Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại Nguyễn Thanh Lịch xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

pdf 70 trang thiennha21 19/04/2022 2380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại Nguyễn Thanh Lịch xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại Nguyễn Thanh Lịch xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM DƯƠNG THỊ TUYẾT Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI NGUYỄN THANH LỊCH, XÃ BA TRẠI, HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 – 2019 Thái Nguyên, năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM DƯƠNG THỊ TUYẾT Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI NGUYỄN THANH LỊCH, XÃ BA TRẠI, HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp: K47 - Thú y - N03 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 – 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. Đặng Thị Mai Lan Thái Nguyên, năm 2019
  3. i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn, sự giúp đỡ của các thầy cô giáo Khoa Chăn nuôi Thú y và trại lợn Nguyễn Thanh Lịch - huyện Ba Vì - thành phố Hà Nội. Với tình cảm sâu sắc, chân thành. Trước hết em xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y cùng toàn thể thầy cô giáo đã tạo điều kiện thuận lợi và cho phép em thực hiện khóa luận này. Em xin cảm ơn tới Ban lãnh đạo Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch và các kỹ sư, cùng toàn thể công nhân trong trang trại đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập. Nhân dịp này em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Đặng Thị Mai Lan đã rất tận tình và trực tiếp hướng dẫn em thực hiện thành công khóa luận này. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân cùng bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ động viên em trong thời gian hoàn thành khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 10 tháng 12 năm 2019 Sinh Viên Dương Thị Tuyết
  4. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Lịch sát trùng trại lợn nái 32 Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi của trại năm 2017 và năm 2019 35 Bảng 4.2. Kết quả cho ăn chăm sóc lợn nái 38 Bảng 4.3. Kết quả đỡ đẻ cho lợn 39 Bảng 4.4. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại 42 Bảng 4.5. Kết quả phòng bệnh bằng vắc xin cho đàn lợn tại trại 43 Bảng 4.6. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn nái 44 Bảng 4.7. Kết quả chẩn đoán bệnh cho đàn lợn con tại trại 46 Bảng 4.8. Kết quả điều trị cho đàn lợn nái tại trại 47 Bảng 4.9. Kết quả điều trị cho đàn lợn con tại trại 48 Bảng 4.10. Kết quả việc thực hiện phối giống cho đàn lợn 50 Bảng 4.11. Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn 51
  5. iii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT AD : Vắc xin giả dại CP : Công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam Cs. : Cộng sự CS.F : Vắc xin dịch tả FMD : Vắc xin lở mồm long móng G : gam Kg : Kilogam Ml : Mililit Nxb : Nhà xuất bản Pavo : Vắc xin chống khô thai PED : Dịch tiêu chảy cấp ở lợn PRRS : Vắc xin tai xanh STT : Số thứ tự TB : Tiêm bắp TT : Thể trọng VAC : Vườn - Ao - Chuồng
  6. iv MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của khóa luận 2 1.2.1. Mục đích 2 1.2.2. Yêu cầu 2 PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trại 4 2.1.3. Cơ sở vật chất của trại 5 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 7 2.2.1. Những hiểu biết về công tác phòng, trị bệnh cho vật nuôi 7 2.2.2. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 11 2.2.3. Một số bệnh thường gặp 17 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 28 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 28 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 29 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 31 3.1. Đối tượng tiến hành 31 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 31 3.3. Nội dung thực hiện 31
  7. v 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 31 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 31 3.4.2. Phương pháp thực hiện 31 PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 35 4.1. Kết quả đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại 35 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh 36 4.2.1. Kết quả quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng 36 4.2.2. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh 44 4.3. Kết quả phối giống cho đàn lợn nái và lợn hậu bị 48 4.4. Kết quả thực hiện công tác khác 51 PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 52 5.1. Kết luận 52 5.2. Đề nghị 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO 54 PHỤ LỤC
  8. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Nước ta trong những năm gần đây đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, nhu cầu về lương thực và thực phẩm ngày càng lớn. Từ đó đòi hỏi ngành chăn nuôi phải có những bước thay đổi phù hợp với sự phát triển của xã hội, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng để đáp ứng nhu cầu về trứng, thịt, sữa cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu. Trong đó ngành chăn nuôi lợn đóng góp một phần rất lớn để đáp ứng nhu cầu này. Hiện nay chăn nuôi lợn không chỉ là chăn nuôi tận dụng phế phụ phẩm như trước kia mà chăn nuôi lợn đã dần trở thành ngành sản xuất hàng hóa, góp phần tăng thu nhập cho người nông dân, cải thiện bữa ăn cho nhiều gia đình, nâng cao sức khỏe, dân trí và văn minh xã hội. Chăn nuôi lợn theo mô hình kiểu trang trại, với số lượng lợn lớn ngày càng đi lên và không ngừng phát triển về quy mô số đầu lợn lớn, đồng thời giống lợn đa dạng hơn. Hiện nay, các giống lợn nội không còn phù hợp nữa mà phải phát triển nhanh đàn lợn lai và lợn ngoại. Bởi vì, chăn nuôi lợn ngoại có năng suất cao, tăng trọng nhanh đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, nhất là khu vực thành phố và các khu công nghiệp do đó giá trị hàng hóa cao. Tuy nhiên, hiện nay ngành chăn nuôi lợn đang phải liên tục đối mặt với nhiều khó khăn. Trình độ dân trí còn hạn chế trong việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào thực tế sản xuất, vẫn còn tồn tại những phương thức chăn nuôi phân tán, nhỏ lẻ. Người chăn nuôi và các cán bộ cơ sở vẫn chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức về thú y, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại cảnh như: những bất ổn về giá cả, nguồn gốc thức ăn, chất tồn dư trong sản
  9. 2 phẩm chăn nuôi và tình hình dịch bệnh đang bùng phát ngày càng phức tạp gây nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là chăn nuôi lợn nái sinh sản và đàn lợn con theo mẹ. Để phát triển, nâng cao giá trị kinh tế cho ngành chăn nuôi lợn đặc biệt là chăn nuôi lợn nái em tiến hành thực hiện chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại Nguyễn Thanh Lịch xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội” 1.2. Mục đích và yêu cầu của khóa luận 1.2.1. Mục đích - Giúp sinh viên củng cố kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp thông qua việc áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái và lợn con theo mẹ. - Chẩn đoán và đưa ra được phác đồ điều trị một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái và lợn con theo mẹ. - Học tập kỹ năng quản lý trang trại chăn nuôi có hiệu quả. 1.2.2. Yêu cầu - Đánh giá được tình hình chăn nuôi của trang trại chăn nuôi lợn. - Nắm vững quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng, trị bệnh trên đàn lợn của trại - Thành thạo các kỹ năng nuôi dưỡng, chăm sóc và phòng trị bệnh cho đàn lợn. - Biết chẩn đoán bệnh cho lợn ốm và kê đơn, điều trị cho lợn mắc bệnh. - Thực hiện tốt các yêu cầu, quy định tại cơ sở.
  10. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Trại lợn của ông Nguyễn Thanh Lịch thuộc thôn 6, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Xã Ba Trại là một trong 7 xã miền núi thuộc huyện Ba Vì, nằm dưới chân núi Ba Vì. Nhìn chung địa hình của xã phần lớn là đồi gò, độ cao các quả đồi chênh nhau từ 5 đến 20 mét, độ dốc không lớn. Diện tích ruộng có 730 mẫu bắc bộ phần lớn là ruộng chằm, diện tích còn lại là đất đồi. Đặc điểm chung của Ba Trại bị chi phối bởi các yếu tố vĩ độ Bắc, cơ chế gió mùa, sự phối hợp giữa gió mùa và vĩ độ tạo nên khí hậu nhiệt đới ẩm với mùa Đông lạnh và khô. Nhiệt độ bình quân năm trong khu vực là 23,40C; nằm trong vùng bán sơn địa. - Phía Đông giáp với xã Tản Lĩnh. - Phía Tây giáp xã Thuần Mỹ. - Phía Bắc giáp xã Cẩm Lĩnh. - Phía Nam giáp xã Khánh Thượng 2.1.1.2. Điều kiện khí hậu Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu miền Bắc, bị chi phối bởi các yếu tố vĩ độ Bắc, cơ chế gió mùa. Sự phối hợp giữa cơ chế gió mùa và vĩ độ tạo nên khí hậu nhiệt đới ẩm, có sự khác biệt rõ rệt giữa mùa nóng và mùa lạnh nên có thể phân ra làm 4 mùa. Mùa Đông lạnh, hanh khô có kèm theo gió mùa, mưa ít. Mùa Hè nóng, mưa nhiều. Giữa hai mùa đó lại có hai thời kỳ chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10), còn được gọi
  11. 4 là mùa xuân và mùa thu. Đó là một trong những yếu tố khách quan tác động đến quá trình sinh trưởng, phát triển của vật nuôi và phẩm chất của nông sản. Lượng mưa: Lượng mưa trung bình năm 2.500 mm, phân bố không đều trong năm, tập trung nhiều vào tháng 7, tháng 8. Nhiệt độ: Nhiệt độ bình quân năm là 23,40C. Mùa nóng bắt đầu từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 9, khí hậu nóng ẩm và mưa nhiều rồi mát mẻ, khô ráo vào tháng 10. Mùa lạnh bắt đầu từ giữa tháng 11 đến hết tháng 3. Từ cuối tháng 11 đến tháng 1 rét và hanh khô, từ tháng 2 đến hết tháng 3 lạnh và mưa phùn kéo dài từng đợt. Trong khoảng tháng 9 đến tháng 11, có những ngày thu với tiết trời mát mẻ và sẽ đón từ hai đến ba đợt không khí lạnh yếu tràn về. Độ ẩm: Độ ẩm không khí trung bình năm là 86,1%. Vùng thấp thường khô hanh vào tháng 12, tháng 1. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trại Trại gồm có: 01: chủ trại 01: quản lý 01: đầu bếp 02: kỹ sư 02: tổ trưởng (1 chuồng bầu, 1 chuồng đẻ) 06: công nhân 10: sinh viên thực tập Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau như tổ chuồng đẻ, tổ chuồng bầu. Mỗi tổ thực hiện công việc hàng ngày một cách nghiêm túc, đúng quy định của trại.
