng tốt cần bổ sung thức ăn sớm. Trong giai đoạn nái đang nuôi con thì phải cho lợn mẹ ăn tự do, ăn đủ chất, tập
- 11 ăn sớm cho lợn con, cai sữa sớm (21 đến 28 ngày tuổi) nhằm giảm sự hao mòn và tăng khả năng sinh sản của lợn mẹ (Trương Lăng, 2000) [20]. 2.2.2. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản Bệnh viêm tử cung Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [18], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: - Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. - Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khoẻ. - Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. - Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung. - Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao gây viêm. - Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm.
- 12 Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002) [6] cho biết: Nguyên nhân gây viêm tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) và các loại Proteus vulgais, Klebriella, E. coli Lê Văn Năm (1999) [24] cho rằng: Có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại cảnh gây bệnh như; do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ bằng dụng cụ hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến Muxin của chất nhày các cơ quan sinh dục bị phá hủy hoặc kết tủa, kết hợp với việc chăm sóc nuôi dưỡng bất hợp lý và thiếu vận động đã làm chậm quá trình thu teo sinh lý của dạ con (trong điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về khối lượng kích thước ban đầu khoảng 3 tuần sau đẻ). Đây là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây bệnh. Biến chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây lên trong thời gian động đực (vì lúc đó tử cung mở) và do thụ tinh nhân tạo sai kỹ thuật. Bệnh còn xảy ra do thiếu sót về dinh dưỡng và quản lý: Khẩu phần thiếu hay thừa protein, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm tử cung. Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột gây đẻ khó, viêm tử cung do xây xát. Khoáng chất, vitamin cũng ảnh hưởng đến viêm tử cung. * Triệu chứng: Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4 - 5 ngày cá biệt tới 6 - 7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang vàng hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có thể có màu đen hôi thối, mùi tanh rất khó chịu. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể: - Thể cấp tính: Con vật sốt 41 - 42oC trong vài ngày đầu âm môn sưng tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ lờ. - Thể mãn tính: Không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch nhầy trắng đục tiết ra từ âm đạo, dịch nhầy thường không liên tục mà chỈ chảy
- 13 ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử cung lan sang thai làm chết thai. * Hậu quả của bệnh viêm tử cung Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con. Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: - Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai. Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều Prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai. - Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu. Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng Progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu.
- 14 - Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của vi khuẩn E. coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc. - Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone. Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được. - Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng. * Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động dục, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200 ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, có thể màu máu cá. Người ta thấy rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tửcung mạn tính thường gặp trong thời kì cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung.
- 15 Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra. Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động dục thì có thể bị nhầm lẫn. Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính xác. Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viên từ đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất. Bệnh viêm vú * Nguyên nhân gây bệnh viêm vú Người ta cho biết, khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây viêm vú. Một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm vú ở lợn nái là thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần thức ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập và gây viêm.
- 16 - Do kế phát từ một số bệnh: Sót nhau, viêm tử cung, bại liệt sau đẻ, viêm bàng quang khi lợn nái bị những bệnh này vi khuẩn theo máu về tuyến vú cư trú tại đây và gây bệnh. - Lợn nái tốt sữa, lợn con bú không hết hoặc lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng vú còn lại căng sữa. Lợn con bú làm xây xát bầu vú hoặc lợn con bị bệnh không bú, sữa xuống nhiều bầu vú căng dễ dẫn đến viêm. - Do quá trình chăm sóc nuôi dưỡng kém, chất độn chuồng và ổ đẻ bẩn, sau khi đẻ bầu vú không được vệ sinh sạch, hàng ngày không vệ sinh bầu vú, thời tiết quá ẩm kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột dẫn đến viêm. * Triệu chứng Bình thường bệnh viêm vú xảy ra ngay sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 5 - 7 ngày có khi đến một tháng. Ngô Nhật Thắng (2006) [30], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% (Lê Hồng Mận (2002) [22]). Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu. * Hậu quả của bệnh viêm vú Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ. Mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô
- 17 bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thuchất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó chữa, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau. Bệnh sát nhau : Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. * Nguyên nhân - Sau khi đẻ tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. - Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Ca và P. - Con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. - Kế phát sau các bệnh khó đẻ khác. - Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt bệnh sảy thai truyền nhiễm, hoặc do cấu tạo của nhau. * Triệu chứng Căn cứ vào mức độ sát nhau người ta chia ra làm 2 loại:
- 18 Sát nhau hoàn toàn: Toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc thường là có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn. Sát nhau không hoàn toàn: Ở động vật đơn thai một phần màng nhau còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ. * Điều trị Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytoxin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục. Lợn nái mất sữa sau khi đẻ * Nguyên nhân: Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [21], bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con. Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh vêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2-3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu các chất dinh dinh trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. * Triệu chứng: Khi vắt các vú không thấy sữa chảy ra, vú bị teo lại, nếu viêm thì sưng cứng lợn con kêu nhiều gầy yếu. * Biện pháp phòng trị: - Phòng bệnh
- 19 Khẩu phần ăn phải đầy đủ dinh dưỡng. Sau khi đẻ nên cho ăn thức ăn nhiều nước như rau lang, rau muống, bí đao để tăng khả năng sản xuất sữa Sau khi đẻ phải thụt rửa tử cung bằng thuốc tím 0,1%, nước muối 0,9%. Nếu bị viêm tử cung hoặc viêm vú phải điều trị triệt để. Điều trị Nếu do kế phát từ các bệnh thì điều trị bằng kháng sinh như: dufamox 15% LA.INJ, oxytetramyccin, amoxilline, ceftifuor đồng thời tiến hành xoa bóp chườm ấm bầu vú. Nếu mất sữa mà bầu vú bị teo lại, cần nhanh chóng ghép con, tiến hành xoa bóp, chườm ấm bầu vú, tuy nhiên trường hợp này hiệu quả điều trị không cao. 2.2.3. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi 2.2.3.1 Phòng bệnh Như ta đã biết‚ “Phòng bệnh hơn chữa bệnhˮ‚ nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Do vậy, việc phòng bệnh cũng như trị, bệnh phải kết hơp ̣nhiều biêṇ pháp khác nhau. - Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt: Nguyễn Ngọc Phụng (2005) [26] bệnh xuất hiện trong một đàn lợn thường do nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm, hoặc không truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh tật trên đàn lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn. Lê Văn Tạo và cs 1993 [34], vi khuẩn E.coli gây bệnh ở lợn là vi khuẩn tồn tại trong môi trường, đường tiêu hoá của vật chủ. Khi môi trường quá ô nhiễm do vê ̣sinh chuồng trại kém, nước uống thức ăn bi ̣nhiễm vi khuẩn, điều
- 20 kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bi ̣cảm nhiễm E.coli, bệnh sẽ nổ ra vì vậy mà khâu vê ̣sinh, chăm sóc có một ý nghĩa to lớn trong phòng bệnh. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vê ̣sinh tiêu độc trước khi vào đẻ . Nhiệt độ trong chuồng phải đảm bảo 27 - 300C đối với lợn sơ sinh và 28 - 300C với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không thấm ướt. Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ kín, ấm áp vào mùa Đông và đầu Xuân. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con phân trắng mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trần Văn Phùng và cs (2004) [25] từ 3 - 5 ngày trước dự kiến đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như Crezin 5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước khi đẻ. - Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng mát mùa Hè, ấm áp mùa Đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: Rửa sạch, để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 15 ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Với những chuồng nuôi lưu cữu hoặc chuồng nuôi có vật nuôi bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để: Sau khi đưa hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý theo hướng dẫn của thú y, cần phun sát trùng kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch) toàn bộ chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô và dọn, rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học; chất thải lỏng, nước rửa
- 21 chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra môi trường. Cần phun sát trùng 1 - 2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 30 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng nuôi.
- 22 - Phòng bệnh bằng vắc xin : Phòng bệnh bằng vắc xin là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Nguyễn Bá Hiên và cs (2012) [13] vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm nào đó “Mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền như ARN, AND ˮ đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ mới - vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễm dịch làm cho động vật có miễm dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ứng. Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch 2.2.3.2. Điều trị bệnh Nguyễn Bá Hiên và cs (2012) [13] nguyên tắc để điều trị bệnh là : + Toàn diện: Phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. + Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan. + Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng. + Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. + Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa.
- 23 + Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa. Nguyễn Bá Hiên và cs( 2012) [13] các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: + Hộ lý: Cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh. + Dùng hóa dược: Phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn. + Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây: - Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. - Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. - Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh.
- 24 - Phải dung phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. - Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, tiêm nước sinh lý 2.3. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con. Phạm Sỹ Lăng và cs (2014) [18] thì: Bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sót nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Người ta cho biết: Ở những nái bị viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt nặng). Trần Tiến Dũng và cs ( 2002) [8] khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ. Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ 2003 [5] cho biết: Trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1 giờ đẻ, cắt răng
- 25 nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10 ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8] bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8] cho biết: Viêm tử cung là một quá bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: Bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [21]). Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh viêm tử cung của nái là do: Thiếu về dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe, kích dục tố, nhiễm trùng sau khi sinh. Từ những yếu tố đó ta có thể đề ra phương pháp phòng bệnh viêm tử cung. Do nhiễm vi khuẩn Staphylococcus, Streptococcus vì các nguyên nhân như lợn con có răng nanh làm xây xát vú mẹ tạo điều kiện vi trùng xâm nhập. Lợn nái nhiều sữa con bú không hết làm sữa ứ đọng nhiều tạo môi trường cho vi trùng sinh sản gây viêm vú. Lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng còn lại căng sữa quá nên viêm.
