Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại Nhâm Xuân Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình

pdf 60 trang thiennha21 18/04/2022 2370
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại Nhâm Xuân Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_ap_dung_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_va_phong_tri.pdf

Nội dung text: Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại Nhâm Xuân Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  HOÀNG THỊ CẨM Tên chuyên đề: “ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN CON TỪ SƠ SINH ĐẾN 21 NGÀY TUỔI TẠI TRẠI NHÂM XUÂN TIẾN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH ” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2014 - 2018 Thái Nguyên, 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  HOÀNG THỊ CẨM Tên chuyên đề: “ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN CON TỪ SƠ SINH ĐẾN 21 NGÀY TUỔI TẠI TRẠI NHÂM XUÂN TIẾN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH ” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Thú y Lớp : K46 - TY - N02 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2014 - 2018 Giảng viên hướng dẫn: TS.Phùng Đức Hoàn Thái Nguyên, 2018
  3. i LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên, được sự dạy bảo tận tình của các thầy cô giáo, em đã nắm được những kiến thức cơ bản ngành học của mình. Kết hợp với 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trại Nhâm Xuân Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình đã giúp em cũng cố lại kiến thức chuyên môn, cũng như đức tính cần có của cán bộ nông nghiệp. Từ đó, đã giúp em có lòng tin vững bước trong cuộc sống cũng như trong công tác sau này. Để có sự thành công này, em xin tỏ lòng biết ơn chân thành tới: Ban Giám hiệu Trường đại học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên. Ban chủ nhiệm khoa và tập thể các thầy, cô giáo trong khoa chăn nuôi thú y, những người đã tận tụy dạy dỗ và dìu dắt em trong suốt quá trìnhhọc tập, cũng như trong thời gian thực tập. Tập thể lớp K46-TY - N02 - Trường đại học Nông lâm Thái Nguyên đã luôn sát cánh bên em trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường. Các bác, các cô chú và các anh chị trong trại Nhâm Xuân Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ trong thời gian thực tập để giúp em hoàn thành tốt khóa thực tập. Đặt biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự quan tâm, chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn T.S. Phùng Đức Hoàn. Nhân dịp này, em cũng xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã tạo mọi điều kiện vật chất cũng như tinh thần, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 08 tháng 08 năm 2018 Sinh viên Hoàng Thị Cẩm
  4. ii LỜI NÓI ĐẦU Để hoàn thành chương trình đào tạo trong nhà trường, thực hiện phương châm “Học đi đôi với hành”, “Lý thuyết gắn liền với thực tiễn sản xuất”, thực tập tốt nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình học tập của sinh viên. Giai đoạn thực tập là khoảng thời gian để sinh viên củng cố và hệ thống hóa toàn bộ kiến thức đã học, làm quen với thực tế sản xuất, từ đó nâng cao trình độ chuyên môn, nắm được phương pháp tổ chức và tiến hành công việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, tạo cho mình có tác phong làm việc đứng đắn, sáng tạo để khi ra trường trở thành một người cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển của đất nước. Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, theo sự phân công của Khoa Chăn nuôi - Thú y, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, được sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận của cơ sở, tôi đã về thực tập trại Nhâm Xuân Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình từ ngày 17/11/2017 đến ngày 25/05/2018. Nhờ sự nỗ lực của bản thân, sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của lãnh đạo và cán bộ, nhân viên ở trại, sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, đến nay tôi đã hoàn thành nhiệm vụ thực tập tốt nghiệp và hoàn thành bản báo cáo tốt nghiệp với đề tài “Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại Nhâm Xuân Tiến huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình”. Do bước đầu làm quen với thực tiễn sản xuất và nghiên cứu khoa học nên bản báo cáo này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vậy, tôi kính mong nhận được sự đóng góp quý báu của các thầy, các cô, các bạn đồng nghiệp để bản báo cáo được hoàn chỉnh hơn. Thái nguyên, ngày 08 tháng 08 năm 2018 Người viết khóa luận Hoàng Thị Cẩm
  5. iii DANH MỤC BẢNG Trang Bảng 2.1. Lịch phòng bệnh của trại lợn nái 25 Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn của trại từ 2016 - 5/2018 34 Bảng 4.2. Số lượng lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng tại trại trong 6 tháng thực tập 35 Bảng 4.3. Lịch sát trùng trại lợn nái 37 Bảng 4.4. Kết quả thực hiện vệ sinh,sát trùng tại trại 38 Bảng 4.5. Lịch tiêm phòng vắc xin cho lợn con theo mẹ 39 Bảng 4.6. Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con nuôi tại trại 40 Bảng 4.7. Triệu chứng chủ yếu của một số bệnh 42 Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tại trại. 43 Bảng 4.9. Kết quả những công việc khác đã thực hiện 45
  6. iv DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT AD : Vắc xin giả dại Cn : Chủ nhật CP : Cổ phần Cs : Cộng sự CSF : Vắc xin dịch tả FMD : Vắc xin lở mồm long móng Nxb : Nhà xuất bản Pavo : Vắc xin chống khô thai Pavo (1) : Tiêm nhắc lại vắc xin chống khô thai Pr : Protein PRRS : Vắc xin tai xanh PRRS (1) : Tiêm nhắc lại vắc xin tai xanh SS : Sơ sinh STT : Số thứ tự
  7. v MỤC LỤC Trang LỜI CẢM ƠN i LỜI NÓI ĐẦU ii DANH MỤC BẢNG iii DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT iv MỤC LỤC v PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 2 1.2.1. Mục đích 2 1.2.2. Yêu cầu 2 PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở thực tập 3 2.1.1.2. Quá trình thành lập 4 2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức của trang trại 4 2.1.1.4. Cơ sở vật chất của trang trại 5 2.1.1.6. Đánh giá chung 9 2.2. Cơ sở khoa học của chuyên đề 10 2.2.1. Một số hiểu biết về lợn con. 10 2.2.2. Kỹ thuật chăm sóc lợn con theo mẹ 12 2.2.3. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ 16 2.2.4. Cai sữa cho lợn con 20 2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn con 22 2.2.6. Một số biện pháp phòng bệnh cho lợn con theo mẹ 24 2.3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 26 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 26
  8. vi 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 28 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN 30 3.1. Đối tượng và phạm vi tiến hành 30 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 30 3.3. Nội dung thực hiện 30 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 30 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi và một số công thức tính toán 30 3.4.2. Phương pháp thực hiện 31 3.4.2.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại 31 3.4.2.2. Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại 31 3.4.3.Phương pháp xử lý số liệu 33 PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34 4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại Nhâm Xuân Tiến huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình từ 2016-5/2018 34 4.2. Kết quả áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại 35 4.2.1. Số lượng lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong 6 tháng thực tập 35 4.2.2. Công tác chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn con trong 6 tháng thực tập 35 4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tập tại trại 36 4.3.1. Công tác vệ sinh phòng bệnh 36 Sau đây là kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực tập tại trại của em: 38 4.3.2. Phòng bệnh bằng vắc xin 38 4.4. Kết quả chẩn đoán và điều trị một số bệnh cho lợn con giai đọan từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tập 40
  9. vii 4.4.1. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi 40 4.4.2. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại trong thời gian thực tập 43 4.5. Kết quả thực hiện một số công việc khác trong thời gian thực tập 44 PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 47 5.1. Kết luận 47 5.2. Đề nghị 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỘT SỐ THUỐC DÙNG TRONG ĐIỀU TRỊ
  10. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Ở nước ta trồng trọt và chăn nuôi có vai trò rất quan trọng trong cơ cấu nông nghiệp chúng có quan hệ gắn bó hỗ trợ nhau cùng phát triển, ngành chăn nuôi đã đem lại lợi nhuận kinh tế đáng kể cho đất nước đặc biệt là ngành chăn nuôi lợn. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Song song với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau thì ngành chăn nuôi giữ một vị trí rất quan trọng, đóng góp một phần rất lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước. Trong đó chăn nuôi lợn là một bộ phận rất quan trọng trong ngành chăn nuôi. Hàng năm, ngành chăn nuôi lợn đã cung cấp một khối lượng lớn thịt, mỡ làm thực phẩm cho con người. Ngoài ra, chăn nuôi lợn còn cung cấp một khối lượng lớn phân bón cho ngành trồng trọt và một số sản phẩm phụ của nó làm nguyên liệu cung cấp cho ngành công nghiệp chế biến. Thịt lợn không chỉ cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của con người mà còn phù hợp với khẩu vị của đại đa số người sử dụng nó. Thịt lợn chiếm 75-80% so với các loại thịt trong chăn nuôi. Để đáp ứng được nhu cầu bức thiết này, Đảng và Nhà nước đang hết sức chú ý đến việc phát triển chăn nuôi lợn. Đồng thời các nhà khoa học nước ta cũng đã lai tạo đàn lợn nội và các giống lợn ngoại có tầm vóc lớn, sinh trưởng nhanh, tỷ lệ nạc cao. Cùng với đó là việc áp dụng phương thức chăn nuôi theo hướng công nghiệp, mô hình chăn nuôi lợn, áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng tiên tiến, chế biến thức ăn chất lượng cao với các loại thức ăn thay thế, thức ăn bổ sung, phối hợp khẩu phần ăn có đầy đủ các chất dinh dưỡng và không ngừng quan tâm đầu tư phát triển ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng. Để phát triển chăn nuôi lợn cần thực hiện tốt các khâu chăm sóc nuôi dưỡng và phòng bệnh, góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi lợn, đảm bảo lợn con sinh trưởng nhanh, khỏe mạnh và cung
  11. 2 cấp con giống có chất lượng tốt cho xã hội. Xuất phát từ thực tế trên, được sự đồng ý của khoa Chăn nuôi - Thú y, trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và giáo viên hướng dẫn, tôi tiến hành thực hiện chuyên đề: “Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại Nhâm Xuân Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình”. 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục đích - Tìm hiểu tình hình chăn nuôi tại trại Nhâm Xuân Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình . - Đánh giá việc áp dụng được quy trình chăm sóc nuôi dưỡng cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi. - Xác định tình hình nhiễm bệnh, cách phòng và trị bệnh cho lợn con nuôi tại trại. 1.2.2. Yêu cầu - Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trại Nhâm Xuân Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình . - Áp dụng được các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi. - Xác định được tình hình nhiễm bệnh, biết cách phòng và trị bệnh cho lợn con nuôi tại trại.
  12. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở thực tập 2.1.1.1.Điều kiện tự nhiên - Vị trí địa lý: Đông Hưng là một trong 8 huyện thuộc tỉnh Thái Bình Huyện Đông Hưng nằm ở trung tâm thành phố Thái Bình, với diện tích tự nhiên là 191,76 km2. Phía Bắc giáp huyện Quỳnh Phụ, phía Nam giáp với thành phố Thái Bình, phía Đông giáp huyện Thái Thụy, phía Tây Nam giáp với huyện Vũ Thư, phía Đông Nam giáp với huyện Kiến Xương. Trên địa bàn huyện có một mạng lưới chằng chịt các con sông nhỏ lấy nước từ hai con sông là sông Luộc và sông Trà Lý để cấp nước cho sông Diêm Hộ. Trong đó có sông Sa Lung và con sông lớn nhất là sông Tiên Hưng, là nhánh lớn của sông Diêm Hộ, lấy nước từ sông Luộc chảy qua thị trấn Đông Hưng. Thị trấn của huyện nằm trên điểm giao giữa quốc lộ 10 đi Hải Phòng- Quảng Ninh và quốc lộ 39 đi Hưng Yên-Hà Nội. -Thời tiết, khí hậu trong khu vực trại Trại mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm chia làm bốn mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nhiệt độ: trại có nhiệt độ cao,độ chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hạ khá lớn. Nhiệt độ trung bình hàng năm là: 23-24℃. Mùa đông: trời rét và khô, nhiệt độ xuống thấp, bình quân từ 10-18℃. Mùa hạ nắng nóng và mưa nhiều có khi lên tới 40℃.
  13. 4 Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 1400-1700 mm nhưng lượng mưa phân bố không đều hàng năm, phân thành hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Độ ẩm không khí ở trại tương đối cao, trung bình từ 83-85%, tháng cao nhất tập trung vào các tháng 3 và tháng 4, tháng thấp nhất khoảng 65% vào tháng 12. 2.1.1.2. Quá trình thành lập Trang trại lợn nái sinh sản nằm trên địa bàn của thôn Đông Hòa, xã Đông Á, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Trang trại là trại lợn gia công của Công ty chăn nuôi CP Việt Nam (Công ty TNHH Charoen Pokphand Việt Nam). Hoạt động theo phương thức chủ trại xây dựng cơ sở vật chất, thuê công nhân, công ty đưa tới giống lợn, thức ăn, thuốc thú y, cán bộ kỹ thuật. Hiện nay, trang trại do ông Nhâm Xuân Tiến làm chủ trại, cán bộ kỹ thuật của Công ty Chăn nuôi CP Việt Nam chịu trách nhiệm giám sát mọi hoạt động của trang trại. 2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức của trang trại Cơ cấu tổ chức gồm 3 nhóm: + Nhóm quản lý: 1 trưởng trại, 4 bảo vệ chịu trách nhiệm bảo vệ tài sản chung của trại, 1 đầu bếp. + Nhóm kỹ thuật: 5 kỹ sư chăn nuôi, 4 kỹ thuật điện, 1 kế toán phụ trách chuyên môn. + Nhóm công nhân: 37 công nhân, 11 sinh viên thực tập thực hiện công việc chuyên môn. Với đội ngũ nhân công trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau như tổ chuồng đẻ, tổ chuồng bầu. Các tổ có bảng chấm công riêng cho từng công nhân trong tổ, ngoài ra các tổ trưởng có nhiệm vụ đôn đốc, quản lý các thành viên trong tổ nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm và thúc đẩy sự phát triển của trang trại.
