Đồ án Quy trình trồng nấm bào ngư xám trên bã cà phê phối trộn với mạt cưa

pdf 103 trang thiennha21 12/04/2022 5850
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đồ án Quy trình trồng nấm bào ngư xám trên bã cà phê phối trộn với mạt cưa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdo_an_quy_trinh_trong_nam_bao_ngu_xam_tren_ba_ca_phe_phoi_tr.pdf

Nội dung text: Đồ án Quy trình trồng nấm bào ngư xám trên bã cà phê phối trộn với mạt cưa

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN VỚI MẠT CƯA Ngành: CÔNG NGHỆ SINH HỌC Chuyên ngành: CÔNG NGHỆ SINH HỌC Giảng viên hướng dẫn : GVC.ThS. Nguyễn Thị Sáu Sinh viên thực hiện : Trương Hoàng Thủy Tiên MSSV: 1151110037 Lớp: 11DSH01 TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2015
  2. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, toàn bộ số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, đầy đủ, rõ nguồn gốc và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn. Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng bảo vệ luận văn, trước khoa và Nhà trường về các thông tin, số liệu trong đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn! TP.Hồ Chí Minh, ngày tháng năm Người thực hiện Trương Hoàng Thủy Tiên
  3. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành bài luận văn này ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, bạn bè và người thân đã giúp đỡ và tạo điều kiện trong suốt quá trình học tập. Tôi cũng xin cảm ơn ban chủ nhiệm khoa Công nghệ sinh học – Thực phẩm – Môi trường, các thầy cô trong bộ môn Công nghệ sinh học, Đại học Công Nghệ Tp. Hồ Chí Minh đã trang bị cho tôi những kiến thức cơ bản, làm nền móng để tôi thực hiện đề tài này và làm tốt công việc sau này. Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến GVC.ThS. Nguyễn Thị Sáu người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến Bác Phan Văn Yết – chủ trại nấm Bảy Yết cùng các cô chú tại trại nấm đã cho tôi được thực tập và đã hướng dẫn hết sức tận tình để tôi được hoàn thành những công việc trong thời gian thực tập. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ, quan tâm, động viên giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn! TP.Hồ Chí Minh, ngày tháng năm Người thực hiện Trương Hoàng Thủy Tiên
  4. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG vi DANH MỤC ĐỒ THỊ vii DANH MỤC HÌNH viii CHƯƠNG 1: LỜI MỞ ĐẦU 1 Lý do chọn đề tài 1 Mục đích nghiên cứu 2 Đối tượng nghiên cứu 2 Phạm vi nghiên cứu 2 Nhiệm vụ nghiên cứu 2 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Giới thiệu về nấm bào ngư xám 3 2.1.1. Đặc điểm tổng quát 3 2.1.2. Phân loại 4 2.1.3. Đặc điểm sinh học của nấm bào ngư xám 4 2.1.3.1. Hình thái 5 2.1.3.2. Chu trình sống của nấm bào ngư 5 2.1.3.3. Các giai đoạn phát triển quả thể nấm bào ngư 6 2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của nấm bào ngư 7 2.1.4.1. Độ ẩm 7 2.1.4.2. Nhiệt độ 8 2.1.4.3. Độ pH 9 2.1.4.4. Ánh sáng 9 2.1.4.5. Không khí 9 2.1.4.6. Nguồn dinh dưỡng nitơ 10 2.1.4.7. Khoáng chất và vitamin 10 2.2. Nhu cầu dinh dưỡng của nấm bào ngư xám 10 i
  5. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 2.3. Giá trị của nấm bào ngư xám 12 2.3.1. Giá trị dinh dưỡng của nấm bào ngư xám 12 2.3.2. Giá trị dược liệu của nấm bào ngư 13 2.4. Một số điều cần lưu ý khi trồng nấm bào ngư 14 2.4.1. Nấm bào ngư rất nhạy cảm với môi trường 14 2.4.2. Dịch bệnh gây hại nấm 15 2.4.3. Dị ứng do bào tử nấm bào ngư 16 2.5. Tình hình nghiên cứu, sản xuất nấm ăn trên thế giới và tại Việt Nam 16 2.5.1. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ nấm trên thế giới 16 2.5.2. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ nấm tại Việt Nam 18 2.5.3. Tình hình sản xuất nấm và một số mô hình trồng nấm có hiệu quả. 19 2.6. Tổng quan về cơ chất trồng nấm bào ngư xám 19 2.6.1. Giới thiệu về bã cà phê: 19 2.6.2. Thành phần hóa học của bã cà phê 20 2.6.3. Mạt cưa là phế liệu nông nghiệp và những vấn đề phát sinh về môi trường 23 2.6.4. Thành phần có trong mạt cưa 24 2.6.4.1. Cellulose 24 2.6.4.2. Lignin 25 2.6.4.3. Hemicelluloses 26 2.6.4.4. Lignin-cellulose tự nhiên 27 2.6.5. Các nghiên cứu về việc trồng nấm bào ngư trên bã cà phê 27 CHƯƠNG 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31 3.1. Vật liệu nghiên cứu 31 3.1.1. Vật liệu thí nghiệm 31 3.1.2. Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm 31 3.2. Phương pháp nghiên cứu 32 3.2.1. Quy trình nuôi trồng nấm bào ngư xám trên cơ chất bã cà phê phối trộn mạt cưa 32 3.2.1.1. Xử lý nguyên liệu 33 ii
  6. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA ❖ Đối với cơ chất bã cà phê 33 ❖ Đối với cơ chất mạt cưa cao su 36 3.2.1.2. Vào bịch 40 3.2.1.3. Hấp khử trùng 41 3.2.1.4. Cấy giống và nuôi sợi bịch phôi 43 3.2.1.5. Chăm sóc và thu hái nấm 47 3.2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 51 3.2.3. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu 52 3.2.3.1. Phương pháp xác định tốc độ lan tơ của nấm 52 3.2.3.2. Khảo sát sự nhiễm bịch phôi 52 3.2.3.3. Phương pháp tính hiệu suất sinh học 53 3.2.4. Phương Pháp xử lý số liệu 53 CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 54 4.1. Kết quả 54 4.1.1. Nghiên cứu tốc độ lan tơ của các nghiệm thức 54 4.1.1.1. Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa đến tốc độ sinh trưởng và phát triển của hệ sợi tơ nấm bào ngư xám. 54 4.1.1.2. Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa đến tỷ lệ nhiễm và sinh trưởng của hệ sợi tơ nấm bào ngư xám. 67 4.1.1.3. Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa đến thời gian sinh trưởng và phát triển nấm bào ngư xám 69 4.1.2. Năng suất và hiệu quả việc sử dụng bã cà phê nuôi trồng nấm 70 4.1.2.1. Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa đến trọng lượng và năng suất của nấm bào ngư xám 70 4.1.2.2. Hiệu suất sinh học của nấm bào ngư xám trên các môi trường cơ chất 71 4.2. Thảo luận 77 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 79 5.1. Kết luận 79 5.2. Kiến nghị 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO iii
  7. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA PHỤ LỤC iv
  8. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA CHỮ VIẾT TẮT P.sajor-caju : Pleurotus sajor-caju P.florida : Pleurotus florida P.ostreatus : Pleurotus ostreatus P.pulmonarius : Pleurotus pulmonarius P.abolonus : Pleurotus abolonus P.cystidiosus : Pleurotus cystidiosus P.blaoensis : Pleurotus blaoensis P.cortinatus : Pleurotus cortinatus P.tuber-regium : Pleurotus tuber-regium P.flabellatus : Pleurotus flabellatus P.floridanus : Pleurotus floridanus Pleurotu.ssp : Pleurotus special plural PE : Polyetylen PP : Polypropylen DAP : Diamino phosphate NT : Nghiệm thức v
  9. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1:Độ ẩm thích hợp cho sự phát triển của một số loại nấm bào ngư 8 Bảng 2.2: Nhiệt độ thích hợp cho ủ tơ và ra quả thể của một số nấm bào ngư 8 Bảng2.3: Nguồn đạm thích hợp nhất cho sự tăng trưởng của bào ngư theo các tác giả khác nhau 11 Bảng 2.4: Thành phần dinh dưỡng của nấm bào ngư (%) 13 Bảng 2.5: Thành phần một số Vitamin trong nấm bào ngư 14 Bảng 4.1: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 100% bã cà phê 54 Bảng 4.2: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 70% bã cà phê, 30% mạt cưa 56 Bảng 4.3: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 50% bã cà phê, 50% mạt cưa 59 Bảng 4.4: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 30% bã cà phê, 70% mạt cưa 61 Bảng 4.5: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 0% bã cà phê 63 Bảng 4.6: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên các môi trường cơ chất 65 Bảng 4.7: Tỷ lệ nhiễm, sinh trưởng và hình thái của tơ nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 67 Bảng 4.8: Thời gian sinh trưởng và phát triển nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 69 Bảng 4.9: So sánh trọng lượng và năng suất của nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 70 Bảng 4.10: Bảng dự trù kinh phí khi sử dụng 100% bã cà phê làm cơ chất 71 Bảng 4.11: Bảng dự trù kinh phí khi sử dụng 70% bã cà phê làm cơ chất 72 Bảng 4.12: Bảng dự trù kinh phí khi sử dụng 50% bã cà phê làm cơ chất 73 Bảng 4.13: Bảng dự trù kinh phí khi sử dụng 30% bã cà phê làm cơ chất 74 Bảng 4.14: Bảng dự trù kinh phí khi sử dụng 0% bã cà phê làm cơ chất 75 vi
  10. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA DANH MỤC ĐỒ THỊ Biểu đồ 4.1: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 100% bã cà phê 55 Biểu đồ 4.2: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 70% bã cà phê 58 Biểu đồ 4.3: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 50% bã cà phê 60 Biểu đồ 4.4: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 30% bã cà phê 62 Biểu đồ 4.5: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 0% bã cà phê 64 Biểu đồ 4.6: Độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 65 Biểu đồ 4.7: Biểu đồ so sánh hiệu suất sinh học trên các môi trường cơ chất 76 vii
  11. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA DANH MỤC HÌNH Hình 2.1: Nấm bào ngư xám (Pleurotus sajor-caju) 4 Hình 2.2: Chu trình sống của nấm bào ngư 6 Hình 2.3: Các giai đoạn phát triển quả thể nấm bào ngư 6 Hình 2.4: Bệnh mốc xanh 15 Hình 2.5: Nấm lạ 16 Hình 2.6: Cấu trúc phân tử cellulose 24 Hình 2.7: Cấu trúc phân tử lignin 26 Hình 3.1: Bã cà phê được ngâm trong vôi 1% 33 Hình 3.2: Phơi bã cà phê 33 Hình 3.3: Bã cà phê chưa xử lý 34 Hình 3.4: Tưới nước vôi cho bã cà phê 34 Hình 3.5: Trộn đều bã cà phê 35 Hình 3.6: Kiểm tra ẩm độ của bã cà phê 35 Hình 3.7: Sàn lọc bã cà phê 36 Hình 3.8: Bã cà phê đem ủ 36 Hình 3.9: Mạt cưa chưa xử lý 37 Hình 3.10: Tưới nước vôi cho mạt cưa 37 Hình 3.11: Trộn đều mạt cưa 38 Hình 3.12: Kiểm tra độ ẩm của mạt cưa 38 Hình 3.13: Sàn lọc mạt cưa 39 Hình 3.14: Mạt cưa đem ủ 39 Hình 3.15: Bã cà phê sau khi ủ được trộn với cám bắp 40 Hình 3.16: Tưới phân DAP lên bã cà phê và mạt cưa 40 Hình 3.17: Phối trộn các tỷ lệ và đóng bịch 41 Hình 3.18: Tạo lỗ ở giữa bịch phôi 41 Hình 3.19: Bịch phôi được đưa vào hấp 42 Hình 3.20: Hấp bịch phôi 42 Hình 3.21: Bịch phôi đã hấp xong và đem để nguội 43 viii
  12. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.22: Dụng cụ cấy và chai giống 43 Hình 3.23: Tiến hành cấy giống 44 Hình 3.24: Xếp các bịch phôi lên kệ 44 Hình 3.25: Tốc độ lan tơ nấm trên NT1 45 Hình 3.26: Tốc độ lan tơ nấm trên NT2 45 Hình 3.27: Tốc độ lan tơ nấm trên NT3 46 Hình 3.28: Tốc độ lan tơ nấm trên NT4 46 Hình 3.29: Tốc độ lan tơ nấm trên NT5 46 Hình 3.30: Tơ nấm đã ăn kín bịch phôi 47 Hình 3.31: Tưới đón nấm 48 Hình 3.32: Nấm mới hình thành quả thể 49 Hình 3.33: Thu hái nấm 50 ix
