Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ nuôi tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ nuôi tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_t.pdf
Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ nuôi tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM LẦU A DẾNH Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN NÁI NUÔI CON VÀ LỢN CON THEO MẸ NUÔI TẠI TRANG TRẠI SINH THÁI THANH XUÂN, XÃ NGHĨA TRỤ, HUYỆN VĂN GIANG, TỈNH HƯNG YÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi Thú y Lớp: K47 – CNTY N01 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khoá học: 2015 – 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. Phạm Thị Phương Lan Thái Nguyên, năm 2019
- i LỜI CẢM ƠN Sau quá trình học tập tại trường và thực tập tại cơ sở, đến nay em đã hoàn thành bản khóa luận tốt nghiệp. Trong thời gian thực hiện đề tài, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em luôn nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của cô giáo TS. Phạm Thị Phương Lan để xây dựng và hoàn thiện khóa luận này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, các thầy cô khoa Chăn nuôi Thú y - Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ cho em có cơ hội để học tập và rèn luyện trong thời gian qua. Đặc biệt là cô giáo Phạm Thị Phương Lan đã tận tình, động viên, giúp đỡ và hướng dẫn để em hoàn thành tốt bản khóa luận này. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban lãnh đạo công ty TNHH Deheus đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để chúng em được thực tập ở trang trại, em xin cảm ơn toàn bộ công nhân trong trang trại đã quan tâm giúp đỡ động viên em trong quá trình thực tập. Qua đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, cùng bạn bè đã tạo điều kiện ủng hộ và động viên để em hoàn thành tốt khóa luận này. Cuối cùng, em xin trân trọng gửi tới các thầy giáo, cô giáo trong hội đồng đánh giá khóa luận lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày .tháng .năm 2019 Sinh viên Lầu A Dếnh
- ii LỜI NÓI ĐẦU Để trở thành một kĩ sư, bác sĩ giỏi được xã hội công nhận, mỗi sinh viên khi ra trường cần trang bị cho mình vốn kiến thức khoa học, chuyên môn vững vàng và hiểu biết xã hội. Do vậy, thực tập trước khi ra trường là một việc hết sức quan trọng đối với sinh viên nhằm giúp sinh viên củng cố lại những kiến thức đã học và bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn sản xuất, tiếp cận và làm quen với công việc. Qua đây, sinh viên sẽ được nâng cao trình độ, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đồng thời, tạo cho sinh viên tác phong làm việc khoa học, tính sáng tạo để ra trường phải là một cán bộ vững vàng về lý thuyết giỏi về tay nghề, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu của sản xuất góp phần vào sự phát triển của đất nước. Được sự nhất trí của nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, giảng viên hướng dẫn cũng như sự tiếp nhận của cơ sở em đã tiến hành thực tập tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên với đề tài: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ nuôi tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên”. Mặc dù có cố gắng nhưng do trình độ và thời gian có hạn, bước đầu còn nhiều bỡ ngỡ trong quá trình thực hiện đề tài nên khóa luận của em không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Em mong nhận được những ý kiến góp ý của thầy cô, đồng nghiệp để khóa luận của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
- iii DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1. Tình hình chăn nuôi tại trại qua 3 năm 2016 – 2018 6 Bảng 2.2. Lịch phun sát trùng toàn trại 8 Bảng 2.3. Lịch phòng bệnh áp dụng tại trại đối với lợn con 9 Bảng 2.4. Lịch phòng bệnh áp dụng tại trại đối với nái bầu và nái chửa 10 Bảng 2.5. Lịch phòng bệnh áp dụng tại trại đối với lợn nái hậu bị 11 Bảng 2.6. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn cho lợn nái hậu bị và nái chửa ngoại 15 Bảng 2.7. Tăng khối lượng của lợn con có và không bổ sung thức ăn sớm 28 Bảng 4.1. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập 37 Bảng 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái 38 Bảng 4.3. Kết quả công tác chăm sóc lợn con tại cơ sở 41 Bảng 4.4. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch tại trại 42 Bảng 4.5. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn con nuôi tại trại 43 Bảng 4.6. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái nuôi con bằng vắc xin 43 Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con 44 Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái 45 Bảng 4.9. Kết quả thực hiện các công tác khác 54
- iv DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT CNTY : Chăn nuôi thú y Cs : Cộng sự LMLM : Lở mồm long móng ME : Năng lượng trao đổi Nxb : Nhà xuất bản PED : Dịch tiêu chảy cấp ở lợn PTH : Phó thương hàn STT : Số thứ tự TĂ : Thức ăn TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TT : Thể trọng TTTN : Thực tập tốt nghiệp VCK : Vật chất khô VTM : Vitamin
- v MỤC LỤC Trang LỜI CẢM ƠN i LỜI NÓI ĐẦU ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT iv MỤC LỤC v Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1.1.Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 1 1.2.1. Mục tiêu 2 1.2.2. Yêu cầu 2 Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3 2.1.2. Điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng nơi thực tập 4 2.1.3. Công tác phòng bệnh tại trại 6 2.1.4. Thuận lợi và khó khăn 12 2.2. Cơ sở khoa học 12 2.2.1. Đặc điểm sinh lý của lợn nái 12 2.2.2. Kỹ thuật chăn nuôi lợn nái giai đoạn chửa đẻ 15 2.2.3. Kỹ thuật chăm sóc lợn nái nuôi con 18 2.2.4. Một số bệnh gặp trên đàn lợn nái 20 2.2.5. Kỹ thuật chăn nuôi lợn con theo mẹ 25 2.2.6. Một số đăc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ 28 2.2.7. Một số bệnh thường gặp ở lợn con 30 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 33
- vi 2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước 33 2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài 34 Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 35 3.1. Đối tượng 35 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 35 3.3. Nội dung tiến hành 35 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 35 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện 35 3.4.2. Phương pháp thực hiện 35 Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 37 4.1. Kết quả áp dụng quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc cho lợn nái và lợn con tại cơ sở 37 4.1.1. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con 42 4.1.2. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn con theo mẹ 44 4.2. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng và trị bệnh cho lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ tại cơ sở 41 4.2.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch 41 4.2.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại bằng thuốc và vắc xin 43 4.2.3. Kết quả thực hiện điều trị bệnh cho đàn lợn nuôi tại trại 44 4.3. Công tác khác 47 Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 49 5.1. Kết luận 49 5.2. Đề nghị 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỘT SỐ ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP
- 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1.Đặt vấn đề Việt Nam là một nước có nền nông nghiệp truyền thống, trong đó chăn nuôi là một ngành chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò rất quan trọng trong cơ cấu của nền kinh tế, đặc biệt là chăn nuôi lợn. Hiện nay, bên cạnh những phương thức chăn nuôi lợn kiểu truyền thống với quy mô nhỏ lẻ, hộ gia đình thì mô hình chăn nuôi trên quy mô lớn như trang trại ngày càng được mở rộng theo hướng nuôi gia công cho doanh nghiệp nước ngoài, nhằm tận dụng nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, áp dụng vào thực tiễn chăn nuôi tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp sạch đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn đã trở thành một trong những ngành chính mang lại hiệu quả kinh tế lớn cho hộ chăn nuôi nói riêng và xã hội nói chung. Tuy nhiên, dù chăn nuôi nhỏ lẻ hay chăn nuôi công nghiệp với quy mô lớn, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp cũng có thể gây nên thiệt hại đáng kể. Trong số đó, các bệnh ở lợn nái và lợn con thường xuyên xảy ra ở các quy mô chăn nuôi và ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và chất lượng đàn lợn. Đặc biệt, hiện nay dịch bệnh PED ở lợn con đang xảy ra ở rất nhiều trang trại với khả năng lây lan nhanh và tỷ lệ chết cao nhưng chưa có biện pháp phòng chống chủ động, hiệu quả. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có những nghiên cứu áp dụng các quy trình kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh hiệu quả cho đàn lợn nái, lợn con ở các trang trại để giảm thiệt hại do dịch bệnh gây ra, nâng cao đàn lợn cả về số lượng và chất lượng. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của sản xuất, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ nuôi tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên” 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- 2 1.2.1. Mục tiêu - Nắm được qui trình chăm sóc lợn nái và lợn con theo mẹ. - Nắm được các bệnh hay xảy ra đối với lợn nái và lợn con theo mẹ nuôi tại trại. - Đánh giá hiệu quả của quy trình phòng, trị bệnh cho đàn lợn nái, một số bệnh trên đàn lợn con nuôi tại trại. 1.2.2. Yêu cầu - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. - Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại đạt hiệu quả cao. - Xác định được tình hình mắc bệnh, áp dụng và đánh giá hiệu quả của quy trình phòng, trị bệnh cho đàn lợn nuôi tại trại.
- 3 Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý - Trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên có vị trí địa lý được xác định như sau: + Phía Nam giáp huyện Khoái Châu. + Phía Đông Nam giáp huyện Yên Mỹ. + Phía Tây và Tây Nam giáp huyện Thường Tín và huyện Thanh Trì của Hà Nội. + Phía Đông Bắc giáp huyện Gia Lâm, Hà Nội và huyện Văn Lâm, Hưng Yên. - Huyện có 11 đơn vị hành chính. Dân số huyện Văn Giang hơn 12 vạn người, tổng diện tích tự nhiên là 71,79 km². 2.1.1.2. Điều kiện địa hình, đất đai - Huyện có địa hình tương đối bằng phẳng, tuy nhiên do nằm ven sông Hồng nên đất đai có độ cao không đồng đều và hình thành các dải cao thấp khác nhau theo dạng hình sóng. - Đất đai màu mỡ có nguồn gốc từ châu thổ sông Hồng - Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 71,19 km2 trong đó: + Đất sản xuất nông nghiệp là 50,32 km2 (chiến 70%); + Đất chuyên dung là 12,31 km2 (chiến 17,1%); + Đất ở là 6,12 km2 (chiến 8,7%); + Đất chưa sử dụng là 3,04 km2 (chiến 4,2%).