  14. 5 2.1.1.4. Cơ sở vật chất của trang trại Trang trại nằm trên khu vực thôn Đông Hòa, đường giao thông đã được nâng cấp bê tông hóa, thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển. Trại lợn cách khu dân cư đảm bảo vệ sinh. Để đảm bảo công tác chăn nuôi và sinh hoạt của công nhân trại được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật gồm có: Khu chăn nuôi xung quanh có hàng rào bao bọc và có cổng vào. Chuồng trại được quy hoạch bố trí xây dựng phù hợp với hướng chăn nuôi công nghiệp, hệ thống chuồng nuôi lồng, nền sàn bê tông cho lợn nái, lợn đực, sàn nhựa cho lợn con cùng với hệ thống vòi nước tự động và máng ăn. Chuồng nuôi được xây dựng đảm bảo đủ cho 2400 nái cơ bản bao gồm: 6 chuồng đẻ (mỗi chuồng có 108 ô) chia làm 2 bộ, 4 chuồng nái chửa (chuồng có 8 dãy, mỗi dãy có 75 ô) chia làm 2 bộ ô chuồng được thiết kế thoáng mát sắp lợn nái theo thứ tự lợn bầu, lợn chờ phối, lợn hậu bị, 1 chuồng cách ly cùng một số công trình phụ phục vụ cho chăn nuôi như: kho thức ăn, phòng sát trùng, phòng pha tinh, kho thuốc, kho cám Trại gồm 4 khu chính: khu nhà điều hành, khu nhà ăn, ở cho công nhân, khu nhà để cám và kho thuốc, khu để dụng cụ chăn nuôi, khu chăn nuôi còn lại là vườn và ao hồ bao quanh trại. Trại có quy mô đàn là 2400 đầu nái, 38 lợn đực và 250 lợn hậu bị để thay thế đàn và được phân ra thành các khu khác nhau cho mỗi loại lợn khác nhau, trang trại được xây dựng với 3 khu chuồng nối liền nhau. Khu chuồng nái chửa là nơi chăm sóc nuôi dưỡng những lợn nái đang mang thai, khu chuồng đẻ là nơi chứa lợn sắp đẻ từ chuồng nái chửa chuyển xuống là nơi mà lợn nái thực hiện quá trình đẻ, khu còn lại là khu vực chuồng dành cho lợn hậu bị mới nhập về và lợn nái loại thải. Khu chuồng nái chửa gồm 4 dãy dành cho lợn nái mang thai và là chuồng có diện tích lớn nhất, cách sắp xếp lợn trong chuồng đối với những lợn nái mang thai ở các giai đoạn khác nhau được xếp vào những dãy khác nhau, lợn đực phục vụ việc lấy tinh phối giống được xếp ở dãy trong cùng gần khu vực lấy tinh, lợn
  15. 6 nái cai sữa về được đưa về nơi chờ phối trong chuồng lợn nái có chửa nhằm thuận tiện cho việc kiểm tra và lên giống. Một góc chuồng nái chửa là khu kiểm tra lợn động dục, khu phối, khu lấy tinh, cạnh khu lấy tinh có phòng nhỏ để kiểm tra tinh được gọi là phòng tinh. Phòng tinh được trang bị khá đầy đủ: kính hiển vi, tủ lạnh, nồi hấp dụng cụ, máy ép túi tinh, nhiệt kế, Chuồng được xây dựng đạt tiêu chuẩn của một chuồng kín với kết cấu tất cả sàn chuồng đều được làm bằng bê tông, sàn cao hơn hẳn nền chuồng giúp công việc vệ sinh, khử trùng được thuận tiện. Đầu chuồng nái chửa có hệ thống giàn mát, cuối chuồng có hệ thống quạt thông gió với 8 quạt hoạt động nhằm tạo sự thông thoáng cho chuồng, ngoài ra bên trong chuồng còn được trang bị đầy đủ hệ thống vòi nước tự động, máng ăn cho từng ô lợn nái nhằm đảm bảo việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái mang thai đạt hiệu quả nhất. Khu chuồng đẻ gồm 6 chia thành 2 bộ I và II, mỗi bộ gồm có 3 chuồng gần kề nhau. Bộ I được sắp xếp thành chuồng đẻ 1, chuồng đẻ 2, chuồng đẻ 3. Bộ 2 được sắp xếp thành chuồng đẻ 4, chuồng đẻ 5, chuồng đẻ 6. Phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối chuồng có 3 quạt thông gió mỗi ngăn. Mỗi chuồng đẻ gồm 2 ngăn, mỗi ngăn gồm 2 dãy và có một công nhân phụ trách. Trong chuồng đẻ sàn chuồng lợn mẹ làm bằng bê tông còn sàn chuồng dành cho lợn con làm bằng nhựa cứng. Mỗi một ô chuồng đẻ đều có vòi nước tự động dành cho lợn mẹ và dành cho lợn con. Phần chuồng cho lợn con khá rộng rãi, một góc để lồng úm, lồng úm được làm bằng khung sắt và đan bao tải cám đã được ngâm sát trùng. Mỗi lồng úm được trang bị một bóng đèn sưởi ấm, trong mỗi ô chuồng để một máng ăn nhỏ cho lợn con tập ăn. Mỗi chuồng cũng có hệ thống giàn mát và 6 quạt thông gió và nhiệt kế đo nhiệt độ chuồng. Tại khu chuồng đẻ mỗi lần xuất lợn con và đuổi lợn mẹ về khu vực chờ phối thì chuồng được cọ rửa và phun vôi để trống chuồng 1 tuần trước khi đuổi lợn bầu sắp đẻ lên. Khu chuồng cách ly là khu chuồng nuôi lợn hậu bị mới nhập về để thay thế đàn và lợn nái loại thải. Vị trí chuồng nằm gần chuồng bầu thuận tiện cho
  16. 7 việc vận chuyển lợn lên chuồng bầu khi đã đủ điều kiện phối giống. Khu chuồng cách ly được xây dựng với bên trong là các ô nuôi lợn tập trung gồm 70 ô nhỏ được trang bị khá đầy đủ với hệ thống nước uống và máng ăn tự động bên trong các ô, khu bên trên đầu chuồng là hệ thống giàn mát và khu cuối chuồng có 5 quạt thông gió nhằm tạo sự thông thoáng cho chuồng nuôi. Mỗi chuồng đều được lắp đặt máy bơm nước để tắm cho lợn và vệ sinh chuồng trại hằng ngày,cuối chuồng mỗi ô đều có hệ thống thoát phân và nước thải. Khu chuồng cai sữa gồm 4 ô được trang bị đầy đủ máng tự động, núm nước uống tự động, khu bên trên đầu chuồng có hệ thống giàn mát và khu cuối chuồng có 2 quạt thông gió. Ngay tại cổng vào trại có 2 phòng sát trùtng ( nam và nữ ), cổng vào khu chăn nuôi có 6 phòng sát trùng cho công nhân trước khi ra, vào chuồng chăm sóc lợn, có 1 nhà ăn và 3 phòng nghỉ trưa cho kỹ sư và công nhân Trại có 2 khu nhà ở tập thể cho công nhân ở tại trại. Một số thiết bị khác cũng được trang bị đầy đủ: Tủ lạnh bảo quản vắc xin, tủ thuốc để bảo quản và dự trữ thuốc cho trại, xe chở cám từ nhà kho xuống chuồng, xe trở phân, xe trở lợn con, xe trở tấm đan, máy nén khí phun sát trùng di động khu vực trong và ngoài chuồng nuôi. Nhìn chung cơ sở vật chất của trại là khá hoàn chỉnh và đạt yêu cầu so với một chuồng nuôi kín hiện nay tuy nhiên việc cho ăn trong các chuồng lại hoàn toàn làm theo phương thức thủ công với mỗi chuồng đều có hệ thống máng ăn, mỗi con có một máng ăn riêng và khi cho ăn thì công nhân phụ trách chuồng phải đổ cám vào từng máng ăn đó lật cho lợn nái ăn theo khung giờ quy định hằng ngày. Nguồn nước sử dụng cho chăn nuôi tại trại được lọc qua bể lọc và dẫn trực tiếp đến từng ô chuồng bằng vòi uống tự động, trước khi được đưa đến các vòi tự động nước được xử lý qua clorin. Trang trại lợn nái Nhâm Xuân Tiến là một trại quy mô công nghiệp nên hàng ngày sử dụng một khối lượng nước rất lớn để phục
  17. 8 vụ chăn nuôi, vệ sinh chuồng trại, đặc biệt về mùa nóng cần một lượng nước rất lớn để vận hành hoạt động của giàn mát. Nước dùng cho chăn nuôi được bơm từ lòng đất qua hệ thống bể lọc, đưa lên các bồn chứa nước ở độ cao, áp lực đủ mạnh tới các vòi nước tự động ở từng ô chuồng. Bên cạnh đó, hệ thống bạt che, giàn mát, quạt thông gió được trang bị rất đầy đủ. Nguồn nước thải được thải ra các ao quanh trại, phân trong các khu chuồng thì được công nhân hót vào bao cuối mỗi buổi sáng và chiều trong ngày đổ ra khu nhà chứa phân để bán và một phần nhỏ để vun trồng vào các gốc cây. Trước cửa vào mỗi chuồng đều có một chậu nước sát trùng để nhúng ủng của công nhân trước khi đi vào chuồng làm việc. 2.1.1.5. Tình hình sản xuất của trang trại * Công tác chăn nuôi Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất lợn con và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,40 - 2,45 lứa/năm. Số con sơ sinh là 12,07 con/đàn, số con cai sữa là 10,45 con/đàn, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày thì tiến hành cai sữa. Trong trại hiện tại có 38 lợn đực giống. Các lợn đực giống này được nuôi nhằm mục đích kích thích động dục cho lợn nái và khai thác tinh để thụ tinh nhân tạo. Tinh lợn được khai thác từ 3 giống lợn là Landrace, Yorkshire và Duroc. Lợn nái được phối 3 lần và được luân chuyển giống cũng như lợn đực. Thức ăn cho lợn nái là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao, được Công ty CP cấp cho từng đối tượng lợn của trại. * Công tác vệ sinh thú y của trại Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại sản xuất lợn giống luôn thực hiện nghiêm ngặt, với sự giám sát chặt chẽ của kỹ thuật viên công ty CP
  18. 9 - Công tác vệ sinh: Chuồng trại được xây dựng thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, xung quanh các chuồng nuôi được trồng cây xanh nhằm tạo sự thoáng mát tự nhiên. Hàng ngày luôn có công nhân quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom phân, nước tiểu, khơi thông cống rãnh, đường đi trong trại được quét dọn, phun thuốc sát trùng, hành lang đi lại được quét dọn và rắc vôi theo quy định. Công nhân, kỹ sư, khách tham quan trước khi vào khu chăn nuôi đều phải sát trùng tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo bảo hộ lao động. - Công tác phòng bệnh: Trong khu vực chăn nuôi, hành lang giữa các chuồng và bên ngoài chuồng đều được rắc vôi bột, các phương tiện vào trại được sát trùng một cách nghiêm ngặt ngay tại cổng vào. Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin luôn được trang trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với từng loại lợn có quy trình tiêm riêng, từ lợn nái, lợn hậu bị, lợn đực, cho đến lợn con. Lợn được tiêm vắc xin ở trạng thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh mãn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn. Tỷ lệ tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn luôn đạt 100%. - Công tác trị bệnh: cán bộ kỹ thuật có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra đàn lợn thường xuyên, các bệnh xảy ra ở lợn nuôi tại trại luôn được kỹ thuật viên phát hiện sớm, cách ly, điều trị ở ngay giai đoạn đầu, nên điều trị đạt hiệu quả từ 80 - 90% trong một thời gian ngắn. Vì vậy, không gây thiệt hại lớn về số lượng đàn gia súc. 2.1.1.6. Đánh giá chung Thuận lợi Trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi: xa khu dân cư, thuận tiện đường giao thông.