- 26 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thê giới đang rất phát triển, các nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Tuy nhiên vấn đề hạn chế bệnh sinh sản là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết, đặc biệt là bệnh viêm đường sinh dục. Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh viêm đường sinh dục và đã đưa ra các kết luận giúp cho người chăn nuôi lợn nái sinh sản hạn chế được bệnh này. Tuy vậy, tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục trên đàn lợn nái sinh sản vẫn rất cao. Bilken (1994) [36] viêm tử cung thường sảy ra trong lúc sinh do nhiễm vi khuẩn E.coli gây dung huyết và các vi khuẩn gram dương. Theo Urban (1983) [40], Bilken (1994) [36] các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp. Tuy nhiên, các nghiên cứu của các tác giả khác lại ghi nhận các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm vi sinh vật hiếu khí có mặt ở nền chuồng, lúc lợn nái sinh cổ tử cung mở, vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh. Do đó theo Smith B.B (1995) [38], Taylor D.J (1995) [39] tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Winson khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: Viêm vòi tử cung có mủ. Ở Pháp các tác giả Pierre brouillt và Bernarrd farouilt (2003) [37] đã nghiên cứu và kết luận: Điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và
- 27 đạt kết quả, xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của 30 phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược động học cho phép đáp ứng tốt hơn cách điều trị. Các nghiên cứu của A.V.Trekaxova (1983) [35] về chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng Novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch Novocain 0,5% liều từ 30 - 40 ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 88 - 10cm. Dung dịch Novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị Penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong Novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần.
- 28 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng thực hiện - Đàn lợn nái sinh sản. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Trang trại Bảy Tuân, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. - Thời gian tiến hành: từ ngày 20/11/2018 đến ngày 18/05/2019. 3.3. Nội dung tiến hành - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại Bảy Tuân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. - Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản của trại. - Thực hiện quy trình phòng và trị bệnh cho đàn lợn nái tại trại. - Thực hiện một số công tác khác tại trại. 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi - Tình hình chăn nuôi lợn tại tại trang trại Bảy Tuân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội qua các năm 2017 - 2019. - Khối lượng công việc về chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn. - Thực hiện theo dõi tình hình sinh sản đàn lợn nái sinh sản tại trại. - Thực hiện vệ sinh phòng bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trại. - Thực hiện công việc về chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản tại trại. 3.4.2. Phương pháp thực hiện 3.4.2.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại Bảy Tuân, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Để đánh giá tình hình chăn nuôi của trại chúng em tiến hành điều tra thông tin từ chủ trang trại và tra cứu sổ sách ghi chép trại năm 2017 đến năm 2019.
- 29 3.4.2.2. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn của trại Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp và rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu chuẩn ăn 3kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng, chiều. Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 5 ngày, giảm tiêu chuẩn ăn xuống 0,5 kg/con/bữa. Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn từ 0,5 - 5kg/con/ngày chia làm hai bữa sáng, chiều mỗi bữa tăng lên 0,5kg. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc nuôi nhiều con có thể cho ăn tăng lượng thức ăn lên 6 kg/con/ngày. Bảng 3.1. Khẩu phần ăn cho đàn lợn tại trại Chế độ ăn/ngày Đối tượng Giai đoạn (kg) Từ ngày 1 - 35 3,0 Lợn nái mang thai Từ ngày 36 - 85 2,0 Từ ngày 86 - 113 3,0 Ngày đẻ 2,5 Ngày đầu tiên 2,5 Ngày thứ 2 sau đẻ 3,0 Lợn nái nuôi con Ngày thứ 3 sau đẻ 4,0 Ngày thứ 4 sau đẻ 5,0 Ngày thứ 5 trở đi 6,0 Ngày cai sữa 0 Lợn con theo mẹ Tập ăn từ 3 ngày tuổi 0,02 - Điều chỉnh nhiệt độ trong chuồng từ 25 - 28 oC là thích hợp nhất. - Cho lợn mẹ uống nước tự do.
- 30 3.4.2.3. Quy trình đỡ đẻ cho lợn Kỹ thuật đỡ đẻ cho lợn con được em thực hiện như sau: - Sau khi lợn mẹ đẻ, lấy lợn con từ trong chuồng ra. - Vuốt hết dịch vùng đầu và mặt. Vỗ nhẹ vào thân để kích thích hô hấp. - Vuốt hết màng bọc, nhớt ở phần thân và chân lợn. Dùng khăn lau khô lợn, lợn con phải khô và sạch trước khi cắt dây rốn. - Cầm lợn con và dây buộc rốn, thắt dây rốn ở vị trí cách cuống rốn 2,5cm, dùng kéo cắt phần bên ngoài nút thắt một đoạn bằng ½ bên trong nút buộc khoảng 1,5cm. Sát trùng dây rốn, vùng cuống rốn bằng cồn Iod. - Cho lợn con vào lồng úm nhiệt độ từ 33 - 35 oC. - Trước khi cho lợn con ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ, lót thảm cho lợn con ra bú. - Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết, lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú. 3.4.2.4. Quy trình vệ sinh chuồng nuôi hằng ngày Công tác vệ sinh trong chăn nuôi là một trong những khâu rất quan trọng. Nếu công tác vệ sinh được thực hiện tốt thì gia súc ít mắc bệnh, sinh trưởng và phát triển tốt, chi phí thuốc thú y thấp, làm cho hiệu quả chăn nuôi cao hơn. Do nhận thức rõ được điều này, nên trong suốt thời gian thực tập, em đã thực hiện tốt các công việc như: + Hàng ngày, trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh viên chúng em tất cả đều tắm sát trùng sạch sẽ mặc quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. + Việc đầu tiên vào chuồng là cào phân tránh lợn mẹ nằm đè phân. + Tra cám cho lợn mẹ ăn. + Bắt nhốt lợn con vào ô úm rồi lau sàn nhựa. + Rắc vôi lối đi giữa, xung quanh chuồng.