  13. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA CHƯƠNG 1: LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Ngành sản xuất nấm ăn đã hình thành và phát triển trên thế giới hàng trăm năm nay, là một trong những sản phẩm nông nghiệp được đánh giá cao trên thế giới. Ở nhiều nước, sản xuất và chế biến nấm đã phát triển thành một nghề có trình độ cao theo phương thức công nghiệp. Nấm không phải là thực vật, cũng không phải là động vật mà nấm đã được xếp vào một giới riêng, có nhiều loài rất đa dạng với nhiều hình dáng màu sắc và chủng loại. Cho đến nay việc nghiên cứu cũng như tuyển chọn các loại nấm ăn, nấm dược liệu trong và ngoài nước đã đạt những thành tựu đáng kể. Nấm bào ngư là loại nấm ăn, có giá trị dinh dưỡng cao, hàm lượng protein chiếm khoảng 25%, đặc biệt có chứa hơn 18 loại acid amin, ngoài ra còn có carbohydrate, nhiều vitamin và các khoáng chất khác. Sử dụng nấm không những không tăng cân mà còn ngăn ngừa một số bệnh như: giảm cholesterol trong máu, tiểu đường, béo phì, đau bao tử, rối loạn gan, ung thư, v.v , đồng thời người ăn nấm thường xuyên sẽ giúp có thể tăng tính miễn dịch, điều hòa huyết áp, dễ tiêu hóa và chống lão hóa. Hiện nay, ở nước ta nấm bào ngư thường chủ yếu được nuôi trồng trên các nguyên liệu phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, mạt cưa, bã mía, bông phế loại . riêng trồng trên nguyên liệu bã cà phê ít sử dụng trong sản xuất nấm. Xuất phát từ thực tế tôi thực hiện đề tài :“Quy trình trồng nấm bào ngư xám trên cơ chất bã cà phê phối trộn với mạt cưa”. Nhằm tận dụng nguồn nguyên liệu rẽ tiền, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đồng thời sử dụng tạo ra sản phẩm thực phẩm có giá trị đáp ứng nhu cầu cho con người. 1
  14. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu quy trình nuôi trồng nấm bào ngư xám trên cơ chất bã cà phê phối trộn mạt cưa cao su. - Khảo sát tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa nhằm đưa ra tỷ lệ thích hợp nhất cho nấm bào ngư xám nuôi trồng phát triển tối ưu nhất, sản phẩm nấm thu được đạt chất lượng và năng suất cao nhất . - Chuyển hóa cơ chất bã cà phê thành cơ chất dinh dưỡng để nuôi trồng nấm bào ngư xám. - Góp phần giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do bã cà phê thải ra. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng là loài nấm bào ngư xám Pleurotus sajor-caju đã được thuần khiết và lưu trữ tại phòng thí nghiệm của trại nấm Bảy Yết và cơ chất trồng nấm bào ngư xám là bã cà phê được thu gom từ nhiều quán cà phê khác nhau trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu - Việc xây dựng quy trình trồng được thực hiện tại trại nấm Bảy Yết (2/73A ấp Tân Lập, xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh). - Thực hiện các quy trình trong kỹ thuật trồng nấm bào ngư xám. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nắm vững quy trình trồng nấm bào ngư xám. - Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa đến tốc độ sinh trưởng và phát triển của hệ sợi tơ nấm bào ngư xám. - Khảo sát tốc độ sinh trưởng và phát triển của nấm bào ngư xám trên các tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa . - Đánh giá năng suất của nấm bào ngư xám nuôi trồng trên các tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa khác nhau. 2
  15. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Giới thiệu về nấm bào ngư xám 2.1.1. Đặc điểm tổng quát Nấm bào ngư xám hay còn gọi là nấm dai (ở miền Nam), nấm sò xám, nấm hương chân ngắn (ở miền Bắc), có tên khoa học là Pleurotus spp. Gồm nhiều loài thuộc: Chi Pleurotus Họ Pleurotaceae Bộ Agaricales Lớp phụ Hymenomycetidae Lớp Hymenomycetes Ngành phụ Basidiomycotina Ngành nấm thật – Emycota Giới nấm Mycota hay Fungi Nấm bào ngư là tên dùng chung cho các loài thuộc họ Pleurotus. Theo Singer (1975) có tất cả 39 loài và chia thành 4 nhóm. Trong đó có 2 nhóm lớn: Nhóm “ưa nhiệt trung bình” (ôn hòa) kết quả thể ở nhiệt độ từ 10 – 200C. Nhóm “ưa nhiệt” kết quả thể ở nhiệt độ 20 – 300C. Đây là nấm có nhiều loài được nuôi trồng nhiều nhất ở Pháp. Ở Việt Nam, nấm bào ngư trước đây mọc chủ yếu hoang dại và có nhiều tên gọi: nấm sò, nấm hương trắng hay chân ngắn (miền Bắc), nấm dài (miền Nam). Việc nuôi trồng loài nấm này khoảng 20 năm trở lại đây với nhiều chủng loại: P.florida, P.ostreatus, P.pulmonarius, P.sajor-caju Vì vậy nước ta có thể trồng nấm bào ngư quanh năm nhưng thuận lợi nhất từ tháng 9 đến tháng 4. 3
  16. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 2.1.2. Phân loại • Nấm bào ngư màu hồng đào (Pink Oyster Mushrom) • Nấm bào ngư Hoàng Bạch (Branched Oyster Fungus) • Nấm bào ngư Kim Đỉnh (Citrine Pleurotus) • Nấm bào ngư A ngụy (Ferule Mushroom) • Nấm bào ngư cuống dài, nấm bào ngư màu tro (Long – stalked Pleurotus) • Nấm bào ngư Đài Loan, nấm bào ngư ưa nóng (Abalone Pleurotus) • Nấm bào ngư tím (Oyster Mushroom) • Nấm bào ngư viên bào (Angels Wings) • Nấm bào ngư phiến hồng, nấm bào ngư đỏ pháo (Pink Gill Oyster Mushroom) 2.1.3. Đặc điểm sinh học của nấm bào ngư xám Nấm bào ngư xám có quả thể phẳng, lúc già đi thì cong lại, mũ nấm có hình tròn, hình nữa tròn, hình thận, đường kính 5 – 15 cm hay lớn hơn, màu trắng tro hay nâu xám, thịt nấm chắc vừa phải, màu trắng. Cuống trắng muốt, dài 3 – 10 cm, gốc cuống có lông nhung. Lúc đầu được nuôi trồng ở Ấn Độ, sau nhập vào Trung Quốc, Việt Nam Nấm ăn giòn, ngọt, hơi dai (Nguyễn Lân Dũng, 2002).Ở nước ta nấm được trồng phổ biến ở miền Nam, nhất là ở Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Hình 2.1: Nấm bào ngư xám (Pleurotus sajor-caju) 4
  17. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 2.1.3.1. Hình thái Nấm bào ngư có nhiều chủng khác nhau. Chúng khác nhau về màu sắc, hình dạng kích thước, khả năng thích nghi với điều kiện nhiệt độ khác nhau. Nấm bào ngư có đặc điểm chung là tai nấm có dạng phễu lệch, phiến mang bào tử kéo dài xuống đến chân, cuống nấm gần gốc có lớp lông nhỏ mịn. Tai nấm bào ngư còn non có màu sắc sậm hay tối nhưng khi trưởng thành màu trở nên sáng hơn. 2.1.3.2. Chu trình sống của nấm bào ngư Chu kỳ sống của nấm bắt đầu từ đảm bào tử hữu tính nảy mầm cho sợi tơ dinh dưỡng sơ cấp và thứ cấp, “kết thúc” bằng việc hình thành cơ quan sinh sản là tai nấm. Tai nấm lại sinh đảm bào tử và chu kỳ sống lại tiếp tục. Riêng nấm bào ngư xám (P. ostreatus), khi nuôi cấy, hệ sợi tơ thường xuất hiện các gai nhọn mang dịch nước đen. Bên trong dịch nước này là các bào tử vô tính. Bào tử nảy mần cho lại tơ thứ cấp. Khi nấm trưởng thành, bào tử nấm chín và phát tán ra khỏi mũ nấm. Các luồng không khí đưa bào tử rãi rác xung quanh gặp điều kiện môi trường thích hợp từ bào tử nấm mọc ra sợi nấm cấp 1 (sợi sơ cấp) phát triển thành từng sợi riêng rẽ. Sau một thời gian các tế bào ở các sợi nấm khác nhau dung hợp với nhau thành hệ sợi cấp 2 (sợi thứ cấp). Hệ sợi nấm cấp 2 gồm các tế bào có 2 nhóm. Sau một thời gian phát triển từ các tế bào 2 nhân mọc lên quả thể và phát triển thành cây nấm hoàn chỉnh. 5
  18. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 2.2: Chu trình sống của nấm bào ngư 2.1.3.3. Các giai đoạn phát triển quả thể nấm bào ngư Quả thể nấm bào ngư phát triển qua nhiều giai đoạn dựa theo hình dạng nấm mà có tên gọi cho từng giai đoạn. Hình 2.3: Các giai đoạn phát triển quả thể nấm bào ngư a. Dạng san hô c. Dạng phễu e. Dạng lá lục bình b. Dạng dùi trống d. Dạng bán cầu lệch 6
  19. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Dạng san hô: quả thể mới tạo thành, dạng sợi mãnh hình chum. - Dạng dùi trống: mũ xuất hiện dưới dạng khối tròn, còn cuống phát triển theo cả chiều ngang và chiều dài nên đường kính cuống và mũ không khác nhau bao nhiêu. - Dạng phễu: mũ mở rộng, trong khi cuống còn ở giữa (giống cái phễu). - Dạng bán cầu lệch: cuống lớn nhanh một bên và bắt đầu lệch so với vị trí trung tâm của mũ. - Dạng lá lục bình: cuống ngừng tăng trưởng, trong khi mũ vẫn tiếp tục phát triển, bìa mép thẳng đến dợn sóng. - Từ giai đoạn phễu sang bán cầu lệch có sự thay đổi về chất (giá trị dinh dưỡng tăng), còn từ giai đoạn bán cầu lệch sang giai đoạn lá có sự nhảy vọt về khối lượng (trọng lượng tăng), sau đó giảm dần. Vì vậy, thu hái nấm bào ngư nên chọn lúc tai nấm vừa chuyển sang dạng lá. 2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của nấm bào ngư - Ngoài các chất dinh dưỡng, sự tăng trưởng và phát triển của nấm còn liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau của môi trường như: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, oxy 2.1.4.1. Độ ẩm Độ ẩm rất quan trọng đối với sự phát triển của tơ và quả thể nấm. Trong giai đoạn tăng trưởng, độ ẩm nguyên liệu yêu cầu từ 50 – 60% còn độ ẩm không khí không được nhỏ hơn 70%. Ở giai đoạn hình thành quả thể độ ẩm không khí 85 – 90%. Độ ẩm không khí ở khoảng 70% cho quả thể nhỏ, dưới 60% không ra quả thể, nếu nấm ở giai đoạn phễu lệch hoặc dạng lá thì sẽ bị khô mặt và cháy vàng bìa mũ nấm. Nhưng nếu độ ẩm không khí trên 95% thì tai nấm sẽ bị nhũn và rũ xuống. 7
  20. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Bảng 2.1: Độ ẩm thích hợp cho sự phát triển của một số loại nấm bào ngư Độ ẩm thích Độ ẩm tương đối (%) của không khí Loài nấm hợp của cơ Thích hợp cho sự sinh Thích hợp cho sự phát chất (%) trưởng của hệ sợi nấm triển của quả thể nấm P.abolonus 60 – 70 70 – 80 90 P.sajor-caju 70 70 – 80 80 – 95 P.ostreatus 60 – 70 70 – 80 85 – 90 2.1.4.2. Nhiệt độ Nấm bào ngư mọc nhiều ở nhiệt độ tương đối rộng. Ở giai đoạn ủ tơ, một số loài cần nhiệt độ từ 20 – 300C, một số loài khác cần từ 270C – 320C, thậm chí 350C như loài P.tuber-regium. Nhiệt độ thích hợp để nấm ra quả thể ở một số loài cần từ 150C – 250C, một số loài khác cần từ 250C – 320C. [Lê Duy Thắng, 1999] Bảng 2.2: Nhiệt độ thích hợp cho ủ tơ và ra quả thể của một số nấm bào ngư Nhiệt độ thích hợp Nhiệt độ thích hợp Nhiệt độ thích hợp Loài nấm bào ngư cho tăng trưởng tơ ra nấm sản xuất P. ostreatus 200 – 300C 150C 200 50C P. florida 250 – 300C 200C 250 50C P. sajor-caju 250 – 300C 250C 300 50C P. cortinatus 270 – 320C 280C 300 50C P. cystidiosus 270 – 320C 250 – 280C 300 20C P.flabellatus 200 – 280C 200 – 250C 250 50C 8
  21. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA P. eryngii 200 – 300C 200 – 220C 250 50C P. tuber-regium 350C 280 – 300C - P. abolonus 270 – 320C 250C 300 20C P. cornucoplae 250C 150 – 250C 200 50C 2.1.4.3. Độ pH pH môi trường ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng của nấm bào ngư và hầu hết các loại nấm ăn khác do pH ảnh hưởng đến hoạt tính enzyme, đến khả năng hòa tan của các hợp chất. pH thích hợp cho hầu hết các loại nấm phá gỗ là 4.5 – 5.5. Nấm bào ngư có thể chịu được sự dao động của pH tương đối tốt, pH môi trường có thể giảm xuống 4.4 hoặc tăng lên 9, tơ nấm vẫn mọc được. Tuy nhiên, pH thích hợp đối với hầu hết các loài nấm bào ngư trong khoảng 5.0 – 6.0, pH thấp làm quả thể không hình thành và ngược lại pH quá kiềm tai nấm bị dị hình. 2.1.4.4. Ánh sáng Ở thể sợi nấm nuôi ngoài ánh sáng không tốt bằng nuôi trong tối. Ánh sáng chỉ cần thiết trong giai đoạn quả thể. Cụ thể là trong giai đoạn mọc quả thể cần ánh sáng nhẹ (200 lux), nhằm kích thích nụ phát triển. Giai đoạn phát triển quả thể cần ánh sáng khoảng từ 300 – 500 lux để thỏa mãn yêu cầu làm quả thể lớn lên. Nếu giai đoạn này thiếu ánh sáng thì lượng gốc nấm ít, cuống dài, hình dạng không bình thường. 2.1.4.5. Không khí Nấm là sinh vật hiếu khí, sử dụng oxy và nhả khí cacbonic, nhất là trong thời gian hình thành quả thể. Quá trình nảy mầm của bào tử và tăng trưởng tơ nấm bào ngư có liên quan đến nồng độ CO2 phải giảm và lượng oxy tăng lên. Nếu không mũ nấm sẽ hẹp lại trong khi chân dài ra, dẫn đến tai nấm bị dị dạng. Vì vậy nhà nuôi trồng phải thoáng khí. 9