  19. 10 Chuồng trại được trang thiết bị hiện đại, điện lưới và hệ thống nước sạch luôn cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt và chăn nuôi. Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân. Kèm theo đó là đội ngũ kỹ thuật với chuyên môn vững vàng, công nhân nhiệt tình, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Do đó đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trang trại. Khó khăn Đội ngũ công nhân trong trại còn thiếu, do đó ảnh hưởng đến tiến độ công việc. Trang thiết bị vật tư, hệ thống chăn nuôi còn thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Trong những năm gần đây, thời tiết diễn biến phức tạp kèm theo dịch bệnh xảy ra khó kiểm soát gây khó khăn cho chăn nuôi. Do đó đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh và nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn tại trại. 2.2. Cơ sở khoa học của chuyên đề 2.2.1. Một số hiểu biết về lợn con. *Đặc điểm về sinh trưởng, phát triển của lợn con Đối với chăn nuôi lợn con nói riêng và gia súc nói chung, thời kỳ gia súc mẹ mang thai được chăm sóc chu đáo, bào thai sẽ phát triển tốt sinh con khỏe mạnh. Theo Trần Văn Phùng và Cs (2004) [14] so với khối lượng sơ sinh thì khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp 4 lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần, lúc 50 ngày tuổi tăng gấp 10 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần. Lợn con bú sữa sinh trưởng và phát triển nhanh nhưng không đồng đều qua các giai đoạn, nhanh nhất trong 21 ngày đầu sau đó giảm dần.Sở dĩ có sự
  20. 11 giảm này là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do lượng sữa mẹ bắt đầu giảm và hàm lượng Hemoglobin trong máu của lợn con bị giảm. Thời gian bị giảm sinh trưởng kéo dài khoảng 2 tuần hay còn gọi là giai đoạn khủng hoảng của lợn con. Chúng ta hạn chế sự khủng hoảng này bằng cách cho ăn sớm. Do lợn con sinh trưởng nhanh nên quá trình tích lũy các chất dinh dưỡng mạnh. Ví dụ: Lợn con sau 3 tuần tuổi mỗi ngày có thể tích lũy được 9 - 14 gam protein/1kg khối lượng cơ thể, trong khi đó lợn trưởng thành chỉ tích lũy được 0,3 - 0,4 gam protein/1 kg khối lượng cơ thể. Hơn nữa, để tăng 1kg khối lượng cơ thể, lợn con cần ít năng lượng nghĩa là tiêu tốn năng lượng ít hơn lợn trưởng thành. Vì vậy, cơ thể của lợn con chủ yếu là nạc, mà để sản xuất ra 1kg thịt nạc cần ít năng lượng hơn để tạo ra 1 kg mỡ. * Các thời kỳ quan trọng của lợn con + Thời kỳ từ sơ sinh đến 1 tuần tuổi: Là thời kỳ khủng hoảng đầu tiên của lợn con do sự thay đổi hoàn toàn về môi trường sống, bởi vì lợn con chuyển từ điều kiện sống ổn định trong cơ thể lợn mẹ, chuyển sang điều kiện tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài. Do vậy, nếu nuôi dưỡng chăm sóc không tốt lợn con dễ bị mắc bệnh, còi cọc, tỷ lệ nuôi sống thấp. Mặt khác lúc này lợn con mới đẻ còn yếu ớt, chưa nhanh nhẹn. Lợn mẹ vừa đẻ xong, cơ thể còn mệt mỏi, đi đứng còn nặng nề vì sức khỏe chưa hồi phục, nên dễ đè chết lợn con. Cần nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo lợn con ở giai đoạn này. + Thời kỳ 3 tuần tuổi: Là thời kỳ khủng hoảng thứ 2 của lợn con, do quy luật tiết sữa của lợn mẹ gây nên. Sản lượng sữa của lợn nái tăng dần từ sau đẻ và đạt cao nhất ở giai đoạn 3 tuần tuổi, sau đó sản lượng sữa của lợn mẹ giảm nhanh, trong khi đó, nhu cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng tăng do lợn con sinh trưởng và phát dục nhanh, đây là mâu thuẫn giữa cung và cầu. Để giải quyết mâu thuẫn này, cần tập cho lợn con ăn sớm vào 7 - 10 ngày tuổi.
  21. 12 + Thời kỳ ngay sau khi cai sữa: Là thời kỳ khủng hoảng thứ 3 do môi trường sống thay đổi hoàn toàn, do yếu tố cai sữa gây nên. Mặt khác, thức ăn thay đổi, chuyển từ thức ăn chủ yếu là sữa lợn mẹ sang thức ăn hoàn toàn do con người cung cấp. Nên giai đoạn này, nếu nuôi dưỡng, chăm sóc không chu đáo, lợn con sẽ bị còi cọc, rất dễ mắc bệnh đường hô hấp, tiêu hóa. Trong chăn nuôi lợn nái ngoại, cai sữa bắt đầu lúc 21 ngày, kết thúc lúc 23 ngày thì thời kỳ khủng hoảng 2 và 3 trùng nhau, hay nói cách khác ta đã làm giảm được 1 thời kỳ khủng hoảng của lợn con 2.2.2. Kỹ thuật chăm sóc lợn con theo mẹ Chăm sóc là khâu quan trọng nhất trong việc nuôi dưỡng lợn con ở thời kỳ bú sữa vì đây là thời kỳ lợn con chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện ngoại cảnh. Nếu điều kiện ngoại cảnh bất lợi sẽ dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao ở lợn con. + Chuồng nuôi: Chuồng nuôi phải được vệ sinh trước khi lợn mẹ đẻ. Nền chuồng phải luôn sạch sẽ và khô ráo, ấm về mùa đông, mát về mùa hè, đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm thích hợp cho lợn con, vào ban đêm cần phải có đèn sưởi để đảm bảo chống lạnh cho lợn con. Ngoài ra chuồng nuôi phải có máng tập ăn và máng uống cho lợn con riêng. Nền cứng hoặc sàn thưa khu vực cho lợn con mới sinh cần giữ ấm ở 32 - 35oC trong mấy ngày đầu, sau đó giữ 21 - 27oC cho đến lúc cai sữa 3 - 6 tuần tuổi. Nhiệt độ, độ ẩm và tốc độ gió làm thành một hệ thống tác nhân stress đối với gia súc. Theo Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [10], nhiệt độ môi trường ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của lợn. Nhu cầu nhiệt độ của lợn tùy vào từng giai đoạn sinh trưởng, lợn sữa giai đoạn 1 - 7 ngày tuổi cần nhiệt độ 30 - 31oC, lợn trên 20 ngày tuổi cần nhiệt độ 20 - 24oC. Trong mùa đông ở các tỉnh phía Bắc nhiều ngày giá lạnh, nhiệt độ có thể hạ xuống dưới 10oC ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống và khả năng sinh trưởng của lợn con.
  22. 13 Theo Hồ Văn Nam và cs (1997) [13], khi gia súc bị lạnh ẩm kéo dài sẽ làm giảm khả năng đáp phản ứng miễn dịch, giảm tác động thực bào, do đó gia súc dễ bị vi khuẩn cường độc gây bệnh. + Cắt đuôi, bấm răng nanh, thiến: Thường thì trong chăn nuôi công nghiệp cần phải tiến hành cắt đuôi cho lợn nuôi thịt. Vì lợn nuôi thịt thường được nuôi thành các đàn lớn và có mật độ cao cho nên lợn thường cắn nhau gây mất ổn định, giảm năng suất chăn nuôi. Vị trí tấn công thường là đuôi. Việc cắt đuôi thường tiến hành ngay sau đẻ hoặc trong tuần đầu sau đẻ. Dùng kìm điện cắt sát khấu đuôi sao cho để lại 2,5 - 3 cm. Cắt xong dùng cồn iot 70o để sát trùng. Ngoài ra lợn con mới đẻ đã có răng nanh, nên việc bấm răng nanh cũng tiến hành ngay sau đẻ để tránh tình trạng gây tổn thương bầu vú cho lợn mẹ khi bú, làm giảm tỷ lệ gây viêm vú cho lợn mẹ. Khi cắt răng nanh, người cắt tránh không gây tổn thương phần lợi hoặc lưỡi của lợn con, ngoài ra người cắt cũng nên cẩn thận không để nanh gẫy bắn vào mắt mình. Trong thời kỳ này cũng phải thực hiện thiến cho những lợn đực không dùng làm giống. Có thể thiến trong khoảng từ 8 - 10 ngày tuổi. Cần sát trùng bằng cồn iod trước và sau thiến. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2013) [11], bệnh phó thương hàn là bệnh truyền nhiễm chủ yếu xảy ra ở lợn con 2-4 tháng tuổi. Đặc trưng của bệnh là do vi khuẩn tác động vào bộ máy tiêu hóa gây nên triệu chứng nôn mửa, ỉa chảy, phân khắm, vết loét lan tràn ở ruột già. + Tiêm phòng: Khi lợn con được 20 ngày tuổi nên tiêm phòng những loại vắc xin: - Salmonella (2 ml/con) phòng bệnh phó thương hàn. - Giai đoạn lợn được 45 ngày tuổi nên tiêm phòng vắc xin dịch tả.
  23. 14 - Giai đoạn 60 - 70 ngày tuổi nên tiêm phòng vắc xin tụ huyết trùng và đóng dấu. Quản lý lợn con: Đối với những lợn con có dự định chọn làm giống thì cần phải có kế hoạch quản lý tốt. Những con này sẽ được cân và đánh số ở các giai đoạn sơ sinh, lúc cai sữa, lúc 50, 60 hay 70 ngày tuổi. Đây chính là cơ sở giúp cho việc lựa chọn để làm giống sau này. * Giai đoạn từ sơ sinh đến 3 ngày tuổi Bình thường khoảng thời gian giữa lợn con đẻ trước và lợn con đẻ liền kề 5 - 10 phút, cũng có khoảng cách nái đẻ kéo dài hơn. Lợn con đẻ ra phải được lau khô bằng vải màn xô mềm sạch theo trình tự miệng - mũi - đầu - mình - rốn - bốn chân, cho vào ổ úm sau khi nhiệt độ môi trường thấp hơn 35oC. Lợn nái đẻxong con cuối cùng tiến hành bấm nanh, cắt rốn, cố định đầu vú cho lợn con mục đích là tạo điều kiện để đàn lợn con phát triển đồng đều. * Giai đoạn 3 ngày tuổi đến 3 tuần tuổi Trong thời gian này nói chung ổ lợn con đã bú thành thạo và rõ ràng đã bước vào giai đoạn khởi động tốt trong thời gian này việc chăm sóc quản lý rất quan trọng bao gồm cả phòng chống thiếu máu khống chế tiêu chảy, thiến lợn đực con và cắt đuôi. Trong giai đoạn này sữa lợn mẹ đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con trong mọi vấn đề, trừ sắt. Sắt cần thiết cho việc hình thành hemoglobin trong máu nó vận chuyển oxygen đến các bộ phận cơ thể. Thiếu sắt sẽ gây thiếu máu nhưng có thể phòng ngừa bằng cách tiêm sắt. Nguyễn Chí Dũng ( 2013) [6], một trong các yếu tố làm cho lợn con dễ mắc bệnh đường tiêu hóa là do thiếu sắt. Nhiều thực nghiệm đã chứng minh, trong cơ thể sơ sinh phải cần 40 - 50mg sắt nhưng lợn con chỉ nhận được lượng sắt qua sữa mẹ là 1mg. Vì vậy phải bổ sung một lượng sắt tối thiểu 200 -250mg/con/ngày. Khi thiếu sắt, lợn con dễ sinh bần huyết, cơ thể suy yếu, sức đề kháng giảm nên dễ mắc hội chứng tiêu chảy.
  24. 15 Nhu cầu sắt cho lợn con mỗi ngày cần 7 - 16 mg hoặc 21 mg/kg tăng khối lượng duy trì hemoglobin (hồng cầu) trong máu, sắt dự trữ cho cơ thể tồn tại và phát triển. Lượng sắt trong sữa mẹ không đủ cho nhu cầu sắt của nhu cầu lợn con, triệu chứng điển hình của thiếu sắt ở lợn con là thiếu máu, hàm lượng hemoglobin giảm, da lợn con màu trắng xanh, đôi khi tiêu chảy, phân trắng, chậm lớn, có khi chết. * Từ 3 tuần tuổi đến cai sữa Thời gian này lợn con đã lớn nhanh hơn, nó khỏe mạnh hơn và có khả năng chống chịu tốt hơn với môi trường ngoại cảnh của nó. Vào thời gian này, phần lớn lợn con theo mẹ đã được 3 - 4 tuần tuổi, chúng bắt đầu ăn thức ăn và lớn nhanh, sự tăng khối lượng này là tăng khối lượng có hiệu quả, do đó ta cần phải hạn chế và tránh những yếu tố stress cho lợn con. Một cách để đạt năng suất tối đa là tập cho lợn con ăn càng sớm càng tốt. Nói chung sự tiết sữa của lợn mẹ đạt đến đỉnh cao lúc 3 - 4 tuần tuổi và bắt đầu giảm, lợn con bắt đầu sinh trưởng nhanh ở tuổi này và cần nhận được thức ăn bổ sung nếu nó sinh trưởng với tiềm năng di truyền của nó, trong giai đoạn này nội ký sinh trùng là vấn đề ở phần lớn các trại lợn và sự phá hoại do ký sinh trùng gây ra có thể bắt đầu từ rất bé. Yếu tố chăm sóc, quản lý chủ yếu cuối cùng của việc nuôi lợn con theo mẹ là cai sữa, tuổi cai sữa lợn con có thể thay đổi tùy theo đàn, tùy theo chuồng trại có sẵn. Nói chung lợn con có thể cai sữa bất cứ khi nào những lợn con càng bé càng đòi hỏi sự quản lý càng tốt hơn. Để thực hiện cai sữa được đảm bảo và đạt hiệu quả cao ta cần chú ý những điểm sau để giảm stress khi cai sữa lợn con: + Chỉ cai sữa cho những lợn cân nặng trên 5,5 kg. + Cai sữa trong thời gian trên 2 - 3 ngày, cai sữa trước cho những ổ đông con. + Ghép nhóm lợn con theo tầm vóc cơ thể. + Số lượng trong 1 ngăn là 30 con hoặc ít hơn, nếu được.