- 4 2.1.1.3. Điều kiện khí hậu thời tiết Theo phân vùng của nhà khí tượng thuỷ văn thành phố, trại nằm trong vùng có khí hậu đặc trưng của khu vực đó là nóng ẩm vào mùa hè, có mùa đông lạnh, mưa nhiều điển hình của kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Hướng vòng cung của các dãy núi tạo thành hành lang hút gió rất mạnh, đón nhận trực tiếp khối không khí lạnh từ phương bắc tràn xuống làm cho mùa đông đến sớm, kết thúc muộn, nền nhiệt bị hạ thấp. Khí hậu vùng này thích hợp cho thực vật nhiệt đới như chè, thuốc lá, hồi. Tuy nhiên, thời tiết khu vực này hay nhiễu động trong năm gây ra những khó khăn đáng kể, nhất là vào các thời kỳ chuyển tiếp. 2.1.1.4. Điều kiện giao thông - Nhìn chung mạng lưới giao thông phân bố khá đồng đều trên địa bàn huyện. - Có nhiều tuyến đường đã được cải tạo, nâng cấp lên; làm mới đường nội thị, đường liên xã, liên thôn và hầu hết các đường đều được rải nhựa hoặc đổ bê tông. Vì vậy, rất thuận tiện cho việc vận chuyển thức ăn và thuốc thú y cũng như tiêu thụ sản phẩm. - Kết nối giao thông thuận tiện với Thành phố Hà Nội và Hải Phòng là một trong những đầu mối giao thương chủ đạo của cả nước. 2.1.2. Điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng nơi thực tập 2.1.2.1. Cơ sở vật chất của trại Hệ thống chuồng trại được xây dựng trên nền đất cao, dễ thoát nước và được tách biệt với khu điều hành, khu dân cư xung quanh. Xung quanh trại có hàng rào bảo vệ, cổng vào và nơi sản xuất có hố sát trùng để ngăn ngừa dịch bệnh từ bên ngoài xâm nhập vào. Chuồng nuôi được xây dựng theo hướng Đông Nam đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông và xây dựng theo kiểu mái chuồng xuôi tránh hiện tượng ứ đọng nước, có 4 chuồng đẻ, trong đó: 3 chuồng đẻ mỗi chuồng có 66 ô chuồng và 1 chuồng đẻ có 120 ô chuồng, 2 chuồng bầu có 1020 ô chuồng, 6 chuồng lợn thịt với 700 con/chuồng, 1 chuồng tân đáo với 100 con/chuồng, 1 chuồng cai sữa với 750 con/chuồng và 1 chuồng đực với 70 ô chuồng, mỗi chuồng
- 5 đều có lối đi ở giữa. Các ô chuồng thường được thiết kế theo kiểu sàn bằng bê tông. Các chuồng nuôi đều được lắp đặt điện chiếu sáng, hệ thống dẫn nước tự động, mùa hè có hệ thống làm mát bằng quạt điện và hệ thống dàn mát. Mùa đông có hệ thống bóng đèn hồng ngoại. 2.1.2.2. Cơ sở hạ tầng của trại Trại được xây dựng trên nền đất cao với tổng diện tích của toàn trang trại là 4 ha, trong đó 2,5 ha dùng để chăn nuôi, 1 ha là ao cá, còn lại là diện tích xây dựng công trình xung quanh trang trại gồm nhà điều hành và các công trình phụ trợ khác. Khu hành chính được xây dựng ở đầu trại, mọi hoạt động sinh hoạt của cán bộ, công nhân đều diễn ra tại đây. Sau khu hành chính có một nhà kho dự trữ thức ăn về tết, một kho chứa dầu để phục vụ xe công nông vận chuyển thức ăn đến các kho chứa của mỗi chuồng và cung cấp cho máy phát điện khi cần thiết. Gần khu chuồng, trại cho xây dựng một kho thuốc cùng các dụng cụ chăn nuôi và một kho bảo dưỡng. Bên cạnh đó, trại còn xây dựng một bể lọc và chứa nước; hiện nay trại đang xây dựng thêm một giếng khoan để đảm bảo cung cấp đủ nước sạch cho sản xuất sinh hoạt. Nhìn chung cơ sở hạ tầng của trại khá đầy đủ và hoàn thiện. 2.1.2.3. Cơ cấu tổ chức - Trại chăn nuôi được xây dựng từ năm 2009 trại đi vào sản xuất được 10 năm, xong hàng năm sản xuất của trại đều gia tăng, đời sống của cán bộ công nhân viên được cải thiện. Trại chăn nuôi có ban lãnh đạo là những người đam mê, giàu nghị lực và tâm huyết đối với nghề chăn nuôi. Đặc biệt trại chăn nuôi đã tuyển dụng và đào tạo được một đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn, kinh nghiệm, thực tiễn và yêu nghề. Trại có 40 cán bộ nhân viên trong đó: - Lao động gián tiếp có 7 người: + Tổng giám đốc công ty: 1 + Kế toán: 2 + Làm vườn, nấu ăn: 1 + Bảo dưỡng : 2
- 6 + Bảo vệ: 1 - Lao động trực tiếp có 33 người: + 5 kỹ sư chăn nuôi + 28 công nhân - 7 sinh viên thực tập 2.1.2.4. Tình hình sản xuất tại cơ sở Trang trại sinh thái Thanh xuân là cơ sở chăn nuôi với quy mô công nghiệp vừa cung cấp con giống vừa cung cấp lợn thịt cho bà con nông dân và các cơ sở chăn nuôi khác quanh vùng và khu vực lân cận. Nhằm mục đích tăng đàn nái ngoại trong nhân dân, cung cấp đủ đực giống cho lai kinh tế và một phần nhân thuần nuôi thịt để tăng tỷ lệ lợn nạc trong thịt lợn, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Trại có đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi chuyên môn, trong những năm qua chăn nuôi lợn của trại có những bước phát triển đáng kể, mỗi chuồng có một người đứng chuồng đảm nhiệm, giám sát mọi công việc trong chuồng và trại tiến hành bàn giao từng công việc cụ thể của từng chuồng đến từng công nhân, nên mọi công nhân đều có tinh thần và trách nhiệm thực hiện công việc. Kết quả sản xuất của trại những năm qua được thể hiện qua bảng sau. Bảng 2.1. Tình hình chăn nuôi tại trại qua 3 năm 2016 – 2018 (Đơn vị: con) Năm 2018 (đến STT Loại lợn Năm 2016 Năm 2017 tháng 11/2018) 1 Lợn đực giống 17 19 21 2 Lợn nái hậu bị 70 87 96 3 Lợn nái sinh sản 870 960 976 4 Lợn con 20.031 26.625 21.274 2.1.3. Công tác phòng bệnh tại trại 2.1.3.1. Công tác vệ sinh
- 7 Vệ sinh phòng bệnh nhằm nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn luôn là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với việc vệ sinh thức ăn, nước uống, vật nuôi, dụng cụ chăn nuôi và sinh sản thì việc vệ sinh chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi luôn được cán bộ thú y và đội ngũ công nhân kỹ thuật thực hiện chặt chẽ. Khi ra vào trại, tất cả mọi người đều phải đi qua phòng sát trùng, trước khi xuống chuồng phải thay bảo hộ lao động (quần, áo, ủng, mũ, khẩu trang) chỉ sử dụng trong khu vực chăn nuôi nhằm hạn chế mang mầm bệnh từ bên ngoài vào. Hiện nay, trại áp dụng quy trình chăn nuôi “cùng vào - cùng ra”, trong đó một chuồng hoặc cả một dãy chuồng được đưa vào để nhốt đồng loạt cùng một loại lợn (có thể tương đồng về khối lượng, tuổi). Sau một thời gian nhất định số lợn này được đưa ra khỏi chuồng, lúc đó chuồng trại được rửa sạch, phun thuốc sát trùng và để trống ít nhất 5 - 7 ngày trước khi đưa đàn lợn mới lên đẻ. Như vậy quy trình này có tác dụng phòng bệnh do vệ sinh chuồng trại thường xuyên, định kỳ mỗi khi xuất hết lợn, do đó hạn chế được khả năng lan truyền các mầm bệnh từ lô này sang lô khác. Hệ thống thông thoáng đối với chăn nuôi lợn công nghiệp rất quan trọng, ngoài việc cung cấp đủ oxy cho quá trình hô hấp của lợn nó còn giúp giải phóng khí độc do phân, nước tiểu gây ra. Chính vì vậy, trại đã sử dụng hệ thống làm mát và chống nóng ở mỗi dãy chuồng vào mùa hè và hệ thống sưởi ấm vào mùa đông. Bên cạnh đó các dãy chuồng được sắp xếp theo hướng Đông Nam để đảm bảo ấm áp vào mùa đông, thoáng mát về mùa hè. Đặc biệt vào mùa hè, thời tiết rất nóng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sinh sản của đàn lợn nái cũng như sự sinh trưởng và phát triển của lợn con. Do đó, trại đã lắp đặt hệ thống chống nóng gồm hệ thống quạt gió ở cuối mỗi dãy chuồng có tác dụng hút không khí có hơi nước từ hệ thống dàn mát trên đầu chuồng tạo luồng khí mát, thông thoáng. Hai dãy tường chuồng được phủ một tấm lưới cách nhiệt và có tác dụng giữ ẩm. Chính vì vậy, không khí trong chuồng lợn luôn mát và nhiệt độ luôn duy trì trong khoảng 28 oC – 30 oC.
- 8 Trại trang bị hệ thống lồng úm bên trong có treo một bóng đèn hồng ngoại công suất 175W hoặc lắp một tấm sưởi ở mỗi ô chuồng. Với lợn sau cai sữa cũng có một đèn sưởi hoặc tấm sưởi ở mỗi ô chuồng, đảm bảo luôn duy trì nhiệt độ thích hợp cho lợn con. Bảng 2.2. Lịch phun sát trùng toàn trại Trong chuồng Ngoài khu Ngoài Thứ Chuồng nái Chuồng vực chăn Chuồng đẻ Chuồng chửa Cai sữa nuôi Dội vôi sút Phun sát Thứ 2 Phun sát trùng + rắc vôi hành Phun sát trùng trùng đầu và lang cuối chuồng Phun sát trùng + Dội vôi xút Thứ 3 rắc vôi hành Phun sát trùng gầm lang Dội vôi sút Phun sát Thứ 4 Phun sát trùng + rắc vôi hành Xả vôi xút gầm trùng đầu và lang cuối chuồng Phun sát trùng Phun sát Thứ 5 Cọ rửa máng + rắc vôi hành Phun sát trùng trùng đầu và lang cuối chuồng Dội vôi sút Phun sát Thứ 6 Phun sát trùng + rắc vôi hành Phun sát trùng trùng đầu và lang cuối chuồng Phun sát Phun sát trùng Dội vôi sút trùng toàn bộ Thứ 7 + rắc vôi hành Phun sát trùng gầm khu vực chăn lang nuôi Phun sát trùng Phun sát trùng Chủ Phun sát trùng + rắc vôi hành Xả vôi xút gầm đầu và cuối nhật lang chuồng Lịch phun sát trùng tại trại được công nhân và sinh viên được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc, để phòng những mầm bệnh có thể phát sinh. Đối với chuồng đẻ công việc sát trùng được thực hiện 1 lần/ngày vào buổi chiều.
- 9 Công việc vệ sinh sát trùng được thực hiện nhanh chóng với tỷ lệ phun hợp lý, khi phun thuốc sát trùng, thuốc ghẻ, các máng ăn của lợn được để ý để không bị dính thuốc vào. 2.1.3.2. Công tác phòng bệnh bằng vắc xin tại trại Việc phòng bệnh bằng vắc xin luôn được cán bộ kĩ thuật coi trọng và đặt lên hàng đầu với mục tiêu phòng hơn chống. Do đặc thù trại nái ngoại chuyên sản xuất con giống nên trại có đủ các loại lợn ở mọi lứa tuổi khác nhau. Chính vì vậy việc Theodõi và thực hiện lịch tiêm phòng vắc xin chính xác là rất quan trọng. Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin cho đàn lợn nuôi tại trại được thể hiện qua các bảng 2.3; 2.4 và 2.5. Bảng 2.3. Lịch phòng bệnh áp dụng tại trại đối với lợn con Liều Thời Tên vắc xin Phòng bệnh Lần Vị trí lượng 10- 14 Mycopac Suyễn 2ml Mũi 1 Tiêm bắp ngày 21- 23 Circovac Circo 0.5ml Mũi 1 Tiêm bắp ngày 28 ngày Colapest Dịch tả 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 5 Tuần JXA1-R Tai xanh 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 7 tuần APP Viêm phổi dính sườn 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 8 Tuần Colapest Dịch tả 2ml Mũi 2 Tiêm bắp 9 Tuần Aftogen leo Lở mồm long móng 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 10 tuần APP Viêm phổi dính sườn 2ml Mũi 2 Tiêm bắp
- 10 Bảng 2.4. Lịch phòng bệnh áp dụng tại trại đối với nái bầu và nái chửa Tên thuốc, Phòng Tuần chửa Liều lượng Lần Vị trí vắc xin bệnh 8 Tai xanh Tai xanh 2ml Mũi 1 Tiêm bắp Aftogen Lở mồm 2ml Mũi 1 Tiêm bắp oleo long móng 10 Auphyl Plus Giả dại 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 11 PED PED 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 12 Coglapest Dịch tả 2ml Mũi 1 Tiêm bắp 13 Circovac Circo 0.5ml Mũi 1 Tiêm bắp 14 PED PED 2ml Mũi 2 Tiêm bắp 15 ngày 2.5g/1kg Trộn thức Tiamulin Hô hấp 1 lần/tháng trước đẻ TA ăn 5 ngày trước đẻ Kháng Trộn thức Amoxicillin 2.7 g/con đến 5 ngày viêm ăn sau đẻ 6 ngày sau Tai xanh Tai xanh 2ml Mũi 1 Tiêm bắp đẻ
- 11 Bảng 2.5. Lịch phòng bệnh áp dụng tại trại đối với lợn nái hậu bị Tuần Tên thuốc, Phòng bệnh Lần Liều lượng Vị trí nhập vắc xin Amoxylin Theohướng Tuần 1 Hô hấp 1 Trộn thức ăn Tiamulin dẫn bao bì LMLM LMLM 1 2ml/con Tiêm bắp Tuần 2 JXA1-R Tai xanh 1 2ml/con Tiêm bắp Tuần 3 Colapest Dịch tả lợn 1 2ml/con Tiêm bắp Tuần 4 Pavo Khô thai 2 2ml/con Tiêm bắp Tuần 5 Auphylus Giả dại 1 2ml/con Tiêm bắp Tuần 6 Circovac Circo 1 2ml/con Tiêm bắp Tuần 7 Pavo Khô thai 2 2ml/con Tiêm bắp Tuần 2 LMLM LMLM 2 2ml/con Tiêm bắp 20ml/5l Tuần 9 Tactic Ký sinh trùng 2 Tắm (phun) nước Tuần 10 Giảm stress, chuẩn Trộn thức ăn Vitamin 3 ngày bị phối giống hoặc tiêm bắp Định kỳ hàng năm vào tháng 4, 8, 12 trại đã tiến hành tiêm phòng toàn bộ đàn lợn bằng vắc xin giả dại Begonia, với liều lượng 2 ml/con, tiêm bắp. Đối với lợn đực: - Lợn đực đang khai thác tiêm phòng vào tháng 5, tháng 11 vắc xin dịch tả Coglapest. Tháng 4, 8, 12 tiêm phòng vắc xin Lở Mồm Long Móng Aftopor, vắc xin giả dại Begonia. Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin luôn được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Lợn được tiêm vắc xin ở trạng thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh mạn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất.
- 12 2.1.4. Thuận lợi và khó khăn 2.1.4.1. Thuận lợi + Trại được xây dựng trên một khu đất ở giữa cánh đồng nên cách xa khu dân cư, không làm ảnh hưởng đến người dân xung quanh. Trại có vị trí địa lý thuận lợi về giao thông vận tải và giao lưu với cư dân quanh vùng. + Đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân của trại có năng lực, năng động, nhiệt tình, có trách nhiệm trong công việc và có lòng yêu nghề. + Trại được xây dựng theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị hiện đại, do đó rất phù hợp với điều kiện chăn nuôi lợn công nghiệp hiện nay. 2.1.4.2. Khó khăn + Do trang trại nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều, vậy nên vào mùa mưa trại thường bị ngập một số nơi làm ảnh hưởng đến việc đi lại và vận chuyển thức ăn đến các chuồng. + Nước dùng trong quá trình vệ sinh chuồng trại không được đảm bảo nên lợn trong trại thường bị mắc các bệnh về tiêu chảy đặc biệt là lợn con. 2.2. Cơ sở khoa học 2.2.1. Đặc điểm sinh lý của lợn nái * Sự thành thục về tính và thể vóc - Sự thành thục về tính: Gia súc phát triển đến một giai đoạn nhất định, thì có biểu hiện về tính dục. Con đực có khả năng sinh ra tinh trùng, con cái có khả năng sinh ra tế bào trứng khi đó gọi là gia súc đã thành thục về tính. Theo Hughes và James (1996) [34], lợn cái hậu bị ngoài 90 kg thể trọng ở 165 ngày tuổi cho tiếp xúc 2 lần/ngày với lợn đực, mỗi lần tiếp xúc 15 - 20 phút thì tới 83 % lợn cái hậu bị động dục lần đầu. - Sự thành thục về thể vóc: Thường diễn ra chậm hơn sự thành thục về tính. Sau một thời kỳ sinh trưởng và phát triển đến một thời điểm nhất định con vật đạt tới độ trưởng thành về thể vóc. Có nghĩa là cơ thể đã tương đối hoàn chỉnh về sự phát triển của các cơ quan, bộ phận như não đã phát triển khá hoàn thiện, xương đã cốt hóa hoàn toàn, tầm vóc ổn định (Nguyễn Đức Hùng và cs, 2003 [12]).