- 31 + Thu phân vào bao và quét dọn sạch sẽ quanh chuồng. + Xịt gầm, rửa máng. Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ và được tiêu độc bằng thuốc sát trùng Ommicide 2 lần hằng ngày, pha với tỷ lệ 320 ml/1000 lít nước. - Hàng ngày chúng em tiến hành thu gom phân thải, rửa chuồng, quét lối đi lại giữa các dãy chuồng. - Định kỳ tiến hành phun thuốc sát trùng, quét vôi, phun thuốc diệt muỗi, quét mạng nhện trong chuồng và rắc vôi bột ở cửa ra vào chuồng nhằm đảm bảo vệ sinh chuồng trại. Bảng 3.2. Lịch sát trùng chuồng trại của trại lợn Trong chuồng Ngoài chuồng Thứ Chuồng bầu Chuồng đẻ Chuồng thịt Tắm lợn, phun Phun sát trùng, Phun sát 2 sát trùng rắc vôi trùng Tắm lợn, phun Phun sát trùng, Quét hoặc rắc 3 sát trùng rắc vôi vôi đường đi Phun sát trùng Tắm lợn, thông Phun sát trùng, toàn bộ khu vực, Phun sát 4 gầm, xả vôi xút rắc vôi, xả vôi rắc vôi lối đi và trùng gầm xút gầm xung quanh chuồng nuôi Tắm lợn, phun Phun sát trùng, Quét hoặc rắc 5 sát trùng rắc vôi vôi đường đi Tắm lợn, phun Phun sát trùng, Phun sát 6 sát trùng rắc vôi trùng Tắm lợn, phun Phun sát trùng, Vệ sinh tổng 7 sát trùng rắc vôi chuồng Phun sát trùng Tắm lợn, thông Phun sát trùng, toàn bộ khu vực, Chủ Phun sát gầm, xả vôi xút rắc vôi, xả vôi rắc vôi lối đi và nhật trùng gầm xút gầm xung quanh chuồng nuôi
- 32 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu và công thức tính - Công thức tính: Tổng số con mắc bệnh - Tỷ lệ mắc bệnh (%) = x100 Tổng số con theo dõi Tổng số con khỏi bệnh - Tỷ lệ khỏi (%) = x100 Tổng số con điều trị - Các số liệu thu thập được xử lý theo phần mềm Excel bằng máy tính cá nhân.
- 33 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Kết quả tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Bảy Tuân, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội Hiện nay trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45 - 2,5 lứa/ năm. Số con sơ sinh là 11,7 con/đàn, số con cai sữa 10,7 con/đàn. Tại trại lợn con theo mẹ có xu hướng được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 28 ngày tuổi tiến hành cai sữa và chuyển sang chuồng thịt của trại. Em đã tiến hành theo dõi tình hình chăn nuôi của trại trong 3 năm từ 2017 - 2019 qua số liệu trực tiếp tại thời điểm thực tập và trên số liệu thống kê của trại. Kết quả được trình bày qua bảng 4.1. Bảng 4.1. Kết quả tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại Bảy Tuân, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội qua 3 năm ĐVT STT Loại lợn 2017 2018 5/2019 (con) 1 Lợn đực giống Con 12 14 14 2 Lợn nái hậu bị Con 74 75 80 3 Lợn nái sinh sản Con 632 521 494 4 Lợn con Con 14044 13504 6122 (Nguồn: Phòng kỹ thuật trang trại) Qua bảng 4.1 cho thấy, cơ cấu đàn lợn của trang trại trong giai đoạn 2017 - 2019 có xu hướng giảm nái sinh sản, lợn hậu bị và lợn đực giống tăng.Số lượng lợn nái sinh sản tại trang trại năm 2017 là 632 con, năm 2018 là 521 con giảm 111 con so với năm 2017 và đến tháng 5/2019 là 494 con, giảm 27 con so với năm 2018. Lợn nái sinh sản giảm từ 632 con xuống còn 494 con. Nguyên nhân là do một số nái đã già, đẻ trên lứa 6 nên loại thải, đặc biệt là do trong giai đoạn
- 34 này ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng đang gặp phải khó khăn, lợn mất giá, có lúc giá lợn chỉ còn 16 nghìn đồng/1kg nên trại đã quyết định giảm số lượng đàn lợn để giảm chi phí chăn nuôi cũng như thua lỗ. Số lượng đàn lợn đực từ 12 con tăng lên 14 con. Số lượng nái hậu bị tăng lên từ 74 con lên đến 80 con. 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản Trong thời gian thực tập em được phân công chăm sóc tại chuồng lợn nái đẻ 4 tháng (2 - 5/2019). Dưới đây là bảng số lượng lợn em được trực tiếp chăm sóc tại cơ sở qua 4 tháng thực tập ở chuồng đẻ. Bảng 4.2. Số lượng lợn nái theo dõi và chăm sóc nuôi dưỡng tại trại trong 6 tháng thực tập Tháng Nái đẻ Số lợn con 2 38 436 3 36 425 4 35 396 5 32 366 Tính chung 141 1623 Kết quả bảng 4.2 cho thấy: Số lợn nái đẻ em trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trong 6 tháng thực tập là 141 con. Những lợn nái chửa ở giai đoạn cuối 100 - 114 ngày, đã được chuyển lên chuồng nái đẻ để chờ đẻ và tập quen với chuồng đẻ. Để đảm bảo sự cách ly giữa các chuồng mỗi công nhân phải chăm sóc từ giai đoạn từ chuồng bầu lên để đến khi cai sữa lợn con. Trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng em đã được học hỏi và mở mang rất nhiều kiến thức về cách cho ăn, loại thức ăn nào dành cho những loại lợn nào, nhu cầu dinh dưỡng của lợn nái trong từng thời kỳ, các thao tác kỹ thuật để chăm sóc lợn mẹ tốt
