Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên

pdf 86 trang thiennha21 20/04/2022 4491
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_tri_thuc_ban_dia_su_dung_cay_thuoc_tron.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  LƯƠNG TUẤN TÀI NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ QUÂN CHU, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGHUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Sinh Thái & BTĐDSH Khoa : Lâm Nghiệp Khóa : 2016 - 2020 Thái Nguyên - 2020
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  LƯƠNG TUẤN TÀI NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ QUÂN CHU, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGHUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Sinh Thái & BTĐDSH Lớp : K48 - ST&BTĐDSH Khoa : Lâm Nghiệp Khóa : 2016- 2020 Giáo viên hướng dẫn : TS. Đàm Văn Vinh Thái Nguyên - 2020
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này do chính tôi. Các số liệu kết quả nghiên cứu trong khóa luận của tôi hoàn toàn trung thực và chưa công bố hoặc sử dụng để bảo vệ học vị nào. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm Thái Nguyên, ngày 10 tháng 7 năm 2020 Giáo viên hướng dẫn Sinh viên TS. Đàm Văn Vinh Lương Tuấn Tài Xác nhận của giáo viên chấm phản biện Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa sai sót sau khi hội đồng chấm yêu cầu (Ký, ghi rõ họ tên)
  4. ii LỜI CẢM ƠN Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân và được sự nhất trí của Ban giám hiệu Nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cùng giảng viên hướng dẫn thầy TS. Đàm Văn Vinh và sự hỗ trợ của cô TS. Nguyễn Thị Thu Hiền tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa và sử dụng cây thuốc tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên” Trong quá trình thực tập, ngoài sự nỗ lực của bản thân còn có sự giúp đỡ của nhiều tổ chức, cá nhân. Tôi xin chân thành cảm sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong Khoa Lâm nghiệp và đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới hai thầy cô giáo – TS. Đàm Văn Vinh, TS. Nguyễn Thị Thu Hiền đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập. Xin được gửi lời cảm ơn đến cán bộ, nhân viên UBND xã Quân Chu, huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên, cùng sự chỉ đạo tận tình của các thầy lang, bà mế thuộc xã Quan Chu đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, tuy nhiên do hạn chế về kinh nghiệm cũng như thời gian và trình độ nghiên cứu nên khóa luận không thể tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý, chỉ bảo của thầy cô cũng như bạn đọc khác để khoác luận được hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 10 tháng 7 năm 2020 Sinh viên LƯƠNG TUẤN TÀI
  5. iii DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được một số cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng phòng và điều trị bệnh 21 Bảng 4.1. Đa dạng của ngành thực vật tại khu vực nghiên cứu 26 Bảng 4.2. Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan 27 Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ 29 Bảng 4.4. Các họ đa dạng nhất ở KVNC 30 Bảng 4.5. So sánh các họ giàu loài ở KVNC (1) với họ giàu loài của hệ thực vật Việt Nam (2) 31 Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống tại khu vực nghiên cứu 32 Bảng 4.7. Sự đa dạng về nơi sống của các loài cây thuốc ở KVNC 34 Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở khu vực nghiên cứu 36 Bảng 4.9. Bộ phận sử dụng của cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng của cộng đồng dân tộc Dao, Sán Chí tại xã Quân Chu 38 Bảng 4.10. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể 41 Bảng 4.11. Danh sách cây thuốc được cả cả 3 dân tộc ở KVNC sử dụng 44 Bảng 4.12. Danh sách cây thuốc được các dân tộc cùng sử dụng chữa nhóm bệnh về xương khớp 46 Bảng 4.13. Danh sách cây thuốc các dân tộc cùng sử dụng chữa nhóm bệnh về gan, thận, dạ dày 47 Bảng 4.14. Số lượng thầy thuốc được phỏng vấn theo từng dân tộc ở KVNC 48 Bảng 4.15. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Xạ đen và cây Khoan cân đằng 50
  6. iv DANH MỤC HÌNH Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài 22 Hình 4.1. Hình ảnh một số cây thuốc khu vực nghiên cứu 28 Hình 4.2. Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc 42 Hình 4.3: Hoạt tính ức chế E. coli và S. aureus của cây Xạ đen và cây Khoan cân đằng 51
  7. v DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt/Ký hiệu Cụm từ đầy đủ DLĐCT Danh lục đỏ cây thuốc EN Nguy cấp IIA Hạn chế khai thác sử dụng vì mục đích thương mại KVNC Khu vực nghiên cứu NK Nhân khẩu SĐVN - 2007 Sách đỏ Việt Nam 2007 VU Sắp nguy cấp
  8. vi MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC BẢNG iii DANH MỤC HÌNH iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu yêu cầu của đề tài 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài 3 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học 3 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3 PHẦN 2. TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU 4 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 4 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và thế giới 4 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới 4 2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước 7 2.3. Tổng quan về khu vực nghiên cứu 16 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 16 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 18 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19 3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 19 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 19 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu: 19 3.2. Nội dung nghiên cứu 19
  9. vii 3.3. Phương pháp nghiên cứu 20 3.3.1. Phương pháp kế thừa 20 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng 20 3.3.3.Phương pháp thu thập mẫu 22 3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc 23 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp 23 3.3.6. Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn 23 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 26 4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tinth Thái Nguyên 26 4.1.1. Đa dạng bậc trong bậc taxon 26 4.1.2. Đa dạng về dạng cây của nguồn tài nguyên cây thuốc 32 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của nguồn tài nguyên cây thuốc 34 4.2. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên 36 4.3. Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên 37 4.3.1. Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu 37 4.3.2. Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu 40 4.3.3. Sự giao thoa giữa các dân tộc về vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc ở xã Quân Chu 43 4.3.4. Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở xã Quân Chu 48 4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu 50
  10. viii PHẦN 5 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 53 5.1. Kết luận 53 5.2. Tồn tại 54 5.3. Kiến nghị 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO 56 PHỤ LỤC 61
  11. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần Thúy và cs. 2005). Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng cộng đồng dân tộc thiểu số đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri thức dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc chữa bệnh. Cây thuốc dân gian từ lâu đã được nhiều người quan tâm đến, đây là nguồn tài nguyên thực vật có giá trị thiết thực cho các cộng đồng địa phương trong việc phòng chữa bệnh, ngoài ra nó còn có giá trị trong việc bảo tồn nguồn gen,cung cấp cho lĩnh vực dược học. Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng và phong phú, trong đó có tài nguyên cây thuốc, đặc biệt là khu vực Trường Sơn. Thêm vào đó với những kinh nghiệm đã được tích lũy qua 4000 năm lịch sử, đã sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ cho nhu cầu cuộc sống từ ăn, mặc, ở, chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Đó là một ưu thế lớn trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thực vật trong đó có nguồn tài nguyên cây thuốc góp phần nâng cao đời sống và sức khỏe của mọi người đặc biệt là các đồng bào Dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa nơi cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên thiên nhiên trong đó có rừng. Bằng những kinh nghiệm dân gian của những người làm thuốc trong mỗi dân tộc, những tri thức về cây thuốc được truyền miệng và lưu truyền cho
  12. 2 con cháu đời sau, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trải qua thời gian, các bài thuốc có tính độc đáo và trở nên thông dụng trong việc chăm sóc sức khỏe người dân của cộng đồng mình và những dân tộc xung quanh. Vì vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc cũng như bảo tồn tri thức y học dân gian được tiến hành và mang lại giá trị khoa học và thực tiễn. Thái Nguyên là một vùng đất giàu tài nguyên, khí hậu nhiệt đới ẩm, có thảm thực vật rất đa dạng, phong phú và là nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống như: Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu, Dao, Từ rất lâu đời, đồng bào các dân tộc thiểu số ở tỉnh Thái Nguyên đã có truyền thống chữa bệnh bằng cây thuốc, mỗi dân tộc lại mang bản sắc và những kinh nghiệm chữa bệnh bằng thực vật riêng, đặc trưng cho dân tộc mình. Trong số đó có đồng bào các dân tộc thiểu số tại xã Quân Chu- Huyện Đại Từ cũng có nhiều kinh nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng cây thuốc. Tuy nhiên, hiện nay diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tình trạng khai thác, mua bán diễn ra một cách phức tạp, dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm. Mặt khác những bài thuốc được đồng bào được đồng bào các dân tộc thiểu số sử dụng từ lâu đời trong việc phòng và trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở khoa học của các bài thuốc chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con đường khoa học. Vì vậy, để góp phần bảo vệ nguồn gen cây thuốc, bảo tồn và phát triển các bài thuốc của cộng đồng các dân tộc tại xã Quân Chu - Huyện Đại Từ, tôi đề xuất ý tưởng đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”. 1.2. Mục tiêu yêu cầu của đề tài
  13. 3 - Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của một số cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện có ở khu vực nghiên cứu. - Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được một số cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên sử dụng trong phòng và trị bệnh. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học - Xác định tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao tại khu vực nghiên cứu. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
  14. 4 PHẦN 2 TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu Phòng và chữa bệnh bằng các loài thảo dược đã được con người sử dụng từ hàng ngàn năm nay. Nó vẫn đang tồn tại và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hàng năm, con người đã tìm ra được những hoạt chất quý trong các loài thảo dược có thể phòng và chữa trị được những căn bệnh từ đơn giản hàng ngày như cảm cúm, ho sốt đến những căn bệnh nan y như ung thư, bệnh tim, suy thận, hay những căn bệnh nhiệt đới nguy hiểm như dịch cúm A H5N1, H1N1, Các cây thuốc và bài thuốc có được nhờ kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ giờ đây đang dần mất đi theo thời gian. Do đó việc gìn giữ vốn kiến thức quý báu trong việc sử dụng cây thuốc và bài thuốc từ thảo dược là việc hết sức cần thiết. Theo tổ chức y tế thế giới WHO, khoảng 80% dân số hiện nay trên thế giới vẫn dựa vào thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.Vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và bài thuốc cho thế hệ hôm nay và mai sau. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và thế giới 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới Tổ tiên loài người từ khi xuất hiện đã gắn bó với thiên nhiên, trải qua quá trình đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật để sinh tồn. Trong quá trình đó, tổ tiên chúng ta ngay từ khi còn là các tộc người đã sớm phát hiện ra những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, đồng thời trong cuộc sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc và phương pháp chữa bệnh.
  15. 5 Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên Thế giới: Ở Châu Á: Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như: Homervergel G. Ong và Young - Dong Kim (2014) nghiên cứu về thực vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippin đã tìm thấy 142 loài cây dược liệu thuộc 55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh [40]. Tahira Bibia và cs. (2014) nghiên cứu thực vật dân tộc của cây thuốc ở quận Mastung của tỉnh Balochistan, Pakistan đã chỉ ra 102 loài thực vật thuộc 47 họ được người dân sử dụng cho mục đích điều trị các loại bệnh khác nhau [46]. Mi-Jang Song và cs. (2014) khi điều tra và phân tích các kiến thức truyền thống về cây thuốc được sử dụng bởi các cư dân tại Vườn quốc gia (VQG) Gayasan, Hàn Quốc đã điều tra và thống kê 200 loài thực vật thuộc 168 chi và 87 họ được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau như: rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết cắt vết thương [43]. Dol Luitel và cs (2014) khi nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal đã tìm thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau [38]. Ở Châu Âu:
  16. 6 Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ. Seyid Ahmet Sargin và cs. (2013) nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương của Alasehir, Manisa, Thổ Nhĩ Kỳ đã thu thập được 137 loài thực vật được người dân bản địa sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [44]. Ở Châu Mĩ: Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng được thực hiện: Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón và cs., 2014) [39]. Nghiên cứu “Cây thuốc trong bối cảnh văn hóa của một cộng đồng Mapuche – Tehuelche trong thảo nguyên Datagonia Argentina” đã chỉ ra 121 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến tiêu hóa, hô hấp, tim mạch, giảm đau, chống viêm, sản khoa, phụ khoa và sinh dục (Soledad Molares và Ana Ladio, 2014) [45]. Ở Châu Phi: Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú: Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển Agnalazaha Đông Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 loài cây thuốc được
  17. 7 sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi nhận 8 loài được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan đến tình dục như bệnh lậu và giang mai (Mendrika Razafindraibe và cs., 2013) [42]. Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng đồng dân tộc thiểu số Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cs., 2014) [37]. Kết quả nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền bởi những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia, đã thống kê được 49 loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [36]. Ở Châu Úc: Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được thực hiện ở châu Úc còn rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales, Australia, đã ghi nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị các bệnh (Joanne Packera và cs., 2012) [41]. Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu. Hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật. Ngay từ những buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thủy,
  18. 8 trong quá trình tìm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra công dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng ta đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và cs., 2005) [27]. Thế kỷ thứ XI (TCN), nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm miệng, uống nước chè xanh cho mát, nụ vối cho dễ tiêu, điều đó nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Từ thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã biết nấu rượu, biết dùng Thủy ngân để ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ đã biết chữa bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy cs., 2005) [27]. Thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông bị điên được lương y Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm nước Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cs., 2005) [27]. Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên trồng và bán các loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện Dược liệu, 1993) [30]. Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tôn trọng, gọi là “Ông thánh
  19. 9 thuốc Nam”. Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không lấy tiền và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt dùng thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Thời kỳ nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện, có lương y chăm lo việc chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt phòng và chống dịch bệnh cho nhân dân. Trong giai đoạn này có làng thuốc ở thôn Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển (Trần Thúy và cs., 2005) [27]. Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791) đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh dương an toàn trạch” gọi tắt là “Lãn Ông Y Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008) [20]. Suốt 30 năm của cuộc dời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị và dược liệu. Ngoài các bộ sách trên, còn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm” của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [12].