  25. 16 +Hạn chế mức ăn vào trong vòng 48 giờ nếu có xảy ra tiêu chảy sau cai sữa. + Cứ 4 - 5 lợn con thì đặt 1 máng ăn và cứ 20 - 25 lợn con thì lắp đặt 2 vòi nước uống. + Cho thuốc vào nước uống nếu tiêu chảy. 2.2.3. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ * Cho lợn con bú sữa đầu và cố định đầu vú cho lợn con: Lợn con đẻ ra cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Thời gian tiết sữa đầu của lợn nái là 1 tuần kể từ khi đẻ nhưng có ý nghĩa lớn nhất đối với lợn con là trong 24 giờ đầu. Sau khoảng 2 giờ, nếu lợn mẹ đẻ xong thì cho cả đàn con bú cùng lúc. Nếu lợn mẹ chưa đẻ xong thì nên cho những con đẻ trước bú trước. Theo Vũ Đình Tôn và Trần Thị Thuận (2006) [18], lợn con khi mới sinh ra trong máu hầu như không có kháng thể. Song lượng kháng thể trong máu lợn con được tăng rất nhanh sau khi lợn con bú sữa đầu. Theo Trần Văn Phùng và Hà Thị Hảo, Trần Thanh Vân, Từ Quang Hiển (2004) [14], lợn con mới đẻ lượng kháng thể tăng nhanh ngay sau khi bú sữa đầu của lợn mẹ, cho nên khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ lợn mẹ. Theo Trần Thị Dân (2008) [4], lợn con mới đẻ trong máu không có globulin nhưng sau khi bú sữa đầu lại tăng lên nhanh chóng do truyền từ mẹ sang qua sữa đầu. Lượng globulin sẽ giảm sau 3 - 4 tuần, rồi đến tuần thứ 5 - 6 lại tăng lên và đạt giá trị bình thường 65 mg/100ml máu. Các yếu tố miễn dịch như bổ thể, lyzozyme, bạch cầu được tổng hợp còn ít, khả năng miễn dịch đặc hiệu của lợn con kém. Vì vậy cho lợn con bú sữa đầu rất cần thiết để tăng khả năng bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh nhất là hội chứng tiêu chảy. Sữa đầu có hàm lượng các chất dinh dưỡng rất cao. Hàm lượng protein trong sữa đầu gấp 2 lần so với bình thường, vitamin A gấp 5 - 6 lần, vitamin C gấp 2,5 lần, vitamin B1 và sắt gấp 1,5 lần. Đặc biệt trong sữa đầu có hàm
  26. 17 lượngγ-globulin mà sữa thường không có, γ-globulin có tác dụng giúp cho lợn con có sức đề kháng đối với bệnh tật,. Ngoài ra, M++ trong sữa đầu có tác dụng tẩy các chất cặn bã (phân su) trong quá trình tiêu hóa phát triển thai để hấp thu chất dinh dưỡng mới. Nếu không nhận được Mg++ thì lợn con sẽ bị rối loạn tiêu hóa, gây tiêu chảy, tỷ lệ chết cao. Việc cố định đầu vú cho lợn con nên bắt đầu ngay từ khi cho chúng bú sữa đầu, theo quy luật tiết sữa của lợn nái thì lượng sữa tiết ra ở các vú phần ngực nhiều hơn vú ở phần bụng, mà lợn con trong ổ thường con to, con nhỏ không đều nhau. Nếu để lợn con tự bú thì những con to khỏe thường tranh bú ở những vú trước con ngực có nhiều sữa hơn và dẫn tới tỷ lệ đồng đều của đàn lợn con rất thấp, có trường hợp có những con lợn yếu không tranh được bú sẽ bị đói làm tỷ lệ chết của lợn con cao. Khi cố định đầu vú, nên ưu tiên những con lợn nhỏ yếu được bú phía trước ngực. Công việc này đòi hỏi phải kiên trì, tỷ mỉ bắt từng con cho bú nhiều lần trong một ngày (7 - 8) lần, làm liên tục trong 3 - 4 ngày để chúng quen hẳn với vị trí mới thôi. Cũng có trường hợp số lợn con đẻ ra ít hơn số vú thì những lợn vú phía sau có thể cho mỗi con làm quen 2 vú, để vừa tăng cường lượng sữa cho lợn con, vừa tránh bị teo vú cho lợn mẹ. Nếu cố định đầu vú tốt thì sau 3 - 4 ngày lợn con sẽ quen tự bú ở các vú quy định cho nó, lợn con quen nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào thế nằm của lợn mẹ, nếu lợn mẹ thường xuyên nằm quay về một phía khi cho con bú thì lợn con nhận biết vú quy định của nó sớm hơn. Ngược lại, nếu lợn mẹ nằm thay đổi vị trí liên tục thì lợn con sẽ chậm nhận biết hơn. Theo Duy Hùng (2011) [8], vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng ngày bằng dung dịch sát trùng. Bấm nanh cho lợn con mới sinh, nên cho lợn con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ
  27. 18 thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vú bị viêm. Dùng các phương pháp chườm nóng, xoa bóp nhẹ lên vùng bị sưng. Nếu ghép lợn con với lợn mẹ khác mẹ thì phun erezyl cho cả đàn con cũ và mới mới không để lợn mẹ phát hiện, những con mới ghép cũng phải cố định vú bú. * Bổ sung sắt cho lợn con Trong những ngày đầu, khi lợn con chưa ăn được, lượng sắt mà lợn con tiếp nhận từ nguồn sữa mẹ không đủ nhu cầu của cơ thể, vì vậy lợn con cần được bổ sung thêm sắt. Nhu cầu sắt cần cung cấp cho lợn con 30 ngày đầu sau đẻ là 30 x 7 mg/ ngày = 210 mg. Trong đó, lượng sắt cung cấp từ sữa chỉ đạt 1 - 2mg/ngày (36 - 60 mg/30 ngày), lượng sắt thiếu hụt cho một lợn con khoảng 150 - 180 mg, vì vậy mỗi lợn con cần cung cấp thêm lượng sắt thiếu hụt. Trong thực tế thường cung cấp thêm 200 mg. Nên tiêm sắt cho lợn con trong 3 - 4 ngày sau khi sinh. Việc tiêm sắt thường làm với các thao tác khác để tiết kiệm công lao động. Nếu cai sữa lúc 3 tuần tuổi, tiêm 1 lần 200mg là đủ. Nếu cai sữa sau 3 tuần tuổi, nên tiêm 200mg sắt tiêm 2 lần. Lần 1: 3 ngày tuổi tiêm 100mg, lần 2: 10 - 12 ngày tuổi tiêm 100mg. Triệu chứng điển hình của sự thiếu sắt là thiếu máu, hàm lượng hemoglobin giảm. Khi thiếu sắt, da của lợn con có màu trắng xanh, nhợt nhạt, đôi khi lợn con bị ỉa chảy, ỉa phân trắng, lợn con chậm lớn, có khi bị chết. Để loại trừ hiện tượng thiếu sắt cần bổ sung kịp thời cho lợn con bằng cách tiêm, cho uống hoặc cho ăn. Đưa sắt vào cơ thể lợn con bằng cách tiêm là đạt hiệu quả nhất. Nên dùng sắt dưới dạng dextran, hợp chất này có tên là Ferri - Dextran. Ferri - Dextran là hợp chất có phân tử lớn nên ngấm từ từ, hiệu quả kéo dài. Cách thức sử dụng:
  28. 19 - Cách 1: Chỉ tiêm 1 lần vào ngày thứ 3 sau khi đẻ, với liều lượng 200 mg sắt (Fe - Dextran) cho 1 lợn con. - Cách 2: Tiêm lần 2: lần thứ nhất 100mg vào ngày thứ 3 sau khi đẻ, lần thứ 2 (tiêm lặp lại) là 7 ngày sau khi tiêm lần thứ nhất. Cũng với liều lượng 100 mg cho 1 lợn con. Để ngăn ngừa hiện tượng ngộ độc sắt cho lợn con, cần bổ sung thêm vitamin E vào khẩu phần ăn của lợn mẹ 1 ngày trước khi tiêm (khoảng 500mg). Nếu thiếu vitmin E thìcần cung cấp 20 - 30 mg Fe vào ngày thứ 3 sau khi sinh cũng đã gây ngộ độc cho cơ thể lợn con. - Cách tiêm sắt cho lợn con Dùng 1 bơm tiêm sạch lấy dung dịch sắt khỏi lọ chứa, sử dụng kim tiêm 14 hoặc 16 (đường kính lớn) để lấy thuốc. Sau khi lấy thuốc đầy bơm dùng kim 9, dài 1 cm để tiêm. Sắt tiêm quá liều có thể gây hại, thậm chí có thể gây độc. Kiểm tra liều dùng ghi ở trên nhãn sản phẩm, không cần thay hay sát trùng kim tiêm cho từng con lợn, song điểm tiêm nếu bẩn nên lau bằng nước sát trùng. Rửa và sát trùng dụng cụ sau khi tiêm cho nhóm lợn con. Việc sử dụng kim tiêm và tiêm 1 lần tạo điều kiện vệ sinh hơn. Nên tiêm vào cổ, không nên tiêm ở mông vì có thể làm hại đến dây thần kinh và cũng có thể vết sắt dư thừa lưu ở thân lợn thịt khi mổ bán. Có thể tiêm sắt vào cơ bắp hoặc tiêm vào dưới da. Cẩn thận không tiêm vào phần xương sống. Khi tiêm cần giữ mũi tiêm một lúc để tránh hoặc giảm lượng thuốc chảy ngược ra. Điểm khuyến cáo để tiêm dưới da là chỗ da kéo lên được ở phía trước chân trước. * Tập cho lợn ăn sớm: - Mục đích: + Bù đắp phần dinh dưỡng thiếu hụt cho nhu cầu sinh trưởng phát triển của lợn con khi sản lượng sữa mẹ giảm sau 3 tuần tiết sữa.
  29. 20 + Rèn luyện bộ máy tiêu hóa của lợn con sớm hoàn thiện về chức năng, đồng thời kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển nhanh hơn về kích thước và khối lượng. + Giảm bớt sự nhấm nháp thức ăn rơi vãi của lợn con để hạn chế được các bệnh đường ruột của lợn con. + Giảm bớt sự khai thác sữa mẹ kiệt quệ và giảm tỷ lệ hao mòn của lợn mẹ, từ đó lợn mẹ sớm động dục trở lại sau khi cai sữa lợn con. + Tránh sự cắn xé bầu vú lợn mẹ, hạn chế bệnh viêm vú. + Có điều kiện để cai sữa sớm cho lợn con, tăng hệ số quay vòng lứa đẻ/nái/năm. - Phương pháp tập ăn sớm: Khi lợn con đạt 7 - 10 ngày tuổi, ta nên tiến hành cho lợn con làm quen với thức ăn. Thức ăn tập ăn phải đảm bảo có tính thèm ăn cao. Cần lựa chọn loại thức ăn, các chất phụ gia, cũng như phương pháp chế biến sao cho kích thích sự thu nhận thức ăn của lợn con. Lợn con thường rất thích ăn thức dạng viên hay bột nhỏ khô, những thức ăn này thường là các loại tấm, bắp, đậu nành được rang xay để tạo mùi thơm. Phải cho lợn con làm quen với nguồn glucid, lipid, protid của các loại thực liệu thông thường để hệ tiêu hóa của lợn con sớm bài tiết các enzyme tiêu hóa thích hợp. 2.2.4. Cai sữa cho lợn con * Điều kiện cai sữa cho lợn con: - Phải chủ động thức ăn, thức ăn cần phải có phẩm chất tốt, giá trị dinh dưỡng cao, cân đối. -Sức khỏe của lợn con và lợn mẹ phải tốt. - Lợn con phải ăn tốt và tiêu hóa tốt các loại thức ăn. - Cần phải có trang thiết bị đầy đủ, đúng kỹ thuật. - Người chăn nuôi phải có tay nghề, tinh thần trách nhiệm cao. * Các hình thức cai sữa: - Cai sữa thông thường: Cai sữa từ 42 - 60 ngày tuổi.