- 35 Bên cạnh đó em cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm như: Đối với lợn nái sau khi tách con cần áp dụng chế độ ăn tăng để tăng số trứng rụng và tăng số con đẻ ra trên lứa; chuồng trại phải sạch sẽ thoáng mát tuy nhiên cũng không nên tắm thường xuyên vào những ngày lạnh, ẩm ướt vì sẽ làm ẩm chuồng, độ ẩm không khí tăng, vi sinh vật dễ phát triển trong môi trường làm lợn nái dễ nhiễm bệnh; vào những ngày mùa đông giá rét thì phải chuẩn bị bóng úm và thảm cho lợn con; đối với lợn mẹ sau khi đẻ phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, giữ cho chuồng trại luôn khô ráo, sạch sẽ, giữ ấm cho lợn và tuyệt đối không tắm cho lợn con. 4.3. Kết quả thực hiện các thao tác trên lợn con tại cơ sở Bảng 4.3. Kết quả thực hiện các thao tác trên lợn con Số Tỷ lệ Số lượng Số con lượng an STT Tên công việc được thực (con) (con) toàn hiện (con) (%) 1 Đỡ lợn đẻ 1623 1225 1225 100,00 2 Mài nanh, cắt đuôi 1623 514 514 100,00 Tiêm chế phẩm Fe - B12 3 1623 1623 1623 100,00 phòng bệnh thiếu máu 4 Cầu trùng (cho uống) 1623 1623 1623 100,00 5 Thiến lợn đực 810 154 153 99,35 6 Mổ héc ni 3 3 2 66,67 Công việc mổ héc ni thấp do tỷ lệ mắc héc - ni thấp, trong thời gian thực tập em đã theo dõi được 3 con bị héc ni và tiến hành mổ được 3 con, số con an toàn là 2 con (đạt tỷ lệ 66,67 %). Nguyên nhân bị héc ni chủ yếu là do
- 36 di truyền khi đẻ ra lợn con đã bị, một phần là do quá trình thao tác kỹ thuật thiến lợn không đúng làm sa ruột bẹn. Qua những công việc trên đã giúp tôi học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm trong quá trình chăm sóc lợn con cũng như nâng cao tay nghề và các kỹ thuật trên lợn con đồng thời giúp em mạnh dạn hơn, tự tin hơn vào khả năng của mình, hoàn thành tốt công việc được giao. 4.4. Kết quả thực hiện quy trình đỡ đẻ cho lợn nái tại trại Qua 4 tháng thực tập trên chuồng đẻ em đã được học cách đỡ đẻ và tham gia theo dõi xử lý các trường hợp đẻ khó của lợn nái tại trại cùng kỹ sư. Em đã thống kê lại những con đẻ bình thường, đẻ khó và được em trình bày ở bảng 4.4 Bảng 4.4. Kết quả thực hiện quy trình đỡ lợn đẻ tại trại Số nái đẻ Số nái đẻ khó Tháng Số nái theo Tỷ lệ thường Tỷ lệ (%) phải can thiệp theo dõi dõi (con) (%) (con) (con) 2 38 37 97,37 1 2,63 3 36 36 100,00 0 0,00 4 35 35 100,00 0 0,00 5 32 31 96,87 1 3,13 Tổng 141 139 98,58 2 1,42 Qua bảng 4.4 cho biết tổng số lượng lợn đẻ mỗi tháng, số con đẻ bình thường và số con đẻ phải can thiệp của trại. Tỉ lệ lợn nái đẻ phải can thiệp từ 2,63 - 3,13 %, trung bình là 1,42 %. Cao nhất là tháng 5, với tỷ lệ là 3,13 % và thấp nhất là tháng 3 và tháng 4 với tỷ lệ 0,00%. Lợn nái đẻ khó phải can thiệp là do lợn đẻ ở những lứa đầu, do lợn ăn nhiều vào kì cuối của thai kì làm thai quá to, do ngôi thai không thuận, do lợn mẹ ít được vận động và do sức khỏe của con mẹ không tốt. Số lợn nái đẻ phải can thiệp với tỉ lệ thấp là do trong quá trình chăm sóc đã thực hiện đúng qui trình về thức ăn cho lợn nái