  20. 10 Thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam dược” với 590 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy và cs., 2005) [27]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh, là những danh y nổi tiếng thời này, đã góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về phương thuốc dân gian. Trong thời Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số hoạt động như: thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng chữa bệnh, tổ chức triển lãm y học cổ truyền, (Trần Thúy và cs., 2005) [27]. Đến đầu thế kỷ XX, đã cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người Việt góp công nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược tính hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc. Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210 TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau: “Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá
  21. 11 trị, phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ Văn Chi, 1996) [31]. Vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ sách “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên soạn năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập. Trong đó, tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam (Nguyễn Tập, 2007) [21]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và trrong những năm từ 1959 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các loài cây thuốc trong các công trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản nhiều lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm 2003. Lần tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của tác giả nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [11]. Bộ sách của tác giả đã mang lại giá trị khoa học và giá trị thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại. Trong những năm này, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm Hoàng Hộ, 2006); Trần Đình Lý với cuốn “1900 loài cây có ích” năm 1995, đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [11]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ (Lê
  22. 12 Trần Đức, 1997) [12]. Võ Văn Chi là một nhà thực vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu về các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cs., 2006) [22]. Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong và cs., 2006) [22]. Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [1]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [28] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [29]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược” (Nguyễn Thượng Dong và cs., 2006) [22]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [26]; “Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cộng sự (2000) [27] đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến, Đồng thời, có nhiều công trình nghiên cứu về cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng Quang Châu (2011) [3] đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau; Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải (2003) [5] khi điều tra các loài cây của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ. Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương Lưu Đàm Cư và cộng sự (2004) [13] khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng:
  23. 13 cây lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H’mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc. Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [26] đã xây dựng các mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 năm 2011 tại Hà Nội, đã có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài cây thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam được công bố như: một số kết quả nghiên cứu “Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến (2011) [7] đã chỉ ra 65 loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường sử dụng làm thuốc chữa bệnh về thận; “Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận (2011) [10] đã thu được 35 loài thuộc 27 chi, 21 họ của 2 ngành thực vật bậc cao được sử dụng làm thuốc chữa bệnh thay thế mật gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên; “Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã (2011) [33] đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Trong vài năm gần đây một số các công trình nghiên cứu của một số sinh viên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cũng chỉ ra nguồn đa dạng về tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam như: một số kết quả nghiên cứu;
  24. 14 “Nghiên cứu tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc tày tại xã Phú Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Hoàng Văn Đức (2018) [9] điều tra và thống kê được 147 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 134 chi, thuộc 37 họ tại xã Phú Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên; “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Dương Văn Hưng (2018) [3] điều tra thống kê được 149 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Thông có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dương xỉ có 3 loài thuộc 3 chi và 3 họ, thuộc ngành Mộc lan có 145 loài thuộc 133 chi và 70 họ sử dụng làm thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên; “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai” của tác giả Hoàng Thị Thanh (2019) [8] điều tra đã thống kê được 102 loài thực vật bậc cao thuộc ngành thạch tùng có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dương xỉ với 2 loài thuộc 2 chi và 2 họ, ngành Ngọc lan có 99 loài thuộc 90 chi và 52 họ sử dụng làm thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Thông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Nông Thái Hòa (2018) [24] điều tra đã thu được 137 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan thuộc 129 chi và 72 họ có công dụng làm thuốc tại xã Hoàng Thông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai” của tác giả Vàng Văn Trung (2019) [34] đã thu được 90 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc Ngành Dương Sỉ có 1 loài thuộc 1 họ và 1 chi. Thuộc Ngành Ngọc lan
  25. 15 có 89 loài thuộc 80 chi, 52 họ sử dụng làm thuốc tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai” của tác giả Lò Văn Nhan (2019) [16] điều tra đã thu được 91 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan có 88 loài và thuộc 78 chi và 46 họ, thuộc ngành Dương sỉ với 1 loài thuộc 1 chi và 1họ, thuộc ngành Thạch tùng có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dây gắm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ có công dụng làm thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Vàng A Lả (2018) [35] đã thu được 183 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc Ngành Dương xỉ có 2 loài thuộc 2 họ và 2 chi. Thuộc Ngành Nấm đảm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ. Thuộc Ngành Mộc lan có 180 loài thuộc 156 chi và 87 họ có công dụng làm thuốc chữa bệnh tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên; “Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong đồng bào dân tộc Bru- Vân Kiểu ở xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” của tác giả Lương Minh Ngọc (2018) [15] điều tra đã thu được 52 loài thực vật ngành Mộc Lan thuộc 48 chi và 31 họ có công dụng làm thuốc tại xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai” của tác giả Nguyễn Minh Hiếu (2019) [23] điều tra đã xác định được 75 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan có 71 loài thuộc 69 chi và 44 họ, thuộc ngành Dương sỉ với 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Thạch tùng có 2 loài thuộc 2 chi và 1 họ có công dụng làm thuốc tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai;
  26. 16 “Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong một số dân tộc thiểu số tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lào Cai” của tác giả Lò Thị Quý (2018) [14] điều tra đã thu được 52 loài thực vật ngành Mộc Lan thuộc 48 chi và 31 họ có công dụng làm thuốc tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lào Cai. Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc, các bài thuốc không những mang lại những giá trị khoa học, giá trị thực tiễn sâu sắc mà còn đóng góp và công tác bảo tồn nguồn dược liệu nước nhà, bảo tồn những bài thuốc hay. Nhằm góp phần, bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 2.3. Tổng quan về khu vực nghiên cứu 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu * Vị trí địa lý: Xã Quân Chu nằm ở phía đông nam của huyện Đại Từ, cách trung tâm huyện 20 km có trục đường tỉnh lộ 261 chạy qua trung tâm xã. Có địa giới hành chính như sau: + Phía Đông: Giáp thị trấn Quân Chu; + Phía Nam: Giáp giáp xã Phúc Thuận- Thị xã Phổ Yên; + Phía Tây Nam: Giáp với dãy núi Tam Đảo- tỉnh Vĩnh Phúc; + Phía Bắc: Giáp xã Cát Nê. Có trục đường tỉnh lộ 261 chạy qua trung tâm xã tương đối thuận lợi cho giao thương hàng hóa. Xã có 1.165 hộ với 4.596 khẩu, được phân bố trên 19 xóm, xóm ít nhất 20 hộ, xóm nhiều nhất 156 hộ. * Đặc điểm địa hình: Là xã miền núi phía Tây và Tây Nam nằm dưới chân dãy núi Tam Đảo với địa hình chủ yếu là đồi núi cao, tiếp đến là dạng đồi bát úp và địa hình bằng
  27. 17 phẳng, độ cao trung bình 80m so với mặt nước biển; phía Bắc và Đông của xã là các đồi gò nằm xen giữa các khu dân cư và những cánh đồng có diện tích nhỏ hẹp. Địa hình xã nghiêng dần từ phía Đông Bắc sang phía Tây Nam . * Địa chất thổ nhưỡng Xã Quân Chu tổng diện tích đất tự nhiên là 4.041,43 ha. Trong đó: - Diện tích nhóm đất nông, nông, lâm nghiệp là: 3.611,1ha, chiếm 89,35%, diện tích đất tự nhiên bao gồm: + Đất trồng lúa nước: 86,5ha. + Đất trồng cây hàng năm khác: 25,7ha. + Đất trồng cây lâu năm: 680,76ha. + Đất lâm nghiệp: 2.818,14ha chiếm 69,73% diện tích tự nhiên (trong đó: rừng sản xuất: 1.989,87ha, rừng đặc dụng: 828,27ha). - Diện tích đất phi nông nghiệp là: 430,87ha chiếm 10,63% so với diện tích đất tự nhiên bao gồm: + Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp: 95,54ha. + Đất nghĩa trang, nghĩa địa: 3,93ha. + Đất mặt nước chuyên dùng: 103,36ha. + Đất sông suối: 100,25ha. + Đất tôn giáo: 0,12ha. + Đất thổ cư: 60,0ha. + Đất chưa sử dụng: 67,47ha. * Đặc điểm khí hậu: Khí hậu có hai mùa rõ rệt; Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, khí hậu nóng ẩm và mưa nhiều; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, gió đông bắc chiếm ưu thế, lượng mưa ít, thời tiết hanh khô, đặc trưng khí hậu nhiệt đối nóng ẩm thể hiện rõ qua các chỉ số nhiệu độ trung bình hàng năm khoảng 22,9oC; tổng
  28. 18 tích ôn từ 7.000 - 8.000oC. Lượng mưa phân bố không đều có chênh lệch lớn giữa mùa mưa và mùa khô, về mùa mưa cường độ mưa lớn, chiếm tới gần 80% tổng lượng mưa trong năm. Điều kiện thời tiết khí hậu khá thuận lợi cho ngành nông nghiệp phát triển và phát triển du lịch sinh thái. * Chế độ thủy văn: Địa bàn xã Quân Chu có 2 suối chính: Suối Đá Đen; Suối Chiểm; đều bắt nguồn từ dãy núi Tam Đảo, chảy qua địa bàn xã với chiều dài khoảng 7,3 km; hệ thống suối, khe rạch khá dày đặc và ao, đầm của xã nằm rải rác tại các xóm với tổng diện tích đất sông, suối 195,25ha ; nhìn chung nguồn nước suối và ao, đầm trên địa bàn xã khá dồi dào, rất thuận lợi cho việc tưới tiêu trồng trọt, phát triển chăn nuôi thủy sản và cung cấp nước sinh hoạt cho người dân. 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu * Dân cư, dân tộc: Toàn xã có 1.165 hộ với 4.596 khẩu, đồng bào dân tộc thiểu số 2.991 khẩu, chiếm 65 % dân số. Với cộng đồng dân tộc gồm 06 dân tộc anh em cùng chung sống như: Kinh, Tày, Dao, Nùng, Sán Dìu, Hoa đồng bào dân tộc thiểu số 2.991 khẩu, chiếm 65 % dân số, còn lại 35% dân số là dân tộc Kinh. * Kinh tế: Kinh tế nông lâm nghiệp vẫn là ngành chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của xã Quân Chu trong những năm qua.
  29. 19 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu Các loài thực vật được một số cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu tại xã Quân Chu sử dụng làm chuốc chữa bệnh; kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu: - Địa điểm nghiên cứu: + Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. + Nghiên cứu thực nghiệm (xác định hoạt tính kháng khuẩn) được tiến hành tại phòng thí nghiệm Khoa Công nghệ sinh học - Trường ĐH Khoa học Thái Nguyên. - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 1/2020 đến tháng 5/2020 - Nghiên cứu tri thức của cộng đồng dân tộc: Dân tộc Dao và Sán Dìu. 3.2. Nội dung nghiên cứu * Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên: - Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi. - Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc. - Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc. * Xác định những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn: Đánh giá ở mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu.