  22. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 2.1.4.6. Nguồn dinh dưỡng nitơ - Một trong những nhu cầu cần đạm của nấm bào ngư là tổng hợp enzyme cellulase để phân giải cellulose. Vì vậy để nuôi trồng nấm có năng suất cao cần bổ sung đạm. - Tỷ lệ C/N cũng rất quan trọng đối với sinh trưởng của sợi nấm, tỷ lệ thích hợp là 20 – 30 và không vượt quá 50. 2.1.4.7. Khoáng chất và vitamin Trong môi trường nuôi nấm phát triển nhất thiết phải có các nguyên tố khoáng. Trong đó: Phospho cần thiết để tổng hợp ATP, nucleic acid, phospholipid. Kali là nguyên tố khoáng đóng vai trò cofactor trong nhiều enzyme. Lưu huỳnh cũng rất cần thiết cho nấm bào ngư. Nguồn cung cấp lưu huỳnh thường là MgSO4. Lưu huỳnh tham gia trong cấu tạo các amioacid chứa lưu huỳnh như cystein, methionin và tham gia tạo nên vòng chứa 55 nguyên tử lưu huỳnh của lenthionin. Magie tham gia hoạt hóa nhiều enzyme nên cần thiết cho quá trình trao đổi chất. Nồng độ magie thích hợp là 0,001M. Ngoài ra, các nguyên tố khoáng khác như mangan, đồng, kẽm, molypden cũng không thể thiếu đối với sinh trưởng của nấm. Hầu hết nấm có khả năng tự tổng hợp các vitamin cần thiết. Vitamin B1 (thiamine) kích thích sợi nấm sinh trưởng, kích thích hình thành mầm quả thể. 2.2. Nhu cầu dinh dưỡng của nấm bào ngư xám - Nấm sử dụng nitơ để cấu tạo nên màng sợi nấm dưới dạng các hợp chất kitin. Ngoài ra, còn tham gia vào thành phần cấu trúc của tế bào, cơ thể dưới dạng protein, coenzyme Do đó, nguồn nitơ còn phụ thuộc vào hydrate carbon và các yếu tố trong quá trình nuôi cấy. - Nấm bào ngư thuộc nhóm phá hoại gỗ, sống chủ yếu hoại sinh, mặc dù một số loài có đời sống kí sinh, như P.ostreatus, P.eryngii (Kreiself, 1961). Phần lớn cơ chất 10
  23. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA dùng trồng nấm đều chứa nguồn cellulose. Tuy nhiên, đa số trường hợp nguồn cellulose luôn thấp hơn 50% còn lại là lignin, hemicelluloses và khoáng. - Đối với nấm bào ngư là loài có khả năng sử dụng lignin mạnh, nhất là thời gian khởi đầu của việc tạo quả thể nấm. Thí nghiệm của Zadrazil (1980) cho thấy hầu hết các cơ chất nuôi trồng nấm bào ngư đều có sự giảm lignin một cách đáng kể. - Ở gỗ mà nấm thường mọc, hầu như rất nghèo đạm. Vì vậy, để nấm mọc tốt cần có thêm nguồn đạm thích hợp. Nhiều thí nghiệm bổ sung muối nitrat, muối ammonium và urea cho thấy: tơ nấm tăng trưởng tốt nhất trên nguyên liệu có thêm urea. Bột đậu nành, bột lông vũ cũng là nguồn bổ sung rất tốt cho bào ngư. Ngoài ra, mỗi tác giả cũng tìm thấy một loại đạm thích hợp cho nấm. Bảng2.3: Nguồn đạm thích hợp nhất cho sự tăng trưởng của bào ngư theo các tác giả khác nhau Nguồn đạm Công thức hóa Nấm trồng Tác giả học Ammonium phosphat (NH4)2PO4 P.ostreatus Hong (1978) Ammonium tartrat (NH4)C4H4O6 P.ostreatus Hashimoto & Takahashin (1976) Ammonium citrat (NH4)HC6H5O7 P.ostreatus Voltz (1972) Potassium nitrat KNO3 P.sajor-caju Giandaik & kapoor (1976) Pepton P.ostreatus Hashimoto & Takahashin (1976) Hong (1978) & Sugimori (1971) Urea NH2CONH2 P.florida Voltz (1972) & Eger(1970) - Tuy nhiên, khi trồng trên nguyên liệu chưa khử trùng thì nhiều tác giả cho rằng không nhất thiết phải bổ sung đạm, chính các vi sinh vật cố định đạm trong không khí làm tăng nguồn đạm cho nấm bào ngư. Điều này còn phải kiểm tra lại. 11
  24. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Do đó, tùy vào cách xử lý nguyên liệu (thanh trùng kỹ ở nhiệt độ cao hay chỉ hấp Pasteur ở nhiệt độ thấp, có lên men hay không ) mà tính đến việc bổ sung đạm vào cơ chất. 2.3. Giá trị của nấm bào ngư xám 2.3.1. Giá trị dinh dưỡng của nấm bào ngư xám - Dinh dưỡng nấm bào ngư xám rất cao không kém hơn dinh dưỡng các sản phẩm từ động vật. Kết quả phân tích cho thấy nấm bào ngư xám có hàm lượng protein chiếm khoảng 25%, đặc biệt có chứa hơn 18 loại acid amin, ngoài ra còn có carbohydrate, nhiều vitamin và các khoáng chất khác. - Nấm ăn nói chung và nấm bào ngư nói riêng là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Hàm lượng protein chỉ đứng sau thịt cá, giàu các chất khoáng và các acid amin tan trong nước, các acid amin không thay thế như lyzin, tryptophan, các acid amin chứa nhóm lưu huỳnh.Ngoài ra chúng còn chứa một lượng lớn các vitamin quan trọng như: vitamin B, C, K, A, D, E Trong đó, nhiều nhất là vitamin B như: vitamin B1, B2, acid nicotinic, acid pantothenic Nếu so sánh với rau rất nghèo vitamin B12, thì chỉ cần ăn 3g nấm tươi đủ cung cấp lượng vitamin B12 cho nhu cầu mỗi ngày. - Thành phần các chất dinh dưỡng chính của một số loài nấm bào ngư bao gồm: carbohydrate, protein, acid amin, chất béo, khoáng chất và các vitamin được nhiều nhà dinh dưỡng học quan tâm nghiên cứu, nhằm đánh gia vai trò của nấm như nguồn thực phẩm cho con người. - Carbohydrate và protein là thành phần chính, chiếm từ 70% đến 90% trọng lượng quả thể. Chất béo có hàm lượng thấp trong hầu hết các loài, dao động trong khoảng 1 – 2%, ngoại trừ P.limpidus (9,4%). - Giá trị về mặt năng lượng được đánh giá trên cơ sở thành phần protein thô, chất béo và carbohydrate, trị số này thấp khoảng từ 261 – 367 Kcal/100g chất khô. 12
  25. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Bảng 2.4: Thành phần dinh dưỡng của nấm bào ngư (%) Tên loài Nước Protein thô Chất béo Đường tổng số Chất xơ P.cystidiosus 90,2 31 9 17 13 P.abalonus 91,7 32 4 19 3 P.blaoensis 89 25 4 11 8 [Lê Duy Thắng, 1999] - Hàm lượng protein thô của nấm ăn dao động trong khoảng 18,4 – 61,5. Từ dẫn liệu bảng 2.4cho thấy hàm lượng protein thô ở cả 3 loài nấm trên có giá trị trung bình 25 – 32%, trị số này có ý nghĩa về mặt dinh dưỡng. - Hàm lượng chất nước của 3 loài trên dao động trong khoảng 89 – 91,7% nghĩa là lượng sinh khối khô chỉ vào khoảng 10% song tỷ lệ chất dinh dưỡng rất đáng kể và cân đối, vượt hơn hẳn các loại rau quả. Do đó quan niệm trước đây coi nấm như một loại rau là không chính xác. Hàm lượng protein thô của nấm bào ngư nếu như so với các loại thịt cá lượng protein đạt xấp xỉ 40% trọng lượng khô, trị số sinh năng lượng khá thấp, chỉ cung cấp năng lượng ở mức tối thiểu, đây là một trong những ưu điểm của loài nấm ăn này, thích hợp cho người ăn kiêng. 2.3.2. Giá trị dược liệu của nấm bào ngư - Ngoài giá trị dinh dưỡng phong phú nấm bào ngư xám còn có giá trị dược liệu. Ở nấm bào ngư xám còn phát hiện được chất kháng sinh, gọi là pleurotin. Chất này ức chế hoạt động của vi khuẩn Gram dương (Robins và cộng sự, 1947). Bên cạnh đó, Yoshioka và công sự (1975) cũng tìm thấy hai polysaccharide có tính kháng ung bướu.Cả hai đều có nguồn gốc là glucose. Trong đó chất được biết nhiều nhất, bao gồm 69%  (1-3) glucan, 13% galactose, 6% mannose, 13% uronic acid [Lê Duy Thắng, 1999]. - Ngoài ra, nấm còn chứa nhiều acid folic, nên có thể giúp phòng ngừa và điều trị bệnh thiếu máu. Nhiều nấm ăn có chứa hàm lượng retine cao, mà theo 13
  26. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA A.S.Gyorgyi thì chất này là yếu tố làm chậm sự phát triển của tế bào ung thư. Gần đây, ở Nhật còn phát hiện nhiều hợp chất trích từ nấm như α-glucan (thành phần cấu tạo vách tế bào nấm) hoặc chất leutinan có khả năng ngăn chặn sự phát triển của các khối u. Do đó, người ta cho rằng ăn nấm có thể cải thiện được bệnh ung thư. Nấm còn chứa ít muối Na, rất tốt cho người bệnh viêm thận hoặc suy tim có biến chứng phù. Sử dụng nấm không những không tăng cân mà còn ngăn ngừa một số bệnh như: giảm cholesterol trong máu, tiểu đường, béo phì, đau bao tử, rối loạn gan, ung thư, v.v , đồng thời người ăn nấm thường xuyên sẽ giúp có thể tăng tính miễn dịch, điều hòa huyết áp, dễ tiêu hóa và chống lão hóa. - Nhiều loài nấm bào ngư có tác dụng ức chế sự phát triển của không ít loài vi khuẩn như: Staphylococcus, Mycobacterium phlei, Bacillus subtilic, Klebsiella pneumonia, Escherichia coli, Bacillus mycoides, Mycobacterium snegma, Photobacterium fischeri Vòng ức chế vi khuẩn ở nấm bào ngư non cao hơn ở nấm trưởng thành. Bảng 2.5: Thành phần một số Vitamin trong nấm bào ngư Vitamin (mg/100g nấm khô) Nấm bào ngư Vitamin Acid Vitamin Acid Acid Vitamin C B1 nicotinic B2 pantotenic folic P.sajor-caju 111 1,75 60,0 6,66 21,1 1278 P.floridanus 113 1,36 72,9 7,88 29,4 1412 2.4. Một số điều cần lưu ý khi trồng nấm bào ngư 2.4.1. Nấm bào ngư rất nhạy cảm với môi trường - Ngoài các tác nhân vật lý như: nhiệt độ, ẩm độ, pH, ánh sáng, nồng độ CO2 Nấm bào ngư còn đặc biệt nhạy cảm với các tác nhân gây ô nhiễm môi trường như hóa chất, thuốc trừ sâu, kim loại nặng cả trong nguyên liệu, cũng như không khí nơi nuôi trồng. Tai nấm thường sẽ bị biến dạng hoặc ngừng tạo quả thể. Do đó cần 14
  27. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA chú ý đến khâu chế biến nguyên liệu, hoặc kiểm tra các điều kiện nuôi trồng khi tai nấm có biểu hiện không bình thường. 2.4.2. Dịch bệnh gây hại nấm Nấm bào ngư có sức sống mạnh, tuy nhiên nấm lại rất nhạy cảm với môi trường như nhiệt độ lên xuống đột ngột cũng có thể làm nấm ngừng tăng trưởng, không mọc hoặc héo nhũn. Nước tưới bị nhiễm phèn nhiễm mặn cũng làm nấm không phát triển được. Và một số bệnh thường gặp ở nấm là bệnh mốc xanh Trichodesma.sp, mốc đen, ấu trùng ruồi nhỏ Bệnh mốc xanh: bệnh này do loài Trichodesma đây là loài mốc phát triển trên gỗ, ngoài việc tranh dành thức ăn, chúng còn thay đổi môi trường sống, tạo ra nhiều tạp chất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của nấm bào ngư. Để hạn chế sự xâm nhập phát triển của loài nấm này thì phải thực hiện thao tác cấy meo nhanh, khử trùng nguyên liệu thật kĩ hoặc nâng pH. Bệnh ấu trùng của ruồi nhỏ, chúng thường chui vào các khe của tai nấm, cắn phá làm hư hại nấm. Tốc độ sinh trưởng của nó rất nhanh nên vì vậy mà gây thiệt hại không nhỏ. Để hạn chế bệnh này thì nhà trồng cần có lưới chắn và điều quan trọng là nhà trại phải được vệ sinh sạch sẽ. Hình 2.4: Bệnh mốc xanh 15