  12. 5 2.1.3. Cơ sở vật chất của trại Trại có diện tích đất là 2 ha, được thành lập và đi vào sản xuất từ năm 2010 với số vốn đầu tư lên tới 18 tỷ đồng, trang trại chuyên nuôi lợn sinh sản cho công ty cổ phần thức ăn chăn nuôi CP Việt Nam cung cấp giống lợn con (cái Landrace - Yorkshire với đực Pietrain - Duroc). Trại được xây dựng cách xa đường lớn, xa trường học và nơi ít dân cư sinh sống, bao quanh trại chủ yếu là đồi cây và cách xa trại là cánh đồng lúa. Trại nằm trên địa hình khá cao ráo dễ thoát nước vào mùa mưa nhiều. Xung quanh các chuồng nuôi được trồng cây tạo bóng râm mát cho mùa Hè. Khu sản xuất gồm 3 chuồng đẻ, 1 chuồng bầu, 1 chuồng đực và 3 chuồng cách ly, nuôi 1086 lợn nái, 222 lợn nái hậu bị, 21 lợn đực khai thác (số liệu tháng 7/2017). Lợn sau khi sinh 21 ngày thì được cai sữa. Mỗi năm trang trại cho xuất ra thị trường khoảng 25.000 - 30.000 lợn con. Với việc chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp, các biện pháp phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi của trại được thực hiện chủ động và tích cực. Vệ sinh phòng bệnh nhằm nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn luôn là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với việc vệ sinh thức ăn, nước uống, vật nuôi, dụng cụ chăn nuôi, sinh sản thì việc vệ sinh chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi luôn được cán bộ thú y và đội ngũ công nhân kỹ thuật thực hiện chặt chẽ. Chuồng trại được thiết kế và xây dựng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật đảm bảo thoáng mát về mùa Hè, ấm áp về mùa Đông. Sau mỗi lứa lợn, chuồng trại đều được tẩy uế bằng phương pháp: rửa sạch ô nhốt lợn, để khô sau đó phun thuốc sát trùng như Fam flus, Vikon S và để trống chuồng nuôi tối thiểu là 3 ngày mới đưa lợn nái chờ đẻ khác lên. Với lợn con tuyệt đối không tắm rửa để tránh lạnh và ẩm ướt, định kỳ tiêu độc ở các chuồng nuôi lợn nái, lợn đực sản xuất bằng thuốc sát trùng, trại còn thường xuyên tiến
  13. 6 hành vệ sinh môi trường xung quanh như việc dọn cỏ, phát quang bụi rậm, diệt chuột, thu dọn phân hằng ngày ở các ô chuồng. Hiện nay, trại áp dụng quy trình chăn nuôi “cùng vào - cùng ra”, trong đó một chuồng hoặc cả một dãy chuồng được đưa vào để nhốt đồng loạt cùng một loại lợn (có thể tương đồng về khối lượng, tuổi). Sau một thời gian nhất định số lợn này được đưa ra khỏi chuồng, lúc đó chuồng trại được rửa sạch, phun thuốc sát trùng và để trống ít nhất 6 ngày trước khi đưa đàn lợn mới lên đẻ. Như vậy quy trình này có tác dụng phòng bệnh do vệ sinh chuồng trại thường xuyên, định kỳ mỗi khi xuất hết lợn, do đó hạn chế được khả năng lan truyền các mầm bệnh từ lô này sang lô khác. Hệ thống thông thoáng đối với chăn nuôi lợn công nghiệp rất quan trọng, ngoài việc cung cấp đủ oxy cho quá trình hô hấp của lợn, nó còn giúp giải phóng khí độc do phân, nước tiểu gây ra. Chính vì vậy, trại đã sử dụng hệ thống làm mát và chống nóng ở mỗi dãy chuồng vào mùa hè và hệ thống sưởi ấm vào mùa đông. Bên cạnh đó các dãy chuồng được sắp xếp theo hướng Đông Nam để đảm bảo ấm áp vào mùa đông, thoáng mát về mùa hè. Đặc biệt vào mùa Hè, thời tiết rất nóng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sinh sản của đàn lợn nái cũng như sự sinh trưởng và phát triển của lợn con. Do đó trại đã lắp đặt hệ thống chống nóng gồm hệ thống quạt gió ở cuối mỗi dãy chuồng có tác dụng hút không khí có hơi nước từ hệ thống dàn mát trên đầu chuồng tạo luồng khí mát, thông thoáng. Hai dãy tường chuồng được phủ một tấm lưới cách nhiệt và có tác dụng giữ ẩm. Chính vì vậy không khí trong chuồng lợn luôn mát và nhiệt độ luôn duy trì trong khoảng 28oC - 30oC. Trại trang bị hệ thống lồng úm bên trong có treo một bóng đèn sợi đốt 100W (mùa Hè) hoặc 200W (mùa Đông) với lợn sau cai sữa cũng có một đèn
  14. 7 sưởi hoặc tấm sưởi ở mỗi ô chuồng, đảm bảo luôn duy trì nhiệt độ thích hợp cho lợn con. 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 2.2.1. Những hiểu biết về công tác phòng, trị bệnh cho vật nuôi 2.2.1.1. Phòng bệnh - Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt Theo Nguyễn Ngọc Phụng (2005) [21] bệnh xuất hiện trong một đàn lợn thường do nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm hoặc không phải bệnh truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh tật trên đàn lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn. Lê Văn Tạo và cs (1993) [25] cho biết: vi khuẩn E.coli gây bệnh ở lợn là vi khuẩn tồn tại trong đường tiêu hóa của vật chủ. Khi môi trường quá ô nhiễm do vệ sinh chuồng trại, nước uống thức ăn bị nhiễm vi khuẩn, điều kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bị cảm nhiễm E.coli, bệnh sẽ nổ ra vì vậy mà khâu vệ sinh, chăm sóc có một ý nghĩa to lớn trong phòng bệnh. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khỏe mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vệ sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt độ trong chuồng phải đảm bảo 27 - 30 °C đối với lợn sơ sinh và 28 - 30 °C với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không thấm ướt. Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ kín, ấm áp vào mùa đông và đầu xuân. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh, ẩm để đề phòng bệnh cho lợn con, mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi.
  15. 8 Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [22] từ 3 - 5 ngày trước dự kiến đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như Crezin 5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước khi đẻ. - Phòng bệnh bằng vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng mát mùa Hè, ấm áp mùa Đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: Rửa sạch, để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 15 ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Với những chuồng nuôi lưu cữu hoặc chuồng nuôi có vật nuôi bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để: Sau khi đưa hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý theo hướng dẫn của thú y, cần phun sát trùng kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch) toàn bộ chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô và dọn, rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học; chất thải lỏng, nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra môi trường. Cần phun sát trùng 1-2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 30 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng nuôi. - Phòng bệnh bằng vắc xin Đây là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [11] vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần cho một bệnh truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền như ARN, ADN ) đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ mới – vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối
  16. 9 tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật sẽ gây ra đáp ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ướng. Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch 2.2.1.2. Điều trị bệnh Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [11] nguyên tắc để điều trị bệnh là: + Toàn diện: Phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. + Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan. + Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng. + Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. + Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức khỏe và sản phẩm. Nếu chữa ḱéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa. + Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa. Các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: + Hộ lý: Cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh.
  17. 10 + Dùng kháng huyết thanh: Chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). + Dùng hóa dược: Phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn. + Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm tác dụng chữa bệnh của kháng sinh.Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây: - Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. - Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. - Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh.
  18. 11 - Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. - Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, tiêm nước sinh lý 2.2.2. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 2.2.2.1. Sự thành thục về tính và thể vóc * Sự thành thục về tính Gia súc phát triển đến một giai đoạn nhất định thì sẽ có biểu hiện về tính dục. Con đực có khả năng sinh ra tinh trùng, con cái có khả năng sinh ra tế bào trứng. Theo Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) [26] cho biết thành thục về tính là tuổi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và có khả năng sinh sản. Lúc này tất cả các bộ phận sinh dục như: buồng trứng, tử cung, âm đạo đã phát triển hoàn thiện và có thể bắt đầu bước vào hoạt động sinh sản. Đồng thời với sự phát triển hoàn thiện bên trong thì ở bên ngoài các bộ phận sinh dục phụ cũng xuất hiện và gia súc có phản xạ về tính hay xuất hiện hiện tượng động dục. Tuy nhiên, thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính biệt và các điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc nuôi dưỡng. + Giống Các giống lợn khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau. Hầu hết các giống lợn nội thì thành thục sớm hơn các giống lợn ngoại, những giống có tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn những giống có tầm vóc lớn. Phạm Hữu Doanh và và Lưu Kỷ (2003) [4 cho biết: tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng, khi khối lượng đạt từ 20 - 25 kg. Ở lợn nái lai tuổi động dục lần đầu muộn hơn so với lợn nội thuần, ở lợn lai F1
  19. 12 (có sẵn máu nội) động dục bắt đầu lúc 6 tháng tuổi khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55 kg. Lợn ngoại động dục muộn hơn từ 6 - 8 tháng khi đạt 65 - 80 kg. Tùy theo giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý mà lợn có tuổi động dục lần đầu khác nhau. Lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 - 5 tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi), các giống lợn ngoại Yorkshire, Landrace muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi. + Điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn nái. Lợn được nuôi dưỡng với khẩu phần thức ăn đầy đủ, phù hợp nhu cầu dinh dưỡng thành thục sinh dục sớm hơn so với lợn được nuôi dưỡng với khẩu phần thức ăn có giá trị dinh dưỡng thấp. Lợn nái được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng tốt sẽ thành thục ở độ tuổi trung bình là 188,5 ngày (6 tháng tuổi) và nếu hạn chế thức ăn thì sự thành thục về tính sẽ xuất hiện lúc 234,8 ngày (trên 7 tháng tuổi). + Điều kiện ngoại cảnh Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính của gia súc. Những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành thục về tính sớm hơn những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu ôn đới và hàn đới. Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng tới sự thành thục của lợn nái hậu bị. Nếu ta để một con đực đã thành thục về tính gần ô chuồng của những con nái hậu bị thì sẽ thúc đẩy nhanh sự thành thục về tính của chúng. Theo McIntosh G. B (1996) [37], nếu cho lợn nái hậu bị tiếp xúc với đực 2 lần/ ngày, với thời gian 15 - 20 phút thì 83% lợn nái (ngoài 90 kg) động dục lúc 165 ngày tuổi. Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng: mùa Hè lợn nái hậu bị thành thục chậm hơn so với mùa Thu - Đông, điều đó có thể do ảnh hưởng của nhiệt độ trong chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng thấp trong các tháng nóng bức.
  20. 13 Những con được chăn thả tự do thì xuất hiện thành thục sớm hơn những con nuôi nhốt trong chuồng 14 ngày (mùa Xuân) và 17 ngày (mùa Thu). Mùa Đông, thời gian chiếu sáng trong ngày thấp hơn so với các mùa khác trong năm, bóng tối còn làm chậm tuổi thành thục về tính so với những biến động ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày. Tuy nhiên, một vấn đề cần lưu ý là tuổi thành thục về tính thường sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc. Vì vậy, để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường của lợn mẹ và đảm bảo những phẩm chất giống của thế hệ sau nên cho gia súc phối giống khi đã đạt một khối lượng nhất định tuỳ theo giống. Không nên cho phối giống ở lần động dục đầu tiên vì ở thời kỳ này cơ thể lợn chưa phát triển đầy đủ, chưa tích tụ được chất dinh dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách hoàn chỉnh. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con nái lâu bền cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục lần đầu rồi mới cho phối giống (Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ, 2003) [4]. * Sự thành thục về thể vóc Sự thành thục về thể vóc thường diễn ra chậm hơn sự thành thục về tính. Sau một thời kỳ sinh trưởng và phát triển, đến một thời điểm nhất định con vật đạt tới độ trưởng thành về thể vóc. Theo Nguyễn Đức Hùng và cs (2003) [12], tuổi thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, tầm vóc ổn định. Đối với lợn nái nội thường phối giống lần đầu lúc 6 - 7 tháng tuổi khi khối lượng đạt 40 - 50 kg, đối với lợn nái ngoại lúc 8 - 9 tháng tuổi khi khối lượng đạt 115 - 120 kg thì mới nên cho phối giống. 2.2.2.2. Chu kỳ động dục và thời điểm phối giống thích hợp * Chu kỳ động dục Lợn nái sau khi thành thục về tính thì cứ mỗi khoảng thời gian nhất định, cơ quan sinh dục của nó có những biến đổi đặc biệt kèm theo sự rụng trứng và
  21. 14 động dục. Hiện tượng này lặp đi lặp lại một cách có chu kỳ gọi là chu kỳ động dục hay chu kỳ tính. Theo Nguyễn Khánh Quắc và cs (1995) [24], chu kỳ động dục của lợn nái bình quân là 21 ngày, thời gian động dục tùy thuộc vào các giống lợn. Lợn nái nuôi con sau đẻ 3 - 4 ngày thường có hiện tượng động dục trở lại nhưng không cho phối vì bộ máy sinh dục chưa phục hồi và trứng rụng chưa đều. Sau cai sữa 3 - 5 ngày lợn nái động dục trở lại, cho phối lúc này lợn sẽ thụ thai, trứng rụng nhiều đạt số lượng con cao (Hội chăn nuôi Việt Nam, 2006) [13]. Một chu kỳ động dục của lợn nái thường được chia làm 4 giai đoạn, đó là giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục và giai đoạn yên tĩnh. + Giai đoạn trước động dục Đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ động dục, thường kéo dài 1 - 2 ngày và được tính từ khi thể vàng của lần động dục trước tiêu biến đến lần động dục tiếp theo, giai đoạn chuẩn bị cho đường sinh dục cái tiếp nhận tinh trùng, đón trứng rụng và thụ tinh. Dưới ảnh hưởng của Oestrogen cơ quan sinh dục có nhiều biến đổi như: tế bào vách ống dẫn trứng phát triển có nhiều nhung mao để chuẩn bị đón trứng rụng. Màng nhầy tử cung âm đạo tăng sinh, được cung cấp nhiều máu. Tử cung, âm đạo, âm hộ bắt đầu sung huyết. + Giai đoạn động dục Đây là giai đoạn tiếp theo và thường kéo dài 3 - 5 ngày gồm 3 thời kỳ: trước chịu đực, chịu đực và hết chịu đực. Giai đoạn trước chịu đực: Lợn nái kêu rít, âm hộ sung huyết, chưa cho phối và lợn chưa chịu đực. Thời gian rụng trứng khi có hiện tượng trên đối với lợn ngoại và lợn nái lai là 35 - 40 giờ, với lợn nội là 25 - 30 giờ.