  30. 21 + Ưu điểm: Lợn con biết ăn tốt, thức ăn yêu cầu không cao lắm, lợn con khỏe mạnh hơn, khả năng điều tiết thân nhiệt tốt hơn nên chăm sóc dễ dàng hơn. + Nhược điểm: Khả năng sinh sản thấp, chi phí cho 1kg khối lượng lợn con cao, tỷ lệ hao mòn lợn mẹ lớn hơn. - Cai sữa sớm: Cai sữa từ 21 đến 28 ngày tuổi. + Ưu điểm: Nâng cao sức sinh sản của lợn nái (nâng cao số lứa đẻ lên 2,33 lứa so với 2,19 lứa), tránh được một số bệnh truyền nhiễm từ mẹ sang con, giảm chi phí thức ăn/1kg tăng khối lượng lợn con (20% so với cai sữa thông thường), giảm tỷ lệ hao mòn lợn mẹ. + Nhược điểm: Đòi hỏi thức ăn phải có chất lượng tốt, người chăm sóc nuôi dưỡng phải nhiệt tình với công việc và có nhiều kinh nghiệm. * Kỹ thuật cai sữa: Cần tiến hành từ từ: + Ngày đầu: Tách mẹ từ 7 giờ sáng, buổi trưa cho về với lợn con, 13 giờ tách lợn mẹ đến 17 giờ lại cho lợn mẹ về với lợn con. + Ngày thứ 2: Buổi sáng tách lợn mẹ đi, buổi chiều 17 giờ cho lợn mẹ về với lợn con. + Ngày thứ 3: Buổi sáng tách hẳn lợn mẹ với lợn con, không gây ảnh hưởng tới lợn con. - Trước cai sữa 2 - 3 ngày cần giảm số lần bú của lợn con. - Giảm thức ăn cho lợn mẹ trước khi cai sữa 1 - 2 ngày. - Chế độ ăn đối với lợn con: + Tỷ lệ sơ trong khẩu phần thấp: Khả năng tiêu hóa chất xơ ở lợn con còn kém, tỷ lệ xơ ở trong khẩu phần ăn cao thì lợn con sinh trưởng phát triển chậm, tiêu tốn thức ăn cao, lợn con dễ táo bón, viêm ruột và có thể dẫn đến còi cọc, tỷ lệ thích hợp là 5 – 6 %. Xu hướng trong những năm gần đây ở các nước chăn nuôi tiên tiến người ta khuyến khích nâng cao tỷ lệ xơ trong khẩu phần ăn của lợn để nâng cao sức khỏe.
  31. 22 + Có tỷ lệ ăn thích hợp: Lợn con ở giai đoạn này cần có dinh dưỡng tốt cho phát triển bộ xương và cơ bắp là chủ yếu. Nếu chúng ta cung cấp khẩu phần ăn có lượng thức ăn tinh bột cao, lợn con sẽ béo sớm và khả năng tăng trọng sẽ giảm, tích lũy nhiều mỡ sớm. Tỷ lệ thức ăn tinh thích hợp cho lợn con trong giai đoạn này là 80% trong khẩu phần. + Có tỷ lệ nước thích hợp: Nếu khẩu phần lợn con có tỷ lệ nước cao sẽ dẫn đến tiêu hóa kém, giảm khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng nhất là protein, thức ăn nhiều nước cũng gây nền chuồng bẩn, ẩm thấp và lợn con dễ nhiễm bệnh. Nếu tỷ lệ nước thấp sẽ gây nên thiếu nước cho nhu cầu sinh trưởng và phát triển của lợn con. Tỷ lệ thức ăn tinh : thô phải thích hợp, cứ 1kg thức ăn tinh trộn với 0,5l nước sạch, tối đa có thể là tỷ lệ 1 : 1, ngoài ra người chăn nuôi phải cho lợn con uống nước đầy đủ theo hình thức tự do. Ngoài ra chúng ta còn bổ sung khoáng vi lượng như Mn, Co, Cu, Mg, Fe, và bổ sung cho lợn những chế phẩm vitamin - khoáng. + Phương pháp cho lợn con ăn: Cho ăn nhiều bữa trong ngày, 5 - 6 bữa/ngày thì có tốc độ tăng trọng cao hơn 3 bữa/ngày. Tuy nhiên, cho ăn nhiều bữa trong ngày sẽ tốn công lao động trong chăn nuôi. Từ đó người chăn nuôi cần lựa chọn số bữa thích hợp để cho lợn con ăn. Cho lợn con ăn đúng giờ giấc quy định và tập cho lợn con những phản xạ có điều kiện về tiêu hóa. Cho lợn con ăn từ từ để tránh vung vãi ra ngoài và hạn chế được lợn con mắc các bệnh về đường tiêu hóa. Cho lợn con ăn đúng tiêu chuẩn và khẩu phần ăn. Theo dõi sức khỏe để điều chỉnh khẩu phần và tiêu chuẩn cho chúng. 2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn con Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục của lợn gồm hai nhóm: các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài. * Yếu tố bên trong:
  32. 23 Yếu tố di truyền là một trong những yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất ảnh hưởng đến sinh trưởng phát dục của lợn. Quá trình sinh trưởng của lợn tuân theo các quy luật sinh học, nhưng chịu ảnh hưởng của các giống lợn khác nhau. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của lợn là quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Quá trình trao đổi chất xảy ra dưới sự điều khiển của các hormon. Hormon tham gia vào tất cả các quá trình trao đổi chất của tế bào và giữ cân bằng các chất trong máu. * Yếu tố bên ngoài: Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển cơ thể lợn bao gồm dinh dưỡng, nhiệt độ, môi trường, ánh sáng và các yếu tố khác. + Dinh dưỡng: Các yếu tố di truyền không thể phát huy tối đa nếu không có một môi trường dinh dưỡng và thức ăn hoàn chỉnh. Khi chúng ta đảm bảo đầy đủ về thức ăn bao gồm cả số lượng và chất lượng thức ăn thì sẽ góp phần thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát triển của các cơ quan trong cơ thể. + Nhiệt độ và độ ẩm môi trường: Nhiệt độ môi trường không chỉ ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Nếu nhiệt độ môi trường không thích hợp thì sẽ không thể đảm bảo quá trình trao đổi chất diễn ra bình thường cũng như cân bằng nhiệt của cơ thể lợn. Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004) [5], các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể còn rất yếu. Theo Phạm Khắc Hiếu và Lê Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Lộc (1998) [9], lợn con sinh ra phải được sưởi ấm ở nhiệt độ 34oC trong suốt tuần lễ đầu tiên, sau đó giảm dần xuống nhưng không được thấp hơn 30oC, như vậy lợn sẽ tránh được những stress lạnh ẩm.
  33. 24 Khi nhiệt độ chuồng nuôi thấp lợn sẽ mất nhiệt rất nhiều, lợn sẽ giảm khả năng tăng khối lượng và tăng tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng khối lượng. Nhiệt độ chuồng nuôi có liên quan mật thiết với ẩm độ không khí, ẩm độ không khí thích hợp cho lợn ở vào khoảng 70%. * Ánh sáng: Ánh sáng có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của lợn. Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của ánh sáng đối với lợn người ta thấy rằng ánh sáng có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng và phát triển của lợn con, lợn hậu bị và lợn sinh sản hơn là lợn vỗ béo. Khi không đủ ánh sáng sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của lợn, đặc biệt là quá trình trao đổi khoáng. Đối với lợn con từ sơ sinh đến 70 ngày tuổi, nếu không đủ ánh sáng thì tốc độ tăng khối lượng sẽ giảm từ 9,5 - 12%, tiêu tốn thức ăn giảm 8 - 9% so với lợn con được vận động dưới ánh sáng mặt trời. * Các yếu tố khác: Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển lợn đã nêu trên còn có các yếu tố khác như vấn đề về chuồng trại, chăm sóc, nuôi dưỡng, tiểu khí hậu chuồng nuôi như không khí, tốc độ gió lùa, nồng độ các khí thải Nếu chúng ta cung cấp cho lợn các yếu tố đủ theo yêu cầu của từng loại lợn sẽ giúp cho cơ thể lợn sinh trưởng phát triển đạt mức tối đa. 2.2.6. Một số biện pháp phòng bệnh cho lợn con theo mẹ * Vệ sinh phòng bệnh: - Vệ sinh chuồng trại: + Ngăn cách khu vực chăn nuôi lợn với các súc vật khác như: Chó, mèo + Rửa và phun thuốc sát trùng chuồng trại sạch sẽ ít nhất 3 - 7 ngày trước khi thả lợn vào chuồng. + Hàng ngày phải quét phân trong chuồng, giữ cho chuồng luôn khô ráo, sạch sẽ. + Xử lý xác chết gia súc nghiêm ngặt: Chôn sâu, đốt + Nên có kế hoạch rửa chuồng, phun thuốc sát trùng và diệt ruồi, muỗi mỗi tuần 2 lần.
  34. 25 - Vệ sinh thức ăn và nước uống: + Thường xuyên kiểm tra thức ăn trước khi cho lợn ăn, thức ăn phải đảm bảo chất lượng, không bị mốc + Nếu sử dụng thức ăn trộn thì định kỳ phải trộn kháng sinh để phòng bệnh cho lợn. + Nước uống phải đủ, sạch, không bị nhiễm bẩn. * Tiêm vắc xin phòng bệnh: Bên cạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, cần phòng những bệnh thông thường như dịch tả, cầu trùng, khô thai, giả dại lịch tiêm phòng cụ thể như sau: Bảng 2.1: Lịch phòng bệnh của trại lợn nái Vắc xin/ Đường Liều Loại Phòng Tuần tuổi thuốc/chế đưa lượng lợn bệnh phẩm thuốc (ml/con) 2 - 3 ngày Thiếu sắt Fe + B12 Tiêm 1 Lợn 3 - 6 ngày Cầu trùng Totrazil Uống 1 con 16 - 18 ngày Dịch tả AD Tiêm bắp 2 24 tuần tuổi Tai xanh PRRS Tiêm bắp 2 25, 29 tuần tuổi Khô thai Pavo Tiêm bắp 2 Lợn 26 tuần tuổi Dịch tả CSF Tiêm bắp 2 hậu bị 27, 30 tuần tuổi Giả dại AD Tiêm bắp 2 28 tuần tuổi LMLM FMD Tiêm bắp 2 Lợn 10 tuần chửa Dịch tả CSF Tiêm bắp 2 nái sinh 12 tuần chửa LMLM FMD Tiêm bắp 2 sản
  35. 26 Định kỳ hàng năm vào tháng 4, 8, 12 tiêm phòng bệnh tổng đàn vắc xin giả dại Begonia, tiêm bắp 2 ml/con. Đối với lợn đực: - Lợn đực hậu bị mới nhập về: 3 tuần tiêm phòng vắc xin dịch tả Coglapest, 4 tuần tiêm phòng vắc xin lở mồng long móng Aftopor, vắc xin giả dại Begonia. - Lợn đực đang khai thác tiêm phòng vào tháng 5, tháng 11 vắc xin dịch tả Coglapest. Tháng 4, 8, 12 tiêm phòng vắc xin lở mồng long móng Aftopor, vắc xin giả dại Begonia. 2.3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Việc nghiên cứu về giai đoạn lợn con theo mẹ và sau cai sữa được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm, giai đoạn lợn con theo mẹ có đặc điểm là lợn con sinh ra không được cung cấp nguồn dinh dưỡng trực tiếp như khi còn là bào thai. Bộ máy tiêu hóa chưa hoàn thiện, môi trường sống thay đổi, lượng sắt do mẹ cung cấp giảm dần, lợn con dễ mắc bệnh đặc biệt là bệnh đường tiêu hóa. Theo Trần Cừ, Cù Xuân Dần (1996) [2], cần tập cho lợn con ăn sớm, vừa bổ sung thêm chất dinh dưỡng vừa có tác dụng bổ sung thêm chất tiết dịch vị, tăng hàm lượng HCL và enzyme vừa kích thích sự phát triển của dạ dày và ruột để thích ứng kịp thời với chế độ ăn sau cai sữa. Theo Nguyễn Quang Linh (2005) [12], lợn con trong giai đoạn bú sữa có khả năng sinh trưởng và phát dục rất nhanh. Từ lúc sơ sinh đến khi cai sữa trọng lượng của lợn con tăng 10 - 12 lần. So với các gia súc khác thì tốc độ sinh trưởng của lợn con tăng nhanh hơn gấp nhiều lần. Tốc độ sinh trưởng của lợn con là không đồng đều. Lợn sinh trưởng nhanh nhất trong 21 ngày đầu sau đó tốc độ sinh trưởng giảm dần. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do lượng sữa của lợn mẹ bắt đầu giảm. Sản lượng sữa mẹ tăng dần từ khi mới đẻ ra cho tới khi lợn con 15 ngày
  36. 27 tuổi, lúc này hàm lượng sữa mẹ đạt cao nhất và ổn định cho tới ngày thứ 20, sau đó thì giảm dần. Lợn con trong giai đoạn này sinh trưởng và phát dục nhanh nhất do đó nhu cầu dinh dưỡng yêu cầu ngày càng cao trong khi hàm lượng sữa mẹ thì giảm dần dẫn tới lợn con thiếu dinh dưỡng nếu không có thức ăn bổ sung. Theo Trần Cừ (1992) [3], sự phát triển của cơ thể thì các cơ quan bộ phận, hàm lượng các chất dinh dưỡng, các thành phần của cơ thể cũng có sự thay đổi nhanh chóng. Hàm lượng nước trong cơ thể giảm dần, biểu thị bằng tỷ lệ giữa nước so với trọng lượng sống như sau: Lúc sơ sinh tỷ lệ này là 77,88%, lúc 7 ngày tuổi là 68,52%, lúc 14 ngày tuổi là 63,94%. Tỷ lệ nước giảm nhưng tỷ lệ các chất dinh dưỡng so với trọng lượng cơ thể lại tăng. Tỷ lệ Pr với trọng lượng cơ thể sống lúc mới sinh là 11,2%, đến lúc 7 ngày tuổi là 13,57%, đến 14 ngày tuổi là 14,37%. Theo Trần Văn Phùng, Hà Thị Hảo, Trần Thanh Vân, Từ Quang Hiển (2004) [14], lợn con cho bú sữa có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh nhưng không đều qua các giai đoạn, tốc độ nhanh nhất là 21 ngày đầu, sau 21 ngày tốc độ giảm xuống có sự giảm này là do nhiều nguyên nhân song chủ yếu là do lượng sữa của lợn mẹ bắt đầu giảm xuống, hàm lượng trong máu của lợn con bị giảm. Bị giảm tốc độ phát triển thường kéo dài 2 tuần và còn là giai đoạn khủng hoảng của lợn con tập ăn sớm để bổ sung thức ăn cho lợn con trong giai đoạn này. Lê Văn Thọ (2007) [17], đã sử dụng kích tố kích thích quá trình tạo máu để duy trì và thúc đẩy quá trình phát triển của gia súc. Theo Đặng Minh Phước, Dương Thanh Liêm (2006) [15], bổ sung chế phẩm axit hữu cơ có thành phần axit lactic, formic, photphoric với tỷ lệ 0,3 - 0,5% vào thức ăn lợn con sau cai sữa ở giai đoạn 42 - 56 ngày tuổi đã có tác dụng cải thiện tăng khối lượng từ 4,75% - 10,29%. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng giảm từ 7,57% - 8,11%. Tỷ lệ tiêu chảy giảm từ 33,78% - 49,23% so với đối chứng.
