Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng và trị bệnh cho đàn lợn tại trại công ty Phát Đạt - thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

pdf 69 trang thiennha21 19/04/2022 3080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng và trị bệnh cho đàn lợn tại trại công ty Phát Đạt - thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_hien_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_phong_va_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng và trị bệnh cho đàn lợn tại trại công ty Phát Đạt - thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM VY THỊ THU TRANG Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG, PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN TẠI TRẠI CÔNG TY PHÁT ĐẠT - THỊ XÃ PHÚC YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2014 - 2019 Thái Nguyên - năm 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM VY THỊ THU TRANG Tên chuyên đề: THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG, PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CHO ĐÀN LỢN TẠI TRẠI CÔNG TY PHÁT ĐẠT - THỊ XÃ PHÚC YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp: K46 - TY - N02 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2014 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thu Quyên Thái Nguyên - năm 2018
  3. i LỜI CẢM ƠN Thực tập tốt nghiệp Đại học là một học phần cần thiết và rất quan trọng đối với mỗi sinh viên trước khi ra trường, nhằm rèn luyện về kĩ năng, tay nghề, áp dụng được những kiến thức lý thuyết đã học vào trau dồi thêm kinh nghiệm cho công việc sau này. Sau một thời gian học tập tại trường và thực tập tại cơ sở, đến nay em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình. Để có được kết quả này ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, em luôn nhận được sự động viên hướng dẫn chỉ bảo tận tình, tạo điều kiện và đóng góp những ý kiến quý báu của các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên trong suốt thời gian thực hiện đề tài. Thông qua khóa luận này, cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn tới: Ban giám hiệu và toàn thể các thầy cô giáo khoa Chăn nuôi Thú y Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đặc biệt là cô giáo TS. Nguyễn Thu Quyên đã luôn động viên giúp đỡ, chỉ bảo tận tình, đóng góp ý kiến quý báu cho em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học này. Em xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo công ty Phát Đạt và các anh, chị cán bộ kỹ thuật, các cán bộ công nhân viên của trại lợn đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất, hướng dẫn kỹ thuật cho em trong thời gian thực tập. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của gia đình và bạn bè trong suốt khóa học. Em xin chân thành cảm ơn và kính chúc toàn thể các thầy cô giáo lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt trong cuộc sống. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng năm 2018 Sinh viên Vy Thị Thu Trang
  4. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Kết quả sản xuất của trại 7 Bảng 3.1. Lịch sát trùng trại lợn nái 37 Bảng 4.1. Kêt quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại 45 Bảng 4.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn con tại trại 46 Bảng 4.3 Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái 47 Bảng 4.4 . Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn con tại trại 48 Bảng 4.5 Kết quả thực hiện phẫu thuật trên đàn lợn con 49 Bảng 4.6. Số lượng lợn nái chửa, nái nuôi con, lợn con và lợn thịt trực tiếp chăm sóc trong 6 tháng thực tập 50 Bảng 4.7. Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn 51
  5. iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADN: Deoxyribonucleic acid ARN: Ribonucleic acid Cs: Cộng sự E. coli Escherichia Coli Kg: Kilogam LMLM: Lở mồm long móng M: Mét MMA: Metritis Mastitis Agalactia Ml: Mililit Mg: Miligam Nxb: Nhà xuất bản TT: Thể Trọng Tr: Trang
  6. iv MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT iii MỤC LỤC iv Phần 1: MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề 2 Phần 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Vị trí địa lý 3 2.1.2. Điều kiện khí hậu 3 2.1.3. Cơ cấu tổ chức của trại 4 2.1.4. Cơ sở vật chất của trại 4 2.1.5. Thuận lợi và khó khăn của trại 6 2.1.6. Đối tượng và các kết quả sản xuất của trang trại 7 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 8 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 8 2.2.3. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 20 2.2.4. Những hiểu biết về quy trình phòng bệnh cho đàn lợn. 23 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 31 2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước 31 Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 35 3.1. Đối tượng theo dõi 35 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 35 3.3. Nội dung thực hiện 35
  7. v 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 35 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi 35 3.4.2. Phương pháp thực hiện 35 3.4.3. Quy trình xuất bán lợn 44 3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu 44 Phần 4: KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ 45 4.1. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh tại trại 45 4.1.1. Phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh, sát trùng tại trại 45 4.1.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại bằng thuốc và vaccine . 46 4.2. Kết quả công tác chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn tại trại 47 4.2.1 Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái 47 4.2.2. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn con theo mẹ và lợn thịt giai đoạn sau cai sữa đến xuất bán 48 4.2.3. Kết quả thực hiện biện pháp phẫu thuật trên đàn lợn con tại trại . 49 4.3 Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn 50 Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 53 5.1. Kết luận 53 5.2. Đề nghị 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
  8. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Quy trình làm việc bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng trong bất cứ ngành nghề nào. Khi công việc được thực hiện theo quy trình, mọi khâu xử lý sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn, hay có thể nói mỗi người đều biết việc cụ thể cần làm khi nhìn vào quy trình. Do đó, quy trình là căn cứ để làm việc đúng và hiệu quả. Trong chăn nuôi cũng vậy, việc áp dụng quy trình chăn nuôi sẽ giúp cho người chăn nuôi có được cái nhìn tổng quát những việc cần làm, khi phát sinh bất cứ vấn đề khiến hiệu quả chăn nuôi giảm xuống, người chăn nuôi có thể dựa vào quy trình để xác định điểm thực hiện chưa đúng và có biện pháp điều chỉnh. Với việc áp dụng quy trình chăn nuôi sẽ giúp cho công việc chăn nuôi tại các trang trại lớn, nhỏ trở nên chuyên nghiệp hơn, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm công và sức lao động. Trong những năm gần đây, nhờ việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, ngành chăn nuôi lợn ở nước ta đã có những bước phát triền lớn như: tổng đàn lợn tăng, cơ cấu đàn lợn đa dạng, năng suất cao, khả năng phòng bệnh tốt Các nhà khoa học cũng không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất chăn nuôi. Là một sinh viên được đào tạo trong nhà trường, việc áp dụng các kiến thức nền tảng đã được học vào thực tiễn sản xuất là một việc làm cần thiết. Để nâng cao kỹ năng nghề cho sinh viên trước khi ra trường, mỗi sinh viên phải có thời gian thực tập tại các trại chăn nuôi. Thông qua các hoạt động trực tiếp tại trại sẽ giúp sinh viên củng cố kiến thức đã được học và nâng cao tay nghề. Xuất phát từ nhu cầu của sinh viên cũng như những đòi hỏi của thực tiễn sản xuất, em đã tiến hành thực hiện chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng và trị bệnh cho đàn lợn tại trại công ty Phát Đạt – thị xã Phúc Yên – tỉnh Vĩnh Phúc”.
  9. 2 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục tiêu - Rèn luyện thành thạo các kỹ năng trong quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái và lợn con theo mẹ. - Rèn luyện và nâng cao kỹ năng chẩn đoán lâm sàng trên lợn bị bệnh. - Tập kê đơn và điều trị bệnh cho đàn lợn mắc bệnh. - Tìm hiểu cách quản lý, tổ chức của một trang trại chăn nuôi 1.2.2. Yêu cầu - Nắm vững các nguyên tắc phòng trị bệnh cho vật nuôi nói chung. - Thành thạo các kỹ năng nuôi dưỡng, chăm sóc chẩn đoán lâm sàng và mổ khám bệnh tích trên đàn lợn nái và lợn con theo mẹ - Đưa ra được phác đồ điều trị đối với một số bệnh thường gặp ở đàn lợn nái và lợn con theo mẹ. - Thực hiện tốt các yêu cầu, quy định tại cơ sở
  10. 3 Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Vị trí địa lý Trang trại chăn nuôi lợn Phát Đạt thuộc thôn Cao Quang, xã Cao Minh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Thị xã Phúc Yên có địa hình đa dạng, có cả nông thôn và đô thị, có vùng đồi rừng, bán sơn địa, vùng đồng bằng. Trang trại nằm trên vùng bán sơn địa thuộc xã Cao Minh. + Phía Đông giáp phường Xuân Hòa + Phía Tây giáp xã Nam Viêm. + Phía Nam giáp xã Bá Hiến. + Phía Bắc giáp xã Ngọc Thanh. Đây là điều kiện khá thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán giữa các xã, huyện thành bên cạnh. 2.1.2. Điều kiện khí hậu Khí hậu là yếu tố quan trọng trong đời sống sinh hoạt của người dân cũng như trong chăn nuôi. Nó quyết định đến sự phát triển của ngành nông nghiệp trong đó có trồng trọt và chăn nuôi, mà hiện nay chăn nuôi đang có xu hướng tăng mạnh. Xã Cao Minh cũng như thị xã Phúc Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ bình quân năm là 230C, có nét đặc trưng nóng ẩm mưa nhiều về mùa hè, hanh khô kéo dài và lạnh về mùa đông. Nhiệt độ không khí có nét đặc trưng sau: cực đại trung bình năm 20,50C, cực đại tuyệt đối là 41,60C, cực tiểu tuyệt đối là 3,10C. Độ ẩm không khí tương đối trung bình năm là 83%, độ ẩm cực tiểu tuyệt đối là 16%.
  11. 4 Hướng gió chủ yếu về mùa đông là Đông - Bắc, về mùa hè là Đông - Nam, vận tốc gió trung bình năm là 2,4m/s. Khí hậu tương đối cho phát triển nông nghiệp đa dạng. Nhìn chung điều kiện khí hậu của xã khá là thuận lợi cho nông nghiệp phát triển cả về trồng trọt và chăn nuôi. Tuy nhiên, có những tháng bất lợi như mùa hè nhiệt độ, độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật phát triển và gây bệnh. Chính vì vậy việc phòng và trị bệnh cho đàn gia súc khá là quan trọng. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức của trại Cơ cấu của trại được tổ chức như sau: + 01 giám đốc công ty. + 01 trưởng trại. + 01 kĩ sư + 05 công nhân. + 06 sinh viên thực tập 2.1.4. Cơ sở vật chất của trại Trang trại chăn nuôi lợn Phát Đạt là trại tư nhân bắt đầu hoạt động chăn nuôi từ năm 2009 với quy mô là 120 nái sau đến năm 2013 công ty có mở thêm quy mô lên 600 nái và 2000 lợn thịt trên diện tích là 3 ha. Cơ sở vật chất ở trại tương đối đầy đủ để phục vụ cho chăn nuôi như: hệ thống nước, hệ thống điện, kho cám, kho thuốc, phòng pha tinh - Hệ thống chuồng xây dựng khép kín hoàn toàn. Phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối chuồng có 3 quạt thông gió đối với các chuồng đẻ, chuồng bầu, chuồng thịt, 2 quạt thông gió đối với chuồng cách ly và 2 quạt thông gió đối với chuồng lợn đực và chuồng lợn loại. Hai bên tường có dãy cửa sổ lắp kính. Mỗi cửa sổ có diện tích 1,5m2, cách nền 1,2m, mỗi cửa sổ cách nhau 40cm. Trên trần được lắp hệ thống chống nóng bằng tôn lạnh.
  12. 5 - Hệ thống điện: nguồn cấp điện có điện lưới và máy phát dự phòng. Đối với chuồng bầu, hệ thống điện được cung cấp đầy đủ đảm bảo độ sáng phục vụ cho công tác chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái bầu. - Hệ thống nước trong khu chăn nuôi đều là nước giếng khoan. Nước uống cho lợn được cấp từ hai bể lớn, một bể xây dựng ở đầu chuồng thịt 1 và một bể ở đầu chuồng đẻ 2. Nước tắm và nước xả gầm, phục vụ cho công tác khác, được bố trí từ các bể lọc và được bơm qua hệ thống ống dẫn tới bể chứa ở giữa các chuồng. - Phòng pha tinh của trại được trang bị các dụng cụ hiện đại như: kính hiển vi, thiết bị cảm ứng nhiệt, các dụng cụ đóng liều tinh, nồi hấp cách thủy và một số thiết bị khác - Hệ thống xử lý môi trường: chất thải được xử lý bằng hệ thống biogas trước khi thải ra môi trường, có điểm tiêu chất thải, có giàn khử mùi phía sau quạt hút gió, có hố hủy lợn xa khu vực chăn nuôi. - Một số dụng cụ và trang thiết bị khác: tủ lạnh bảo quản vaccine, tủ thuốc để bảo quản và dự trữ thuốc cho trại, xe chở cám từ nhà kho xuống chuồng, máy nén khí phun sát trùng di động khu vực ngoài chuồng nuôi. - Trại có một nhà khách, một phòng họp, ba dãy nhà ở công nhân viên, ba khu vệ sinh và nhà tắm cho công nhân viên cũng như khách thăm trại và một nhà bếp ăn. - Tổng trại có 10 chuồng nuôi, trong đó có: hai chuồng đẻ với 92 ô đẻ, hai chuồng bầu với 246 ô bầu, một chuồng đực với 9 ô đực, một chuồng hậu bị có ba ô quy mô là 50 con/ lứa, một chuồng cai sữa có 26 ô quy mô là 650 con/lứa và ba chuồng thịt có 16 ô quy mô là 2000 lợn thịt/lứa. Hiện nay công ty có 24% là giống bố mẹ nhập từ công ty Greenfeed Việt Nam, có 7% là giống ông bà nhập từ xí nghiệp Đồng Hiệp Hải Phòng để sản xuất và gây nái. Còn lại 69% là giống bố mẹ nhập từ công ty CP Việt Nam. Trại có 2 đực ông, 5 đực bố để phối giống và 2 đực làm đực thí tình.