  28. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 2.5: Nấm lạ 2.4.3. Dị ứng do bào tử nấm bào ngư Trong các loại bào tử, thì bào tử nấm bào ngư là nguy hiểm nhất. Người hít phải, nếu nhạy cảm sẽ biểu hiện trong 8 giờ, còn ngược lại là từ 4 – 6 tuần. Người bệnh có triệu chứng khó thở, mệt mỏi, nhiều vết đỏ ở tay, nhức đầu, ho và sốt (có thể tới 390C). Bệnh có thể kéo dài trong vài ngày, rồi dứt, nhưng sau đó lại tái phát và nhất là sau khi tiếp xúc với mầm bệnh. Để ngừa bệnh, nên tránh hít phải bào tử nấm, (kể cả các loại nấm khác, không chỉ bào ngư) bằng cách dùng khẩu trang hoặc mạng che mặt. Có nơi dùng mặt nạ (như loại phong hơi độc) khi thu hái nấm. Có thể tưới ẩm nhà trồng để rửa bớt bào tử khi vào. 2.5. Tình hình nghiên cứu, sản xuất nấm ăn trên thế giới và tại Việt Nam 2.5.1. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ nấm trên thế giới Nấm ăn đã được nuôi trồng từ rất lâu trên thế giới. Từ trước công nguyên đã có những ghi chép đầu tiên về kỹ thuật trồng nấm. Ngày nay, giá trị của nấm ăn ngày càng được gia tăng nhờ những minh chứng về giá trị dinh dưỡng và khả năng trị bệnh của chúng. 16
  29. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Không chỉ là món ăn ngon, nấm còn có tác dụng tăng cường sức đề kháng, chống lão hóa, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh như ung thư, tim mạch Hiện nay trên thế giới có khoảng 2000 loài nấm ăn, trong đó có 80 loài nấm ăn ngon, được nghiên cứu nuôi trồng và UNESSCO công nhận. Nấm được trồng ở trên 100 quốc gia. Sản lượng nấm thế giới đạt trên 25 triệu tấn/năm, tăng từ 7 – 10% mỗi năm. Các nước sản xuất nấm hàng đầu thế giới (số liệu năm 1994) là: Trung Quốc sản xuất 2.850.000 tấn (trong đó Đài Loan 71.800 tấn), chiếm 53,79% tổng sản lượng; Hoa Kỳ sản xuất 393.400 tấn (chiếm 7,61%); Nhật Bản sản xuất 360.100 tấn (chiếm 7,34%); Pháp sản xuất 185.000 tấn; Hà Lan sản xuất 88.500 tấn; Ý sản xuất 71.000 tấn; Canada sản xuất 46.000 tấn; Anh sản xuất 28.500 tấn; Indonesia sản xuất 118.800 tấn; Hàn Quốc sản xuất 92.000 tấn (Cục Trồng trọt, 2012). Năm 2008, tổng giá trị sản xuất nấm ở Hàn Quốc đạt gần 8 tỷ USD, chiếm 3% tổng giá trị ngành nông nghiệp, trong đó nấm bào ngư chiếm 20,2% Hàn Quốc hiện là nước đang nhập khẩu nguyên liệu (mùn cưa, rơm rạ) từ Việt Nam, Trung Quốc để trồng nấm, đồng thời xuất khẩu nấm sang 80 quốc gia trong đó có Việt Nam. Trung Quốc là nước sản xuất nấm lớn nhất thế giới. Năm 1995, sản lượng là 3 triệu tấn, chiếm 60% tổng sản lượng nấm thế giới, riêng tỉnh Phúc Kiến 0,8 triệu tấn, chiếm 26,7% sản lượng nấm cả nước và chiếm 6,4% sản lượng nấm của thế giới. Năm 2008, Trung Quốc đã sản xuất được 18 triệu tấn nấm tươi các loại. Năm 2009, riêng tỉnh Phúc Kiến sản xuất gần 2 triệu tấn đạt giá trị trên 8,6 tỷ nhân dân tệ và thu hút trên 3 triệu lao động trồng nấm chuyên nghiệp. Năm 2010, Trung Quốc sản xuất được 20,2 triệu tấn, tương đương mức giá trị khoảng 300 tỷ nhân dân tệ (Cục Trồng trọt, 2012). Hiện nay, thị trường tiêu thụ nấm lớn nhất là Đức (300 triệu USD), Mỹ (200 triệu USD), Pháp (140 triệu USD), Nhật Bản (100 triệu USD) Mức tiêu thụ nấm bình quân theo đầu người của Châu Âu, Mỹ, Nhật, Đức khoảng 4 – 6 kg nấm/năm. 17
  30. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 2.5.2. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ nấm tại Việt Nam Ở Việt Nam, việc nghiên cứu và phát triển sản xuất nấm ăn bắt đầu từ những năm 1970. Từ năm 1984, đã có một số trung tâm nghiên cứu, sản xuất, xí nghiệp, công ty sản xuất, kinh doanh nấm được thành lập như: Trung tâm Nghiên cứu nấm ăn thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trung tâm sản xuất giống nấm Tương Mai - Hà Nội. Xí nghiệp nấm Thành phố Hồ Chí Minh. Xí nghiệp nấm thuộc Tổng Công ty Rau quả. Công ty nấm Thanh Bình (tỉnh Thái Bình). Công ty Meko Sản xuất nấm ăn trong những năm từ 1980 – 1996 có nhiều thăng trầm. Những năm đầu, một số tỉnh như: Hà Nội, Quảng Ninh, Hà Nam Ninh, Hải Hưng, Vĩnh Phú, Hà Bắc, Thái Bình, Hà Tây, Hải Phòng, Thanh Hoá đã đầu tư hàng tỉ đồng để nghiên cứu và sản xuất nấm. Nhờ vậy sản lượng nấm qua từng năm tăng rất nhanh: từ xung quanh 30 tấn/năm những năm trước 1998, đến năm 1993 sản lượng nấm đã lên tới 250 tấn/năm, phong trào sản xuất nấm lan rộng hầu hết các tỉnh phía Bắc. Nhưng từ năm 1994 sản lượng nấm giảm xuống nghiêm trọng (chỉ còn 50 – 60 tấn) và chỉ còn lại một vài tỉnh sản xuất (Hà Tây,Vĩnh Phúc, Hà Nội ). Sau đó năm 1997, sản xuất nấm bắt đầu phục hồi với sản lượng 120 tấn, ngay năm sau (năm 1998) sản lượng đã tăng lên 1.000 tấn, và 2 năm sau đó (1999 và 2000) mỗi năm tăng sản lượng gấp 5 lần năm trước. Sản lượng các loại nấm của Việt Nam hiện đạt trên 100.000 tấn/năm. Trong 10 năm trở lại đây, việc nghiên cứu và sản xuất nấm phát triển nhanh và có những bước tiến đáng kể; trồng nấm được xem như là một nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao và phát triển rộng ở vùng nông thôn Việt Nam. Sản phẩm nấm của Việt Nam được tiêu thụ tại thị trường nội địa và chế biến thành dạng hộp, muối, khô để xuất khẩu sang một số nước châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nấm ăn trong nước chiếm phần đáng kể trong sản lượng nấm 18
  31. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA sản xuất ở Việt Nam. Khu vực miền Bắc tiêu thụ nấm tươi khoảng 50.000 tấn/năm (thành phố Hà Nội có ngày cao điểm đã tiêu thụ hết trên 30 tấn nấm). Các tỉnh miền Trung và Nam bộ tiêu thụ hàng ngàn tấn/năm. 2.5.3. Tình hình sản xuất nấm và một số mô hình trồng nấm có hiệu quả. Đồng Nai: hiện nay có khoảng 1.397 hộ sản xuất và chế biến nấm với sản lượng nấm lớn. Đa số các hộ sản xuất nấm với quy mô lớn, bình quân mỗi hộ trồng 30.000 bịch phôi, có hộ trồng lên đến 150.000 phôi/năm. Đồng Tháp: sản xuất nấm chủ yếu quy mô hộ gia đình, nhỏ lẻ, thường diện tích từ 100-500m2/hộ, có 10 hộ gia đình sản xuất nấm bào ngư, tổng diện tích khoảng 0,1ha, sản lượng 20 tấn. An Giang: có 10 tổ hợp tác sản xuất nấm rơm với 87 hộ tham gia. Nấm bào ngư đang được đẩy mạnh, hiện có 6 cơ sở sản xuất bịch phôi nấm bào ngư, 2 tổ hợp tác tại huyện Châu Thành với 16 hộ tham gia, năm 2011 đạt 1,3 triệu bịch phôi, sản lượng 520 tấn. Long An: thời gian gần đây nấm bào ngư cũng được đưa vào sản xuất, năng suất 0,3 kg/bịch phôi mùn cưa và 0,5 kg/bịch phôi rơm (rơm+lục bình), sản lượng đạt khoảng 36 tấn/năm Tp. Hồ Chí Minh: có khoảng 100 cơ sở sản xuất, với quy mô trung bình 578m2/cơ sở; năng suất nấm bào ngư 69 tấn/lứa/ha Quãng Ngãi: hiện có khoảng 140-180 hộ gia đình sản xuất nấm. Sản lượng 20-25 tấn nấm bào ngư. 2.6. Tổng quan về cơ chất trồng nấm bào ngư xám 2.6.1. Giới thiệu về bã cà phê: - Ngày càng nhiều các quán cà phê mọc lên từ cửa hàng có nhãn hiệu đến các quán bình dân. Chình vì thế cà phê đang là nguồn thức uống quen thuộc đối với rất nhiều người. Thế nhưng ít ai biết rằng, bã cà phê một thứ mà chúng ta hầu như bỏ đi sau khi đã lấy nước lại có thể có nhiều công dụng tuyêt vời. 19
  32. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Trong bã cà phê có nhiều chất dinh dưỡng nên rất được người làm vườn rất ưa chuộng vì nó thích hợp để làm phân bón. Khi trộn các chất dinh dưỡng trong đất, bã cà phê làm cho đất màu mỡ, giàu acid hơn. Cây cối sẽ phát triển mạnh trong đất acid vì nó có thể nhận được nhiều chất dinh dưỡng từ đất. Ngoài ra, trong thành phần của bã cà phê có chứa một lượng chất oxy hóa dồi dào, nên khi sử dụng sẽ giúp tẩy đi những tế bào chết tích tụ lâu năm. - Thế nhưng, mỗi ngày lượng bã cà phê thải ra môi trường là rất lớn. Thật ra, khi pha một cốc cà phê chỉ dưới 1% hạt cà phê tạo thành giọt cà phê, phần còn lại vẫn chứa rất nhiều cellulose, lignin, đường và những chất dinh dưỡng khác mà nấm có thể sử dụng được. - Mặt khác tận dụng nguỗn bã cà phê bỏ đi nhằm hạn chế việc rác thải ra môi trường bên ngoài, giảm thiểu sự phát sinh khí metan gây hiệu ứng nhà kính do quá trình tự phân hủy của bã cà phê sinh ra. 2.6.2. Thành phần hóa học của bã cà phê - Hydratecarbon: Hàm lượng hydratcarbon trong cà phê khô khoảng 60%. Phần lớn là các polysaccharide hòa tan hoặc không hòa tan trong nước và một phần nhỏ là các đường saccharose, glucose Trong quá trình rang các hydratcarbon biến đổi nhiều, chúng có thể phân hủy thành các hợp chất khác nhau hoặc biến mất hầu như hoàn toàn như các chất đường đã nói trên. Các đường khử tham gia một số phản ứng tạo màu và mùi cho cà phê rang. Các polysaccharide không hòa tan trong nước, chúng tạo nên những thành tế bào của hạt cà phê và sau khi pha trở thành bã cà phê. - Các chất béo: Trong cà phê nhân tổng hàm lượng chất béo chiếm khoảng 13%. Trong quá trình rang các hợp chất béo mất đi 1 – 2%. Các chất béo chủ yếu tạo thành dầu cà phê là triglyceride và diterpene, là dạng este của acid bão hòa, nhất là panmitic, behenic, arachidic. Các diterpene này rất nhạy với acid, nhiệt và ánh sáng. Hàm lượng diterpene giảm đi trong quá trình bảo quản cũng như quá trình rang có thể là do tạo thành các terpnene bay hơi, naphthalene và quinoline. 20
  33. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Nước: Trong cà phê sấy khô lượng nước còn lại khoảng 10 – 12% ở dạng liên kết. Khi hàm lượng nước cao hơn thì các loại nấm mốc phát triển mạnh làm hỏng hạt, mặt khác khi rang sẽ tốn nhiều nhiên liệu và thất thoát hương nhiều hơn. Hàm lượng nước sau khi rang còn 2,7 %. - Các acid: Đại diện quan trọng nhất của nhóm acid là các loại acid chlorogenic. Đây là những loại acid đặc trưng đối với cà phê. Trong quá trình rang chúng bị phân hủy 30 – 70%, sau khi rang có sự hình thành một số acid dễ bay hơi. Tất cả các acid này đều góp phần tạo vị chua của cà phê. - Các loại protein: Hầu như không có măt trong cà phê rang, do rang ở nhiệt độ cao nên một phần bị phân hủy, phần còn lại kết hợp với hydratcarbon và các acid chlorogenic tạo thành những chất màu nâu. Bằng phương pháp thủy phân, người ta thấy trong thành phần protein của cà phê có những acid amin sau: cystein, alanie, phenylalanine, histidine, leucine, lysine, derine Các acid amin này ít thấy ở trạng thái tự do, chúng thường ở dạng liên kết. Khi gia nhiệt, các mạch polypeptide bị phân cắt, các acid amin được giải phóng ra tác dụng với nhau hoặc tác dụng với những chất tạo mùi và vị cho cà phê rang. Trong số các acid amin kể trên đáng chú ý nhất là những acid amin có chứa lưu huỳnh như cystein, methionine và proline, chúng góp phần tạo nên hương vị đặc trưng của cà phê sau khi rang. Đặc biệt methionine và proline có tác dụng làm giảm tốc độ oxy hóa các chất thơm, làm cho cà phê rang giữ được mùi vị khi bảo quản. Trong quá trình chế biến chỉ có một phần protein bị phân giải thành acid amin, còn phần lớn bị biến thành hợp chất không tan. - Các alkaloid: Trong cà phê có các alkaloid như: cafein, trigonulin, colin. Trong đó quan trọng và được nghiên cứu nhiều hơn cả là cafein và trigonulin. - Cafein: chiếm từ 1 – 3% phụ thuộc vào chủng loại cà phê, điều kiện khí hậu, điều kiện canh tác. Hàm lượng cafein ít hơn ở cà phê chè nhưng nó lại kích thích hệ thần kinh với thời gian dài hơn. Vì khi uống cà phê chè tốc độ lưu thông máu không tăng lên nên cafein thải ra ngoài chậm hơn. Mặc khác khi pha cà phê trong 21
