Khóa luận Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại một số loài cây thuộc họ đay (tiliaceae); họ dầu (dipterocarpaceae blume) tại mô hình vườn thực vật khoa lâm nghiệp

pdf 80 trang thiennha21 19/04/2022 2210
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại một số loài cây thuộc họ đay (tiliaceae); họ dầu (dipterocarpaceae blume) tại mô hình vườn thực vật khoa lâm nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_sinh_truong_va_tinh_hinh_sau_benh_hai_m.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại một số loài cây thuộc họ đay (tiliaceae); họ dầu (dipterocarpaceae blume) tại mô hình vườn thực vật khoa lâm nghiệp

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG VĂN ĐIỀU NGHIÊN CỨU SINH TRƯỞNG VÀ TÌNH HÌNH SÂU BỆNH HẠI MỘT SỐ LOÀI CÂY THUỘC HỌ ĐAY (TILIACEAE); HỌ DẦU (DIPTEROCARPACEAE BLUME) TẠI MÔ HÌNH VƯỜN THỰC VẬT KHOA LÂM NGHIỆP KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Lâm nghiệp Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2015 - 2019 Thái Nguyên, năm 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HO ÀNG VĂN ĐIỀU NGHIÊN CỨU SINH TRƯỞNG VÀ TÌNH HÌNH SÂU BỆNH HẠI MỘT SỐ LOÀI CÂY THUỘC HỌ ĐAY (TILIACEAE) ; HỌ DẦU (DIPTEROCARPACEAE BLUME) TẠI MÔ HÌNH VƯỜN THỰC VẬT KHOA LÂM NGHIỆP KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Lâm nghiệp Lớp : K47 Lâm nghiệp Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2015 - 2019 Giảng viên HD : TS.LÊ SỸ HỒNG : TS. ĐỖ HOÀNG CHUNG Thái Nguyên, năm 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân Tôi, công trình được thực hiện dưới sự hướng dẫn của các thầy giáo. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong khóa luận đã được nêu rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là quá trình điều tra trên thực địa hoàn toàn trung thực, chưa công bố trên các tài liệu, nếu có gì sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Thái Nguyên, ngày 31 tháng 05 năm 2018 XÁC NHẬN CỦA GVHD Người viết cam đoan Hoàng Văn Điều XÁC NHẬN CỦA GV CHẤM PHẢN BIỆN Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên để sửa chữa sai sót sau khi Hội đồng chấm yêu cầu (Ký, họ và tên)
  4. ii LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với các thầy cô giáo Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Lâm nghiệp của trường đã tạo điều kiện, quan tâm giúp đỡ cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận. Tôi xin bày tỏ biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Sỹ Hồng và TS. Đỗ Hoàng Chung là người đã trực tiếp hướng dẫn thực hiện và giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài khóa luận này. Tôi cũng gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè đã luôn ở bên cạnh động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và thời gian em thực hiện khóa luận tốt nghiệp này. Trong quá trình thực tập, cũng như trong quá trình làm bài báo cáo thực tập, khó tránh khỏi sai sót, rất mong các thầy, cô bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy, cô để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Xin trân trọng cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 30 tháng 05 năm 2018 Sinh viên Hoàng Văn Điều
  5. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Nghiến trong mô hình 35 Bảng 4.2. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Chò Chỉ trong mô hình 36 Bảng 4.3. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Sao Đen trong mô hình 37 Bảng 4.4. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Táu Mật trong mô hình 37 Bảng 4.5. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Táu Muối trong mô hình 38 Bảng 4.6. Sinh trưởng về chiều cao của cây Nghiến trong mô hình 40 Bảng 4.7. Sinh trưởng về chiều cao của cây Chò Chỉ trong mô hình 40 Bảng 4.8. Sinh trưởng về chiều cao của cây Sao Đen trong mô hình 41 Bảng 4.9. Sinh trưởng về chiều cao của cây Táu Mật trong mô hình 41 Bảng 4.10. Sinh trưởng về chiều cao của cây Táu Muối trong mô hình 42 Bảng 4.11. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Nghiến trong mô hình 44 Bảng 4.12. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Chò Chỉ trong mô hình. 44 Bảng 4.13. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Sao Đen trong mô hình. 45 Bảng 4.14. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Táu Mật trong mô hình. 46 Bảng 4.15. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Táu Muối trong mô hình 46 Bảng 4.16: Sinh trưởng lá của cây Nghiến 49 Bảng 4.17: Sinh trưởng lá của cây Chò Chỉ 50 Bảng 4.18 . Sinh trưởng lá của cây Sao Đen 52 Bảng 4.19 . Sinh trưởng lá của cây Táu Muối 53 Bảng 4.20: Sinh trưởng lá của cây Táu Mật 55 Bảng 4.21. Tình hình sâu bệnh hại của 5 loài cây bản địa 57
  6. iv DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1 Cây Nghiến tại vườn thực vật 22 Hình 2.2 Cây Chò Chỉ tại vườn thực vật 24 Hình 2.3 Cây Táu Muối tại vườn thực vật 25 Hình 2.4 Cây Táu Mật tại vườn thực vật 26 Hình 2.5 Cây Sao đen trong vườn thực vật 27 Hình 4.1 Các loài cây được trồng thành hàng trong vườn thực vật 35 Hình 4.2 Ảnh sâu bệnh hại lá của cây Táu Mật, Nghiến và Sao Đen 58
  7. v DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 4.1: Kết quả đường kính gốc của 5 loài cây bản địa trong mô hình 39 Biểu đồ 4.2: Kết quả về sinh trưởng chiều cao của 5 loài cây bản địa 43 Biểu đồ 4.3. Tình hình sinh trưởng về đường kính tán lá của 5 loài cây bản địa trong mô hình 47
  8. vi DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 D00 Đường kính gốc 2 Hvn Chiều cao vút ngọn 3 S Sai tiêu chuẩn 4 S% Hệ số biến động 5 ∆ Lượng tăng trưởng
  9. vii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC HÌNH iv DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ v DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vi MỤC LỤC vii PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài 2 1.3.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học 2 1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất 2 PHẦN 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3 2.1. Một số nét chung 3 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 3 2.2.1. Nghiên cứu về xây dựng các vườn thực vật 3 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 8 2.2.1. Nghiên cứu về xây dựng các vườn thực vật 8 2.2.2. Nghiên cứu về kỹ thuật trồng các loài cây bản địa 13 2.3. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam 14 2.3.1. Những nghiên cứu về xây dựng vườn thực vật 14 2.3.2. Nghiên cứu về trồng cây bản địa 16 2.4. Khái quát một số đặc điểm tự nhiên khu vực nghiên cứu 20 2.4.1. Đất đai 20 2.4.2. Đặc điểm khí hậu, thời tiết 21
  10. viii 2.5. Khái quát một số đặc điểm của 5 loài cây bản địa được chọn để nghiên cứu 21 2.5.1. Nghiến (Burretiodenron hsienmu) 21 2.5.2. Chò Chỉ (parashorea chinensis) 23 2.5.3. Táu Muối (vatica odorata) 24 2.5.4. Táu Mật (vatica tonkinensis A.Chev) 25 2.5.5. Sao Đen (Hopea odorata Roxb) 26 5.5.2. Đặc tính sinh học và sinh thái 27 2.6. Sơ lược về mô hình trồng cây bản địa 28 PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 29 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 29 3.3. Nội dung nghiên cứu 29 3.4. Phương pháp nghiên cứu 30 3.4.1. Phương pháp luận 30 3.4.3. Phương pháp nghiên cứu 31 PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34 4.1. Phân lô cây trồng trong mô hình vườn thực vật 34 4.2. Đánh giá tình hình sinh trưởng về đường kính gốc 35 4.2.1 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Nghiến 35 4.2.2 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Chò Chỉ 36 4.2.3 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Sao đen 36 4.2.4 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Táu Mật 37 4.2.4 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Táu Muối 38 4.3 Đánh gía tình hình sinh trưởng chiều cao của 5 loài cây bản địa 39 4.3.1 Tình Hình sinh trưởng chiều cao vút ngọn của cây Nghiến trong mô hình. 39 4.3.2 Tình Hình sinh trưởng của cây Chò Chỉ trong mô hình 40
  11. ix 4.3.3 Tình Hình sinh trưởng chiều cao của cây Sao Đen trong mô hình 41 4.3.4 Tình Hình sinh trưởng chiều cao của cây Táu Mật trong mô hình 41 4.3.5 Tình Hình sinh trưởng chiều cao của cây Táu Muối trong mô hình 42 4.3. Đặc điểm sinh trưởng về đường kín tán lá của 5 loài cây bản địa 43 4.3.1 Đánh giá tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Nghiến 43 4.3.2 Đánh giá tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Chò Chỉ 44 4.3.3 Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Sao Đen 45 4.3.4. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Táu Mật 45 3.4 Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Táu Muối 46 4.4. Đặc điểm sinh trưởng lá của 5 loài cây bản địa 48 4.4.1 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Nghiến 48 4.4.2 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Chò Chỉ 50 4.4.3 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Sao Đen 51 4.4.4 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Táu Muối 53 4.4.5 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Táu Mật 54 4.6. Đề xuất một số giải pháp phát triển mô hình vườn thực vật. 58 4.6.1. Biện pháp dải lớp nilon không màu trắng xung quanh gốc cây 58 4.6.2. Biện pháp xây dựng thêm hàng rào bảo vệ vườn thực vật 59 PHẦN V KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 60 5.1. Kết luận 60 5.2. Tồn tại 61 5.3. Kiến nghị 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
  12. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Mô hình vườn thực vật tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên được lên kế hoạch và xây dựng vào tháng 03/2017 đến tháng 03/2018. Hiện tại đề tài đã được nghiệm thu và đang được sử dụng với những mục đích ban đầu đặt ra là bảo tồn các nguồn gen quý hiếm của các loài cây bản địa đang có mức độ nguy cấp cao và bên cạnh đó tạo nơi học tập và nghiên cứu cho sinh viên Khoa Lâm Nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái nguyên. Kết thúc ở giai đoạn đầu của việc xây dựng thành công 406 cây thuộc 25 loài cây bản địa khác nhau trong đó có các họ như: Họ thông Tre (Podocarpaceae), Họ mộc Lan (Magnoliaceae), Họ Đậu (Fabaceae), Họ xoan (Meliaceae), Họ long Não (Lauraceae) hay Họ quả hai cánh (Dipterocarpaceae) [1]. Họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) được đánh giá là họ có số lượng loài đang có mức độ nguy cấp cao nhiều nhất trong mô hình vườn thực. Các loài cây thân gỗ thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và họ Đay (Tiliaceae) có giá trị rất cao thường được khai thác thân cây nhằm mục đích làm đồ mỹ nghệ và đồ gia dụng cấp cao. Bởi giá trị của các loài cây họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) họ Đay (Tiliaceae) đem lại cao nên việc khai thác của con người rất mạnh, đồng thời đẩy các loài thân gỗ họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và họ Đay (Tiliaceae) đến mức nguy cấp tuyệt chủng cao vì vậy việc thực hiện đề tài “Đánh giá sinh trưởng của một số loài cây họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên” nhằm đánh giá mức độ sinh trưởng của các loài cây họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) nhân rộng mô hình chuyển vị các loài cây trong mô hình vườn thực vật Trường Đại học Nông Lâm Thái nguyên.
  13. 2 1.2. Mục tiêu nghiên cứu - Đánh giá được tình hình sinh trưởng đường kính gốc của 5 loài cây thuộc họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đánh giá được tình hình sinh trưởng chiều cao vút ngọn của 5 loài cây thuộc họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đánh giá được tình hình sinh trưởng đường kính tán lá và sinh trưởng lá của 5 loài cây thuộc họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đánh giá được tình hình sâu bệnh hại của 5 loài cây thuộc họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đề xuất được một số biện pháp nhằm tăng cường khả năng sinh trưởng của 5 loài cây thuộc họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học - Củng cố kiến thức đã học, hệ thống lại kiến thức đã học, bổ sung kiến thức chuyên môn và vận dụng vào thực tế sản xuất. - Việc nghiên cứu đề tài là cơ sở để đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp để phát triển mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất - Qua những đánh giá cụ thể về sinh trưởng chúng ta có thể tìm ra được các giải pháp cụ thể nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đến ngành Lâm nghiệp và phát triển các loài cây bản địa. - Làm cơ sở tài liệu cho những đề tài và nghiên cứu có liên quan.