  13. 6 2.1.5. Thuận lợi và khó khăn của trại 2.1.5.1. Thuận lợi Qua thời gian thực tập tại tại trang trại công ty Phát Đạt đề tài có một số nhận định như sau: Trang trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi: xa khu dân cư, thuận tiện đường giao thông. Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân. Cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn vững vàng, công nhân nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao trong sản xuất. Trang trại công ty xây dựng theo hình thức công nghiệp hóa hiện đại hóa, mọi quy trình chăm sóc nuôi dưỡng theo hình thức khép kín. Nguồn nước được xử lý sạch sẽ đáp ứng đủ cho trang trại. Trang trại nhập các giống lợn ông bà, bố mẹ từ công ty có uy tín như CP, Greenfeed, Xí nghiệp Đồng Hiệp Hải Phòng nên việc phòng và trị bệnh cho lợn nái dễ dàng hơn. 2.1.5.2. Khó khăn Vốn đầu tư ban đầu bỏ ra xây dựng cơ sở vật chất khá lớn. Do yêu cầu nghiêm ngặt của việc phòng bệnh cho đàn lợn vì vậy việc đi lại ra vào khu chăn nuôi hạn chế nhiều vấn đề, nên công nhân thường xuyên xin thôi việc dẫn đến thay đổi công nhân liên tục làm ảnh hưởng đến việc chăm sóc đàn lợn. Giá cả thịt trong ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng trong thời gian vừa qua có những biến động lớn, gây ảnh hưởng tới đầu ra của lợn thịt, làm cho ngành chăn nuôi lợn gặp khó khăn.
  14. 7 2.1.6. Đối tượng và các kết quả sản xuất của trang trại 2.1.6.1. Đối tượng sản xuất Trang trại chuyên nuôi lợn sinh sản, cung cấp 3 giống lợn là Landrace - Yorkshire và Duroc, lợn sau khi cai sữa sẽ được chuyển sang chuồng lợn thịt nuôi đến giai đoạn xuất chuồng. Toàn bộ số lợn thịt sẽ được công ty TNHH Phát Đạt chuyển đến lò mổ của công ty để giết thịt, đóng gói sản phẩm và bán tại các siêu thị. 2.1.6.2. Kết quả sản xuất của cơ sở trong những năm gần đây Bảng 2.1. Kết quả sản xuất của trại Số lợn qua các năm Chỉ tiêu 2016 2017 5/2018 Nái hậu bị (con) 14 12 36 Nái sinh sản (con) 480 302 195 Lợn đưc giống 11 9 9 Lợn con theo mẹ 5284 3599 1325 Lợn thịt 1832 1435 952 Tỷ lệ đậu thai (%) 86,63 87,58 89,64 Số lứa đẻ/nái/năm (con) 2,34 2,33 2,32 Lợn con chết và loại sau sinh (%) 8,37 6,9 6,94 Số lợn con cai sữa/nái/năm (con) 23,01 23,42 25,04 Tổng số lợn con xuất (con) 25.844 16.479 11.328 (Nguồn: Cán bộ kỹ thuật trại) Trang trại lợn công ty TNHH công ty Phát Đạt là một trong những trang trại có quy mô công nghiệp khép kín, với số vốn đầu tư lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, trại luôn đạt kết quả sản xuất cao. Tuy nhiên, do
  15. 8 chịu tác động của nhiều yếu tố bất lợi nên tình hình sản xuất của trại trong 3 năm gần đây có xu hướng giảm. Dưới đây là một số chỉ tiêu của trại từ năm 2016 đến năm 2018: Qua bảng trên ta có thể thấy, từ năm 2016-2018 kết quả sản xuất của trại có xu hướng giảm dần: Số lợn nái sinh sản từ năm 2016 là 480 nái, tới năm 2018 giảm xuống còn 195. Số lợn con xuất từ năm 2016 là 25.844, tới năm 2018 giảm xuống còn 11.328 con. Sở dĩ tình hình sản xuất của trại có xu hướng giảm là do số lượng lợn nái loại tăng lên. Mặt khác, năm 2017 ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam rơi vào khủng hoảng giá, giá lợn giảm xuống thấp và kéo dài, nhiều trang trại nuôi lợn rơi vào tình trạng phá sản, một số trang trại phải giảm số đầu nái để duy trì sản xuất, chính vì lý do đó mà số lượng lợn nái của trại cũng bị giảm mạnh. Ngoài mô hình Chăn nuôi lợn khép kín, Công ty còn đầu tư thêm dây truyền giết mổ đạt tiêu chuẩn, phục vụ cho nhu cầu của trại và một số tỉnh lân cận. Số lợn thịt được nuôi tại trang trại, trước giai đoạn xuất chuồng 1 tháng, trang trại chuyển sang chế độ nuôi với nguồn dinh dưỡng khác, cho lợn ăn thức ăn tự trộn, chủ yếu là ngô, cám gạo, khô đỗ tương để cho thịt lợn ngon hơn. Số lợn này sẽ được công ty chuyển về lò mổ và giết thịt, bao gói và đưa vào hệ thống siêu thị lớn ở một số tỉnh. 2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề 2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 2.2.1.1. Sự thành thục về tính và thể vóc * Sự thành thục về tính Gia súc phát triển đến một giai đoạn nhất định thì sẽ có biểu hiện về tính dục. Con đực có khả năng sinh ra tinh trùng, con cái có khả năng sinh ra tế bào trứng. Theo Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) [20] cho biết thành thục về tính là tuổi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và có khả năng sinh sản. Lúc này tất cả các bộ phận sinh dục như: buồng trứng, tử cung, âm đạo
  16. 9 đã phát triển hoàn thiện và có thể bắt đầu bước vào hoạt động sinh sản. Đồng thời với sự phát triển hoàn thiện bên trong thì ở bên ngoài các bộ phận sinh dục phụ cũng xuất hiện và gia súc có phản xạ về tính hay xuất hiện hiện tượng động dục. Tuy nhiên, thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính biệt và các điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc nuôi dưỡng. + Giống Các giống lợn khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau. Hầu hết các giống lợn nội thì thành thục sớm hơn các giống lợn ngoại, những giống có tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn những giống có tầm vóc lớn. Theo Phạm Hữu Doanh và và Lưu Kỷ (2003) [5], tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng, khi khối lượng đạt từ 20 - 25 kg. Ở lợn nái lai tuổi động dục lần đầu muộn hơn so với lợn nội thuần, ở lợn lai F1 (có sẵn máu nội) động dục bắt đầu lúc 6 tháng tuổi khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55 kg. Lợn ngoại động dục muộn hơn từ 6 - 8 tháng khi đạt 65 - 80 kg. Tùy theo giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý mà lợn có tuổi động dục lần đầu khác nhau. Lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 - 5 tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi), các giống lợn ngoại Yorkshire, Landrace muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi. + Điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn nái. Lợn được nuôi dưỡng với khẩu phần thức ăn đầy đủ, phù hợp nhu cầu dinh dưỡng thành thục sinh dục sớm hơn so với lợn được nuôi dưỡng với khẩu phần thức ăn có giá trị dinh dưỡng thấp. Lợn nái được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng tốt sẽ thành thục ở độ tuổi trung bình là 188,5 ngày (6 tháng tuổi) và nếu hạn chế thức ăn thì sự thành thục về tính sẽ xuất hiện lúc 234,8 ngày (trên 7 tháng tuổi).
  17. 10 + Điều kiện ngoại cảnh Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính của gia súc. Những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành thục về tính sớm hơn những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu ôn đới và hàn đới. Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng tới sự thành thục của lợn nái hậu bị. Nếu ta để một con đực đã thành thục về tính gần ô chuồng của những con nái hậu bị thì sẽ thúc đẩy nhanh sự thành thục về tính của chúng nếu cho lợn nái hậu bị tiếp xúc với đực 2 lần/ ngày, với thời gian 15 - 20 phút thì 83% lợn nái (ngoài 90 kg) động dục lúc 165 ngày tuổi. Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng: mùa hè lợn nái hậu bị thành thục chậm hơn so với mùa thu - đông, điều đó có thể do ảnh hưởng của nhiệt độ trong chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng thấp trong các tháng nóng bức. Những con được chăn thả tự do thì xuất hiện thành thục sớm hơn những con nuôi nhốt trong chuồng 14 ngày (mùa xuân) và 17 ngày (mùa thu). Mùa đông, thời gian chiếu sáng trong ngày thấp hơn so với các mùa khác trong năm, bóng tối còn làm chậm tuổi thành thục về tính so với những biến động ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày. Tuy nhiên, một vấn đề cần lưu ý là tuổi thành thục về tính thường sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc. Vì vậy, để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường của lợn mẹ và đảm bảo những phẩm chất giống của thế hệ sau nên cho gia súc phối giống khi đã đạt một khối lượng nhất định tuỳ theo giống. Ngược lại, cũng không nên cho gia súc phối giống quá muộn vì ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của một đời nái đồng thời ảnh hưởng tới thế hệ sau của chúng. Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [5], không nên cho phối giống ở lần động dục đầu tiên vì ở thời kỳ này cơ thể lợn chưa phát triển đầy đủ, chưa tích tụ được chất dinh dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách hoàn chỉnh. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con nái lâu bền cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục lần đầu rồi mới cho phối giống.
  18. 11 * Sự thành thục về thể vóc Sự thành thục về thể vóc thường diễn ra chậm hơn sự thành thục về tính. Sau một thời kỳ sinh trưởng và phát triển, đến một thời điểm nhất định con vật đạt tới độ trưởng thành về thể vóc. Theo Nguyễn Đức Hùng và cs (2003) [8], tuổi thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, tầm vóc ổn định. Đối với lợn nái nội thường phối giống lần đầu lúc 6 - 7 tháng tuổi khi khối lượng đạt 40 - 50 kg, đối với lợn nái ngoại lúc 8 - 9 tháng tuổi khi khối lượng đạt 115 - 120 kg thì mới nên cho phối giống. 2.2.1.2. Chu kỳ động dục và thời điểm phối giống thích hợp * Chu kỳ động dục Lợn nái sau khi thành thục về tính thì cứ mỗi khoảng thời gian nhất định, cơ quan sinh dục của nó có những biến đổi đặc biệt kèm theo sự rụng trứng và động dục. Hiện tượng này lặp đi lặp lại một cách có chu kỳ gọi là chu kỳ động dục hay chu kỳ tính. Theo Nguyễn Khánh Quắc và cs (1995) [18], chu kỳ động dục của lợn nái bình quân là 21 ngày, thời gian động dục tùy thuộc vào các giống lợn. Lợn nái nuôi con sau đẻ 3 - 4 ngày thường có hiện tượng động dục trở lại nhưng không cho phối vì bộ máy sinh dục chưa phục hồi và trứng rụng chưa đều. Sau cai sữa 3 - 5 ngày lợn nái động dục trở lại, cho phối lúc này lợn sẽ thụ thai, trứng rụng nhiều đạt số lượng con cao (Theo Hội chăn nuôi Việt Nam, 2006) [9]. Một chu kỳ động dục của lợn nái thường được chia làm 4 giai đoạn, đó là giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục và giai đoạn yên tĩnh. + Giai đoạn trước động dục Đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ động dục, thường kéo dài 1 - 2 ngày và được tính từ khi thể vàng của lần động dục trước tiêu biến đến lần động dục
  19. 12 tiếp theo. Đây là giai đoạn chuẩn bị cho đường sinh dục cái tiếp nhận tinh trùng, đón trứng rụng và thụ tinh. Dưới ảnh hưởng của Oestrogen cơ quan sinh dục có nhiều biến đổi như: tế bào vách ống dẫn trứng phát triển có nhiều nhung mao để chuẩn bị đón trứng rụng. Màng nhầy tử cung âm đạo tăng sinh, được cung cấp nhiều máu. Tử cung, âm đạo, âm hộ bắt đầu sung huyết. + Giai đoạn động dục Đây là giai đoạn tiếp theo và thường kéo dài 3 - 5 ngày gồm 3 thời kỳ: trước chịu đực, chịu đực và hết chịu đực. Giai đoạn trước chịu đực: Lợn nái kêu rít, âm hộ sung huyết, chưa cho phối và lợn chưa chịu đực. Thời gian rụng trứng khi có hiện tượng trên đối với lợn ngoại và lợn nái lai là 35 - 40 giờ, với lợn nội là 25 - 30 giờ. Giai đoạn chịu đực: Lợn kém ăn, mê ì, lợn đứng yên khi ấn tay lên lưng gần mông, âm hộ giảm độ sưng, dịch nhờn chảy ra, dính, đục, đứng yên khi có đực đến gần và cho đực nhảy. Giai đoạn này kéo dài 2 ngày, nếu được phối giống lợn sẽ thụ thai, lợn nội có thời gian ngắn hơn 28 - 30 giờ. Giai đoạn sau chịu đực: Lợn trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở, đuôi cụp và không chịu đực. + Giai đoạn sau động dục Đây là giai đoạn kéo dài từ ngày thứ 3 - 4 tiếp theo của giai đoạn động dục, lúc này dấu hiệu hoạt động sinh dục bên ngoài giảm dần, âm hộ teo lại, lợn nái không muốn gần lợn đực, ăn uống tốt hơn. + Giai đoạn yên tĩnh Giai đoạn này thường bắt đầu từ ngày thứ 4 sau khi trứng rụng và không được thụ tinh đến khi thể vàng tiêu biến (khoảng 14 - 15 ngày kể từ lúc rụng trứng). Đây là giai đoạn dài nhất trong cả chu kỳ sinh dục, con vật không có biểu hiện về hành vi sinh dục, là giai đoạn nghỉ ngơi yên tĩnh chuẩn bị cho chu kỳ động dục tiếp theo.