  22. 15 Giai đoạn chịu đực: Lợn kém ăn, mê ì, lợn đứng yên khi ấn tay lên lưng gần mông, âm hộ giảm độ sưng, dịch nhờn chảy ra, dính, đục, đứng yên khi có đực đến gần và cho đực nhảy. Giai đoạn này kéo dài 2 ngày, nếu được phối giống lợn sẽ thụ thai, lợn nội có thời gian ngắn hơn 28 - 30 giờ. Giai đoạn sau chịu đực: Lợn trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở, đuôi cụp và không chịu đực. + Giai đoạn sau động dục Đây là giai đoạn kéo dài từ ngày thứ 3 - 4 tiếp theo của giai đoạn động dục, lúc này dấu hiệu hoạt động sinh dục bên ngoài giảm dần, âm hộ teo lại, lợn nái không muốn gần lợn đực, ăn uống tốt hơn. + Giai đoạn yên tĩnh Giai đoạn này thường bắt đầu từ ngày thứ 4 sau khi trứng rụng và không được thụ tinh đến khi thể vàng tiêu biến (khoảng 14 - 15 ngày kể từ lúc rụng trứng). Đây là giai đoạn dài nhất trong cả chu kỳ sinh dục, con vật không có biểu hiện về hành vi sinh dục, là giai đoạn nghỉ ngơi yên tĩnh chuẩn bị cho chu kỳ động dục tiếp theo. * Thời điểm phối giống thích hợp Để lợn nái đạt tỷ lệ thụ tinh cao, số con đẻ ra nhiều, cần phối giống đúng thời điểm vì thời gian trứng rụng và có hiệu quả thụ thai rất ngắn. Theo Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993) [29], trứng rụng tồn tại trong tử cung 2 - 3 giờ và tinh trùng sống trong âm đạo lợn nái 30 - 48 giờ. Như vậy, phải cho lợn nái phối giống 10 - 12 giờ trước lúc rụng trứng tức là 20 - 30 giờ sau khi bắt đầu chịu đực. Thời điểm phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4, tính từ lúc bắt đầu động
  23. 16 dục. Đối với lợn nái nội hơn một ngày vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 do thời gian động dục ở lợn nái nội ngắn hơn. * Cơ chế động dục Chu kỳ động dục của lợn nái được điều khiển bởi 2 yếu tố thần kinh và thể dịch. Khi các nhân tố ngoại cảnh như: ánh sáng, nhiệt độ, mùi con đực tác động và kích thích vùng dưới đồi (Hypothalamus) giải phóng ra các yếu tố tác động lên tuyến yên, kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết FSH (Folliculo Stimulin Hormone) và LH (Lutei Stimulin Hormone). FSH kích thích noãn bao phát triển đồng thời cùng với LH làm cho noãn bao thành thục, chín và rụng trứng. Khi noãn bao phát triển và thành thục, tế bào hạt trong thượng bì bao noãn tiết ra Oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn. Khi hàm lượng hormone này trong máu đạt 64 - 112% sẽ kích thích con vật có những biểu hiện động dục. Đồng thời dưới tác động của Oestrogen cơ quan sinh dục biến đổi: tử cung hé mở, âm hộ, âm đạo sung huyết, tiết niêm dịch, sừng tử cung và ống dẫn trứng tăng sinh tạo điều kiện cho sự làm tổ của hợp tử sau này. Cuối chu kỳ động dục thì Oestrogen lại kích thích tuyến yên tiết ra LH và giảm tiết FSH. Khi lượng LH/FSH đạt tỷ lệ 3/1 thì sẽ kích thích cho trứng chín và rụng trứng. Sau khi trứng rụng thể vàng được hình thành ở nơi bao noãn vỡ ra. Thể vàng tiết Progesterone giúp cho quá trình chuẩn bị tiếp nhận hợp tử ở sừng tử cung đồng thời ức chế tiết GSH (Gonado Stimulin Hormone) của tuyến yên làm cho bao noãn trong buồng trứng của lợn nái không phát triển được và kết thúc một chu kỳ động dục. * Một số chỉ tiêu sinh lý sinh dục của lợn nái + Tuổi động dục lần đầu Là tuổi khi lợn nái có biểu hiện động dục lần đầu tiên. Tuổi động dục lần đầu khác nhau phụ thuộc vào giống lợn. Lợn nội tuổi động dục lần đầu sớm
  24. 17 ơn lợn ngoại, lợn nái lai tuổi động dục lần đầu muộn hơn so với lợn nái nội. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con nái bền lâu cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục rồi mới phối giống. Tuổi động dục lần đầu còn phụ thuộc vào mùa vụ và chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh, thời gian chiếu sáng, nhiệt độ môi trường cũng như chế độ dinh dưỡng, mức độ sinh trưởng trước và sau cai sữa (Nguyễn Tấn Anh và Nguyễn Duy Hoan, 1998) [1]. Theo Lê Xuân Thọ và Lê Xuân Cương (1979) [30], đối với lợn nái hậu bị và lợn nái sau cai sữa chậm động dục, tiêm huyết thanh ngựa chửa có thể gây động dục. + Tuổi phối giống lần đầu Thông thường ở lần động dục đầu tiên người ta chưa tiến hành phối giống cho lợn nái vì thời điểm này lợn chưa thành thục về thể vóc, số lượng trứng rụng còn ít. Người ta thường tiến hành phối giống cho lợn nái vào chu kỳ thứ 2 hoặc thứ 3. Tuổi phối giống lần đầu được tính bằng cách cộng tuổi động dục lần đầu với thời gian động dục của một hoặc hai chu kỳ nữa hoặc tuổi tại thời điểm phối giống lần đầu. + Tuổi đẻ lứa đầu Sau khi thụ thai, lợn chửa trung bình là 114 ngày. Tuổi đẻ lứa đầu là tuổi lợn mẹ đẻ lứa đầu tiên. Lợn nái nội (Ỉ, Móng Cái) trong sản xuất tuổi đẻ lứa đầu thường 11 - 12 tháng. Lợn nái lai và lợn nái ngoại nên cho đẻ lứa đầu lúc 12 - 13 tháng tuổi (Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ, 2003) [4]. 2.2.3. Một số bệnh thường gặp 2.2.3.1. Bệnh trên lợn nái sinh sản * Bệnh Viêm tử cung
  25. 18 Bệnh viêm tử cung xảy ra trên các giống lợn khác nhau. Lợn nái ở các lứa đẻ khác nhau đều có thể mắc bệnh song tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào yếu tố vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng. Khi gia súc sinh đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao thường gây viêm tử cung. - Nguyên nhân: Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [8], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung, gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái, làm ảnh hưởng lớn thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Các tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [3], Phạm Sỹ Lăng và cs. (2002) [19], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: + Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. + Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khoẻ. + Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. + Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung. + Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, Phó thương hàn, bệnh Lao gây viêm.
  26. 19 + Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm. Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002) [5] cho biết: nguyên nhân gây viêm tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), Liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebriella, E.coli . Còn Lê Văn Năm (1999) [18] cho rằng: có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại cảnh gây bệnh như: Do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ bằng dụng cụ hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến Muxin của chất nhày các cơ quan sinh dục bị phá hủy hoặc kết tủa, kết hợp với việc chăm sóc nuôi dưỡng không hợp lý, con vật không được vận động làm chậm quá trình thụ tinh theo sinh lý của dạ con (trong điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về khối lượng kích thước ban đầu khoảng 3 tuần sau đẻ). Đây là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây bênh. Triệu chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động đực (vì lúc đó tử cung mở) và do thụ tinh nhận tạo sai kỹ thuật. Bệnh còn xảy ra do thiếu sót về dinh dưỡng và quản lý: Khẩu phần thiếu hay thừa protein, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm tử cung. Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột gây khó đẻ, viêm tử cung do xây xát. Khoáng chất, vitamin cũng ảnh hưởng đến viêm tử cung. - Triệu chứng: Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4-5 ngày, cá biệt tới 6-7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang vàng hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có thể có màu đen hôi thối, mùi tanh rất khó chịu . Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể:
  27. 20 + Thể cấp tính: Con vật sốt 41- 42 0C trong vài ngày đầu âm môn sưng tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ lờ. + Thể mãn tính: Không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch nhầy trắng đục tiết ra từ âm đạo, dịch nhầy thường không liên tục mà chỉ chảy ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử cung lan sang thai làm chết thai. - Điều trị: Hạn chế quá trình viêm lan rộng, kích thích tử cung co bóp thải hết dịch viêm ra ngoài và đề phòng hiện tượng nhiễm trùng cho cơ thể, chúng tôi tiến hành điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày như sau: Dùng cồn iod 10% làm sạch tử cung Tiêm Oxytocin: 3 - 5 ml/con Tiêm Bimoxyl LA: 20ml/con/ngày. * Bệnh viêm vú - Nguyên nhân: Trầy xước vú do sàn, nền chuồng nhám, vi trùng xâm nhập vào tuyến sữa. Hai loài vi trùng chính gây bệnh là Staphylococcus aureus và Streptococcus agalactiae Ngoài ra còn các nguyên nhân gây viêm như số con quá ít không bú hết lượng sữa sản xuất, kế phát từ viêm tử cung nặng hoặc do kỹ thuật cạn sữa không hợp lý trong trường hợp cai sữa sớm. Do vệ sinh không đảm bảo, chuồng trại quá nóng hoặc quá lạnh. Do lợn mẹ sát nhau, lợn con khi sinh ra không được bấm răng nanh ngay. Lợn mẹ ăn quá nhiều thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao làm sữa tiết ra quá nhiều ứ đọng lại trong vú tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển mạnh mẽ về số lượng và độc lực. - Triệu chứng: Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [27], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái
  28. 21 giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% Lê Hồng Mận (2002) [17], cho biết, vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu. - Điều trị: Chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra phương pháp chữa kết hợp. Dùng Novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 – 40 ml cho mỗi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thùy vú bệnh sâu 8 – 10 cm. Dung dịch novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong novocain này liều từ 400.000 - 600.000 UI, mỗi ngày 2 - 3 lần. Nếu điều trị hợp lý lợn sẽ khỏi trong vòng 3 - 5 ngày. Các loại kháng sinh thường dùng: Dufamox, ampicilline, cephalexine, gentamycine, norfloxacine và có thể dùng corticoide để giảm viêm kết hợp với vitamin. Ngoài ra trong trường hợp nái đẻ bị viêm nặng chúng ta có thể chườm cát nóng kết hợp xoa bóp bầu vú trong lúc đẻ. * Bệnh viêm phổi (Bệnh suyễn lợn) - Nguyên nhân: Theo Lê Văn Lãnh và cs. (2012) [14], bệnh suyễn lợn hay “Dịch viêm phổi địa phương ở lợn” (Enzootic pneumonia) là bệnh truyền nhiễm mãn tính ở lợn. Tỷ lệ chết không cao nhưng bệnh gây ra thiệt hại lớn trong nghành chăn nuôi lợn làm giảm tốc độ tăng trọng và gia tăng tỷ lệ mắc các bệnh kế phát, đặc biệt là những bệnh về đường hô hấp.
  29. 22 Thacker E. (2016) [38] cho biết: Mycoplasma hyopneumoniae (MH) là mầm bệnh chính gây dịch viêm phổi địa phương ở lợn và được quan tâm đến như là một nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh hô hấp phức hợp ở lợn (PRDC: Porcine respiratory disease complex). - Triệu chứng: Theo Lê văn Năm (2013) [19], thời kỳ nung bệnh dài từ 1 - 4 tuần, nhưng cũng có thể sau 1 - 3 ngày nếu chưa có mặt của Haemophillus. Bệnh thường phát triển rất chậm trên nền của viêm phế quản phổi và thông thường có 2 thể biểu hiện: Á cấp tính và mãn tính. + Thể á cấp tính: Lợn bệnh sốt nhẹ 40,4 - 41oC, bắt đầu từ những hắt hơi chảy nước mũi, sau đó chuyển thành dịch nhầy. Lợn thở khó, ho nhiều, sốt ngắt quãng, ăn kém, lúc đầu ho khan từng tiếng, ho chủ yếu về đêm, sau đó chuyển thành cơn, ho ướt nghe rõ nhất là vào sáng sớm đặc biệt là các buổi khi trời se lạnh, gió lùa đột ngột, nước mũi nước mắt chảy ra nhiều. Vì phổi bị tổn thương nên lợn thở thể ngực phải chuyển sang thở thể bụng, nhiều con thở ngồi như chó thở. Rõ nhất là sau khi bị xua đuổi, có những con mệt quá nằm lỳ ra mà không có phản xạ sợ sệt, vẻ mặt rầu rĩ, mí mắt sụp, tai không ve vẩy. Xương sườn và cơ bụng nhô lên hạ xuống theo nhịp thở gấp, Nhịp tim và nhịp thở đều tăng cao. Khi sờ nắn hoặc gõ để khám bệnh, lợn cảm thấy đau ở vùng phổi, rõ nhất là 1 - 2 đôi xương sườn đầu giáp bả vai. Lợn vẫn thèm ăn nhưng ăn uống thất thường. Nếu không điều trị, lợn bệnh sẽ chết sau 7 - 20 ngày. Tỷ lệ chết phụ thuộc rất nhiều vào lứa lợn nuôi, sức đề kháng cơ thể và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng cũng như bệnh thứ phát.