  14. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Một số nét chung Đánh giá sinh trưởng cây rừng nói chung và đánh giá sinh trưởng các loài cây bản địa nói riêng là nội dung quan trọng, cần thiết trong khôi phục rừng và xây dựng các vườn thực vật nhằm lựa chọn các loài cây phù hợp cho từng khu vực để đưa các loài cây này vào công tác trồng rừng và làm giàu nguồn tài nguyên thực vật, do vậy việc xây dựng mô hình vườn thực vật từ lâu đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Vườn thực vật : là một nơi trồng cây, được chăm sóc tốt thường được trồng từng nhóm theo loại. Người ta cũng trồng ở đây các cây từ các nước khác, các vùng khí hậu khác nhau. Các vườn thực vật thường được quản lý bởi các trường Đại học, dùng nó làm cơ sở nghiên cứu khoa học. Các vườn thực vật loài cây bản địa hiện đang được chú trọng và xây dựng nhiều trên thế giới, cũng như Việt Nam không phải ngoại lệ, điều đó chứng minh con người ngày càng quan tâm đến thiên nhiên, quan tâm đến sự hài hòa của cuộc sống. Mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên là một ví dụ điển hình cho vườn thực vật bảo tồn các loài cây bản địa, đồng thời lồng ghép giúp sinh viên có nơi học tập và nghiên cứu. Với mục tiêu sẽ là một hạt mầm để nhân rộng đến các vùng lân cận nhằm phát triển ngày càng nhiều các mô hình loài cây bản địa như vậy. 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 2.2.1. Nghiên cứu về xây dựng các vườn thực vật Nhận thấy sự nguy cấp của sự đa dạng các loài thực vật trên thế giới, cùng với đó là trách nhiệm phải bảo tồn những loài cây quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng cao đồng thời có thể kết hợp tham quan giải trí và lồng ghép giáo dục về thiên nhiên thay đổi nhận thức và là cơ sở cho con người
  15. 4 học tập, nghiên cứu, thư giãn nên trên thế giới con người đã xây dựng các vườn thực vật chuyển vị để góp phần bảo vệ nguồn gen của các loài thực vật. Hiện nay có khoảng 1800 vườn bách thảo tại 150 nước thuộc phần lớn tại các vùng có khí hậu ôn hòa. Trong đó có 400 vườn ở Châu Âu, 200 ở Bắc Mỹ, 150 ở Nga, và một số càng ngày càng tăng lên ở Đông Á [20]. Những vườn này lôi cuốn mỗi năm khoảng 150 triệu du khách. Trong quá khứ, các vườn bách thảo trao đổi các cây cối qua việc ấn hành danh sách các hạt giống. Đó là một phương tiện để trao đổi không những các thực vật mà cả các thông tin giữa các vườn bách thảo với nhau. Ở Châu Âu, từ năm 1492 đã có vườn bách thảo Arboretum von Trsteno gần Dubrovnik Tổng diện tích của Arboretum là 28 hecta . Trong suốt 5 thế kỷ tồn tại, các yếu tố của thời kỳ Phục Hưng Baroque và Romanticism có thể được nhìn thấy trong kiến trúc cảnh quan . Trên một số bậc thang bên cạnh cây trồng ở Địa Trung Hải như ô liu , cây sung hoặc cây có múi cũng có rất nhiều cây cọ , cây bạch đàn , cây laurel , cây xương rồng và các cây kỳ lạ khác [19]. Ngoài ra ở Ý vào năm 1544 tại Pisa của Luca Ghini, 1545 ở Padua của Johannes Baptista Montanus cũng như ở Firenze (1545) và Bologna (1568). Điển hình năm 1808 Vườn thực vật Jardim Botnico, ở Rio de Janeiro, Brazil với diện tích 240.000 m2 đây được xem là một trong hai khu vườn đẹp bậc nhất thế giới. Với khoảng 6500 loài thực vật, trong đó một số loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Hay là nằm trên đỉnh Dessert là khu vườn thực vật Kirstenbosch có thể không phải là vườn bách thảo cổ nhất nhưng lại là vườn lớn nhất thế giới. Ngự trị trên vùng đất rộng 35,6 hecta, ra đời từ năm 1913, vườn thực vật quốc gia Kirstenbosch của Nam Phi được thành lập cho mục đích bảo tồn hệ thực vật địa phương, khu vườn Kirstenbosch hiện sở hữu hơn 20.000 loài cây [20]. Được mở cửa từ năm 1910, vườn hoa Berlin-Dahlem được xem là một trong những địa điểm thu hút du lịch của đất nước này. Khu vườn rộng tới 43 hecta có hơn
  16. 5 43.000 loài thực vật khác nhau. Nơi đây được coi như một ốc đảo xinh đẹp, yên bình, nhưng rực rỡ muôn sắc màu, khác biệt với sự bận rộn, hối hả thường ngày của cuộc sống ở thủ đô nước Đức. Được thành lập năm 1840 từ một vườn cây ngoại lai tại công viên Kew, vườn thực vật hoàng gia Kew. Bộ sưu tập của vườn bao gồm 30.000 loài thực vật sống khác nhau. Vườn thực vật Na Aina Kai, Mỹ khoảng 240 loài. Và còn vườn thực vật đại học Hokkaido rộng hơn 13 hecta trồng khoảng 4000 loại thực vật được mở cửa vào cuối thế kỷ 19. Bên cạnh đó là rất nhiều vườn thực vật nổi tiếng, lưu giữ nhiều loài thực vật trên thế giới như: Vườn Butchart, British Columbia, Canada, Villa D’este, Italy, Villa Eprhussa de Rothchild, Pháp xây dựng với mục đích bảo vệ các loài thực vật quý hiếm lồng ghép thăm quan giải trí cho con người. Ở Đức vườn bách thảo đầu tiên được thành lập ở Leipzig (1580), Jena (1586), Heidelberg (1593), Gießen (1609) hay Freiburg (1620), thường thuộc về phân khoa Y học là vườn dược thảo Vườn bách thảo Kiel là vườn bách thảo đầu tiên theo nghĩa hiện nay. Nó được hình thành bởi Johann Daniel Major vào năm 1669 tại Christian-Albrechts-Universität zu Kiel. Ở Bồ Đào Nha vườn bách thảo đầu tiên do bá tước Grafen von Pombal thuộc Universität Coimbra xây vào năm 1772 [20]. Tại Châu Á, có vô vàn các vườn thực vật lớn nhỏ của các nước như: Trung Quốc có 152 vườn thực vật điển hình như là Vườn Thực Vật Bắc Kinh - Khu vườn được thành lập năm 1953 và hiện nay có diện tích 564.000 m2. Chúng bao gồm 6.000 loài thực vật, bao gồm 2.000 loại cây và bụi rậm, 1.620 loài thực vật nhiệt đới và cận nhiệt đới và 500 loài hoa. Bộ sưu tập này bao gồm một số loài quý hiếm, ngoài ra còn có Vườn thực vật Nam Trung Quốc là một phần của Học viện Khoa học Trung Quốc, trước đây gọi là Viện Nông Lâm nghiệp, Đại học Sun Yat-Sen, được thành lập vào năm 1929, Vườn Bách thảo Nhiệt đới Xishuangbanna của Học viện Khoa học Trung Quốc được thành lập năm 1959. Vườn thực vật
  17. 6 Kadoorie và Vườn Bách thảo Kadoorie và Vườn Bách thảo trải dài trên 148 hecta đất và nằm trên sườn núi phía bắc và chân núi của ngọn núi cao nhất ở Hồng Kông - Tai Mo Shan, Vườn thực vật Vũ Hán, Nghiên cứu vườn thực vật theo định hướng này là một phần của Học viện Khoa học Trung Quốc và được thành lập vào năm 1956 và mở cửa cho công chúng vào năm 1958. Hơn 10.000 loài thực vật và các giống và có 16 vườn đặc sản. Vườn hoa quả hoang dã, Vườn thực vật quý hiếm và Vườn cây thuốc là một trong những vườn lớn nhất Trung Quốc và Vườn Thực vật Xiamen - nằm trên núi Wanshi ở phía đông nam của đảo Hạ Môn. Còn được gọi là Vườn Thực Vật Wanshi có diện tích 4,93 km2 và chứa hơn 6.300 loại cây cảnh nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới cộng thêm 10 vườn độc đáo dành riêng nhỏ hơn. Ấn độ có 131 vườn thực vật nổi tiếng như Vườn thực vật nhiệt đới Jawaharlal Nehru và Viện nghiên cứu , Trivandrum, Kerala. 121 ha ở độ cao 100 m trên mực nước biển. Bảo tồn số lượng lớn nhất các bộ sưu tập cây trồng nhiệt đới tại các vườn thực vật ở châu Á, vườn thực vật Acharya Jagadish Chandra Bose được thành lập năm 1786, mục đích của vườn bách thảo hoàng gia là thu thập các cây bản địa và giới thiệu làm cho cây trồng được phục hồi lại từ các nước khác. Các vườn cũng là một nguồn cung cấp cây trồng quan trọng cho Kew và các vườn khác của châu Âu. Vườn bách thảo Jhansi, Jhansi, Uttar Pradesh, Vườn Bách thảo Saharanpur, Saharanpur, Uttar Pradesh, Vườn thực vật Lloyd's , Darjeeling, Tây Bengal được thành lập vào năm 1878 như là một phụ tùng xa xôi của Vườn thực vật Calcutta. Tại Indonesia có 5 vườn thực vật nổi trội đó là Vườn Bách thảo Bali. Nhật bản có 64 vườn thực vật đặc biệt phải kể đến đó là Vườn thực vật, Trường đại học Khoa học, Đại học Tokyo. Đại học Tokyo Botanical Gardens, Hakusan, Bunkyo-kuTokyo, Nhật Bản. Lào có Vườn thực vật Pha Tad Ke xây dựng vào năm 2008 và mở cửa vào năm 2015. Đến với Malaysia phải kể đến Rimba Ilmu Rimba Ilmu là một khu vườn thực vật nhiệt đới, được
  18. 7 thành lập tại khuôn viên trường Đại học Malaya ở Kuala Lumpur, Malaysia. Rimba IlmuInstitute of Biological Sciences, Đại học Malaya, Kuala Lumpur, Malaysia. Singapore có 2 vườn không thể không nhắc đến Singapore Botanic Gardens nằm ở trung tâm thành phố và được thành lập vào năm 1859. Với diện tích gần 74 hecta, khu vườn là nơi nghiên cứu và bảo tồn hơn 30.000 loài thực vật. Khu vườn này nổi tiếng trên thế giới với Vườn lan Quốc gia, nơi trưng bày hoa lan nhiệt đới lớn nhất thế giới với hơn 1.000 loài phong lan và 2.000 loại lan lai tạo. Nam Triều Tiên có 54 vườn những cái tên thường được nhắc đến như Vườn Bách Thảo Namsan có trụ sở tại Seoul nó chiếm một khu vực 59 m2, có tổng cộng 117.132 cây từ 269 loài trên có 13 khu vườn theo chủ đề. Oedo - một vườn thực vật ven biển được xây dựng năm 1969 bởi Lee Chang Ho và vợ ông, trong công viên biển quốc gia được gọi là Vườn Quốc gia Hallyeo Haesang. Vườn Sinh thái Eco Yanggu - khai trương năm 2004. Chiếm 189.141 người. Đặt tại chân núi Daeamsan. Đây là khu vườn sinh thái cực bắc của Hàn Quốc và được phát triển như là một trung tâm khôi phục hệ sinh thái Nam và Bắc Triều Tiên. Bao gồm hơn 400 thực vật quý hiếm bao gồm các loài thực vật bản địa Hàn Quốc và được bảo vệ bởi Bộ Môi trường Hàn Quốc. Vườn thực vật Yeomiji mở cửa năm 1989 bao gồm 112000 m2, có vườn trong nhà và ngoài trời. theo chủ đề trong các khu. Một số vườn tạo ra các phong cách được tạo ra ở các nước khác trong quá khứ. Tiếp đó là Sri Lanka có các vườn thực vật nổi tiếng như Vườn Bách Thảo Hoàng Gia Sri Lanka, Peradeniya, Kandy có 147 mẫu vật nằm ở độ cao 460 mét so với mực nước biển, bao gồm hơn 4.000 loài thực vật và nổi tiếng với bộ sưu tập hoa phong lan, ngoài ra còn có Vườn Bách thảo Hakgala, Vườn Bách thảo Henarathgoda và Vườn Bách thảo Mirijjawila. Đài loan có 5 vườn nổi trội kể đến là Vườn Bách thảo Đài Loan, Đài Loan năm 1896, một vườn ươm chính thức với diện tích dưới 5 ha đã được thành lập gần Xiaonanmen ở phía tây
  19. 8 nam thành phố Đài Bắc. Điều này đánh dấu sự ra đời của Vườn thực vật Đài Bắc. và Thái Lan có 12 vườn thực vật gồm có vườn thực vật Queen Sirikit là vườn thực vật quan trọng nhất và lâu đời nhất ở Thái Lan và là trung tâm nghiên cứu khoa học chính. Dành riêng cho việc bảo tồn hệ thực vật Thái Lan. Vườn Bách Thảo Queen Sirikit, trước đây gọi là Vườn Bách Thảo Mae Sa. Nằm cách Pattaya 20km về phía Nam tại Thái Lan vườn thực vật Nong Nooch rộng khoảng 2,4 km2 đã sưu tập khoảng 20.000 loại cây nhiệt đới khác nhau đặc biệt tại Nong Nooch có hơn 670 loài hoa lan [5]. Tất cả những vườn thực vật kể trên hiện tại ngoài mang nhiệm vụ là nơi bảo vệ được các nguồn gen quý của các loài cây mà còn có thể trở thành nơi thăm quan giải trí và tạo ra một địa điểm hùng vĩ của các đất nước đó. 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 2.2.1. Nghiên cứu về xây dựng các vườn thực vật Nhận thấy sự nguy cấp của sự đa dạng các loài thực vật trên thế giới, cùng với đó là trách nhiệm phải bảo tồn những loài cây quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng cao đồng thời có thể kết hợp tham quan giải trí và lồng ghép giáo dục về thiên nhiên thay đổi nhận thức và là cơ sở cho con người học tập, nghiên cứu, thư giãn nên trên thế giới con người đã xây dựng các vườn thực vật chuyển vị để góp phần bảo vệ nguồn gen của các loài thực vật. Hiện nay có khoảng 1800 vườn bách thảo tại 150 nước thuộc phần lớn tại các vùng có khí hậu ôn hòa. Trong đó có 400 vườn ở Châu Âu, 200 ở Bắc Mỹ, 150 ở Nga, và một số càng ngày càng tăng lên ở Đông Á [20]. Những vườn này lôi cuốn mỗi năm khoảng 150 triệu du khách. Trong quá khứ, các vườn bách thảo trao đổi các cây cối qua việc ấn hành danh sách các hạt giống. Đó là một phương tiện để trao đổi không những các thực vật mà cả các thông tin giữa các vườn bách thảo với nhau. Ở Châu Âu, từ năm 1492 đã có vườn bách thảo Arboretum von Trsteno gần Dubrovnik Tổng diện tích của Arboretum là
  20. 9 28 hecta . Trong suốt 5 thế kỷ tồn tại, các yếu tố của thời kỳ Phục Hưng Baroque và Romanticism có thể được nhìn thấy trong kiến trúc cảnh quan . Trên một số bậc thang bên cạnh cây trồng ở Địa Trung Hải như ô liu , cây sung hoặc cây có múi cũng có rất nhiều cây cọ , cây bạch đàn , cây laurel , cây xương rồng và các cây kỳ lạ khác [19]. Ngoài ra ở Ý vào năm 1544 tại Pisa của Luca Ghini, 1545 ở Padua của Johannes Baptista Montanus cũng như ở Firenze (1545) và Bologna (1568). Điển hình năm 1808 Vườn thực vật Jardim Botnico, ở Rio de Janeiro, Brazil với diện tích 240.000 m2 đây được xem là một trong hai khu vườn đẹp bậc nhất thế giới. Với khoảng 6500 loài thực vật, trong đó một số loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Hay là nằm trên đỉnh Dessert là khu vườn thực vật Kirstenbosch có thể không phải là vườn bách thảo cổ nhất nhưng lại là vườn lớn nhất thế giới. Ngự trị trên vùng đất rộng 35,6 hecta, ra đời từ năm 1913, vườn thực vật quốc gia Kirstenbosch của Nam Phi được thành lập cho mục đích bảo tồn hệ thực vật địa phương, khu vườn Kirstenbosch hiện sở hữu hơn 20.000 loài cây [20]. Được mở cửa từ năm 1910, vườn hoa Berlin-Dahlem được xem là một trong những địa điểm thu hút du lịch của đất nước này. Khu vườn rộng tới 43 hecta có hơn 43.000 loài thực vật khác nhau. Nơi đây được coi như một ốc đảo xinh đẹp, yên bình, nhưng rực rỡ muôn sắc màu, khác biệt với sự bận rộn, hối hả thường ngày của cuộc sống ở thủ đô nước Đức. Được thành lập năm 1840 từ một vườn cây ngoại lai tại công viên Kew, vườn thực vật hoàng gia Kew. Bộ sưu tập của vườn bao gồm 30.000 loài thực vật sống khác nhau. Vườn thực vật Na Aina Kai, Mỹ khoảng 240 loài. Và còn vườn thực vật đại học Hokkaido rộng hơn 13 hecta trồng khoảng 4000 loại thực vật được mở cửa vào cuối thế kỷ 19. Bên cạnh đó là rất nhiều vườn thực vật nổi tiếng, lưu giữ nhiều loài thực vật trên thế giới như: Vườn Butchart, British Columbia, Canada, Villa D’este, Italy, Villa Eprhussa de Rothchild, Pháp xây dựng với