  20. 13 * Thời điểm phối giống thích hợp Để lợn nái đạt tỷ lệ thụ tinh cao, số con đẻ ra nhiều, cần phối giống đúng thời điểm vì thời gian trứng rụng và có hiệu quả thụ thai rất ngắn. Theo Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993) [28], trứng rụng tồn tại trong tử cung 2 - 3 giờ và tinh trùng sống trong âm đạo lợn nái 30 - 48 giờ. Như vậy, phải cho lợn nái phối giống 10 - 12 giờ trước lúc rụng trứng tức là 20 - 30 giờ sau khi bắt đầu chịu đực. Thời điểm phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4, tính từ lúc bắt đầu động dục. Đối với lợn nái nội hơn một ngày vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 do thời gian động dục ở lợn nái nội ngắn hơn. * Cơ chế động dục Chu kỳ động dục của lợn nái được điều khiển bởi 2 yếu tố thần kinh và thể dịch. Khi các nhân tố ngoại cảnh như: ánh sáng, nhiệt độ, mùi con đực tác động và kích thích vùng dưới đồi (Hypothalamus) giải phóng ra các yếu tố tác động lên tuyến yên, kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết FSH (Folliculo Stimulin Hormone) và LH (Lutei Stimulin Hormone). FSH kích thích noãn bao phát triển đồng thời cùng với LH làm cho noãn bao thành thục, chín và rụng trứng. Khi noãn bao phát triển và thành thục, tế bào hạt trong thượng bì bao noãn tiết ra Oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn. Khi hàm lượng hormone này trong máu đạt 64 - 112% sẽ kích thích con vật có những biểu hiện động dục. Đồng thời dưới tác động của Oestrogen cơ quan sinh dục biến đổi: tử cung hé mở, âm hộ, âm đạo sung huyết, tiết niêm dịch, sừng tử cung và ống dẫn trứng tăng sinh tạo điều kiện cho sự làm tổ của hợp tử sau này. Cuối chu kỳ động dục thì Oestrogen lại kích thích tuyến yên tiết ra LH và giảm tiết FSH. Khi lượng LH/FSH đạt tỷ lệ 3/1 thì sẽ kích thích cho trứng chín và rụng trứng. Sau khi trứng rụng thể vàng được hình thành ở nơi bao noãn vỡ ra. Thể vàng tiết Progesterone giúp cho quá trình chuẩn bị tiếp nhận
  21. 14 hợp tử ở sừng tử cung đồng thời ức chế tiết GSH (Gonado Stimulin Hormone) của tuyến yên làm cho bao noãn trong buồng trứng của lợn nái không phát triển được và kết thúc một chu kỳ động dục. * Một số chỉ tiêu sinh lý sinh dục của lợn nái + Tuổi động dục lần đầu Là tuổi khi lợn nái có biểu hiện động dục lần đầu tiên. Tuổi động dục lần đầu khác nhau phụ thuộc vào giống lợn. Lợn nội tuổi động dục lần đầu sớm hơn lợn ngoại, lợn nái lai tuổi động dục lần đầu muộn hơn so với lợn nái nội. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con nái bền lâu cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục rồi mới phối giống. Tuổi động dục lần đầu còn phụ thuộc vào mùa vụ và chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh, thời gian chiếu sáng, nhiệt độ môi trường cũng như chế độ dinh dưỡng, mức độ sinh trưởng trước và sau cai sữa (Nguyễn Tấn Anh và Nguyễn Duy Hoan, 1998) [1]. Theo Lê Xuân Thọ và Lê Xuân Cương (1979) [31], đối với lợn nái hậu bị và lợn nái sau cai sữa chậm động dục, tiêm huyết thanh ngựa chửa có thể gây động dục. + Tuổi phối giống lần đầu Thông thường ở lần động dục đầu tiên người ta chưa tiến hành phối giống cho lợn nái vì thời điểm này lợn chưa thành thục về thể vóc, số lượng trứng rụng còn ít. Người ta thường tiến hành phối giống cho lợn nái vào chu kỳ thứ 2 hoặc thứ 3. Tuổi phối giống lần đầu được tính bằng cách cộng tuổi động dục lần đầu với thời gian động dục của một hoặc hai chu kỳ nữa hoặc tuổi tại thời điểm phối giống lần đầu. + Tuổi đẻ lứa đầu Sau khi thụ thai, lợn chửa trung bình là 114 ngày. Tuổi đẻ lứa đầu là tuổi lợn mẹ đẻ lứa đầu tiên. Lợn nái nội (Ỉ, Móng Cái) trong sản xuất tuổi đẻ lứa
  22. 15 đầu thường 11 - 12 tháng. Lợn nái lai và lợn nái ngoại nên cho đẻ lứa đầu lúc 12 - 13 tháng tuổi (Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ, 2003) [5]. 2.2.1.3. Những hiểu biết về sinh lý đẻ Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7], gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ, dưới tác động của cơ chế thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài. Đẻ là quá trình đưa thai đã phát triển thành thục theo đường sinh dục của mẹ ra ngoài. Nếu không đủ hai điều kiện trên tức là đẻ không bình thường. Trước khi đẻ, cơ thể mẹ có nhiều thay đổi quan trọng có liên quan tới việc đẩy thai ra ngoài như: dây chằng xương chậu giãn, gia tăng chiều dài từ 25 - 30% so với bình thường (người ta gọi là hiện tượng sụt lưng), nút cổ tử cung loãng. Trước khi đẻ từ 12 - 48 giờ thân nhiệt hơi hạ xuống. Cổ tử cung mở, sữa bắt đầu tiết. Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia súc đẻ: + Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra nước trong. + Trước khi đẻ 1 ngày, hàng vú giữa vắt được sữa đầu. + Trước khi đẻ 1/2 ngày, hàng vú trước vắt được sữa đầu. + Trước khi đẻ 2 - 3 giờ, hàng vú sau vắt được sữa đầu. Đẻ là một quá trình sinh lý phức tạp chịu sự điều hòa của cơ chế thần kinh - thể dịch. Khi thai đã thành thục thì quan hệ sinh lý giữa mẹ và nhau thai không còn cần thiết nữa, lúc này thai đã trở thành như một ngoại vật trong tử cung nên được đưa ra ngoài bằng động tác đẻ. Khi lợn đẻ toàn thân co bóp, thường gọi là cơn đau, lúc này áp lực bên trong tăng cao đẩy thai ra ngoài. Khi thai ra rốn thai tự đứt, lợn là một loài đa thai nên đẻ từng con một, cách khoảng 10 - 15 hoặc 20 phút đẻ 1 con. Thời gian đẻ của lợn trung bình kéo dài từ 1 - 6 giờ, nếu quá 6 giờ mà thai chưa ra thì cần xem xét để có biện pháp tác động ngay.
  23. 16 2.2.2. Những hiểu biết về sinh lý tiết sữa của lợn nái và các yếu tố ảnh hưởng * Sinh lý tiết sữa của lợn nái Sữa là sản phẩm tiết ra từ tuyến vú, là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa, hấp thu, rất cần thiết cho gia súc non đang bú sữa và là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao đối với con người (Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn, 2006) [20]. Sự tiết sữa của lợn nái trong quá trình nuôi con là một quá trình sinh lý phức tạp. Theo Nguyễn Thiện và cs (1996) [29], ở lợn không có bể sữa nên ở lợn nái không có dự trữ sữa trong bầu vú, do vậy lợn mẹ không tiết sữa tùy tiện được và lợn con không phải lúc nào cũng bú được sữa mẹ. Quá trình tiết sữa của lợn nái là một quá trình phản xạ, do những kích thích vào bầu vú gây nên. Phản ứng tiết sữa của lợn nái tương đối ngắn và chuyển dần từ trước ra sau. Trong đó yếu tố thần kinh đóng vai trò chủ đạo, khi lợn con thúc vú mẹ, những kích thích này truyền lên vỏ não, vào vùng Hypothalamus, từ đó kích thích tuyến yên sản sinh ra kích tố oxytocin tiết vào máu, kích tố này đi vào tuyến bào kích thích lợn nái thải sữa. Do tác động của oxytocin trong máu khác nhau cho nên các vú khác nhau cho sản lượng sữa khác nhau. Sản lượng sữa và chất lượng sữa ở các vị trí khác nhau của bầu vú cũng không giống nhau: các vú trước ngực sản lượng sữa cao, phẩm chất tốt, các vú phía sau nhìn chung kém (Nguyễn Khánh Quắc và cs, 1995) [18]. Theo Trương Lăng (1996) [11], vú nằm ở trước ngực sản lượng sữa tiết nhiều hơn, trong thời kỳ tiết sữa lợn con bú ở vú sau được 32 - 39 kg thì vú trước cho 36 - 45 kg sữa vì oxytocin theo máu đến vú trước sớm hơn. Vì vậy để đảm bảo tính đồng đều của toàn ổ lợn ta nên cố định những con nhỏ hơn bú vú trước. Cần tách riêng lợn con để trước chờ đến khi cả đàn đẻ xong mới cho cả đàn vào bú, nhưng nhất thiết phải cho lợn con bú sữa đầu chậm nhất là 2 giờ sau đẻ để lợn con có đủ kháng thể trong năm đầu sau khi sinh vì trong sữa đầu của lợn mẹ có chứa  globulin giúp cho cơ thể lợn con có sức đề kháng với ngoại cảnh. Theo Phan
  24. 17 Đình Thắm (1996) [19], nhất thiết phải cho lợn con bú sữa đầu vì trong sữa đầu có hàm lượng  globulin cao hơn sữa thường và đây là chất chủ yếu giúp lợn con có sức đề kháng. Quan sát đàn lợn con bú mẹ chúng ta thấy đầu tiên lợn con dùng mõm thúc vào vú lợn mẹ, thời gian thúc vú mẹ của lợn con có thể từ 5 - 7 phút, sau đó đột nhiên nằm im hoàn toàn và tiến hành bú. Sữa tiết ra thể hiện rõ nhất là lúc lợn mẹ kêu ịt ịt, lợn con mút chặt đầu vú, hai chân trước đạp thẳng vào bầu vú, nằm yên mút theo đợt tiết sữa của lợn mẹ. Do thời gian tiết sữa của lợn mẹ rất ngắn chỉ khoảng 25 - 30 giây, nên một ngày lợn con phải bú nhiều lần mới đủ so với nhu cầu. Trong những ngày đầu sau khi sinh lợn con bú từ 20 - 25 lần/ngày, mỗi lần lượng sữa tiết ra khoảng 25 - 35 gam/con. Lượng sữa của lợn nái tiết sữa tăng cao dần từ lúc mới đẻ, cao nhất lúc 21 ngày sau khi đẻ, sau đó giảm dần. * Sữa lợn mẹ Sữa lợn mẹ có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao tỷ lệ nuôi sống của lợn con. Việc cai sữa cho lợn con có thể thực hiện được ngay từ khi đẻ ra, tuy nhiên sữa lợn mẹ luôn được coi là nguồn thức ăn lý tưởng cho lợn con. Nguyên liệu để tạo nên sữa đều được lấy từ máu, phải có một máu rất lớn chảy qua bầu vú mới đảm bảo cho nhu cầu tạo sữa: khoảng 540 lít máu chảy qua bầu vú mới tạo được thành 1 lít sữa lợn mẹ. Sữa lợn mẹ tiết ra trong vòng 2 - 3 ngày đầu sau khi đẻ gọi là sữa đầu. Theo Trịnh Văn Thịnh (1978) [30], thức ăn đầu tiên của lợn con là sữa đầu. Sữa đầu có đặc điểm là màu vàng đặc và hơi mặn, khi đun dễ ngưng kết. Thành phần dinh dưỡng của sữa đầu khác hẳn so với sữa thường, trong sữa đầu các thành phần như protein, vitamin đều cao hơn so với sữa thường. Trong sữa đầu lượng vật chất khô đạt 22,3%, cao hơn sữa thường chỉ có 19,6%. Hàm lượng protein cũng cao hơn là 11,5% so với 6,8% của sữa thường, tuy nhiên hàm lượng khoáng, chất béo và đường lactose lại thấp hơn.