  30. 23 + Thể mãn tính: Đây là thể bệnh thường gặp nhất ở những đàn mang trùng. Lợn bệnh ho húng hắng liên tục và bệnh kéo dài gây cảm giác rất khó chịu. Đàn lợn ăn uống bình thường, nhưng lợn chậm lớn còi cọc, da lợn kém bóng, lông cứng và xù dựng đứng, nhiều trường hợp thấy da bị quăn và xuất hiện nhiều vảy nâu. Trong trại có một số con bị viêm khớp và vì thế chúng đi lại khó khăn đôi khi thấy liệt và bán liệt. Ở lợn nái, có thể có thấy thai chết lưu, sảy thai và con chết yểu. Nếu bị bội nhiễm thì lợn bệnh ho thường sổ mũi như mủ khiến các triệu chứng lâm sàng càng trở nên phức tạp. Cả hai thể cấp và mãn tính đều có tiên lượng xấu đi do lợn còi cọc, chậm lớn hao hụt số đầu con, chi phí thức ăn thuốc men tăng. Nếu lợn bệnh qua được thì khả năng hồi phục cũng rất kém, do phổi bị tổn thương nặng, lợn trở nên còi cọc và chậm lớn. - Điều trị: Những kháng sinh có hiệu lực điều trị với Mycoplasma là tetracycline, tylosin và tiamulin hay gentamycin, ngoài ra còn kết hợp các kháng sinh kháng viêm và một số thuốc bổ trợ để rút ngắn quá trình điều trị cho hiệu quả cao. Nếu phát hiện và điều trị sớm thì đạt được hiệu quả chữa bệnh cao. Hiện nay, vắc xin đã được tìm thấy để giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh, nhưng không ngăn chặn các bệnh xảy ra từ trong toàn bộ số lợn mắc bệnh do một số nguyên nhân từ cá thể hoặc ngoại cảnh làm vắc xin giảm hay không có hiệu lực. * Hội chứng tiêu chảy ở lợn - Nguyên nhân: Theo Nguyễn Đức Thủy (2015) [31], tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý ở đường tiêu hóa và nó có nhiều nguyên nhân, chúng ta có
  31. 24 thể phân loại ra là nguyên nhân nguyên phát và nguyên nhân thứ phát. Nhưng việc phân biệt rạch ròi giữa hai nguyên nhân này là rất khó khăn. Tuy nhiên, cho dù là nguyên nhân nào cũng gây hậu quả lớn đến cơ thể và đường tiêu hóa của lợn. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, nguyên nhân bị tiêu chảy ở lợn là do một số nguyên nhân sau đây: + Do vi khuẩn: Trong đường ruột của lợn có rất nhiều vi sinh vật sinh sống. Vi sinh vật trong đường ruột tồn tại dưới dạng một hệ sinh thái. Nguyễn Đức Thủy (2015) [31] cho biết: vi sinh vật bao gồm các loại virut, vi khuẩn và các loại nấm mốc. Hoạt động của hệ sinh thái trong đường ruột luôn được duy trì ở mức cân bằng và ổn định, một khi do một số yếu tố bất lợi làm giảm sức đề kháng của heo thì vsv có hại trong đường ruột có cơ hội phát triển mạnh hơn vsv có lợi, gây mất cân bằng và dẫn đến heo bị tiêu chảy. Theo Bùi Tiến Văn (2015) [34], một số vi khuẩn thuộc họ vi khuẩn đường ruột là E. coli, Samonella sp., shigela, Klebsiella, C. Pefringens Đó là những vi khuẩn quan trọng gây rối loạn tiêu hóa ở người và nhiều loài động vật. Nhiều tác giả nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy đã chứng minh rằng, khi gặp điều kiện thuận lợi, những vi khuẩn thường gặp ở đường tiêu hoá sẽ tăng độc tính, phát triển với số lượng lớn trở thành có hại và gây bệnh. + Do virus: Đã có nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng, virus cũng là nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn. Nhiều tác giả nghiên cứu đã kết luận 1 số virus như Rota-virus, TGE, Parvovirus, Adenovirus có vai trò nhất định gây hội chứng tiêu chảy ở lợn. Sự xuất hiện của virus đã làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá, suy giảm sức đề kháng của cơ thể và gây ỉa chảy ở thể cấp tính. TGE (Transmisssible gastro enteritis) được chú ý nhiều trong hội chứng tiêu chảy ở lợn. TGE gây bệnh viên dạ dày ruột truyền nhiễm ở lợn, là một bệnh có tính chất truyền nhiễm cao, biểu hiện đặc trưng là nôn mửa và tiêu
  32. 25 chảy nghiêm trọng. Bệnh thường xảy ra ở các cơ sở nuôi tập trung khi thời tiết rét, lạnh và chỉ gây bệnh cho lợn. Ở lợn, virus nhân lên mạnh nhất ở niêm mạc của không tràng và tá tràng, rồi đến hồi tràng, chúng không sinh sản trong dạ dày và kết tràng. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (1997) [15], virus TGE (Transmisssible gastro enteritis) có sự liên hệ đặc biệt với các tế bào màng ruột non. Khi virus xâm nhập vào tế bào, nó nhân lên và phá huỷ tế bào trong 4 - 5 giờ. Các thức ăn vào sẽ không tiêu hoá được ở lợn nhiễm virus TGE. Các chất dinh dưỡng không được tiêu hoá, nước không được hấp thu, lợn tiêu chảy, mất dịch, mất chất điện giải và chết. Có một loại virus cực kì nguy hiểm nữa có thể gây thành dịch tiêu chảy hàng loạt trên heo đó là virut PED (Porcin Epidemic Diarrhoea). Theo Trần Thu Trang (2013) [32], PED là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở lợn con mọi lứa tuổi, bệnh lây lan rất nhanh. Nguyên nhân gây ra bệnh là do virus Coronavius, lần đầu tiên được phát hiện tại Anh Quốc vào năm 1971, nhưng lúc đó chưa được công bố dịch. + Do ký sinh trùng: Ký sinh trùng ngoài việc lấy đi dinh dưỡng của lợn, tiết độc tố đầu độc cho lợn, chúng còn gây tác động cơ giới làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa và là cơ hội khởi đầu cho quá trình nhiễm trùng. Có nhiều loại ký sinh trùng đường ruột tác động gây ra bệnh tiêu chảy như sán lá ruột lợn, giun đũa lợn Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Ngà (2015) [20], ngoài tác động cơ giới lên thành ruột thì giun sán còn tiết độc tố có thể gây rối loạn tiêu hóa, làm lợn còi cọc chậm lớn và mở đường cho nhiều loại vi rút vi khuẩn xâm nhập. + Do thời tiết, khí hậu: Ngoại cảnh là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể lợn. Khi điều kiện thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột:
  33. 26 nóng quá, lạnh quá, mưa, gió, độ ẩm không khí cao đều là yếu tố tác động trực tiếp đến lợn, đặc biệt là lợn con. Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004) [6], các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng thay đổi bất thường của điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, vì các phản ứng thích nghi của cơ thể lợn con còn yếu. + Do kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng: Là yếu tố vô cùng quan trọng, việc chăm sóc nuôi dưỡng nếu không đảm bảo quy trình kỹ thuật thì sẽ ảnh hưởng đến sức đề kháng của heo, một khi sức đề kháng giảm thì các vi khuẩn có hại có điều kiện để phát triển mạnh lên, đặc biệt là vi khuẩn đường ruột. Việc thực hiện đúng quy trình chăm sóc nuôi dưỡng trong chăn nuôi sẽ giúp nâng cao sức đề kháng và khả năng sinh trưởng của lợn. Thức ăn bị nhiễm độc tố nấm mốc cũng là nguyên nhân gây ra tiêu chảy. Khẩu phần thức ăn của lợn thiếu khoáng và các vitamin cũng là nguyên nhân làm lợn dễ mắc bệnh. Thức ăn kém chất lượng, ôi thiu cũng là nguyên nhân làm cho lợn con bị tiêu chảy. Vậy cần có phương thức chăm sóc nuôi dưỡng tốt, khẩu phần ăn hợp lý để hạn chế bệnh viêm ruột cho lợn. Thức ăn thiếu đạm, tỷ lệ protein và axit amin không cân đối dẫn đến quá trình hấp thu chất dinh dưỡng không tốt. Cơ thể lợn thiếu dinh dưỡng, hàm lượng albumin huyết thanh giảm và kéo theo hàm lượng globulin huyết thanh cũng giảm. Hệ quả là khả năng miễn dịch của cơ thể giảm rõ rệt, tạo điều kiện cho các vi khuẩn phát triển gây bệnh. Vitamin là yếu tố không thể thiếu được với mọi cơ thể lợn, nó đảm bảo cho quá trình chuyển hóa trong cơ thể diễn ra bình thường. Thiếu một vitamin sẽ làm cho lợn còi cọc, sinh trưởng kém, dễ mắc bệnh đường tiêu hóa. + Do stress: Là yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức đề kháng của heo. Tất cả mọi nguyên nhân dẫn đến stress cho lợn như sự thay đổi thời tiết, tiếng ồn,
  34. 27 mật độ chuồng nuôi cũng ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật trong đó có hội chứng tiêu chảy. - Triệu chứng: Lợn con mắc bệnh lúc đầu ăn bình thường. Sau đó lợn ít ăn hoặc bỏ ăn, gầy nhanh, lông xù, đuôi rũ, da nhăn nheo nhợt nhạt, hai chân sau đứng co rúm lại và run rẩy, đuôi dính đầy phân, khi lợn đi ỉa rặn nhiều, lưng uốn cong, bụng thóp lại, thể trạng đờ đẫn, ít vận động. + Thể quá cấp tính: Lợn chết nhanh, thường sau 2 - 12 giờ kể từ khi bỏ ăn, lợn bỏ ăn hoàn toàn đi xiêu vẹo, loạng choạng, thích nằm bẹp một chỗ, mõm tím tái, thở thể bụng khó khăn, phân lỏng màu trắng lầy nhầy, mùi tanh thối. Lợn nằm co giật yếu dần rồi chết. + Thể cấp tính: Lợn chết chậm hơn 2 - 4 ngày kể từ khi bỏ ăn, lợn ỉa chảy, mất dinh dưỡng, nước, khoáng, yếu rồi chết dần. + Thể mãn tính: Lợn ỉa chảy liên miên, phân lúc nước lúc sền sệt, mùi khó chịu, hậu môn dính phân, bẩn, lợn gầy sụt, xù lông, nếu không chết thì cũng còi cọc. - Điều trị bệnh + Điều trị nguyên nhân gây bệnh Nguyên nhân chủ yếu trong hội chứng tiêu chảy của lợn là do một số vi khuẩn gây bệnh đường ruột, bao gồm vi khuẩn hiếu khí, yếm khí tuỳ tiện hoặc yếm khí bắt buộc. Những vi khuẩn thường gặp là E. coli, Cl. perfringens, Streptococcus Dùng thuốc kháng sinh có tác dụng cao với các vi khuẩn như E. coli gây ra hội chứng tiêu chảy ở lợn con. Theo Nguyễn Văn Tuyên và Dương Văn Quảng (2016) [33], các chủng vi khuẩn phân lập được đều mẫn cảm với amikacin và ceftifour (100%); flumequine (86,2%) và norfloxacin (75,9%). Tuy nhiên 100% chủng kiểm tra đều kháng colistin, tetracyline. Tình trạng kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn gây bệnh ở lợn ngày càng tăng. Radostits O. M. và cs. (1994) [36] cho biết: việc kiểm tra
  35. 28 tính mẫn cảm của vi khuẩn gây bệnh với kháng sinh để lựa chọn loại kháng sinh thích hợp là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả điều trị bệnh. + Điều trị triệu chứng tiêu chảy Lợn bị tiêu chảy do E. coli khi điều trị, ngoài việc dùng kháng sinh sớm từ đầu nên dùng kết hợp một số thuốc hay hóa dược có tác dụng ức chế sự sản sinh và ảnh hưởng của độc tố đường ruột Enterotoxin do vi khuẩn phóng thích ra. Kết hợp sử dụng dung dịch các chất điện giải như dung dịch đường glucose, muối natri, kali cung cấp, bổ sung lượng nước và các chất điện giải bị mất trong khi tiêu chảy. Trong điều trị cần thực hiện tốt chế độ ăn uống, chống nhiễm khuẩn và điều trị hiện tượng mất nước, chất điện giải. Trong đó, bổ sung nước và chất điện giải có vai trò quan trọng vì có tới 80% lợn chết do bệnh lý này. 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Bá Hiên (2001) [10], nguyên nhân vi khuẩn gây tiêu chảy chính ở lợn là E. coli, Salmonella và Clostridium. Còn Phạm Sỹ Lăng và cs. (2002) [16] thì: bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [8] cho biết: khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ.