- 13 * Trứng chín và rụng trứng: Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23], dưới ảnh hưởng của thùy trước tuyến yên, trứng phát triển rất nhanh, lớp tế bào hạt phát triển thành nhiều lớp, hình thành thể vàng, tiết dịch nang trứng làm cho kích thước nang trứng tăng nhanh, nổi lên mặt buồng trứng như những bóng nước. Tế bào trứng nằm trong nang trứng tiến hành phân chia giảm nhiễm lần thứ nhất cho ra noãn tử để phát triển thành tế bào trứng chín. Noãn bào dần dần lớn lên, nổi rõ trên bề mặt của buồng trứng dưới tác dụng của thần kinh, hormone, áp suất. Sau đó noãn bào vỡ giải phóng ra tế bào trứng, đồng thời thải ra dịch folliculin. Thời gian trứng rụng vào lúc 36 – 42 giờ sau khi xuất hiện động dục. * Sự hình thành thể vàng: Sau khi trứng rụng, trên bề mặt buồng trứng hình thành một vết sẹo phát triển thành cơ quan nội tiết gọi đó là thể vàng. Thể vàng này tiết ra hóc môn progesteron có tác dụng ức chế sự phát triển của noãn bào ức chế quá trình tiết hooc môn sinh dục cái, do đó ức chế quá trình động dục. Nếu trứng được thụ tinh, con vật có chửa thì thể vàng tồn tại trong suốt quá trình có chửa, gia súc không động dục. Ngược lại, nếu trứng rụng nhưng không được thụ tinh thì thể vàng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, sau đó tiêu biến và con vật động dục trở lại (Trần Văn Phùng và cs, 2004) [23]. * Chu kỳ động dục: Thời gian chu kỳ động dục là 21 ngày, thời gian động dục là 48 giờ, biểu hiện điểm hình khi động dục là âm hộ sưng tấy, đỏ mọng và mở rộng, kêu rống, kém ăn, hoạt động nhiều. Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) [28] cho biết: Chu kỳ động dục của gia súc chia làm 4 giai đoạn: - Giai đoạn trước động dục: Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục lúc này buồng trứng to hơn bình thường. Cổ tử cung mở hoàn toàn. Niêm dịch ở đường sinh dục chảy ra nhiều lúc này con vật bắt đầu xuất hiện tính dục. - Giai đoạn động dục: Lúc này cơ thể gia súc cái và cơ quan sinh dục có biểu hiện hàng loạt những biến đổi sinh lý. Bên ngoài âm hộ phù thũng, niêm mạc xung huyết. Niêm dịch
- 14 trong suốt từ trong chảy ra nhiều con vật biểu hiện tính hưng phấn cao độ, gia súc không yên tĩnh, ăn uống giảm, kêu rống, phá chuồng, nhảy lên lưng con khác, thích gần con đực. Giai đoạn này tế bào trứng ra khỏi buồng trứng gặp tinh trùng sẽ được thụ thai thì chu kỳ sẽ dừng lại. Gia súc cái trong giai đoạn có thai đến khi đẻ xong thì chu kỳ tính không xuất hiện. - Giai đoạn sau động dục: Giai đoạn này cơ thể gia súc và cơ quan sinh dục dần dần trở lại bình thường. Các phản xạ động dục, tính hưng phấn dần mất hẳn, con vật chuyển sang thời kỳ yên tĩnh hoàn toàn. - Giai đoạn nghỉ ngơi: Đây là giai đoạn dài nhất, các biểu hiện về tính của gia súc ở thời kỳ này yên tĩnh hoàn toàn. Thời kỳ này cơ quan sinh dục không có biểu hiện hoạt động, trong buồng trứng thể vàng teo đi, noãn trong buồng trứng bắt đầu phát dục và lớn lên, các cơ quan sinh dục đều ở trạng thái sinh lý. * Chu kỳ tính: Từ khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của lợn được diễn ra liên tục và có chu kỳ. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng theo chu kỳ (Khuất Văn Dũng, 2005) [5]. * Sự thụ tinh: Là quá trình gặp nhau và đồng hóa lẫn nhau giữa tinh trùng và tế bào trứng để tạo ra hợp tử mới, quá trình này xảy ra ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng trong tử cung con cái và thụ thai ở đó. Thời điểm phối tinh thích hợp là 24 – 39 giờ kể từ khi xuất hiện động dục và số trứng rụng 16 – 17 tế bào (Trần Văn Phùng và cs, 2004) [23]. * Chửa: Là thời gian phát triển của thai trong tử cung con mẹ, được tính từ khi trứng được thụ tinh phát triển thành hợp tử đến khi thai phát triển hoàn chỉnh thành cơ thể mới và được đẻ ra ngoài cơ thể mẹ. Thời gian có chửa của lợn nái bình quân là 114 ngày (Jose Bento và cs, 2013) [35]. * Đẻ: Là hoạt động sinh lý bình thường của gia súc cái; khi thai phát triển hoàn chỉnh, con mẹ đẩy thai, màng nhau và các sản phụ ra ngoài hoàn toàn. Đẻ Là
- 15 một phản xạ không điều kiện dưới sự chỉ đạo của thần kinh và thể dịch. Trước khi đẻ con vật có biểu hiện về toàn thân và cục bộ hệ sinh dục. 2.2.2. Kỹ thuật chăn nuôi lợn nái giai đoạn chửa đẻ * Kỹ thuật nuôi lợn nái chửa đẻ Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23], thức ăn dùng cho lợn nái trong giai đoạn này phải là thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh đẻ non, đẻ khó hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn nái đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, trước khi đẻ 2 – 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích thức ăn bằng cách cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho ăn hoặc cho ăn theo khẩu phần của nái trước đẻ 1 ngày và giữ nguyên cho 1 ngày sau đẻ. Sau khi đẻ 2 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột, mà tăng từ từ đến ngày thứ 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, có dung tích nhỏ và có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn của lợn nái. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng lợn nái, sự phát dục của bầu vú, để quyết định chế độ nuôi dưỡng cho hợp lý theo bảng khẩu phần của lợn nái hậu bị và nái chửa sau: Bảng 2.6. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn cho lợn nái hậu bị và nái chửa ngoại Pr.Thô/ khẩu Năng lượng trao Khối lượng lợn phần (%) đổi (ME) Kcal Từ 20 – 31 kg 16 – 17 3100 Từ 31 – 65 kg 15 3000 Từ 66 kg đến phối giống và cả kỳ mang thai 13 – 14 2900 (Nguồn: Trần Văn Phùng và cs, 2004 [23])
- 16 * Chuẩn bị trước khi đỡ đẻ Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23], căn cứ vào lịch phối giống để dự kiến ngày đẻ của lợn một cách chính xác, để phân công người trực đẻ, theo dõi đỡ đẻ cho lợn và can thiệp kịp thời khi cần thiết, tránh những thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra. - Chuẩn bị chuồng cho lợn nái đẻ: Trước khi lợn đẻ 10 – 15 ngày cần chuẩn bị chuồng đẻ như: Tẩy rửa, vệ sinh, khử trùng toàn bộ các ổ chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ và có đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh và tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 – 5 ngày trước khi nhập lợn nái vào đẻ. - Chuẩn bị ô úm cho lợn con: Ô úm được cọ rửa sạch sẽ, phun khử trùng và được đưa vào các ổ đẻ trước ngày đẻ dự kiến 2 – 3 ngày. Ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt là những ngày đầu mới đẻ lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa phục hồi. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn đẻ những tháng mùa đông. - Chuẩn bị dụng cụ: Cần chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ như sau: Khay đựng dụng cụ (kéo, cồn sát trùng, dây buộc rốn, ), bóng úm, thảm để lót lồng úm, giẻ hoặc khăn lau, cân để cân khối lượng sơ sinh, khay, thùng hoặc xô đựng nhau thai, sổ ghi chép và một số thuốc trợ đẻ, bổ trợ, kháng sinh, - Trực và đỡ đẻ lợn: Trực đẻ rất cần thiết để có thể hỗ trợ lợn nái trong những trường hợp bất thường. Quan sát được những biểu hiện của lợn nái khi có hiện tượng sắp đẻ, để có kế hoạch trực và đỡ đẻ cho lợn nái. Những biểu hiện lợn nái sắp đẻ: Khi thấy lợn bắt đầu cắn ổ, đi lại không yên, có hiện tượng đái són là lợn sắp đẻ và khi lợn nằm, âm hộ chảy nước nhờn là lợn bắt đầu đẻ. Những biểu hiện khi lợn nái đẻ: Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [23], khi lợn đẻ toàn thân co bóp, áp lực bên trong tăng cao đẩy thai ra ngoài. Lợn là loài đa thai nhưng đẻ từng con một, thường cứ 15 – 20 phút đẻ 1 con, cũng có khi đẻ liên tiếp nhiều con rồi nghỉ
- 17 ngơi một thời gian, nếu đẻ con này cách con kia trên 1 giờ thì phải có biện pháp can thiệp. Bình thường trong vòng 3 – 4 tiếng lợn nái sẽ đẻ hết số con và nhau được tống ra ngoài. Những con nái tống nhau ra ngoài hàng loạt sau đó sẽ ít bị viêm nhiễm đường sinh dục vì kèm theo nhau thì có những chất dịch hậu sản cũng được bài thải ra khỏi ống sinh dục. Cũng có trường hợp sau khi đẻ nhau được bài thải ra ngoài hết nhưng vẫn còn kẹt lại 1 con cuối cùng, con này thường to và nái mệt nên không đẻ ra được. Điều này sẽ gây ra chết thai bên trong, gây thối và nhiễm trùng nặng cho nái, nái sốt cao, bỏ ăn, mất sữa dẫn đến lợn con chết nhiều vì đói Phải cảnh giác trường hợp nái đang đẻ nhanh thì bỗng nhiên ngừng, cường độ rặn đẻ yếu, phải can thiệp kịp thời để tống những thai chết hoặc nằm ngang tử cung ra ngoài, cứu sống những thai sống trong bụng nái. Trường hợp này không nên can thiệp bằng Oxytocin, cần phải kiểm tra, khám trước mới tiêm nhưng lúc khám không được thọc tay vào quá sâu bên trong. Dấu hiệu sót nhau: Sau khi đẻ 4 – 5 giờ không thấy nhau ra hoặc không hết là bị sót nhau. Thấy lợn nái rặn nhiều, đôi khi bỏ ăn, sốt cao liên tục 40 - 41°C trong vòng 1 – 2 ngày, cắn con, không cho con bú, niêm dịch chảy ra có màu đục, lẫn máu. Trong lúc đẻ nái thường đứng dậy, đi phân, đi tiểu và trở về nằm nhiều lần. Việc làm như vậy giúp thai ở hai bên sừng tử cung phân bố di chuyển để cho việc sinh đẻ dễ hơn, vì vậy khi thấy nái đẻ một số con rồi nghỉ thì nên tác động cho nái đứng và trở về nằm (nếu muốn nái nằm bên trái thì xoa nắn bệ vú, hàng vú bên phải và ngược lại). Một số nái khi sắp đẻ thì bị sưng phù âm môn rất nặng và nếu nái rặn đẻ quá mạnh hoặc dùng thuốc kích thích rặn đẻ thì dễ dẫn đến vỡ âm môn, xuất huyết. Cần có biện pháp cầm máu kịp thời (dùng kẹp mạch máu, chỉ cột mạch máu), tránh làm nái tử vong. Kỹ thuật đỡ đẻ: Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23], người đỡ đẻ cần cắt móng tay và rửa sạch tay trước khi đỡ đẻ, khi thai ra tiến hành các công việc đỡ đẻ như sau: - Lau dịch nhờn: một tay cầm chắc mình lợn, một tay dùng khăn khô lau sạch dịch nhờn ở mồm, mũi và toàn thân cho lợn con, tạo điều kiện cho lợn hô hấp thuận
- 18 lợi và tránh cho lợn bị cảm lạnh. Các động tác cần làm nhẹ nhàng, khéo léo để lợn con không kêu ảnh hưởng đến lợn mẹ. - Cắt rốn: Dùng chỉ thắt lại chỗ cắt, độ dài rốn để lại là 4 – 5cm rồi cắt bằng kéo đã sát trùng, sau đó dùng cồn sát trùng vết cắt. - Bấm nanh: Dùng kìm bấm nanh, không bấm nanh quá nông vì bấm nông thì răng vẫn còn nhọn dễ làm tổn thương vú lợn mẹ khi lợn con bú, bấm quá sâu dễ gây viên lợi cho lợn con. 2.2.3. Kỹ thuật chăm sóc lợn nái nuôi con * Nuôi dưỡng lợn nái nuôi con Thức ăn cho lợn nái nuôi con, phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mì. Các loại thức ăn bổ sung đạm động, thực vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 Kcal, protein 15%, Ca từ 0,9 – 1,0% và phospho 0,7% (Trần Văn Phùng và cs, 2004 [23]). Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trưc tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [23], trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: - Đối với lợn nái ngoại: + Ngày cắn ổ đẻ: Cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 - 3kg tương ứng.