  25. 18 Đặc biệt trong sữa đầu có chứa nhiều kháng thể  globulin (gama globulin) và các chất khác bảo vệ lợn con mới đẻ chống lại sự tấn công của các vi rút, vi trùng gây bệnh. Lượng  globulin chiếm khoảng 50% tổng số protein của sữa đầu, sau đó giảm dần. Khả năng hấp thụ  globulin của lợn con chỉ xảy ra trong những giờ đầu sau khi sinh (trong vòng 24 giờ đầu tiên). Do vậy sữa đầu đóng vai trò quan trọng đối với lợn con theo mẹ. * Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái Theo Trương Lăng (1996) [11], khả năng tiết sữa của lợn mẹ phụ thuộc vào mức độ dinh dưỡng thức ăn, giống lợn và số lượng lợn con. + Giống và cá thể Các giống lợn khác nhau có khả năng tiết sữa khác nhau. Các giống lợn được cải tạo có năng suất sữa cao hơn các giống lợn chưa được cải tạo. Ví như lợn Ỉ có sản lượng sữa bình quân là 20,1 - 25 kg, lợn Móng Cái là 27,5 - 29,1 kg, lợn Đại Bạch nuôi tại Việt Nam có sản lượng sữa bình quân là 40 - 50 kg. Thể trạng của lợn mẹ cũng ảnh hưởng đến năng suất sữa trong thời kỳ đầu của quá trình tiết sữa. Lợn mẹ gầy yếu thì khả năng tiết sữa kém hơn lợn mẹ có thể trạng trung bình. Chúng ta có thể tăng lượng thức ăn sử dụng cho lợn mẹ trong những ngày đầu tiên sau khi đẻ, tuy nhiên nếu lợn mẹ gầy yếu được ăn thức ăn cao chỉ có thể làm tăng tỷ lệ mỡ sữa mà không làm tăng sản lượng sữa. Đối với lợn có thể trạng trung bình, nếu cho ăn nhiều thức ăn trong giai đoạn đầu của quá trình tiết sữa sẽ làm tăng sản lượng sữa và có xu hướng làm giảm hao hụt của lợn mẹ trong quá trình tiết sữa. + Tuổi và lứa đẻ Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [5], lứa đẻ tốt nhất là lứa thứ 2 đến lứa thứ 6 - 7. Tuổi sinh sản ổn định từ năm tuổi thứ 2 đến năm tuổi thứ 4, sang năm đẻ thứ 5 lợn có thể đẻ tốt nhưng con đẻ ra bị còi cọc, chậm lớn, nái già thường hay đẻ khó, thai chết lưu và cắn con.
  26. 19 Sản lượng sữa của lợn mẹ tăng dần từ lứa thứ 1 - 3, ổn định từ lứa 3 - 8, sau đó giảm dần theo sự tăng lên của tuổi. Đó là do lợn nái đẻ lứa đầu, các tuyến bào chưa phát dục hoàn chỉnh, chưa có thói quen cho lợn con bú. Còn ở lứa đẻ tiếp theo sản lượng sữa bắt đầu tăng. Trong một chu kỳ tiết sữa, lượng sữa tăng dần sau khi đẻ và đạt cao nhất ở tuần thứ 3, sau đó giảm dần đến tuần thứ 8. + Số con đẻ ra/lứa Nếu số lượng con đẻ ra/lứa cao thì sản lượng sữa/chu kỳ sẽ cao, song lượng sữa của một con bú được trong 8 tuần sẽ ít và ngược lại. + Nuôi dưỡng và chăm sóc Là yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến sản lượng sữa của lợn nái. Nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sản lượng sữa vì những chất dinh dưỡng cần thiết để tạo thành sữa đều lấy từ thức ăn. Tỷ lệ nuôi sống ở lợn con được tăng lên nếu chúng ta cho lợn mẹ ăn khẩu phần ăn có nhiều chất béo ở giai đoạn cuối của giai đoạn chửa và thời kỳ tiết sữa đầu. Cơ sở của vấn đề này là khi cho lợn mẹ ăn nhiều chất béo sẽ làm tăng tỷ lệ mỡ sữa, do vậy cung cấp cho lợn con nhiều năng lượng hơn. Khẩu phần ăn của lợn nái trong quá trình có chửa và tiết sữa có ảnh hưởng đến các thành phần hóa học của sữa. Khi cho lợn nái ăn tăng khẩu phần ăn, sẽ làm tăng thành phần hóa học của sữa thông qua tăng quá trình trao đổi đến bầu vú lợn mẹ. Quá trình hình thành các chất dinh dưỡng của sữa lợn mẹ được thông qua quá trình tổng hợp, một số thông qua quá trình lọc và một số chuyển thẳng trực tiếp từ máu. Hàm lượng các vitamin của sữa phụ thuộc vào hàm lượng các vitamin trong thức ăn và cả lượng vitamin dự trữ ở gan hoặc các tế bào. Kỹ thuật chăm sóc quản lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiết sữa của lợn nái, các động tác không thích hợp như đánh đuổi lợn, gây tiếng động mạnh trong khu vực chuồng nuôi lợn nái nuôi con đều gây ức chế quá trình tiết sữa của lợn nái. Ngoài ra nếu chăm sóc không chu đáo dễ gây cho lợn mẹ các bệnh như viêm vú từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng sữa.
  27. 20 2.2.3. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con 2.2.3.1. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ - Quy trình nuôi dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [17], thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5 kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái. - Quy trình chăm sóc Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Chuồng trại phải được vệ sinh sạch sẽ. Trước khi lợn đẻ 10 - 15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng.
  28. 21 Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 - 5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Chuồng đẻ cần phải trải đệm lót, có che chắn và thiết bị sưởi ấm trong những ngày mùa đông giá rét. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh lợn nái sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người, dùng khăn thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy tránh được nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái, chúng ta chuyển nhẹ nhàng từ chuồng bầu sang chuồng đẻ để lợn quen dần với chuồng mới. Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan trọng đó là việc chuẩn bị ô úm lợn cho lợn con. Ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào những tháng mùa đông. Ngoài ra, ô úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng ăn vào ô úm cho lợn con lúc 7 - 10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức ăn của lợn con. Theo dõi thường xuyên sức khỏe của lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện sát nhau, sốt sữa hoặc nhiễm trùng để có biện pháp xử lý kịp thời. 2.2.3.2. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái nuôi con - Quy trình nuôi dưỡng Thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn bổ sung đạm động, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin Không cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong
  29. 22 chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 kcal, protein 15%, Ca từ 0,9 - 1,0%, phospho 0,7%. Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ. Trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: - Đối với lợn nái ngoại + Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 - 3 kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4 kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức ăn/nái/ngày = 2 kg + (số con x 0,35 kg/con). + Số bữa ăn trên ngày: 2 (sáng và chiều). + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh). + Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30% + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. - Đối với lợn nái nội + Công thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/1 ngày đêm Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100 kg, mức ăn trong 1 ngày đêm được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,2 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg).
  30. 23 Thức ăn thô xanh: 0,3 đơn vị. Lợn nái nội có khối lượng cơ thể từ 100 kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau: Thức ăn tinh = 1,4 kg + (số con theo mẹ x 0,18 kg). Thức ăn thô xanh: 0,4 đơn vị. - Quy trình chăm sóc Vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh hồi phục sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. Chuồng trại của lợn nái nuôi con yêu cầu phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không có mùi hôi thối, ẩm ướt. Do vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 200C, độ ẩm 70 - 75%. 2.2.4. Những hiểu biết về quy trình phòng bệnh cho đàn lợn. 2.2.4.1. Những bệnh thường gặp trên lợn nái - Hội chứng viêm tử cung - viêm vú - mất sữa (MMA) Theo trung tâm Chẩn đoán và cố vấn thú y (2010) hội chứng viêm tử cung - viêm vú - mất sữa (MMA: Metritis - Mastitis - Agalactia) là một hội chứng phức hợp các căn nguyên bệnh trên lợn nái, bệnh thường xảy ra trong giai đoạn lợn nái trước và sau khi đẻ. Giống tên gọi của nó, hội chứng bao gồm hiện tượng viêm vú trên lợn nái (trong giai đoạn trước khi đẻ), bệnh viêm tử cung ở lợn nái (trong giai đoạn sau đẻ khoảng 1 tuần), hiện tượng mất sữa ở lợn nái (trong giai đoạn lợn nái nuôi con). Hội chứng này nằm trong nhóm bệnh do quản lý, bởi vậy, ta hoàn toàn có thể khống chế được.
  31. 24 Triệu chứng lâm sàng điển hình của lợn nái mắc hội chứng MMA là: sốt, kém ăn, mệt mỏi, có dịch viêm tử cung, không cho con bú, viêm sưng vú Số lượng hồng cầu, thể tích hồng cầu, nồng độ huyết sắc tố trong 1 hồng cầu của lợn mắc hội chứng MMA đều cao hơn các chỉ tiêu ở lợn bình thường. - Bệnh viêm tử cung Nguyên nhân bệnh viêm tử cung Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [7], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Theo các tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [2], Phạm Sỹ Lăng và cs. 2002 [10], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau: + Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm sây sát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng nên khi phối giống vi khuẩn có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm. + Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khoẻ. + Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát. + Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung. + Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sảy thai truyền nhiễm, Phó thương hàn, bệnh Lao gây viêm. + Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm.
  32. 25 Theo Đoàn Kim Dung và cs. (2002) [6] cho biết, nguyên nhân gây viêm tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), Liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebriella, E. coli . Theo Lê Văn Năm và cs. (1999) [14] cho rằng, có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại cảnh gây bệnh như: do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ bằng dụng cụ hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến Muxin của chất nhày các cơ quan sinh dục bị phá hủy hoặc kết tủa, kết hợp với việc chăm sóc nuôi dưỡng bất hợp lý và thiếu vận động đã làm chậm quá trình thu teo sinh lý của dạ con (trong điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về khối lượng kích thước ban đầu khoảng 3 tuần sau đẻ). Đây là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây bệnh. + Bệnh còn xảy ra do thiếu sót về dinh dưỡng và quản lý: khẩu phần thiếu hay thừa protein, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm tử cung. Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột gây đẻ khó, viêm tử cung do sây sát. Khoáng chất, vitamin cũng ảnh hưởng đến viêm tử cung. Triệu chứng bệnh viêm tử cung: Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4 - 5 ngày, cá biệt tới 6 - 7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang vàng hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có thể có màu đen hôi thối, mùi tanh rất khó chịu. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể: + Thể cấp tính: con vật sốt 41 - 42oC, trong vài ngày đầu âm môn sưng tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ lờ. Con vật đứng, nằm, bứt rứt không yên tĩnh, biếng ăn. Xung quanh âm môn, gốc đuôi, hai bên mông dính nhiều dịch viêm, khi khô thành đám vẩy khô màu trắng xám. + Thể mãn tính: không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch nhầy trắng đục tiết ra từ âm đạo, dịch nhầy thường không liên tục mà chỉ chảy
  33. 26 ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử cung lan sang thai làm chết thai. Hậu quả của bệnh viêm tử cung: Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [7], Trần Thị Dân (2004) [4], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: + Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai. + Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu. + Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. + Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. + Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung: Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động đực, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200 ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu máu cá. Người ta thấy rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mạn tính thường gặp trong thời kì cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung. Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động dục thì có thể bị nhầm lẫn. Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính xác.
  34. 27 Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm, từ đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất. - Bệnh sót nhau Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra. * Nguyên nhân: Trịnh Đình Thâu và cs. (2010) [27] sau khi đẻ tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Ca và P. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. + Kế phát sau các bệnh khó đẻ khác. + Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt bệnh Brucellaloes (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của nhau. * Triệu chứng: Căn cứ vào mức độ sát nhau người ta chia ra làm 2 loại: + Sót nhau hoàn toàn: Toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc thường là có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn. + Sót nhau không hoàn toàn: Ở động vật đơn thai một phần màng nhau còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ. Biểu hiện triệu chứng khi lợn nái bị sót nhau: Con vật đứng nằm không yên, nhiệt độ hơi tăng, thích uống nước, sản dịch chảy ra màu nâu. Để dễ phát hiện có sót nhau hay không khi đỡ đẻ cho lợn người ta thường gom toàn bộ nhau lại cho đến khi lợn đẻ xong, đếm số nhau ra và số lợn con sẽ phát hiện lợn con có sót nhau hay không.