  34. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA nước, cafein được giải phóng hoàn toàn tự do, không hình thành khả năng kết tủa hoặc những chất không có hoạt tính của alkaloid. - Trigonellin (acid metyl betanicotic :C7H7NO2): là alkaloid không có hoạt tính sinh lý, ít tan trong rượu etylic, không tan trong clorofoc và ete, tan nhiều trong nước nóng, nhiệt độ nóng chảy là 2180C.Tính chất đáng quý của trigonellin là dưới tác dụng của nhiệt độ cao nó bị thủy phân tạo thành acid nicotic (tiền vitamin PP). Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy trong cà phê nhân không có acid nicotic nhưng nó được hình thành trong quá trình gia nhiệt trong đó sự nhiệt phân trigonellin giữ vị trí quan trọng. - Lipid: Hàm lượng lipid chiếm khá lớn 10 – 13%. Chủ yếu là dầu và sáp. Trong đó sáp chiếm 7 – 8%, còn lại dầu chiếm khoảng 90%. Trong quá trình chế biến lipid bị biến đổi, song một phần acid béo tham gia dưới tác dụng của nhiệt độ cao tạo nên hương thơm cho sản phẩm, lượng lipid không bị biến đổi là dung môi tốt hòa tan các chất thơm. Khi pha cà phê thì chỉ một lượng nhỏ lipid đi vào nước còn phần lớn lưu lại trên bã. - Chất khoáng: Hàm lượng chất khoáng trong hạt cà phê khoảng 3 – 5% chủ yếu là kali, nitơ, magie, phospho, clo. Ngoài ra còn có các chất nhôm, sắt, đồng, lưu huỳnh Những chất này ảnh hưởng không tốt đến mùi cà phê. Chất lượng cà phê càng cao thì khoáng chất càng thấp và ngược lại. - Trong bã cà phê luôn chứa nhiều chất Nitrogen (N), Calcium (Ca), Magnesium (Mg), cũng như chất Phosphorus (P), Potassium (K), Copper (Cu); đó cũng là các chất rất hữu ích tốt cho việc trồng các loại thực vật cũng như cơ chất trồng nấm. - Chất Nitrogen (N) rất cần thiết, giúp cho các loại rau, cây và đặc biệt nấm phát triển nhanh. Chất Phosphorus (P) giúp cây mọc mạnh và mau trổ hoa. Chất Potassium (K) giúp cây tăng sức bền bĩ và sai trái hơn. - Tỷ lệ carbon với nitrogen trong bã cà phê là khoảng 20 ~ 24: 1. Với lượng nitrogen cao nên bã cà phê là chất xúc tác giúp quá trình phân hủy các rác hữu cơ thành compost mau hơn và cũng giàu chất dinh dưỡng tốt cho nấm hơn. 22
  35. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Đa số nitrogen trong bã cà phê thuộc loại cần được hòa tan và phân hủy trong đất trước khi các loại thực vật có thể hấp thụ, do đó bã cà phê có tác dụng tương tự như loại “phân bón tan chậm”. - Bã cà phê có tính acid với độ pH trung bình khoảng từ 6.2 đến 6.9. Do đó thích hợp với nhiều loại rau, hoa và các loại nấm. 2.6.3. Mạt cưa là phế liệu nông nghiệp và những vấn đề phát sinh về môi trường Hiện nay số lượng phế thải nông nghiệp ở nước ta vẫn còn là một vấn nạn. Các chất phế thải sinh khối từ phụ phẩm của nông nghiệp như vỏ trấu, rơm rạ, mạt cưa, bã mía, lõi ngô, vỏ cà phê, bã cà phê, là nguồn nguyên liệu khổng lồ luôn luôn tồn tại và ngày càng tăng với sự tăng diện tích canh tác và năng suất cây trồng. Nguồn chất thải sau thu hoạch thường bao giờ cũng khá lớn, nó chiếm từ 60 – 80% so với sản phẩm thu được, nhất là ở cây trồng. Mà nhất là cây cao su lấy nhựa và thân cây làm gỗ, đồ mỹ nghệ nên lượng mạt cưa thải ra là rất lớn. Nguồn phế liệu này có thành phần chủ yếu là chất xơ (cellulose), là thức ăn chính cho nấm. Do đó, việc đốt bỏ hoặc thải bỏ dưới dạng rác đều là lãng phí. Một số trường hợp lên men hiếu khí hoặc kỵ khí để tạo ra sản phẩm cuối là chất mùn bón lại cho đất, nhưng quá trình này thường cần thời gian dài và làm mất đi một lượng lớn năng lượng dưới dạng nhiệt năng. Nghiêm trọng hơn là các khí thải, nước thải, mầm bệnh còn làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Từ những hạn chế trên, thì việc tận dụng các phế liệu này làm cơ chất trồng nấm, làm phân bón, là nhằm hợp lý hóa trong việc sử dụng tối đa năng lượng mặt trời tích lũy ở các xác bã thực vật. Vừa đảm bảo được chu trình tuần hoàn tư nhiên của vật chất, vừa tạo ra nhiều sản phẩm trung gian giá trị cao như sinh khối nấm, phân bón hữu cơ cao cấp. Như vây, trong sản xuất nông nghiệp, việc tận dụng một cách tối đa các kết quả của trồng trọt, tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau là vấn đề thời sự và cũng là xu hướng chung của thế giới. Vì thế, việc kết hợp trồng nấm với nuôi trùn và làm phân bón để tận dụng các phế liệu nông nghiệp là một trong những giải pháp được chú trọng. 23
  36. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 2.6.4. Thành phần có trong mạt cưa 2.6.4.1. Cellulose Thành phần chủ yếu của vách tế bào thực vật và chiếm 50% tổng lượng hydrocacbon trên trái đất. Ngoài thực vật là nguồn chủ yếu còn ở trong giới động vật, nhưng số lượng rất ít. Cellulose là polysaccarit liên kết với nhau bằng liên kết với nhau bằng liên kết 1,4- glucozit, mức độ polymer hóa của cellulose rất cao tới 10.000 – 14.000 đơn vị glucoza phân tử. Số lượng lớn liên kết hydro nội và ngoại phân tử cellulose có độ cứng và vững chắc. Hình 2.6: Cấu trúc phân tử cellulose Liên kết glucozit không bền với acid. Cellulose dễ bị phân hủy bởi acid và tạo thành sản phẩm phân hủy không hoàn toàn là hydro-cellulose có độ bền cơ học kém hơn cellulose nguyên thủy, còn khi thủy phân hoàn toàn thì sản phẩm tạo thành là D-glucoza. Về bản chất hóa học cellulose là một rượu đa chức có phản ứng với kiềm hay kim loại kiềm tạo thành cellulose-ancolat. Nguyên tử hydro ở các nhóm –OH bậc một và hai trong phân tử cellulkose cũng có thể bị thay thế bởi các gốc –metyl, -etyl, tạo ra những chất có độ kết tinh và độ hòa tan cao trong nước khác nhau. Cellulose cũng bị oxy hóa bởi một số tác nhân tạo thành sản phẩm oxy hóa một phần là oxy-cellulose. Tác nhân oxy hóa chọn lọc nhất là acid iodic (HIO4), và muối của nó. Cellulose không tan trong nước, dung dịch kiềm làm trương phồng mạch cellulose và hòa tan một phần cellulose phân tử nhỏ. Đặc biệt cellulose dễ hòa tan trong dung dịch cupri 24
  37. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA amin hydrat [Cu(NH3)4(OH)2], và hàng loạt các dung dịch là các phức chất của đồng, niken, cadmi, kẽm, .[J.F.Kennedy,1989]. 2.6.4.2. Lignin Lignin là một polymer gốc rượu, có cấu trúc 3 chiều rất phức tạp và có nhiệm vụ nâng đỡ cấu trúc tế bào gốc. Sau cellulose, lignin là một polymer phong phú trong tự nhiên đưuọc thực vật tổng hợp và là phần lớn nguồn chất thơm đa dạng trên trái đất. Sự có mặt của lignin giúp cho tế bào thực vật cứng rắn hơn và đồng thời giúp cho thực vật cứng rắn hơn và đồng thời giúp cho thực vật tránh đưuọc sự xâm nhiễm của vi sinh vật. Lignin được tìm thấy trong vách tế bào ở dạng phức hợp với những polysaccharide này khỏi sự phân hủy sinh học. Lignin được sinh tổng hợp bởi sự polymer hóa các tiền chất phenylpropanoid. Có 3 loại tiền chất được phân loại tùy thuộc theo số lượng nhóm methoxyl trên vòng thơm, được mô tả bằng các công thức hóa học sau : Lignin gỗ mềm chứa hầu hết những đơn vị guaiacy (1 nhóm methoxy), lignin gỗ cứng chứa số lượng cân bằng guaiacy và suringyl (2 nhóm methoxy), các lignin khác chứa cả p-hidroxyphenyl (không có nhóm methoxy), và cả 2 loại kia [Nguyễn Thị Thanh Kiều,2004 ;J.F.Kennedy, 1989]. 25
  38. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 2.7: Cấu trúc phân tử lignin 2.6.4.3. Hemicelluloses Cũng là một phần polysacchrit thường gặp trong vách tế bào thực vật với hàm lượng lớn sau cellulose. Tuy nhiên cellulose, Hemicellulose được không chỉ một đường mà nhiều đường khác nhau, thậm chí cả từ acid urnoic của chúng. Người ta gọi tên cụ thể 1 loại Hemicellulose là dựa theo tên loại đường chủ yếu tạo nên nó. Ví dụ : xylan là một Hemicellulose mà thành phần chủ yếu của nó là xyloza, manan- manoza, Trong gỗ cây lá kim, chủ yếu là Hemicellulose được tạo nên từ loại đường 6 cacbon : galactan, manan Khác với cellulose, phân tử Hemicellulose nhỏ hơn nhiều. Thông thường không quá 150 gốc đường, được nối với nhau không chỉ bằng liên kết -1,4 mà còn bằng liên kết -1,3 và -1,6 glucozit tạo ra mạch ngắn và phân nhánh. Vì độ polymer thấp, phân nhánh và hổn hợp nhiều đưuòng nên Hemicellulose không có cấu trúc chặt chẽ như ở cellulose và độ bền hóa lí cũng thấp hơn. Hemicellulose dễ tan trong dung dịch kiềm, trong nước nóng và dễ bị phân hủy bởi acid lỏng. Xylan là một Hemicellulose phổ biến nhất trong tự nhiên chiếm 30% khối lượng rơm, 20- 25 % cây gỗ lá rộng, 7- 17% cây gỗ lá kim [Nguyễn Thị Thanh Kiều, 2004, J.F.Kennedy,1989]. 26
  39. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 2.6.4.4. Lignin-cellulose tự nhiên Mỗi thành phần cấu tạo nên lignin- cellulose riêng, do bản chất các liên kết hóa học, do mức độ polymer hóa và tính không tan trong nước là đối tượng khó phân hủy. Tính khó phân hủy là gia tăng lên nhiều lần khi chúng liên kết với nhau và tới các thành phần khác nửa thành một thể cấu trúc chặt chẽ và phức tạp. Các mặt phân tử cellulose không bao giờ tồn tại riêng lẻ mà nhờ liên kết hydro giửa phân tử tạo thành các cấu trúc lớn hơn gọi là vi sợi, dọc theo sợi có những vùng tại đó các phân tử xếp kém trật tự và chặc chẽ là vùng vô định hình. Các vi sợi liên kết với nhau bằng cách đan xen ở những vùng vô định hình này. Các vi sợi cellulose, lignin, đang xen theo những quy tắc những quy tắc nhất định để định thành nên cấu trúc. Với cấu trúc nhiều lớp gồm nhiều lớp gồm nhiều thành phần có bản chất hóa học khác nhau như vậy, lignin- cellulose có độ bền vật lí cao rất khó xâm nhập đối với các vi sinh vật và enzyme. Hơn nửa để phân hủy bất cứ thành phần nào của phức hợp một cách hiệu quả và triệt để cần phải tác động đến thành phần khác [Nguyễn Thị Thanh Kiều, 2004, J.F.Kennedy,1989]. 2.6.5. Các nghiên cứu về việc trồng nấm bào ngư trên bã cà phê Mỗi ngày, thế giới tiêu thụ một lượng cà phê rất lớn, đồng thời bỏ đi hàng tấn bã cà phê.Thật ra, phần bột xay từ hạt cà phê đã qua sử dụng này vẫn còn chứa một số dưỡng chất nhất định. Để chống lãng phí, một công ty sản xuất nấm ở Brighton, Anh Quốc đã thugom bã cà phê từ nhiều cửa tiệm để trồng nấm. Cách làm sáng tạo của họ đang được nhiều người quan tâm. Mỗi tuần 2 lần, các nhân viên của công ty Espresso Mushroom đi thu gom bã cà phê từ 10 cửa tiệm. Như thế, trong một tháng họ đã có cả tấn bã cà phê dùng làm phân trộn để trồng nấm. Anh Robbie Georgiou – một nhân viên của công ty cho biết: "Mỗi ngày, người dân khắp nước Anh bỏ đi hàng tấn bã cà phê. Điều này thật lãng phí, bởi như chúng tôi đã chứng minh, đây là một nguồn nguyên liệu tái sinh dồi dào." 27
  40. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Khi pha một tách cà phê, người ta chỉ lọc được khoảng 1% tinh chất, phần còn lại chứa nhiều cellulose, bột gỗ, nitơ, đường, và một số dưỡng chất khác mà nấm có thể hấp thụ để phát triển. Chỉ cần khoảng 100 ly cà phê là đã có 6 kg bã cà phê. Công ty Espresso Mushroom đã trộn bã cà phê với meo nấm rồi cho vào nhiều túi nhựa. Sau đó đánh số, ghi ngày tháng lên từng chiếc túi. Các túi trồng nấm này cần được đặt trong phòng tối, tưới nước mỗi ngày 2 lần, và sau 2 tuần lễ là có thể thu hoạch. Mỗi túi cho từ 150 đến 200 gram nấm. Dùng bã cà phê trồng nấm mang lại hai lợi ích cho môi trường. Thứ nhất, bã cà phê không bị vứt ra môi trường, giúp giảm lượng khí metan độc hại do bã cà phê phân hủy tự nhiên sinh ra.Và thứ hai, nấm là những cổ máy tái chế của tự nhiên; chúng phân hủy một số sinh vật và chất thải rồi chuyển thành dưỡng chất cho một số sinh vật khác sử dụng; trong trường hợp này, nấm biến bã cà phê thành một loại thực phẩm cho con người. Loại nấm trồng bằng bã cà phê đã được khoa học kiểm định là an toàn cho người dùng. Cách làm nấm tương tự cũng đã được một số cơ sở sản xuất nấm trên thế giới áp dụng. Vì vậy, rất có thể trong tương lai, phần lớn nấm mà chúng ta dùng đều được trồng bằng bã cà phê. 28