- 19 + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: Cho ăn 4kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức ăn/nái/ngày = 2kg + (số con x 0,35kg/con). + Số bữa ăn trên ngày: 2 (sáng và chiều). + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh). + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%. + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. - Đối với lợn nái nội Công thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/ 1 ngày đêm: Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100 kg, mức ăn trong 1 ngày đêm được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,2 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg) Thức ăn thô xanh: 0,3 đơn vị. Lợn nái nội có khối lượng 100 kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,4 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg) Thức ăn thô: 0,4 đơn vị Định mức ăn cho một lợn nái nội nuôi con/ 1 ngày đêm. * Kỹ thuật chăm sóc, quản lý lợn nái nuôi con. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [23], vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là
- 20 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần: Đảm bảo thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. Đảm bảo thức ăn nước uống sạch cho lợn nái, đảm bảo nhiệt độ thích hợp cho cả lợn mẹ và lợn con trong giai đoạn này. Thường xuyên theo dõi lợn mẹ và lợn con vì rất dễ mắc các bệnh ở lợn mẹ: Viêm tử cung, viêm vú, bại liệt sau đẻ, Đảm bảo chuồng luôn khô ráo, không để phân và nước tiểu tồn đọng trong chuồng nuôi. 2.2.4. Một số bệnh gặp trên đàn lợn nái * Bệnh sót nhau - Nguyên nhân: Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23], do đẻ nhiều lứa hoặc nhiều con/lứa nên tử cung co bóp yếu không đẩy thai và nhau ra được. Do viêm niêm mạc tử cung trước lúc đẻ làm dính nhau với tử cung. Do nhau chưa ra hết, người đỡ đã kéo đứt còn một ít sót lại trong tử cung. Do lợn con còn sót lại ở trạng thái nằm sai vị trí làm tắc đường ra của nhau. - Triệu chứng: Sau khi đẻ 4 - 5 giờ không thấy nhau ra hoặc không ra hết là bị sót nhau. Thấy lợn nái rặn nhiều, đôi khi bỏ ăn, sốt cao liên tục 40 - 410C trong vòng 1 - 2 ngày, cắn con, không cho con bú, niêm dịch chảy ra có màu đục, lẫn máu. Để dễ phát hiện có sót nhau hay không khi đỡ đẻ cho lợn người ta thường gom toàn bộ nhau lại cho đến khi lợn đẻ xong, đếm số nhau ra và số lợn con sẽ phát hiện lợn con có sót nhau hay không. * Hiện tượng đẻ khó: Theo Lê Minh và cs, (2017) [18], hiện tượng đẻ khó xuất hiện dưới nhiều hình thức và do nhiều nguyên nhân gây ra.
- 21 Trường hợp đẻ khó do nguyên nhân từ cơ thể mẹ có thể liên quan đến một số vấn đề sau: Do tử cung co bóp và sức rặn đẻ của mẹ yếu; hoặc các phần mềm như cổ tử cung, âm đạo, âm hộ giãn nở không bình thường; hoặc hệ thống khung xoang chậu hẹp hay biến dạng; hoặc tử cung bị xoắn, hay bị vặn. Rặn đẻ yếu: Đặc trưng các cơn co thắt cơ tử cung và thành bụng của gia súc mẹ vừa yếu vừa ngắn. Có 3 dạng cơn co thắt và rặn đẻ yếu: - Cơ co thắt yếu nguyên phát bắt đầu từ khi mở cổ tử cung và xảy ra trùng với cơn rặn đẻ nguyên phát - Cơn co thắt và rặn đẻ yếu thứ phát xảy ra sau khi co thắt và rặn đẻ mạnh nhưng không có kết quả - Cơn co thắt và rặn đẻ yếu thứ phát xảy ra do bào thai không di chuyển được. Các cơn co thắt và rặn đẻ yếu nguyên phát, thông thường, quan sát thấy khi vi phạm chế độ chăm sóc nuôi dưỡng gia súc chửa và thiếu vận động, cũng như khi bị bệnh làm suy yếu sức khỏe của con mẹ. Cần can thiệp để cứu lợn con và mẹ. Trường hợp gia súc đẻ khó có nguyên nhân do bào thai, đó là: Thai quá to không phù hợp với xoang chậu; hoặc chiều, hướng, tư thế của thai không bình thường; hoặc thai dị hình hay quái thai. * Bệnh viêm tử cung: Theo Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [7], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Qua khảo sát của Trần Ngọc Bích và cs, (2016) [2], về tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13%.
- 22 Viêm tử cung là một bệnh khá phổ biến ở gia súc cái. Nếu không được chữa trị kịp thời sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gia súc cái (Lê Thị Tài và cs, 2000) [25]. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs, (2002) [16], Lê Minh và cs, (2017) [18], Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], nguyên nhân dẫn đến viêm tử cung ở lợn nái thường do: - Do nhiễm vi khuẩn khi giao phối trực tiếp hoặc gia súc đực bị viêm cơ quan sinh dục. - Cơ quan sinh dục lợn nái phát triển không bình thường gây khó đẻ hoặc lợn nái khó đẻ do thai quá to, thai ra ngược, thai phát triển không bình thường - Trong trường hợp đẻ khó, nuôi dưỡng kém thời kỳ hồi phục tử cung sau khi đẻ không đảm bảo vệ sinh, sát nhau, giãn cổ tử cung, âm đạo tích chất bẩn, tích nước tiểu, những thao tác kỹ thuật lúc đỡ đẻ không đảm bảo vệ sinh sây sát niêm mạc tử cung. - Kế phát do sót nhau hoặc từ các bệnh khác như bệnh viêm âm đạo, tiền đình, bàng quang, các bệnh truyền nhiễm: sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao thường gây ra các bệnh viêm tử cung. - Yếu tố thời tiết, khí hậu, ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội chứng viêm tử cung: mùa hạ có tỷ lệ nhiễm cao nhất 53,37%, mùa đông 46,05%, mùa thu 43,70% (Nguyễn Thị Hồng Minh 2014) [19]. Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [27], tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên 620 lợn nái ngoại nuôi tại một số trại tại vùng Bắc Bộ cho thấy: tỷ lệ nhiễm viêm tử cung ở đàn lợn tương đối cao, biến động từ 36,57% tới 61,07%. Tỷ lệ mắc tập trung ở những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8. Theo Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [7], Trần Thị Dân (2004) [3], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính như: Lợn dễ bị sảy thai, bào thai phát triển kém hoặc thai chết lưu, lợn nái giảm sữa hoạc mất sữa, nếu lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. Triệu chứng:
- 23 Theo Đặng Đình Tín (1986) [29], Trần Tiến Dũng và cs, (2002) [7], cho biết triệu chứng viêm tử cung thể hiện qua 3 thể viêm: - Viêm nội mạc: Lợn có biểu hiện sốt nhẹ, dịch viêm có mầu trắng hoặc xám và có mùi tanh. Con vật có phản ứng đau nhẹ, phản ứng co bóp tử cung giảm nhẹ. - Viêm cơ: Theo Nguyễn Hữu Ninh và Bạch Đăng Phong, (2000) [20], viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung, niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm lớp cơ và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. Lợn có biểu hiện sốt cao, dịch viêm có mầu hồng hoặc nâu đỏ và có mùi tanh. Con vật có phản ứng đau rõ rệt, phản ứng co bóp tử cung yếu ớt. - Viêm tương mạc: Lợn có biểu hiện sốt rất cao, dịch viêm có mầu nâu rỉ sắt và có mùi thối khắm. Con vật rất đau kèm triệu chứng viêm phúc mạc, phản ứng co bóp tử cung mất hẳn. Ngoài ra, tiêm các loại thuốc bổ trợ như: Urotropin giúp tăng cường bài tiết độc tố, thuốc hạ sốt, vitamin C liều cao và canxi hỗ trợ co bóp tử cung, các thuốc kháng viêm: Ketovet, Theo Smith và cs. (1995) [39], Popkov (1999) [22], chữa bệnh viêm tử cung bằng cách sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao: Streptomycin 0,25 g, penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml và vitamin C. Khi lợn bị viêm âm đạo, âm hộ, thụt rửa âm đạo bằng dung dịch nước etacridin 1/1.000 và 1/5.000, furazolidon 1/1.000. * Bệnh viêm vú Nguyên nhân: + Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây ra viêm vú. Do kế phát từ môt số bệnh: Bại liệt sau khi đẻ, sốt sữa, hóa mủ
- 24 + Khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy, vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus spp và Arcanobacterium pyogenes (Christensen và cs, 2007) [31]. + Thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập gây viêm như: E. coli, Streptococcus, Staphylococcus, Klebsiella ( Duy Hùng, 2011) [41]. + Lợn con mới đẻ có răng nanh mà không bấm khi bú làm xây sát vú mẹ tạo điều kiện cho vi trùng xâm nhập tạo ra các ổ viêm nhiễm bầu vú. + Chỉ cho lợn con bú một hàng vú, hàng còn lại căng quá nên viêm. + Do thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh quá hoặc nóng quá hay thức ăn khó tiêu cũng ảnh hưởng đến cảm nhiễm vi trùng. Triệu chứng: Tại vú bị viêm: Vú căng cứng, nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa, nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều lợn cợn lẫn máu; sau 1 - 2 ngày thấy có mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,50C. Tùy số lượng vú bị viêm mà lợn nái có biểu hiện khác nhau. Nếu do nhiễm trùng trực tiếp vào bầu vú, thì đa số trường hợp chỉ một vài bầu vú bị viêm. Tuy vậy, lợn nái cũng lười cho con bú, lợn con thiếu sữa nên liên tục đòi bú, kêu rít, đồng thời do bú sữa bị viêm, gây nhiễm trùng đường ruột, lợn con bị tiêu chảy (White và cs, 2013 [40]). Các nghiên cứu của Trekaxova A. V. và cs, (1983) [30], về chữa trị bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [10], trước khi đẻ cần lau vú, xoa vú, tắm cho nái. Cho con bú mẹ sau 1 giờ đẻ, bấm răng nanh lợn con. Tiêm kháng sinh 1,5 - 2 triệu đơn vị với 100 ml nước cất tiêm quanh vú, tiêm liên tục trong 3 ngày. Dùng Novocain tiêm ven tai, tiêm chỗ giáp nhau giữa hai bầu vú và phần sườn của lợn, tiêm nhắc lại sau một ngày.
- 25 Dùng kháng sinh streptomycin, penicillin, ampicillin, lincomycin liều đạt trên 200.000 - 500.000 UI, mỗi loại trên một lần tiêm cho 1 - 2 lần/ngày trong 3 - 5 ngày. Thực hiện phòng bệnh: Vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng ngày bằng dung dịch sát trùng. Bấm răng sữa cho lợn con mới sinh, nên cho lợn con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng bị viêm. Dùng các phương pháp nhân tạo như chườm nóng, xoa bóp nhẹ lên vùng vú bị sưng (Duy Hùng, 2011) [41]. 2.2.5. Kỹ thuật chăn nuôi lợn con theo mẹ * Cho bú sữa đầu và cố định đầu vú cho lợn con Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23], lợn con đẻ ra cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Thời gian tiết sữa đẩu của lợn nái là 1 tuần kể từ khi đẻ nhưng có ý nghĩa lớn nhất đối với lợn con là trong 24 giờ đầu. Sau khoảng 2 giờ, nếu lợn mẹ đẻ xong thì cho cả đàn con cùng bú. Nếu lợn mẹ chưa đẻ xong thì nên cho những con đẻ trước bú trước. Sữa đầu có hàm lượng các chất dinh dưỡng rất cao. Hàm lượng protein trong sữa đầu gấp 2 lần so với sữa thường, vitamin A gấp 5 - 6 lần, vitamin c gấp 2,5 lần, vitamin BI và sắt gấp 1,5 lần. Đặc biệt trong sữa đầu có hàm lượng γ - globulin mà sữa thường không có. γ - globulin có tác dụng giúp cho lợn con có sức đề kháng đối với bệnh tật. Ngoài ra, Mg++ trong sữa đầu có tác dụng tẩy các chất cặn bã trong quá trình tiêu hoá ở thời kỳ phát triển thai, để hấp thu chất dinh dưỡng mới. Nếu không nhận được Mg++ thì lợn con sẽ bị rối loạn tiêu hoá, gây ỉa chảy, tỉ lệ chết cao. Việc cố định đầu vú cho lợn con nên bắt đầu ngay từ khi cho chúng bú sữa đầu. Theo quy luật tiết sữa của lợn nái, thì lượng sữa tiết ra ở các vú phần ngực nhiều hơn những vú ở phần bụng, mà lợn con trong một ổ thường có con to, con nhỏ không đều nhau. Nếu để lợn con tự bú thì những con to khoẻ thường tranh bú ở
- 26 những vú phía trước ngực có nhiều sữa hơn và dẫn đến tỉ lệ đồng đều của đàn lợn con rất thấp. Có trường hợp có những con lợn yếu không tranh được bú sẽ bị đói làm cho tỉ lệ chết của lợn con cao. Khi cố định đầu vú, nên ưu tiên những con lợn nhỏ yếu được bú các vú phía trước ngực. Công việc này đòi hỏi phải kiên trì, tỉ mỉ, bắt từng con cho bú và cho bú nhiều lần trong một ngày (7 - 8 lần), làm như vậy liên tục trong 3 - 4 ngày để chúng quen hẳn với vị trí vú mới thôi. Cũng có trường hợp số lợn con đẻ ra ít hơn số vú thì những lợn bú các vú phía sau có thể cho mỗi con làm quen 2 vú, để vừa tăng cường lượng sữa cho lợn con, vừa tránh bị teo vú của lợn mẹ. Nếu cố định đầu vú tốt thì sau 3 - 4 ngày lợn con sẽ quen và tự bú ở các vú quy định cho nó. Lợn con quen nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào tư thế nằm của lợn mẹ, nếu lợn mẹ thường xuyên nằm quay về 1 phía khi cho con bú thì lợn con nhận biết vú qui định của nó sớm hơn. Ngược lại, nếu lợn mẹ nằm thay đổi vị trí luôn thì lợn con sẽ chậm nhận biết hơn. * Bổ sung sắt cho lợn con Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23], trong những ngày đầu, khi lợn con chưa ăn được, lượng sắt mà lợn con tiếp nhận từ nguồn sữa mẹ không đủ cho nhu cầu của cơ thể, vì vậy lợn con cần được bổ sung thêm sắt. Nhu cầu sắt cần cung cấp cho lợn con ở 30 ngày đầu sau khi đẻ là 30 X 7 mg/ngày = 210 mg. Trong đó lượng sắt lợn mẹ cung cấp từ sữa chỉ đạt 1 - 2mg/ngày (30-60 mg/30 ngày), lượng sắt thiếu hụt cho 1 lợn con khoảng 150 - 180 mg, vì vậy mỗi lợn con cần cung cấp thêm lượng sắt thiếu hụt. Trong thực tế thường cung cấp thêm 200 mg. Nên tiêm sắt cho lợn trong 3 - 4 ngày sau khi sinh. Nếu cai sữa lợn lúc 3 tuần tuổi tiêm một lần 100mg sắt là đủ. Nếu cai sữa sau 3 tuần tuổi, nên tiêm 200mg sắt chia 2 lần: lần 1: 3 ngày tuổi; lần 2: 10 - 13 ngày tuổi. Triệu chứng điển hình của sự thiếu sắt là thiếu máu, hàm lượng hemoglobin giảm. Khi thiếu sắt, da của lợn con có màu trắng xanh, đôi khi lợn con bị ỉa chảy, ỉa phân trắng, lợn con chậm lớn, có khi bị tử vong.