  35. 28 * Điều trị: Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytoxin dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9 % để rửa tử cung trong ba ngày liên tục (Trịnh Đình Thâu và cs., 2010) [27]. - Bệnh bại liệt sau đẻ * Nguyên nhân gây bệnh - Do thai quá to, tư thế và chiều hướng của thai không bình thường. - Quá trình thủ thuật kéo thai quá mạnh hay không đúng thao tác Từ đó gây tổn thương thần kinh tọa hoặc ảnh hưởng đến đám rối hông khum → lợn mẹ bại liệt. * Biểu hiện bệnh: - Lúc đầu lợn mẹ đi lại khó khăn, về sau không đứng lên được mà nằm bẹp 1 chỗ. - Bệnh thường kế phát với 1 số bệnh ở hệ tiêu hóa, hô hấp như: Chướng bụng đầy hơi, viêm phế quản cấp. - Nếu bệnh kéo dài, con vật dễ bị loét từng mảng da phía tiếp xúc với nền, sàn chuồng. - Sau 3 - 4 tuần con vật gầy dần và chết. * Biện pháp khắc phục - Thao tác can thiệp kịp thời, đúng kỹ thuật. - Hằng ngày trở mình cho lợn mẹ để tránh bầm huyết, hoại tử da và kế phát với chướng bụng, đầy hơi. - Tăng cường thức ăn có bổ sung nguyên tố vi lượng nhất là canxi và phốt pho. - Tiêm mg - calcium cho lợn. Đồng thời kết hợp với châm cứu.
  36. 29 2.2.4.2. Một số bệnh hay gặp trên lợn con - Tiêu chảy Phạm Ngọc Thạch (1996) [41] cho biết tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý ở đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật đi ỉa nhanh, nhiều lần trong ngày, phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu hóa, ruột tăng cường co bóp và tiết dịch hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay đổi tạm thời của phân gia súc đang thích ứng với những thay đổi trong khẩu phần ăn. Tiêu chảy xảy ra ở nhiều bệnh và bản thân nó không phải là bệnh đặc thù (Archie và cs., 2000) [1]. Theo Trần Đức Hạnh (2013) [42]: lợn con ở 1 số tỉnh phía Bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84% và 5,37%, tỷ lệ mắc tiêu chảy và chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21 - 40 ngày (30,97 và 4,93%) và giảm ở giai đoạn 41 - 46 ngày. Nguyễn Chí Dũng (2013) [43] kết luận: tháng có nhiệt độ thấp và ẩm độ cao, tỷ lệ mắc tiêu chảy cao (26,98 - 38,18%). * Nguyên nhân: - Do thời tiết khí hậu: các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể (Đoàn Thị Kim Dung, 2004) [6]. - Lợn con bị nhiễm khuẩn: Theo Phạm Sỹ Lăng (2009) [10], bệnh tiêu chảy ở lợn có nguyên nhân do vi khuẩn E.coli, Salmonella trong đó Salmonella là vi khuẩn có vai trò quan trọng trong quá trình gây ra hội chứng tiêu chảy (Radosits và cs., 1994) [37]. - Theo Glawisschning, Bacher (1992) [34], nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt. - Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung.
  37. 30 - Lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần. - Bệnh tiêu chảy trên heo con do E.coli có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi theo mẹ nào nhưng thường có hai thời kỳ cao điểm là 0 - 5 ngày tuổi và 7 - 14 ngày tuổi (Nagy và Fekete, 2005) [36]. * Triệu chứng: - Sàn chuồng có phân lợn lỏng, màu vàng hoặc màu trắng. - Trong chuồng có hiện tượng lợn nôn ra sữa. - Người lợn con bị bẩn do dính phân. - Vú lợn mẹ dính phân lợn con. - Viêm phổi * Nguyên nhân: Do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra, bệnh xảy ra trên lợn con ngay từ khi mới sinh ra, bệnh xâm nhập chủ yếu qua đường hô hấp. Bệnh cũng có thể do điều kiện chăn nuôi vệ sinh chuồng trại kém, thời tiết thay đổi , do sức đề kháng của lợn giảm. Bệnh thường lây lan do nhốt chung với con nhiễm bệnh. * Triệu chứng: Ho khan vài tiếng hoặc từng cơn vào sáng sớm hay khi vận động, ho có thể kéo dài 1 - 2 tháng. Mặc dù lợn vẫn ăn uống bình thường nhưng rất chậm lớn, nhịp thở thường tăng cao, đôi khi có biểu hiện khó thở và khi thở ngồi lên hai chân sau như kiểu chó ngồi, nhất là khi nhiễm bệnh kế phát. - Viêm khớp * Nguyên nhân: Streptococcus suis là vi khuẩn gram (+), Streptococcus suis gây viêm khớp lợn cấp và mãn tính ở mọi lứa tuổi. Bệnh này thường gây ra trên lợn con 1 - 6 tuần tuổi. Vi khuẩn xâm nhập qua đường miệng, cuống rốn, vết thương khi cắt đuôi, bấm nanh, các vết thương trên da, đầu gối khi chà sát trên nền chuồng, qua vết thiến (Nagy và cs., 1994) [36]. * Triệu chứng: Lợn con đi khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi, khớp chân sưng lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh nhưng tử vong thường xảy ra lúc 2 - 5
  38. 31 tuần tuổi. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn chân. Lợn ăn ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ, sưng, sờ nắn vào có phản xạ đau (Nguyễn Ánh Tuyết, 2015) [40]. 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam đã có những nghiên cứu về bệnh sinh sản trên lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con. Nguyễn Văn Thanh và cs (2015) [25], bệnh viêm tử cung ở đại gia súc nói chung là một quá trình bệnh lý phức tạp được thể hiện dưới nhiều thể khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới hiện tượng rối loạn sinh sản, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản của gia súc cái sinh sản. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [10], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây sây sát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. Theo Lê Xuân Cương (1986) [3], lợn nái chậm sinh sản do nhiều nguyên nhân. Trong đó, tổn thương bệnh lý sinh dục chiếm tỷ lệ đáng kể, khi lợn nái đẻ khó cần áp dụng các thủ thuật ngoại khoa. Nhưng sau đó thì niêm mạc đường sinh dục có thể bị tổn thương gây viêm tử cung. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7], viêm tử cung là một quá bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai
  39. 32 truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ, 2004) [12]. Đồng thời cũng có nhiều tác giả đã có những tổng kết về tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở lợn: Theo Nguyễn Như Pho (2002) [16], lợn Yorkshire, Landrace trong giai đoạn nuôi con mắc bệnh viêm tử cung chiếm tỷ lệ 15%, do điều trị kịp thời nên khỏi 100%, song đã ảnh hưởng đến sức khỏe của lợn nái, phần lớn là do những trường hợp đẻ khó dẫn tới viêm tử cung. Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [12], lợn nái sau khi sinh có chứng viêm tử cung chiếm tỷ lệ 42,4%. Viêm tử cung trên nhóm thuần chiếm 25,48%; trên nhóm lai chiếm 50,48%. Viêm tử cung xảy ra cao nhất là lứa 1 và lứa 2. Tỷ lệ chậm động dục ở nhóm lợn bị viêm tử cung cao nhiều hơn so với nhóm lợn không bị viêm tử cung. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó cơ quan ngoài chiếm 20%, còn lại 80% là viêm tử cung. Tỷ lệ viêm tử cung sau đẻ ở lợn nái ngoại cũng cao từ 1,82 - 23,33%. Theo Nguyễn Văn Thanh (2003) [22], tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại hướng nạc đang được nuôi tại các địa phương vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng là tương đối cao (7,1%) và có sự khác nhau giữa các địa phương. Bệnh viêm tử cung thường tập trung ở những lợn nái mới đẻ lứa đầu và những lợn nái đã đẻ nhiều lứa. 2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thế giới đang rất phát triển, các nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Tuy nhiên vấn đề hạn chế bệnh sinh sản là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết, đặc
  40. 33 biệt là bệnh viêm đường sinh dục. Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh viêm đường sinh dục và đã đưa ra các kết luận giúp cho người chăn nuôi lợn nái hạn chế được bệnh này. Tuy vậy, tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục trên đàn lợn nái sinh sản vẫn rất cao. Nguyên nhân của bệnh viêm đường sinh dục là do đường sinh dục bị tổn thương, do hiện tượng sát nhau. Bệnh phát triển là do nuôi dưỡng không tốt, do đưa vào đường sinh dục những dụng cụ, những chất kích thích đẻ, chúng phá hoại hoặc làm kết tủa chất nhày ở bộ máy sinh dục. Theo Urban V.P. và cs (1983) [39], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp. Theo Smith B.B. và cs (1995) [38], Taylor D.J. (1995) [44], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Theo Urban V.P. và cs (1983) [39], điều trị viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó được tiến hành sớm và đạt kết quả. Xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sang mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là dược lực học và dược động học cho phép đáp ứng tốt hơn phương pháp điều trị. Theo Trekaxova A.V. và cs (1983) [32], chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 - 40ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 88 - 10cm. Dung dịch
  41. 34 novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 -3 lần. Theo Smith và cs (1995) [38], chữa bệnh viêm tử cung bằng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái đạt hiệu quả cao. Streptomycin 0,25g, penicillin 500.000UI, dung dịch KMnO4 1% 40ml + vitamin C.
  42. 35 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng theo dõi - Lợn nái mang thai, lợn đẻ, lợn con theo mẹ và lợn thịt. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Trại lợn công ty TNHH Phát Đạt - thị xã Phúc Yên- tỉnh Vĩnh Phúc. - Thời gian: Từ ngày 18/11/2017 đến ngày 18/05/2018. 3.3. Nội dung thực hiện - Đánh giá tình hình chăn nuôi của trại - Thực hiện công tác nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn tại trại - Thực hiện quy trình phòng bệnh cho đàn lợn - Thực hiện công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con - Tham gia các công tác thú y khác như: thiến lợn đực, đỡ lợn đẻ, 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi - Cơ cấu đàn lợn tại thời điểm thực tập - Khối lượng công việc nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn - Khối lượng công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại - Số lượng tiêm vắc xin phòng bệnh - Số lượng lợn nái được chẩn đoán và điều trị bệnh - Số lượng lợn con được chẩn đoán và điều trị bệnh - Số lượng lợn con được can thiệp thủ thuật 3.4.2. Phương pháp thực hiện 3.4.2.1 Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Để đánh giá được tình hình chăn nuôi của trại em đã sử dụng phương pháp phỏng vấn, thu thập thông tin từ cán bộ quản lý của trại đồng thời tự tìm hiểu và tìm kiếm số liệu từ các sổ sách ghi chép của trại trong 3 năm gần đây
  43. 36 3.4.2.2 Quy trình vệ sinh chuồng nuôi hàng ngày Công tác vệ sinh trong chăn nuôi là một trong những khâu rất quan trọng. Nếu công tác vệ sinh được thực hiện tốt thì gia súc ít mắc bệnh, sinh trưởng và phát triển tốt, chi phí thuốc thú y thấp, làm cho hiệu quả chăn nuôi cao hơn. Do nhận thức rõ được điều này, nên trong suốt thời gian thực tập, em đã thực hiện tốt các công việc như: + Hàng ngày, trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh viên em tất cả đều phải đi qua phòng sát trùng và tắm sạch sẽ mặc quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. + Việc đầu tiên vào chuồng là cào phân tránh lợn mẹ nằm đè phân + Bắt nhốt lợn con vào ô úm rồi lau sàn nhựa ( hoặc rắc vôi rồi quét) + Rắc vôi lối đi giữa, xung quanh chuồng và dưới gầm chuồng + Thu phân vào bao và quét dọn sạch sẽ quanh chuồng. Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ và được tiêu độc bằng thuốc sát trùng Ommicide 2 lần hàng ngày, pha với tỷ lệ 320ml/1000 lít nước. Ở các chuồng nái đẻ sau khi cai sữa, lợn mẹ được chuyển lên chuồng nái chửa 1 (khu vực cai sữa). Sau khi xuất lợn con, các tấm đan chuồng này được tháo ra mang ngâm ở hố sát trùng bằng dung dịch NaOH 10%, ngâm trong 1 ngày sau đó được cọ sạch, phơi khô. Khung chuồng cũng được cọ sạch, xịt bằng dung dịch NaOH pha với nồng độ loãng, sau đó xịt lại bằng dung dịch vôi xút. Gầm chuồng cũng được vệ sinh sạch sẽ tiêu độc khử trùng kỹ sau đó rắc vôi bột. Để khô 1 ngày tiến hành lắp đan vào, sau đó đuổi lợn chờ đẻ từ chuồng nái chửa 2 xuống. Lịch sát trùng được trình bày qua bảng 3.1.