  21. 10 mục đích bảo vệ các loài thực vật quý hiếm lồng ghép thăm quan giải trí cho con người. Ở Đức vườn bách thảo đầu tiên được thành lập ở Leipzig (1580), Jena (1586), Heidelberg (1593), Gießen (1609) hay Freiburg (1620), thường thuộc về phân khoa Y học là vườn dược thảo Vườn bách thảo Kiel là vườn bách thảo đầu tiên theo nghĩa hiện nay. Nó được hình thành bởi Johann Daniel Major vào năm 1669 tại Christian-Albrechts-Universität zu Kiel. Ở Bồ Đào Nha vườn bách thảo đầu tiên do bá tước Grafen von Pombal thuộc Universität Coimbra xây vào năm 1772 [20]. Tại Châu Á, có vô vàn các vườn thực vật lớn nhỏ của các nước như: Trung Quốc có 152 vườn thực vật điển hình như là Vườn Thực Vật Bắc Kinh - Khu vườn được thành lập năm 1953 và hiện nay có diện tích 564.000 m2. Chúng bao gồm 6.000 loài thực vật, bao gồm 2.000 loại cây và bụi rậm, 1.620 loài thực vật nhiệt đới và cận nhiệt đới và 500 loài hoa. Bộ sưu tập này bao gồm một số loài quý hiếm, ngoài ra còn có Vườn thực vật Nam Trung Quốc là một phần của Học viện Khoa học Trung Quốc, trước đây gọi là Viện Nông Lâm nghiệp, Đại học Sun Yat-Sen, được thành lập vào năm 1929, Vườn Bách thảo Nhiệt đới Xishuangbanna của Học viện Khoa học Trung Quốc được thành lập năm 1959. Vườn thực vật Kadoorie và Vườn Bách thảo Kadoorie và Vườn Bách thảo trải dài trên 148 hecta đất và nằm trên sườn núi phía bắc và chân núi của ngọn núi cao nhất ở Hồng Kông - Tai Mo Shan, Vườn thực vật Vũ Hán, Nghiên cứu vườn thực vật theo định hướng này là một phần của Học viện Khoa học Trung Quốc và được thành lập vào năm 1956 và mở cửa cho công chúng vào năm 1958. Hơn 10.000 loài thực vật và các giống và có 16 vườn đặc sản. Vườn hoa quả hoang dã, Vườn thực vật quý hiếm và Vườn cây thuốc là một trong những vườn lớn nhất Trung Quốc và Vườn Thực vật Xiamen - nằm trên núi Wanshi ở phía đông nam của đảo Hạ Môn. Còn được gọi là Vườn Thực Vật Wanshi có diện tích 4,93 km2 và chứa hơn 6.300 loại cây cảnh nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới
  22. 11 cộng thêm 10 vườn độc đáo dành riêng nhỏ hơn. Ấn độ có 131 vườn thực vật nổi tiếng như Vườn thực vật nhiệt đới Jawaharlal Nehru và Viện nghiên cứu , Trivandrum, Kerala. 121 ha ở độ cao 100 m trên mực nước biển. Bảo tồn số lượng lớn nhất các bộ sưu tập cây trồng nhiệt đới tại các vườn thực vật ở châu Á, vườn thực vật Acharya Jagadish Chandra Bose được thành lập năm 1786, mục đích của vườn bách thảo hoàng gia là thu thập các cây bản địa và giới thiệu làm cho cây trồng được phục hồi lại từ các nước khác. Các vườn cũng là một nguồn cung cấp cây trồng quan trọng cho Kew và các vườn khác của châu Âu. Vườn bách thảo Jhansi, Jhansi, Uttar Pradesh, Vườn Bách thảo Saharanpur, Saharanpur, Uttar Pradesh, Vườn thực vật Lloyd's , Darjeeling, Tây Bengal được thành lập vào năm 1878 như là một phụ tùng xa xôi của Vườn thực vật Calcutta. Tại Indonesia có 5 vườn thực vật nổi trội đó là Vườn Bách thảo Bali. Nhật bản có 64 vườn thực vật đặc biệt phải kể đến đó là Vườn thực vật, Trường đại học Khoa học, Đại học Tokyo. Đại học Tokyo Botanical Gardens, Hakusan, Bunkyo-kuTokyo, Nhật Bản. Lào có Vườn thực vật Pha Tad Ke xây dựng vào năm 2008 và mở cửa vào năm 2015. Đến với Malaysia phải kể đến Rimba Ilmu Rimba Ilmu là một khu vườn thực vật nhiệt đới, được thành lập tại khuôn viên trường Đại học Malaya ở Kuala Lumpur, Malaysia. Rimba IlmuInstitute of Biological Sciences, Đại học Malaya, Kuala Lumpur, Malaysia. Singapore có 2 vườn không thể không nhắc đến Singapore Botanic Gardens nằm ở trung tâm thành phố và được thành lập vào năm 1859. Với diện tích gần 74 hecta, khu vườn là nơi nghiên cứu và bảo tồn hơn 30.000 loài thực vật. Khu vườn này nổi tiếng trên thế giới với Vườn lan Quốc gia, nơi trưng bày hoa lan nhiệt đới lớn nhất thế giới với hơn 1.000 loài phong lan và 2.000 loại lan lai tạo. Nam Triều Tiên có 54 vườn những cái tên thường được nhắc đến như Vườn Bách Thảo Namsan có trụ sở tại Seoul nó chiếm một khu vực 59 m2, có tổng cộng 117.132 cây từ 269 loài trên có 13 khu vườn theo
  23. 12 chủ đề. Oedo - một vườn thực vật ven biển được xây dựng năm 1969 bởi Lee Chang Ho và vợ ông, trong công viên biển quốc gia được gọi là Vườn Quốc gia Hallyeo Haesang. Vườn Sinh thái Eco Yanggu - khai trương năm 2004. Chiếm 189.141 người. Đặt tại chân núi Daeamsan. Đây là khu vườn sinh thái cực bắc của Hàn Quốc và được phát triển như là một trung tâm khôi phục hệ sinh thái Nam và Bắc Triều Tiên. Bao gồm hơn 400 thực vật quý hiếm bao gồm các loài thực vật bản địa Hàn Quốc và được bảo vệ bởi Bộ Môi trường Hàn Quốc. Vườn thực vật Yeomiji mở cửa năm 1989 bao gồm 112000 m2, có vườn trong nhà và ngoài trời. theo chủ đề trong các khu. Một số vườn tạo ra các phong cách được tạo ra ở các nước khác trong quá khứ. Tiếp đó là Sri Lanka có các vườn thực vật nổi tiếng như Vườn Bách Thảo Hoàng Gia Sri Lanka, Peradeniya, Kandy có 147 mẫu vật nằm ở độ cao 460 mét so với mực nước biển, bao gồm hơn 4.000 loài thực vật và nổi tiếng với bộ sưu tập hoa phong lan, ngoài ra còn có Vườn Bách thảo Hakgala, Vườn Bách thảo Henarathgoda và Vườn Bách thảo Mirijjawila. Đài loan có 5 vườn nổi trội kể đến là Vườn Bách thảo Đài Loan, Đài Loan năm 1896, một vườn ươm chính thức với diện tích dưới 5 ha đã được thành lập gần Xiaonanmen ở phía tây nam thành phố Đài Bắc. Điều này đánh dấu sự ra đời của Vườn thực vật Đài Bắc. và Thái Lan có 12 vườn thực vật gồm có vườn thực vật Queen Sirikit là vườn thực vật quan trọng nhất và lâu đời nhất ở Thái Lan và là trung tâm nghiên cứu khoa học chính. Dành riêng cho việc bảo tồn hệ thực vật Thái Lan. Vườn Bách Thảo Queen Sirikit, trước đây gọi là Vườn Bách Thảo Mae Sa. Nằm cách Pattaya 20km về phía Nam tại Thái Lan vườn thực vật Nong Nooch rộng khoảng 2,4 km2 đã sưu tập khoảng 20.000 loại cây nhiệt đới khác nhau đặc biệt tại Nong Nooch có hơn 670 loài hoa lan [5]. Tất cả những vườn thực vật kể trên hiện tại ngoài mang nhiệm vụ là nơi bảo vệ được các nguồn
  24. 13 gen quý của các loài cây mà còn có thể trở thành nơi thăm quan giải trí và tạo ra một địa điểm hùng vĩ của các đất nước đó. 2.2.2. Nghiên cứu về kỹ thuật trồng các loài cây bản địa Trong những năm gần đây rất nhiều nơi trên thế giới đã và đang nghiên cứu thử nghiệm và trồng rừng thanh công bằng những loài cây bản địa. Trong nhiều loại cây trồng các cây thuộc chi Paulownia đáng được sự quan tâm của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tại Malaysia (1999) [21], trong dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã giới thiệu cách thiết lập mô hình trồng rừng hỗn loại trên 3 đối tượng: Rừng tự nhiên, rừng Acacia mangium 10 - 15 tuổi và 2 - 3 tuổi. Dự án đã sử dụng 23 loài cây bản địa có giá trị trồng theo băng 30 m mở ra trong rừng tự nhiên, trồng 6 hàng cây. Trong rừng Acacia mangium mở băng 10 m trồng 3 hàng cây, băng 20 m trồng 7 hàng cây, mở 40 m trồng 15 hàng cây với 14 loài khối B chặt 1 hàng keo trồng 1 hàng, chặt 2 hàng trồng 2 hàng, chặt 4 hàng trồng 4 hàng . Trồng 3 loài sau khi chặt 5 năm, trồng 7 loài sau khi chặt 7 năm. Trong 14 loài cây trồng khối A, có 3 loài S. roxburrghii; S. ovanlis; S. leprosula sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất. Tỉ lệ sống không khác biệt, sinh trưởng chiều cao cây trồng tốt ở băng 10 m và băng 40 m. Băng 20 m không thỏa mãn điều kiện sinh trưởng chiều cao. Khối B có tỷ lệ sống, sinh trưởng chiều cao tốt khi trồng 1 hàng, sinh trưởng đường kính tốt cho công thức trồng 6 và 6 hàng. Nghiên cứu thực sự khác biệt về độ thưa của cây ở các lâm phần có mật độ khác nhau, Vanlaar (1976) đã chỉ ra rằng, với loài cây Pinus trồng tại Nam Phi, ở lâm phần có mật độ cao (3000 cây/ha) hình số của cây là 0,565 trong khi đó ở lâm phần mật độ thấp (125 cây/ha) giá trị hình số tương tự chỉ là 0,495. Qua những nghiên cứu ở trên cho thấy thực sự có mối quan hệ giữa các chỉ tiêu hình thái và chất lượng cây với mật độ của cây. Đây là những kết luận
  25. 14 quan trọng không những có ý nghĩa lý luận trong nghiên cứu mà còn có ý nghĩa thực tiễn về mặt lâm sinh. 2.3. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam 2.3.1. Những nghiên cứu về xây dựng vườn thực vật Tại Việt Nam việc bảo vệ các loài động thực vật khỏi sự khai thác trầm trọng của con người cũng đang được chú ý đến thông qua việc xây dựng nên các vườn thực vật nhằm mục đích bảo vệ nguồn gen quý hiếm, bên cạnh đó là nơi để kết hợp cho con người tham quan giải trí và giáo dục về việc bảo vệ thiên nhiên. Đồng thời là nơi để học tập và nghiên cứu khoa học cho học sinh, sinh viên và cả các nhà nghiên cứu khoa học. Nổi bật phải kể đến Thảo cầm viên ở thành phố Hồ Chí Minh, Thảo cầm viên còn được mệnh danh là vườn thực vật lâu đời nhất Việt Nam, được xây dựng vào năm 1864, Thảo Cầm Viên có 590 loài động vật với 125 loài và 1.830 cây và thực vật của 260 loài, trong đó có một số loài trên 100 tuổi. Bao gồm 20 loài phong lan, 32 loài cây xương rồng và 34 loài cây cảnh. Vườn thú và Vườn thực vật Sài Gòn được chia thành khu bảo tồn động vật, khu bảo tồn thực vật, vườn lan và công viên giải trí. Khu vườn thực vật có nhiều loài thực vật quý hiếm, một số loài không có nguồn gốc ở Việt Nam. Có nhiều loài xương rồng, dương xỉ và thực vật đã được nhập khẩu từ Châu Phi và Mỹ [13]. Tiếp đó là Vườn Bách Thảo tại Hà Nội được xây dựng từ năm 1890, do nhiều biến đổi nên hiện tại diện tích chỉ còn 10 ha, tuy diện tích có bị thu lại nhưng tính đa dạng về các loài ở Vườn Bách Thảo Hà Nội không vì đó mà giảm. Vườn bách thảo Hà Nội tạo thành một cảnh quan thu nhỏ bao gồm núi, rừng và hồ nước. Trên mảnh đất tuy nhỏ hẹp của khuôn viên vườn bách thảo có mặt nhiều loài cây gỗ quý hiếm đặc trưng cho các cánh rừng ẩm nhiệt đới phương Nam. Số loài địa phương chiếm trên 2/3 các loài cây hiện hữu, còn lại 1/3 là các loài cây nhập nội từ nhiều châu lục trên thế giới: Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Đại Dương. Các loài cây
  26. 15 cũng đại diện cho các họ, bộ của hệ thực vật bậc cao có mạch, nổi bật là các loài cây thuộc ngành thực vật hạt trần và thực vật hạt kín. Vào vườn Bách Thảo khách tham quan có dịp chiêm ngưỡng các loài cây thân gỗ có đường kính 2, 3 người ôm; các loại cây thân cột khổng lồ của họ cau dừa; các cây gỗ có bộ rễ phụ buông dài của nhóm si, đa, đề các loài cây leo thân gỗ, các giò phong lan khoe sắc và các cây cảnh sặc sỡ [14]. Bên cạnh đó thì một số vườn thực vật được xây dựng ngay trong các khu bảo tồn vừa phục vụ bảo tồn lại vừa lồng ghép tham quan giải trí, giáo dục đem lại nguồn kinh tế ví dụ như vào năm 2012 vườn thực vật tại thôn Cà Đâng, xã Tà Bhinh diện tích xây dựng vườn thực vật này khoảng 50,3 hecta trên khu đất nương rẫy trồng cây hàng năm. Vườn thực vật Phong Nha - Kẻ Bàng có diện tích trên 40 hecta [15]. Cùng với đó chúng ta đã xây dựng các vườn thực vật ngay trong trường giúp học sinh có nơi học tập ngoài giờ lý thuyết khô khan, tất nhiên đồng thời vẫn có thể bảo tồn các loài thực vật như vào năm 2008 trường tiểu học Lương Thế Vinh, có diện tích khoảng 300m2 với hơn 100 các loại cây và các trường tiểu học khác gần vùng lân cận trong địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Nơi lưu giữ các loài thực vật quý hiếm nhiều không kém đó là Vườn Thực vật Cúc Phương, vườn thực vật rộng khoảng 90 ha đến nay đã sưu tập và bảo tồn được 535 loài cây. Trong đó có 210 loài cây gỗ Cúc Phương, 85 loài cây gỗ của các vùng khác ở Việt Nam, 5 loài nhập nội, 25 loài thuộc họ ráy, 20 loài cây ăn quả 15 loài tre trúc, 15 loài cau dừa, 20 loài cây thuốc và 140 loài lan. Các loài cây đều được chăm sóc và theo dõi sinh trưởng để nghiên cứu quá trình sinh trưởng phát triển. Nhiều loài đã ra hoa kết quả và cung cấp cây giống cho các chýõng trình trồng rừng bằng loài cây bản địa. Có diện tích nhỏ chỉ khoảng 3 ha Vườn thực vật Bảo tàng Tài nguyên rừng Việt Nam Nằm trên địa bàn xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, cách Trung tâm thành phố Hà Nội 12 km về phía Nam, được bắt đầu xây dựng và gây trồng cách đây khoảng 50
  27. 16 năm. Từ đó đến nay có hơn 4.000 cây thuộc 30 bộ, 60 họ và hơn 200 loài được gây trồng phát triển trong Vườn. Trong đó, gần 30 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới, như Sưa, Thông nàng [16] và còn rất nhiều loài nữa. Tất cả những vườn thực vật được liệt kê bên trên đều là những vườn thực vật có khả năng lưu giữ các nguồn gen quý và là nơi tham quan giải trí kết hợp với học tập và nghiên cứu khoa học. Từ những vườn thực vật đã và đang xây dựng tại Việt Nam có thể nhận thấy con người đang dần có suy nghĩ tích cực hơn về việc bảo vệ và giá trị của thiên nhiên. 2.3.2. Nghiên cứu về trồng cây bản địa Ở nước ta, việc tuyển chọn các loại cây bản địa có những ưu thế sinh trưởng nhanh, có giá trị cao và khả năng bảo vệ tài nguyên đất nước tốt là việc làm mang ý nghĩa thực tiễn và có cơ sở khoa học. Trong những năm gần đây, đã có nhiều tác giả đi sau nghiên cứu bảo tồn và phát triển một số loài cây bản địa ở Việt Nam. Năm 2009, Phạm Văn Bốn [2] thực hiện “Bước đầu đánh giá khả năng sinh trưởng của cây Lim xanh (erythrophloeum fordii oliv) tại Bình Phước”. Điều tra sinh trưởng trên cây Lim xanh 10 năm tuổi và 3 năm tuổi cho thầy Lim xanh rất thích hợp trồng trên đất Bình Phước (khu vực Đông Nam Bộ), kể cả cho làm giàu rừng và trồng rừng thuần loài. Trong mô hình làm giàu rừng theo rạch, sau 10 năm, tỷ lệ sống đạt từ 53%-75%, tăng trưởng bình quân năm đạt 1,25cm/năm về đường kính và 1,35m/năm về chiều cao. Trong mô hình rừng trồng thuần loài, sau 3 năm, tỉ lệ sống còn 81,81%, tăng trưởng đạt 2,15cm/năm về đường kính và 1,93m/năm về chiều cao. Tuy nhiên, đây mới là kết quả bước đầu, cần tiếp tục mở rộng quy mô nghiên cứu trên diện rộng, với nhiều loại đất khác nhau trong khu vực nhằm bổ sung loài cây này vào danh mục các loài cây chủ yếu cho trồng rừng sản xuất trong khu vực sinh thái Đông Nam Bộ, đồng thời góp phần vào công tác bảo tồn nguồn gen.