- 27 Để loại trừ hiện tượng thiếu sắt, cần bổ sung sắt kịp thời cho lợn con bằng cách tiêm, cho uống hoặc cho ăn. Bổ sung sắt bằng cách tiêm hiệu quả nhất và có 2 cách: + Cách 1: Chỉ tiêm 1 lần vào ngày thứ 3 sau khi đẻ với liều 200 mg sắt (Fe Dextran) cho 1 lợn con. + Cách 2: Tiêm 2 lần: Lần thứ nhất tiêm 100 mg vào ngày thứ 3 sau khi đẻ, lần thứ 2 (tiêm lặp lại) là 7 ngày sau khi tiêm lần thứ nhất cũng với liều 100 mg cho 1 lợn con. Để ngăn ngừa hiện tượng ngộ độc sắt cho lợn con, cần bổ sung vitamin E vào khẩu phần ăn của lợn mẹ 1 ngày trước khi tiêm (khoảng 50 mg). Nếu thiếu vitamin E bổ sung thì cần cung cấp 20 - 30 mg Fe vào ngày thứ 3 sau khi sinh cũng đã gây ngộ độc cho cơ thể lợn con. * Tập ăn sớm cho lợn con Mục đích của việc tập cho lợn con ăn sớm là để bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Lợn con được bổ sung thức ăn sớm có rất nhiều tác dụng: Đảm bảo cho lợn con sinh trưởng phát dục bình thường, không hoặc ít bị stress, không bị thiếu hụt dinh dưỡng cho nhu cầu sinh trưởng nhanh của lợn con sau 3 tuần tuổi và khi cai sữa. Thúc đẩy bộ máy tiêu hoá của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn thiện hơn. Khi bổ sung thức ăn sớm cho lợn con thì kích thích tế bào vách dạ dày tiết ra HC1 ở dạng tự do sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị. Khác với lợn lớn, lợn con chỉ tiết dịch vị khi có thức ăn vào dạ dày. Giảm tỉ lệ hao hụt của lợn nái. Nếu không bổ sung thức ăn sớm cho lợn con thì tỉ lệ hao hụt của lợn nái rất cao, nhất là đối với lợn nái được nuôi dưỡng kém, có khi tỉ lệ hao hụt lên tới 30%, sẽ làm giảm số lứa đẻ trong một năm (tỉ lệ hao hụt trung bình của lợn nái là 15%). Nâng cao được khối lượng cai sữa lợn con. Qua nghiên cứu cho thấy rằng: khối lượng cai sữa chịu ảnh hưởng tới 57% của thức ăn bổ sung, trong khi đó chịu ảnh hưởng của sữa mẹ khoảng 38% và của khối lượng sơ sinh là 5%. Qua nhiều thí
- 28 nghiệm và thực tế chứng minh rằng: những lợn con được tập ăn sớm thì tăng khối lượng nhanh hơn, tỉ lệ mắc bệnh ít hơn (Trần Văn Phùng và cs, 2004 [23]) Bảng 2.7. Tăng khối lượng của lợn con có và không bổ sung thức ăn sớm (Đơn vị: g/con/ngày) Giai đoạn Lợn ỉ Sơ sinh – 15 15 – 30 30 – 45 ngày 45 – 60 ngày ngày ngày Không bổ sung TĂ 57 24,6 26 16 Bổ sung TĂ 87 57 80 112 (Nguồn: Trần Văn Phùng và cs, 2004 [23]) 2.2.6. Một số đăc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ Sinh lý của lợn con theo mẹ là khả năng thích ứng của cơ thể từ môi trường trong bụng mẹ có nhiệt độ từ 38 - 400C, ra môi trường bên ngoài có nhiệt độ thấp hơn, làm ảnh hưởng đến sự thành thục và hoàn thiện về chức năng của các cơ quan bên trong cơ thể lợn sơ sinh. * Đặc điểm sinh trưởng của lợn con - Lợn con sinh trưởng và phát dục nhanh Sinh trưởng là một quá trình tích lũy các chất thông qua trao đổi các chất, sự tăng lên về khối lượng, về kích thước các chiều của các bộ phận cũng như toàn bộ cơ thể con vật trên cơ sở tính di truyền có từ đời trước. Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23]: So với khối lượng sơ sinh thì khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 2 lần lúc sơ sinh, lúc 21 ngày tuổi gấp 4 lần, lúc 30 ngày tuổi gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày gấp 7 - 8 lần, lúc 50 ngày tuổi gấp 10 lần, lúc 60 ngày tuổi gấp 12 - 14 lần. - Lợn con phát triển nhanh nhưng không đều qua các giai đoạn Lợn con có tốc độ sinh trưởng phát dục nhanh nên khả năng tích luỹ chất dinh dưỡng rất mạnh, lợn con ở 21 ngày tuổi mỗi ngày có thể tích luỹ được 9 - 14g protein/kg khối lượng cơ thể. Trong khi đó, lợn lớn chỉ tích luỹ được 0,3 - 0,4g protein/kg khối lượng cơ thể. Qua đó, ta thấy cường độ trao đổi chất ở lợn con và
- 29 lợn trưởng thành chênh lệch khá lớn. Như ta đã biết lợn con trong thời kỳ này chỉ tích luỹ nạc là chính, vì vậy tiêu tốn thức ăn ít hơn. Các thành phần trong cơ thể lợn thay đổi rất nhiều, hàm lượng nước trong cơ thể giảm dần theo tuổi, đặc biệt lợn càng lớn thì giảm càng nhiều. Hàm lượng lipit tăng nhanh theo tuổi từ khi mới đẻ đến 3 tuần tuổi. Hàm lượng protein cũng tăng nhanh theo tuổi nhưng với hàm lượng không nhất định. Hàm lượng khoáng có biến đổi liên quan đến quá trình tạo xương. Từ lúc mới đẻ đến 3 tuần tuổi có hàm lượng khoáng giảm đáng kể và ở giai đoạn từ 21 đến 56 ngày tuổi giảm không đáng kể. * Đặc điểm tiêu hóa của lợn con Thời kỳ này đặc điểm nổi bật của cơ quan tiêu hóa lợn con đó chính là sự phát triển rất nhanh song chưa hoàn thiện. Sự phát triển nhanh thể hiện ở sự tăng về dung tích và khối lượng của bộ máy tiêu hóa. Còn chưa hoàn thiện thể hiện ở số lượng cũng như hoạt lực của một số men trong đường tiêu hóa của lợn con bị hạn chế. Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23], chức năng tiêu hóa của lợn con mới sinh chưa có họat lực cao, trong giai đoạn theo mẹ, chức năng tiêu hóa của một số men tiêu hóa được hoàn thiện dần. Tiêu hóa ở miệng: Lợn con mới sinh những ngày đầu hoạt tính amylaza nước bọt tăng nhanh và đạt đỉnh cao vào ngày thứ 14 và giảm dần theo tuổi của lợn đối với lợn con tách mẹ sớm, nhưng đối với lợn con tách mẹ trễ hoạt tính này duy trì đến ngày tuổi thứ 21. Nước bọt ở tuyến mang tai chứa 0,6% - 2,6% vật chất khô. Tùy lượng thức ăn lượng tiết khác nhau, thức ăn có phản ứng acid yếu và khô thì nước bọt tiết ra mạnh, thức ăn lỏng thì giảm hoặc ngừng tiết dịch. Vì vậy, cần lưu ý không cho lợn con ăn thức ăn lỏng. Tiêu hóa ở dạ dày: Khi lợn con mới sinh, dịch vị tiết ra ít và sau đó tăng theo sự tăng dung tích của dạ dày. Lượng dịch vị tăng nhanh nhất vào 3% - 4% tuần tuổi và sau đó giảm dần. Trước khi cai sữa, ban đêm lợn con tiết nhiều dịch vị hơn do lợn mẹ ban đêm nhiều sữa kích thích sự tiết dịch vị của lợn con. Khi cai sữa lượng
- 30 dịch vị tiết ra ngày và đêm gần bằng nhau. Lượng dịch vị biến đổi tùy theo tuổi và ngày đêm. Tiêu hóa ở ruột: Tiêu hóa ở ruột của lợn con nhờ vào dịch ruột và dịch tụy, enzyme trypsin trong dịch tụy thủy phân protein thành axit amin. Trypsin được sản xuất rất sớm, ngay trong giai đoạn thai, ở thai 2 tháng tuổi và thai càng lớn thì hoạt tính trypsin càng cao. Khi mới sinh hoạt tính trypsin tăng dần đến 20 ngày và sau đó giảm theo tuổi. * Đặc điểm về cơ năng điều tiết nhiệt Lợn con mới đẻ có sự thay đổi rất lớn về điều kiện sống so với ở bên trong cơ thể lợn mẹ có nhiệt độ ổn định 39°C, ra bên ngoài điều kiện nhiệt độ thay đổi tùy theo từng mùa khác nhau. Do vậy lợn con rất dễ bị nhiễm lạnh, giảm đường huyết và có thể dẫn đến chết. Khả năng điều tiết thân nhiệt ở lợn con chưa hoàn chỉnh nên thân nhiệt của lợn con chưa ổn định. Trung khu điều tiết thân nhiệt của lợn con nằm ở vỏ não, mà não là cơ quan phát triển muộn nhất ở cả 2 giai đoạn trong thai và ngoài thai. Diện tích bề mặt của cơ thể lợn con so với khối lượng chênh lệch tương đối cao nên khi bị lạnh lợn con mất nhiệt nhanh. Lớp mỡ dưới da còn mỏng, lượng mỡ và glycozen dự trữ trong cơ thể lợn con còn thấp, trên cơ thể lợn con lông còn thưa nên khả năng cung cấp nhiệt và khả năng giữ nhiệt kém. Từ những lý do nêu trên ta thấy khả năng điều tiết thân nhiệt của lợn con dưới 3 tuần tuổi là rất kém, nhất là tuần đầu mới đẻ. Vì vậy phải tạo điều kiện thuận lợi nhất về nguồn nhiệt để lợn con sơ sinh sinh trưởng và phát triển tốt nhất, tránh sự xâm nhập mầm bệnh vào cơ thể. 2.2.7. Một số bệnh thường gặp ở lợn con • Tiêu chảy Phạm Ngọc Thạch (1996) [26] cho biết, tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý ở đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật đi ỉa nhanh, nhiều lần
- 31 trong ngày, phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu hóa, ruột tăng cường co bóp và tiết dịch hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay đổi tạm thời của phân gia súc đang thích ứng với những thay đổi trong khẩu phần ăn. Theo Trần Đức Hạnh (2013) [11], lợn con ở 1 số tỉnh phía bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84 % và 5,37 %, tỷ lệ mắc tiêu chảy và chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21 – 40 ngày (30,97 và 4,93 %) và giảm ở giai đoạn 41 - 46 ngày. Theo Đào Trọng Đạt và cs, (1996) [8], những tháng mưa nhiều kèm theo khí hậu lạnh, tỷ lệ lợn con mắc hội chứng tiêu chảy tăng rõ rệt, có khi 80 - 100% cá thể trong đàn bị tiêu chảy. - Nguyên nhân: + Do thời tiết khí hậu: Các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng của cơ thể chưa thích nghi với môi trường (Đoàn Kim Dung, 2004) [4] + Lợn con bị nhiễm khuẩn: Theo Phạm Sỹ Lăng (2009) [17], bệnh tiêu chảy ở lợn có nguyên nhân do vi khuẩn E.coli, Salmonella , trong đó Salmonella là vi khuẩn có vai trò quan trọng trong quá trình gây ra hội chứng tiêu chảy (Radosits và cs, 1994) [38]. + Nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt (Glawisschning và Bacher, 1992) [33]. + Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung + Lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần + Bệnh tiêu chảy trên lợn con do E.coli có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi theo mẹ nào nhưng thường có hai thời kỳ cao điểm là 0 - 5 ngày tuổi và 7 - 14 ngày tuổi (Nagy và Fekete, 2005) [36]. - Triệu chứng: Sàn chuồng có phân lợn lỏng, màu vàng hoặc màu trắng
- 32 Trong chuồng có hiện tượng lợn nôn ra sữa Người lợn con bị bẩn do dính phân Vú lợn mẹ dính phân lợn con • Bệnh viêm da - Nguyên nhân: + Bệnh viêm da ở lợn do vi khuẩn Staphylococcus hyicus gây ra, chủ yếu trên lợn con nhỏ hơn 8 tuần tuổi. Vi khuẩn sau khi xâm nhập vào cơ thể lợn, thường làm tổn thương da: Gây viêm da, nhiễm trùng và nặng có thể dẫn đến các biến chứng khác hoặc giết chết lợn. + Bệnh viêm da thường xảy ra riêng lẻ, trên 1 số ít lợn con trong trại. Tuy nhiên, ở 1 số trang trại có số lượng lợn con của lợn nái tơ (lợn nái đẻ lứa đầu) cao thì rất có thể bệnh sẽ xảy ra nghiêm trọng hơn, với tỉ lệ lợn con sơ sinh và lợn con cai sữa nhiễm bệnh tăng cao. - Triệu chứng: + Dấu hiệu ban đầu khi lợn vừa nhiễm bệnh viêm da thường là nhìn lợn bơ phờ, chậm chạp, ít vận động, chán ăn. Dấu hiệu này thường xuất hiện đồng loạt trên cả lứa lợn hoặc 1 phần của lứa. + Tiếp đó thấy da ửng đỏ lên, chủ yếu ở vùng da mỏng như vùng nách, háng, da bụng nhưng lợn không ngứa, nhiệt độ cơ thể cũng không nóng lên. + Tiếp đến, xuất hiện các nốt màu nâu có đường kính 1 - 2 cm, xung quanh bao bọc bởi huyết thanh và dịch rỉ viêm ở vùng da mặt và đầu. Theo thời gian, các nốt chuyển từ màu nâu sang đen dần do hoại tử. + Trong trường hợp viêm cấp tính, các mảng da viêm lan rộng nhanh chóng và kết thành khối, mảng trên da rồi lan ra toàn thân chỉ trong vòng 24 - 48 giờ. Các mảng viêm có thể bong tróc ra để lại những mảng da loét với đầy dịch rỉ viêm. Lợn mất nước, mất điện giải trầm trọng và có thể dẫn đến tử vong.