  36. 29 Theo Phạm Hữu Doanh và cs, (2003) [4]: Trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1h đẻ, cắt răng nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục. Lợn mắc tiêu chảy và chết do tiêu chảy cao nhất vào mùa Xuân và thấp nhất vào mùa Thu. Khi xác định khả năng mẫn cảm với kháng sinh của vi khuẩn S. suis phân lập được ở lợn mắc bệnh viêm phổi cho biết các chủng vi khuẩn S. suis mẫn cảm cao với các loại kháng sinh như ceftiofur, florfenicol, amoxicillin, amikacin và có hiện tượng kháng lại một số kháng sinh streptomycin, neomycin, tetracycline. Điều này đã thể hiện theo thời gian vi khuẩn S. suis đã có hiện tượng kháng thuốc với một số kháng sinh thông dụng như streptomycin, neomycin, tetracycline và penicillin G. Nguyễn Chí Dũng (2013) [7] đã nghiên cứu và kết luận: vào các tháng có nhiệt độ thấp và độ ẩm cao, tỷ lệ lợn mắc bệnh tiêu chảy cao hơn so với các tháng khác (26,98% đến 38,18%). 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Theo Urban (1983) [35], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp. Tuy nhiên, các nghiên cứu của các tác giả khác lại ghi nhận các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm vi sinh vật hiếu khí có mặt ở nền chuồng, lúc lợn nái sinh cổ tử cung mở, vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh. Do đó tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh
  37. 30 thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Theo Bilkei (1994) [2], viêm tử cung thường sảy ra trong lúc sinh do nhiễm vi khuẩn E.coli gây dung huyết và các vi khuẩn gram dương. Ở Pháp các tác giả Pierre Brouillt và Bernarrd Faroult (2003) [23] đã nghiên cứu và kết luận: Điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả, xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của 30 phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược động học cho phép đáp ứng tốt hơn cách điều trị.
  38. 31 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng tiến hành - Lợn nái sinh sản và lợn con sau cai sữa 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Trại lợn nái Nguyễn Thanh Lịch - Ba Vì - Hà Nội. - Thời gian: Từ ngày 20/11/2018 đến ngày 20/05/2019. 3.3. Nội dung thực hiện - Đánh giá tình hình chăn nuôi của trại - Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái - Thực hiện quy trình phòng và trị bệnh cho đàn lợn của trại 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi - Cơ cấu đàn lợn tại thời điểm thực tập - Công tác việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại - Công tác phòng bệnh bằng vắc xin cho lợn - Kết quả chẩn đoán lợn bị bệnh - Kết quả điều trị bệnh cho lợn nuôi tại trại. 3.4.2. Phương pháp thực hiện 3.4.2.1. Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Để đánh giá được tình hình chăn nuôi của trại em đã tiến hành thu thập nguồn thông tin từ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân viên của trại. Đồng thời tự tìm hiểu và tìm kiếm số liệu từ sổ sách ghi chép của trại trong 2 năm gần đây, kết hợp với theo dõi trực tiếp trên đàn lợn trong thời gian thực tập.
  39. 32 3.4.2.2. Quy trình vệ sinh chuồng nuôi hàng ngày Quy trình vệ sinh chuồng trại hàng ngày được thực hiện theo đúng quy trình của Công ty TNHH C.P Việt Nam. Bảng 3.1. Lịch sát trùng trại lợn nái Trong chuồng Ngoài khu Ngoài Thứ Chuồng Chuồng Chuồng vực chăn chuồng nái chửa đẻ cách ly nuôi Phun sát Phun sát Chủ nhật trùng trùng Quét vôi Phun sát Phun sát Phun sát hoặc rắc Phun sát Thứ 2 trùng + rắc trùng toàn trùng toàn vôi đường trùng vôi bộ khu vực bộ khu vực đi Quét vôi Phun sát Phun sát hoặc rắc Thứ 3 trùng + rắc trùng vôi đường vôi đi Xả vôi Phun sát Thứ 4 Rắc vôi Rắc vôi gầm trùng Phun sát Thứ 5 Phun ghẻ Phun ghẻ trùng Phun sát Phun sát Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 6 trùng + rắc trùng trùng trùng trùng vôi Vệ sinh Vệ sinh Vệ sinh Vệ sinh Vệ sinh Thứ 7 tổng tổng tổng tổng khu tổng khu chuồng chuồng chuồng vực vực
  40. 33 3.4.2.3. Chẩn đoán và điều trị bệnh gặp trên đàn lợn nái và lợn con tại trại Để xác định được tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản và lợn con tại trại, hàng ngày em và cán bộ kỹ thuật tiến hành theo dõi, quan sát những biểu hiện của đàn lợn nái thông qua các bước sau: * Kiểm tra tình trạng ăn uống bằng cách trực tiếp quan sát, theo dõi con vật hàng ngày - Trạng thái cơ thể bình thường: con vật ăn uống bình thường, vận động nhanh nhẹn. - Trạng thái bệnh lý: ăn uống giảm hoặc bỏ ăn. * Kiểm tra thân nhiệt - Quan sát, cảm nhận bằng tay: + Trạng thái bình thường: toàn thân lợn nái có màu bình thường, không đỏ, dùng mu bàn tay sờ không nóng. + Trạng thái bệnh lý: toàn thân đỏ ửng, dùng mu bàn tay sờ thấy nóng ran. - Đo thân nhiệt qua trực tràng bằng nhiệt kế 43oC + Trước khi đo nhiệt độ phải vẩy nhiệt kế cho cột thủy ngân tụt xuống hết thang độ. + Dùng bông tẩm cồn lau nhiệt kế trước và sau khi sử dụng. + Cho từ từ nhiệt kế vào trực tràng theo hướng hơi xiên xuống dưới để tránh niêm mạc bị tổn thương. + Để nhiệt kế ở trực tràng từ 5 - 10 phút, rồi lấy ra xem nhiệt độ trên thang nhiệt kế. + Trạng thái bình thường: thân nhiệt bình thường, ổn định ở 38 - 40oC. + Trạng thái bệnh lý: hơi sốt hoặc sốt cao 41 - 42oC. * Quan sát bên ngoài cơ quan sinh dục - Trạng thái bình thường: màu sắc âm hộ bình thường, không sưng, không sung huyết hay thủy thũng.
  41. 34 - Trạng thái bệnh lý: âm hộ sưng, sung huyết, thủy thũng, có dịch viêm chảy ra từ âm hộ, gốc đuôi có dính nhiều dịch viêm. * Kiểm tra âm đạo - Rửa sạch và sát trùng mép âm môn. - Dùng mỏ vịt có hệ thống đèn soi đã được vô trùng để kiểm tra. + Trạng thái bình thường: con vật không đau, màu sắc niêm mạc âm đạo, màu và mùi niêm dịch bình thường. + Trạng thái bệnh lý: con vật đau đớn, niêm mạc âm đạo đỏ, tổn thương, niêm dịch đục, có mùi tanh, hôi. * Kiểm tra nước tiểu + Trạng thái bình thường: nước tiểu trong, mùi khai tự nhiên, không có mùi tanh, hôi thối. + Trạng thái bệnh lý: nước tiểu đục, lẫn tổ chức hoại tử, dịch viêm, mùi tanh, hôi thối. Trên cơ sở biểu hiện lâm sàng khác thường của lợn nái, cán bộ kỹ thuật tiến hành ghi số tai hoặc đánh dấu từng con bằng cách phun sơn màu đỏ, sau đó tiến hành chẩn đoán lâm sàng, ghi rõ tuổi, thân nhiệt, triệu chứng lâm sàng Từ đó có các biện pháp điều trị cho lợn nái bị bệnh. 3.4.2.4 Công thức tính toán các chỉ tiêu ∑ số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 ∑ số lợn theo dõi ∑ số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%) = x 100 ∑ số con điều trị
  42. 35 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Kết quả đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Trong thời gian thực tập tại trại em nhận thấy. Hiện nay trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45 - 2,5 lứa/năm. Số con sơ sinh là 11,83 con/đàn, số con cai sữa: 9,83 con/đàn. Trại hoạt động vào mức khá theo đánh giá của công ty chăn nuôi CP Việt Nam. Tại trại, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày thì tiến hành cai sữa và chuyển sang các trại lợn giống của công ty. Tình hình chăn nuôi của trại năm 2017 đến tháng 5/2019 được trình bày qua bảng 4.1 Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi của trại năm 2017 và năm 2019 Số lượng (con) STT Loại Lợn 2017 2018 5/2019 1 Lợn đực giống 21 21 19 2 Lợn hậu bị 120 162 105 3 Lợn nái sinh sản 1.268 1.123 1.058 4 Lợn con 29.164 32.565 17.050 Nhìn vào bảng 4.1 ta thấy: Cơ cấu đàn lợn của trại tính đến tháng 5/2019 gồm có: Lợn đực giống 19 con; lợn nái sinh sản 1058 con; lợn hậu bị 105 con và lợn con là 17.050 con. Từ năm 2017 đến tháng 5/2019 số đầu lợn có xu hướng giảm đi ở lợn nái sinh sản, giảm 210 con do hàng tháng có sự loại thải những con nái sinh sản kém, không đủ tiêu chuẩn để làm giống. Từng lợn nái được theo dõi tỉ mỉ các số liệu liên quan của từng nái như: số tai, ngày phối giống, ngày đẻ dự kiến được ghi trên thẻ gắn tại chuồng nuôi.
  43. 36 Số lợn đực giống giảm từ 21 xuống 19 con và tới tháng 05/2019 là 19 con, với số lợn đực như vậy đảm bảo cho việc phối giống cho đàn lợn nái của trại. 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh 4.2.1. Kết quả quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng 4.2.1.1. Công tác chăn nuôi Hằng ngày, em trực tiếp học hỏi, tham gia cùng với cán bộ kĩ thuật và công nhân tại trang trại kiểm tra và chăm sóc đàn lợn nái sinh sản. Công việc cụ thể như sau: * Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng Trong quá trình thực tập tại trang trại, em đã tham gia vệ sinh, chăm sóc nái đẻ, đỡ đẻ, chăm sóc cho lợn con theo mẹ đến cai sữa. Thực hiện quy trình chăm sóc nái chờ đẻ, nái đẻ, đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa như sau: - Đối với nái chửa: Lợn nái chửa được nuôi chủ yếu ở chuồng bầu. Hàng ngày vào kiểm tra lợn để phát hiện lợn phối không đạt, lợn nái bị sảy thai, lợn mang thai giả, vệ sinh, dọn phân không để cho lợn nằm đè lên phân, lấy thức ăn cho lợn ăn, rửa máng, phun thuốc sát trùng hàng ngày, xịt gầm, cuối giờ chiều phải chở phân ra khu xử lý phân. Đối với nái chửa từ tuần 1 - tuần - 12 ăn thức ăn 566SF với tiêu chuẩn 2 - 2.5kg/con/ngày tùy theo thể trạng, cho ăn 1 lần trong ngày. Nái chửa từ tuần 13 - tuần 14 ăn thức ăn 567SF với tiêu chuẩn 2,5 - 3kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày. Nái chửa từ tuần 15 trở đi ăn thức ăn 567SF với tiêu chuẩn 3,5 - 4kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày. - Đối với nái đẻ: Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 – 10 ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp, sát trùng và cọ, rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên
  44. 37 bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu chuẩn ăn 3 kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng, chiều. Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 3 ngày, giảm tiêu chuẩn ăn xuống 1,5 kg/con/bữa. Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn từ 0,5 - 1 kg/con/ngày chia làm hai bữa sáng, chiều. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc nuôi nhiều con có thể tăng lượng thức ăn lên 2 kg/con/ngày. - Đối với đàn lợn con lợn mẹ đến khi cai sữa: + Ngay sau khi đẻ ra lợn được tiến hành cắt rốn, bấm nanh. + Lợn con 2 - 3 ngày tuổi được cắt số tai, cắt đuôi và tiêm sắt, cho uống thuốc phòng phân trắng lợn con và tiêu chảy. + Lợn con 3 - 4 ngày tuổi cho lợn con uống thuốc phòng cầu trùng. + Lợn con 4 - 5 ngày tuổi tiến hành thiến lợn đực. + Lợn con được từ 4 - 6 ngày tuổi tập cho ăn bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh 550 SF. + Lợn con được 14 - 18 ngày tuổi tiêm phòng Mycoplasma, Circo. + Lợn con được 21 ngày tuổi tiến hành cai sữa cho lợn con. Thường xuyên theo dõi đàn lợn để điều chỉnh lượng thức ăn hợp lý, đảm bảo lợn nái nuôi con tốt, không quá béo, không quá gầy. Đối với những lợn nái béo thì giảm khẩu phần 0,2 - 0,5 kg/ngày, còn lợn quá gầy thì tăng thêm 0,2 - 0,5 kg/ ngày, tùy vào thực tế. Đối với lợn con theo mẹ tiến hành đặt máng tập ăn càng sớm càng tốt, để đảm bảo nhu cầu sinh trưởng của lợn con, kích thích cho bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển, hạn chế hao hụt lợn mẹ. Em tiến hành tập ăn cho lợn con từ lúc 4 - 6 ngày tuổi, sử dụng thức ăn dễ tiêu hóa, giàu chất dinh dưỡng, mùi thơm ngon tương tự sữa, cho ăn làm nhiều lần trong ngày, mỗi lần cho ít cám để thức ăn lúc nào cũng được thơm ngon, kích thích lợn con ăn nhiều. Hàng ngày, em tham gia quét dọn chuồng trại, tắm chải cho lợn, tham gia đỡ đẻ, chăm sóc lợn nái đẻ, lợn nái nuôi con.