  44. 37 Bảng 3.1. Lịch sát trùng trại lợn nái Trong chuồng Ngoài khu Ngoài Thứ Chuồng Chuồng vực chăn Chuồng đẻ Chuồng nái chửa cách ly nuôi Chủ Phun sát trùng Phun sát trùng nhật Phun sát Phun sát Quét hoặc rắc Phun sát trùng 2 Phun sát trùng trùng toàn bộ trùng toàn bộ vôi đường đi + rắc vôi khu vực khu vực Phun sát trùng + Quét hoặc rắc 3 Phun sát trùng quét vôi đường đi vôi đường đi Xả vôi xút 4 Phun sát trùng Rắc vôi Rắc vôi gầm Phun sát trùng 5 Phun ghẻ Phun ghẻ + xả vôi xút gầm Phun sát trùng Phun sát 6 Phun sát trùng Phun sát trùng Phun sát trùng + rắc vôi trùng Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng 7 chuồng chuồng chuồng khu 3.4.2.3 Chẩn đoán và điều trị bệnh gặp trên đàn lợn nái và lợn con tại trại Để điều trị bệnh cho đàn lợn đạt hiệu quả cao, thì việc phát hiện bệnh kịp thời và chính xác giúp ta đưa ra được phác đồ điều trị tốt nhất làm giảm tỷ lệ chết, giảm thời gian sử dụng thuốc và giảm thiệt hại về kinh tế. Vì vậy, hàng ngày em và cán bộ kỹ thuật tiến hành kiểm tra, theo dõi đàn lợn ở tất cả các ô chuồng để phát hiện ra những con bị ốm. Trong thời gian thực tập em đã được tham gia và điều trị một số bệnh sau: - Bệnh viêm tử cung lợn - Triệu chứng: lợn đẻ 2 - 3 ngày, sốt nhẹ, giảm ăn hay bỏ ăn, có dịch nhầy chảy ra từ âm hộ, màu trắng đục hoặc màu phớt vàng. - Chẩn đoán: Bệnh viêm tử cung ở lợn nái. - Điều trị: dùng các thuốc sau để điều trị: + Thuốc tím 1/1000 pha loãng với nước + Penicillin thụt rửa 2lần/ngày, 2 ngày liên tục. + Penicillin: 1 triệu UI/30kgTT
  45. 38 + Oxytocine: 5ml/con + Analgin: 1ml/10kgTT + Vitamin B1: 5ml/30kgTT Tiêm bắp, 2 lần/ngày, điều trị trong 3 ngày. - Bệnh viêm vú - Nguyên nhân: + Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn, mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây ra viêm vú. + Thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập gây viêm như: E.coli, Streptococus, Staphylococus, Klebsiella + Lợn con mới đẻ có răng nanh mà không bấm khi bú làm xây sát vú mẹ tạo điều kiện cho vi trùng xâm nhập tạo ra các ổ viêm nhiễm bầu vú. + Chỉ cho lợn con bú một hàng vú, hàng còn lại căng quá nên viêm. + Do thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh quá hoặc nóng quá hay thức ăn khó tiêu cũng ảnh hưởng đến cảm nhiễm vi trùng. - Triệu chứng: Bệnh xảy ra sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 7 - 10 ngày, có con đến một tháng. Viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú, vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy hơi nóng, hơi cứng, ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, nếu bị nặng thì bỏ ăn, nằm một chỗ, sốt cao 40,50C - 420C kéo dài trong suốt thời gian viêm. Sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện các cục casein màu vàng, xanh lợn cợn có mủ đôi khi có máu. Lợn con thiếu sữa kêu la, chạy vòng quanh mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy nhanh, tỷ lệ chết cao từ 30 đến 100%.
  46. 39 - Điều trị: Cục bộ: phong bế giảm đau bầu vú bằng cách chườm nước đá lạnh để giảm sưng, giảm đau, hoặc phong bế đầu vú bằng novocain 0,25 - 0,5%, mỗi ngày vắt cạn vú viêm 4 - 5 lần tránh lây lan sang vú khác. Tiêm quanh vùng bầu vú bị viêm bằng Nor 100 1ml/10kgTT. Toàn thân: Tiêm Analgin: 1ml/10kgTT/1lần/ngày. Tiêm Vetrimoxin LA: 1ml/10kgTT/1lần/2ngày. Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày - Hội chứng tiêu chảy ở lợn con + Nguyên nhân: Vệ sinh rốn khi cắt rốn không tốt cũng có thể làm cho heo con bị viêm rốn, tạo điều kiện cho các vi khuẩn cơ hội như E.coli, Salmonella, Clostridium, Staphylococcus, xâm nhập, dẫn đến tiêu chảy cho heo con. Vệ sinh chuồng trại, đặc biệt là nước uống và thức ăn không tốt. Có thể thức ăn bị nấm, mốc, đặc biệt là những ngày nồm ầm ướt; làm cho heo con bị tiêu chảy do ngộ độc độc tốc nấm mốc. + Triệu chứng: Phân lỏng màu vàng hay màu trắng đục dính ở hậu môn, hậu môn ướt đỏ, lợn sút cân nhanh chóng, mắt lờ đờ, dáng đi siêu vẹo, chán ăn. + Điều trị: Hội chứng tiêu chảy ở lợn con có thể điều trị bằng nhiều loại thuốc. Tại trang trại điều trị bằng thuốc sau: Nova - Amcoli: 1 ml/con/ngày sử dụng tiêm bắp đối với lợn con 10 ngày tuổi. Điều trị liên tục trong 3 ngày – 5 ngày. - Bệnh viêm phổi + Nguyên nhân: Là một bệnh truyền nhiễm đa nguyên nhân mà trước đây chúng ta quen gọi là bệnh suyễn hoặc viêm phổi địa phương. Mycoplasma là tác
  47. 40 nhân chính kết hợp với hệ vi khuẩn gây bệnh cộng phát như: Pasteurella multocida, Bordetell, Chlamidi, Streptococcus, Staphylococcus và một số siêu vi khuẩn khác. Mycoplasma thường cư trú tại amidal hoặc xâm nhập từ ngoài vào cơ thể dưới tác động trực tiếp của các yếu tố stress có hại và sức đề kháng của cơ thể yếu, chúng tăng cường độc lực chui vào phế quản và phế nang, ký sinh và sinh sản ở đó gây bệnh. Lợn mẹ bị bệnh có thể truyền cho con trong thời gian mang thai. + Triệu chứng: Ở lợn con bệnh có thể xảy ra ngay sau khi sinh. Lợn gầy còm lông xù, thở thể bụng có khi ngồi thở, bụng hóp lại. Lợn bị bệnh không tranh bú với các con khác được nên ngày càng gầy yếu hơn, dễ mắc kế phát bệnh viêm khớp. Nếu không điều trị kịp thời tỷ lệ chết rất cao. + Điều trị: Bệnh viêm phổi có thể sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau để điều trị, ở trong trại thường sử dụng phác đồ sau để điều trị: Tylogenta: 1,5ml/con. Tiêm bắp ngày/lần Hitamox LA: 1,5ml/con. Tiêm bắp ngày/lần. Nếu lợn có hiện tượng ho nhiều, thở gấp thì tiêm Bromhexine: 2ml/con. Điều trị trong 3 - 6 ngày.  Công tác thực hiện phẫu thuật trên đàn lợn con tại trại: - Đỡ lợn đẻ: Để công tác đỡ lợn đẻ thành công cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ phục vụ cho việc đỡ đẻ, dụng cụ bao gồm : thùng úm, bóng đèn hồng ngoại, khay đựng cồn, kéo,chỉ buộc rốn, khăn khô và bột rắc lợn con (mistran), kéo và chỉ buộc rốn phải được ngâm trong khay đựng nược sát trùng . Thao tác đỡ đẻ : Trước khi đẻ lợn mẹ phải được vệ sinh (tắm) sạch sẽ, bộ phận sinh dục và bầu vú cũng được lau chùi sạch sẽ. Khi lợn con được đẩy ra ngoài nhanh chóng dùng tay vuốt mồm cho lợn dễ thở sau đó dùng khăn khô lau sạch nhớt và lớp màng trên người lợn con, phải lau thật khô và sạch lợn con thì nó mới nhanh khỏe. Sau đó dùng chỉ buộc dây rốn cách rốn 1 khoảng
  48. 41 3cm rồi cắt bên dưới nút buộc, sịt cồn vào rốn và thả lợn vào lồng úm đã chải sẵn thảm và thắp đèn úm .Trường hợp lợn mẹ khó đẻ sau 15 -20 phút phải có biện pháp can thiệp. Sau khi lợn mẹ đẻ xong cần vệ sinh sạch sẽ bầu vú, cơ quan sinh dục và cho lợn con vào bú sữa đầu. Trong khi lợn con bú mẹ cần chú ý quan sát để tránh trường hợp lợn mẹ đè con. - Thao tác làm nanh tai và tiêm sắt cho lợn con : Lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt hơn , cứng cáp hơn sẽ được tiến hành mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi, tiêm kháng sinh và tiêm sắt. Thường thì sắt sẽ được tiêm vào 3 ngày tuổi sau khi lợn con sinh với liều lượng 1 -2ml/con, nhưng để tránh gây strees cho lợn con và tiện cho các thao tác kỹ thuật thì trại thực hiện các công việc đó cùng một lúc. Sắt sẽ được tiêm bổ sung lần 2 vào 7 - 10 ngày tuổi nếu thấy cần thiết. Số tai của lợn con sẽ được bấm theo mã số của trại là 91 và số tuần mà lợn con được sinh ra. - Thiến lợn đực: Đối với lợn đực nuôi thịt ta cần thiến càng sớm càng tốt. Thông thường trong chăn nuôi lợn nái sinh sản người ta thường thiến lợn vào 7- 10 ngày tuổi. Nhung thực tế trại thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 5 sau khi sinh Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: Dao thiến, cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xi – lanh tiêm và thuốc kháng sinh. Thao tác : Đầu tiên là tiêm cho lợn con 1ml/con kháng sinh (Amcoli, Amistin).Sau đó người thiến ngồi ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 đùi sao cho đầu của lợn con hướng xuống dưới. Một tay nặn sao cho dịch hoàn nổi rõ, tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn. Dùng 2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp vào giật dịch hoàn ra, dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn và bôi cồn vào vị trí thiến. 3.4.2.4 Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn tại trại
  49. 42 Trong quá trình thực tập tại trang trại, em đã tham gia chăm sóc nái chửa, nái đẻ, tham gia đỡ đẻ, chăm sóc cho lợn con theo mẹ đến cai sữa. em trực tiếp vệ sinh, chăm sóc, theo dõi trên đàn lợn. Quy trình chăm sóc nái chửa, nái chờ đẻ, nái đẻ, đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa được áp dụng theo đúng quy trình của công ty như sau:  Quy trình chăm sóc nái chửa Lợn nái chửa được nuôi chủ yếu ở chuồng nái chửa 1, chuồng nái chửa 2. Hàng ngày vào kiểm tra lợn để phát hiện lợn phối không đạt, lợn nái bị sảy thai, lợn mang thai giả, vệ sinh, dọn phân không để cho lợn nằm đè lên phân, lấy thức ăn cho lợn ăn, rửa máng, phun thuốc sát trùng hàng ngày, xịt gầm, cuối giờ chiều phải chở phân ra khu xử lý phân. Lợn nái chửa được ăn loại thức ăn hỗn hợp 9054/GF08 và 9044/GF07 của hãng Greenfeed với khẩu phần ăn phân theo tuần chửa, thể trạng, lứa đẻ như sau: Đối với nái chửa từ tuần 1 đến tuần chửa 12 ăn thức ăn 9044/GF08 với tiêu chuẩn 1,5 - 2kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày. Đối với nái chửa từ tuần 13 đến tuần chửa 14 ăn thức ăn 9044 /GF07 với tiêu chuẩn 2,5 - 3kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày. Đối với nái chửa từ tuần 15 trở đi ăn thức ăn 9054/GF08 với tiêu chuẩn 3,5 - 4kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày.  Quy trình chăm sóc nái đẻ (nái nuôi con) Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp và rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu chuẩn ăn 3kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng, chiều.
  50. 43 Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 3 ngày, giảm tiêu chuẩn ăn xuống 0,5kg/con/bữa. Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn từ 0,5 - 5kg/con/ngày chia làm hai bữa sáng, chiều mỗi bữa tăng lên 0,5kg. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc nuôi nhiều con có thể cho ăn tăng lượng thức ăn lên 6kg/con/ngày.  Quy trình chăm sóc đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa Ngay sau khi đẻ ra lợn được tiến hành cắt rốn, bấm nanh. - Lợn con 2 - 3 ngày tuổi được cắt số tai, cắt đuôi và tiêm Fe - Dextran - B12 10%, cho uống thuốc phòng phân trắng lợn con và tiêu chảy. Lợn con 3 - 4 ngày tuổi cho lợn con uống thuốc phòng cầu trùng. Lợn con 4 - 5 ngày tuổi tiến hành thiến lợn đực. Lợn con được từ 4 - 6 ngày tuổi tập cho ăn bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh 9014. Lợn con được 10 - 14 ngày tuổi tiêm vaccine Mycoplasma. Lợn con được 16 - 18 ngày tuổi tiêm phòng vaccine dịch tả. Lợn con được 21 - 26 ngày tuổi tiến hành cai sữa cho lợn con.  Các quy trình khác * Phát hiện lợn nái động dục: - Khi cho lợn nái đi qua các ô chuồng nhốt lợn đực thì lợn nái có biểu hiện kích thích thần kinh tai vểnh lên và đứng ì lại. - Lợn có biểu hiện bồn chồn hay đứng lên nằm xuống, ta quan sát được vào khoảng 10 - 11 giờ trưa. - Cơ quan sinh dục có biểu hiện: Âm hộ sung huyết, sưng, mẩy đỏ, có dịch tiết chảy ra trong, loãng và ít, sau đó chuyển sang đặc dính. Sau khi phát hiện lợn nái động dục thì công việc quan trọng quyết định đến hiệu quả thụ thai là thụ tinh nhân tạo cho lợn nái.