- 33 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước Để nâng cao năng suất và chất lượng trong chăn nuôi lợn nái ngoại giai đoạn đẻ và nuôi con người ta phải thực hiện tốt quy trình cai sữa sớm cho lợn con. Muốn cai sữa sớm cho lợn con đạt được những kết quả tốt nhất thì ta phải thực hiện quy trình tập cho lợn ăn sớm. Vấn đề này được nhiều tác giả nghiên cứu: Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [23] cho rằng: khi lợn con đã lớn hơn, nó trở thành dẻo dai và có khả năng thích nghi tốt với môi trường ngoại cảnh. Vào thời gian này, phần lớn lợn con theo mẹ đã được 3 – 4 tuần tuổi, chúng bắt đầu ăn thức ăn và lớn nhanh, sự tăng khối lượng sớm này là tăng khối lượng có hiệu quả, do đó người chăn nuôi nên cố gắng giảm bớt stress vì stress làm giảm năng suất. Một cách để đạt khối lượng tối đa là cho lợn con bắt đầu ăn thức ăn càng sớm càng tốt. Nói chung sự tiết sữa của lợn mẹ đạt đến đỉnh cao lúc 3 – 4 tuần tuổi và bắt đầu giảm. Lợn con bắt đầu sinh trưởng nhanh và cần nhận được thức ăn bổ sung nên nó sinh trưởng với tiềm năng của nó. Lợn con cần được tập ăn từ lúc 1 – 2 tuần tuổi. Lý Thị Liên Khai (2001) [14], phân lập E. coli từ lợn tiêu chảy và lợn khỏe cho biết các chủng E. coli mang kháng nguyên K88, K99 và 987P là nguyên nhân chính gây bệnh cho lợn con 1 – 2 tuần tuổi. Nguyễn Thị Oanh (2003) [21], khi nghiên cứu về tình hình nhiễm Salmonella ở vật nuôi tại Đắk Lắk đã chỉ ra, lợn 2 – 4 tháng tuổi nhiễm Salmonella cao nhất 24,78%, lợn khỏe tỷ lệ nhiễm Salmonella là 11,20% trong khi đó ở lợn tiêu chảy tỷ lệ này là 23,65%. Hoàng Thị Phi Phượng và Trần Thị Hạnh (2004) [24] cho rằng, sau khi lợn ăn thức ăn nhiễm Salmonella và E. coli kéo dài sẽ gây ra tiêu chảy kéo dài, phân lỏng, nhiều nước; thể trạng gầy gò, mệt mỏi, chậm chạp. Các cơ quan nội tạng biểu hiện bệnh tích không bình thường đặc biệt ở gan và ruột.
- 34 Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs, (2006) [15] cho biết, tỷ lệ lợn tiêu chảy giảm Theotuổi, cao nhất ở giai đoạn sau cai sữa đến 2 tháng (13,90%), sau đó giảm dần và chỉ còn 5,55% ở lợn trên 6 tháng tuổi. Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004) [4], tỷ lệ lợn mắc tiêu chảy giảm theo tuổi, lợn giai đoạn sau cai sữa đến 2 tháng tuổi mắc nhiều nhất (18,61%), tỷ lệ lợn mắc bệnh giảm chỉ còn 8,04% ở lợn trên 6 tháng tuổi. Cũng theo tác giả, lợn nuôi ở vụ Xuân, Hè mắc tiêu chảy nhiều (14,44 và 17,09%), tỷ lệ lợn mắc thấp hơn ở 2 mùa Đông, Thu (10,72 và 11,84%). Lợn nuôi ở nền xi măng tỷ lệ mắc bệnh là 11,30%, nền gạch là 10,35%; nền đất là 20,34%. Theo Nguyễn Chí Dũng (2013) [6], bệnh tiêu chảy ở lợn con xuất hiện phổ biến ở tất cả 3 huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc với tỷ lệ khá cao (26,76%). Tỷ lệ chết là 5,03% trong tổng số con điều tra. Trần Đức Hạnh (2013) [11] cho rằng: Tỷ lệ tiêu chảy ở lợn con từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi trung bình là 30,32%; trong đó tỷ lệ tiêu chảy cao nhất ở lợn con là giai đoạn từ 21 - 40 ngày tuổi (34,54%) và có chiều hướng giảm dần ở giai đoạn tuổi tiếp theo, từ 41 - 60 ngày tuổi là 28,44%. Hoàng Phú Hiệp (2014) [13] cho biết: Vi khuẩn E. coli là một trong những tác nhân hàng đầu gây ra ngộ độc thực phẩm. Trong sinh hoạt hàng ngày, không ngoại trừ trường hợp con người bị nhiễm vi khuẩn E. coli thông qua tiếp xúc hay phơi nhiễm với phân người, động vật và gia cầm 2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài Tiêu chảy ở lợn xuất hiện khắp thế giới, một số tác giả đã nghiên cứu và công bố kết quả bệnh xuất hiện ở mọi phương thức chăn nuôi truyền thống hay chăn nuôi công nghiệp, thậm chí cả điều kiện chăn nuôi sạch cũng không loại trừ được bệnh. Glawisschning và Bacher (1992) [33], xác định Clostridium perfringens typ A và typ C là một trong những nguyên nhân gây ỉa chảy, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người chăn nuôi lợn.
- 35 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng - Đối tượng nghiên cứu: Lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ nuôi tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. - Phạm vi nghiên cứu: Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm nghiên cứu: Trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. - Thời gian nghiên cứu: 18/5 - 24/11/2018 3.3. Nội dung tiến hành - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. - Thực hiện qui trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái, lợn con nuôi tại trại. - Xác định tình hình mắc bệnh, áp dụng và đánh giá hiệu quả quy trình phòng trị bệnh cho đàn lợn nái, lợn con nuôi tại trại. 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện - Chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái và lợn con theo mẹ - Khối lượng công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại - Số lượng lợn nái được chẩn đoán và điều trị bệnh - Số lượng lợn con được chẩn đoán và điều trị bệnh - Lịch tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái và lợn con của trại 3.4.2. Phương pháp thực hiện 3.4.2.1. Theo dõi gián tiếp - Qua số liệu trong sổ sách thu thập của trại.
- 36 - Trực tiếp theo dõi, chăm sóc, nuôi dưỡng, điều trị lợn mắc bệnh và ghi chép số liệu hàng ngày. 3.4.2.2. Phương pháp chẩn đoán lâm sàng - Hàng ngày theo dõi sức khoẻ đàn lợn, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: Trạng thái cơ thể, bộ phận sinh dục ngoài, dịch rỉ viêm, phân, tình trạng sức khỏe lợn con, khả năng vận động, ghi chép vào nhật ký thực tập hàng ngày. Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại. 3.4.2.3. Phương pháp xác định chỉ tiêu Tổng số con mắc bệnh - Tỷ lệ mắc bệnh (%) = x 100 Tổng số con Theodõi Tổng số con khỏi bệnh - Tỷ lệ khỏi bệnh (%) = x 100 Tổng số con điều trị Tổng số con chết - Tỷ lệ chết (%) = x 100 Tổng số con mắc bệnh Tổng số ngày điều trị của từng con - Thời gian điều trị TB (ngày) = Tổng số con điều trị Các số liệu thu thập được xử lý trên phần mềm Excel 2007.
- 37 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Kết quả áp dụng quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc cho lợn nái và lợn con tại cơ sở 4.1.1. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con Bảng 4.1. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập Tháng Nái đẻ, nuôi con 6 66 7 66 8 59 9 60 10 65 11 59 Tổng 375 Qua bảng 4.1 cho thấy: Trong 6 tháng thực tập em trực tiếp tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái nuôi con với tổng số 375 nái. Qua thời gian theo dõi em thấy lợn nái của trang trại sinh thái, Thanh Xuân, xã Nghĩa Trụ - huyện Văn Giang – Hưng Yên có khả năng đẻ cao, trung bình mỗi nái đẻ từ 12 – 14 con/ổ và sự tiết sữa của lợn mẹ tốt đáp ứng nhu cầu sữa cho lợn con. Có được những kết quả như thế này là do sự hiểu biết về kiến thức chăn nuôi của các công nhân đã thực hiện tốt quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng và có đội ngũ cán bộ kỹ thuật của trại có tay nghề cao, luôn sát sao khả năng sinh đẻ của lợn nái. Từ việc chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn hằng ngày em đã học được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản là phải giữ chuồng trại luôn sạch sẽ, cho lợn ăn đúng bữa và đủ lượng thức ăn theo quy định. Lợn nái chửa kì cuối, nái đẻ và nuôi con được cho ăn 3 lần/ngày đêm vào buổi sáng 7 giờ, buổi chiều 15 giờ và đêm 23 giờ.
- 38 Trước đẻ 3 ngày phải giảm thức ăn xuống từ 3 – 1 hoặc 0,5 kg/con/bữa mã cám 3060 của công ty Deheus. Ngày đẻ vẫn cho ăn từ 0,5 – 1 kg/con/ bữa, nhưng thường lợn nái sẽ không ăn hoặc ăn rất ít. Vệ sinh chuồng trại, tắm chải lợn mẹ sạch sẽ, diệt ký sinh trùng ngoài da. Phải giữ vệ sinh sạch sẽ vùng âm hộ và hậu môn, vùng này thường chứa nhiều lớp nhăn, da chết bẩn hoặc dính phân, chúng dễ vấy nhiễm vào âm đạo khi can thiệp móc thai. - Chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái sau khi đẻ Sau khi nái đẻ xong theo dõi nhiệt độ cơ thể, thường thân nhiệt lợn nái ở khoảng 39oC, nếu thân nhiệt lên trên 40oC thì có thể bị viêm nhiễm trùng sau đẻ. Nhiệt độ thích hợp cho nái nuôi con là dưới 30oC và ánh sáng phải luôn được chiếu 24/24. Biện pháp xử lý dịch hậu sản: sử dụng kích dục tố: Oxytocin, PGF2 tiêm cho nái để kích thích co bóp tử cung giúp loại bỏ sản dịch sau khi đẻ, đồng thời kích thích làm tăng tiết sữa. Sau đó 1 – 2 giờ bơm dung dịch kháng sinh thích hợp (oxytetracyclin, amoxcyclin ) vào bộ phân sinh dục nái. Bảng 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái Số lượng Khối lượng công Tỷ lệ hoàn cần thực việc thực hiện thành so với STT Công việc hiện được nhiệm vụ (số lần) (số lần) được giao (%) 1 Cho ăn 360 360 100 2 Vệ sinh trước đẻ 375 250 66,7 3 Đỡ đẻ 375 368 98,1 Tiêm kháng sinh 4 375 249 66,4 phòng nhiễm 5 Vệ sinh sau đẻ 375 249 66,4 6 Xử lý dịch hậu sản 12 12 100
- 39 Kết quả bảng 4.2 cho thấy, quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và khả năng sinh sản của lợn nái. Chính vì vậy, cần phải cho lợn ăn đúng bữa và đủ dinh dưỡng theo quy định. Lợn nái đẻ và nuôi con được ăn 3 bữa/ngày, lợn nái chửa 2 bữa/ngày. Trong 6 tháng thực tập, đã trực tiếp cho lợn ăn 360 lần (đạt 100%) so với số lần phải cho lợn ăn trong 6 tháng. Công tác vệ sinh trước và sau đẻ rất quan trọng, giúp cho lợn nái giảm được các bệnh về đường sinh dục sau sinh, trong 6 tháng thực tập tôi đã thực hiện được 66,4 – 66,7% công việc. Đã trực tiếp đỡ đẻ cho 368 lợn nái đạt 98,1% công việc được giao và xử lý dịch hậu sản 12 lần (đạt 100%), tiêm kháng sinh phòng bệnh, thực hiện được 249 lần đạt 66,4% so với nhiệm vụ được giao. 4.1.2. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn con theo mẹ Chăm sóc lợn con theo mẹ có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng suất chăn nuôi vì không chỉ ảnh hưởng đến lợn con mà còn rất quan trọng đối với lợn mẹ và lợn thịt sau này. Vì vậy, cần có những kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng lợn con ở giai đoạn theo mẹ phù hợp, sao cho kết quả của giai đoạn này đạt được những chỉ tiêu về: Tỷ lệ nuôi sống lợn con đến 21 ngày tuổi cao, số con cai sữa cao, tỷ lệ đồng đều lợn con cao và nhất là lợn con không mắc bệnh (đăc biệt là thiếu máu và tiêu chảy phân trắng). * Cho lợn con bú sữa đầu : Xuất hiện trong 24 giờ đầu nên cho lợn con bú càng sớm càng tốt và thường thì khi lợn nái đẻ được 4 – 5 con thì cho ra bú sữa đầu. * Bổ sung thức ăn sớm cho lợn con - Bắt đầu tập ăn cho lợn con từ lúc 5 ngày tuổi, bổ sung thêm men Laczym, B-complex và cho ăn thức ăn mềm. + Trộm B-complex: 10g/2kg cám + Trộm men Laczym: 10g/1kg cám - Tra cám làm nhiều lần trong ngày, tối thiểu 3 lần/buổi. - Rắc cám tạo tiếng động nhẹ kích thích lợn con dậy ăn. - Tra ít một đảm bảo cám luôn mới và thơm.