  45. 38 Bảng 4.2. Kết quả cho ăn chăm sóc lợn nái Số lần trại tổ Số lần Kết quả Công việc chức thực hiện tham gia đạt (lần) (lần) (%) Quét dọn chuồng trại 180 100 55,55 Tắm chải cho lợn 180 175 97,23 Tham gia đỡ đẻ 180 50 27,78 Cho lợn nái ăn 360 80 22,30 - Chuẩn bị trước lúc đẻ: Sau khi cai sữa, lợn mẹ được đưa về chuồng bầu nuôi dưỡng, chờ phối cho lứa sau. Phải tiến hành vệ sinh sát trùng ngăn chuồng đẻ để chuẩn bị cho đàn lợn nái sắp đẻ tiếp theo. Bằng cách thực hiện cọ rửa sạch sẽ, phun sát trùng, dội vôi chuồng và gầm sàn, để trống chuồng ít nhất 3 ngày sau đó mới đưa lợn chờ đẻ sang. Lợn đưa lên đẻ phải cùng tuần phối và được sắp xếp theo sơ đồ cuốn chiếu từ dưới lên trên, để thuận lợi trong việc đỡ đẻ và chăm sóc quản lý lợn con sơ sinh. Dựa vào ngày đẻ dự kiến ghi trên thẻ nái để chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ. Trước ngày đẻ, các dụng cụ cần thiết khi đỡ đẻ: panh kẹp, kéo, bông, khăn lau, chỉ buộc rốn, cồn sát trùng, thuốc kích thích phải được chuẩn bị đầy đủ để ở trong chuồng đẻ và phải được sát trùng kỹ lưỡng. Nếu mùa Đông thì dựa theo ngày đẻ dự kiến, lợn nái nào sắp đến ngày đẻ thì tiến hành lau mình, phần vú, phần mông cho sạch sẽ. Dùng nước sạch pha sát trùng loãng. Còn nếu là mùa hè thì tiến hành tắm rửa cho lợn nái và sau đó giữ vệ sinh sạch sẽ cho lợn. Lợn nái trong giai đoạn chờ đẻ giảm dần lượng thức ăn, cho uống nước tự do. Thường xuyên theo dõi nhiệt độ trong chuồng nuôi mà có biện pháp điều chỉnh quạt thông gió và thắp bóng đèn trong lồng úm lợn con sao cho phù hợp. * Trực và đỡ đẻ:
  46. 39 Đây là công việc có ý nghĩa rất quan trọng để đảm bảo tỷ lệ sống của lợn con và kịp thời can thiệp, hỗ trợ lợn mẹ trong trường hợp bất thường. Công tác trực, đỡ đẻ dựa vào việc theo dõi ngày đẻ dự kiến và quan sát biểu hiện của lợn nái. Trước đẻ 3 - 5 ngày vú lợn bắt đầu cương cứng. Trước đẻ 1 - 2 ngày bộ phận sinh dục ngoài dãn lỏng, hai bên gốc đuôi lõm xuống gọi là hiện tượng sụt mông, vắt vú thấy có sữa chảy ra, lợn mẹ đi tìm chỗ nằm, âm hộ chảy nước nhờn, lợn sắp đẻ. Cần phải theo dõi và đỡ đẻ kịp thời. Trước lúc đẻ, tiến hành vệ sinh lại một lần nữa cơ thể lợn mẹ, lau sạch vú, mông, chân bằng nước pha thuốc sát trùng nhẹ. Lau sạch sàn chuồng, chuẩn bị tải lót và bóng đèn đầy đủ. Lợn bắt đầu đẻ là lúc toàn thân co bóp, lúc này áp lực bên trong tăng cao đẩy thai ra ngoài. Thời gian đẻ kéo dài 1 - 6 giờ, nếu quá 6 giờ mà thai chưa ra thì cần xem xét để có biện pháp tác động kịp thời. Cũng có trường hợp cả màng thai và lợn con cùng ra một lúc thì nhanh chóng xé bọc tránh lợn con chết ngạt. Nếu lợn có hiện tượng ngạt thì hô hấp, vỗ nhẹ vào lưng, cong gập thân lợn để kịp thời cứu. Trong quá trình lợn đẻ nếu lợn mẹ bẩn thì lau cơ thể lợn mẹ bằng nước ấm pha sát trùng nhẹ. * Đỡ lợn con Một tay cầm chắc mình lợn con, một tay vuốt dịch nhờn ở miệng, mũi trước để lợn con thở được, sau đó vuốt thân và hai chân sau. Rồi mới dùng khăn bằng vải xô lau sạch cơ thể. Thao tác nhẹ nhàng, khéo léo để lợn con không kêu nhiều và không bị đau. Sau đó lấy chỉ buộc rốn, tại chỗ thắt chỉ thường để lại khoảng 4 - 5 cm. Người đỡ đẻ cần cắt móng tay, rửa sạch tay trước khi đỡ đẻ. Nếu phải can thiệp bằng tay thì rửa tay bằng nước sát trùng nhẹ, rồi bôi dung dịch bôi trơn. Bảng 4.3. Kết quả đỡ đẻ cho lợn Số lợn mẹ Số lợn con Số lợn Số lợn Phương được đỡ đẻ được sinh ra con chết con sống thức đỡ đẻ (con) (con) (con) (con)
  47. 40 Đẻ thường 50 650 48 602 Can thiệp 2 26 3 23 4.2.1.2. Công tác thú y * Công tác vệ sinh, sát trùng Hàng ngày, trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh viên chúng đều phải đi qua phòng sát trùng, tắm sạch sẽ và thay quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. + Việc đầu tiên vào chuồng là vệ sinh chuồng, cào phân để tránh lợn nái nằm đè lên phân. + Bắt nhốt lợn con vào ô úm rồi lau sàn nhựa (hoặc rắc vôi rồi quét – áp dụng với chuồng lợn con theo mẹ) + Rắc vôi lối đi giữa, xung quanh chuồng và dưới gầm chuồng + Thu phân vào bao và quét dọn sạch sẽ quanh chuồng. Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ và được tiêu độc bằng thuốc sát trùng Ommicide 2 lần hàng ngày, pha với tỷ lệ 320ml/1000 lít nước. Ở các chuồng nái đẻ sau khi cai sữa, lợn mẹ được chuyển lên chuồng nái chửa 1 (khu vực cai sữa). Sau khi xuất lợn con, các tấm đan chuồng này được tháo ra mang ngâm ở hố sát trùng bằng dung dịch NaOH 10%, ngâm trong 1 ngày sau đó được cọ sạch, phơi khô. Khung chuồng cũng được cọ sạch, xịt bằng dung dịch NaOH pha với nồng độ loãng, sau đó xịt lại bằng dung dịch vôi xút. Gầm chuồng cũng được vệ sinh sạch sẽ tiêu độc khử trùng kỹ sau đó rắc vôi bột. Để khô 1 ngày tiến hành lắp đan vào, sau đó đuổi lợn chờ đẻ từ chuồng nái chửa 2 xuống. Công tác vệ sinh trong chăn nuôi là một trong những khâu rất quan trọng. Nếu công tác vệ sinh được thực hiện tốt thì gia súc ít mắc bệnh, sinh trưởng và phát triển tốt, chi phí thuốc thú y thấp, làm cho hiệu quả chăn nuôi
  48. 41 cao hơn. Do nhận thức rõ được điều này nên trong suốt thời gian thực tập, em đã thực hiện tốt và đạt kết quả như sau:
  49. 42 Bảng 4.4. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại Số lượng Kết quả đã thực hiện Công việc được giao Số lượng Tỷ lệ (Lần) (Lần) (%) Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 161 161 100,0 Phun sát trùng trong chuồng 30 30 100,0 Quét và rắc vôi đường đi 161 161 100,0 Hàng ngày, trước khi vào chuồng lợn, công nhân và sinh viên phải tuân thủ nghiêm túc việc tắm sát trùng, thay quần áo bảo hộ lao động. Sau đó tiến hành thu gom phân lợn vào bao, vận chuyển phân đến nơi quy định để xử lý. Công việc vệ sinh, sát trùng của trại được thực hiện thường xuyên hàng ngày. Theo quy định của trại, sau khi quét dọn vệ sinh chuồng và hành lang lỗi ra vào thì thực hiện việc rắc vôi xung quanh đường đi, phun thuốc sát trùng. Trong 6 tháng thực tập tại cơ sở em được giao trực tiếp tham gia vệ sinh chuồng trại 161 lần, quét và rắc vôi đường đi 161 lần, phun sát trùng trong chuồng 30 lần, đã hoàn thành 100% công việc được giao. Qua 6 tháng thực tập tại cơ sở, ngoài những kết quả đạt được về mặt kỹ thuật, em nhận thấy bản thân em đã thay đổi tư duy và nhận thức về nghề. Trong tình hình chăn nuôi như hiện nay, việc thực hiện nghiêm túc quy trình chăn nuôi là rất cần thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, việc thực hiện này đạt chất lượng hay không còn phụ thuộc vào thái độ, ý thức của người thực hiện. Nếu trang trại có quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng tốt nhưng coi nhẹ yếu tố phòng bệnh, đặc biệt là phòng bệnh bằng vệ sinh chuồng trại thì hiệu quả chăn nuôi sẽ không cao. Trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng, ngoài các yếu tố chăm sóc nuôi dưỡng, chuồng trại thì vệ sinh là yếu tố quan trọng có thể đưa lên hàng đầu nhằm phòng ngừa dịch bệnh một cách hiệu quả. Công tác vệ sinh là cơ sở, là nền tảng của biện pháp phòng bệnh trong chăn nuôi.