  28. 17 Năm 1960, Lưu Phạm Hoành, Lê Cảnh Nhuệ, Trần Nguyên Giảng đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm cải tạo và làm giàu rừng bằng những loài cây bản địa như Lim xanh, Chò nâu, Ràng ràng mít, Vạng trứng theo phương thức cải tạo chặt trắng, cải tạo theo băng, trồng dưới tán. Chương trình 327 với định hướng trồng hừng phòng hộ theo hướng hỗn loài 500 cây bản địa + 1000 cây phụ trợ. Khi thực thi có hơn 60 tỉnh thành phố đã trồng rất nhiều mô hình rừng trồng hỗn loài khác nhau với hơn 70 loài cây. Theo Thẩm Đức Thuận năm 2017[12] Đánh giá tình hình sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng trong mô hình rừng phòng hộ đầu nguồn tại Cao Phong - Hòa Bình trên cây Lim xanh, Re hương, Lim xẹt cho thấy Ở cây Lim xẹt đường kính tán lá dao động từ 3,5 - 4,1 m, trung bình 3 OTC là 4,0 m, còn về hệ số biến động từ 15,8 - 22,4%, hệ số biến động trung bình 3 OTC là 18,7%, tăng trưởng bình quân về đường kính tán lá của Lim xẹt đạt 0,3 m/năm. Triệu Văn Hùng (1993) [4], đã nghiên cứu về “Đặc tính sinh vật học của một số loài cây làm giàu rừng (Trám trắng, Lim xẹt )” có nhận xét: Trong tổ thành rừng tự nhiên. Trám trắng chỉ đạt trung bình 3,87% về số cây và 6,84% về chữa lượng ô tiêu chuẩn. Xét ở trạng thái rừng IIIA1, Trám trắng chiếm tỷ lệ cao hơn so với IIIa2. Trong rừng rất hay gặp Trám trắng với một số loài cây bạn như Kháo vàng, Giẻ, Lim xẹt, Hu đay, Sau sau, Xoan nhừ, Xoan ta, Vối thuốc Trần Quang Việt, Nguyễn Bá Chất khi nghiên cứu đề tài: “Xác định cơ cấu cây trồng và xây dựng quy định hướng dẫn kỹ thuật trồng cho một số loài cây chủ yếu phục vụ chương trình 327” trong 2 năm 1997 - 1998 đã chọn được tập đoàn cây trồng gồm 70 loài và xây dựng được quy trình, hướng dẫn kĩ thuật cho 20 loài cây như Lát hoa, Muống đen, Trám trắng, Tếch, Dầu rái
  29. 18 Nguyễn Hoàng Nghĩa (1997) đã đưa ra các nghịch lí cơ bản về cây bản địa trong đó có nêu rõ những khó khăn khi đưa cây bản địa vào trồng rừng ở nước ta [9]. Trong báo cáo chuyên đề về cây Huỷnh (Tarrietia javannica Kost), Bùi Đoàn đã có nhận xét: “Huỷnh được coi là một trong những cây bản địa chủ yếu trong công tác trồng rừng” ở Nam Trung Bộ, đặc biệt là ở Quảng Bình. Phùng Ngọc Lan (1994), nghiên cứu một số đặc tính sinh thái loài Lim xanh đã xác nhận: Vùng phân bố của loài Lim xanh rất rộng và có ở hầu hết các tỉnh phía bắc nước ta (từ đèo Hải Vân trở ra) với độ cao phân bố từ 900 m trở xuống phía nam và 500 m trở xuống ở phía bắc. Sinh trưởng thích hợp ở vùng núi bát úp tháp, độ dốc nhỏ hơn 20o hoặc ở chân đồi chân núi nơi dốc tụ [8]. Viện Khoa học Lâm nghiệp khi nghiên cứu về hai loài cây để cải tạo rừng nghèo kiệt tại Vũ Mễ (Bắc Sơn) và Đồng Hỷ (Thái Nguyên) là Dẻ đỏ và Kháo vàng từ những năm 1972 đến những năm sau 1975 một số lâm trường như Bắc Sơn, Võ Nhai, Đồng Hỷ đã nhân rộng hoặc cải tạo theo băng (15 - 30 m) hoặc theo đám. Cho đến nay việc đánh giá các mô hình này rất khó khăn vì đã bị tàn phá. Từ kết quả nghiên cứu “Đặc điểm một số nhân tố tiểu hoàn cảnh của rừng trồng thử nghiệm hỗn giao cây lá rộng nhiệt đới tại phân khu phục hồi sinh thái vườn quốc gia Cát Bà (Hải Phòng)” và “Nghiên cứu thực nghiệm cây trồng bản địa dưới tán rừng Thông đuôi ngựa (Pinus massonianna) và Keo lá tràm (acacia auriculiformis) tại khu rừng thực nghiệm trường đại học Lâm nghiệp tác giả Phạm Xuân Hoàn (2002) đã rút ra 1 số kết quả, như tăng trưởng của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng trông rất là tốt, đặc biệt là dưới tán rừng trồng Keo lá tràm và Thông đuôi ngựa, đồng thời cũng
  30. 19 đã định lượng được một số nhân tố ảnh hưởng chính đến sinh trưởng cây bản địa như độ tàn che của tầng cây cao, cường độ ánh sáng, đất. Vi Hồng Khanh (2003), khi đánh giá sinh trưởng của một số loài cây bản địa phục vụ công tác bảo tồn và phát triển rừng ở Cầu Hai - Phú Thọ đã kết luận: Phần lớn các xuất sứ Lim xanh đều có tỷ lệ sống cao và sinh trưởng tốt đồng thời trồng 34 loài cây bản địa nơi nghiên cứu đã chọn các loài cây sau đây để đánh giá sinh trưởng là Re Gừng, Giổi xanh, Xoan đào, Lim xanh, Lim xẹt, Trám trắng, Giẻ cau, Giẻ đỏ, Chiêu liêu, Giổi xanh là những loài cây mọc nhanh thích ứng nhanh, phát triển tốt, ít bị sâu bệnh có khả năng nhân rộng và phát triển cho các điều kiện lập địa tương tự [6]. Năm 1994 trong hội thảo về tăng cường các công trình trồng rừng ở Việt Nam với sự phối hợp giữa Bộ Lâm nghiệp, dự án tăng cường các chương trình trồng rừng ở Việt Nam (STRAP) và cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã đưa ra khuyến nghị quan trọng là cần có nhiều thông tin hơn về loài cây bản địa để cho các địa phương tham khảo và tìm chọn loài cây phục vụ cho trồng rừng. Nhằm đáp ứng được phần nào yêu cầu trên, dự án STRAP đã cùng với Viện Khoa học Lâm nghiệp thực hiện một dự án “Xác định các loài cây bản địa chất lượng cao để trồng rừng ở Việt Nam”. Kết quả đã đưa ra những thông tin có hệ thống và tổng hợp về 210 loài cây cho gỗ chất lượng cao dùng để làm nhà ở và đồ mộc cao cấp. Qua đó cũng thấy tiềm năng của cây bản địa ở từng vùng cũng như trong cả nước rất phong phú nhưng số cây đã có kĩ thuật, có mô hình, có khả năng trồng rừng còn quá ít. Do vậy cần phải đẩy mạnh nghiên cứu thử nghiệm những cây còn lại mới có thể biến tiềm năng thành hiện thực. Ngoài ra cần tập trung nghiên cứu và phát triển những cây có giá trị cao để tạo nguồn cây chủ lực cho từng vùng và cho cả nước.
  31. 20 Qua nhiều năm nghiên cứu Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (2000) [17], đã đề xuất trên 100 loài cây bản địa cho các chương trình trồng rừng phục vụ cho cả 3 loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. 2.4. Khái quát một số đặc điểm tự nhiên khu vực nghiên cứu Địa điểm xây dựng mô hình vườn thực vật nằm trong Mô hình khoa Lâm nghiệp và nằm trong diện tích của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Mô hình có diện tích khoảng 0.8 hecta và mô hình nghiên cứu chiếm 0.26 ha trên tổng diện tích [3]. 2.4.1. Đất đai Đất đai của Mô hình khoa Lâm Nghiệp được hình thành do hai nguồn gốc: Đất hình thành tại chỗ do phong hoá đá mẹ và đất hình thành do phù sa bồi tụ. Nhóm đất phù sa chiếm tỷ lệ ít, là nhóm đất ở địa hình bằng, được bồi đắp bởi sản phẩm phù sa của dòng chảy của các suối và do thời tiết, thời gian được chia thành. Đất phù sa không được bồi tụ hàng năm trung tính ít chua, thành phần cơ giới chủ yếu là thịt trung bình đất phù sa ít được bồi hàng năm trung tính ít chua, thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ. Nhóm đất xám bạc màu: phát triển trên đất phù sa cổ có sản phẩm Feralitic trên nền cơ giới nặng, đây là đất bạc màu có thành phần cơ giới nhẹ, dễ bị xói mòn, rửa trôi. Nhóm đất Feralit: Phân bố chủ yếu ở địa hình đồi núi, được phát triển trên phù sa cổ, dăm cuội kết và cát kết, loại đất này diện tích khá lớn. Đất khu vực mô hình khoa Lâm Nghiệp là đất dốc tụ pha cát lẫn với đá nhỏ, đất có màu xám đen, hàm lượng dinh dưỡng trong đất thấp do đã sử dụng nhiều năm. Đất feralit, nguồn gốc của đất xuất phát từ đá sa thạch, độ
  32. 21 pH của đất thấp, đất nghèo mùn. Đất có độ màu mỡ thấp nên cây con sinh trưởng và phát triển mức trung bình, đôi khi có cây phát triển kém [10]. 2.4.2. Đặc điểm khí hậu, thời tiết Mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông lâm nằm trong khu vực xã Quyết Thắng thành phố Thái Nguyên nên mang đầy đủ các đặc điểm khí hậu của thành phố Thái Nguyên. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia làm 4 mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông. Có 2 mùa chính: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. 2.5. Khái quát một số đặc điểm của 5 loài cây bản địa được chọn để nghiên cứu Kế thừa các tài liệu nghiên cứu đã có và quy trình kỹ thuật trồng rừng của Viện Khoa học Lâm nghiệp cho thấy một số đặc điểm sinh thái học cơ bản của Nghiến,Chò chỉ,Sao đen,Táu mật,Táu muối như sau: 2.5.1. Nghiến (Burretiodenron hsienmu) 2.5.1.1. Đặc điểm nhận biết Cây gỗ lớn , cao trên 30m , đường kính có thể tới 100cm , bạnh lớn.thân tròn thẳng , vỏ xám vàng , sau xám nâu, bong mảng. Lá đơn mọc cách hình trứng tròn,đầu nhọn dần, có mũi lồi dài, đuôi hình tim hoặc hình tròn dài 8-12cm, rộng 7-10cm, phiến lá dày, cứng, nhẵn bóng, mép nguyên,có 3 gân gốc.Nách gân lá có tuyến và túm lông. Cuống lá thô, dài 3,5-5cm hơi đỏ.Lá non hơi dính. Hoa đơn tính khác gốc. Hoa tự đực hình xim ở nách lá.Hoa đực có 5 cánh tràng màu trắng vàng; nhị 25-35, hợp thành bó ở gốc. Hoa tự cái gồm 2- 3 hoa; bầu không cuống.Quả nang hình trái xoan dài 3-4cm , đường kính 1- 1,5cm; có 5 cánh rộng. Cuống quả dài 2cm.