- 40 - Bổ sung sữa cho lợn con: + 5 ngày tuổi hòa sữa và bóp cám vào sữa cho lợn con tập ăn. + 6 ngày tuổi cho sữa và cám tương đương nhau bóp lẫn cho ăn. + 7 ngày tuổi cho ăn sữa ít hơn cám. + 8 ngày tuổi cho ăn cám ăn thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh ký hiệu là 9271 hoàn toàn. + Những đàn lợn còi tách riêng ra cho uống sữa trực tiếp. * Chăm sóc và quản lý lợn con theo mẹ - Chăm sóc là khâu quan trọng nhất trong việc nuôi dưỡng lợn con thời kỳ bú sữa vì đây là thời kì lợn con chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện ngoại cảnh. Nếu điều kiện ngoại cảnh bất lợi, rất dễ gây ra tỉ lệ hao hụt lớn ở lợn con. + Chuồng nuôi: Phải được vệ sinh trước khi lợn mẹ đẻ. Nền chuồng phải luôn sạch sẽ, khô ráo, ấm về mùa đông, mát về mùa hè và đảm bảo nhiệt độ, độ ẩm thích hợp cho lợn con. + Mài nanh, cắt đuôi và bấm tai, thiến Mài nanh: Dùng máy mài nanh, số nanh phải mài là 8 cái, trong đó gồm 4 răng nanh và 4 răng cửa sau. Không mài nanh quá nông vì mài nông răng vẫn còn nhọn dễ làm tổn thương vú lợn mẹ khi lợn con bú, mài quá sâu (sát lợi) dễ gây viêm lợi cho lợn con. * Cắt đuôi: Để tránh hiện tượng cắn đuôi nhau nên cắt đuôi cho lợn con mới sinh ra trong vòng 24 giờ để giảm Stress cho lợn con. Sử dụng kéo bấm đã sát trùng để cắt đuôi lợn hoặc dùng kéo điện đã cắm điện. * Bấm tai: Tiến hành sau đẻ 1 ngày với những con không để làm giống. Cắt đúng vị trí, đúng số quy định, vết cắt gọn, không cắt quá nông hoặc quá sâu. Chấm cồn sát trùng vào vị trí làm thủ thuật, cho uống kháng sinh phòng bị viêm. Thiến: Tiến hành thiến khi lợn con được 4 – 5 ngày tuổi. Dốc ngược lợn, cố định chắc chắn, đúng cách; xác định đúng vị trí cần rạch đảm bảo không sót cà; vết thiến phải gọn và chấm cồn sát trùng vào vị trí thiến. Kết quả chăm sóc lợn con tại cơ sở thực tập được trình bày ở bảng 4.3.
- 41 Bảng 4.3. Kết quả công tác chăm sóc lợn con tại cơ sở Kết quả Số lượng Nội dung công việc (con) An toàn (con) Tỷ lệ (%) Mài nanh 520 520 100 Bấm số tai 520 520 100 Cắt đuôi 520 520 100 Thiến 150 148 98,6 Tập ăn sớm cho lợn con 500 500 100 Kết quả bảng 4.3 cho thấy, công tác chăm sóc lợn con tại trại rất tốt. Trong 6 tháng thực tập em đã trực tiếp mài nanh, bấm tai và cắt đuôi cho 520 con đạt tỷ lệ an toàn 100%. Lợn con sau sinh phải mài nanh luôn, nếu không sẽ làm tổn thương vú lợn mẹ khi bú, cũng như tránh việc lợn con cắn nhau. Bấm tai, cắt đuôi sớm để vết thương mau liền, ít chảy máu, giảm được Strees cho lợn con, nên công việc bấm tai, cắt đuôi cũng hết sức quan trọng đối với lợn con sau sinh. Việc tập ăn sớm cho lợn con giúp tăng cường sự phát triển và khả năng hoàn thiện của bộ máy tiêu hóa, do kích thích đường tiêu hóa của lợn con sản sinh ra men tiêu hóa. Đồng thời lợn con được bù đắp thêm dinh dưỡng từ thức ăn bên ngoài khi lượng sữa dần ít đi và lợn con ít bị hao hụt sau cai sữa. Chính vì vậy khi lợn con được 5 ngày tuổi trại đã cho lợn tập ăn sớm. Trong 6 tháng thực tập em đã thực hiện được 500 lần đạt tỷ lệ 100%. Đã trực tiếp tham gia thiến cho 150 lợn con đạt tỷ lệ an toàn 98,6% 4.2. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng và trị bệnh cho lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ tại cơ sở 4.2.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch Định kỳ vệ sinh môi trường xung quanh chuồng trại như: Khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm, rắc vôi, dội vôi sút, phun sát trùng cũng như diệt động vật mang mầm bệnh: chuột, ruồi, Định kỳ phun sát trùng chuồng trại, tẩy rửa sàn
- 42 chuồng. Hàng ngày em cùng với công nhân vệ sinh chuồng trại và phun sát trùng phương tiện ra vào chuồng trại kết quả thực hiện được trình bày ở bảng 4.4. Bảng 4.4. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch tại trại Khối lượng Khối lượng Kết quả so với công việc cần công việc Công việc nhiệm vụ được thực hiện thực hiện giao (%) (lần) được (lần) Vệ sinh chuồng trại 180 150 83,3 Quét và rắc vôi đường đi 180 140 77,8 Phun sát trùng 88 50 56,8 Vệ sinh cống rãnh và hố gas 24 20 83,3 Quét mạng nhện 24 18 75 Bảng 4.4 cho ta thấy, việc vệ sinh, sát trùng hàng ngày luôn được trại quan tâm và thực hiện thường xuyên. Theo quy định của trại việc vệ sinh chuồng phun sát trùng và rắc vôi đường đi sẽ được thực hiện ít nhất 1 lần/ ngày và trong 6 tháng thực tập tại trại em đã thực hiện vệ sinh chuồng là 150 lần (đạt tỉ lệ 83,3% so với quy định). Việc phun sát trùng thực hiện được 50 lần (đạt tỉ lệ 56,8%). Quét và rắc vôi đường đi thực hiện được 140 lần (đạt tỉ lệ 77,8%). Vệ sinh cống rãnh và hố gas được thực hiện 1 tuần/lần, đã tham gia 20 lần (đạt tỉ lệ 83,3%). Quét mạng nhện thực hiện được 18 lần (đạt tỉ lệ 75%). Nếu điều kiện môi trường mưa hay độ ẩm cao hoặc nhiệt độ xuống thấp thì sẽ không xả vôi để tránh cho lợn bị nhiễm lạnh. Thông qua việc trực tiếp thực hiện các công việc trên, em đã biết được cách thực hiện vệ sinh, sát trùng trong chăn nuôi như thế nào cho hợp lý nhằm hạn chế được dịch bệnh cũng như nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi.
- 43 4.2.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại bằng thuốc và vắc xin Bảng 4.5. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn con nuôi tại trại Số con Vắc xin/ Liều Số con Ngày tuổi Đường phòng Phòng bệnh Thuốc/chế lượng an toàn phòng đưa thuốc bệnh phẩm (ml/con) (con) (con) Thiếu máu Irondextran Tiêm bắp 2 970 970 2 2g/20 ml Tiêu chảy Hamcolifor Uống nước/10 970 760 con 3 Cầu trùng Newcocin Uống 1 960 960 7-10 Suyễn Hylogen Tiêm bắp 2 940 940 26-30 Circo Circovac Tiêm bắp 0,5 915 915 Qua kết quả bảng 4.5, có thể thấy kết quả tổng quát về việc phòng và trị bệnh cho đàn lợn con tại trại bằng thuốc và vắc xin. Lợn con được 2 – 3 ngày tuổi được tiêm Inondextran để phòng thiếu sắt, thuốc phòng trị cầu trùng và nâng cao sức đề kháng cho lợn con, 100% lợn con sau khi sinh sẽ được tiêm. Đã trực tiếp tiêm Inondextran cho 970 lợn con được 2 ngày tuổi, đạt an toàn 100%, nhỏ thuốc Hamcolifor phòng tiêu chảy cho 970 lợn con, an toàn 760 con đạt 78,35%. Khi lợn con được 3 ngày tuổi cho uống Newcocin phòng bệnh cầu trùng, đã tiến hành tiêm cho 960 lợn con, tất cả đều an toàn. Khi lợn con được 7 – 10 ngày tiêm bắp vắc xin Halogen phòng suyễn, đã trực tiếp tiêm phòng cho 940 lợn con, an toàn 100%. Lợn con từ 26 – 30 ngày tiến hành tiêm vắc xin Circovac để phòng bệnh Circo. Trong thời gian thực tập, đã tiêm cho 915 lợn con, đạt an toàn 100%. Ngoài tiêm phòng vắc xin cho lợn con, còn tiêm phòng vắc xin phòng dịch cho lợn nái sau đẻ, kết quả thể hiện ở bảng 4.6. Bảng 4.6. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái nuôi con bằng vắc xin
- 44 Số con Số con Đường Liều Ngày Tên vắc phòng an Tên bệnh đưa lượng sau đẻ xin bệnh toàn vắc xin (ml) (con) (con) Porcilis Tiêm 6 Tai xanh 2 120 120 PRRS bắp Sau 21 Tiêm Dịch tả (CSF) Dịch tả 2 360 360 ngày bắp Kết quả bảng 4.6 cho thấy, phòng bệnh cho lợn nái sau đẻ tại trại thực hiện rất tốt. Trong quá trình thực tập tại trại em đã tham gia làm vắc xin tai xanh cho 120 lợn nái và vắc xin dịch tả cho 360 lợn nái, tất cả đều an toàn 100%, đạt yêu cầu an toàn bệnh. 4.2.3. Kết quả thực hiện điều trị bệnh cho đàn lợn nuôi tại trại Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con Số lợn Tỷ lệ Số lợn điều điều trị STT Tên bệnh Phác đồ điều trị khỏi trị (con) khỏi (%) (con) Ampiseptryl tiêm bắp, 1 ml/con + Smecta cho 1 Tiêu chảy 210 180 85,71 uống 2g/20 ml nước/10 con liên tục 3-5 ngày Dùng Tiamulin: 1,5ml/con. Tiêm bắp, 2 Viêm phổi 125 108 86,30 ngày/lần. Điều trị từ 3 – 6 ngày Trong thời gian thực tập tại trại tôi đã tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con cùng với các kỹ sư của trại. Qua đó đã được
- 45 trao dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và các biện pháp điều trị bệnh. Kết quả của công tác chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nuôi tại trại được trình bày ở bảng 4.7 và 4.8 Kết quả bảng 4.7 cho thấy, đã tham gia điều trị 210 lợn con bị tiêu chảy trong quá trình thực tập. Tuy nhiên, chỉ thực hiện điều trị khỏi 180 lợn con, đạt 85,71%. Kết quả đạt như vậy là do sức đề kháng lợn con còn yếu và trong tháng 6 xảy ra dịch tiêu chảy cấp (PED) làm giảm sức đề kháng, gây tổn thất nghiêm trọng cho đàn lợn tại trại. Trong thời gian thực tập, tôi cũng đã tham gia điều trị 125 lợn con bị viêm phổi, điều trị khỏi 108 con, đạt 86,3%. Qua việc tham gia chẩn đoán, điều trị bệnh cho đàn lợn con nuôi tại trại, tôi đã thấy tự tin hơn và có thêm nhiều kinh nghiệm hữu ích cho công việc của tôi sau khi ra trường. Kết quả công tác điều trị bệnh trên đàn lợn nái được trình bài ở bảng 4.8. Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái Số lợn Tỷ lệ Số lợn điều điều trị TT Tên bệnh Phác đồ điều trị khỏi trị (con) khỏi (%) (con) Dùng Oxytocin 2ml/con, cồn iod 10% làm sạch tử Viêm tử 1 12 cung + tiêm Clamoxon 7 58,33 cung 20ml/con/ngày. Điều trị 3-5 ngày. Chườm nước đá lạnh Tiêm Diclofenac kết hợp 2 Viêm vú 10 với tiêm Clamoxon: 8 80,00 20ml/con/ngày. Điều trị 3-5 ngày.