  41. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Chế biến phân ủ trồng nấm từ bã cà phê đã qua sử dụng (Mard-28/05/2014) - Một nhóm nghiên cứu liên ngành từ trường Đại học bang Kansas đang chuyển hóa rác thải thành phân ủ cho trồng nấm. Các nhà nghiên cứu đang dùng bã cà phê đã qua sử dụng từ một quán cà phê trong khuôn viên trường và sử dụng chúng làm phân trộn để trồng nấm ăn ở trang trại Sinh viên của trường Đại học bang Kansas (K-State Student Farm). 50 pao/tuần (khoảng 30%) tổng số chất thải của quán cà phê này đã được đem ủ phân thay vì được đưa tớicác bãi chôn lấp rác thải. Natalie Mladenov - trợ lý giáo sư ngành kỹ thuật công trình, và Rhonda Janke - phó giáo sư nông - lâm nghiệp và giải trí, là những người đứng đầu dự án này. Dự án có sự tham gia của các sinh viên kỹ thuật công trình, bệnh học thực vật, nông học, địa lý, và quản lý và bảo tồn công viên. Mục tiêu của dự án là để chứng minh tiềm năng của nhóm nghiên cứu tại trường Đại học bang Kansas cho việc khởi đầu một chương trình tái chế khép kín và chương trình ủ phân thành công, không đưa chất thải vào bãi chôn lấp mà sẽ sản xuất ra một sản phẩm mang lại lợi ích, Mladenov nói. Trong khi phát triển chương trình ủ phân, các nhà nghiên cứu đã có một phát hiện quan trọng: bã cà phê là một nguồn phân rất tốt cho trồng nấm ăn: chẳng hạn như nấm bào ngư, nấm đông cô và Linh Chi. Nước Mỹ mua gần 45% nấm từ Trung Quốc. Oldani và các thành viên nhóm sinh viên khác đã tới Washington, DC, để giới thiệu dự án của họ tại Hội chợ triển lãm quốc gia hàng năm về Thiết kế bền vững lần thứ 10 của EPA trong cuộc thi Con người, Sự thịnh vượng và Hành tinh. Nhóm nghiên cứu trường đại học trước đó đã nhận một khoản trợ cấp 12.900 USD từ giai đoạn đầu tiên của cuộc thi. Cuộc thi này đề cao những dự án bền vững do sinh viên thiết kế mang lại lợi ích cho người dân, thúc đẩy sự thịnh vượng và bảo vệ hành tinh. Sinh viên trường Đại học bang Kansas theo đuổi các dự án bền vững bởi vì các dự án đó không chỉ tốt cho môi trường mà còn tốt cho sức khỏe của mọi người bởi chúng ta sẽ được hưởng lợi từ bầu không khí trong lành và từ nguồn nước sạch, Oldani nói. Các 29
  42. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA dự án bền vững cũng sẽ giúp các trường đại học duy trì tính cạnh tranh với các tổ chức khác đang tích cực đầu tư vào các chương trình phát triển bền vững và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên. Dự án bắt đầu vào mùa thu năm 2012 về các hệ thống nước và cải thiện điều kiện vệ sinh bền vững khi Oldani và nhóm sinh viên phát triển một chương trình tái chế khép kín và chương trình ủ phân. Các sinh viên đã thiết kế một thùng ủ phân mới tại quán cà phê Coffeehouse Radina và Roastery tại Tòa nhà Nghiên cứu của trường đại học. Họ đã thu thập bã cà phê đã qua sử dụng và chuyển đến Trang trại Sinh viên K-State và phòng thí nghiệm nông nghiệp để làm việc với Janke về trồng nấm. Chương trình ủ bã cà phê trùng với chương trình "One Stop Drop" của trường đại học thúc đẩy hoạt động tái chế và đã tạo ra được một sự khác biệt về chuyển hướng nguồn rác thải và chi phí chôn lấp, Mladenov cho biết. Nhóm sinh viên tính toán rằng trường có thể tiết kiệm được hơn 45.000 USD/năm phí đổ rác bằng cách ủ phân. Thậm chí có thể tiết kiệm được nhiều hơn nếu phân được sử dụng ở khuôn viên trường và các khu vực trồng cây nông nghiệp dưới dạng là một nguồn bổ sung cho đất trồng. Nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục nghiên cứu trồng nấm. Vì sự thành công trong sử dụng bã cà phê và trồng nấm, nhóm sinh viên đang nghiên cứu những phương pháp trồng nấm ăn khác sử dụng các vật liệu như mạt cưa, dăm gỗ, vỏ bào còn sót lại từ các dự án của Khoa kiến trúc kỹ thuật và khoa học công trình tại trường đại học này. M.T. (Theo Sciencedaily). 30
  43. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA CHƯƠNG 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Vật liệu nghiên cứu 3.1.1. Vật liệu thí nghiệm - Bã cà phê được thu gom từ nhiều quán cà phê trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Mat cưa được chọn làm cơ chất trồng nấm là mạt cưa cao su, được lấy tại trại nấm Bảy Yết. - Vôi bột 1% - Phân DAP 0.3% - Cám bắp 5% 3.1.2. Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm - Nồi hấp Autoclave - Bịch meo giống nấm bào ngư xám cấp 2 - Que cấy - Đèn cồn - Túi chịu nhiệt PE hoặc PP - Bông không thấm nước - Cổ nút - Dùi - Cân đồng hồ - Bạt - Bình tưới phun sương - Dây thun - Giấy màu để phân biệt tỷ lệ 31
  44. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 3.2. Phương pháp nghiên cứu 3.2.1. Quy trình nuôi trồng nấm bào ngư xám trên cơ chất bã cà phê phối trộn mạt cưa Sơ đồ quy trình trồng nấm bào ngư xám 32
  45. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 3.2.1.1. Xử lý nguyên liệu ❖ Đối với cơ chất bã cà phê - Bã cà phê được thu gom từ nhiều quán cà phê trên đường Chu Văn An, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Vì cà phê được chế bằng phin nên bã cà phê rất ẩm và lượng cafein trong bã cà phê còn rất nhiều nên cần ngâm qua nước vôi và đem phơi khô để chỉ còn độ ẩm là 10 – 12%, sau đó đem đi bảo quản để tránh hiện tượng bị nhiễm các loại nấm mốc hoặc ruồi đẻ trứng vào bã cà phê sinh ra dòi, vì bã cà phê dù được đem phơi khô nhưng độ ẩm vẫn còn rất cao, chỉ cần để trong bao ni lông qua đêm thì hôm sau hơi nước bốc lên làm ướt bịch. Hình 3.1: Bã cà phê được ngâm trong vôi 1% Hình 3.2: Phơi bã cà phê 33
  46. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.3: Bã cà phê chưa xử lý - Sau khi được phơi khô ta tiến hành xử lý trước khi đem ủ như sau: Hòa 1% vôi vào 10 lít nước, hòa tan nước vôi và tưới đều lên đống nguyên liệu. Hình 3.4: Tưới nước vôi cho bã cà phê Trộn nhiều lần cho nước vôi ngắm đều trong nguyên liệu. 34
  47. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.5: Trộn đều bã cà phê Ẩm độ của nguyên liệu khoảng 65 – 70%, nghĩa là nếu nắm nguyên liệu trong tay bóp chặt mà tạo thành một khối và không có nước rịn ra ở khẽ tay là được. Hình 3.6: Kiểm tra ẩm độ của bã cà phê - Sau đó cần sàn lọc để loại bỏ tạp chất và các vật lạ để tránh làm rách bịch trong quá trình đóng bịch. 35
  48. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.7: Sàn lọc bã cà phê - Dùng bạt để ủ bã cà phê thành đống khoảng 2 – 3 ngày để các vi sinh vật biến đổi nguyên liệu thành các chất dễ hấp thụ để nấm dễ sử dụng. Hình 3.8: Bã cà phê đem ủ ❖ Đối với cơ chất mạt cưa cao su - Mạt cưa phải được phơi khô trước khi đem vào sử dụng, càng để lâu càng tốt cho trồng nấm. Vì khi nguyên liệu ẩm thường có nhiều dinh dưỡng thích hợp cho nấm mốc làm nhiễm bịch phôi. Mạt cưa mới tế bào chưa chết hoàn toàn có thể tồn tại các chất kháng nấm, tơ nấm khó phân hủy, năng suất thấp, mất nhiều thời gian nấm mới mọc. Khi mạt cưa để lâu, tế bào của cây đã chết, sợi nấm mọc dễ dàng hơn. 36
  49. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.9: Mạt cưa chưa xử lý - Sau khi mạt cưa cao su được xử lý thô xong ta tiến hành ủ theo cách sau: Hòa 1% vôi vào 10 lít nước, hòa tan nước vôi và tưới đều lên đóng nguyên liệu. Hình 3.10: Tưới nước vôi cho mạt cưa 37
  50. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Trộn nhiều lần cho nước vôi ngắm đều trong nguyên liệu. Hình 3.11: Trộn đều mạt cưa Ẩm độ của nguyên liệu khoảng 65 – 70%, nghĩa là nếu nắm nguyên liệu trong tay bóp chặt mà tạo thành một khối và không có nước rịn ra ở khẽ tay là được. Hình 3.12: Kiểm tra độ ẩm của mạt cưa 38
  51. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Sau đó cần sàn lọc để loại bỏ tạp chất và các vật lạ để tránh làm rách bịch trong quá trình đóng bịch. Hình 3.13: Sàn lọc mạt cưa - Ủ mạt cưa thành đống khoảng 2 – 3 ngày để phân giải một phần các cơ chất khó hấp thụ như cellulose, hemicelluloses, ligin thành các chất dễ hấp thụ như glucose để nấm dễ sử dụng. Ngoài ra nhiệt độ trong đống ủ cao cũng một phần làm chín nguyên liệu và tiêu diệt các vi sinh vật có hại trong mạt cưa. Hình 3.14: Mạt cưa đem ủ 39
  52. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 3.2.1.2. Vào bịch - Bã cà phê và mạt cưa đã ủ (mạt cưa ẩm) được phối trộn với phụ gia theo tỷ lệ, trộn đảo đều, tưới phân DAP rồi trộn đều một lần nữa, chỉnh độ ẩm đạt 65% rồi tiến hành đóng bịch. Hình 3.15: Bã cà phê sau khi ủ được trộn với cám bắp Hình 3.16: Tưới phân DAP lên bã cà phê và mạt cưa - Phối trộn nguyên liệu bã cà phê và mạt cưa theo các tỷ lệ 100%, 70%, 50%, 30 và 0% bã cà phê cho vào túi nilon gấp đáy vuông, để phân biệt các tỷ lệ ta sử dụng giấy màu rồi quấn quanh cổ nút. Nén chặt tay cơ chất đủ để cho meo phát triển cũng như không bị bung ra trong quá trình hấp. 40
  53. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Nút nhựa hở hai đầu để làm cổ bịch, buộc chặt bằng dây thun nhỏ (buộc chặt miệng bịch với một thao tác đơn giản để khi hấp xong tháo ra cấy giống được dễ dàng). Trọng lượng mỗi bịch là 0,5kg, có kích thước 15 17 cm. - Sau đó dùng một cây dài tròn có đầu nhọn, xoi một lỗ ở giữa xuống tận đáy bịch. - Cuối cùng là dùng bông gòn không thấm nước làm nút bông. Hình 3.17: Phối trộn các tỷ lệ và đóng bịch Hình 3.18: Tạo lỗ ở giữa bịch phôi 3.2.1.3. Hấp khử trùng - Hấp thanh trùng bằng nồi Autoclave nhiệt độ 1210C, áp suất 1,2 atm trong thời gian 2 giờ. - Lò khử trùng: Có kích thước lớn nhỏ tùy thuộc vào số lượng nguyên liệu và điều kiện vật chất. 41
  54. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.19: Bịch phôi được đưa vào hấp - Túi hấp xong phải có mùi thơm, không bị chua do lên men, nút bông chặt và không ướt. Sau đó chuyển bịch vào phòng nuôi ủ đã được khử trùng. Để nguội 24 – 36 giờ rồi tiến hành cấy giống. Hình 3.20: Hấp bịch phôi 42
  55. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.21: Bịch phôi đã hấp xong và đem để nguội 3.2.1.4. Cấy giống và nuôi sợi bịch phôi Sau khi hấp bịch chín, có mùi thơm ta chuyển vào gần trại nuôi ủ. Cấy giống trực tiếp trong trại đã được khử trùng. - Giống nấm bào ngư được làm trên môi trường hạt, độ tuổi khoảng 15 ngày. Hình 3.22: Dụng cụ cấy và chai giống - Cấy giống: Khử trùng tay và kẹp cấy. Mở nút bông, hơ nút bông và cổ bịch qua ngọn lửa đèn cồn, dùng que sắt khều nhẹ giống từ túi nilon hoặc từ lọ thủy tinh sang túi phôi lắc đều lên trên bề mặt túi. Lượng giống cấy cứ một lọ hoặc một túi giống cấy 1,2 – 1,5 gr cho mỗi bịch, thường 1 chai giống cấy được 25 – 30 túi phôi. Sau đó hơ bịch phôi và nút bông qua ngọn lửa đèn cồn, đậy nút bông. Tất cả các thao tác phải được thực hiện trên ngọn lửa đèn cồn và các nút bông ướt phải thay nút bông để giảm khả năng bị nhiễm. 43