  51. 44 3.4.3. Quy trình xuất bán lợn Trong 6 tháng thực tập tại trại em còn được tham gia vào công tác xuất lợn con của trại. Lợn con thường được cai sữa ở 23 ngày tuổi, sau khi tách mẹ sẽ được nuôi thêm 2 – 3 ngày rồi xuất bán. Trước khi xuất bán, cán bộ kỹ thuật của trại sẽ tiến hành chọn lọc lợn, những lợn khỏe mạnh, đủ tiêu chuẩn xuất bán sẽ được đánh dấu bằng mực xanh. Trong quá trình xuất bán, sẽ chọn những lợn đã được đánh dấu và lùa lợn đi ra theo con đường dành riêng cho lợn xuất bán. Ở đây lợn con được cân khối lượng, ghi chép số lượng và đưa lên xe tải để vận chuyển đi. 3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu thu thập được xử lý trên phần mềm Microshoft Excel
  52. 45 Phần 4 KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ 4.1. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh tại trại 4.1.1. Phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh, sát trùng tại trại Việc vệ sinh sát trùng chuồng trại có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Vê ̣sinh bao gồm nhiều yếu tố : vê ̣sinh môi trường xung quanh, vê ̣sinh đất, nước, vê ̣sinh chuồng trại Trong thời gian thực tâp ̣ em đã thưc ̣hiện tốt quy trình vê ̣sinh trong chăn nuôi. Hàng ngày em tiến hành thu gom phân thải, rửa chuồng, quét lối đi laị giữa các dãy chuồng. Định kỳ tiến hành phun thuốc sát trùng, quét vôi, phun thuốc diệt muỗi, quét mạng nhện trong chuồng và rắc vôi bôṭ ở cửa ra vào chuồng, đường đi nhằm đảm bảo vệ sinh. Sau đây là kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực tập tại trại của em. Bảng 4.1. Kêt quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại Số lượng Kết quả Tỷ lệ STT Công việc (lần) (lần) (%) Vệ sinh chuồng trại hàng ngày (1 1 180 165 91,66 lần/ngày) Phun sát trùng định kỳ xung 2 80 25 31,25 quanh chuồng trại (3 lần/tuần) Quét và rắc vôi đường đi (1 3 180 60 33,33 lần/ngày) Nhìn vào bảng 4.1 ta có thể thấy việc vệ sinh, sát trùng hàng ngày luôn được trại quan tâm và làm thường xuyên hàng ngày. Theo quy định của trại việc vệ sinh chuồng và rắc vôi đường đi sẽ được thực hiện ít nhất 1 lần/ngày, và trong 6 tháng thực tập tại trại em đã thực hiện được 165 lần (đạt tỷ lệ 91,66% so với số lần phải vệ sinh trong 6 tháng) vệ sinh chuồng và 56 lần rắc
  53. 46 vôi bột đường đi (đạt tỷ lệ 33,33% so với số lần phải rắc vôi chuồng trong 6 tháng tại trại). Phun sát trùng xung quanh chuồng trại được phun định kỳ 3 lần/tuần. Nếu trại có tình hình nhiễm dịch bệnh thì sẽ được tăng cường việc phun sát trùng lên hàng ngày. Qua đó, em đã biết được cách thực hiện việc vệ sinh, sát trùng trong chăn nuôi như thế nào cho hợp lý nhằm hạn chế được dịch bệnh cũng như nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi. 4.1.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại bằng thuốc và vaccine Quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lợn của trang trại được thực hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra trong cơ thể chúng một sức miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Trong 6 tháng thực tập tại trại, em đã được tham gia vào quy trình phòng bệnh cho đàn lợn con tại trại và sau đây là kết quả của quy trình phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho đàn lợn con tại trại được trình bày qua bảng 4.2 Bảng 4.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn con tại trại Số Thực hiện Ngày Tỷ lệ Tiêm vắc xin phòng bệnh lượng được tuổi (%) (con) (con) Tiêm chế phẩm Fe - B12 phòng 1064 1064 100 3 bệnh thiếu máu 3 Cầu trùng (cho uống) 1064 1064 100 18 - 21 Mycoplasma + còi cọc 1047 591 56,45 Nhìn vào bảng 4.2. ta có thể thấy được tổng quát về việc phòng bệnh cho đàn lợn con bằng thuốc và vắc xin của trại. Lợn con từ 2 -3 ngày tuổi sẽ được tiêm chế phẩm Fe - Dextran - B12 để phòng bệnh thiếu máu ở lợn con, đồng thời tăng sức đề kháng cho lợn con và 100% số lợn con ở trại đều phải được tiêm sắt. Trong 6 tháng, em đã tiêm Fe -Dextran - B12 10% và cho uống cầu trùng được 1064 con lợn con (đạt tỷ lệ là 100%).
  54. 47 Lợn con từ 18-21 ngày tuổi sẽ được tiêm vaccine Mycoplasma phòng bệnh suyễn lợn, em đã tiêm được cho 591 con (đạt 56,45% so với số lợn con phải tiêm). Ngoài tiêm phòng cho đàn lợn con em còn được tham gia vào việc tiêm phòng cho đàn lợn nái tại trại. Do kinh nghiệm, kỹ thuật chưa có nhiều nên chúng em không được trực tiếp tiêm vaccine phòng bệnh cho đàn lợn nái mà chỉ được gián tiếp tham gia. 4.2. Kết quả công tác chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn tại trại 4.2.1 Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại em đã được tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với cán bộ kỹ thuật của trại. Qua đó chúng em đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh. Sau đây là kết quả của công tác chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái tại trại. Bảng 4.3 Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái Số lợn Số lợn điều Tỷ lệ (%) Số lợn điều trị không STT Bệnh lợn mắc mắc bệnh trị khỏi khỏi Khỏi Chết (con) (con) (con) 1 Viêm tử cung 24 21 4 87,50 12,50 2 Viêm vú 13 12 1 92,30 7,70 Nhìn vào bảng 4.3 ta thấy số lợn mắc bệnh viêm tử cung là cao nhất và cao hơn số lợn mắc bệnh viêm vú rất nhiều. Theo em sở dĩ tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái nuôi tại trại cao là do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi cao độ với điều kiện của nước ta, như nuôi dưỡng, chăm sóc chưa thật tốt và thời tiết không thuận lợi. Đây chính là nguyên nhân cơ bản gây nên bệnh viêm tử cung của lợn nái.
  55. 48 Mặt khác, do trong quá trình phối giống cho lợn nái bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Hai là, do quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai làm cho vi khuẩn từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập vào gây viêm. Số lợn nái mắc bệnh viêm vú là 13 con cũng khá cao, theo em thấy nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, vi khuẩn theo máu đến vú gây viêm vú, ngoài ra còn có thể do trong quá trình mài nanh ở lợn con sơ sinh chưa tốt, trong quá trình lợn con bú sữa gây tổn thương đầu núm vú lợn mẹ. Tỷ lệ lợn chết do bệnh viêm tử cung (12,50%) cao hơn so với bệnh viêm vú (7,70%) vì bệnh viêm tử cung việc chẩn đoán bệnh thường khó khăn hơn, khi chúng ta phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở thể viêm nặng và điều trị khó khăn hơn. Vì vậy để hiệu quả điều trị bệnh đạt hiệu quả cao, cần phải chẩn đoán bệnh cho lợn kịp thời và chính xác. Để chẩn đoán bệnh cho lợn kịp thời thì yêu cầu hàng ngày khi vào chuồng lợn để vệ sinh chuồng trại và cho lợn ăn thì cần phải quan sát tổng thể tình trạng sức khỏe của đàn lợn để phát hiện kịp thời lợn bị bệnh. Tránh trường hợp phát hiện muộn thì tình trạng bệnh sẽ nặng hơn, sẽ làm cho công tác điều trị khó khăn, chi phí điều trị tăng cao. 4.2.2. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn con theo mẹ và lợn thịt giai đoạn sau cai sữa đến xuất bán Bảng 4.4 . Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn con tại trại Số lợn điều Số lợn mắc Tỷ lệ STT Bệnh lợn mắc trị khỏi (con) (%) (con) 1 Phân trắng 257 223 86,77 2 Viêm phổi 179 166 92,74
  56. 49 Qua bảng 4.4 ta thấy lợn con ở trại mắc bệnh về hội chứng tiêu chảy là cao nhất (257 con) và tỷ lệ điều trị khỏi bệnh là thấp nhất (86,77%) , nguyên nhân là do lợn con mới đẻ ra sức đề kháng còn yếu dễ bị ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như vi sinh vật xâm hại hay nhiệt độ chuồng nuôi không thích hợp (lạnh quá hay nóng quá) đặc biệt vào những ngày mùa đông nhiệt độ xuống thấp cần phải có ô úm và bóng điện sưởi cho lợn con. Cách khắc phục tốt nhất để hạn chế lợn con mắc bệnh tiêu chảy là cho lợn con bú sữa đầu ngay sau khi đẻ và giữ ấm cơ thể cho lợn con. Bên cạnh đó, việc thời tiết lạnh mà lợn con không được giữ ấm sẽ khiến lợn mắc một số bệnh về đường hô hấp như viêm phổi, chính vì vậy làm cho số lợn con mắc bệnh viêm phổi cũng khá cao (166 con) 4.2.3. Kết quả thực hiện biện pháp phẫu thuật trên đàn lợn con tại trại Trong thời gian thực tập tại trại em vừa tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn vừa được học và làm một số các thao tác trên lợn con như đỡ lợn đẻ, mài nanh, cắt đuôi, thiến lợn đực: Bảng 4.5 Kết quả thực hiện phẫu thuật trên đàn lợn con Kết quả (an toàn) Số lượng STT Công việc Thực hiện Tỷ lệ (con) (con) (%) 1 Đỡ lợn đẻ 1064 803 75,46 2 Mài nanh, cắt đuôi 1064 938 88,16 3 Thiến lợn đực 451 387 85,81 Qua bảng 4.5 có thể thấy trong 6 tháng thực tập em đã thực hiện được các công việc về phẫu thuật và thủ thuật trên đàn lợn con là không đồng đều. Công việc mài nanh, cắt đuôi là được thực hiện nhiều nhất với số con làm được là 938 con (đạt 88,16%). Vì lợn con sau khi sinh cần phải mài nanh luôn nếu không sẽ làm tổn thương vú lợn mẹ khi bú cũng như tránh việc lợn con cắn nhau, cắt đuôi và thiến lợn đực sớm để vết thương nhanh liền, ít chảy máu và giảm stress cho lợn con.
  57. 50 Qua những công việc trên đã giúp em học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm trong chăm sóc lợn con cũng như nâng cao tay nghề về các thao tác kỹ thuật trên lợn con, đồng thời giúp em mạnh dạn hơn, tự tin hơn vào khả năng của mình, hoàn thành tốt công việc được giao. 4.3 Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn Chăm sóc, nuôi dưỡng là một quy trình không thể thiếu của bất kỳ trại chăn nuôi nào, chính vì vậy trong suốt 6 tháng thực tập tại trại em đã được tham gia và làm các công việc về nuôi dưỡng, chăm sóc cho đàn lợn tại trại Em đã được học hỏi và mở mang kiến thức rất nhiều về cách cho ăn, hiểu được nhu cầu dinh dưỡng dành cho những loại lợn nào, các thao tác kỹ thuật để chăm sóc lợn mẹ tốt Và sau đây là kết quả em đã thực hiện được Bảng 4.6. Số lượng lợn nái chửa, nái nuôi con, lợn con và lợn thịt trực tiếp chăm sóc trong 6 tháng thực tập Lợn thịt (cai Nái đẻ, nái nuôi Tháng Nái chửa Lợn con sữa – xuất con chuồng) 11/2017 - 18 201,6 - 12/2017 - 37 414,4 - 1/2018 - 40 448 - 2/2018 - - - 545 3/2018 - - - 158 4/2018 - - - 134 18/5/2018 75 - - - Tính chung 75 95 1064 1469 Trong quá trình thực tập em đã trực tiếp tham gia chăm sóc 95 lợn nái đẻ và nuôi con và 1064 lợn con, 75 lợn nái chửa, 1469 lợn thịt (cai sữa – xuất
  58. 51 chuồng). Số lợn nái đẻ và nuôi con chăm sóc có sự biến động khác nhau sở dĩ là do: trong tháng đầu mới xuống thực tập tại trại, do chưa quen công việc kỹ thuật và do sự phân công của trại em được phân công trực tiếp làm tại chuồng lợn nái đẻ, nái nuôi con và trực tiếp làm các công việc như cho ăn, dọn vê sinh chuồng, đỡ đẻ cho lợn , vì vậy số lượng lợn nái chăm sóc nhiều hơn so với các tháng tiếp theo. Từ tháng 2 đến tháng 4 của năm 2018, em được làm việc trực tiếp tại chuồng cai sữa và chuồng lợn thịt. Tháng 2 số lợn con cai sữa em trực tiếp chăm sóc là 545 con, đến tháng 3 số lượng lợn thịt trực tiếp chăm sóc là 158 con, tháng 4 số lượng lợn thịt trực tiếp chăm sóc giảm xuống còn 134 con. Tháng 5 số lợn nái chửa em trực tiếp chăm sóc là 75 con và em chỉ thực hiện được hai tuần của tháng 5 là kết thúc đợt thực tập. Bảng 4.7. Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn Thực hiện Số lượng Tỷ lệ STT Công việc được (số lần) (%) (số lần) 1 Cho lợn ăn hàng ngày 360 159 44,16 2 Tắm chải cho lợn mẹ 180 75 41,66 3 Xuất lợn con 48 25 52,08 Như chúng ta đã biết quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và khả năng sinh sản của lợn nái. Chính vì vậy, cần phải cho lợn nái và lợn con ăn đúng bữa và đủ lượng thức ăn dinh dưỡng theo quy định. Lợn nái đẻ và nuôi con được cho ăn 2 lần/ngày (bữa sáng và chiều), lợn nái chửa ăn 1 lần/ngày vào buổi sáng. Việc tắm, chải cho lợn nái sinh sản cũng vô cùng quan trọng và được thực hiện thường xuyên (1 lần/ngày) và trong 6 tháng thực tập em đã làm được 75 lần (đạt 41,66%) thấp hơn so với việc cho lợn ăn hàng ngày là 159 lần (đạt 44,16%).