  37. 28 Công ty Pig Việt Nam (1998) [16], đã khẳng định rằng: Dù cho lợn nái ăn tốt và nhiều sữa vẫn nên cho lợn con dùng cám tập ăn sớm để tăng khối lượng sau cai sữa, thêm vào đó giúp lợn con làm quen với cám khô sau khi cai sữa 3 - 4 tần tuổi, cho lợn con tập ăn sớm ở 7 ngày tuổi, dùng loại máng ăn nhỏ, nhẹ, dễ cọ rửa, cho lợn con ăn bằng cách rải một ít cám phía trước, tạo cho chúng niềm vui thích và mong muốn được ăn, không để máng ăn trực tiếp dưới bóng đèn sưởi và gần vòi uống. Cho lợn tập ăn 3 - 4 lần/ ngày, dần tăng lượng cám lên, cung cấp nước uống thường xuyên cho lợn con. Công ty Cargill tại Việt Nam (2003) [1], đưa ra lý do mà các nhà chăn nuôi cần phải cho lợn tập ăn sớm từ 7 - 10 ngày là: + Sau 21 ngày tiết sữa, lượng sữa mẹ bắt đầu giảm dần. Nên chỉ đáp ứng được 95% nhu cầu dinh dưỡng cho lợn con. + Cho lợn tập ăn sớm, thức ăn tập ăn sớm sẽ kích thích hệ tiêu hóa lợn con sớm phát triển. Điều đó giúp lợn con khi cai sữa sẽ ăn, tiêu hóa và hấp thu tốt thức ăn và làm giảm được sự hao hụt lợn mẹ. + Tránh được nguy cơ lợn mẹ bị yếu chân, bại liệt và giảm số con đẻ ở những lứa đẻ tiếp theo. + Rút ngắn được thời gian chờ phối của lợn nái, làm giảm chi phí thức ăn cho lợn nái trong thời gian này. + Tăng nhanh lứa đẻ, số lợn con thu được của một nái trên năm. 2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Sokol và cs (1981)[22], cho rằng, vi khuẩn E.coli cộng sinh có mặt thường trực trong đường ruột của người và động vật, trong quá trình sống vi khuẩn có khả năng tiếp nhận các yếu tố gây bệnh như: yếu tố bám dính (K88, K99), yếu tố dung huyết (Hly), yếu tố cạnh tranh (Colv), yếu tố kháng kháng sinh (R) và các độc tố đường ruột. Các yếu tố gây bệnh này không được di truyền qua DNA của chromosome mà được di truyền qua DNA nằm ngoài chromosome gọi là plasmid. Những yếu tố gây bệnh này đã giúp cho vi khuẩn E.coli bám dính vào
  38. 29 nhung mao ruột non, xâm nhập vào thành ruột, phát triển với số lượng lớn. Sau đó vi khuẩn thực hiện quá trình gây bệnh của mình bằng cách sản sinh độc tố, gây hội chứng tiêu chảy, phá huỷ tế bào niêm mạc ruột. Smith và cs (1967)[21], thông báo có 2 loại độc tố là thành phần chính của Enterotoxin được tìm thấy ở các vi khuẩn gây bệnh. Sự khác biệt của độc tố này là độc tố chịu nhiệt (Heat Stabletoxin - ST) chịu được nhiệt lớn hơn 1000C trong 15 phút, còn độc tố không chịu nhiệt (Heat labiletoxin - LH) bị vô hoạt ở nhiệt độ 600C trong 15 phút. Glawischning E. và cs (1992)[20], xác định Clostridium perfringens type A và type C là một trong những nguyên nhân gây tiêu chảy và đã gây thiệt hại kinh tế lớn cho người chăn nuôi. Akita và cs (1993)[19], đã nghiên cứu sản xuất kháng thể đặc hiệu qua lòng đỏ trứng gà dùng trong phòng và chữa bệnh tiêu chảy ở lợn con. Cùng với sự phân lập và nghiên cứu các yếu tố gây bệnh của E.coli, việc nghiên cứu và sản xuất các chế phẩm phòng tiêu chảy ở lợn cũng được các nhà khoa học trên thế giới đặc biệt quan tâm.
  39. 30 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN 3.1. Đối tượng và phạm vi tiến hành - Đối tượng: Lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi. - Phạm vi nghiên cứu: Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị các bệnh gặp tên đàn lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi. 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: trại Nhâm Xuân Tiến huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình - Thời gian: 17/11/2017 đến 25/05/2018 3.3. Nội dung thực hiện - Đánh giá tình hình chăn nuôi lợn tại trại Nhâm Xuân Tiến huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình trong 3 năm 2016-2018. - Thực hiện quy trình và đánh giá kết quả áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại. - Đánh giá kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại. - Đánh giá kết quả chẩn đoán và điều trị một số bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại. - Thực hiện một số công việc khác của trại. 3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi và một số công thức tính toán * Các chỉ tiêu theo dõi - Cơ cấu đàn lợn của trại trong 3 năm (2016-2018) - Số lượng lợn con trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trong 6 tháng thực tập - Công tác chăm sóc nuôi dưỡng lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi - Công tác phòng bệnh bằng vệ sinh thú y - Công tác phòng bệnh bằng vắc xin
  40. 31 - Tình hình mắc bệnh ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi - Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi - Kết quả thực hiện các công tác khác *Một số công thức tính toán các chỉ tiêu Tổng số con mắc bệnh (con) Tỷ lệ mắc bệnh ( %) = x 100 Tổng số con theo dõi (con) Tổng số con điều trị khỏi(con) Tỷ lệ mắc khỏi ( %) = x 100 Tổng số con mắc bệnh (con) 3.4.2. Phương pháp thực hiện 3.4.2.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, chúng tôi tến hành thu thập thông tin từ trại kết hợp với kết quả điều tra, theo dõi của bản thân. 3.4.2.2. Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại Chúng tôi sử dụng quy trình đang được áp dụng cho đàn lợn nuôi tại trại và theo dõi, đánh giá hiệu quả. + Hằng ngày trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh viên tất cả mọi người đều phải đi qua phòng sát trùng và tắm rửa sạch sẽ mặc quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. + Kiểm tra bóng đèn, quạt, lợn con, lợn nái khi nhận bàn giao ca giữa ca ngày với ca đêm. + Phun sát trùng vào đầu giờ chiều lúc 14 giờ (thuốc sát trùng Ommicide 2 lần/ngày với tỷ lệ 320ml/1000 lít nước). + Thu phân và rắc vôi hành lang, khu vực quanh chuồng. + Ghi chép số lợn vào sổ theo dõi vào cuối ngày. - Đối với nái chửa: + Đánh thức lợn dậy, cào phân tránh lợn nằm đè phân. + Vệ sinh máng ăn.
  41. 32 + Cho ăn cám GF08, giảm khẩu phần ăn. + Lau sàn nhựa, làm ổ úm lợn con sẵn. + Lau vú và tắm bằng chế phẩm sinh học. - Đối với lợn đẻ: + Đánh thức lợn dậy, cào phân tránh lợn nằm đè phân. + Vệ sinh máng ăn. + Đỡ đẻ cho lợn nái đang đẻ. + Lợn đang đẻ không cho ăn, sau đẻ tăng dần khẩu phần ăn. + Cho ăn cám GF08 và bổ sung thuốc bổ vào khẩu phần. + Lau vú và cọ mông lợn mẹ bằng chế phẩm sinh học. + Lau sàn ngày 2 lần sáng chiều. - Đối với lợn con theo mẹ: + Lợn con mới đẻ lau sạch nhớt, cho uống IgOne S ngay, cho vào úm. + Mài nanh, bấm đuôi, bấm số tai, tiêm sắt, nhỏ cầu trùng cho lợn con 1- 3 ngày tuổi. + Thiến cho lợn con 3-5 ngày tuổi. + Thay thảm ướt, bẩn vào đầu buổ sáng và chiều. + Tập ăn cho lợn con từ 3 ngày tuổi bằng cám trộn GF01 với Amox và điện giải. + Lau sàn 2 lần/ngày. + Ghép lợn con. 3.4.2.3. Chẩn đoán và điều trị bệnh gặp trên đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại Để xác định được tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con từ sơ sinh dến 21 ngày tuổi nuôi tại trại, hằng ngày cán bộ kỹ thuật tiến hành theo dõi, quan sát những biểu hiện của đàn lợn con thông qua các bước sau: * Kiểm tra tình trạng ăn uống bằng cách trực tiếp quan sát, theo dõi con vật hằng ngày.
  42. 33 - Trạng thái cơ thể bình thường: Con vật ăn uống bình thường, vận động nhanh nhẹn. - Trạng thái bệnh lý: Ăn uống giảm hoặc bỏ ăn, bỏ bú, kém vận động, nằm một chỗ. * Kiểm tra thân nhiệt: - Quan sát cảm nhận bằng tay: + Trạng thái bình thường: Toàn thân lợn con có màu trắng hồng bình thường không đỏ, lông mượt, dùng mu bàn tay sờ không thấy nóng. + Trạng thái bệnh lý: Toàn thân đỏ ửng, dùng mu bàn tay sờ thấy nóng ran, lợn con ủ rủ. - Đo thân nhiệt qua trực tràng bằng nhiệt kế 430C. + Trước khi đo nhiệt độ phải vẩy nhiệt kế cho cột thủy ngân tụt xuống hết thang độ. + Dùng bông tẩm cồn lau nhiệt kế trước và sau khi sử dụng. + Cho từ từ nhiệt kế vào trực tràng theo hướng hơi xiên xuống dưới để tránh niêm mạc bị tổn thương. + Để nhiệt kế ở trực tràng từ 5-10 phút, rồi lấy ra xem nhiệt độ trên thang nhiệt kế. + Trạng thái bình thường: Thân nhiệt bình thường, ổn định 38-400C. + Trạng thái bệnh lý hơi sốt hoặc sốt cao 41-420C. 3.4.3.Phương pháp xử lý số liệu - Số liệu thu thập được xử lý theo phương pháp thống kê sinh vật học và phần mềm Excel năm 2007.
  43. 34 PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại Nhâm Xuân Tiến huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình từ 2016-5/2018 Qua điều tra từ số liệu sổ sách theo dõi của trại thì cơ cấu đàn lợn nái của trại 3 năm gần đây được thể hiện ở bảng 4.1. Bảng 4.1: Cơ cấu đàn lợn của trại từ 2016-5/2018 Số lượng lợn (con) 2018 STT Loại lợn 2016 2017 (5 tháng đầu năm) 1 Lợn nái sinh sản 2400 2418 2425 2 Lợn nái hậu bị 250 245 250 3 Lợn đực giống 37 37 38 4 Lợn con 55823 60519 30678 5 Tổng số 58510 63219 33391 Từ bảng 4.1 cho thấy số lượng nuôi giữa các loại lợn của trại là rất khác nhau và có sự chênh lệch rõ rệt. Số lượng lợn con chiếm nhiều nhất và cũng tăng dần trong các năm. Trong đó 2016 là 55823con, 2017 la 60519 con và tới 5/2018 là 30678 con. Do trang trại tăng sản xuất lợn giống, nên cơ cấu của trại chủ yếu là lợn con. Số lượng lợn nái có xu hướng tăng lên, hậu bị là 250 năm 2018 nhằm thay thế cho lợn nái sinh sản không đủ tiêu chuẩn và loại thải. Từng lợn nái được theo dõi tỉ mỉ, các số liệu liên quan của từng nái như số tai, ngày phối giống, ngày đẻ dự kiến được ghi trên thẻ gắn tại chuồng nuôi. Số lượng lợn đực giống cũng tăng từ 37 lên 38 con năm 2018 là do số lợn nái tăng khiến nhu cầu về khai thác tinh dịch để phối giống cho lợn nái tăng, bên cạnh
  44. 35 đó là việc phải loại thải những con đực giống đã kém chất lượng khiến công ty phải cung cấp thêm lợn giống đực cho trại. 4.2. Kết quả áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại * Trong thời gian thực tập tôi đã trực tiếp chăm sóc đàn lợn, kết quả được trình bày ở bảng 4.2 4.2.1. Số lượng lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong 6 tháng thực tập Bảng 4.2: Số lượng lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng tại trại trong 6 tháng thực tập Tháng Số lượng lợn Lợn đực Lợn cái theo dõi theo dõi (con) (con) (con) 12-2017 586 286 300 1-2018 571 295 276 2-2018 592 387 205 3-2018 568 200 368 4-2018 533 352 181 5-2018 305 101 204 Tổng 3155 1621 1534 Qua bảng 4.2 cho thấy số lượng lợn con số lượng lợn con được sinh ra cao, đó cũng là nhờ có đội ngũ kĩ sư có năng lực trong việc phối giống và chăm sóc lợn nái bầu tốt. 4.2.2. Công tác chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn con trong 6 tháng thực tập Trong quá trình thực tập tại trại em đã tham gia nuôi dưỡng chăm sóc, quản lý đàn lợn con như sau: * Nuôi dưỡng, chăm sóc lợn con theo mẹ Mục đích của việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn con là đạt khối lượng cai sữa cao. Sau khi sinh ra, lợn con chịu sự thay đổi môi trường sống, vì vậy cần tạo điều kiện tốt nhất cho lợn con để tránh các yếu tố stress và giảm tỷ lệ chết lúc sơ sinh. Chuồng lợn đẻ phải ấm áp, sạch sẽ, khô ráo tránh gió lùa. + Ngay sau khi đẻ ra lợn được tiến hành cắt rốn, bấm nanh.