  56. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.23: Tiến hành cấy giống - Sau khi cấy giống phải đưa vào nhà nuôi sợi. Hình 3.24: Xếp các bịch phôi lên kệ ➢ Yêu cầu đối với nơi ủ tơ - Sạch sẽ, không khí phải được thông thoáng, được vệ sinh định kỳ bằng nước vôi. Không cho ánh sáng trực tiếp chiều vào nhưng cũng không quá tối. - Không ủ chung với giàn nấm đang tưới hay mới thu hoạch xong. - Bịch phôi sau khi cấy giống được xếp lên kệ (mỗi kệ 4 đến 5 hàng chồng lên nhau) 44
  57. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Cứ 5 – 7 ngày kiểm tra một lần nhằm phát hiện mốc xanh, mốc cam để hủy bỏ không để lây nhiễm với các bịch khác. - Phòng nuôi ủ có nhiệt độ thích hợp từ 25 – 280C, độ ẩm không khí 60 – 70%. - Tiến hành ủ bịch phôi đợi đến khi tơ ăn trắng bịch phôi là đạt (thường mất khoảng 25 đến 30 ngày tùy vào nguyên liệu và độ chặc của bịch phôi). - Trong quá trình ủ tơ không cần chiếu sáng, không cần tưới và không được di chuyển bịch làm ảnh hưởng đến việc chạy tơ của nấm. - Đến khi tơ ăn trắng bịch cần tăng độ thoáng khí và ánh sáng nhắm mục đích thay đổi môi trường để kích thích tơ nấm kết hợp với nhau nhanh hơn, chuẩn bị hình thành quả thể. Hình 3.25: Tốc độ lan tơ nấm trên NT1 Hình 3.26: Tốc độ lan tơ nấm trên NT2 45
  58. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.27: Tốc độ lan tơ nấm trên NT3 Hình 3.28: Tốc độ lan tơ nấm trên NT4 Hình 3.29: Tốc độ lan tơ nấm trên NT5 46
  59. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.30: Tơ nấm đã ăn kín bịch phôi 3.2.1.5. Chăm sóc và thu hái nấm ➢ Chăm sóc - Sau khi tơ nấm ăn kín túi, tháo bỏ bông mục đích là giúp nấm ra trên cổ và tạo được kích thước cũng như hình dạng của tai nấm đồng đều hơn. Khi nấm ra, ở giai đoạn này rất dễ ảnh hưởng do các điều kiện ngoại cảnh. Vì vậy, nhà trồng phải đáp ứng các điều kiện như sau: giữ ẩm tốt ở 85 – 95%, nhiệt độ là 25 – 300C, thoáng, kín gió và sạch sẽ. - Lượng nước dùng để tưới cho các nghiệm thức có chứa bã cà phê ít hơn lượng nước tưới với nghiệm thức là mạt cưa cao su vì bã cà phê giữ ẩm tốt hơn nên khi tưới với lượng nước bằng nhau như vậy sẽ bị dư nước dẫn đến dễ nhiễm hơn. 47
  60. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.31: Tưới đón nấm Chú ý: - Gần nguồn nước tưới, không gần nơi có nhiều khói bụi, các nguồn nước bị ô nhiềm như bãi rác, mương cống, chuồng gia súc hoặc bịch nấm bị hư vì nấm rất nhạy cảm với môi trường. - Sạch sẽ, đủ ánh nắng nhưng không bị chiếu nắng. - Phải vệ sinh nhà thật sạch (dùng vôi bột hoặc nước vôi đã pha loãng rắc tưới đều nền nhà trồng) trước khi đưa túi vào. - Sau khi tháo bông 7 ngày đầu không tưới, nhưng sau 7 ngày (kể từ lúc tháo bông) thì nấm xuất hiện quả thể trên cổ túi. Khi đó, nấm rất cần nước, vì vậy vừa phun sương trước miệng cổ túi phôi vừa tạo ẩm môi trường xung quanh (2 – 3 lần trong ngày). Từ lúc ra đinh ghim đến lúc thu hái là 4 ngày (khi mũ nấm từ màu xám sang trắng xám, đường kính mũ nấm gấp đôi chân nấm). - Cách tưới: không tưới thẳng và trực tiếp vào bịch phôi mà chỉ phun sương tạo mưa nhẹ cho nước rơi từ trên xuống, tưới ướt các vách, nóc và nền nhà để tạo độ ẩm không khí cần thiết cho nhà trồng. 48
  61. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.32: Nấm mới hình thành quả thể ➢ Thu hái nấm: - Thu hoạch nấm phải đúng tuổi không nên non hoặc quá già. - Việc thu hái nấm bào ngư phải tiến hành ở giai đoạn trưởng thành, đó là lúc tai nấm chuyển từ dạng phễu lệch sang dạng lá lục bình (lúc đó mũ nấm mỏng lại và căng rộng ra, mép hơn quằn xuống, nếu mép không quằn xuống tức là tai nấm đó bị già). - Nấm thu hái ở giai đoạn này không những đạt giá trị dinh dưỡng cao mà còn ít bị hư hỏng, có thể bảo quản nấm tươi lâu hơn. - Khi hái nấm nên tính toán đến việc hái từng chùm, không nên tách lẻ, dễ gây nhiễm hoặc làm động cuống, ảnh hưởng các tai còn lại. Dùng tay hoặc dao để hái nấm và cần hái sát gốc, không chừa lại thịt nấm vì có thể là nguồn lây nhiễm cho đợt sau. - Khi hái xong đợt 1 phải quan sát và thu hết những chân nấm còn sót lại bên trong cổ bịch phôi. Sau khoảng từ 4 – 5 ngày ta ngưng tưới khoảng một tuần để tơ nấm phục hồi sau đó mới tiếp tục tưới nước. - Tổng thời gian thu hái nấm là khoảng 65 – 75 ngày, mỗi túi thu hái được 3 – 4 đợt mỗi đợt cách nhau 20 – 25 ngày. 49
  62. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Hình 3.33: Thu hái nấm 50
  63. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 3.2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm - Nguyên liệu khảo sát chính là bã cà phê và mạt cưa cao su. - Nguyên liệu bã cà phê và mạt cưa sau khi ủ được tiến hành phối trộn với nhau, có bổ sung thêm các dinh dưỡng khác như cám bắp theo bảng sau: Nghiệm thức Tỷ lệ Bã cà phê (%) Mạt cưa (%) NT1 1 100 0 NT2 7:3 70 30 NT3 5:5 50 50 NT4 3:7 30 70 NT5 1 0 100 - Nghiệm thức 1: 100% bã cà phê - Nghiệm thức 2: 70% bã cà phê + 30% mạt cưa cao su - Nghiệm thức 3: 30% bã cà phê + 70% mạt cưa cao su - Nghiệm thức 4: 50% bã cà phê + 50% mạt cưa cao su - Nghiệm thức 5: 100% mạt cưa cao su (đối chứng) Thí nghiệm được bố trí với 05 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức 10 bịch, với 02 lập lại. - Tổng số bịch thí nghiệm: 100 bịch - Các chỉ tiêu theo dõi: Theo dõi tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm trên bịch cơ chất Theo dõi hình thái, màu sắc và mật độ của hệ sợi Theo dõi tỉ lệ nhiễm trên bịch cơ chất của các nghiệm thức. 51
  64. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 3.2.3. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu 3.2.3.1. Phương pháp xác định tốc độ lan tơ của nấm Bịch cơ chất của mỗi nghiệm thức sau khi cấy giống đưa vào khu vực ươm sợi ở nhiệt độ phòng. Mỗi nghiệm thức 20 bịch. Sau 7 ngày, sợi nấm bắt đầu ăn lan đều tiến hành đo tốc độ lan tơ, cứ 3 ngày/lần cho đến khi tơ ăn kín bịch cơ chất. Ghi nhận kết quả. Ghi nhận: - Quan sát vàđo tốc độ lan tơ, cứ 3 ngày/lần - Cách xác định độ lan tơ: Kẻ 4 đường dọc theo thân bịch phôi nấm, cách 3 ngày cùng một thời gian đo chiều dài tơ nấm, hệ sợi nấm lan đến đâu ta dùng bút lông đánh dấu ở đó, cho đến khi có bịch phôi lan tơ đầy bịch thì dừng lại, thu thập số liệu tính tốc độ lan tơ trung bình của từng nghiệm thức. - Công thức tính: Tốc độ lan tơ trung bình (mm/ngày) = độ dài tơ trung bình (mm)/ tổng số ngày đo. - Quan sát hệ sợi nấm trong từng cơ chất. - Thời gian tơ nấm lan đầy bịch. 3.2.3.2. Khảo sát sự nhiễm bịch phôi Trong quá trình nuôi trồng nấm bào ngư không tránh khỏi sự hao hụt do các phôi bị nhiễm bởi nấm mốc, nấm lạ, vi sinh vật khác Đồng thời nhiễm do nguyên nhân hấp khử trùng không đạt, giống gốc không thuần, kỹ thuật cấy không đạt và môi trường cấy Ghi nhận: - Đếm số bịch phôi bị nhiễm trên tổng số bịch của từng nghiệm thức. - Xác định tỉ lệ nhiễm bịch phôi của từng nghiệm thức. Công thức tính: A (%) = a/b x 100% Trong đó: A: tỷ lệ nhiễm a: Số lượng bịch phôi bị nhiễm trong 1 nghiệm thức b: Tổng số lượng bịch phôi trong 1 nghiệm thức 52
  65. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 3.2.3.3. Phương pháp tính hiệu suất sinh học Khoảng 4 – 6 ngày sau khi tháo nút bông, quả thể nấm bắt đầu xuất hiện lớn dần. Khi đường kính mũ nấm bào ngư đạt 3 – 5cm tiến hành thu hái. Ghi nhận: - Xác định thời gian thu hoạch nấm bào ngư trên các cơ chất. - Cân trọng lượng nấm trên mỗi bịch, sau đó tính trọng lượng nấm tươi. - Xác định năng suất của nấm bào ngư trên các loại cơ chất Công thức: BE = mt/mk x 100% Trong đó: BE: Năng suất (%) mt: trọng lượng nấm tươi (g) mk: trọng lương một bịch cơ chất đã tạo ẩm (g) - Nhận xét hình dạng, màu sắc của quả thể nấm. - Tính hiệu quả kinh tế sau thu hoạch. 3.2.4. Phương Pháp xử lý số liệu Tất cả các thí nghiệm đều tiến hành 2 – 3 lần rồi lấy giá trị trung bình. Số liệu thu thập được tính toán bằng chương trình Microsoft Excel. Sử dụng phần mềm thống kê toán học và phần mềm Statgraphics để so sánh sự khác biệt về tốc độ lan tơ của nấm của các nghiệm thức. 53
  66. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Kết quả 4.1.1. Nghiên cứu tốc độ lan tơ của các nghiệm thức 4.1.1.1. Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa đến tốc độ sinh trưởng và phát triển của hệ sợi tơ nấm bào ngư xám. Bảng 4.1: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 100% bã cà phê Thời gian (ngày) Chiều dài tơ nấm (mm) 9 36,44 12 54,69 15 70,45 18 107,50 21 133 24 145 27 147,50 30 154 Từ bảng 4.1 tính được tốc độ lan trung bình của tơ nấm trên môi trường cơ chất 100% bã cà phê: - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12): 6,08mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 15): 5,25mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18): 12,35mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 18 đến ngày thứ 21): 8,5mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 24): 4mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 24 đến ngày thứ 27): 0,83mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 27 đến ngày thứ 30): 2,17mm/ngày Dựa vào bảng 4.1 ta có những nhận xét sau: - Sau 9 ngày cấy giống thì tơ nấm đã thích nghi với nguồn cơ chất mới thể hiện ở việc tơ nấm đã lan được 36,44mm. - Đến ngày 12 sợi nấm lan ra thêm một khoảng 54,69mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12) là 6,08mm/ngày. 54
  67. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Khi đến 15 ngày tuổi, chiều dài sợi nấm là 70,45mm. Tốc độ lan tơ trung bình của tơ nấm là 5,25mm/ngày. - Ngày thứ 18 sau khi nuôi cấy chiều dài sợi nấm tăng lên đến 107,5mm. Tốc độ lan tơ trung bình đã tăng rất nhanh là 12,35mm/ngày. - Tiếp tục theo dõi đến ngày 21, sợi nấm lan chậm lại, thể hiện ở tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 18 đến ngày thứ 21) là 8,5mm/ngày. - Còn đến ngày 24 tơ nấm lan được chiều dài là 145mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 24 đã giảm còn 4mm/ngày. - Sau 27 ngày nuôi cấy, sợi nấm rất chậm, hầu như là không phát triển. Tốc độ lan tơ trung bình là 0,83mm/ngày. Lúc này hệ sợi tơ nấm dày lên và sợi bện chặt bên trong khối cơ chất. - Đến ngày 30 tơ nấm đã lan đầy bịch phôi. Tốc độ lan tơ trung bình lúc này là 2,17mm/ngày. Hoàn thành quá trình nuôi ủ, có thể bước vào giai đoạn tưới đón. Thông qua số liệu tốc độ ăn tơ của bịch cơ chất 100% bã cà phê, ta có biểu đồ sau: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 100% bã cà phê 160 154.3 140 147.5 133 145 120 107.5 100 dài (mm) dài 80 70.45 60 54.69 40 36.44 Chiều 20 0 9 12 15 18 21 24 27 30 Thời gian (ngày) Biểu đồ 4.1: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 100% bã cà phê 55