  33. 22 2.5.1.2. Đặc tính sinh học và sinh thái Cây sinh trưởng trung bình, dưới 5 tuổi tăng trưởng chiều cao trung bình hàng năm 0,3m; trên 10 tuổi có thể đạt 0,7-1m. Mùa hoa tháng 3-4, mùa quả tháng 6-7. Ra hoa không đồng loạt. Cây có khả năng tái sinh hạt và chồi tốt. Nghiến là loài cây ưa sáng nhưng 1-2 năm đầu cần che bóng nhẹ, đòi hỏi đất tốt trên đất núi đá vôi, pH 6,2-7,2. Thường mọc tập trung thành từng quần thể ưu thế ở độ cao 800m trở xuống. 2.5.1 3. Phân bố địa lý Mọc tự nhiên trên vùng núi thuộc các tỉnh miền Bắc như : Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Hòa Bình, Sơn La. 2.5.1.4. Giá trị Là loại cây quý hiếm chỉ còn lại ít ở vùng núi đá vôi; thuộc nhóm sẽ nguy cấp.Gỗ màu nâu đỏ, nặng, rắn, không bị mối mọt,dễ làm. Có thể xây dựng các công trình lớn, làm gối trục đóng thuyền. Vỏ cho nhiều chất chát. Hình 2.1 Cây Nghiến tại vườn thực vật
  34. 23 2.5.2. Chò Chỉ (parashorea chinensis) 2.5.2.1. Đặc điểm nhận biết Cây gỗ lớn, thân tròn thẳng, cao 35-40m, đường kính có thể đạt 150- 180cm, có bạnh vè, vỏ nứt dọc, màu nâu bạc, nhựa màu nâu. Cây thường chiếm tầng trên của rừng, phân cành cao.Lá đơn, hình trái xoan. Cây non lá to, dài 10- 15cm, rộng 6-7 cm, có lá kèm màu lục nhạt. Cây lớn, lá nhỏ hơn, Mặt dưới lá và mặt trên của gân lá có phủ lông hình sao, gốc mỗi lá có 2 lá kèm. Hoa mọc đầu cành, cánh hoa màu vàng, có mùi thơm nhẹ. Quả màu xanh xám, có đường kính 4-6mm, dài 13-16mm, có 5 cánh không đều, khi non màu hồng nhạt, khi khô màu nâu sẫm. 2.5.2.2. Đặc điểm sinh học và sinh thái Cây mọc trong rừng nhiệt đới thường xanh, ở độ cao 100-900m. Thường cùng mọc với Táu muối, Sâng, Sấu nhưng Chò Chỉ luôn là loài cây tầng vượt tán của cây.Tăng trưởng trung bình, cây 100 tuổi cao 45m , đường kính 60cm. Cây cho nhiều hạt, tỷ lệ nảy mầm cao nhưng chu kỳ ra quả 4-5 năm 1 lần.Cây ưa sáng, ưa đất đá vôi, đất cat ven sông suối.Mùa ra hoa tháng 4-5, Mùa quả tháng 7-8. 2.5.2.3.Phân bố địa lý Cây phân bố ở Nam Trung Quốc (Vân Nam) và Bắc Việt Nam.Ở Việt Nam gặp từ Quảng Ninh trở ra.Tập nhiều ở các tỉnh : Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái,Hòa Bình, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh. 2.5.2.4. Giá trị Cây cho gỗ lớn, gỗ khá nặng,rất cứng. Gỗ nhóm 3. Dùng trong xây dựng các công trình lớn, nhà cửa, đóng tàu thuyền, Có thể trồng Chò Chỉ làm cây bóng mát
  35. 24 . Hình 2.2 Cây Chò Chỉ tại vườn thực vật 2.5.3. Táu Muối (vatica odorata) 2.5.3.1 Đặc điểm nhận biết Cây gỗ lớn,cao 30-35m, đường kính 1m. Thân tròn, thẳng. Vỏ màu trắng xù xì, thịt vỏ màu trắng. Cành non phủ nhiều lông hình sao màu gỉ sắt.Lá đơn mọc cách hình trái xoan, dài 14-19cm, rộng 5-6,5cm . Mặt dưới có nhiều lông hình sao vảy nhỏ trắng như muối. Gân bên 19 đôi ,lá kèm sớm rụng để lại sẹo dài. Hoa tự viên chùy, mọc ở nách lá, dài khoảng 10cm. Mặt ngoài cánh tràng nhiều lông. Quả hình cầu; đài bao quả, thường có 2 cánh lớn,cánh có 10-11 gân song song. 2.5.3.2. Đặc tính sinh học và sinh thái Táu muối mọc trong rừng kín thường xanh, trạng thái nguyên sinh ở độ cao 300-800m, thường mọc lẫn Sao mặt quỷ, Sến mật, Giổi, Re, có khi cùng Sao mặt quỷ mọc thành quần thụ ưu thế, tổ thành chiếm trên 70%. Cây ưa sáng sinh trưởng chậm, sống lâu năm, ưa đất sét pha, tầng dày nhiều mùn.Mùa hoa tháng 5-8, quả chín tháng 11-12.
  36. 25 2.5.3.3. Phân bố địa lý Phân bố khá rộng ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Đã gặp ở Yên Bái, Vĩnh Phúc , Phú Thọ, Hòa Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. 2.5.3.4. Giá trị Gỗ nặng, có dầu nhưng kém bền, dễ bị mối mọt. Thường dùng trong xây dựng, lam cầu, tà vẹt. Hình 2.3 Cây Táu Muối tại vườn thực vật 2.5.4. Táu Mật (vatica tonkinensis A.Chev) 2.5.4.1. Đặc điểm nhận biết Cây gỗ lớn, cao 30-35m, đường kính tới 1m. Thân thẳng tròn, chiều cao dưới cành 15-20m. Vỏ thịt mùa xám nhạt,thịt mùa vàng nhạt có nhiều xơ và nhựa dầu thơm. Cành non cuống hoa tự phủ lông mùa gỉ sắt,hơi hồng. Lá giống lá ruối, dài 4-6cm, mặt trên lá xanh thấm hơn. Gân bên 4-8 đôi, nổi rõ ở 2 mặt. Quả gần hình cầu có lông, vòi tồn tại, 2 cánh lớn, 3 cánh nhỏ. 2.5.4.2. Đặc tính sinh học và sinh thái Cây mọc trong rừng nguyên sinh ở độ Cao 300-900m. Thường mọc lẫn với các loài Dẻ đỏ, Sồi phảng, Re, Sến mật, Bứa. Loài cây ưa sáng mọc chậm sống lâu,ưa đất sét,sét pha có lẫn dá, mọc được ở địa hình hiểm trở, độ dốc cao, rễ cọc phát triển, tái sinh bằng hạt. Mùa hoa tháng 5, Quả chín tháng 9-10.
  37. 26 2.5.4.3. Phân bố địa lý Phân bố rộng rãi ở các tỉnh phía Bắc như : Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn , Vĩnh Phúc, Phú Thọ , Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh. 2.5.4.4. Giá trị Cây đặc hữu của Việt nam. Cây cho gỗ cứng vào loại “Tứ thiết” . Gỗ nặng, tỷ trọng 0,9 có giác lõi phân biệt, giác mùa trắng xám, lõi mùa nâu nhạt. Gỗ tốt không mối mọt, được sử dụng trong xây dựng, làm tà vẹt, cầu phà, cột điện, cột buồm.Gỗ nhóm 2. Hình 2.4 Cây Táu Mật tại vườn thực vật 2.5.5. Sao Đen (Hopea odorata Roxb) 2.5.5.1. Đặc điểm nhận biết Cây gỗ lớn , thường xanh, thân hình trụ thẳng cao 30-40m, đường kính 60- 80cm hay hơn, chiều cao dưới cành 15-20m.Vỏ ngoài mùa nâu đen, nứt dọc sâu thành mảnh xù xì, thịt vỏ mùa nâu đỏ, nhiều sợi, có nhiều dầu mùa vàng, thơm. Lá hình trái xoan thuôn hay trái xoan ngọn giáo, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông hình sao và có tuyến ở nách các gân cấp 2.Hoa tự hình chùy mang nhiều bông ở nách lá hay đầu lá. Mỗi bông 4-6 hoa. Cánh tràng nhỏ,cong, màu vàng nhạt có mùi thơm dịu.Quả nhỏ, hình trứng, đường kính 7-8cm , mang 2 cánh phát triển.
  38. 27 5.5.2. Đặc tính sinh học và sinh thái Cây mọc trong rừng ẩm thường xanh, rừng ven suối ở độ cao dưới 800m . Thường mọc rải rác hay thành đám nhỏ, thường cùng mọc với Dầu rái, Vên vên. Cây khi nhot ưa bóng sau chuyển dần sang ưa sáng. Hàng năm cây ra lá non vào tháng 10-12. Lượng quả nhiều nhưng 2 năm mới ra quả 1 lần.Cây trồng ở Hà Nội chu kỳ ra quả thường kéo dài 7-8 năm.Mùa hoa tháng 2, ra quả tháng 3 và kết thúc tháng 5. 2.5.5.3. Phân bố địa lý Cây mọc ở Quảng nam,Đà Nắng trở vào Nam. Tập trung nhiều ở Nam Tây Nguyên và Đông nam bộ. 2.5.5.4. Giá trị Cây cho gỗ lớn. Gỗ màu nâu nhạt hay vàng nhạt, thuộc loại gỗ tốt chống được mối mọt . Gỗ dễ biến chế, dễ sơn, nặng trung bình, tỷ trọng 0,7 , ít cong, dễ uốn, chịu va chạm. Gỗ Sao có công dụng như : Làm sườn nhà,làm mộc, xe cộ, tà vẹt, đồ tiện, đóng tàu thuyền. Sao đen cho nhựa cứng màu vàng.Cây cho nhiều hạt, hạt dễ nảy mầm. Hình 2.5 Cây Sao đen trong vườn thực vật
  39. 28 2.6. Sơ lược về mô hình trồng cây bản địa Mô hình trồng cây bản địa thuộc khoa Lâm Nghiệp, là sản phẩm của đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình bảo tồn chuyển vị thực vật tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”. Mô hình được thiết lập vào tháng 3 năm 2017, trên diện tích 0,8 ha , với tổng số 406 cá thể thuộc 25 loài cây bản địa. Trong đó có 1 loài cây Nghiến (Burretiodendron hsienmu ) thuộc họ Đay (Tiliacea), 4 loài cây Sao Đen (Hopea odorata Roxb), Táu Mật (vatica tonkinensis A.Chev), Táu Muối (vatica odorata subsp), Chò Chỉ (parashorea chinensis) thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae)
  40. 29 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Là 5 loại cây bản địa trồng thuộc Họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) trong mô hình vườn thực vật Khoa Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên : 1. Nghiến (Burretiodenron hsienmu) 2. Sao Đen (Hopea odorata Roxb) 3. Táu Mật (vatica tonkinensis A.Chev) 4. Táu Muối (vatica odorata subsp) 5. Chò Chỉ (parashorea chinensis) 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: Mô hình Khoa Lâm Nghiệp – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Thời gian: 15/01/2019 - 15/05/2019 3.3. Nội dung nghiên cứu - Đánh giá tình hình sinh trưởng về đường kính gốc của 5 loài cây thuộc họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đánh giá tình hình sinh trưởng về chiều cao vút ngọn của 5 loài cây thuộc họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đánh giá tình hình sinh trưởng về tán lá của 5 loài cây họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
  41. 30 - Đánh giá tình hình sinh trưởng lá của 5 loài cây họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đánh giá tình hình sâu, bệnh hại của 5 loài cây họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường khả năng sinh trưởng của 4 loài cây thuộc họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) trồng trong mô hình Vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp luận Sinh trưởng là sự biến đổi theo tuổi của các nhân tố điều tra, là sự tăng lên của một đại lượng nào đó nhờ kết quả đồng hóa của một vật sống. Quá trình sinh trưởng của cây rừng nói riêng, các loài thực vật nói chung là kết quả tổng hợp của nhân tố nội tại và điều kiện ngoại cảnh, vì vậy nếu điều kiện ngoại cảnh đồng nhất thì nhân tố nội tại sẽ quyết định đến quá trình sinh trưởng và phát triển của mỗi loài cây. Do đó trong cùng một loài cây ở một điều kiện ngoại cảnh khác nhau nó sẽ sinh trưởng khác nhau vì mỗi loại cây có phạm vi phân bố về điều kiện ngoại cảnh (khí hậu, đất đai ) nhất định, nếu nằm trong phạm vi phân bố thì cây sinh trưởng phát triển tốt còn nếu xa phạm vi phân bố cây sinh trưởng phát triển kém. - Trong toàn bộ đời sống của cây rừng, bản thân cây rừng chịu sự chi phối của môi trường quanh chúng. Tiểu hoàn cảnh bao gồm tiểu khí hậu và đất. Với đối tượng nghiên cứu là cây bản địa trồng trong mô hình nó chịu sự chi phối rất lớn của tiểu hoàn cảnh của các loài cây khác tạo ra. Do vậy:
  42. 31 + Khi nghiên cứu sinh trưởng của cây bản địa phải đặt trong tổng thể của sự tác động của các loài cây khác và các nhân tố hoàn cảnh khác, nghĩa là phải đánh giá cả hiện trạng của thảm thực vật và các nhân tố sinh thái khác. + Để đánh giá được sinh trưởng của các loài cây trồng trong mô hình rừng phòng hộ đầu nguồn, đề tài cần phải nắm rõ được các biện pháp kỹ thuật đã áp dụng, trên cơ sở đó dựa vào các yếu tố môi trường xung quanh như đất đai, khí hậu, thảm thực bì để đánh giá ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố đó đến sinh trưởng của cây trồng. Từ đó đề xuất được các biện pháp kỹ thuật tạo điều kiện cho cây sinh trưởng và phát triển tốt hơn. 3.4.3. Phương pháp nghiên cứu 3.4.3.1. Phương pháp thu thập số liệu - Tiến hành đo các chỉ tiêu của tất cả các cây thuộc Họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) trong mô hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Trong quá trình điều tra số liệu để dễ dàng hơn cho việc thu thập và điều tra, đã sử dụng biện pháp gắn mã số thẻ cho từng cây, gắn biển cây cho mỗi hàng trong mô hình giúp việc thu thập số liệu tốt hơn. - Đường kính sát gốc (D0.0), được đo sát gốc cây trồng bằng thước kẹp cơ khí, đo theo 2 chiều Đông – Tây và Nam – Bắc rồi tính trị số bình quân. - Chiều cao vút ngọn (Hvn) được đo bằng thước dây. Dùng bút xóa trắng kẻ 1 đường làm mốc ở gốc cây làm chuẩn rồi dùng thước đo từ điểm chuẩn đến đỉnh ngọn sinh trưởng của cây. - Theo dõi sinh trưởng tán lá của cây. - Đánh giá tình hình sinh trưởng của lá. - Đánh giá tình hình sâu bệnh hại. Quá trình thu thập số liệu được chia làm 5 đợt, định kỳ 1 tháng đo 1 lần đó là:
  43. 32 Đợt 1: Ngày 15/01/2019 Đợt 2: Ngày 15/02/2019 Đợt 3: Ngày 15/03/2019 Đợt 4: Ngày 15/04/2019 Đợt 5: Ngày 15/05/2019 3.4.3.2. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu sau khi thu thập về được xử lý bằng các công thức toán học trên phần mềm Microsoft Excel 2013. Tính tỷ lệ sống : C% = x 100 Trong đó: C%: Tỷ lệ sống N: Số cây sống N: Tổng số cây trồng trong mô hình - Đường kính TB của cây ở mỗi lần đo: D00TB = Trong đó: D00TB: Đường kính trung bình của cây ∑d: Tổng số đo đường kính các cây M: Tổng số cây - Chiều cao trung bình của cây ở mỗi lần đo: HvnTB = Trong đó: Hvn TB: Chiều cao trung bình của cây ∑h: Tổng số đo chiều cao các cây M: Tổng số cây - Xác định số trung bình mẫu:
  44. 33 - Tính sai tiêu chuẩn: 1 n S =  xi x 2 n 1 1 Trong đó: xi: Trị số điều tra như đường kính (D00) và chiều cao (Hvn) : Trung bình mẫu - Hệ số biến động: S % = x 100 Trong đó: S: Sai tiêu chuẩn : Trung bình mẫu
  45. 34 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Phân lô cây trồng trong mô hình vườn thực vật Các loài cây trong mô hình nói chung và 5 loài cây thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) nói riêng được bố trí từng hàng trong mô hình. Mỗi cây tương ứng 1 hàng mỗi hàng có khoảng cách là 3 mét và cây cách cây là 2 mét (hình 4.1) . Biện pháp phân lô cây trồng theo hàng này rất có lợi về mặt điều tra và quản lý. Vì có thể quan sát các loài cây một cách dễ dàng, đồng thời cũng có thể quản lý và nhận biết một cách dễ dàng khi đi vào mô hình vườn thực vật vì trên sơ đồ đã vẽ rất chi tiết vị trí, số lượng và tên cây tại từng địa điểm khác nhau trên sơ đồ. Phương pháp phân lô các loài cây với nhau trong mô hình như thế này rất khoa học vừa đảm bảo cho quá trình chăm sóc và theo dõi, vừa đảm bảo cho việc học tập và nghiên cứu dễ dàng hơn khi các loài cây được phân bố riêng từng cụm với nhau. Qua sơ đồ bố trí bên dưới có thể dễ dàng nhìn thấy phương pháp phân lô các loài cây bản địa trong mô hình như thế nào, các bố trí vị trí giữa các loài cây, địa điểm đặt các loài cây, dễ dàng cho việc sử dụng khi đi vào vườn thực vật. Diện tích của mô hình vườn thực vật rộng 0,26 ha đang được trồng với số lượng là 406 cây thuốc 25 loài cây bản địa khác nhau. Được phân lô theo các hàng khác nhau.