  30. 20 * Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu. - Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu. - Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc. - Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu. * Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh. 3.3. Phương pháp nghiên cứu 3.3.1. Phương pháp kế thừa - Kế thừa những những tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở khu vực nghiên cứu và các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các ông lang, bà mế người dân tộc ở khu vực nghiên cứu. 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng - Điều tra phỏng vấn thu thập cây thuốc: tại khu vực nghiên cứu, phỏng vấn các ông lang, bà mế, người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc và sử dụng các bài thuốc gia truyền của một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại địa bàn nghiên cứu. Mẫu phiếu điều tra dựa theo: phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc gian dân (Viện Dược liệu, 1993) [30]. - Thu thập đầy đủ các thông tin cây thuốc gồm: tên phổ thông, tên dân tộc; số hiệu mẫu/ảnh cây thuốc; dạng sống; môi trường sống; bộ phận sử dụng
  31. 21 làm thuốc (thân, rễ, hoa, quả, hạt); công dụng. Đồng thời ghi chép những đặc điểm dễ nhận biết của cây ngoài thiên nhiên, ghi rõ thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin. - Định danh tên cây: định danh loài cây theo các bước: (i) định danh tại thực địa; (ii) sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố giám định lại. + Bước 1: xác định sơ bộ tên địa phương, tên thường gọi được thực hiện ngay ở lần điều tra đầu tiên. Đối với những loài chưa chắc chắn thì ghi chú để kiểm định lại ở bước sau. Các loài không biết tên cần phải lấy mẫu (lá, hoa, quả, ) và ghi vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2, để giám định. + Bước 2: tất cả các cây được thẩm định lại tên cây, lập danh mục cây thuốc bằng sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia về thực vật và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố gồm: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 1999) [25], Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 2012) [32], Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005) [6], Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006) [28]. Danh sách tên cây thuốc sẽ được hoàn thiện ở bước này. Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được một số cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng phòng và điều trị bệnh Thời gian điều tra: Người điều tra: Địa điểm điều tra: Địa chỉ điều tra: Tên loài Môi Cách Số hiệu Dạng Bộ phận Công TT trường sử Phổ Địa Khoa mẫu/ảnh cây sử dụng dụng thông phương học sống dụng (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)
  32. 22 3.3.3.Phương pháp thu thập mẫu Tiến hành thu mẫu ở thực địa theo nguyên tắc và phương pháp thu mẫu theo Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [19]. Dụng cụ thu mẫu: bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, giây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép, máy theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [18]. Nguyên tắc thu mẫu: mỗi cây thuốc thu từ 3 – 10 mẫu và được gắn nhãn ghi rõ các thông tin về kí hiệu mẫu, thời gian, địa điểm và người thu mẫu (các mẫu cùng cây đánh số cùng một số hiệu mẫu). Mẫu thu thập sẽ được xử lý theo phương pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [19] như sau: + Bước 1: sau mỗi ngày thu mẫu, mẫu vật sẽ được mang về nơi ở, xếp mẫu ngay ngắn vào một tờ báo cỡ 28 x 42 cm, để mẫu ở trạng thái tự nhiên, có lá sấp – lá ngửa, vuốt cho thẳng mẫu và đeo etyket cho mẫu. + Bước 2: xếp khoảng 15 – 20 mẫu thành một chồng, dùng dây dứa buộc lại. + Bước 3: cho mẫu vào túi nilon và tẩm cồn cho chồng mẫu để bảo quản. Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài
  33. 23 3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc Để đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của một số cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đề tài sử dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [17]: - Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài. - Đa dạng về dạng sống: kí sinh, dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi. - Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối hoặc nơi ẩm ướt. - Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, nhựa, cả cây. - Đa dạng về cách chế biến cây thuốc: khô và tươi. - Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương, 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007) [2], Nghị định 06/2019/NĐ-CP (Chính phủ nước Việt Nam, 2019) [9], Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) [21]. 3.3.6. Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn - Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu. Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 900C đến khối lượng không đổi. - Nguyên liệu sau khi sấy khô được nghiền trong máy xay đa năng loại nhỏ thành bột dạng mịn, bảo quản nơi khô ráo để sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo. - Bước 2: Tạo cao chiết
  34. 24 Nguyên liệu được tách chiết theo phương pháp ngâm nóng. Nguyên liệu dạng bột khô được đem đi chiết với tỷ lệ 20g/100ml bằng dung môi methanol, sau đó cho vào máy lắc với tần số 200 vòng/phút (để các chất có hoạt tính sinh học tan đều trong dung môi) ở các điều kiện thời gian khác nhau (24h, 48h, 72h), sau đó tiến hành lọc qua giấy lọc, 80ml dịch lọc được đem đi cô đặc bằng máy cô quay (hoặc sấy khô) đến khi có khối lượng khô không đổi và được bảo quản ở 40C để sử dụng trong các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn. - Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn Sử dụng 4 chủng vi khuẩn gồm 2 chủng gram dương là S.a (Staphylococcus aureus), B.s (Bacillus subtilis); và 2 chủng gram âm làP.a (Pseudomonas aeruginosa), E.coli (Escherichia coli), lấy từ phòng thí nghiệm Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. Bảo quản giống trên môi trường thạch nghiêng: vi sinh vật được hoạt hóa trong môi trường LB, sau đó được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng, nuôi 24 giờ ở 370C, giữ trong tủ lạnh để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. - Bước 4: Thử khả năng kháng khuẩn Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của cao chiết bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch, thí nhiệm được bố trí 3 lần nhắc lại trên một chủng vi khuẩn 3 đĩa petri trên 1 lần nhắc lại. Pha các cao chiết của toàn thân cây thuốc với metanol nồng độ 10g/100ml và 5g/100ml sau đó dùng cao đã pha để thử hoạt tính kháng khuẩn. Các thao tác được thực hiện trong tủ cấy vô trùng. Khi mật độ vi khuẩn đạt đến nồng độ 106 tế bào/ml, lắc đều ống nghiệm chứa vi khuẩn. Môi trường LB đã được hóa lỏng trong lò vi sóng, khi còn lỏng đổ đều môi trường vào các đĩa Petri, sau đó để nguội để môi trường đông đặc lại tạo thành mặt phẳng. Dùng micropipet hút 100μl dịch vi khuẩn vào giữa đĩa
  35. 25 thạch chứa môi trường LB (Thành phần của môi trường LB là như sau (g/l): Peptone - 10; Cao nấm men - 5; NaCl -10; pH: 7,0), dùng que cấy tam giác trang đều cho đến khi mặt thạch khô. Sau 15 phút đục giếng trên môi trường thạch với đường kính 6 mm, đục 2 giếng, mỗi giếng cách nhau 2 – 3 cm. Mỗi giếng thạch nhỏ 100μl dịch cao chiết cần nghiên cứu bằng micropipet, sử dụng đối chứng dương là kháng sinh Kanamycin và Akamicin với nồng độ 5mg/ml để so sánh, để các đĩa thạch trong tủ lạnh 30 phút để dịch cao chiết khuếch tán ra môi trường nuôi cấy vi khuẩn, sau đó nuôi cấy trong tủ ấm 370C, sau 24h mang ra đo kích thước vòng kháng khuẩn. Hoạt tính kháng khuẩn được xác định bằng cách đo kích thước vùng kháng khuẩn (BK) bằng công thức: BK = D - d, trong đó D là đường kính vòng kháng khuẩn, d là đường kính giếng thạch.
  36. 26 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tinth Thái Nguyên 4.1.1. Đa dạng bậc trong bậc taxon 4.1.1.1. Đa dạng về bậc ngành Kết quả nghiên cứu cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Dao và Sán Dìu tại khu vực nghiên cứu đã ghi nhận được 113 loài thực vật thuộc 2 ngành đó là: Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) và Ngành Thông (Pinophyta) được dân tộc Dao và Sán Dìu sử dụng làm thuốc, thuộc 106 chi và 65 họ. Các loài cây này đều là những cây mọc phổ biến quanh làng bản, ở đồi và ở rừng, cũng là những loài mà người dân thường gặp, nên họ đã lựa chọn để làm thuốc nhiều hơn các loài thực vật khác Kết quả được tổng hợp tại Bảng 4.1 như sau: Bảng 4.1. Đa dạng của ngành thực vật tại khu vực nghiên cứu Số họ Số chi Số loài TT Ngành thực vật Tỷ Tỷ Tỷ SL SL SL lệ% lệ% lệ% 1 Ngành thông Pinophyta 1 1,54 1 0,94 1 0,88 2 Ngành Ngọc lan Magnoliophyta 64 98,46 105 99,06 112 99,12 Tổng 65 100 106 100 113 100 Qua dữ liệu cho chúng ta thấy, các loài cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu ở xã Quân Chu tập trung chủ yếu ở ngành Ngọc Lan (Magnoliophyta) đây là ngành đa dạng nhất với 112 loài (chiếm 99,12%); 105 chi (chiếm 99,06%); 64 họ (chiếm 98,46%). Thấp nhất là ngành Thông (Pinophyta) chỉ 1 loài (chiếm 0,88%); 1 chi (chiếm 0,94%); 1 họ (chiếm 1,54%).
  37. 27 Sự phân bố không đồng đều nhau của các taxon không chỉ được thể hiện giữa các ngành mà còn thể hiện qua sự chiếm ưu thế của các lớp trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) như sau: Bảng 4.2. Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan Lớp Họ Chi Loài Lớp Ngọc lan - Magnoliopsida 49 76,56 85 80,95 92 82,14 Lớp Hành - Liliopsida 15 23,44 20 19,05 20 17,86 Ngành Ngọc lan - Magnoliophyta 64 100 105 100 112 100 Tỉ lệ lớp Ngọc lan/lớp Hành 3,27 4,25 4,60 Kết quả cho thấy, lớp Ngọc lan (Magnoliopsida) chiếm ưu thế với 49 họ , chiếm 76,56% số họ trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta); số chi là 85 chiếm 80,95%; và số loài là 92 loài chiếm 82,14%. Một số loài thuộc lớp Ngọc Lan có thể kể đến như: cây Long não (Cinnamomum camphora (L.) Presl) (2 long não) sử dụng để tắm cảm; cây Gạo (Bombax malabarium DC) (2 Mốc men) được cộng đồng dân tộc Sán Dìu tại sử dụng để chữa sỏi thận, viêm thận, bổ thận; cây Gáo lá to (Nauclea officinalis Merr. Sec). Phamh (1.Gáo, 2. Vong lén sung) được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng chữa 1.Xơ gan cổ chướng, ngoài ra cũng được cộng đồng dân tộc Sán Dìu sử dụng chữa 2.Gan nhiễm vỡ, Lớp hành (Liliopsida) chiếm tỉ trọng thấp hơn với 20 loài, 20 chi và 15 họ. Có thể kể đến một số loài thuộc lớp Hành là: cây Thiên niên kiện (Aglaonema siamense Engl) (2. Bái ngặn kim) được sử dụng chữa đau xương; cây Huyết giác (Dracaena cambodiana Pierre ex Gagnep) (2 huyết giác) dùng để chữa lưu thông máu; cây Lược vàng (Callisia fragrans (Lindl.) (1.Lược vàng) sử dụng chữa thoái hóa đĩa đệm, Tỉ lệ họ giữa lớp Ngọc lan với lớp Hành là 3,27 nghĩa là trung bình cứ 3 đến 4 họ thuộc lớp Ngọc lan thì sẽ có 1 họ thuộc lớp Hành; tương tự tỉ lệ các bậc chi và bậc loài lần lượt là 4,25 và 4,60 có nghĩa là: trung bình cứ 4 chi và 4 loài thuộc lớp Ngọc lan sẽ có 1 chi và 1 họ thuộc lớp Hành.