- 37 mang thai. Tỉ lệ đẻ khó cao nhất chỉ 3,13 % cho thấy sự chăm sóc thực hiện tốt quy trình kỹ thuật cho lợn nái sinh sản. Trong đỡ đẻ em rút được kinh nghiệm là cần chuẩn bị tốt ô úm, vệ sinh sàn, vùng mông và âm hộ con nái trước khi đẻ. Khi lợn đẻ phải chú ý từng con một để nhận biết con nào đẻ khó, con nào đẻ dễ, chú ý thời gian đẻ của mỗi con để biết nhanh hay chậm. Nếu con mẹ đẻ khó cần can thiệp sớm bằng cách dùng oxytocin để kích thích co bóp cơ trơn tử cung, xoa bầu vú. Nếu thai quá to, con mẹ rặn đẻ không được phải nhanh chóng can thiệp đưa con con ra ngoài để tránh ngạt, làm chết những con còn lại trong tử cung. Khi can thiệp phải chú ý sát trùng tay vệ sinh vùng mông, âm hộ, phải tiến hành nhẹ nhàng tránh gây đứt nhau, xây sát niêm mạc tử cung con nái. Những người trực tiếp đỡ đẻ và can thiệp đẻ khó phải cắt móng tay, nếu để móng tay dài có thể làm tổn thương lợn con mới sinh, khi can thiệp đẻ khó có thể làm xây sát niêm mạc tử cung lợn nái. 4.5. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con tại trại Bảng 4.5. Kết quả tiêm vắc xin, thuốc phòng bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con tại cơ sở Số lượng Số lợn an Thời điểm Bệnh được Tỷ lệ Loại lợn con tiêm toàn sau phòng bệnh phòng (%) (con) tiêm(con) Tai xanh 494 494 100,00 Tháng 3 Tụ huyết 494 494 100,00 trùng Lợn nái Tháng 4 Giả dại 494 494 100,00 Tuần thứ 2 Khô thai 494 492 99,60 trước đẻ Tuần mang Lở mồm 494 494 100.00 thai thứ 12 long móng
- 38 2 tuần tuổi Mycoplasma 6122 6119 99,95 Lợn con 3 tuần tuổi Circo 6122 6120 99,97 Qua bảng 4.5 cho thấy về việc tiêm phòng vắc xin của trại đã được thực hiện nghiêm ngặt theo quy trình tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn nái và lợn con như: Tai xanh, giả dại, tụ huyết trùng, khô thai và lở mồm long móng cho lợn nái, mycoplasma và circo cho lợn con 2,3 tuần tuổi Hiệu quả tiêm phòng của các bệnh lở mồm long móng, tụ huyết trùng, giả dại, bệnh tai xanh đạt 100 %, phòng khô thai đạt 99,60 %, vắc xin mycoplasma đạt 99,95 %, vắc xin circo đạt 99,97 %, Em đã rút ra được nhiều kinh nghiệm về công tác tiêm phòng: Vị trí tiêm đúng và nhanh; cách bảo quản vắc xin; biết được thời điểm tiêm vắc xin phòng bệnh. 4.6. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại 4.6.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại Bảng 4.6. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại. Chỉ tiêu Số nái theo dõi Số nái mắc bệnh Tỷ lệ Tên bệnh (con) (con) (%) Viêm tử cung 141 9 6,38 Viêm vú 141 3 2,12 Sát nhau 141 2 1,42 Bảng 4.6. Cho thấy, trong 141 con lợn nái chăm sóc và nuôi dưỡng có 9 con mắc bệnh viêm tử cung, 2 con mắc bệnh sát nhau, 3 con mắc bệnh viêm vú. Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái nuôi tại trại cao nhất chiếm 6,38 % là do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi với điều kiện như nuôi dưỡng, chăm sóc và thời tiết không thuận lợi. Mặt khác, do trong quá trình phối giống
- 39 cho lợn nái bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo không đúng kỹ thuật đã làm xây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Do quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai làm cho vi khuẩn từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập vào gây viêm. Số lợn nái mắc bệnh sát nhau là 2 chiếm 1,42 %, nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, do cho ăn quá nhiều ở giai đoạn chửa kỳ 2 làm thai to, khó đẻ, do các thao tác đỡ đẻ không đúng làm đứt nhau, sát nhau. Tỷ lệ mắc viêm vú 2,12 %. Lợn mắc viêm vú thường do kế phát viêm tử cung, do nền chuồng bẩn, vú bị tổn thương 4.6.2. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản tại trại Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản tại trại Chỉ tiêu Số nái theo Số nái mắc Số nái điều Tỷ lệ dõi bệnh trị khỏi (%) (con) (con) (con) Tên bệnh Bệnh sát nhau 141 2 2 100,00 Bệnh viêm vú 141 3 2 66,67 Bệnh viêm tử cung 141 9 8 88,89 Bảng 4.7. Cho thấy các bệnh có tỷ lệ khỏi tương đối cáo. Trong đó cao nhất là bệnh sát nhau, điều trị 2 con khỏi 2 con, đạt 100 % do bệnh dễ phát hiện và chữa trị, con mẹ thường mệt mỏi, bỏ ăn, dịch từ tử cung chảy ra nhiều. Tiếp đến là bệnh viêm tử cung, viêm vú điều trị lần lượt 8 và 2 con có tỷ lệ khỏi là 88,89 % và 66,67% do việc chẩn đoán bệnh thường khó khăn hơn, khi phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở thể viêm nặng và điều trị khó khăn hơn.