  46. 35 Hình 4.1 Các loài cây được trồng thành hàng trong vườn thực vật 4.2. Đánh giá tình hình sinh trưởng về đường kính gốc Sinh trưởng đường kính: Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng đường kính sát gốc (D00) của 5 loài cây bản địa thuộc Họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) được chúng tôi điều tra theo dõi trong vòng 5 tháng, được chia thành 5 đợt điều tra và được kết quả. 4.2.1 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Nghiến Bảng 4.1. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Nghiến trong mô hình lần đo D00(cm) S (cm) ∆ (cm) 1 0,885 0,0493 2 0,911 0,0498 0,026 3 0,941 0,0498 0,031 4 0,968 0,0492 0,027 5 1,001 0,0492 0,033 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,116
  47. 36 Từ những dữ liệu tại bảng 4.1 cho thấy: Cây Nghiến có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo cuối thu được là 1,001 cm. Với hệ số dao động từ 0,049 đến 0,05 cm. Có sự tăng trưởng so sánh giữa lần đo 1 và lần đo 5 là 0,116 cm. 4.2.2 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Chò Chỉ Kết quả điều tra về sinh trưởng đường kính gốc (D00) được trình bày tại bảng 4.2: Bảng 4.2. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Chò Chỉ trong mô hình lần đo D00(cm) S (cm) ∆ (cm) 1 2,33 0,1507 2 2,43 0,1501 0,10 3 2,53 0,1514 0,09 4 2,64 0,1516 0,11 5 2,75 0,1495 0,11 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,42 Từ những dữ liệu tại bảng 4.2 cho thấy: Cây Chò Chỉ có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo cuối thu được là 2,75 cm. Với hệ số dao động từ 0,1495 đến 0.1516 cm. Có sự tăng trưởng so sánh giữa lần đo 1 và lần đo 5 là 0,42 cm. 4.2.3 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Sao đen Kết quả điều tra về sinh trưởng đường kính sát gốc (D00) được trình bày tại bảng 4.3 :
  48. 37 Bảng 4.3. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Sao Đen trong mô hình lần đo D00(cm) S (cm) ∆ (cm) 1 2,36 0,1267 2 2,49 0,1365 0,13 3 2,54 0,1359 0,05 4 2,6 0,1345 0,06 5 2,67 0,1323 0,07 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,31 Từ những dữ liệu tại bảng 4.3 cho thấy: Cây Sao Đen có đường kính trung bình gốc D(00) tại lần đo cuối thu được là 2,6 cm. Với hệ số dao động từ 0,1267 đến 0.1365 cm. Có sự tăng trưởng so sánh giữa lần đo 1 và lần đo 5 là 0,31cm. 4.2.4 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Táu Mật Kết quả điều tra về sinh trưởng đường kính sát gốc (D00) được trình bày tại bảng 4.4 : Bảng 4.4. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Táu Mật trong mô hình lần đo D00(cm) S (cm) ∆ (cm) 1 1,024 0,0732 2 1,125 0,0690 0,101 3 1,222 0,0683 0,097 4 1,304 0,0692 0,082 5 1,386 0,0724 0,081 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,361
  49. 38 Từ những dữ liệu tại bảng 4.4 cho thấy: Cây Táu Mật có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo cuối thu được là 1,386 cm. Với hệ số dao động từ 0,0683 đến 0.0732 cm. Có sự tăng trưởng so sánh giữa lần đo 1 và lần đo 5 là 0,361 cm 4.2.4 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Táu Muối Kết quả điều tra về sinh trưởng đường kính sát gốc (D00) được trình bày tại bảng 4.5 : Bảng 4.5. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Táu Muối trong mô hình Lần đo D00 (cm) S (cm) ∆ (cm) 1 0,670 0,0399 2 0,739 0,0409 0,069 3 0,828 0,0455 0,088 4 0,106 0,0497 0,106 5 1,037 0,0599 0,103 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,367 Từ những dữ liệu tại bảng 4.5 cho thấy: Cây Táu Muối có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo cuối thu được là 1,037 cm. Với hệ số dao động từ 0,0399 đến 0.0599 cm. Có sự tăng trưởng so sánh giữa lần đo 1 và lần đo 5 là 0,367 cm. Từ những số liệu thu thập được trong các bảng trên đã được chuyển đổi sang biểu đồ cột nhằm tạo ra cái nhìn tổng quát về sự tăng trưởng giữa các lần đo với nhau, giữa các loài với nhau và có thể so sánh sự tăng trưởng về đường kính của 5 loài thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) mô hình vườn thực vật như sau :
  50. 39 Biểu đồ 4.1: Kết quả đường kính gốc của 5 loài cây bản địa trong mô hình Từ kết quả bảng 4.1 - 4.5 và hình 4.1, cho thấy trong 5 loài cây trên loài cây sinh trưởng đường kính gốc trung bình tốt nhất qua 5 lần đo là loài Chò Chỉ với D(00) dao động từ 2,33- 2,75cm. sinh trưởng đường kính cây Sao Đen với đường kính từ 2,36-2,67 cm ở vị trí thứ 2, thứ 3 là loài Táu Muối với đường kính từ 0,670-1,037 cm cm, tiếp đó là loài Táu Mật với đường kính từ 1,024- 1,386 cm, và cuối cùng là Nghiến với đường kính gốc trung bình dao động từ 0,885-1,001 cm. Nhìn chung kết quả trên cho thấy ở giai đoạn đầu thì các loài cây thuộc 2 họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) vẫn sinh trưởng về đường kính tốt tại điều kiện lập địa trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 4.3 Đánh gía tình hình sinh trưởng chiều cao của 5 loài cây bản địa 4.3.1 Tình Hình sinh trưởng chiều cao vút ngọn của cây Nghiến trong mô hình Kết quả điều tra về sinh trưởng chiều cao vút ngọn (Hvn) của cây Nghiến được trình bày tại bảng 4.6
  51. 40 Bảng 4.6. Sinh trưởng về chiều cao của cây Nghiến trong mô hình Lần đo Hvn (m) S (m) ∆ (m) 1 0,926 0,0359 2 0,951 0,0456 0,024 3 1,001 0,0459 0,05 4 1,054 0,0460 0,053 5 1,164 0,0411 0,11 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,238 Sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn(m) trung bình của cây nghiến tại lần đo cuối thu được là 1,164 m. Với hệ số dao động 0,0359 đến 0,0460 m. Tăng trưởng lớn nhất ở giữa lần đo 4 và lần đo 5 đạt 0,11 m . Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,238 m. 4.3.2 Tình Hình sinh trưởng của cây Chò Chỉ trong mô hình Kết quả điều tra về sinh trưởng chiều cao vút ngọn (Hvn) của cây Chò Chỉ được trình bày tại bảng 4.7 Bảng 4.7. Sinh trưởng về chiều cao của cây Chò Chỉ trong mô hình Lần đo Hvn (m) S (m) ∆ (m) 1 1,81 0,1420 2 1,91 0,1401 0,11 3 2,02 0,1432 0,11 4 2,12 0,1431 0,10 5 2,23 0,1442 0,11 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,43 Sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn(m) trung bình của Cây Chò Chỉ tại lần đo cuối thu được là 2,23 m. Với hệ số dao động từ 0,1401 đến 0,1442 m. Tăng trưởng lớn nhất ở giữa các lần đo đạt 0,11 m. Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,43 m.
  52. 41 4.3.3 Tình Hình sinh trưởng chiều cao của cây Sao Đen trong mô hình Kết quả điều tra về sinh trưởng chiều cao vút ngọn (Hvn) của cây Sao Đen được trình bày tại bảng 4.8 Bảng 4.8. Sinh trưởng về chiều cao của cây Sao Đen trong mô hình Lần đo Hvn (m) S (m) ∆ (m) 1 2 0,1054 2 2,1 0,1065 0,094 3 2,22 0,1063 0,121 4 2,42 0,1021 0,204 5 2,57 0,1070 0,149 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,57 Sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn(m) trung bình của cây Sao Đen tại lần đo cuối thu được là 2,57 m. Với hệ số dao động từ 0,1021 đến 0,1065 m. Tăng trưởng lớn nhất ở giữa lần đo 3 và lần đo 4 đạt 0,204 m. Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,57 m. 4.3.4 Tình Hình sinh trưởng chiều cao của cây Táu Mật trong mô hình Kết quả điều tra về sinh trưởng chiều cao vút ngọn (Hvn) của cây Táu Mật được trình bày tại bảng 4.9 Bảng 4.9. Sinh trưởng về chiều cao của cây Táu Mật trong mô hình Lần đo Hvn (m) S (m) ∆ (m) 1 1,019 0,0688 2 1,153 0,0658 0,134 3 1,303 0,0670 0,15 4 1,43 0,0686 0,127 5 1,553 0,0722 0,123 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,534
  53. 42 Sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn(m) trung bình của cây Táu Mật tại lần đo cuối thu được là 1,553 m. Với hệ số dao động từ 0,0658 đến 0,0722%. Tăng trưởng lớn nhất ở giữa lần đo 2 và lần đo 3 đạt 0,15 m. Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,534 m. 4.3.5 Tình Hình sinh trưởng chiều cao của cây Táu Muối trong mô hình Kết quả điều tra về sinh trưởng chiều cao vút ngọn (Hvn) của cây Táu Muối được trình bày tại bảng 4.10 Bảng 4.10. Sinh trưởng về chiều cao của cây Táu Muối trong mô hình Lần đo Hvn(m) S (m) ∆ (m) 1 0,566 0,0399 2 0,608 0,0392 0,042 3 0,663 0,0394 0,054 4 0,723 0,0368 0,061 5 0,778 0,0380 0,054 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,211 Sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn(m) trung bình của cây Táu Muối tại lần đo cuối thu được là 0,778 m. Với hệ số dao động từ 0,0368 đến 0,0399 m. Tăng trưởng lớn nhất ở giữa lần đo 3 và lần đo 4 đạt 0,061 m. Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,211 m. Từ những số liệu thu thập được trong các bảng trên đã được chuyển đổi sang biểu đồ cột nhằm tạo ra cái nhìn tổng quát về sự tăng trưởng giữa các lần đo với nhau, giữa các loài với nhau và có thể so sánh sự tăng trưởng về chiều cao của 5 loài cây thuộc 2 họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) trong mô hình vườn thực vật.
  54. 43 Biểu đồ 4.2: Kết quả về sinh trưởng chiều cao của 5 loài cây bản địa Từ kết quả tại bảng 4.6-4.10 và hình 4.2 cho thấy: Từ kết quả trên cho thấy trong 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn thực vật được điều tra sinh trưởng, loài cây có sinh trưởng chiều cao vút ngọn trung bình cao nhất qua 5 lần đo là Sao Đen với chiều cao vút ngọn H(vn) dao động từ 2-2,57 m, tiếp đó là Chò Chỉ dao động từ 1,81-2,23 m, đứng thứ 3 là Táu Mật dao động từ 1,019-1,553 m, đứng thứ 4 là Nghiến dao động từ 0,926-1,164 m và cuối cùng là Táu Muối dao động từ 0,566-0,778 m là loài có mức sinh trưởng chiều cao vút ngọn H(vn) thấp nhất. Kết quả trên cho thấy với điều kiện lập địa hoàn toàn mới và được trồng hoàn toàn bằng cây con thì mức độ tăng trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn thực vật như vậy là cao và sẽ tiếp tục sinh trưởng tốt với các giai đoạn sau. 4.3. Đặc điểm sinh trưởng về đường kín tán lá của 5 loài cây bản địa Kết quả nghiên cứu về tình hình sinh trưởng tán lá (Dt) được trình bày tại bảng 4.3 4.3.1 Đánh giá tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Nghiến Kết quả điều tra về sinh trưởng đường kín tán lá cây Nghiến được trình bày tại bảng 4.11
  55. 44 Bảng 4.11. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Nghiến trong mô hình Lần đo Dt (m) S (m) ∆ (m) 1 0,399 0,0280 2 0,423 0,0277 0,024 3 0,462 0,0275 0,039 4 0,511 0,0267 0,049 5 0,573 0,0252 0,063 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,174 Đối với cây Nghiến có trung bình đường kính tán lá tại lần đo cuối thu được là 0,573 m. Với hệ số dao động từ 0,0252 đến 0,0280 m. Tăng trưởng lớn nhất ở giữa lần đo 4 và lần đo 5 đạt 0,063 m . Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,174 m. 4.3.2 Đánh giá tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Chò Chỉ Kết quả điều tra về sinh trưởng đường kín tán lá cây Chò Chỉ được trình bày tại bảng 4.12 Bảng 4.12. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Chò Chỉ trong mô hình Lần đo Dt (m) S (m) ∆ (m) 1 1,084 0,0880 2 1,159 0,0891 0,075 3 1,233 0,0886 0,073 4 1,310 0,0896 0,077 5 1,389 0,0877 0,079 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,305 Đối với cây Chò Chỉ có trung bình đường kính tán lá tại lần đo cuối thu được là 1,389m. Với hệ số dao động 0,0877 đến 0,0896 m. Tăng trưởng
  56. 45 lớn nhất ở giữa lần đo 4 và lần đo 5 đạt 0,079 m. Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,305 m. 4.3.3 Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Sao Đen Kết quả điều tra về sinh trưởng đường kín tán lá cây Sao đen được trình bày tại bảng 4.13 Bảng 4.13. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Sao Đen trong mô hình Lần đo Dt (m) S (m) ∆ (m) 1 1,621 0,0980 2 1,729 0,0971 0,108 3 1,821 0,0935 0,092 4 1,904 0,0914 0,083 5 2,013 0,0905 0,109 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,392 Đối với cây Sao Đen có trung bình đường kính tán lá tại lần đo cuối thu được là 2,013m. Với hệ số dao động từ 0,0914 đến 0,0980 m. Tăng trưởng lớn nhất ở giữa lần đo 4 và lần đo 5 đạt 0,109 m. Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,392 m. 4.3.4. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Táu Mật Kết quả điều tra về sinh trưởng đường kín tán lá cây Táu Mật được trình bày tại bảng 4.14
  57. 46 Bảng 4.14. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Táu Mật trong mô hình lần đo Dt(m) S (m) ∆ (m) 1 0,573 0,0233 2 0,656 0,0244 0,083 3 0,741 0,0269 0,085 4 0.838 0,0287 0,096 5 0,926 0,0333 0,089 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,353 Đối với cây Táu Mật có trung bình đường kính tán lá tại lần đo cuối thu được là 0,926 m. Với hệ số dao động từ 0,0233 đến 0,0333 m. Tăng trưởng lớn nhất ở giữa lần đo 3 và lần đo 4 đạt 0,096 m .Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,353 m. 3.4 Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Táu Muối Kết quả điều tra về sinh trưởng đường kín tán lá cây Táu Muối được trình bày tại bảng 4.15 Bảng 4.15. Tình hình sinh trưởng về tán lá của cây Táu Muối trong mô hình Lần đo Dt (m) S (m) ∆ (m) 1 0,342 0,0249 2 0,408 0,0259 0,0666 3 0,478 0,0259 0,0694 4 0,556 0,0247 0,078 5 0,645 0,0208 0,089 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0,303
  58. 47 Đối với cây Táu Muối có trung bình đường kính tán lá tại lần đo cuối thu được là 0,645 m. Với hệ số dao động từ 0,0208 đến 0,0259 m. Tăng trưởng lớn nhất ở giữa lần đo 4 và lần đo 5 đạt 0,089 m. Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0,303 m. Từ những số liệu thu thập được từ các bảng đã được chuyển đổi sang biểu đồ cột nhằm tạo ra cái nhìn tổng quát về sự tăng trưởng giữa các lần đo với nhau, giữa các loài với nhau và có thể so sánh sự tăng trưởng về đường kính tán lá của 5 loài cây thuộc 2 họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) trong mô hình vườn thực vật(hình 4.3). Biểu đồ 4.3. Tình hình sinh trưởng về đường kính tán lá của 5 loài cây bản địa trong mô hình Từ kết quả trên cho thấy: trong 5 loài cây bản địa thuộc 2 họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) trong mô hình vườn thực vật trong quá trình điều tra sinh trưởng về đường kính tán lá , loài cây có
  59. 48 sinh trưởng đường kính tán lá trung bình cao nhất qua 5 lần đo là Sao Đen với đường kín tán lá dao động từ 1,621-2,013 m, tiếp đó là Chò Chỉ dao động từ 1,084-1,389 m, đứng thứ 3 là Táu Mật dao động từ 0,573-0,926 m, Táu Muối dao động từ 0,342-0,465 m và cuối cùng là Nghiến dao động từ 0,399-0,573 m là loài có mức sinh trưởng về đường kính tán lá thấp nhất. Kết quả trên cho thấy với điều kiện lập địa trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên thì mức độ tăng trưởng về đường kính tán lá của 5 loài cây bản địa thuộc họ Dầu và họ Đay trong mô hình vườn thực vật như vậy là cao tuy nhiên vẫn có những vây sinh trưởng khá chậm như nghiến, Táu Mật nhưng chắc chắn ở những giai đoạn tiếp theo 5 loài cây bản địa thuộc họ Đay và họ Dầu sẽ tiếp tục sinh trưởng tốt. 4.4. Đặc điểm sinh trưởng lá của 5 loài cây bản địa Qua điều tra theo dõi cho thấy các loài cây thuộc 2 họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) thường xuyên ra thêm lá mới, chứng tỏ rễ của cây đã sâu ăn xuống bên dưới. Từ kết quả cho thấy các loài đang sinh trưởng một cách rất tốt với điều kiện lập địa của mô hình, dưới đây là bảng thu thập số liệu về sinh trưởng lá của các loài cây trong họ đậu từ quá trình điều tra. 4.4.1 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Nghiến Kết quả điều tra về tình hình sinh trưởng lá của loài Nghiến được trình bày tại bảng 4.16
  60. 49 Bảng 4.16: Sinh trưởng lá của cây Nghiến Cây số Chỉ tiêu lần đo 1 lần đo 2 lần đo 3 lần đo 4 lần 5 1 Diện tích lá (S) (cm) 8 ± 0,4078 33,218 ± 2,8361 52,612 ± 2,2326 66,904 ± 2,4924 80,612 ± 3,5814 ∆ 25,218 19,394 14,292 13,708 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 72,612 2 Diện tích lá (S) (cm) 7,394 ± 0,2304 35,126 ± 1,5946 55,484 ± 1,5052 69,23 ± 2,6624 81,744 ± 2,9941 ∆ 27,732 20,358 13,746 12,514 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 74,35 3 Diện tích lá (S) (cm) 7,812 ± 0,4320 31,14 ± 2,3519 57,576 ± 1,2876 68,82 ± 2,1866 81,584 ± 2,5511 ∆ 23,328 26,436 11,244 12,764 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 73,772 4 Diện tích lá (S) (cm) 8,132 ± 0,3642 31,094 ± 2,5205 45,286 ± 1,5584 63,756 ± 3,8891 77,616 ± 3,0330 ∆ 22,962 14,192 18,47 13,86 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 69,484 5 Diện tích lá (S) (cm) 7,828 ± 0,3738 31,894 ± 2,2670 51,202 ± 2,0086 55,032 ± 1,2587 78,828 ± 1,7184 ∆ 24,066 19,308 3,83 23,796 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 71 Tại thời điểm sau 2 ngày lá suất hiện tại chồi thì tôi tiến hành đo với tổng số lá đo được trên 1 cây là 25 lá và đạt được kết quả như sau: + Lần đo thứ nhất sau 2 ngày lá suốt hiện từ chồi diện tích lá trung bình tại lần đo 1 đạt được 7,394 – 8,132 cm2 với hệ số biến động đạt từ 0,2304 - 0,4320cm2. + Lần đo thứ hai sau 7 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 31,094 – 35,126 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,5946 - 2,8361 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 22,962 – 27,73 + Lần đo tiếp theo sau 12 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 45,286 – 57,576 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,2876 – 2,2326 cm2 và lượng tăng trưởng đạt từ 14,192 – 26,436 cm2.