  50. 43 * Công tác tiêm phòng vắc xin Trong 6 tháng thực tập tại trại, theo sự phân công của trại, em được thực tập tại chuồng lợn mang thai. Dưới sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, em được trực tiếp làm vắc xin cho lợn nái mang thai, ngoài thời gian làm việc tại chuồng lợn mang thai, em được huy động xuống hỗ trợ chuồng lợn đẻ và được làm vắc xin cho lợn con. Kết quả được trình bày ở bảng 4.5. Bảng 4.5. Kết quả phòng bệnh bằng vắc xin cho đàn lợn tại trại Số Số Loại vắc Đường Bệnh Liều thực con Loại Thời điểm xin/ chế tiêm/ Tỷ lệ được dùng hiện an lợn phòng bệnh phẩm uống (%) phòng (ml/con) được toàn (con) (con) Mang thai tuần Dịch tả CS.F 2 TB 440 440 100 thứ 10 Mang thai tuần LMLM FMD 2 TB 440 440 100 Lợn thứ 12 nái Tổng đàn tháng PRRS PRRS 2 TB 500 500 100 3,7,11 Tổng đàn tháng Giả dại AD 2 TB 500 500 100 4,8,12 Thiếu Fe - Dextran 3 ngày tuổi 2 TB 300 300 100 máu - B12 Lợn 3 ngày tuổi Cầu trùng Igone-S 2 Uống 300 300 100 con 7 ngày tuổi Suyễn Hyogen 2 TB 300 300 100 Circo 14 ngày tuổi Còi cọc 2 TB 275 275 100 Pigvac Kết quả ở bảng 4.5. cho thấy lợn nái mang thai tuần thứ 10 sẽ được tiêm phòng vắc xin dịch tả, lợn nái mang thai tuần thứ 12 được tiêm vắc xin lở mồm long móng để phòng bệnh lở mồm long móng. Trong 6 tháng thực
  51. 44 tập tại chuồng lợn nái mang thai, dưới sự hỗ trợ của 01 cán bộ kỹ thuật em đã thực hiện tiêm phòng cho 440 con lợn đạt tỷ lệ 100%. Vào các tháng 4, 8, 12 tiêm tổng đàn lợn vắc xin giả dại (Begonia) để phòng dại cho đàn lợn, trong 6 tháng thực tập em được tham gia tiêm và đạt 100%. Ngoài tiêm phòng cho đàn lợn nái em còn được tham gia vào việc tiêm phòng cho đàn lợn con tại trại. Do kinh nghiệm, kỹ thuật chưa có nhiều nên chúng em không được trực tiếp tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn con mà chỉ được gián tiếp tham gia. Chính vì vậy tỷ lệ thực hiện tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn con của em thấp hơn so với việc tiêm phòng cho đàn lợn nái của trại. 4.2.2. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh 4.2.2.1. Kết quả chẩn đoán bệnh * Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn nái Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại em đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với cán bộ kỹ thuật của trại. Qua đó chúng em đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Kết quả của công tác chẩn đoán và điều trị bệnh trên tổng đàn lợn nái tại trại được trình bày qua bảng 4.6. Bảng 4.6. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn nái Số lợn Tỷ lệ Số lợn Số lợn Tỷ lệ chết và chết và STT Tên bệnh theo dõi mắc bệnh mắc loại loại (con) (con) (%) (con) (%) 1 Viêm tử cung 500 175 35,00 28 16,00 2 Viêm vú 500 58 11,60 3 5,18 Kết quả ở bảng 4.6 cho thấy số lợn mắc bệnh viêm tử cung là cao nhất và cao hơn số lợn mắc bệnh viêm vú rất nhiều. Theo em nguyên nhân dẫn đến
  52. 45 tỷ lệ viêm tử cung ở lợn nái cao phần lớn là do công tác hộ lý lợn trong quá trình trước và sau khi đẻ không tốt. Quá trình can thiệt để lấy thai ra ngoài chưa đúng kỹ thuật sẽ làm cho lợn nái mắc bệnh Viêm tử cung tăng lên. Tỷ lệ mắc sẽ tăng lên khi trong khẩu phần ăn bị thiếu vitamin A,D,E gây khô niêm mạc dễ xây xước, nhiễm khuẩn. Đối với bệnh viêm vú xảy ra tại trại không nhiều, nguyên nhân chủ yếu là do quá trình vệ sinh chuồng trại không tốt lợn nái nằm trên nền chuồng vi khuẩn xâm nhập vào vú và gây bệnh. Trong quá trình mài nanh cho lợn con, nếu như không làm tốt cũng là nguyên nhân làm cho lợn mẹ bị xây xước bầu vú do lợn con bú mẹ. Do lợn mẹ bị tắc ứ sữa lại trong vú, nái sinh xong bị bệnh gây sốt (viêm tử cung, tụ huyết trùng, thương hàn mãn ) hoặc là có các viêm nhiễm (viêm khớp, viêm phổi có mủ, viêm móng ). Do đó để giảm thiểu các bệnh sinh sản cho đàn lợn, trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái cần lưu ý và nâng cao ý thức của công nhân trong việc vệ sinh chuồng nuôi và vệ sinh bầu vú cho lợn nái trước và sau khi đẻ, nâng cao kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng, kỹ thuật đỡ đẻ cho lợn nái. Như vậy sẽ giảm được tỷ lệ mặc bệnh đồng thời lợn con sẽ khỏe mạnh, không bị bội nhiễm bệnh từ các nguyên nhân do lợn mẹ. Tỷ lệ lợn chết và loại do bệnh viêm tử cung (16%) cao hơn so với bệnh viêm vú (5,18%) vì bệnh viêm tử cung việc chẩn đoán bệnh thường khó khăn hơn, khi chúng ta phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở thể viêm nặng và điều trị khó khăn hơn. * Kết quả chẩn đoán bệnh cho đàn lợn con Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn con được trình bày qua bảng 4.7.
  53. 46 Bảng 4.7. Kết quả chẩn đoán bệnh cho đàn lợn con tại trại Số lợn Số lợn Tỷ lệ Số con Tỷ lệ STT Tên bệnh theo dõi mắc bệnh mắc chết chết (con) (con) (%) (con) (%) 1 HC tiêu chảy 300 91 30,30 5 5,50 2 Viêm phổi 300 50 16,70 7 14,00 Qua bảng 4.7 cho thấy: lợn con ở trại mắc bệnh về hội chứng tiêu chảy là cao nhất (91 con) và tỷ lệ mắc bệnh 30,30 %, tỷ lệ chết 5,50 %, nguyên nhân là do lợn con mới đẻ ra sức đề kháng còn yếu dễ bị ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như vi sinh vật xâm hại hay nhiệt độ chuồng nuôi không thích hợp (lạnh quá hay nóng quá) đặc biệt vào những ngày mùa Đông nhiệt độ xuống thấp cần phải có ô úm và bóng điện sưởi cho lợn con. Cách khắc phục tốt nhất để hạn chế lợn con mắc bệnh tiêu chảy là cho lợn con bú sữa đầu ngay sau khi đẻ và giữ ấm cơ thể cho lợn con. Bên cạnh đó, việc thời tiết lạnh mà lợn con không được giữ ấm sẽ khiến lợn mắc một số bệnh về đường hô hấp như viêm phổi, chính vì vậy làm cho số lợn con mắc bệnh viêm phổi cũng khá cao (50 con), tỷ lệ mắc bệnh là 16,70 %, tỷ lệ chết là 14,00 %. Cần có biện pháp để hạn chế lợn con bị viêm phổi như úm và thắp bòng sưởi để giữ ấm cho lợn con, tránh cho lợn con bị lạnh.
  54. 47 4.2.2.2. Kết quả điều trị bệnh * Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn nái Bảng 4.8. Kết quả điều trị cho đàn lợn nái tại trại Số lợn Số lợn Tỷ lệ Tên được Tên thuốc Liều lượng Cách dùng khỏi khỏi bệnh điều trị (con) (%) (con) Pha loãng với Thuốc tím 1/1000 nước để rửa Tiêm 2 lần, cách Viêm Oxytocine 2ml/con nhau 4 tiếng tử 175 147 84,00 Tiêm bắp 1 lần/ cung Analgin 1ml/10kgTT ngày 20ml/con/ Tiêm bắp Bimoxyl LA ngày 3-5 ngày liên tục Tiêm bắp 1 lần/ Analgin 1ml/10kgTT Viêm ngày 58 55 94,82 vú Vertrimoxin 1ml/10kgTT Tiêm 2 ngày/1 lần LA Qua bảng 4.8 ta thấy: các thuốc dùng để điều trị viêm tử cung cho đà lợn nái tại trại là thuốc tím, Oxytocine, Analgin, Bimoxyl với số con được điều trị là 175, số lợn khỏi là 147 và tỷ lệ khỏi là 84,00%. Thuốc dùng để điều trị viêm vú cho đàn lợn nái tại trại là Analgin và Vertrimoxin với số con được điều trị là 58, số lợn khỏi là 55 và tỷ lệ khỏi là 94,82%.
  55. 48 * Kết quả điều trị cho đàn lợn con Bảng 4.9. Kết quả điều trị cho đàn lợn con tại trại Số lợn Số Tỷ lệ Tên Liều được Tên bệnh Cách dùng lợn khỏi thuốc lượng điều trị khỏi (%) (con) Lợn 10 1ml/con/ Tiêm bắp, 3-5 Nor - 100 28 27 96,43 ngày tuổi ngày ngày 1,5 Tiêm bắp, 3-5 Tylogenta 24 20 83,33 ml/con ngày Viêm phổi Hitamox 1,5 Tiêm bắp, 3-5 26 23 88,46 LA ml/con ngày Qua bảng 4.9 cho thấy: thuốc dùng để điều trị hội trứng tiêu chảy cho đàn lợn con tại trại đối với lợn con dưới 10 ngày tuổi dùng Nova amcoli với số lợn được điều trị 63, số lợn khỏi là 59 và tỷ lệ khỏi là 93,65%. Đối với lợn con trên 10 ngày tuổi dùng Nor - 100 với số lợn được điều trị là 28 con, số lợn khỏi là 27 và tỷ lệ khỏi là 96,43%. Thuốc dùng để điều trị viêm phổi cho đàn lợn con là Tylogenta với số lợn được điều trị là 24, số lợn khỏi là 20 và tỷ lệ khỏi bệnh đạt 83,33%. Hitamox LA với số lợn được điều trị là 26 con, số lợn khỏi là 23 con và tỷ lệ khỏi bệnh đạt 88,46%. 4.3. Kết quả phối giống cho đàn lợn nái và lợn hậu bị - Phát hiện lợn động dục + Khi cho lợn nái đi qua các ô chuồng nhốt lợn đực thì lợn nái có biểu hiện kích thích thần kinh tai vểnh lên và đứng ì lại.