- 40 Đối với bệnh sát nhau, viêm tử cung sau đẻ trại dùng oxytocin liều 2 ml/con để tăng cường co bóp cơ trơn tử cung, giúp đẩy nhau thai, sản dịch ra ngoài nhanh hơn. Kết hợp dùng kháng sinh để điều trị và phòng viêm nhiễm tái phát bằng hitamox LA với liều lượng là 1 ml/10 kg TT. Điều trị trong 3 ngày liên tục. Sau khi nhau thai và dịch tử cung ra hết em dùng nước muối sinh lý 0,9 % để rửa tử cung trong 3 ngày liên tục. Bệnh viêm vú em dùng vetrimoxin LA liều 1 ml/10 kg TT. Điều trị trong 3 ngày kết hợp vệ sinh sạch sẽ sàn chuồng và vệ sinh sát trùng vùng vú bị viêm. 4.7. Các công việc khác được làm tại trang trại. Trong thời gian thực tập em được phân công 2 tháng làm tại chuồng thịt (12/2018 - 1/2019). Trong thời gian này em đã được thực hiện các công việc như tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn thịt, điều trị cho đàn lợn mắc một số bệnh về hô hấp, tiêu chảy và viêm da. Bảng 4.8. Một số công việc khác được làm tại trại Số con Số con an Kết quả STT Tên công việc thực hiện toàn thực hiện (con) (con) (%) 1 Tiêm phòng vắc xin 1700 1700 100,00 2 Điều trị lợn bị viêm phổi 72 70 97,22 3 Điều trị lợn bị viêm da 5 5 100,00 4 Điều trị lợn bị tiêu chảy 96 92 95,83 Qua bảng 4.8. Kết quả tiêm phòng vắc xin đạt độ an toàn tuyệt đối là 100 %, lợn bị viêm phổi và tiêu chảy có tỷ lệ khỏi cao, lần lượt là 97,22 % và 95,83 %. Điều trị 5 con bị viêm da khỏi 5 con đạt tỷ lệ 100 %.
- 41 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tại trang trại Bảy Tuân, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội em có một số kết luận như sau: - Về hiệu quả chăn nuôi của trại: Hiệu quả chăn nuôi của trại khá tốt. - Những chuyên môn đã được học tại trại: Qua 6 tháng thực tập tại trại em đã được học hỏi và được chỉ dạy rất nhiều điều về kiến thức cũng như các thao tác kỹ thuật trong chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn. Những công việc em đã được học và làm như: + Đỡ lợn đẻ. + Mài nanh, bấm đuôi, tiêm chế phẩm Fe - B12 cho lợn con. + Thiến lợn đực, mổ héc - ni cho lợn đực, và làm viêm rốn. + Tham gia vào công tác tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn con. + Tham gia vào quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn con và lợn mẹ của trại (cho lợn ăn, tắm chải cho lợn mẹ, dọn vệ sinh chuồng ). 5.2. Đề nghị Xuất phát từ thực tế của trại, qua phân tích đánh giá bằng những hiểu biết của mình, em có một số ý kiến nhằm nâng cao hoạt động của trại như sau: - Trại lợn cần thực hiện quy trình vệ sinh phòng bệnh và quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái đúng kỹ thuật để giảm tỷ lệ lợn nái mắc các bệnh về sinh sản nói riêng và bệnh tật nói chung. - Quy trình phòng bệnh tiêm vắc xin nghiêm ngặt. - Chẩn đoán và điều trị bệnh sớm để tỷ lệ khỏi bệnh trên đàn lợn là cao nhất để không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất.