  38. 28 Dưới đây là một số hình ảnh của một số cây thuốc tại khu vực nghiên cứu: Bọ mò trắng - Clerodendrum chinense Lưỡi cọp sọc - Sansevieria trifasciata (Osbeck) Mabb Hort. ex Prain Dẻ quạt - (Belamcanda chinensis (L.) DC) Lá khôi - (Ardisia silvestris Pitard) Phân xanh - (Eupatorium odoratum L.) Lá khôi tía - (Ardisia nigropilosa Pitard) Hình 4.1. Hình ảnh một số cây thuốc khu vực nghiên cứu 4.1.1.2. Số lượng phân bố các loài cây trong từng họ
  39. 29 Số lượng họ cây thuốc thu được ở khu vực nghiên cứu bao gồm 65 họ. Sự phân bố các họ trong các lớp như sau: Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ > 10 loài 3 4 6 7 8 9 Ngành thực vật 1 loài 2 loài 5 loài và < loài loài loài loài loài loài 15 loài Pinophyta (Ngành thông) 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Pinopsida 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Magnoliophyta (Ngành 41 14 3 4 3 1 0 0 1 0 Ngọc lan) Liliopsida 10 5 0 0 0 0 0 0 0 0 Maguoliopsida 31 9 3 1 3 1 0 0 1 0 Tổng số họ 42 14 3 1 3 1 0 0 1 0 Tỷ lệ số họ/tổng số họ % 64,62 21,54 4,62 1,54 4,62 1,54 0 0 1,54 0 Số loài 42 28 9 4 15 6 0 0 9 0 Tỷ lệ số loài/ tổng sô 37,17 24,78 7,96 3,54 13,27 5,31 0 0 7,96 0 loài% Kết quả ở bảng 4.3 cho ta thấy: Có 42 họ có 1 loài chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 64,62 % tổng số họ và 37,17% tổng số loài), trong đó có 1 họ thuộc lớp Pinopsida, 10 họ trong lớp một lá mầm và 31 họ thuộc lớp 2 lá mầm. Có 14 họ có 2 loài (chiếm 21,54% tổng số họ và 24,78% tổng số loài), trong đó có 5 họ lớp 1 lá mầm họ Thài lài (Commelinaceae), họ Hòa thỏa (Poaceae), họ Náng, Thủy tiên (Amaryllidaceae), họ Ráy (Araceae) và 9 họ lớp 2 lá mầm.
  40. 30 Có 3 họ có 3 loài chiếm 4,62% tổng số học và 7,69% tổng số loài), trong đó 3 họ này thuộc lớp 2 lá mầm, họ Bạc hà (Lamiaceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Cam (Rutaceae). Có 1 họ có 4 loài (chiếm 1,54% tổng số họ và 3,54% tổng số loài), trong đó 1 họ này thuộc lớp 2 lá mầm, họ Ô rô (Acanthaceae) Có 3 họ có 5 loài (chiếm 4,62% tổng số họ và 13,27% tổng số loài), trong đó 3 họ này thuộc lớp 2 lá mầm, họ Dâu tằm (Moraceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Có 1 họ có 6 loài (chiếm 1,54% tổng số họ và 5,31% tổng số loài), trong đó 1 họ này thuộc lớp 2 lá mầm, họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Có 1 họ có 9 loài đó là họ Asteraceae (Bồ công anh), chiếm 1,54% tổng số họ và 7,96% tổng số loài, trong đó 1 họ này thuộc lớp 2 lá mầm. Điều đó đã cho ta thấy được rằng là sự phong phú đa dạng về các họ thực vật làm thuốc tại khu vực nghiên cứu, nhưng số cá thể trong họ lại rất hạn chế. 4.1.1.3. Các họ đa dạng nhất Trong quá trình điều tra về nguồn tài nguyên cây thuốc ở đây, tôi đã thu được những loài cây thuốc nằm trong những họ có nhiều loài tại khu vực nghiên cứu . Số lượng thống kê và so sánh được thể hiện ở Bảng 4.4 như sau: Bảng 4.4. Các họ đa dạng nhất ở KVNC Tên họ Số loài Số chi Stt Tên Việt nam Tên khoa học SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % 1 Bồ công anh Asteraceae 9 7,96 8 7,55 2 Thầu dầu (Đại kích ) Euphorbiaceae 6 5,31 6 5,66 3 Cỏ roi Ngựa Verbenaceae 5 4,42 3 2,83 4 Dâu tằm Moraceae 5 4,42 3 2,83 5 Cà phê Rubiaceae 5 4,42 5 4,72 6 Ô rô Acanthaceae 4 3,54 4 3,77 6 họ đa dạng nhất (9,23%) 34 30,09 29 27,36 Tổng số được phát hiện: 113 106
  41. 31 Trong 6 họ giàu nhất giàu loài được xác định ở Xã Quân Chu thì phần lớn được gặp ở các họ giàu loài của hệ thực vật Việt Nam. Các họ cây thuốc giàu loài tại khu vực nghiên cứu có 3 họ nằm trong 10 họ đa dạng nhất của hệ thực vật Việt Nam là: họ Bồ công anh (Asteraceae), họ Thầu dầu (Đại kích) (Euphorbiaceae), họ Dâu tằm (Moraceae); 3 họ còn lại không nằm trong 10 họ lớn nhất ở Việt nam đó là họ Cỏ roi ngựa, Cà phê và Ô rô. Điều này chứng minh rằng nguồn cây thuốc ở xã Trọng Con tuy phong phú nhưng vẫn có nét khác biệt so với tính đa dạng chung của hệ thực vật Việt Nam. Kết quả so sánh các họ giàu loài của nguồn cây thuốc tại xã Quân Chu với họ giàu loài của hệ thực vật Việt Nam (Nguyễn Nghĩa Thìn, 2005) được ghi nhận tại Bảng 4.5 như sau: Bảng 4.5. So sánh các họ giàu loài ở KVNC (1) với họ giàu loài của hệ thực vật Việt Nam (2) TT Họ có nhiều loài (1) (2) Tỷ lệ giữa (1) và (2) 1 Bồ công anh - Asteraceae 9 380 2,37 2 Thầu dầu - Euphorbiaceae 6 477 1,26 6 Cỏ roi ngựa - Verbenaceae 5 162 3,09 4 Dâu tằm - Moraceae 5 179 2,79 5 Cà phê - Rubiaceae 5 492 1,02 6 Ô rô - Acanthaceae 4 227 1,76 Kết quả ở bảng 4.5 cho thấy các cây thuốc được đồng bào dân tộc Dao và Sán Dìu ở xã Quan Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên Sử dụng chiếm tỷ lệ tương đối cao so với hệ thực vật Việt Nam. Có những họ nhiều loài như: Asteraceae (9 loài) chiếm 2,37%, Euphorbiaceae (6 loài) chiếm 1.26%, Verbenaceae (5 loài) chiếm 3,09%, Moraceae (5 loài) chiếm 2,79 %, Rubiaceae (5 loài) chiếm 1,02%, Acanthaceae (4 loài) chiếm 1,76%.
  42. 32 4.1.2. Đa dạng về dạng cây của nguồn tài nguyên cây thuốc Đánh giá về dạng sống của cây có thể định hướng được việc bảo vệ, gây trồng, sử dụng và khai thác bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc. Các loài cây được cộng đồng các dân tộc thiểu số xã Trọng con sử dụng làm thuốc có dạng cây rất đa dạng và phong phú (Bảng 4.6) Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống tại khu vực nghiên cứu Stt Dạng sống Số lượng Tỷ lệ % 1 Cây bụi 44 38,94 2 Thân thảo 36 31,86 3 Gỗ nhỏ 20 17,70 4 Dây leo 9 7,96 5 Gỗ trung bình 4 4,54 Từ kết quả ở Bảng 4.6 cho ta thấy: Phần lớn cây thuốc được đồng bào dân tộc Dao và Sán Dìu sử dụng làm thuộc là dạng cây bụi với 44/113 loài (chiếm 38,94% so với tổng các cây thuốc thu được). Các dạng cây thuộc nhóm này tập chung chủ yếu như một số họ Ô rô (Acanthaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Gối hạc (Leeaceae), họ Hoàng liên gai (Berberidaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae), có những loài chữa bệnh đặc trưng như cây Đại bi (Blumea balsamifera (L.) DC.) (1. Đại bi) được cộng đồng dân tộc Dao chữa bệnh mề đay, đau xương khớp; cây Bìm bịp (Clinacanthus nutans (Brm. f.) Lindau) (1.Bìm bịp) sử dụng chữa đau dạ dày; cây Khổ sâm (Croton tonkinensis Gagnep) (1.Khổ sâm) có tác dụng chữa tiêu hóa, kiết lị; cây Hương nhu trắng (Ocimum gratissimum L.) (1. Hương nhu) có tác dụng chữa lá tắm cảm, tiêu chảy, Thân thảo đứng thứ 2 với 36/113 loài cây được sử dụng làm thuốc (chiếm 31,86%). Dạng cây này chủ yếu thu trong các họ Hòa thảo (Poaceae), họ Gừng (Zingiberaceae). Những cây chữa bệnh đặc trưng như: Cỏ mần trầu
  43. 33 (Eleusine indica (L.) Gaertn) (1.Nhả lẹn vài) sử dụng chữa chữa tiêu viêm, cầm máu; cây Địa liền (Kaempferia galanga L.) (1.Địa liền) chữa đau nhức xương khớp, phong tê thấp; cây Bồ công anh (Lactuca indica L.) (1.Bồ công anh) có tác dụng chữa ung thu vú; cây Chó đẻ hoa vàng (Sigesbeckia orientalis L.) (1.Chó đẻ hoa vàng) có tác dụng chữa viêm khớp; cây Cam thảo (Scoparia dulcis L.) (2.Cam thảo đất) có tác dụng chữa sỏi thận, lợi tiểu, Tiếp đến là gỗ nhỏ với 20/113 loài được sử dụng làm thuốc (chiếm 17,70%) dạng cây chủ yếu thu trong các họ: Dâu tằm (Moraceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Thông tre (Podocarpaceae), Những cây chữa bệnh đặc trưng như: Kim giao (Nageia fleuryi (Hickel) de Laub) (1.Miềm diềm chay) chữa giải độc gan; Vỏ dụt (Hymenodictyon orixense (Roxb.) Mabb) (1.Vỏ dụt) chữa ho; Ngõa (Ficus auriculata Lour) (1.Ngõa) lợi sữa bà bầu; cây Núc nác (Oroxylum indicum (L.) Kurz) (1.Núc nác) có tác dụng chữa đau dạ dày, đau nhức xương khớp; cây Ngũ gia bì chân chim (Schefflera heptaphylla (L.) Frodin) (1.Dáng) có tác dụng chữa đau nhức xương khớp, thấp khớp, Tiếp đến là dây leo 9/113 loài (chiếm 7,96%), dạng cây chủ yếu thu được trong các họ: họ Mã tiền (Loganiaceae), họ Thiên lý (Asclepiadaceae), họ Kim ngân (Caprifoliaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Tiết dê (Menispermaceae), Những cây chữa bệnh đặc trưng như: cây Dây thìa canh (Gymnema sylvestre (Retz.) R. Br. ex Schult) (1.Dây thìa canh) chữa đau bụng, đi ngoài; cây Dây gió (Strychnos ignatii Berg) (1.Dây gió) chữa thần kinh tọa; cây Kim ngân (Lonicera macrantha (D. Don) Spreng) (1.Kim ngân) có tác dụng chữa viêm gan virut, giải độc gan; cây Đậu ván (Lablab purpureus (L.) Sweet) (2.Đậu ván) có tác dụng chữa viêm dạ dày; cây Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour) (1.Hoàng đằng) có tác dụng chữa đau nhức xương khớp,
  44. 34 Cuối cùng là gỗ trung bình (4/113, chiếm 3,54%) dạng cây chủ yếu trong họ Cau (Arecaceae), họ Long não (Lauraceae), Những cây chữa bệnh đặc trung như: Cây Móc (Caryota urens L.) chữa cao huyết áp; cây Long não (Cinnamomum camphora (L.) Presl ) tắm cảm, Như vậy, việc sử dụng các cây bụi làm thuốc chữa bệnh của người dân tộc Dao và Sán Dìu ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên là rất phong phú và đa dạng. Việc sử dụng cây thuốc này chủ yếu tập chung vào những cây dễ thu hái như cây bụi, dây leo,cây thân thào, và cây gỗ nhỏ, với tỷ lệ khác nhau trong tổng số cây thuốc thu được. 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của nguồn tài nguyên cây thuốc Việc phân chia các loại nơi sống được căn cứ vào địa hình, đất đai, khí hậu, nơi mà cây thuốc đó phát triển. Dưới đây là các dạng nơi sống của thực vật làm thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm sử dụng của dân tộc Dao và Sán Dìu tại huyện Đại Từ: (i) Làng xóm, làng bản, vườn; (ii) Đất trọc, đồi cây bụi, trảng cỏ; (iii) Rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên); (iv) Ven suối. Bảng 4.7. Sự đa dạng về nơi sống của các loài cây thuốc ở KVNC Stt Môi trường sống Số loài Tỷ lệ % 1 Sống ở làng xóm, làng bản, vườn 88 77,88 2 Sống ở rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên) 50 44,25 3 Sống ở đồi, cây bụi, đồi trọc, trảng cỏ 26 23,01 4 Sống ven sông ven suối 2 1,77 Tổng 166 146,90 Tổng số loài 113 Chú thích: Tỷ lệ % trong bảng hơn 100% do một số loài có thể sống ở nhiều môi trường khác nhau Kết quả cho thấy, số lượng loài cây thuốc phân bố trên các sinh cảnh là rất khác nhau cụ thể như: Tỉ lệ cây thuốc có nơi sống ở quanh làng xóm, làng bản, vườn có số lượng loài lớn nhất với 88 loài được sử dụng làm thuốc (chiếm 77,88% so với