  56. 49 + Lợn có biểu hiện bồn chồn hay đứng lên nằm xuống, ta quan sát được vào khoảng 5 - 6 giờ sáng và 5 - 6 giờ chiều. + Cơ quan sinh dục có biểu hiện: Âm hộ sung huyết, sưng, mẩy đỏ, có dịch tiết chảy ra trong, loãng và ít, sau đó chuyển sang đặc dính. Sau khi phát hiện lợn nái động dục thì công việc quan trọng quyết định đến hiệu quả thụ thai là thụ tinh nhân tạo cho lợn nái. - Thụ tinh nhân tạo cho lợn nái + Bước :1 Trước khi dẫn tinh cho lợn nái, các triệu chứng động dục và khoảng thời gian dẫn tinh thích hợp nhất đã được xác định (sau 24 - 29 giờ). + Bước :2 Chuẩn bị dụng cụ: Dẫn tinh quản, panh, bông thấm nước muối sinh lý. + Bước 3: Chuẩn bị tinh dịch đảm bảo về thể tích (80 - 100 ml) và số lượng tinh trùng tiến thẳng trong một liều dẫn (1,5 - 2,0 tỷ tinh trùng tiến thẳng). Tinh dịch này đã được pha chế và kiểm tra hoạt lực. + Bước 4: Vệ sinh lợn nái: Vệ sinh cơ quan sinh dục cái bằng bông thấm nước muối sinh lý sau đó lau khô bằng khăn sạch. + Bước 5: Dẫn tinh gồm các khâu sau: Kích thích lợn nái bằng cách cưỡi lên lưng hay vuốt hai bên hông trong 5 phút. Bôi trơn dẫn tinh quản bằng gel bôi trơn. Đưa dẫn tinh quản vào cơ quan sinh dục cái, xoay nhẹ ngược chiều kim đồng hồ khi kịch thì rút ra 2 cm, lắp vào đầu dẫn tinh quản, xoáy nắp lọ tinh để cho tinh dịch chảy vào, khi hết tinh dịch tháo lọ tinh ra lắp nắp dẫn tinh quản vào và để lưu lại trong 5 phút. Rút nhẹ dẫn tinh quản xoay theo chiều kim đồng hồ và vỗ mạnh vào lưng lợn nái một cách đột ngột để lợn nái đóng cổ tử cung lại. + Bước 6: Sau khi dẫn tinh xong, phải vệ sinh dụng cụ sạch sẽ. Số lần lợn nái được dẫn tinh trong 1 chu kỳ động dục là 3 lần và được ghi lại trên thẻ
  57. 50 nái. Sau khi dẫn tinh được 21 - 25 ngày phải tiếp tục quan sát, kiểm tra kết quả thụ thai, phát hiện những lợn cái động dục lại để kịp thời dẫn tinh lại. Kết quả thụ thai ở kỳ động dục nào được ghi vào kết quả thụ thai của chu kỳ động dục đó. Phối giống cho đàn lợn nái và lợn hậu bị là quá trình rất quan trọng trong chăn nuôi lợn nái sinh sản. Nó quyết định tới năng suất sản xuất của trại chăn nuôi. Kết quả việc thực hiện phống giống cho đàn lợn được trình bày qua bảng 4.10. Bảng 4.10. Kết quả việc thực hiện phối giống cho đàn lợn Số lần Số con phối Tổng số lợn Tỷ lệ STT thực hiện giống đạt (con) (%) (con) (con) Lợn nái hậu bị 222 154 149 96,75 Lợn nái cai sữa 1063 735 715 97,28 Tổng 1285 889 864 97,19 Trong 6 tháng thực tập tốt nghiệp, em đã thực hiện kỹ thuật phối giống cho 889 lợn nái, trong đó có 154 lợn nái hậu bị và 735 lợn nái sau cai sữa chuyển lên chuồng lợn mang thai. Tỷ lệ lợn được phối giống thành công đạt 96,75 - 97,28%. Số lợn không phối giống đạt có nhiều nguyên nhân gây ra, nhưng qua theo dõi, chúng em nhận thấy yếu tố thời tiết ảnh hưởng đến hiệu quả phối giống, thời tiết quá nóng là nguyên nhân lớn dẫn đến tỷ lệ đậu thai giảm. Bên cạnh đó, những lợn bị viêm tử cung sau điều trị, tỷ lệ thụ thai cũng kém hơn so với lợn nái khác. Để nâng cao hiệu quả công tác phối giống cho lợn nái theo em cần: (1) Xác định đúng thời điểm phối giống thích hợp. (2) Trong quá trình thực hiện kỹ thuật phối giống cần phải tuân thủ đúng các bước trong quy trình phối giống, các kỹ thuật phải nhẹ nhàng để
  58. 51 tránh làm tổn thương đến đường sinh dục của lợn nái, cũng như không làm cho lợn nái bị stress. (3) Cần có chế độ chăm sóc, đặc biệt là chú ý đến khẩu phần ăn cho lợn nái trong giai đoạn chờ phối giống. 4.4. Kết quả thực hiện công tác khác Chăm sóc, nuôi dưỡng là một quy trình không thể thiếu của bất kỳ trại chăn nuôi nào, chính vì vậy trong suốt 6 tháng thực tập tại trại chúng em đã được tham gia thực hiện quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc cho đàn lợn tại trại. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc đàn lợn được thể hiện qua bảng 4.11. Bảng 4.11. Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn Số lần trại triển khai Số lần tham gia STT Công việc (lần) (lần) 1 Cho lợn ăn hàng ngày 360 80 2 Tắm chải cho lợn mẹ 180 175 3 Xuất lợn con 23 4 Mài nang, bấm số tai, 4 180 35 cắt đuôi 5 Tiêm sắt 180 35 6 Thiến lợn đực 180 30 Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại em đã tham gia vào công tác cho lợn ăn hàng ngày là 80 lần, tắm chải cho lợn mẹ là 175 lần vào những ngày thời tiết nóng. Công việc xuất lợn con được trại thực hiện 1 lần/tuần, em đã được tham gia vào công tác xuất lợn 04 lần qua đó học hỏi được kỹ năng chọn lọc lợn con đủ tiêu chuẩn xuất bán, quy trình vệ sinh sát trùng khi xuất bán và quy cách xuất bán lợn con
  59. 52 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trại lợn Nguyễn Thanh Lịch - Ba Vì - Hà Nội, em đã theo dõi và thực hiện được một số công việc sau: + Đã chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái tại trang trại. + Thực hiện vệ sinh, sát trùng chuồng trại hàng tuần theo lịch. + Thực hiện tiêm phòng các loại vắc xin suyễn Hyogen, chế phẩm sắt Fe - Dextran - B12, thuốc phòng trị cầu trùng Igone-S cho lợn con, vắc xin lở mồm long móng, vắc xin dịch tả, vắc xin giả dại, vắc xin PRRS cho lợn nái. + Chẩn đoán và điều trị bệnh: Viêm vú (5,18%); viêm tử cung (16,00%); tỷ lệ lợn nái mắc bệnh về sinh sản là 21,18%. + Dùng thuốc vetrimoxin điều trị bệnh viêm vú cho lợn, tỷ lệ khỏi 94,82%. Thuốc Oxytocin và Bimoxil LA điều trị bệnh viêm tử cung, tỷ lệ khỏi 84,00%. + Dùng thuốc Tylogenta để điều trị bệnh viêm phổi, tỷ lệ khỏi đạt 83,33%. 5.2. Đề nghị Xuất phát từ thực tế của trại, qua phân tích đánh giá bằng hiểu biết của mình, em có một số ý kiến nhằm nâng cao hoạt động của trại như sau: - Đầu tư nâng cấp thêm về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, dụng cụ thú y. - Tăng cường công tác chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý, thực hiện tốt công tác vệ sinh thú y. - Đưa khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, cố gắng thực hiện tốt mục tiêu và phương hướng đã đề ra.
  60. 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Nguyễn Tấn Anh, Nguyễn Duy Hoan (1998), Sinh lý sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Bilken (1994), Quản lý lợn nái và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả (tài liệu dịch), Nxb Nông nghiệp – Hà Nội. 3. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr 29 - 35. 4. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 5. Đoàn Kim Dung, Lê Thi Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội. 6. Đoàn Thị Kim Dung (2004), Sự biến động một số vi khuẩn hiếu khí đường ruột, vai trò của E. coli trong hội chứng tiêu chảy của lợn con, các phác đồ điều trị, Luận án tiến sỹ nông nghiệp, Hà Nội. 7. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E. coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại Vĩnh Phúc và biện pháp phòng trị, Luận văn thạc sĩ khoa học Nông nghiệp. 8. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Trần Thị Hạnh, Đặng Xuân Bình, Lưu Quỳng Hương (2004), Xác định vai trò của vi khuẩn E. coli và Cl. perfringens trong bệnh tiêu chảy ở lợn con giai đoạn theo mẹ, chế tạo các sinh phẩm phòng bệnh, Viện Thú Y 35 năm xây dựng và phát triển (1969 - 2004), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 393 - 405.
  61. 55 10. Nguyễn Bá Hiên (2001), Một số vi khuẩn đường ruột thường gặp và biến động của chúng ở gia súc khoẻ mạnh và bị tiêu chảy nuôi tại vùng ngoại thành Hà Nội, Luận án tiến sỹ nông nghiệp. 11. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), Giáo trình bệnh truyền nhiễm thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 12. Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huê Viên, Phan Văn Kiểm (2003), Giáo trình Truyền giống nhân tạo vật nuôi, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội 13. Hội chăn nuôi Việt Nam (2006), Cẩm nang chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 35 - 64. 14. Lê Văn Lãnh, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Trịnh Đình Thâu, Đặng Hữu Anh, Đỗ Ngọc Thúy và Nguyễn Bá Hiên (2012), “Phân lập một số vi khuẩn cộng phát gây bệnh ở lợn nghi mắc bệnh suyễn, đề xuất biện pháp phòng trị bệnh”, Tạp chí khoa học kỹ thuật Thú y, tập XIX, (số 2/2012), tr. 30. 15. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (1997), Bệnh Phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 16. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, tâp II, Nxb Nông nghiêp, trang 44 - 52. 27. 17. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 18. Lê Văn Năm (1999), Cẩm nang bác sĩ thú y hướng dẫn phòng và trị bệnh lợn cao sản. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 19. Lê Văn Năm (2013), “Bệnh viêm phổi địa phương - suyễn lợn”, Báo tổ quốc, phát hành ngày 18/7/2013. 20. Nguyễn Thị Bích Ngà (2015), Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, bệnh học và biện pháp phòng trị bệnh do giun tròn Trichocephalus spp. gây ra ở lợn
  62. 56 tại tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Luận án tiến sĩ thú y, ĐH Nông Lâm Thái Nguyên 21. Nguyễn Ngọc Phụng (2005), Công tác vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn, Nxb lao động xã hội, Hà Nội. 22. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 23. Pierre brouillt và Bernarrd farouilt (2003), Điều trị viêm vú lâm sàng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 24. Nguyễn Khánh Quắc, Từ Quang Hiển, Nguyễn Quang Tuyên, Trần Văn Phùng (1995), Giáo trình chăn nuôi lợn, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 25. Lê Văn Tạo, Khương Bích Ngọc, Nguyễn Thị Vui, Đoàn Băng Tâm (1993), Nghiên cứu chế tạo vacxin E. coli uống phòng bệnh phân trắng lợn con, Tạp chí Nông nghiệp Thực phẩm, số 9, Trang 324 - 325. 26. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lí học động vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 27. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 28. Bạch Quốc Thắng (2011), Nghiên cứu sử dụng vi khuẩn nhóm Lactobacillus trong phòng trị bệnh tiêu chảy ở lợn con theo mẹ, Luận án tiến sĩ Khoa học Nông nghiệp, Viên Thú y Quốc Gia, Hà Nội. 29. Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993), Thụ tinh nhân tạo cho lợn ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 30. Lê Xuân Thọ, Lê Xuân Cương (1979), Kích tố ứng dụng trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 31. Nguyễn Đức Thủy (2015), “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của vi khuẩn E. Coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con dưới hai tháng tuổi ở huyện Đầm Hà và Hải Hà - tỉnh Quảng Ninh, biện pháp
  63. 57 phòng trị”, Luận văn Thạc sĩ thú y, Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 32. Trần Thu Trang (2013), Đặc điểm dịch tễ của dịch tiêu chảy (Porcin Epidemic Diarrhoea - PED) và biện pháp can thiệp dịch tại một số trại ở miền bắc Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Thú y, Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội. 33. Nguyễn Văn Tuyên, Dương Văn Quảng (2016), “Vai trò của Escherichia coli và Salmonella spp trong hội chứng tiêu chảy ở lợn rừng con trước và sau cai sữa theo mô hình nuôi bán hoang dã”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XXIII (số 7/2016), tr. 54. 34. Bùi Tiến Văn (2015), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của vi khuẩn E.coli trong hội chưng tiêu chảy ở lợn 1 - 45 ngày tuổi tại huyện miền núi của tỉnh Thanh Hoá, biện pháp phòng trị, Luận văn thạc sỹ thú y, Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên. II. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 35. UrbanV.P., SchnurV.I., Grechukhin A.N. (1983), “The metritis, mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik selskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69 - 75. 36. Radostits O. M., Blood D., Cand Gay C., (1994), Veterinary medicine, the textbook of the cattle, sheep, pig, goats and horses, Diseases caused by Escherichia coli, London, Philadenphia, Sydney, Tokyo, Toronto, pp. 703 - 730. 37. McIntosh G. B. (1996), Mastitis metritis agalactia syndrome, Science report, Animal research institute, Yeerongpilly, Queensland, Australia, Unpublish, pp.1 - 4. 38. Thacker E. (2016) Mycopasmal diseases. In: straw.B.E., Zimmerman, J.J., D ’Allaire, S., Tailor, D.J. (Eds.), Diseases of Swine. 9th, Blacwell Publishing Ltd., Oxford, UK, pp. 701 - 717
  64. PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Ảnh 1: Thuốc sát trùng Ảnh 2: oxytocin kích thích tử cung co bóp Ảnh 3: IDECTIN điều trị ghẻ Ảnh 4: PENDISTREP điều trị viêm vú và viêm khớp
  65. Ảnh 5: Thử lợn Ảnh 6: Tiêm ADE cho lợn sau cai sữa Ảnh 7: Ghi sổ phối Ảnh 8: Xì mông lợn chuẩn bị rửa phối
  66. Ảnh 9:Xịt máng Ảnh 10;Phối lợn Ảnh 11: Phối lợn Ảnh 12: Vệ sinh đường đi Ảnh 13: Rắc vôi khử trùng khu vực bãi phân
  67. Ảnh 14: Rửa phối bằng dung dịch Ảnh 15:Pha môi trường nước muối Ảnh 16: Tiêm ghẻ cho lợn Ảnh 17: Thao tác lấy thuốc Ảnh 18: Thao tác lấy tinh lợn
  68. Ảnh 19: Thao tác thiến lợn đực Ảnh 20: Đỡ đẻ Ảnh 21:Thiến lợn Ảnh 22: Tiêm sắt cho lợn con Ảnh 23: Cắt đuôi lợn con
  69. Ảnh 24: Hoạt động nhóm tiêm vắc xin