  45. 36 + Lợn con 2 - 3 ngày tuổi được cắt số tai, cắt đuôi, thiến lợn đực và tiêm sắt, cho uống thuốc phòng phân trắng lợn con và tiêu chảy. + Lợn con 3 - 4 ngày tuổi cho uống thuốc phòng cầu trùng. + Lợn con từ 4 - 6 ngày tuổi tập ăn cho lợn con. + Lợn con 7 ngày tuổi tiêm phòng Suyễn 1 + Glasser. + Lợn con 14 ngày tuổi tiêm phòng Suyễn 2 + Glasser. + Lợn con 21ngày tuổi tiêm phòng circo. + Lợn con 21 - 26 ngày tuổi tiến hành cai sữa cho lợn. +Lợn con 35 - 38 ngày tuổi tiêm phòng dịch tả + tai xanh. Thức ăn cho lợn con phải giàu đạm và năng lượng. Theo dõi thường xuyên để phát hiện bệnh và điều trị kịp thời, đặc biệt ở giai đoạn này lợn con thường hay mắc bệnh ỉa phân trắng. Chuồng trại phải được vệ sinh thường xuyên sạch sẽ. Chuồng nuôi đảm bảo luôn khô ráo, thoáng mát, tránh gió lùa và đảm bảo giữ ấm cho lợn con. 4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tập tại trại 4.3.1. Công tác vệ sinh phòng bệnh Vệ sinh phòng bệnh nhằm nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với việc vệ sinh thức ăn, nước uống, thiết bị chăn nuôi, dụng cụ chăn nuôi, sinh sản thì việc vệ sinh chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi luôn được cán bộ thú y và đội ngũ công nhân thực hiện chặt chẽ. Chuồng trại được thiết kế và xây dựng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Sau mỗi lứa lợn, chuồng trại đều được tẩy uế bằng phương pháp: Rửa sạch ô nhốt lợn, để khô sau đó phun thuốc khử trùng tiêu độc và để trống chuồng nuôi tối thiểu là 5 ngày mới đưa lứa lợn khác lên. Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ, chuồng được tiêu độc bằng
  46. 37 thuốc sát trùng Omicide mỗi ngày 2 lần, pha với tỷ lệ 320 ml thuốc sát trùng/1000 lít nước. Ở các chuồng đẻ sau khi cai sữa, lợn mẹ được chuyển lên chuồng nái chửa 1 (khu vực cai sữa). Sau khi xuất lợn con, các tấm đan chuồng này được tháo ra ngâm ở hố sát trùng bằng dung dịch NaOH 10%, ngâm trong 1 ngày, sau đó được cọ sạch, phơi khô. Khung chuồng cũng được cọ sạch, xịt bằng dung dịch NaOH pha với nồng độ loãng, sau đó xịt lại bằng dung dịch vôi xút. Gầm chuồng cũng được vệ sinh sạch sẽ, tiêu độc khử trùng kỹ sau đó rắc vôi bột. Để khô 1 ngày rồi tiến hành lắp tấm đan vào, sau đó đuổi lợn chờ đẻ từ chuồng nái chửa 2 xuống. Với lợn con tuyệt đối không tắm rửa để tránh nhiễm lạnh và ẩm ướt. Thường xuyên tiến hành vệ sinh môi trường xung quanh như dọn cỏ, phát quang bụi rậm, diệt chuột, gián, thu dọn phân hàng ngày ở các ô chuồng. Định kỳ tiêu độc ở các chuồng nuôi lợn nái, lợn đực làm việc bằng thuốc sát trùng. Lịch sát trùng được trình bày qua bảng 4.3. Bảng 4.3: Lịch sát trùng trại lợn nái Trong chuồng Ngoài khu Ngoài Thứ Chuồng nái Chuồng vực chăn Chuồng đẻ Chuồng chửa cách ly nuôi CN Phun sát trùng Phun sát trùng Phun sát Phun sát Thứ Quét hoặc rắc Phun sát trùng Phun sát trùng toàn bộ trùng toàn 2 vôi đường đi rắc vôi trùng khu vực bộ khu vực Thứ Phun sát Phun sát trùng + Quét hoặc rắc 3 trùng quét vôi đường đi vôi đường đi Thứ Xả vôi xút Phun sát trùng Rắc vôi Rắc vôi 4 gầm Thứ Phun sát trùng Phun thuốc Phun ghẻ 5 + Xả vôi, xút gầm ruồi Thứ Phun sát Phun sát trùng Phun sát Phun sát Phun sát trùng 6 trùng + Rắc vôi Trùng trùng Thứ Vệ sinh Vệ sinh tổng Vệ sinh Vệ sinh 7 tổng chuồng chuồng tổng chuồng tổng khu
  47. 38 Sau đây là kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực tập tại trại của em: Bảng 4.4: Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại Sốlượng Stt Công việc Kết quả Tỷ lệ(%) (lần) 1 Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 276 274 99,28 2 Phun sát trùng trong chuồng 178 175 98,31 3 Rắc vôi đường đi 201 201 100 4 Tắm sát trùng 183 183 100 Nhìn vào Bảng 4.4 cho thấy việc vệ sinh, sát trùng hàng ngày luôn được quan tâm và làm thường xuyên. Theo quy định của trại việc vệ sinh chuồng trại hàng ngày được thực hiện ít nhất 1 lần/ngày, và trong 6 tháng thực tập tại trại em đã thực hiện được 276 lần (trong đó 274 lần đạt yêu cầu tỷ lệ là 99,28%, còn 2 lần không đạt phải thực hiện lại là trong thời gian đầu chưa quen công việc nên còn thiếu sót trong công việc). Phun sát trùng trong chuồng 178 lần (đạt yêu cầu 175 lần tỷ lệ 98,31%, con 2 lần phun sát trùng không hiệu quả do luân chuyển công việc nên chưa nắm vững yêu cầu kỹ thuật). Rắc vôi đường đi và đường tra cám 201 lần, tắm sát trùng 183 lần đều đạt 100%. Ngoài ra tôi còn tham gia quét vôi đường đi vào các chuồng, đường xuấ bán và nhập lợn 2 lần. Qua đó, tôi đã biết được cách thực hiện vệ sinh, sát trùng trong chăn nuôi như thế nào cho hợp lý nhằm hạn chế được dịch bệnh cũng như nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi. 4.3.2. Phòng bệnh bằng vắc xin Ngoài việc phòng bệnh bằng công tác vệ sinh thú y, trại còn chủ động tiêm phòng vắc xin cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi để tạo miễn dịch chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh, tăng sức đề kháng cho cơ thể.
  48. 39 Quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lợn con theo mẹ của trang trại được thực hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn con theo mẹ nhằm tạo ra trong cơ thể chúng miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh, việc tiêm phòng vắc xin là một việc làm bắt buộc. Tiêm vắc xin cho đàn lợn con theo mẹ sẽ tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động trong cơ thể chúng để chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh (vi rút, vi khuẩn), tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Nhận thức rõ vấn đề này, trại luôn luôn thực hiện quy trình tiêm phòng vắc xin thường xuyên, nghiêm túc nhằm ngăn chặn dịch bệnh. Thời gian tổ chức tiêm phòng thường vào buổi sáng khi thời tiết mát mẻ. Công tác chuẩn bị và tiêm phòng được thực hiện một cách nghiêm túc, cẩn thận. Trong thời gian thực tập, tôi đã cùng cán bộ kỹ thuật của trại tiến hành tiêm phòng cho đàn lợn con theo mẹ đúng quy định. Kết quả được trình bày qua bảng 4.5. Bảng 4.5: Kết quả tiêm phòng vắc xin cho lợn con theo mẹ Tổng số Số lợn được Tỷ lệ STT Ngày tuổi lợn theo Vắc xin phòng (con) (%) dõi (con) 1 21 Myco FLEX 3155 3155 100 2 21 Myco FLEX 3155 3155 100 Kết quả bảng 4.5 cho thấy, trong thời gian thực tập số lợn con giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi được tiêm circo, 100% số lợn con theo dõi đều được phòng bệnh theo đúng quy trình. Qúa trình sử dụng vắc xin phòng bệnh cho 3155 lợn con đều an toàn.
  49. 40 4.4. Kết quả chẩn đoán và điều trị một số bệnh cho lợn con giai đọan từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tập 4.4.1. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi * Trong thời gian thực tập chúng tôi đã tiến hành theo dõi chẩn đoán bệnh cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi. Kết quả được trình bày ở bảng 4.6. Bảng 4.6: Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con nuôi tại trại Số lợn con Số lợn con Tỷ lệ STT Tên bệnh theo dõi (con) mắc bệnh (con) (%) 1 Phân trắng lợn con 3155 411 13,02 2 Viêm khớp 3155 316 10,01 3 Viêm phổi 3155 127 4,02 4 Tính chung 3155 854 27,07 Qua bảng 4.6 cho thấy tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại ở mức độ thấp. Qua kết quả theo dõi 3155 con thì có 854 con mắc bệnh chiếm tỷ lệ 27,07%. Trong đó : - Bệnh phân trắng lợn con kết quả theo dõi 3155 con thì có 411 con mắc bệnh chiếm tỷ lệ 13,02%. - Đối với bệnh viêm khớp kết quả theo dõi 3155 con thì có 316 con mắc bệnh chiếm tỷ lệ 10,01%. - Đối với bệnh viêm phổi số con theo dõi là 3155 con thì có 127 con mắc bệnh chiếm tỷ lệ 4,02%. Như vậy trong 3 bệnh mà đàn lợn con bị mắc, tôi thấy bệnh phân trắng lợn con có tỷ lệ mắc cao nhất. Sở dĩ tỷ lệ lợn con mắc bệnh phân trắng cao hơn các bệnh khác là do khâu hộ lý sau khi lợn sinh chưa tốt, công nhân chưa có kinh nghiệm trong chăm sóc lợn con, lợn mẹ trước và sau khi sinh chưa được tốt, bên cạnh đó thời
  50. 41 tiết thay đổi cũng ảnh hưởng rất lớn đến sức đề kháng của lợn con.Theo Trần Đức Hạnh (2013) [7], lợn con ở một số tỉnh phía Bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84 % và 5,37 %, tỷ lệ mắc tiêu chảy và chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21- 40 ngày (30,97 % và 4,93 %) và giảm ở giai đoạn từ 41- 60 ngày (30,27 % và 4,75 %). Như vậy kết quả theo dõi về tỷ lệ mắc bệnh phân trắng của tôi là 13,00% phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả. Bệnh viêm khớp cũng xảy ra nhưng với tỷ lệ thấp hơn so với bệnh phân trắng lợn con chiếm 10,01%. Bệnh này được điều trị kịp thời thì kết quả khỏi bệnh rất cao. Nhưng nếu bệnh không được điều trị sớm sẽ trở nên trầm trọng làm ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng và phát triển của lợn con.Lợn con mắc bệnh viêm khớp là 316 con chiếm 10,01%. Do vệ sinh chuồng trại kém, khung chuồng sàn chuồng không tốt gây tổn thương, do heo mẹ ít sữa heo con phải tranh bú, do nhiệt độ chuồng lạnh, heo con nhiễm vi khuẩn Steptococcus hoặc Staphylococcus, M.hyohinis. Bệnh viêm phổi hàng năm vẫn xảy ra nhưng với tỷ lệ rất thấp. Tỷ lệ mắc bệnh ở lợn con theo mẹ thấp chủ yếu là do chế độ chăm sóc và vệ sinh thú y tốt hơn, lợn con ít bị tiếp xúc trực tiếp với mầm bệnh xâm nhập từ ngoài vào qua nhập lợn nhiểm khuẩn. Bên cạnh đó trại đã thực hiện đầy đủ và nghiêm túc lịch tiêm phòng bệnh bị Mycoplasma cho lợn con.Bệnh viêm phổi lợn con chủ yếu do nhiệt độ úm, nhiệt độ chuồng nuôi không tốt để lạnh, do bị gió lùa liên tục trực tiếp vào lợn con, chuồng nuôi thiếu thông thoáng hàm lượng khí amoniac quá cao, do lợn con bú sữa đầu kém, do lợn mẹ sữa mẹ không có kháng thể phòng bệnh liên quan đến hội chứng hô hấp, do mầm bệnh nhập vào theo lợn đực giống, hoặc do công nhân không chủ động đưa lợn vào quây úm Trong quá trình chẩn đoán bệnh trên đàn lợn, chúng tôi đã chú ý quan sát những triệu chứng lâm sàng của những lợn mắc bệnh từ đó phân tích, trao đổi
  51. 42 để đưa ra kết luận về nguyên nhân mắc bệnh. Các triệu chứng lâm sàng chính của một số bệnh trên đàn lợn tại trang trại được tổng hợp ở bảng 4.7. Bảng 4.7: Triệu chứng chủ yếu của một số bệnh Số lợn Số lợn con Loại con Tỷ lệ Triệu chứng điển hình có triệu bệnh mắc (%) chứng(con) bệnh (con) Phân trắng Ủ rũ, kém ăn, ỉa chảy phân lỏng, màu trắng 411 411 100 lợn có mùi hôi tanh, khắm, gầy sút nhanh. con Lợn con 3 đến 4 ngày tuổi đi khập khiễng, khớp chân sưng lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh, tử vong thường xảy ra lúc 2 đến 5 tuần Bệnh tuổi. Thường thấy xảy ra ở các vị trí như cổ viêm 316 316 100 chân, khớp háng và khớp bàn chân. khớp Lợn ăn ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ, sưng, sờ nắn có phản xạ đau. Lợn con còi cọc chậm lớn, lông xù, hở xương sống, khi thở hóp bụng lại. Bình Bệnh thường nghỉ ngơi lợn không ho, chỉ khi bị xua viêm 127 127 100 đuổi lợn mới ho hoặc ho vào lúc sáng sớm phổi hay chiều tối, nhiệt độ cơ thể bình thường hoặc tăng nhẹ.