  45. 35 tổng số loài phát hiện được), các loài cây thuộc nhóm này có thể kể đến các loài như: cây Khế (Averrhoa carambola L.) (1.Dong thau chay mọc) chữa dị ứng công trùng, cây Hải đường (Camellia amplexicaulis (Ptard) Cohen- Stuart) (1.Hải đường) chữa dị ứng côn trùng và giảm nguy cơ mắc ung thư, cây Dung đen (Acuminata (Miq.) Brand) (1.Tạp phai) chữa đau dạ dày, trào dịch dạ dày, cây Bồ kết (Clerodendrum chinense (Osbeck) Mabb) (1.Bồ kết) có tác dụng chữa trĩ ngoại, Đứng thứ hai là các loài cây thuốc sống ở rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên) với 50 loài cây (chiếm 44,25% so với tổng số loài phát hiện được), các loài cây thuộc nhóm này có thể kể đến các loài như: cây Rau ngót rừng – (Melientha suavis Pierre) (1.Dâu lùng độ) sử dụng chữa khối u lồi, mụn nhọ, cây Bàn tay ma (Heliciopsis lobata (Merr.) Sleum) (1.Bàn tay ma) dùng chữa tăng men gan, cây Bổ béo mềm (Gomphandra mollis Merr) (1.Bổ béo) chữa viêm loét dạ dày, cây Tơ mành cánh to (Hiptage var. macroptera Merr) (1. Tràng cấp, 2.Nối gân) cùng được cả cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu sử dụng chữa nối gân, đắp đứt gân, Đứng thứ ba là loài cây sống ở đồi với 26 loài cây (chiếm 23,01% so với tổng số loài phát hiện được), các loài cây nhóm này có thể kẻ đến các loài cây như: cây Đơn mặt trời (Excoecaria cochinchinensis Lour) (1.Đơn mặt trời, 2.Hồng tào nùn sùn) được cộng đồng dân tộc Dao chữa mề đay, xơ gan, sỏi thận bên cạnh đó cộng đồng dân tộc Sán Dìu sử dụng chữa ngứa, dị ứng côn trùng, cây Chân chim hoa trắng (Vitex tripinnata (Lour.) Merr) (1. chẹc nhạy cec) chữa hậu sản( băng huyết), cây Đinh lăng (Polyscias fruticosa (L.) Harms) (1.đinh lăng) chữa thông huyết, cây Bán tự mốc (Hemigraphis glaucescens C. B. Clarke) (2.Bán tự mốc) có tác dụng chữa táo bón, Đứng cuối cùng là loài cây sống ven sông ven suối với 2 loài (chiếm 1,77% so với tổng số loài phát hiện được) đó là những cây Thạch xương bồ
  46. 36 (Acorus gramineus Soland) (1.Sình pầu) chữa hậu sản (Sản dịch), đau xương và cây Sung đất (Ficus var. badiostrigosa Corn) (1.Sùi liềm lậu) được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng để chữa tắm gái đẻ, hậu sản Qua đó cho thấy sự đa dạng và phong phú trong vấn đề sử dụng thuốc của người dân tộc Dao và Sán Dìu, các cây thuốc được sử dụng có khu vực phân bố rộng rãi thể hiện tính thích nghi cao và rộng rãi. 4.2. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên Kết quả nghiên cứu của đề tài đã xác định được các loài cây thuốc thuộc diện nguy cấp và sắp nguy cấp tại bảng kết quả sau: Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở khu vực nghiên cứu Cấp quy định Stt Tên phổ thông – Tên khoa học SĐVN 06/ NĐ- DLĐCT 2007 CP 2006 1 Hoàng đằng - Fibraurea tinctoria Lour IIA 2 Lá khôi - Ardisia silvestris Pitard VU 3 Kim giao - Nageia fleuryi (Hickel) de Laub VU 4 Hoàng liên gai - Berberi julianae Schneid EN IA EN Chú thích: SĐVN: Sách đỏ Việt Nam; EN – Nguy cấp – Endangered; 06/NĐ – CP: Nghị định 06 của chính phủ; VU- Sắp nguy cấp – Vulnerable; DLĐCT: Danh lục đỏ cây thuốc, IA: Thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm; IIA: Hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Tại khu vực nghiên cứu phát hiện 4 loài cây thuốc quý hiếm, đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam, thuộc 4 chi, 4 họ. của ngành thực vật bậc cao là ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) và ngành Thông (Pinophyta). Các loài này đều có tên trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam, Nghị Định 06- NDCP
  47. 37 về quản lý thực vật, động vật quý hiếm, Sách Đỏ Việt Nam . Dựa vào bảng trên đã thống kê được: Cấp VU - Sắp nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam và danh lục cây thuốc có 2 loài: + Lá khôi (Ardisia silvestris Pitard) thuộc họ Đơn nem, có tác dụng chữa đau dạ dày, viêm loét dạ dày. + Kim giao (Nageia fleuryi (Hickel) de Laub) thuộc họ Thông tre, có tác dụng giải độc gan. Cấp EN – Đang nguy cấp trong trong sách đỏ Việt Nam và danh lục cây thuốc có 1 loài: + Hoàng liên gai (Berberi julianae Schneid) thuộc họ Hoàng liên gai, có tác dụng chữa viêm họng, viêm xương khớp Nghị Định 06- NDCP về quản lý thực vật, động vật quý hiếm, có 1 loài: + Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour) thuộc họ Tiết dê, có tác dụng chữa đau nhức xương khớp. Trong quá trình thực hiện đề tài ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy có 4 loài cây thuốc thuộc diện đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam. Chính vì vậy, cần phải nâng cao ý thức bảo vệ của mọi người để bảo tồn nguồn gen quý hiếm, phục vụ cho công tác chữa bệnh lâu dài của người dân nơi đây. 4.3. Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên 4.3.1. Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu Để thấy rõ được tính đa dạng phong phú về việc sử dụng các bộ phận khác nhau của cây để chữa bệnh của người dân tộc Dao và Sán Dìu ở khu vực nghiên cứu, kết quả được tổng hợp tại bảng 4.8.
  48. 38 Bảng 4.9. Bộ phận sử dụng của cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng của cộng đồng dân tộc Dao, Sán Chí tại xã Quân Chu Dao Sán Dìu Stt Bộ phận sử dụng SL Tỷ lệ % SL Tỷ lệ % 1 Cả cây 37 42,05 10 23,81 2 Lá 34 38,64 21 50,00 3 Thân 16 18,18 10 23,81 4 Quả 13 14,77 3 7,14 5 Rễ 11 12,50 8 19,05 6 Vỏ 6 6,82 3 7,14 7 Hạt 4 4,55 2 4,76 8 Bẹ 1 1,14 0 0,00 9 Gai 1 1,14 0 0,00 10 Hoa 1 1,14 2 4,76 11 Củ 1 1,14 1 2,38 Tổng 125 142,05 60 142,83 Tổng số loài phát hiện của mỗi dt 88 42 Chú thích: Tỷ lệ % ở bảng lớn hơn 100 do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc Qua dữ liệu về tần số sử dụng các bộ phận của cây để chữa bệnh cho thấy có 11 bộ phận sử dụng được cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người dân. Trong đó có bộ phận cả cây, lá, thân, quả được sử dụng nhiều hơn so với các bộ phận khác. Cụ thể: Đối với sử dụng bộ phận cả cây: Cộng đồng dân tộc Dao biết sử dụng 38/88 loài cây (chiếm 42,05% tổng số loài dân tộc Dao phát hiện), cộng đồng dân tộc Sán Dìu biết sử dụng 10/42 loài cây (chiếm 23,81% tổng số loài dân tộc Sán Dìu phát hiện được). Một số loài có thể kể đến như; cây Tóc tiên
  49. 39 (Zephyranthes rosea Lindl) (1.Tóc tiên) được sử dụng chữa viêm phổi; cây Cỏ xước (Achyranthes aspera L.) (1.Cỏ xước, 2.Mèo lá lọt) được cả hai dân tộc chữa sỏi thận; cây Trinh nữ (Mimosa pudica L.) (1.Trinh nữ) được sử dụng chữa thấp khớp; cây Cành giao (Euphorbia tirucalli L.) (1.Cành giao) có tác dụng lợi sữa cho bà bầu, cây Dền gai (Amaranthus spinosus L.) (1.Dền giai) được cộng đồng dân tộc Dao chữa sỏi thận, Đối với sử dụng bộ phận lá: Cộng đồng dân tộc Dao biết sử dụng 34/88 loài cây (chiếm 38,64% tổng số loài dân tộc Dao phát hiện), cộng đồng dân tộc Sán Dìu biết sử dụng 20/42 loài cây (chiếm 50,00% tổng số loài dân tộc Sán Dìu phát hiện được). Một số loài có thể kể đến như: cây Cối xay - Abutilon indicum (L.) Sweet (1.Cối xay) được sử dụng chữa bệnh dải vàng,sỏi thận; cây Bưởi bung (Acronychia pedunculata (L.) Miq) (1.Bưởi bung) có công dụng chữa bệnh thần kinh, cây Lá khôi (Ardisia silvestris Pitard) (1.Đìa doòng phản 2. Khôi) được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng chữa bênh đau dạ dày,bên cạnh đó cộng đồng dân tộc Sán Dìu sử dụng chữa viêm loét dạ dày; cây Móc diều (Bougainvillea brasiliensis Rauesch) (1.Móc diều) có tác dụng chữa bổ thận, chữa thận hư, Đối với sử dụng bộ thân: Cộng đồng dân tộc Dao biết sử dụng 16/88 loài cây (chiếm 18,18% tổng số loài dân tộc Dao phát hiện), cộng đồng dân tộc Sán Dìu biết sử dụng 10/42 loài cây (chiếm 23,81% tổng số loài dân tộc Sán Dìu phát hiện được). Một số loài có thể kể đến như: cây Xạ đen (Ehretia asperula Zoll. & Mor) (1,2.Xạ đen) có tác dụng chữa bệnh 1.viêm loét dạ dày, xơ gan, viêm gan 2. viêm gan, u bướu, chống ung thư vòm họng; cây Lá han (Dendrocnide urentissima (Gagnep.) Chew) (1.Lá han) chữa động kinh; cây Dây chìa vôi (Cissus repens Lamk) (1.Dây chìa vôi) có tác dụng thoát vị đĩa đệm, đau nhức xương khớp; cây Hoàng liên gai (Berberi julianae Schneid) (2.Dạ hen ngoi) có tác dụng chữa viêm họng, viêm xương khớp,
  50. 40 Đối với sử dụng bộ quả: Cộng đồng dân tộc Dao biết sử dụng 13/88 loài cây (chiếm 14,77% tổng số loài dân tộc Dao phát hiện), cộng đồng dân tộc Sán Dìu biết sử dụng 3/42 loài cây (chiếm 7,14% tổng số loài dân tộc Sán Dìu phát hiện được). Một số loài có thể kể đến như: cây Huyết dụ (Cordyline fruticosa (L.) Goepp) (1.Quyền diêm, 2.Thẹt sư dẹt) được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng chữa tắm gái đẻ, bổ thận cầm máu, trĩ nội, trĩ ngoại , dân tộc Sán Dìu sử dụng chữa hậu sản; cây Mạn kinh (Vitex trifolia L.) (2.mạn kinh) có tác dụng chữa bênh cao huyết áp; cây Chuối hoang nhọn (Musa acuminata Colla) (1.Sán chụi chay) có tác dụng lợi tiểu; cây Tu hú (Gmelina asiatica L.) (1.Tu hú) có tác dụng chữa tiêu hóa kems, Nhìn chung kết quả nghiên cứu đã chứng minh được rằng: các bộ phận của cây được sử dụng làm thuốc của cả 2 cộng đồng Dao và Sán Dìu ở khu vực nghiên cứu rất đa dạng và phong phú, đặc biệt đối với kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao. Mặt khác kết quả cũng cho thấy việc sử dụng bộ phận cả cây hoặc thân hoặc rễ hoặc củ làm thuốc sẽ rất bất lợi trong việc bảo tồn nguồn gen của cây thuốc, vì vậy chúng ta cần phát triển và thực hiện các phương pháp trồng cây thuốc có bộ phận được sử dụng là cả cây hoặc thân hoặc rễ, để bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên cây dược liệu trong khu vực nghiên cứu nói riêng và ở Việt Nam nói chung. 4.3.2. Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu Kết quả nghiên cứu việc sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc để chữa bệnh của cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu tại xã Quân Chu mang những nét độc đáo và mang tính gia truyền. Kết quả được tổng hợp tại Bảng 4.10 và Hình 4.1.