  61. 50 + Lần đo thứ tư Sau 17 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 55,032 – 69,23 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,2587– 3,8891 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 3,83– 18,47 cm2. + Lần đo cuối sau 22 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 77,616 – 81,744 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,7184 - 3,5814 cm2 và lượng tăng trưởng biến động từ 12,514 - 23,796 cm2. + Sau hai 22 ngày lá cây Nghiến có lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 đến lần đo 5 là biến động trong khoảng 69,484 – 74,35 cm2. Từ sau 22 ngày trở đi diện tích lá có thay đổi nhưng rất ít. 4.4.2 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Chò Chỉ Kết quả điều tra về tình hình sinh trưởng lá của loài Chò Chỉ được trình bày tại bảng 4.17 Bảng 4.17: Sinh trưởng lá của cây Chò Chỉ cây số chỉ tiêu lần đo 1 lần đo 2 lần đo 3 lần đo 4 lần 5 8,64 ± 31,5 ± 54,5002 ± 74,006 ± 90,244 ± 1 Diện tích lá (S) (cm) 0,6682 2,5752 4,9954 4,2779 4,7389 ∆ 22,86 23,002 19,504 16,238 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 81,604 7,66 ± 24,916 ± 46,066 ± 64,148 ± 78,202 ± 2 Diện tích lá (S) (cm) 0,3520 2,7432 3,7218 3,7897 4,7163 ∆ 17,256 21,15 18,082 14,054 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 70,542 8,516 ± 30,514 ± 52,968 ± 72,856 ± 88,456 ± 3 Diện tích lá (S) (cm) 0,7881 2,8011 3,5494 5,6422 5,9010 ∆ 21,998 22,454 19,888 15,6 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 79,94 8,258 ± 25,838 ± 47,102 ± 61,362 ± 75,956 ± 4 Diện tích lá (S) (cm) 0,5513 1,3014 2,3999 1,9336 2,0267 ∆ 17,58 21,264 14,26 14,594 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 67,698 7,364 ± 28,774 ± 48,454 ± 61,778 ± 72,004 ± 5 Diện tích lá (S) (cm) 0,28 0,9619 2,0829 2,0478 1,6230 ∆ 21,41 19,68 13,324 10,226 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 64,64
  62. 51 Tại thời điểm sau 2 ngày lá suất hiện tại chồi thì tôi tiến hành đo với tổng số lá đo được trên 1 cây là 25 lá và đạt được kết quả như sau: + Lần đo thứ nhất sau 2 ngày lá suốt hiện từ chồi diện tích lá trung bình tại lần đo 1 đạt được 7,364 – 8,64 cm2 với hệ số biến động đạt từ 0,28 - 0,7881 cm2. + Lần đo thứ hai sau 7 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 24,916 – 31,5 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 0,9619 - 2,7432 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 17,256 – 22,86 cm2. + Lần đo tiếp theo sau 12 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 46,066 – 54,5002 cm2 với hệ số biến động đạt được 2,0829 – 4,9954 cm2 và lượng tăng trưởng đạt từ 19,68 – 23,002 cm2. + Lần đo thứ tư Sau 17 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 61,362 – 74,006 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,9336 – 4,2779 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 13,324 – 19,888 cm2. + Lần đo cuối sau 22 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 72,004 – 90,244 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,6230 - 5,9010 cm2 và lượng tăng trưởng biến động từ 10,226 - 16,238 cm2. + Sau hai 22 ngày lá cây Chò Chỉ có lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 đến lần đo 5 là biến động trong khoảng 64,64 – 81,604 cm2. Từ sau 22 ngày trở đi diện tích lá có thay đổi nhưng rất ít. 4.4.3 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Sao Đen Kết quả điều tra về tình hình sinh trưởng lá của loài Sao Đen được trình bày tại bảng 4.18
  63. 52 Bảng 4.18 . Sinh trưởng lá của cây Sao Đen cây số chỉ tiêu lần đo 1 lần đo 2 lần đo 3 lần đo 4 lần 5 6,566 ± 25,098 ± 46,016 ± 63,136 ± 73,3346 ± 1 Diện tích lá (S) (cm) 0,6068 1,5679 2,0755 3,4377 4,2702 ∆ 18,532 20,918 17,12 10,21 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 66,78 7,694 ± 23,586 ± 44,896 ± 63,916 ± 77,334 ± 2 Diện tích lá (S) (cm) 0,6839 2,0449 3,6422 4,4712 5,2523 ∆ 15,892 21,31 19.02 13,418 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 69,64 7,138 ± 20,38 ± 38,038 ± 56,93 ± 69,852 ± 3 Diện tích lá (S) (cm) 0,5841 1,9331 3,6781 4,6522 5,8918 ∆ 13,242 17,658 18,892 12,922 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 62,714 7,208 ± 17,896 ± 38,23 ± 55,574 ± 68,026 ± 4 Diện tích lá (S) (cm) 0,74773 1,7720 3,7751 4,2941 5,7483 ∆ 10,688 20,334 17,344 12,452 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 60,818 7,662 ± 23,822 ± 44,392 ± 62,81 ± 76,472 ± 5 Diện tích lá (S) (cm) 0,5353 2,2211 3,8678 4,6955 5,1790 ∆ 16,16 20,57 18,418 13,662 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 68,81 Tại thời điểm sau 2 ngày lá suất hiện tại chồi thì tôi tiến hành đo với tổng số lá đo được trên 1 cây là 25 lá và đạt được kết quả như sau: + Lần đo thứ nhất sau 2 ngày lá suốt hiện từ chồi diện tích lá trung bình tại lần đo 1 đạt được 6,566 – 7,694 cm2 với hệ số biến động đạt từ 0,5353 - 0,7477 cm2. + Lần đo thứ hai sau 7 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 17,896 – 25,098 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,5679 - 2,2211 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 10,688 – 18,532 cm2. + Lần đo tiếp theo sau 12 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 38,038 – 44,896 cm2 với hệ số biến động đạt được 2,0755 – 3,8678 cm2 và lượng tăng trưởng đạt từ 17,658 – 21,31 cm2.
  64. 53 + Lần đo thứ tư Sau 17 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 55,574 – 63,916 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 3,4377 – 4,6955 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 17,12 – 19.02 cm2. + Lần đo cuối sau 22 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 68,026 – 77,334 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 4,2702 - 5,8918 cm2 và lượng tăng trưởng biến động từ 10,21 - 13,662 cm2. + Sau hai 22 ngày lá cây Sao Đen có lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 đến lần đo 5 là biến động trong khoảng 60,818 – 69,64 cm2. Từ sau 22 ngày trở đi diện tích lá có thay đổi nhưng rất ít. 4.4.4 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Táu Muối Kết quả điều tra về tình hình sinh trưởng lá của loài Táu Muối được trình bày tại bảng 4.19 Bảng 4.19 . Sinh trưởng lá của cây Táu Muối cây số chỉ tiêu lần đo 1 lần đo 2 lần đo 3 lần đo 4 lần 5 6,18 ± 22,824 ± 34,484 ± 46,63 ± 55,57 ± 1 Diện tích lá (S) (cm) 0,3161 1,1845 2,1224 2,0557 2,5759 ∆ 16,644 11,66 12,146 8,94 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 49,39 6,986 ± 23,002 ± 36,48 ± 48,772 ± 58,862 ± 2 Diện tích lá (S) (cm) 0,4651 1,5522 1,3229 1,7474 1,9516 ∆ 16,016 13,478 12,292 10,09 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 51,876 6,752 ± 25,23 ± 41,108 ± 53,534 ± 61,008 ± 3 Diện tích lá (S) (cm) 0,3416 1,9066 2,6706 2,6603 3,4135 ∆ 18,478 15,878 12,426 7,474 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 54,256 6,97 ± 24,144 ± 39,18 ± 52,192 ± 59,28 ± 4 Diện tích lá (S) (cm) 0,3382 1,6621 1,6285 2,1258 1,9325 ∆ 17,174 15,036 13,012 7,088 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 52.31 7,038 ± 24,378 ± 41,506 ± 53,3362 ± 60,758 ± 5 Diện tích lá (S) (cm) 0,4545 2,5256 2,3750 2,4537 2,4785 ∆ 17,34 17,128 11,856 7,396 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 53,72
  65. 54 Tại thời điểm sau 2 ngày lá suất hiện tại chồi thì tôi tiến hành đo với tổng số lá đo được trên 1 cây là 25 lá và đạt được kết quả như sau: + Lần đo thứ nhất sau 2 ngày lá suốt hiện từ chồi diện tích lá trung bình tại lần đo 1 đạt được 6,18 – 7,038 cm2 với hệ số biến động đạt từ 0,3161 - 0,4651 cm2. + Lần đo thứ hai sau 7 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 22,824 – 25,23 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,1845 - 2,5256 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 16,016 – 18,478 cm2. + Lần đo tiếp theo sau 12 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 34,484 – 41,506 cm2 với hệ số biến động đạt được 1,3229 – 2,3750 cm2 và lượng tăng trưởng đạt từ 11,66 – 17,128 cm2. + Lần đo thứ tư Sau 17 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 46,63 – 53,3362 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,7474 – 2,6603 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 11,856 – 13,012 cm2. + Lần đo cuối sau 22 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 55,57 – 61,008 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,9325 - 2,5759 cm2 và lượng tăng trưởng biến động từ 7,088 - 10,09 cm2. + Sau hai 22 ngày lá cây Táu Muối có lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 đến lần đo 5 là biến động trong khoảng 49,39 – 54,256 cm2. Từ sau 22 ngày trở đi diện tích lá có thay đổi nhưng rất ít. 4.4.5 Đặc điểm sinh trưởng lá của cây Táu Mật Kết quả điều tra về tình hình sinh trưởng lá của loài Táu Mật được trình bày tại bảng 4.20
  66. 55 Bảng 4.20: Sinh trưởng lá của cây Táu Mật cây số chỉ tiêu lần đo 1 lần đo 2 lần đo 3 lần đo 4 lần 5 9,788 ± 28,18 ± 48,636 ± 61,674 ± 69,964 ± 1 Diện tích lá (S) (cm) 0,8374 3,3184 7,1028 7,8311 10,3072 ∆ 18,392 20,456 13,038 8,29 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 60,176 7,886 ± 23,46 ± 36,912 ± 50,262 ± 57,214 ± 2 Diện tích lá (S) (cm) 0,4337 1,3894 1,9010 2,81323 2,9296 ∆ 15,574 13,452 13,35 6,952 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 49,328 9,166 ± 23,484 ± 39,834 ± 52,736 ± 63,414 ± 3 Diện tích lá (S) (cm) 0,4662 1,4371 1,9089 2,3106 3,5982 ∆ 14,318 16,35 12,902 10,678 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 54,248 8,812 ± 24,758 ± 40,334 ± 53,766 ± 61,872 ± 4 Diện tích lá (S) (cm) 0,7478 3,5946 4,9862 6,9249 7,2159 ∆ 15,946 15,576 13,432 8,106 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 53,06 9,1 ± 29,106 ± 43,724 ± 58,286 ± 68,136 ± 5 Diện tích lá (S) (cm) 0,4688 2,4251 4,57559 7,4257 9,3648 ∆ 20,006 14,618 14,562 9,85 tăng trưởng lần đo 1 và lần đo 5 59,036 Tại thời điểm sau 2 ngày lá suất hiện tại chồi thì tôi tiến hành đo với tổng số lá đo được trên 1 cây là 25 lá và đạt được kết quả như sau:
  67. 56 + Lần đo thứ nhất sau 2 ngày lá suốt hiện từ chồi diện tích lá trung bình tại lần đo 1 đạt được 7,886 – 9,788 cm2 với hệ số biến động đạt từ 0,4337 - 0,8374 cm2. + Lần đo thứ hai sau 7 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 23,46 – 29,106 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 1,3894 - 3,5946 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 14,318 – 20,006 cm2. + Lần đo tiếp theo sau 12 ngày diện tích lá trung bình tăng lên từ 36,912 – 48,636 cm2 với hệ số biến động đạt được 1,9010 – 4,9862 cm2 và lượng tăng trưởng đạt từ 13,452 – 20,456 cm2. + Lần đo thứ tư Sau 17 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 50,262 – 61,674 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 2,3106 – 7,8311 cm2 và có lượng tăng trưởng đạt từ 12,902 – 14,562 cm2. + Lần đo cuối sau 22 ngày diện tích lá trung bình tăng lên và biến động từ 57,214 – 69,964 cm2 với hệ số biến động đạt được từ 2,9296 - 9,3648 cm2 và lượng tăng trưởng biến động từ 6,952 - 10,678 cm2. + Sau hai 22 ngày lá cây Táu Mật có lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 đến lần đo 5 là biến động trong khoảng 49,328 – 60,176 cm2. Từ sau 22 ngày trở đi diện tích lá có thay đổi nhưng rất ít. 4.5 Đánh giá tình hình sâu bệnh hại. Qua quá trình điều tra tình hình sinh trưởng của 5 cây bản địa trong mô hình đã điều tra được tình hình sâu bệnh của các loài cây thuộc họ Dầu và họ Đay được thể hiện ở bảng sau :