  59. 52 Việc xuất bán lợn con được thực hiện trung bình 2 lần/tuần như vậy trong 6 tháng thực tập tại trại có 48 lần xuất lợn con và em đã tham gia vào 25 lần (đạt 52,08%). Thông qua các nội dung công việc làm tại trại trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho các đối tượng lợn tại trại, em đã hoàn thiện được các kỹ năng cũng như hiểu rõ hơn về nguyên lý của các thao tác kỹ thuật trong chăm sóc, nuôi dưỡng lợn. Kỹ thuật nuôi và chăm sóc lợn nái mang thai là thời kỳ rất quan trọng của quá trình chăn nuôi nhằm đảm bảo cho bào thai phát triển bình thường, lợn nái đẻ được nhiều con, lợn con khỏe mạnh, có trọng lượng sơ sinh cao. Vì vậy, để lợn con đạt khối lượng sơ sinh cao cần tăng khoảng 25-30% lượng thức ăn cho lợn nái chửa. Thông thường, lợn nái chửa cần 14% tỉ lệ protein thô, 0,9% tỉ lệ canxi và 0,45% tỉ lệ phốt pho trong khẩu phần ăn. Mùa hè có thể giảm mức ăn nhưng phải tăng lượng protein từ 14% lên 16%, nâng mức khoáng và vitamin trong khẩu phần. Tuy nhiên cũng cần tránh vỗ béo lợn nái quá mức trong giai đoạn gần sinh. Cụ thể ở thời kỳ mang thai đầu tiên nên cho ăn từ 1,8 – 2 kg/con/ngày. Sang giai đoạn thứ 2 khi lợn nái mang thai khoảng 85 – 110 ngày, cho ăn từ 2 – 2,5 kg/con/ngày. Đến giai đoạn từ 111 – 113 ngày, cho ăn 2 kg/con/ngày. Và trước khi đẻ 1 ngày – không nên cho ăn. Trong quá trình chăm sóc cần tắm chải cho lợn nái, tăng cường xoa bóp bầu vú để mạch máu dễ lưu thông, phát triển tuyến sữa, lợn dễ quen người và dễ tiếp xúc khi đỡ đẻ, không tắm chải 5 ngày trước khi đẻ để tránh cho lợn đẻ non trước ngày dự kiến.
  60. 53 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trại lợn công ty Phát Đạt - thị xã Phúc Yên – tỉnh Vĩnh Phúc, em có một số kết luận về trại như sau : - Về hiệu quả chăn nuôi của trại : + Hiệu quả chăn nuôi của trại khá tốt + Lợn con cai sữa và lợn thịt luôn được xuất bán thường xuyên. Đối với lợn thịt tại trại phải đạt khối lượng 100kg trở lên mới đủ tiêu chuẩn để xuất chuồng. + Tỷ lệ lợn sơ sinh (11,20 con/đàn) và lợn cai sữa (9,86 con/đàn) của trại cũng đã tăng lên cao hơn so với thời gian đầu. Để đạt được kết quả này là sự cố gắng không ngừng trong công việc của cán bộ kỹ thuật và công nhân trong trại. - Về công tác thú y của trại: + Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại sản xuất lợn giống luôn thực hiện nghiêm ngặt, với sự giám sát chặt chẽ của kỹ thuật + Công tác vệ sinh: Hệ thống chuồng trại luôn đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Hàng ngày có công nhân quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom phân, nước tiểu, vệ sinh cống rãnh, đường đi trong trại được quét dọn và rắc vôi theo quy định. Công nhân, kỹ sư, khách tham quan khi vào khu chăn nuôi lợn đều phải sát trùng, tắm bằng nước sạch trước khi thay quần áo bảo hộ lao động. + Công tác phòng bệnh: Trong khu vực chăn nuôi, hạn chế đi lại giữ các chuồng, hành lang giữa các chuồng và bên ngoài chuồng đều được rắc vôi bột, các phương tiện vào trại sát trùng một cách nghiêm ngặt ngay tại cổng vào. Với phương châm phòng bệnh là chính nên tất cả lợn ở trại đều được cho uống thuốc, tiêm phòng vaccine đầy đủ. Quy trình phòng bệnh bằng vaccine được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với từng loại lợn có quy trình tiêm riêng, từ lợn nái,
  61. 54 lợn hậu bị, lợn đực và lợn con. Lợn được tiêm vắc xin ở trạng thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bênh truyền nhiễm và các bệnh mãn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn. Tỷ lệ tiêm phòng vaccine cho đàn lợn đạt 100%. - Những chuyên môn đã được học tại trại : Qua 6 tháng thực tập tại trại em đã được học hỏi và chỉ dạy rất nhiều điều về kiến thức cũng như các thao tác kỹ thuật trong chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn. Những công việc em đã được học và làm như: + Đỡ lợn đẻ + Mài nanh, bấm đuôi, tiêm chế phẩm Fe - Dextran - B12 10% cho lợn con + Thiến lợn đực. + Tham gia vào công tác tiêm vaccine phòng bệnh cho đàn lợn con + Tham gia vào quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn con và lợn mẹ của trại (cho lợn ăn, tắm chải cho lợn mẹ, dọn vệ sinh chuồng , ) 5.2. Đề nghị - Trại lợn cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái để giảm tỷ lệ lợn nái mắc các bệnh về sinh sản nói riêng và bệnh tật nói chung - Thực hiện tốt công tác vệ sinh trước, trong và sau khi đẻ, có thao tác đỡ đẻ khoa học để giảm bớt tỷ lệ mắc các bệnh về đường sinh sản ở lợn nái. - Thực hiện một số các biện pháp để làm hạn chế tỷ lệ nhiễm bệnh trên đàn lợn con như: + Tiêm phòng chế phẩm Fe - Dextran - B12 10%cho lợn mẹ 2 - 3 tuần trước khi sinh + Tiêm chế phẩm Fe - Dextran - B12 10% cho lợn con lúc 3 ngày tuổi và tiêm nhắc lại lúc 10 ngày tuổi + Đảm bảo khí hậu chuồng nuôi thích hợp với từng giai đoạn phát triển của lợn con, đặc biệt giai đoạn từ 8 - 21 ngày tuổi.
  62. 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu Tiếng Việt 1. Nguyễn Tấn Anh, Nguyễn Duy Hoan (1998), Sinh lý sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr 29 - 35. 3. Lê Xuân Cương (1986), Năng suất sinh sản của lợn nái, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp, tp Hồ Chí Minh 5. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Đoàn Thị Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 8. Hội chăn nuôi Việt Nam (2006), Cẩm nang chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 35 - 64. 9. Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huê Viên, Phan Văn Kiểm (2003), Giáo trình truyền giống nhân tạo vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Trương Lăng (1996), Nuôi lợn gia đình, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 12. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 13. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
  63. 56 14. Lê Văn Năm (2009), Hướng dẫn điều trị một số bệnh ở gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên (2016), Giáo trình Dược lý học thú y, Nxb Đại học Hùng Vương. 16. Nguyễn Như Pho (2002), “Ảnh hưởng của một số yếu tố kỹ thuật chăn nuôi đến hội chứng M.M.A và khả năng sinh sản của heo nái”, Luận án Tiến sĩ nông nghiệp, trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. 17. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 18. Nguyễn Khánh Quắc, Từ Quang Hiển, Nguyễn Quang Tuyên, Trần Văn Phùng (1995), Giáo trình chăn nuôi lợn, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên 19. Phan Đình Thắm (1996), Giáo trình chăn nuôi lợn cao học, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 20. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học động vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Thanh (2003), “Khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại Đồng bằng sông Hồng và thử nghiệm điều trị”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập 10. 23. Nguyễn Văn Thanh (2004), Phòng và trị một số bệnh thường gặp ở gia súc, gia cầm, Nxb Lao động và xã hội. 24. Nguyễn Văn Thanh (2007), “Khảo sát tỷ lệ mắc và thử nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí KHKT Thú y, tập 14, số 3. 25. Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Thị Thương, Giang Hoàng Hà (2015), Bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản chăn nuôi theo mô hình gia trại, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 26. Nguyễn Văn Thanh, Trần Tiến Dũng, Sử Thanh Long, Nguyễn Thị Mai
  64. 57 Thơ (2016), Giáo trình bệnh sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 27. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), “Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí KHKT Thú y, tập 17. 28. Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993), Thụ tinh nhân tạo cho lợn ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 29. Nguyễn Thiện, Phan Địch Lân, Hoàng Văn Tiến, Võ Trọng Hốt, Phạm Sỹ Lăng (1996), Chăn nuôi lợn ở gia đình và trang trại, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 30. Trịnh Văn Thịnh (1978), Sổ tay chăn nuôi thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 31. Lê Xuân Thọ, Lê Xuân Cương (1979), Kích tố ứng dụng trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 32. Trekaxova A.V., Daninko L.M., Ponomareva M.I., Gladon N.P., (1983), Bệnh của lợn đực và lợn nái sinh sản (người dịch Nguyễn Đình Chi), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tài liệu tiếng anh 33. Gardner J.A.A., Dunkin A.C., Lloyd L.C. (1990), “Metritis - Mastitis - Agalactia”, in Pig production in Australia. Butterworths, Sydney, pp. Hughes, P.E. (2000), “Feed sows by their backfat”, Feed international, Kotowski, K. (1990), “The efficacy of wisol-T in pig production”, Medycyna weterynaryjna, 46(10). 34. Glawisschning E., Bacher H (1992), “The Efficacy of Costat on E.coli infectedweaning pigs”, 12th IPVS congress, August 17 - 22, pp. 182. 35. McIntosh G. B. (1996), Mastitis metritis agalactia syndrome, Science report, Animal research institute, Yeerongpilly, Queensland, Australia, Unpublish, pp.1 - 4. 36 Nagy B, Fekete PZS (2005), “Enterotoxigenic Escherichia coli inveterinary medicine”, Int J Med Microbiol, pp. 295, pp. 443 - 454. 37 Radosits O. M., Blood D. C., Gay C. C., (1994), “Veterinary medicine”, A textbook of the Diseases of cattle, Sheep, Pigs, Goat and horses, Enght edition
  65. 58 38 Smith B.B., Martineau G., BisaillonA. (1995), “Mammary gland and lactaion problems”, In disease of swine, 7 th edition, Iowa state university press, pp. 40 - 57. 39 UrbanV.P., SchnurV.I., Grechukhin A.N. (1983), “The metritis, mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik selskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69 - 75. III. TÀI LIỆU INTERNET 40. Nguyễn Ánh Tuyết (2015), Bệnh viêm khớp trên lợn con,
  66. PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP Hình 1: Thao tác đỡ lợn nái đẻ Hình 2: Cho lợn vào lồng úm Hình 3: Cắt dây rốn co lợn con Hình 4: Cắt đuôi cho lợn con
  67. Hình 5: Tiêm sắt cho lợn con Hình 6: Phối cho lợn Hình 7: Cho lợn con uống thuốc Hình 8: Mài nanh cho lợn con
  68. Hình 9: Sảy thai Hình 10: Lợn bị viêm tử cung Hình 11: Âm hộ lợn nái sưng do Hình 12: Tra cám cho lợn đẻ khó
  69. Hình 13: Vắc-xin lở mồm long móng Hình 14: Vắc-xin dịch tả lợn Hình 15: Thuốc kháng sinh Alistin