  51. 41 Bảng 4.10. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể Dao Sán Dìu Stt Nhóm bệnh chữa trị SL Tỷ lệ% SL Tỷ lệ% Nhóm bệnh đường tiêu hóa (đau bụng, đi 1 18 20,45 9 21,43 ngoài, đau dạ dày, ) Nhóm bệnh đường tiết niệu (sỏi thận, thận hư, 2 8 9,09 6 14,25 lợi tiểu, viêm cầu thận, ) Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý 3 (hậu sản (sản dịch, băng huyết, chân tay tê 11 12,50 4 9,52 dại ) Nhóm bệnh ngoài da (ngứa, dị ứng công trùng, 4 5 5,68 5 11,90 mề đay, đắp đứt gân, mụn nhọt.) Nhóm bệnh hệ thần kinh (thần kinh, thần kinh 5 8 9.09 3 7,14 tọa, cao huyết áp, ) Nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động (đau 6 ngang thắt lưng, đau lưng, đau xương vai 19 21,59 5 11,90 gáy, ) 7 Nhóm bệnh của trẻ em (cam sài trẻ con) 1 1,14 0 0 Nhóm bệnh về gan (làm mát gan, gan nhiễm 8 12 13,64 3 7,14 mỡ, giải độc gan, ) Nhóm bệnh về đường hô hấp ho, hen phế 9 6 6,82 4 9,52 quản, viêm phổi.) Nhóm bệnh về ngộ độc (giải độc gan, thanh 10 5 5,68 0 0 nhiệt, giải độc.) Nhóm bệnh về ung bướu (u bướu, u xơ tuyến 11 tiền liệt, giảm nguy cơ mắc ung thư, chống 2 2,27 2 4,76 ung thư vòm họng ) 12 Nhóm thuốc bổ (bổ thận, bổ máu.) 2 2,27 2 4,76 13 Nhóm bệnh cảm cúm (cảm cúm, tắm cảm.) 2 2,27 1 2,38 14 Cầm máu 2 2,27 2 4,76 Tổng số 101 114,77 46 109,52 Tổng số loài phát hiện của mỗi dt 88 42 Chú thích: Tỷ lệ % ở bảng lớn hơn 100 do một số loài có thể sử dụng chữa nhiều nhóm bệnh khác nhau
  52. 42 4.76 Cầm máu 2.72 2.38 Nhóm bệnh cảm cúm 2.72 4.76 Nhóm thuốc bổ 2.72 4.76 Nhóm bệnh về ung bướu 2.72 0 Nhóm bệnh về ngộ độc 5.68 9.52 Nhóm bệnh về đường hô hấp 6.82 bệnh chữa trị chữa bệnh 7.14 Nhóm bệnh về gan 13.64 Sán Dìu Nhóm 0 Nhóm bệnh của trẻ em 1.14 Dao 11.9 Nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động 21.59 7.14 Nhóm bệnh hệ thần kinh 9.09 11.9 Nhóm bệnh ngoài da 5.68 9.52 Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục 12.5 lệ% 14.25 Tỷ Nhóm bệnh đường tiết niệu 9.09 21.43 Nhóm bệnh đường tiêu hóa 20.45 0 5 10 15 20 25 Hình 4.2. Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc Dữ liệu cho thấy, 2 cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu tại xã Quân Chu có thể sử dụng cây thuốc để chữa trị 14 nhóm bệnh khác nhau theo kinh nghiệm, trong đó người Dao biết sử dụng cây thuốc chữa trị được 14 nhóm bệnh, còn người Sán Dìu biết sử dụng cây thuốc chữa trị được 12 nhóm bệnh. Trong đó có những căn bệnh nan y như ung thư, gan, thận, tim, Cụ thể: Với cộng đồng dân tộc Dao: số lượng loài cây được sử dụng làm thuốc theo kinh nghiệm người Dao tập trung phần lớn vào 3 nhóm bệnh là nhóm bệnh nhóm bênh tiêu hóa với 18/88 loài cây (chiếm 20,45% so với tổng số loài được dùng theo kinh nghiệm của dân tộc Dao), tiếp đó là nhóm bênh về
  53. 43 nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động với 19/88 loài (chiếm 21,59%), đứng thứ ba à nhóm bệnh về gan với 12/88 loài (chiếm 13,64%). Tương tự với dân tộc Sán Dìu: số lượng loài cây được sử dụng làm theo kinh nghiệm người Sán Dìu tập trung phần lớn vào nhóm bênh đường tiêu hóa với 9/42 loài cây (chiếm 21,43% so với tổng số loài mà được dùng theo kinh nghiệm của dân tộc Sán Dìu). Nhìn chung, kinh nghiệm sử dụng nguồn tài nguyên cây cỏ làm thuốc các dân tộc thiểu số Dao và Sán Dìu ở xã Quân Chu rất đa dạng và phong phú. Trong đó, dân tộc Dao thể hiện tính nổi bật hơn về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc thông qua số lượng loài cây thuốc biết cách sử dụng và số lượng nhóm bệnh chữa trị cho người dân. 4.3.3. Sự giao thoa giữa các dân tộc về vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc ở xã Quân Chu Trải qua quá trình sinh sống lâu dài, cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên và phòng chống bệnh tật, mỗi cộng đồng dân tộc đều thể hiện được những sự sáng tạo riêng biệt của mình. Mỗi dân tộc đã tìm ra những phương thức ứng xử khác nhau để vượt qua sự khắc nghiệt của thiên nhiên, trong đó không thể không kể đến việc sử dụng nguồn tài nguyên cây cỏ có sẵn trong tự nhiên để chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng. Việc khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc để đáp ứng như cầu chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng đã là một tập quán lâu đời của cộng đồng dân tộc Dao và Quân Chu tại xã Quân Chu. Cùng với đó, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc để chữa bệnh cũng được tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình điều tra cho thấy cả 2 dân tộc Dao và Sán Dìu đều cùng sử dụng một số cây thuốc chữa bệnh tại bảng kết quả dưới đây (Bảng 4.11).
  54. 44 Bảng 4.11. Danh sách cây thuốc được cả cả 3 dân tộc ở KVNC sử dụng Tên khoa học – Tên phổ Tên dân tộc Công dụng Stt thông Cỏ xước - Achyranthes 1.Cỏ xước 1 1,2.Sỏi thận aspera L. 2. Mèo lá lọt 1.Đìa dàm phản 1.Viêm đại tràng Lá khôi tía - Ardisia 2 2.Vong lén thai 2.Viêm loét dạ dày, đau dạ nigropilosa Pitard đồng dày Đại bi - Blumea balsamifera 1.Ìn bọt 1.Mề đay, đau xương khớp 3 (L.) DC 2.Đại bi 2.Dị ứng, mẩn ngứa côn trùng 1.Tắm gái đẻ, bổ thận, cầm Huyết dụ - Cordyline 1.Quyền diêm, 4 máu, trĩ nội, trĩ ngoại fruticosa (L.) Goepp 2.Thẹt sư dẹt 2. Băng huyết Mía dò - Costus speciosus 1,2. Lợi tiểu, sỏi thận, đái tháo 5 1,2.Mía dò (Koenig) Smith đường, kích thích tiêu hóa 1.Viêm loét dạ dày, xơ gan, Xạ đen - Ehretia asperula viêm gan 6 1,2.Xạ đen Zoll. & Mor 2.Viêm gan, u bướu, chống ung thư vòm họng Mần tưới - Eupatorium 1.Mần tưới 1.Đau bụng, 7 triplinerve Vahl 2.Co sỏi đất. 2.Hậu sản(băng huyết) 1.Đơn mặt trời Đơn mặt trời - Excoecaria 1.Mề đay, xơ gan, sỏi thận 8 2.Hồng tào nùn cochinchinensis Lou 2.Ngứa, dị ứng côn trùng sùn Dành dành - Gardenia 1.Lù lầng pầu, 1.Xơ gan vàng da, vàng mắt 9 augusta (L.) Merr 2.Vong hen 2.Xơ gan Gối hạc tía - Leea rubra 1.Gối hạc tía 10 1,2.Thấp khớp, sỏi mật Blume ex Spreng 2.Thôi ải Gáo - Nauclea officinalis 1.Gáo 1.Xơ gan cổ chướng, 11 Merr. sec. Phamh 2.Vong lén sung. 2.Gan nhiễm vỡ Hoàn ngọc trắng - 1,2.Hoàn ngọc 1.Táo bón, đau bụng 12 Pseuderanthemum trắng 2.Tiêu chảy, liết lị palatiferum (Nees) Radlk Thầu dầu - Ricinus 1.Pồng si 1,2.Đâu đầu, trĩ ngoại 13 communis L. 2.Thầu dầu Bồ công anh - Taraxacum 1.Ung thu vú, 14 1,2.Bồ công anh officinale Wigg 2.Lợi sữa bà bầu Dây đau xương - Tinospora 1.Pà chặt man 1,2.Đau xương 15 sinensis (Lour.) Mer 2.Co rủi Chú thích: Tên dân tộc: 1. Dao , 2. Sán Dìu
  55. 45 Qua Bảng 4.11 cho thấy, cả 2 dân tộc đều sử dụng chung 15 loài cây thuộc 12 họ thực vật khác nhau, phần lớn những loài cây thuốc này mọc phổ biến ở trong tự nhiên, sống ở trong rừng, quanh làng xóm, quanh làng bản, đồi cây bụi, đồi trọc, trảng cỏ, ven suối. Trong đó có những loài được cả 2 dân tộc cùng sử dụng để chữa một nhóm bệnh như: cây Dây đau xương (Tinospora sinensis (Lour.) Mer) (1.Pà chặt man, 2.Co rủi) cùng được cả hai dân tộc dùng chữa bệnh đau xương, cây Thầu dầu (Ricinus communis L.) (1.Pồng si,2.Thầu dầu) được cả hai dân tộc dùng để chữa đâu đầu, trĩ ngoại, cây Gối hạc tía (Leea rubra Blume ex Spreng) (1.Gối hạc tía 2.Thôi ải) cùng được cả hai dân tộc dùng để chữa thấp khớp, sỏi mật, Những kinh nghiệm sử dụng cây thuốc này chỉ được sử dụng qua phương thức lưu truyền trong phạm vi từng cộng đồng, cùng với đặc trưng truyền miệng từ đời này sang đời khác do đó có nguy cơ mai một cao, vì vậy rất cần có những biện pháp thu thập nguồn tri thức quý giá này để phổ biến cho cộng đồng, phục vụ công tác chữa bệnh. Ngoài việc giao thoa trong cách gọi tên của các thầy lang bà mế giữa các dân tộc Dao và Sán Dìu tại xã Quân Chu còn có sự giao thoa trong cách sử dụng chữa bệnh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có nhiều loài cây được cả 2 cộng đồng dân tộc sử dụng để chữa trị cùng một nhóm bệnh. Hiện nay trong các loại bệnh tỉ lệ người mắc bệnh liên quan đến xương khớp đang ngày càng tăng, bệnh thường gặp ở những người trung niên, người già hoặc người làm việc văn phòng. Nguyên nhân của bệnh này là do tư thế ngồi chưa đúng, ngồi kéo dài cùng với thói quen ít vận động khiến hệ thống xương khớp già cỗi, thoái hóa, rồi bị tổn thương gây các cơn đau, nhức mỏi kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Mặc dù bệnh về xương khớp tỉ lệ tử vong thấp, nhưng lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người bệnh (Bảng 4.12).