- 46 Kết quả bảng 4.8 cho thấy: Hiệu quả tác dụng của thuốc đối với một số bệnh sinh sản trên đàn lợn nái nuôi tại trại đạt tỷ lệ từ 58,33% đến 80%. Lợn mắc bệnh viêm tử cung ở trại là 12 con, nguyên nhân do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi cao độ với điều kiện của nước ta, như nuôi dưỡng, chăm sóc chưa thật tốt và thời tiết không thuận lợi, và đây chính là nguyên nhân cơ bản gây nên bệnh viêm tử cung của lợn nái. Mặt khác, do trong quá trình phối giống cho lợn nái bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Hoặc do quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai làm cho vi khuẩn từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập vào gây viêm. Trại dùng Oxytocin liều 2 ml/con để tăng cường co bóp cơ trơn tử cung, giúp đẩy nhau thai, sản dịch ra ngoài nhanh hơn. Dùng cồn iod 10% làm sạch tử cung, kết hợp dùng kháng sinh để điều trị và phòng viêm nhiễm tái phát bằng Clamoxon với liều lượng là 20 ml/con/ngày. Điều trị trong 3 – 5 ngày. Sau khi nhau thai, dịch tử cung ra hết, dùng nước muối sinh lý 0,9 % để rửa tử cung trong 3 ngày liên tục. Trong tổng số 12 nái được điều trị thì chỉ điều trị khỏi 7 nái, đạt tỷ lệ 58,33%. Kết quả này là do 1 số nái đã quá già và đã bị viêm khá nhiều lần nên không thể chữa khỏi, thông thường trại sẽ loại thải những lợn nái này. Lợn mắc bệnh viêm vú là 10 con, nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, vi khuẩn theo máu đến vú gây viêm vú, ngoài ra còn có thể do trong quá trình mài nanh ở lợn con sơ sinh chưa tốt, trong quá trình lợn con bú sữa gây tổn thương đầu núm vú lợn mẹ. Áp dụng biện pháp điều trị viêm vú, phong bế giảm đau bầu vú bằng cách chườm nước đá lạnh (cục bộ), vắt sữa ở vú bị viêm 4 - 5 lần/ngày cho hết sữa để hạn chế việc lây lan từ vú viêm sang vú lành. Sử dụng Diclofenac kết hợp với tiêm Clamoxon: 20ml/con/ngày. điều trị trong 3 - 5 ngày kết hợp vệ sinh sạch sẽ sàn
- 47 chuồng và vệ sinh sát trùng vùng vú bị viêm. Điều trị 10 lợn nái mắc viêm vú, khỏi 8 con, tỷ lệ khỏi 80%. Những con nái sau quá trình điều trị nhưng không có kết quả tốt trại thường loại thải theo lịch loại thải của công ty. 4.3. Công tác khác Ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn em còn tham gia một số công việc như: đỡ đẻ cho lợn nái, thiến lợn đực con, mài nanh, bấm tai lợn con, truyền dịch lợn nái, vắt sữa đầu lợn nái sắp đẻ và đang đẻ cho lợn con còi uống. Đồng thời tham gia các công việc bên ngoài chuồng như: bốc cám, hỗ trợ sửa chữa chuồng trai, kết quả trình bày ở bảng 4.9. Bảng 4.9. Kết quả thực hiện các công tác khác Thực Kết quả (an toàn/khỏi) STT Nội dung công việc hiện Số lượng Tỷ lệ (con) (con) (%) 1 Đỡ đẻ cho lợn 375 368 98,1 2 Trực đẻ 375 375 100 3 Xuất lợn con 450 450 100 4 Loại thải nái già 7 7 100 5 Truyền dịch cho lợn nái 5 4 80 Ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn, em còn tham gia một số công việc sau: - Trực và đỡ đẻ cho lợn: Trước khi đỡ đẻ chuẩn bị khăn lau, ổ úm lợn con, máy bấm nanh, panh kẹp, kéo, bông cồn, xilanh, thuốc Oxytocine, dây buộc rốn. Em đã tham gia đỡ đẻ 375 ca, trong đó có 368 ca đẻ an toàn, 7 ca phải can thiệp, tuy nhiên vẫn giữ được số lượng lợn con sơ sinh an toàn và đạt tiêu chuẩn.
- 48 Khi lợn con đẻ ra dùng khăn lau sạch nhớt ở mũi, miệng, toàn thân, thắt rốn, sau đó dùng bông cồn sát trùng vị trí cắt rốn và xung quanh gốc rốn. Cho lợn con nằm sưởi dưới bóng điện hồng ngoại 30 phút sau đó cho lợn con bú sớm sữa đầu. Khi lợn nái đẻ xong tiêm Oxytocine: 2ml/con nhằm co bóp đẩy hết dịch bẩn ra ngoài và tiêm kháng sinh Vetrimoxin: 1ml/10kgTT/con/ngày nhằm mục đích phòng bệnh viêm tử cung. - Truyền nước sinh lý: Nái sau khi đẻ mệt mỏi, bỏ ăn hoặc ăn ít tiến hành truyền 1 lít dung dịch đường glucoza 5%/con. Em tham gia truyền cho 5 con, an toàn 4 con, đạt 80%. - Xuất bán lợn con cho các trang trại hay hộ chăn nuôi cần giống tốt để chăn nuôi nhanh đạt hiệu quả. Em đã tham gia xuất 450 con, an toàn 100%. - Chăm sóc lợn con: Lợn con sau khi sinh ra, ngoài các công việc như lau khô, bấm nanh, cắt đuôi, bấm số tai, cho bú sữa đầu, cần luôn luôn giữ nhiệt độ ổn định phù hợp với lợn con. Sau khi đẻ 1 ngày thì tiêm Iron dextran 20%, sau 2 ngày đẻ thì nhỏ thuốc phòng tiêu chảy và hô hấp. Ngoài ra, cũng đã tham gia loại thải 7 nái đã quá già, tỷ lệ sinh sản kém.
- 49 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trang trại sinh thái Thanh Xuân, em đã theo dõi và thực hiện một số công việc sau: - Về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng: Trại đã xây dựng được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ phù hợp, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi lợn nái và lợn con. Đã trực tiếp tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái nuôi con với tổng số 375 nái + Cho nái ăn hằng ngày 360 lần, tập ăn sớm cho 500 lợn con + Vệ sinh trước đẻ và sau đẻ đạt 66,4 – 66,7%; truyền dịch cho 5 lợn nái đạt an toàn 80% + Đỡ đẻ cho 368 lợn nái, đạt 98,1% và tiêm kháng sinh phòng nhiễm đạt 66,4% + Mài nanh, bấm số tai và cắt đuôi an toàn 100%; thiến đạt 98,6% - Về công tác phòng bệnh: Đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại được tiêm phòng đầy đủ, đã thực hiện công tác phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho đàn lợn đạt tỷ lệ an toàn 100 %. + Tham gia phòng bệnh cho đàn lợn con bằng phương pháp vệ sinh, sát trùng chuồng trại: Thực hiện vệ sinh chuồng trại hàng ngày, quét và rắc vôi đường đi đạt kết quả từ 56,8% đến 83,3% so với công việc thực hiện tại trại. - Trại đã xây dựng được quy trình và phác đồ điều trị bệnh ở lợn nái và lợn con phù hợp và cho hiệu quả cao: Tỷ lệ điều trị khỏi bệnh viêm tử cung và viêm vú ở lợn nái lần lượt là: 58,33% và 80%; tỷ lệ điều trị khỏi bệnh tiêu chảy và viêm phổi ở lợn con lần lượt là 85,71% và 86,3%. - Trong quá trình thực tập, em đã học hỏi và được chỉ dạy rất nhiều điều về kiến thức cũng như các thao tác kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng. Em luôn nỗ lực hoàn thành tốt tất cả các công việc do chủ trại, ban quản lý và kỹ thuật của trại giao cho như: Đỡ
- 50 đẻ, mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi, thiến, tiêm sắt, điều trị lợn con tiêu chảy và điều trị bệnh viêm tử cung và viêm vú ở lợn nái 5.2. Đề nghị Xuất phát từ thực tế của trại, qua phân tích đánh giá bằng hiểu biết của mình, em có một số ý kiến nhằm nâng cao hoạt động của trại như sau: - Trại lợn cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái để giảm tỷ lệ lợn nái mắc bệnh. - Đầu tư nâng cấp thêm về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, dụng cụ thú y. - Tăng cường công tác chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý, thực hiện tốt công tác vệ sinh thú y. - Cần nâng cao tay nghề cho đội ngũ kỹ thuật của trại cũng như là công nhân tại trại nhằm nâng cao chất lượng phục vụ sản xuất. - Cần chú ý tới việc sử dụng nước trong chuồng để chuồng luôn khô ráo, làm giảm tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc bệnh tiêu chảy. - Đưa khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, cố gắng thực hiện tốt mục tiêu và phương hướng đã đề ra.
- TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh lợn nái - lợn con - lợn thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 29 - 35. 2. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016), “Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập XXIII (số 5), tr. 51 - 56. 3. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản lợn nái và sinh lý lợn con, Nxb Nông nghiệp, TP Hồ Chí Minh. 4. Đoàn Thị Kim Dung (2004), Sự biến động của một số vi khuẩn hiếu khí đường ruột, vai trò của E.coli trong hội chứng têu chảy của lợn con , các phác đồ điều trị, Luận án Tiến sĩ Nông Nghiệp, Hà Nội. 5. Khuất Văn Dũng (2005), Thực trạng khả năng sinh sản và hiện tượng rối loạn sinh sản, ứng dụng hormone và chế phẩm hormone điều trị một vài hiện tượng rối loạn sinh sản trên đàn bò cái nuôi tại nông trường Hữu Nghị Việt Nam - Mông Cổ, Ba Vì, Hà Tây, Luận văn Thạc sĩ Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp. 6. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E.coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện pháp phòng trị, Luận văn Thạc sỹ khoa học Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiêp,̣ Hà Nội. 8. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng (1996), Bệnh ở lợn nái và lợn con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 44 - 81. 9. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ.
- 10. Hội Chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn nái tại 3 tỉnh phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp. 12. Nguyễn Ðức Hùng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huê Viên, Phan Vãn Kiểm (2003), Giáo trình Truyền giống nhân tạo vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Hoàng Phú Hiệp (2014), Nghiên cứu phát triển kỹ thuật phát hiện chủng vi khuẩn Escherichia coli O157:H7 và tạo kháng thể tái tổ hợp đặc hiệu, Luận án Tiến sĩ sinh học, Đại học Thái Nguyên. 14. Lý Thị Liên Khai (2001), “Phân lập, xác định độc tố ruột của các chủng E.coli gây tiêu chảy cho lợn con”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y. Số 2. 15. Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Minh, Nguyễn Thị Ngân (2006), “Một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở lợn tại Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học Kĩ thuật Thú y, tập XIII (4), 92 - 96. 16. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), “Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, tập II, tr. 44 - 52. 17. Phạm Sỹ Lăng (2009), “Bệnh tiêu chảy do vi khuẩn ở lợn và biện pháp phòng trị”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập XVI (số 5), tr. 80 - 85. 18. Lê Minh, Nguyễn Văn Quang, Phan Thị Hồng Phúc, Đỗ Quốc Tuấn, La Văn Công (2017), Giáo trình thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 19. Nguyễn Thị Hồng Minh (2014), Nghiên cứu biến đổi của một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội. 20. Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2002), Bệnh sản khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- 21. Nguyễn Thị Oanh (2003), Tình hình nhiễm và một số yếu tố gây bệnh của vi khuẩn salmonella ở vật nuôi tại Đắk Lắk, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội. 22. Popkov (1999), “Điều trị viêṃ tử cung”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập XII (số 5), tr. 9 - 15. 23. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình Chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tài liệu tiếng Anh 24. Christensen R. V., Aalbaek B., Jensen H. E. (2007), “Pathology of udder lesions in sows”, J. Vet. Med. A Physiol. Patho.l Clin. Med., 54(9), p 491. 25. Faibrother J.M. (1992), Enteric Colibacillosis Diseases of swine. IOWA state university press/amess, IOWA. USA. 7th edition, PP. 489-497.3471 26. Glawisschning E., Bacher H. (1992), The efficacy of costat on E. coli infected weaning pigs. 12th IPVS congress, August 17 - 22, p 182. 27. Hughes., James (1996), Maximising pigs production and reproduction, Compus, hue University of Agriculture and Forestry, September. 28. Jose Bento S., Ferraz., Rodger K., Johnson. (2013), Animal model estimation of genetic parameters and response to selection for litter size and weight, growth, and backfat in closed seedstock populations of large white and Landrace swine, Department of Animal Science, December 4, 2013, University of Nebraska, Lincoln 68583 – 0908 29. Nagy B., Fekete PZS. (2005), Enterotoxigenic Escherichia coli in veterinary medicine, Int J Med Microbiol, p 295. 30. Purvis G.M. (1985), Diseases of the newborn, Vet. Rec, PP. 116- 293. 31. Radosits O. M., Blood D. C., Gay C. C. (1994), “Veterinary medicine” A textbook of the diseases of cattle, sheep, pigs, goats and horses, Night edition. 32. Smith., Martineau B. B. G., Bisaillon, A. (1995), Mammary gland and lactation problems in disease of swine, 7th edition, Iowa state university press, p. 40 - 57
- MỘT SỐ ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Ảnh 1. Thuốc Ampiseptryl dùng điều Ảnh 2. Thuốc New Coccin trị cầu trị tiêu chảy phân trắng trùng cho lợn con Ảnh 3. Thuốc kháng sinh Amox Ảnh 4. Thuốc Iron dextran 20% tiêm lợn con