  52. 43 Kết quả bảng 4.7 cho thấy: Trong tổng số 411 lợn con mắc bệnh phân trắng, 316 lợn con mắc bệnh viêm khớp và 127 lợn con mắc bệnh viêm phổi thì 100% số lợn con có triệu chứng mắc bệnh. 4.4.2. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đọan từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại trong thời gian thực tập Chúng tôi đã tiến hành điều trị cho những lợn con bị mắc bệnh trong thời gian thực tập. Kết quả được trình bày ở bảng 4.8. Bảng 4.8: Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tại trại Số con Cách dùng Số con điều Tỷ lệ STT Tên bệnh Thuốc khỏi trị (%) Liều lượng (con) (con) 1ml/kgTT, tiêm Phân trắng Paxxcell 411 398 96,84 bắp 1 lợn con Bệnh viêm Pendistrep LA 1ml/kgTT, tiêm 316 262 82,91 2 khớp bắp Bệnh viêm 1ml/kgTT, tiêm 3 Tylogenta 127 120 94,49 phổi bắp Bảng 4.8 cho thấy: Kết quả điều trị 411 con lợn con mắc bệnh phân trắng thì có 398 con khỏi đạt tỷ lệ 96,84 %; Điều trị bệnh viêm khớp 316 con thì có 262 con khỏi bệnh đạt tỷ lệ 82,91 %; Điều trị 127 con mắc bệnh viêm phổi thì có 120 con khỏi bệnh chiếm 94,49 %. Như vậy, kết quả điều trị một số bệnh cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi đạt khá cao từ 82,91 % đến 96,84 %. Trong đó bệnh phân trắng lợn con đạt kết quả cao nhất 96,84% và thấp nhất là bệnh viêm khớp đạt 82,91%.
  53. 44 4.5. Kết quả thực hiện một số công việc khác trong thời gian thực tập  Công tác giống Trong thời gian thực tập tôi đã cùng cán bộ kỹ thuật của trại tiến hành chọn lọc, lập hồ sơ theo dõi từng cá thể lợn nái với các chỉ tiêu như: Số lứa đẻ, số con sinh ra và số con nuôi trong mỗi lứa, số con cai sữa và số ngày nuôi con của từng con nái qua đó lựa chọn những con nái tốt nhất để sản xuất. Đồng thời dựa vào kết quả theo dõi qua nhiều lứa đẻ để tiến hành loại bỏ những lợn nái trong các trường hợp như: Phối giống 3 lần liên tiếp không thụ thai, số con trong lứa đẻ ít, tỷ lệ lợn con sơ sinh chết, dị tật cao, nái đẻ đạt 8 lứa, nái bị liệt  Công tác chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn Trong quá trình thực tập tại trang trại, tôi đã thực hiện quy trình chăm sóc lợn nái chửa, nái đẻ, tham gia đỡ đẻ, chăm sóc lợn con theo mẹ đến cai sữa; trực tiếp vệ sinh, chăm sóc, theo dõi đàn lợn thí nghiệm. - Đối với nái chửa: Lợn nái chửa được nuôi chủ yếu ở chuồng bầu 1 và bầu 2. Hàng ngày vào kiểm tra lợn để phát hiện lợn phối không đạt, lợn nái bị sảy thai, lợn mang thai giả, vệ sinh, dọn phân không để cho lợn nằm đè lên phân, lấy thức ăn cho lợn ăn, rửa máng, phun thuốc sát trùng hàng ngày, xịt gầm, cuối giờ chiều chở phân ra khu xử lý phân. Lợn nái chửa được ăn loại thức ăn 566SF với khẩu phần ăn tùy theo tuần chửa, thể trạng, lứa đẻ cụ thể: Đối với nái chửa từ tuần 1 đến tuần 12 ăn thức ăn 567SF với tiêu chuẩn 2kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày. Đối với nái chửa từ tuần 13 đến tuần 14 ăn thức ăn567SF với tỷ lệ 1:2, tiêu chuẩn 3 - 3,5kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày. Đối với nái chửa từ tuần 15 trở đi được ăn thức ăn 567SF với tỷ lệ 1:1, tiêu chuẩn 3 - 3,5kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày. - Đối với nái đẻ:
  54. 45 Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp, sát trùng và cọ, rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu chuẩn ăn 3kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng, chiều. Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 3 ngày, ăn thức ăn 567SF với tiêu chuẩn ăn xuống 1,5kg/con/bữa. Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn 567SF từ 0,5 - 1 kg/con/ngày chia làm hai bữa sáng, chiều. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc nuôi nhiều con có thể cho ăn tăng lượng thức ăn lên 2 kg/con/ngày - Chăm sóc nuôi dưỡng lợn con sau cai sữa Hàng ngày cho lợn ăn, vệ sinh sạch sẽ Đối với lợn con sau cai sữa sử dụng thức ăn 550SF. Lợn được nuôi chuồng trệt nền bê tông, nuôi đến 5-6 kg thì xuất đi các trại khác để nuôi hậu bị. Ở giai đoạn này, do thay đổi điều kiện chuồng trại, thức ăn nhiều lần nên lợn thường hay mắc bệnh đường tiêu hóa. Do vậy, cần theo dõi chăm sóc lợn cẩn thận. - Chăm sóc nuôi dưỡng lợn hậu bị nhập về Lợn con từ 30kg thì được chuyển về chuồng cách ly nuôi hậu bị. Thức ăn sử dụng cho lợn thịt là thức ăn 567SF. Chăm sóc lợn hậu bị tuy không đòi hỏi quá khắt khe như chăm sóc lợn con và lợn nái, song trong điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng phát triển của lợn và phải cách ly đề phòng dịch bệnh.  Công tác khác Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại ngoài việc thực hiện chuyên đề nghiên cứu khoa học, chúng tôi còn tham gia một số công việc khác. Kết quả được trình bày ở bảng 4.9.
  55. 46 Bảng 4.9: Kết quả thực hiện những công việc khác trong thời gian thực tập Số lượng Kết quả (an toàn/khỏi) STT Nội dung công việc (con) Số lượng (con) Tỷ lệ (%) 1. Tiêm phòng vắc xin cho lợn con An toàn 1.1 Myco FLEX 3155 3155 100 1.2 Myco FLEX 3155 3155 100 3. Điều trị bệnh cho lợn con sau cai Khỏi sữa 3.1 Bệnh tiêu chảy lợn con 4000 3900 97,5 3.2 Bệnh viêm phổi 4500 4350 96,6 4. Công tác khác An toàn 4.1 Đỡ đẻ cho lợn 175 175 100 4.2 Xuất lợn con 10000 10000 100 Từ kết quả bảng 4.9 cho thấy: thiến lợn đực là 175 con an toàn 100%, xuất lợn con là 10000 con, điều trị lợn bị tiêu chảy sau cai sữa là 4000 con khỏi 3900 con đạt tỷ lệ 97,5 %, điều trị lợn bị viên phổi sau cai sữa là 4500 con khỏi 4350 con đạt tỷ lệ 96,6 % .
  56. 47 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận - Đàn lợn con giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại Nhâm Xuân Tiến huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình được tiêm phòng đầy đủ, đạt tỷ lệ 100%. - Kết quả chẩn đoán bệnh cho thấy, lợn con ở giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi lợn chủ yếu mắc bệnh viêm phổi 4,02%, bệnh phân trắng lợn con chiếm 13,02%, bệnh viêm khớp 10,01%. - Sử dụng phác đồ điều trị bệnh viêm khớp cho lợn, thuốc Pendistrep LA, tỷ lệ khỏi bệnh là 82,91%. - Dùng paxcell điều trị bệnh phân trắng lợn con, kết quả khỏi 96,84%. -Sử dụng phác đồ điều trị bệnh viêm phổi cho lợn, thuốc Tylogenta,tỷ lệ khỏi bệnh là 94,49 %. - Kết quả thực hiện các công việc khác như tiêm phòng vắc xin cho lợn nái đạt hiệu quả an toàn 100%; Trường hợp phải dùng tay để moi phải kéo theo cơn dặn của lợn mẹ. 5.2. Đề nghị - Cán bộ kỹ thuật viên trong trại cần hướng dẫn chu đáo hơn cho công nhân cách phát hiện lợn ốm kịp thời. - Tiếp tục áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. - Công tác tiêm phòng và vệ sinh phòng bệnh cần thực hiện tốt hơn nữa. - Nhà trường và khoa tiếp tục cử sinh viên xuống các trang trại thực tâp tốt nghiệp để nâng cao kỹ năng nghề cho sinh viên.
  57. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu trong nước 1. Công ty Cargill tại Việt Nam (2003), Sổ tay kỹ thuật chăn nuôi lợn, Sách tham khảo, lưu hành nội bộ. 2. Trần Cừ, Cù Xuân Dần, (1996), Giáo trình sinh lý học gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Trần Cừ (1992), Cơ sở sinh lý nuôi dưỡng lợn con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Trần Thị Dân (2008), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp, TP Hồ Chí Minh. 5. Đoàn Thị Kim Dung (2004), Sự biến động của một số vi khuẩn hiếu khí đường ruột, vai trò của E.coli trong hội chứng tiêu chảy của lợn con, các phác đồ điều trị, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E. Coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện pháp phòng trị, Luận văn thạc sĩ khoa học Nông nghiệp. 7. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn tại 3 tỉnh phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp. 8. Duy Hùng (2011), “Bệnh viêm vú ở lợn nái”,Báo nông nghiệp Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Lộc (1998), Stress trong đời sống con người và vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Phạm Sĩ Lăng, Nguyễn Bá Hiên ( 2013), Bệnh của lợn tại Việt Nam, trang 151, Nxb Nông nghiêp, Hà Nội. 12. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
  58. 13. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Giáo trình bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 14. Trần Văn Phùng, Hà Thị Hảo, Trần Thanh Vân, Từ Quang Hiển (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội. 15. Đặng Minh Phước, Dương Thanh Liêm (2006), “Nghiên cứu sử dụng axit hữu cơ bổ sung vào thức ăn để kích thích tăng trưởng và phòng bệnh lợn con tiêu chảy trên lợn con sau cai sữa”, Tạp chí khoa học chăn nuôi số 10. 16. Công ty Pig Việt Nam (1998), Kỹ thuật chăn nuôi lợn, Sách tham khảo, lưu hành nội bộ. 17. Lê Văn Thọ (2007), Một số bệnh truyền nhiễm thường gặp ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Lao Động Xã Hội. 18. Vũ Đình Tôn, Trần Thị Thuận (2006), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. II. Tài liệu nước ngoài 19. Akita và Cs (1993), “Comparison of four purification methols for the production of immunoglobulins from eggs laid by hens immunological methols”, Vet 160(1993), P.207 - 214. 20. Glawisching E và cs (1992). The Efficacy ofE costat on E. Coliinfected weaning pigg, 12th IPVS Congress, August. 21. Smith và Cs (1976). “Observations by the ligated segment and oral inoculation methods on Escherichia coli infections in pigs, calves, lamb and rabbits”. Journal of Pathology and Bacteriology 93, 499. 22. Soko và Cs (9/1981). Neonatal coli - infecie laboratoriana diagnostina a prevencia UOLV - Kosice.
  59. MỘT SỐ THUỐC DÙNG TRONG ĐIỀU TRỊ
  60. MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC TẬP TẠI TRẠI Hình 1 : Lợn con chết do tiêu chảy Hình 2 : Lợn con bị tiêu chảy Hình 3 : Đi xuất lợn