  56. 46 Bảng 4.12. Danh sách cây thuốc được các dân tộc cùng sử dụng chữa nhóm bệnh về xương khớp Tên khoa học – Stt Tên dân tộc Công dụng Tên phổ thông Dây đau xương - Tinospora 1.Pà chặt man 1,2.Đau xương 1 sinensis (Lour.) Merr 2.Co rủi Gối hạc tía - Leea rubra Blume ex 1.Gối hạc tía 1,2.Thấp khớp, sỏi 2 Spreng 2.Thôi ải mật Chú thích: Tên dân tộc: .1. Dao, 2. Sán Dìu Qua Bảng 4.12 thống kê các loài cây thuốc được các dân tộc cùng sử dụng để chữa trị nhóm bệnh về xương khớp cho thấy, số lượng các loài cây thuốc có 2 loài là: Dây đau xương (Tinospora sinensis (Lour.) Merr) và Gối hạc tía (Leea rubra Blume ex Spreng) Có thể do đời sống của các cộng đồng dân tộc ở xã khu vực nghiên cứu gắn liền với núi rừng nhiều nên việc đi lại gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là người dân phải thường xuyên vào rừng khai thác tài nguyên (gỗ, lâm sản ngoài gỗ), do vậy thường xuyên gặp các bệnh liên quan đến xương khớp. Xuất phát từ thực tế cuộc sống mà cộng đồng các dân tộc nơi đây tích lũy và học hỏi được nhiều kinh nghiệm để chữa trị nhóm bệnh về xương khớp. Ngoài ra, trong quá trình điều tra ở khu vực nghiên cứu, việc cùng sử dụng chung cây cỏ để làm thuốc chữa các bệnh liên quan đến gan, thận, dạ dày cũng được cộng đồng các dân tộc quan tâm đến, cụ thể kết quả được thể hiện ở Bảng 4.13.
  57. 47 Bảng 4.13. Danh sách cây thuốc các dân tộc cùng sử dụng chữa nhóm bệnh về gan, thận, dạ dày Tên khoa học – Tên phổ Stt Tên dân tộc Công dụng thông A Chữa bệnh gan 1.Gáo Gáo - Nauclea officinalis 1.Xơ gan cổ chướng, 1 2.Vong lén Merr. sec. Phamh 2.Gan nhiễm vỡ sung. 1.Viêm loét dạ dày, xơ gan, Xạ đen - Ehretia asperula viêm gan 2 1,2.Xạ đen Zoll. & Mor 2.Viêm gan, u bướu, chống ung thư vòm họng Dành dành - Gardenia 1.Lù lầng pầu, 1.Xơ gan vàng da, vàng mắt 3 augusta (L.) Merr 2.Vong hen 2.Xơ gan B Chữa bênh thận Cỏ xước - Achyranthes 1.Cỏ xước 1 1,2.Sỏi thận aspera L. 2.Mèo lá lọt Mía dò - Costus speciosus 1,2.Lợi tiểu, sỏi thận, đái tháo 2 1,2.Mía dò (Koenig) Smith đường, kích thích tiêu hóa Gối hạc tía - Leea rubra 1.Gối hạc tía 3 1,2.Thấp khớp, sỏi mật Blume ex Spreng 2.Thôi ải C Chữa bệnh dạ dày 1.Đìa dàm phản 1.Viêm đại tràng Lá khôi tía - Ardisia 1 2.Vong lén thai 2.Viêm loét dạ dày, đau dạ nigropilosa Pitard đồng dày Chú thích: Tên dân tộc: 1. Dao; 2. Sán Dìu Dẫn liệu trên cho thấy, các nhóm bệnh về gan, thận, dạ dày mặc dù số lượng không được nhiều nhưng các cộng đồng đã điểm chung trong việc sử dụng một cây cỏ để chữa các bệnh về gan, thận, dạ dày. Trong đó, các loài
  58. 48 dùng chủ yếu để chữa các bệnh về thận, gan và có thể nhận thấy những loài đó chủ yếu là những loài phổ biến trong tự nhiên như: cây Gáo (Nauclea officinalis Merr. sec. Phamh), cây Xạ đen (Ehretia asperula Zoll. & Mor), cây Dành dành (Gardenia augusta (L.) Merr). Cả ba loài này được cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu sử dụng để điều trị nhóm bệnh gan, đặc biệt đối với Xạ đen còn được dân tộc Sán Dìu sử dụng chữa nhóm bệnh về u bướu. Cây thuốc được cộng đồng dân tộc sử dụng để chữa nhóm bệnh thận là cây: Cỏ xước (Achyranthes aspera L.), cây Mía dò (Costus speciosus (Koenig) Smith), cây Gối hạc tía (Leea rubra Blume ex Spreng). Trong ba 3 loài cây thuốc chữa bênh liên quan đến thận có 1 loài được cả 2 dân tộc Dao và Sán Dìu ở khu vực nghiên cứu đó là cây Mía dò, ngoài tác dụng chữa nhóm bệnh về thận mà còn chữa cả nhóm bệnh về tiêu hóa. Nhìn chung, từ kết quả và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc chữa bệnh bằng của cộng đồng các dân tộc ở khu vực nghiên cứu rất phát triển, nhiều loài đã được khoa học chứng minh, nhiều loài đã được sử dụng rộng rãi trong nhân dân để chữa bệnh. Vì vậy kinh nghiệm sử dụng cây cỏ của các dân tộc cư trú tại xã Quân Chu là đáng tin cậy và cần được nhân rộng trong cộng đồng. 4.3.4. Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở xã Quân Chu Kết quả điều tra cho thấy, tại khu vực nghiên cứu hầu hết nữ giới có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc nhiều hơn nam giới bởi vì nam giới trong gia đình tập trung sản xuất, làm kinh tế nên việc truyền thụ lại kinh nghiệm sử dụng cây thuốc được chuyển giao cho nữ giới. Bảng 4.14. Số lượng thầy thuốc được phỏng vấn theo từng dân tộc ở KVNC Stt Dân tộc Số thầy thuốc phỏng vấn Tỷ lệ % 1 Dao 9 81,8 2 Sán Dìu 2 12,8 Tổng số 11
  59. 49 Dữ liệu cho thấy, số lượng thầy thuốc chiếm đa số hơn là người dân tộc Dao có 8 người được phỏng vấn có tỷ lệ 81.8% so với tổng thầy thuốc được phỏng vấn. Tại xã Quân Chu những thầy thuốc chủ yếu là nữ giới trong đó có 8 nữ và 3 nam thuộc nhóm tuổi từ 50 - 75 tuổi, bởi vì nam giới ở trong xã tập trung sản xuất, làm kinh tế nên nữ giới được ưu tiên chuyển giao kinh nghiệm sử câu thuốc, việc nữ giới nhiều hơn nam giới thì ngược lại hoàn toàn so với kết quả điều tra của Nông Bảo Liêm với 9 nam và 5 nữ, (Nông Bảo Liêm, 2020) [17]. Điều này chứng minh tầm quan trọng của phụ nữ trong việc truyền thụ kiến thức sử dụng cây dược liệu. Về độ tuổi, từ 50 - 75 đây là độ tuổi mà con người thường tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống, trong đó có việc thu lượm những kiến thức thực tế từ những người xung quanh hoặc từ sự truyền đạt những bí quyết của những người cao tuổi trong gia đình, dòng họ liên quan đến việc chữa trị các bệnh. Điều này đã lý giải tỉ lệ thầy thuốc nằm trong độ tuổi 50 – 75 so với nhóm có độ tuổi trẻ hơn là lớn hơn. Mặt khác những người ở độ tuổi từ 25 đến dưới 50 tuổi là nguồn lao động chính trong gia đình, do vậy họ thường chú tâm vào các hoạt động sản xuất chính như làm nương rẫy, chăn nuôi, kinh doanh tạo nguồn thu nhập để đảm bảo cuộc sống hàng ngày của gia đình. Những người dưới 25 tuổi chưa tham gia vào việc sử dụng cây cỏ làm thuốc theo kinh nghiệm theo ông cha đi trước bởi vì ở độ tuổi này chủ yếu là độ tuổi còn đang đi học, tham gia các hoạt động xã hội, chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm, vốn sống và những kiến thức bản địa của các bậc cao nhân truyền lại. Như vậy, qua kết quả phỏng vấn 11 thầy thuốc ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ cho thấy hầu hết các kiến thức về cây thuốc của cộng đồng Dao và Sán Dìu đều được truyền miệng qua các thế hệ. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, việc chuyển giao kinh nghiệm chữa bệnh chỉ được truyền lại cho con cháu trong gia đình hoặc thậm chí chỉ có những nam giới mới được truyền
  60. 50 đạt, đây cũng chính là một lý do dẫn đến sự gián đoạn mai một của nguồn tri thức bản địa. Do đó việc giữ gìn các giá trị truyền thống về y học dược thảo thì việc hệ thống hóa lại kiến thức thực vật và chuyển giao kiến thức đảm bảo tính liên tục trong các cộng đồng dân tộc là thực sự cần thiết. 4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc ở khu vực nghiên cứu trong việc phòng và điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn, tôi tiến hành lựa chọn cây Xạ đen (Ehretia asperula Zoll. & Mor) và cây Khoan cân đằng (Tinospora sinensis (Lour.) Merr) lấy mẫu tại xã Quân Chu, huyện Đại Từ để tiến hành đánh giá hoạt tính kháng khuẩn (HTKK) của cây. Kết quả thể hiện ở Bảng 4.15 và Hình 4.3: Bảng 4.15. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Xạ đen và cây Khoan cân đằng Đơn vị tính: mm Cao chiết Khoan cân Đối chứng Đối chứng Đối chứng Xạ đen đằng dương – K1 dương – K2 âm (Dung (XĐ) (KCĐ) (Amikacin) (Kanamicin) môi) Vi khuẩn S. aureus 24,1±0,4 20,4±0,4 20,2±0,3 23,9±0,2 0 E. coli 25,1±0,7 23,9±0,8 21,3±0,6 20,8±0,5 0 Qua dữ liệu trên cho thấy, 2 loài khảo sát (Xạ đen và Khoan cân đằng) đều có hoạt tính ức chế đối với vi khuẩn gây bệnh. Cả 2 loài Xạ đen và Khoan cân đằng đều có hoạt tính cao ức chế với cả 2 vi khuẩn gây bệnh Gram dương (S. Aureus) và Gram âm (E. coli) với vòng ức chế đạt được với loài Xạ đen là 24,1 mm với vi khuẩn Gram dương (S. aureus) và 25,1 mm với vi khuẩn Gram âm (E. Coli). Trương tự với cây Khoan cân đằng là 20,4 mm với vi khuẩn Gram dương (S. aureus) và 23,9 mm với vi khuẩn Gram âm (E. Coli).