- 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1.Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, tr 29 - 35. 2. Trần Văn Bình, Trần Văn Thiện (2006), Thuốc và một số phác đồ điều trị bệnh gia súc, gia cầm, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội. 3. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016), “Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập XXIII (số 5), tr. 51 - 56. 4. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp TpHCM. 5. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội. 7. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E.coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện pháp phòng trị, Luận án thạc sỹ khoa học Nông nghiệp. 8. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội. 9. KS.Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản. Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ. 10. Nguyễn Văn Điệp, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Hòa, Yamaguchi (2014), “ Một số đặc điểm dịch tễ và bệnh lý của bệnh tiêu chảy thành dịch trên lợn ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, tập XXI (số 2), tr. 43 - 55
- 43 11. Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huê Viên, Phan Văn Kiểm (2003), Giáo trình Truyền giống nhân tạo vật nuôi, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 12. Duy Hùng (2011), “Bệnh viêm vú ở lợn nái”, Báo nông nghiệp Việt Nam. 13. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Văn Lãnh, Đỗ Ngọc Mỹ (2012), Giáo trình Bệnh truyền nhiễm thú y, Nxb Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, tr. 289 – 380. 14. Từ Quang Hiển, Phan Đình Thắm, Ngôn Thị Hoán ( 2001 ), Giáo trình thức ăn và dinh dưỡng học gia súc - gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Th.S. Phạm Thị Lan Hương, Giáo trình Thú Y Cơ Bản, Nxb Đại Học Nông Nghiệp (2013). 16. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002). 17. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn nái tại 3 tình phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp. 18. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, Trang 44 - 52. 19. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Bá Hiên, Nguyễn Văn Diên, Trần Đức Hạnh, Hạ Thúy Hạnh, Nguyễn Hữu Hưng, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Văn Năm, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thọ (2014), Bệnh của lợn tại Việt Nam, Nxb Hà Nội, tr. 118. 20. Trương Lăng (2000), Hướng dẫn điều trị các bệnh lợn, Nxb Đà Nẵng 21. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 22. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- 44 23. Nguyễn Đình Nhung, Võ Văn Sự, Võ Đình Tôn (2014), Giáo trình Giải phẫu vật nuôi, Nxb Nông nghiệp. 24. Lê Văn Năm (1999), Phòng và trị bệnh ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 25. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội 26. Nguyễn Ngọc Phụng (2005), Công tác vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn, Nxb lao động xã hội, Hà Nội. 27. Nguyễn Văn Thanh (2014), Sinh sản gia súc 2, Nxb Nông nghiệp. 28. PGS. TS. Phạm Ngọc Thanh, TS. Chu Đức Thắng, Th.S Đàm Văn Phải. 29. Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Thị Xuân (2016), “Năng suất sinh sản của hai tổ hợp lợn nái giữa lợn nái Landrace phối hợp với đực giống Yorkshire và lợn nái Yorkshire phối với đực giống Landrace”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, số 65, tr. 54 - 61. 30. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 31. Bùi Thị Tho và Trần Hoàng, Phan Thanh Phượng (2014), Dược lý học thú y, Nxb Nông nghiệp. 32. Đỗ Quốc Tuấn (2005), Bài giảng sản khoa và bệnh sản khoa gia súc, Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên. 33. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị, Tạp chí KHKT thú y. 34. Lê Văn Tạo, Khương Bích Ngọc, Nguyễn Thị Vui, Đoàn Băng Tâm (1993), “Nghiên cứu chế tạo vắc xin E. coli uống phòng bệnh phân trắng lợn con”, Tạp chí Nông nghiệp Thực phẩm, số 9, tr. 324 - 325. II. Tài liệu tiếng nước ngoài
- 45 35. A.V.Trekaxova, L.M. Đaninko, M.I. Ponomareva, N.P. Gladon (1983), Bệnh của lợn đực và lợn nái sinh sản, (Nguyễn Đình Chí dịch), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 36. Bilken (1994), Quản lý lợn nái và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả. 37. Pierre brouillt và Bernarrd farouilt (2003), Điều trị viêm vú lâm sàng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 38. Smith, B.B. Martineau, G., Bisaillon, A. (1995), “Mammary gland and lactaion problems”, In disease of swine, 7th edition, Iowa state university press, pp. 40- 57. 39.Taylor D.J. (1995), Pig diseases 6th edition, Glasgow university, U.K. Urban, V.P., Schnur, V.I., Grechukhin, A.N. (1983), “The metritis mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik se l,skhozyaistvennoinauki. 40. Urban, V.P., Schnur, V.I., Grechukhin, A.N. (1983), “The metritis, mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik selskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69 – 7 III. Tài liệu internet 41. Trần Văn Bình (2010), 42. Duy Hùng (2011), Bệnh viêm vú ở lợn nái, viem-vu-o-lon-nai-post65605.html | NongNghiep.vn.
- PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA CHUYÊN ĐỀ Ảnh 1: Thuốc Baycox 5% Ảnh 2: Thuốc Colistin - 1200 Ảnh 3: Thuốc Han - Doxy 50% Ảnh 4: Thuốc Nor 100
- Ảnh 5: Thuốc Oxytocin 20 Ảnh 6: Lợn bị bệnh viêm da Ảnh 7: Cân lợn sơ sinh Ảnh 8: Vệ sinh bầu vú lợn mẹ
- Ảnh 9: Lợn bị viêm vú Ảnh 10: Lợn bị viêm tử cung Ảnh 11: Vệ sinh máng ăn Ảnh 12: Vệ sinh sàn nhựa