  68. 57 Bảng 4.21. Tình hình sâu bệnh hại của 5 loài cây bản địa Tỉ lệ ST Tên Loại Sâu Số cây Mức độ Thời gian sâu bị Đặc điểm bệnh T Cây bệnh Hại bệnh Tháng 7 Mức độ Tình trạng sâu ăn lá non 3 - 4 sâu xảy ra ảnh hưởng đến 38,8 bệnh hại 1 Nghiến Sâu ăn lá sự sinh trưởng và phát % nhẹ, chỉ suốt triển của cây.Làm các hiện ít. lá bị thủng lỗ Tháng 8 Mức độ Bọ cánh cứng là không 3 - 4 sâu ăn hết cả lá chỉ ăn rải bệnh hại rác trên lá làm lá cây bị nhẹ, chỉ thủng lỗ chỗ, làm xấu suốt Sâu ăn lá, hiện ít. lá cây ,Hơn nữa là đứt 2 Chò chỉ Bọ cánh 50 % các mạch lá cây làm cứng ăn lá giảm sức sống, khả năng quang hợp yếu đi. Ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển cây trồng. Tháng 3 6 Mức độ Bệnh xoắn - 4 sâu Dấu hiệu bệnh ở phần bệnh hại Sao lá, nhỏ quăn 37,5 lá non bị xoăn lại, lá bị 3 nhẹ, chỉ Đen queo % suốt mất màu, lốm đốm hiện ít. vàng Tháng 5 Mức độ 2 - 4 sâu Sâu chỉ ăn rải rác trên Táu 35,7 bệnh hại 4 Sâu ăn lá lá non làm lá cây bị Mật % nhẹ, chỉ suốt thủng lỗ hiện ít. Táu Không xuất hiên sâu 5 - - Muối bệnh
  69. 58 Hình 4.2 Ảnh sâu bệnh hại lá của cây Táu Mật, Nghiến và Sao Đen Nhận xét: Qua thời gian theo dõi , cây nghiến có 7 cây bị sâu hại lá trên tổng số 18 cây; cây Chò chỉ có 8 cây bị bệnh hại trên tổng số 16 ; Cây Sao Đen có 6 cây bị sâu bệnh hại trên tổng số 16 cây ; Cây Táu Mật có 5 cây bị sâu hại lá trên tổng số 14 cây . Qua các lần điều tra theo dõi và tổng quan về tình hình sâu bệnh hại tại bảng 4.5 cho chúng ta thấy được tình trạng sâu bệnh hại của 5 loài cây thuộc họ đâu chủ yếu là tình trạng sâu hại lá điển hình là ở 3 loài : cây Nghiến , Chò Chỉ và Táu mật với đối tượng gây bệnh là sâu ăn lá, bọ cánh cứng,ngoài ra còn xuất hiện bệnh hại lá như bệnh nấm ở cây Sao Đen , còn lại loài cây Táu muối không có dấu hiệu sâu bệnh hại. 4.6. Đề xuất một số giải pháp phát triển mô hình vườn thực vật. Dựa trên kết quả nghiên cứu thực địa cho thấy sự sinh trưởng của các loài cây bản địa đang ở mức tốt, song vẫn bị ảnh hưởng bởi sự xâm lấn của cỏ dại và gia súc của người dân sống gần khu vực, chính vì vậy đề tài đã đưa ra 2 đề xuất nhằm giảm sự ảnh hưởng của cỏ dại và gia súc đến sự sinh trưởng của các loài cây bản địa họ đậu nói riêng và các loài bản địa khác nói chung cụ thể như sau: 4.6.1. Biện pháp dải lớp nilon không màu trắng xung quanh gốc cây Trong quá trình chăm sóc cần làm cỏ hàng tháng một lần nhằm làm giảm sự xâm lấn giữa cây cỏ với sự sinh trưởng của cây bản địa con, việc này
  70. 59 rất tốn kém và mất thời gian do dùng máy cắt cỏ để phát dọn, trong khi nguồn lực không có nhiều. Vì vậy đề xuất dải miếng nilon quanh gốc là một đề xuất vô cùng hợp lý để bảo vệ cho cây con đồng thời giảm công sức và chi phí cho việc làm cỏ. Miếng nilon để dải dưới gốc cây là loài nilon mỏng, trắng không màu trong suốt, có diện tích 1 mét vuông giúp việc tiếp nhận ánh sáng của cây vẫn được diễn ra bình thường. Nhờ có miếng nilon này cỏ bên dưới sẽ khó có thể phát triển được ở dưới lớp nilon đè sát xuống mặt đất [5]. 4.6.2. Biện pháp xây dựng thêm hàng rào bảo vệ vườn thực vật. Trong vườn thực vật còn trồng rất nhiều loài cây bản địa có giá trị cao, nên việc nhổ trộm cây con của người dân sống gần khu vườn thực vật là điều rất đáng ngại, trên thực tế đã có một số loài cây bị trộm mất điều này gây lên sự thất thoát không những về kinh tế và công sức do để vận chuyển các loài cây từ những vùng khác về trồng và chăm sóc ở giai đoạn đầu khi trồng để cây vượt qua quãng thời gian đầu là vô cùng khó khăn. Chính vì vậy đề xuất cho vấn đề này là xây dựng một hàng rào xung quanh vườn thực vật để phòng tránh sự xâm nhập của người dân và cả gia súc của người dân chăn thả gần đó. Giải pháp tạo nên một hiệu quả rất cao do cây được bảo vệ tốt đồng nghĩa sẽ có thể sinh trưởng một cách toàn vẹn nhất. Việc xây dựng hàng rào cần một nguồn kinh phí lớn do đó cần sự hỗ trợ từ phía khoa và nhà trường.
  71. 60 PHẦN V KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Qua những nghiên cứu, đánh giá sinh trưởng của 5 loài cây bản địa họ đậu trồng trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, đề tài rút ra một số kết luận sau đây: Về sinh trưởng đường kính gốc cho thấy trong 5 loài cây thuộc Họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) loài cây sinh trưởng đường kính gốc trung bình tốt nhất qua 5 lần đo là loài Chò Chỉ với D(00) dao động từ 2,33- 2,75cm. sinh trưởng đường kính cây Sao Đen với đường kính từ 2,36-2,67 cm ở vị trí thứ 2, thứ 3 là loài Táu Muối với đường kính từ 0,670- 1,037 cm cm, tiếp đó là loài Táu Mật với đường kính từ 1,024- 1,386 cm, và cuối cùng là Nghiến với đường kính gốc trung bình dao động từ 0,885-1,001 cm Nhìn chung kết quả trên cho thấy ở giai đoạn đầu thì các loài cây thuộc 2 Họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) vẫn sinh trưởng về đường kính tốt tại điều kiện lập địa trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Về sinh trưởng chiều cao cho thấy trong 5 loài cây bản địa thuộc 2 Họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) trong mô hình vườn thực vật được điều tra sinh trưởng, loài cây có sinh trưởng chiều cao vút ngọn trung bình cao nhất qua 5 lần đo là Sao Đen với chiều cao vút ngọn H(vn) dao động từ 2-2,57 m, tiếp đó là Chò Chỉ dao động từ 1,81-2,23 m, đứng thứ 3 là Táu Mật dao động từ 1,019-1,553 m, đứng thứ 4 là Nghiến dao động từ 0,926-1,164 m và cuối cùng là Táu Muối dao động từ 0,566-0,778 m là loài có mức sinh trưởng chiều cao vút ngọn H(vn) thấp nhất. Kết quả trên cho thấy với điều kiện lập địa hoàn toàn mới và được trồng hoàn toàn bằng
  72. 61 cây con thì mức độ tăng trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn thực vật như vậy là cao và sẽ tiếp tục sinh trưởng tốt với các giai đoạn sau. Về sinh trưởng đường kính tán cho thấy trong 5 loài cây bản địa thuộc 2 Họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và thuộc họ Đay (Tiliaceae) trong mô hình vườn thực vật trong quá trình điều tra sinh trưởng về đường kính tán lá , loài cây có sinh trưởng đường kính tán lá trung bình cao nhất qua 5 lần đo là Sao Đen với đường kín tán lá dao động từ 1,621-2,013 m, tiếp đó là Chò Chỉ dao động từ 1,084-1,389 m, đứng thứ 3 là Táu Mật dao động từ 0,573-0,926 m, Táu Muối dao động từ 0,342-0,465 m và cuối cùng là Nghiến dao động từ 0,399- 0,573 m là loài có mức sinh trưởng về đường kính tán lá thấp nhất. Tình trạng sâu bệnh hại của 5 loài cây thuộc họ đâu chủ yếu là tình trạng sâu hại lá điển hình là ở 3 cây Nghiến , Chò Chỉ và Táu Mật với đối tượng gây bệnh là sâu ăn lá, bọ cánh cứng,ngoài ra còn xuất hiện bệnh hại lá như bệnh nấm ở cây Sao Đen , còn lại loài cây là Táu muối không có dấu hiệu sâu bệnh hại. Từ những kết quả trên cho thấy các loài cây Họ Đay (Tiliaceae) và Họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) đang sinh trưởng rất tốt trong môi trường lập địa của mô hình vườn thực vật. Đã có thể sử dụng cho mục đích học tập và nghiên cứu cho sinh viên trong trường nhất là sinh viên khoa Lâm Nghiệp. 5.2. Tồn tại Do thời gian thực hiện đề tài ngắn nên chỉ đánh giá sinh trưởng của các loài cây họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) một cách ngắn gọn. Do lứa tuổi của các loài cây họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) còn nhỏ nên việc chăm sóc và bảo vệ gặp nhiều khó khăn như: phòng tránh xâm lấn của cỏ và có thể là gia súc của người
  73. 62 dân chăn thả gần đó và cũng không tránh khỏi được việc nhổ trộm cây của người dân sống gần đó. 5.3. Kiến nghị Cần mở rộng thêm các nghiên cứu để tiếp tục điều tra sinh trưởng của các loài cây họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) nói riêng và các loài cây bản địa khác trong mô hình nói chung. Cần thêm kinh phí để thực hiện việc làm hàng rào bảo vệ ngăn cách giữa vườn thực vật và khu dân cư sống gần mô hình. Cần thêm kinh phí để thực hiện biện pháp ngăn chặn việc xâm lấn của cỏ đối với các loài cây họ Đay (Tiliaceae) và họ Dầu (Dipterocarpaceae blume) và các loài cây bản địa khác trong vườn thực vật.
  74. 63 TÀI L IỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên (2000), Giáo trình thực vật rừng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2 Sun W. (1998). “Burretiodendron hsienmu”. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. . 3. Trần Ngọc Đăng và nhóm nghiên cứu (2018).“Nghiên cứu xây dựng mô hình bảo tồn chuyển vị thực vật tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường. 4. Triệu Văn Hùng (1993), Đặc tính sinh vật học của một số loài cây làm giàu rừng (Tràm trắng, Lim xẹt), kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ lâm nghiệp giai đoạn 1991-1995, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Trần Quốc Hưng (2014) Phục hồi sinh cảnh khu bảo bảo tồn vượn Cao Vít, Trùng Khánh Cao Bằng. Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên 6. Vi Hồng Khanh (2003), Đánh giá sinh trưởng của một số loài cây bản địa phục vụ công tác bảo tồn và phát triển rừng tại trung tâm nghiên cứu thực nghiệm lâm sinh, Cầu Hai - Đoan Hùng - Phú Thọ, Luận văn thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp, Trường Đại học Lâm nghiệp, Hà Tây. 7. Ngô Kim Khôi (2001), Tin học ứng dụng trong lâm nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Phùng Ngọc Lan (1994), Nghiên cứu đặc điểm sinh thái của cây Lim xanh, Trường Đại học Lâm nghiệp, Hà Tây. 9. Nguyễn Hoàng Nghĩa (1997), Nghịch lý cây bản địa, Tạp trí khoa học Lâm nghiệp.
  75. 64 10. Nguyễn Văn Núi (2016). Đề tài nghiên cứu khoa học: “Một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu trong sản xuất cây giống hoa ban tím (bauhinia purpurea linn) tại mô hình khoa Lâm Nghiệp trường Đại học Nông Lâm 11. Nguyễn Huy Sơn (1999), Nghiên cứu khả năng cải tạo đất của một số loài cây họ đậu trên đất Bazal thoái hóa ở Tây Nguyên nhằm phục hồi rừng và phát triển cây công nghiệp, Luận văn tiến sỹ Khoa học nông nghiệp, Hà Nội 1999. 12. Thẩm Đức Thuận. (2017). Khóa luận tốt nghiệp. Đánh giá tình hình sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng trong mô hình rừng phòng hộ đầu nguồn tại Cao Phong - Hòa Bình. 13. Vườn bách thảo Hà nội ( 1890). 14. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam - Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (2000), Sử dụng cây bản địa vào trồng rừng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tài liệu điện tử 15. Vuờn thực vật bảo tàng tài nguyên rừng Việt nam thuc-vat-bao-tang-tai-nguyen-rung-viet-nam.htm. 16.“Vườn thực vật Bảo tàng Tài nguyên rừng Việt Nam”. Bảo tàng tài nguyên rừng Việt Nam (2010). Trang web: tai-nguyen-rung-viet-nam.htm 17. “Giới thiệu”. Thảo cầm viên sài gòn (1864). Trang web: 18. “Giới thiệu”. Vườn thực vật Phong Nha - Kẻ Bàng (2001). Trang web: 19. “Botanic garden information”.BGCI (1987). Botanic Gardens Conservation International:
  76. 65 20. East Asia Botanic Gardens Network (2007). BGCI website: 21. The Multi - Storied Forest Management in Malaysia, 1999 22 "The Plant List: A Working List of All Plant Species". Retrieved April 9, 2014.