  61. 51 So sánh giữa kết quả phân tích mẫu 2 loài cho thấy, loài Xạ đen có hoạt tính kháng khuẩn mạnh hơn loài Khoan cân đằng. Cả 2 loài này có hoạt tính kháng khuẩn khá mạnh, tuy nhiên hoạt tính ức chế vi khuẩn gây bệnh Gram dương của loài Khoan cân đằng vẫn yếu hơn so với kháng sinh Kanamicin cùng so sánh, nhưng yếu hơn không đáng kể. So với đối chứng âm (dung môi) thì cả 2 loài cây mẫu đều có tính kháng khuẩn, ngược lại đối chứng âm (dung môi) không có tính kháng khuẩn đối với 2 vi khuẩn gây bệnh Gram dương (S. Aureus) và Gram âm (E. coli). Từ kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn tôi đề xuất, có thể sử dụng cây Xạ đen và Khoan cân đằng để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và E. coli gây ra. Qua kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn, cho thấy có thể sử dụng cây Xạ đen và Khoan cân đằng để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E. coli gây ra. Kết quả này là một bằng chứng khoa học chứng minh kinh nghiệm sử dụng các cây thuốc này trong việc phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Hình 4.3: Hoạt tính ức chế E. coli và S. aureus của cây Xạ đen và cây Khoan cân đằng
  62. 52 Chú thích: TVC: Staphylococus aureus; E. coli: Escherichia coli; ĐC: Đối chứng âm (Dung môi); K1: Đối chứng dương (Amikacin); K2: Đối chứng dương (Kanamicin); XĐ: Xạ đen; KCĐ: Khoan cân đằng
  63. 53 PHẦN 5 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Kết quả nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc Dao và Sán Dìu ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, tôi đã thu được những kết quả sau đây: Đã thu được 113 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan có 112 loài và thuộc 105 chi và 64 họ, thuộc ngành thông có 1 loài 1 chi và 1 họ có công dụng làm thuốc. Số thực vật làm thuộc trong 65 họ. Trong đó họ nhiều loài nhất là họ Bồ công anh (Asteraceae) với 9 loài; họ Thầu Dầu (Đại kích) (Euphorbiaceae) với 6 loài; họ Cỏ Roi Ngựa (Verbenaceae), họ Dâu tằm (Moraceae) và họ Cà phê (Rubiaceae) với 5 loài; họ Ô rô (Acanthaceae) với 4 loài. Trong 106 chi thì có 2 chi có 2 loài và 2 chi có 3 loài được sử dụng làm thuốc đó là chi Clerodendrum và chi Ficus. Về dạng cây thuốc được người dân sử dụng nhiều nhất là dạng cây thảo với 36 loài, thân bụi 44 loài, thân gỗ nhỏ 20 loài, thân dây leo 9 loài, thân gỗ trung bình là 4 loài, cây gỗ lớn không ghi nhận loài nào. Môi trường sống: nơi sống chủ yếu của cây thuốc chủ yếu ở vườn là 80 loài, ở rừng là 50 loài, ở đồi là 26 loài, ở ven suối là 2 loài. Số lượng cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn có 4 loài, chiếm 3.54% tổng số loài cây thuốc thu được, Trong đó có 2 loài có tên trong Nghị Định 06/2019/NĐ – CP; có 2 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam 2007 và có 2 loài có tên trong danh lục cây thuốc đỏ Việt Nam 2007. Đã xác định được có 10 bộ phận khác nhau được sử dụng theo kinh nghiệm của các cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu tại xã Quân Chu, trong đó bộ phận cả cây, lá, than, quả là 4 bộ phận có tần số được sử dụng nhiều nhất trong chữa trị bệnh cho người dân nơi đây
  64. 54 Đã thông kê được 14 nhóm bệnh khác nhau được chữa trị bằng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong cộng đồng dân tộc Dao và Sán Dìu tai khu vực nghiên cứu Trong đó số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung phần lớp vào các nhóm bệnh là: bệnh đường tiêu hóa, bệnh xương khớp, hệ vận động, bệnh về gan, bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục. Đã xác định được có 15 loài cây cùng được cả 2 dân tộc Dao và Sán Dìu tại khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh. Xác định được 2 loài cây được các dân tộc chữa bệnh xương khớp, 3 loài chữa bệnh gan, 3 loài chữa bênh thận. Quan kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn, cho thấy có thể sử dụng cây Xạ đen và Khoan cân đằng để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng); đồng thời cây Khoan cân đằng có thể sử dụng để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E. Coli gây. 5.2. Tồn tại Những bài thuốc hứu ích quan trọng không phải ai cũng biết, mà chỉ một số người biết, tuy nhiên đây là những bài thuốc gia truyền nên các ông lang bà mế không muốn nhiều người biết, khi được phỏng vấn họ cung cấp những bài thuốc nhưng trong những bài thuốc đã bớt đi một số loài cây thuốc, điều đó sẽ gây rất kho khăn cho việc phát triển và bảo tồn những bà thuốc. Chưa nghiên cứu sâu sắc về về đặc điểm sinh thái học, chữa xác định được mức độ, vị trí phân bố cụ thể của các loài cây thuốc đã thống kê. 5.3. Kiến nghị 1. Cần tiếp tục mở rộng khu vực điều tra và nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc để có kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho tương lai. 2. Tiếp tục nghiên cứu và đánh giá tính hiệu quả của các loài cây thuốc mà đồng bào dân tộc Dao và Sán Dìu ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên sử dụng.
  65. 55 3. Cần thời gian nghiên cứu và vốn kiến thức sâu rộng hơn để xác định trữ lượng người dân khai thác và sử dụng các loài cây thuốc. 4. Xây dựng những vườn thuốc trong gia đình cho những gia đình lương y hay những gia đình có những người biết sử dụng thuốc ở các thôn bản để bảo vệ nguồn gen quý và hướng dẫn cách trồng hái, chế biến cho phù hợp. 5. Với những loài cây thuốc thuộc dạng quý hiếm cần hướng dẫn nhân dân nhận biết và tiến hành bảo vệ rừng, hạn chế khai thác một cách cạn kiệt các loài cây thuốc để bán sang Trung Quốc. 6. Cần các cấp, các ngành chính quyền địa phương quan tâm hơn nữa trong việc ưu tiên bảo tồn, gây trồng và nhân rộng các loài cây thuốc có giá trị cao trong y học cũng như trong kinh tế, và có những chính sách khuyến khích, liên kết với những cơ quan bệnh viện, để nhằm phát triển và bảo tồn tài nguyên cây thuốc của Việt Nam.
  66. 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO A.TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Âu Anh Khâm (2001), 577 bài thuốc dân gian gia truyền (sách dịch), Nxb. Thanh niên, Hà Nội. 2. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Nghị định 06/2019/CP – NĐ về nghiêm cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động thực vật hoang dã. 3. Dương Văn Hưng (2018), Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 4. Đặng Quang Châu (2011), “Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An”, Tạp chí Sinh học, tập 23. 5. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 6. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 7. Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến (2011), Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Hoàng Thị Thanh (2019), Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 9. Hoàng Văn Đức (2018), Nghiên cứu tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc tày tại xã Phú Tiến, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên.
  67. 57 10. Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận (2011), Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Lê Thị Thanh Hương (2007), Điều tra và đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Tày ở một số xã của huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội. 12. Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam, trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), Các cây có ích của dân tộc H’mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội 14. Lò Thị Quý (2018), Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong một số dân tộc thiểu số tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lào Cai, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 15. Lương Minh Ngọc (2018), Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong đồng bào dân tộc Bru- Vân Kiểu ở xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 16. Lò Văn Nhan (2019), Khóa luận tốt nghiệp, Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên.
  68. 58 17. Nông Bảo Liêm (2020), Khóa luận tốt nghiệp, Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Trọng con, huyện Thạch An, tỉnh Cao bằng, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 18. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà nội. 19. Nguyễn Nghĩa Thìn (2007), Các phương pháp nghiên cứu thực vật, Nxb. Đại Học Quốc gia Hà Nội. 20. Nguyễn Nhân Thống (2008), Danh y tuổi tý, Hội Đông y Việt Nam – Tạp chí Đông y – số 405/2008. 21. Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam, Nxb. Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội. 22. Nguyễn Thượng Dong (chủ biên) và nhiều tác giả (2006), Nghiên cứu thuốc từ thảo dược, Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 23. Nguyễn Minh Hiếu (2019), Khóa luận tốt nghiệp, Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Khóa luận tốt nghiệp. Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 24. Nông Thái Hòa (2018), Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Thông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 25. Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây cỏ Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 26. Phạm Hoàng Hộ (2006), Cây có vị thuốc ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 27. Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương (2000), Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược, Nxb. Y học, Hà Nội. 28. Tào Duy Cần (2001), Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật. 29. Tào Duy Cần (2006), Thuốc bệnh 24 chuyên khoa, Nxb. Y học, Hà Nội.
  69. 59 30. Viện Dược Liệu (1993), Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 31. Võ Văn Chi (1996), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Y học, Hà Nội. 32. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Hà Nội, tập 1 - 2. 33. Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã (2011), Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 34. Vàng Văn Trung (2019), Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 35. Vàng A Lả (2018), Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. B. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 36. Balcha Abera (2014), “Medicinal plants used in traditional medicine by Oromo people, Ghimbi District, Southwest Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 37. Berhane Kidane, Tinde van Andel, Laurentius van der Maesen, Zemede Asfaw (2014), “Use and management of traditional medicinal plants by Maale and Ari ethnic communities in southern Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 38. Dol Luitel, Maan B Rokaya, Binu Timsina, Zuzana Münzbergová (2014), “Medicinal plants used by the Tamang community in the
  70. 60 Makawanpur district of central Nepal”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 39. Eduardo Estrada-Castillón, Miriam Garza-López, José Villarreal- Quintanilla, María Salinas-Rodríguez, Brianda Soto-Mata, Humberto González-Rodríguez, Dino González-Uribe, Israel Cantú-Silva, Artemio Carrillo-Parra, César CantúAyala (2014), “Ethnobotany in Rayones, Nuevo León, México”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 10:62pp. 40. Homervergel G. Ong, Young-Dong Kim (2014), “The study of botany quantification of the medicinal plants used by indigenous Ati Negrito groups in the island of Guimaras, Philippines”, Journal of Ethnopharmacology. 41. Joanne Packera, Nynke Brouwera, David Harringtona, Jitendra Gaikwada, Ronald Heronb, Shoba Ranganathana, Subramanyam Vemulpada, Joanne Jamiea (2012), “An ethnobotanical study of medicinal plants used by indigenous communities Yaegl in northern New South Wales, Australia”, Journal of Ethnopharmacology. 42. Mendrika Razafindraibe, Alyse R Kuhlman, Harison Rabarison, Vonjison Rakotoarimanana, Charlotte Rajeriarison, Nivo Rakotoarivelo, Tabita Randrianarivony, Fortunat Rakotoarivony, Reza Ludovic, Armand Randrianasolo, Rainer W Bussmann (2013), “Medicinal plants used by women from Agnalazaha coastal forests (Southeast Madagascar)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 43. Mi-Jang Song, Hyun Kim, Byoung-Yoon Lee, Heldenbrand Brian, Chan- Ho Park, Chang-Woo Hyun (2014), “Analysis of traditional knowledge of
  71. 61 medicinal plants from residents in Gayasan National Park (Korea)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 44. Seyid Ahmet Sargın, Ekrem Akcicek, Selami Selvi (2013), “An ethnobotanical study of medicinal plants used by local people of Alaşehir (Manisa) in Turkey”, Journal of Ethnopharmacology. 45. Soledad Molares, Ana Ladio (2014), “Medicinal plants in the cultural landscape of a Mapuche-Tehuelche community in arid Argentine Patagonia: an eco-sensorial approach”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 46. Tahira Bibia, Mushtaq Ahmada, Rsool Bakhsh Tareenc, Niaz Mohammad Tareenc, Rukhsana Jabeenb, Saeed-Ur Rehmanc, Shazia Sultanaa, Muhammad Zafara, Ghulam Yaseena (2014), “Ethnobotany of medicinal plants in Mastung district of Balochistan province, Pakistan”, Journal of Ethnopharmacology.
  72. PHỤ LỤC 0
  73. PHỤ LỤC 1 MỘT SỐ HÌNH ẢNH CHỤP ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRA 1.Cây Xạ đen - Ehretia asperula Zoll. & Mor 2. Cây thầu dầu - Ricinus communis L. 3.Khoan cân đằng - Tinospora sinensis (Lour.) 4.Cây giao - Euphorbia tirucalli L. Merr. 1