  68. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Qua biểu đồ cho thấy, tốc độ lan tơ nấm của các bịch cơ chất 100% bã cà phê không đều qua các ngày. Trong đó từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18 là tăng trưởng cao nhất. Kết luận Sau 30 ngày nuôi ủ kể từ ngày cấy giống, bịch phôi của môi trường cơ chất 100% bã cà phê đã lan kín bịch và có thể đem đi tưới đón, thu hoạch. Bảng 4.2: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 70% bã cà phê, 30% mạt cưa Thời gian (ngày) Chiều dài tơ nấm (mm) 9 30,35 12 46,79 15 71,67 18 98,33 21 123,89 24 139,44 27 141,67 30 142,50 Từ bảng 4.2 tính được tốc độ lan trung bình của tơ nấm trên môi trường cơ chất 70% bã cà phê, 30% mạt cưa: - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12): 5,48mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 15): 8,29mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18): 8,89mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 18 đến ngày thứ 21): 8,52mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 24):5,18mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 24 đến ngày thứ 27):0,74mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 27 đến ngày thứ 30): 0,28mm/ngày Dựa vào bảng 4.2 ta có những nhận xét sau: - Ngày thứ 9 sau khi nuôi cấy tơ nấm ăn sâu vào môi trường, chiều dài của hệ sợi nấm là 30,35mm. 56
  69. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Đến ngày 12 sợi nấm lan ra thêm được một khoảng là 46,79mm và tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12) là 5,48mm/ngày. - Đến ngày thứ 15, tơ nấm đã dài 71,67mm và tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 15) đã tăng lên rất nhanh là 8,29mm/ngày. - Sau 18 ngày nuôi cấy, chiều dài sợi nấm lúc này là 98,33mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18 tăng nhẹ lên 8,89mm/ngày. - Ngày thứ 21, tơ nấm dài khoảng 123,89mm. Tốc độ lan tơ trung bình trong 3 ngày từ ngày 18 đến ngày 21 là 8,52mm/ngày. - Đến ngày 24, chiều dài sợi nấm tăng nhẹ lên 139,44mm. Lúc này tốc độ lan trung bình của tơ nấm giảm nhanh xuống còn 5,18mm/ngày. - Nhưng đến ngày thứ 27 thì chiều dài sợi nấm không tăng lên được bao nhiêu chỉ có 141,67mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 24 đến ngày thứ 27) đã giảm chỉ còn 0,74mm/ngày. Lúc này hệ sợi tơ nấm dày lên và sợi bện chặt bên trong khối cơ chất. - Đến ngày 30, hầu như các bịch phôi đã lan kín hết lúc này có thể kết thúc quá trình nuôi ủ và đem vào trại để tưới đón. 57
  70. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Thông qua bảng số liệu tốc độ lan tơ của bịch cơ chất 70% bã cà phê, 30% mạt cưa, ta có biểu đồ sau: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 70% bã cà phê 160 140 142.5 139.44 141.67 120 123.89 100 98.33 80 dài (mm) dài 71.67 60 46.79 40 Chiều 30.35 20 0 9 12 15 18 21 24 27 30 Thời gian (ngày) Biểu đồ 4.2: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 70% bã cà phê Qua biểu đồ cho ta thấy, tốc độ lan tơ của bịch cơ chất 70% bã cà phê là không đều nhau. Trong đó, giai đoạn từ ngày thứ 24 đến ngày thứ 27 tơ nấm phát triển rất chậm, hầu như là đứng yên. Kết luận Sau thời gian 30 ngày nuôi ủ tơ nấm của bịch cơ chất 70% đã lan đầy bịch, lúc này có thể đem đến trại nuôi trồng để tưới đón và thu hái. 58
  71. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Bảng 4.3: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 50% bã cà phê, 50% mạt cưa Thời gian (ngày) Chiều dài tơ nấm (mm) 9 37,2 12 57,11 15 84,47 18 108,89 21 125,56 24 137,06 27 141,76 Từ bảng 4.3 tính được tốc độ lan trung bình của tơ nấm trên môi trường cơ chất 50% bã cà phê, 50% mạt cưa: - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12): 6,64mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 15):9,12mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18):8,14mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 18 đến ngày thứ 21): 5,56mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 24):3,83mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 24 đến ngày thứ 27):1,57mm/ngày Dựa vào bảng 4.3 ta có những nhận xét sau: - Ngày thứ 9 sau khi cấy giống tơ nấm đã hoàn toàn thích nghi với môi trường cơ chất, biểu hiện ở chiều dài tơ nấm đạt 37,2mm. - Sau 12 ngày tuổi sợi nấm đã lan ra thêm được một khoảng là 57,11mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12) là 6,64mm/ngày. - Đến ngày thứ 15 chiều dài tơ nấm đã tăng lên được 84,47mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 15) đã tăng lên rất nhanh là 9,12mm/ngày. - Ngày thứ 18 sau khi nuôi cấy chiều dài tơ nấm vẫn tăng đều lên 108,89mm. Tốc độ lan tơ trung bình từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18 giảm nhẹ còn 8,14mm/ngày. 59
  72. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Đến ngày 21 chiều dài tơ nấm tăng chậm lại với chiều dài tơ nấm đạt 125,56mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày giảm còn 5,56mm/ngày. - Đến ngày thứ 24 tơ nấm lan được 137,06mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày 21 đến ngày 24) giảm nhanh xuống còn 3,83mm/ngày. - Sau 27 ngày tuổi thì tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày 24 đến ngày 27) đã giảm còn 1,57mm/ngày. Lúc này tơ nấm đã lan đầy bịch phôi, kết thúc quá trình ủ tơ, chuyển đến nhà trồng và tưới đón. Thông qua số liệu tốc độ lan của tơ nấm trên môi trường có chất 50% bã cà phê, 50% mạt cưa, ta có biểu đồ sau: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 50% bã cà phê 160 140 141.76 137.06 120 125.56 108.89 100 80 84.47 dài (mm) dài 60 57.11 40 Chiều 37.2 20 0 9 12 15 18 21 24 27 Thời gian (ngày) Biểu đồ 4.3: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 50% bã cà phê Qua biểu đồ ta thấy, tốc độ lan tơ qua các ngày tăng khá đều nhau. Tuy nhiên từ sau ngày 21 trở đi tơ nấm phát triển rất chậm. 60
  73. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Kết luận Sau 27 ngày nuôi ủ kể từ ngày cấy giống, bịch có môi trường cơ chất 50% bã cà phê, 50% mạt cưa đã lan đầy, có thể đem vào nhà trồng tưới đón và thu hái. Bảng 4.4: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 30% bã cà phê, 70% mạt cưa Thời gian (ngày) Chiều dài tơ nấm (mm) 9 39,41 12 61,15 15 80,42 18 106 21 130 24 141 Từ bảng 4.4 tính được tốc độ lan trung bình của tơ nấm trên môi trường cơ chất 30% bã cà phê, 70% mạt cưa: - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12): 7,25mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 15):6,42mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18):8,53mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 18 đến ngày thứ 21): 8,0mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 24):3,67mm/ngày Dựa vào bảng 4.4 ta có những nhận xét sau: - Tại thời điểm ngày thứ 9 sau khi nuôi cấy tơ nấm đã thích nghi với môi trường cơ chất, biểu hiện ở chiều dài tơ nấm dài 39,41mm. - Đến ngày 12 chiều dài tơ nấm tăng lên một khoảng là 61,15mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12) là 7,25mm/ngày. - Ngày thứ 15 tơ nấm vẫn phát triển nhưng tăng không nhanh lắm thể hiện ở chiều dài tơ lan được là 80,42mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày 12 đến ngày thứ 15) giảm xuống còn 6,42mm/ngày. 61
  74. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Đến ngày 18 tốc độ lan của tơ nấm tăng nhanh với chiều dài sợi nấm lên đến 106 mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18) là 8,53mm/ngày. - Sau 21 ngày nuôi cấy lúc này chiều dài tơ nấm tăng đều lên 130mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 18 đến ngày thứ 21) giảm nhẹ còn 8,0mm/ngày. - Đến ngày thứ 24 tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 24) giảm xuống còn 3,67mm/ngày. Lúc này tơ nấm đã ăn kín bịch phôi có thể đem ra tưới đón và thu hái. Thông qua số liệu tốc độ lan của tơ nấm trên môi trường cơ chất 30% bã cà phê, 70% mạt cưa, ta có biểu đồ sau: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 30% bã cà phê 160 140 141 120 130 106 100 dài (mm) dài 80 80.42 60 61.15 Chiều 40 39.41 20 0 9 12 15 18 21 24 Thời gian (ngày) Biểu đồ 4.4: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 30% bã cà phê Qua biểu đồ trên ta thấy, tốc độ lan tơ của bịch cơ chất 30% bã cà phê tăng đều qua các ngày. Trong đó tốc độ lan từ ngày 21 đến ngày 24 không bằng các ngày còn lại. 62
  75. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Kết luận Chỉ trong 24 ngày nuôi ủ kể từ ngày cấy giống thì bịch cơ chất 30% bã cà phê đã lan kín đầy bịch và có thể đem vào nhà nuôi trồng tưới đón và thu hái. Bảng 4.5: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 0% bã cà phê Thời gian (ngày) Chiều dài tơ nấm (mm) 9 51,74 12 76,18 15 101,07 18 151,07 21 161,79 Từ bảng 4.5 tính được tốc độ lan trung bình của tơ nấm trên môi trường cơ chất 0% bã cà phê: - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12): 8,15mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 15): 8,3mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18): 16,7mm/ngày - Trong 3 ngày (từ ngày thứ 18 đến ngày thứ 21): 3,54mm/ngày Dựa vào bảng 4.5 ta có những nhận xét sau: - Ngày thứ 9 sau khi nuôi cấy tơ nấm ăn sâu vào môi trường thể hiện ở chiều dài của hệ sợi nấm là 51,74mm. - Đến ngày 12 sợi nấm lan ra thêm được một khoảng là 76,18mm và tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12) là 8,15mm/ngày. - Đến ngày thứ 15, tơ nấm đã dài 101,07mm và tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 15) là 8,3mm/ngày. - Sau 18 ngày nuôi cấy, chiều dài sợi nấm lúc này là 151,07mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18 đã tăng lên rất nhanh lên đến 16,7mm/ngày. 63
  76. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Ngày thứ 21 tốc độ lan tơ trung bình trong 3 ngày từ ngày 18 đến ngày 21 giảm mạnh xuống 3,54mm/ngày. Lúc này tơ nấm đã lan kín bịch phôi có thể đem đi tưới đón và thu hái. Thông qua số liệu tốc độ lan của tơ nấm trên môi trường cơ chất 0% bã cà phê, ta có biểu đồ sau: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 0% bã cà phê 180 160 161.79 140 151.07 120 100 101.07 dài (mm) dài 80 76.18 60 51.74 Chiều 40 20 0 9 12 15 18 21 Thời gian (ngày) Biểu đồ 4.5: Tốc độ lan tơ qua các ngày của bịch cơ chất 0% bã cà phê Qua biểu đồ 4.5 cho ta thấy, tốc độ lan của các bịch cơ chất 0% bã cà phê không đều nhau. Trong đó giai đoạn từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 18 có tốc độ lan tơ nhanh nhất. Kết luận Sau 21 ngày nuôi cấy thì bịch cơ chất 0% bã cà phê đã lan kín đầy bịch phôi, lúc này ta có thể đem vào nhà nuôi trồng để tưới đón và thu hái. 64
  77. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Bảng 4.6: Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên các môi trường cơ chất Thời gian Tốc độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám (mm) (ngày) 9 12 15 18 21 24 27 30 Nghiệm thức NT1 36,44 54,69 70,45 107,5 133 145 147,50 154,30 NT2 30,35 46,79 71,67 98,33 123,89 139,44 141,67 142,50 NT3 37,2 57,11 84,47 108,89 125,56 137,06 141,76 141,76 NT4 39,41 61,15 80,42 106 130 141 141 141 NT5 51,74 76,18 101,07 151,07 161,79 161,79 161,79 161,79 Tổng hợp số liệu từ các bảng 4.1, 4.2, 4.3, 4.4, 4.5 ta có biểu đồ so sánh tốc độ lan tơ của các bịch cơ chất qua các ngày. Tốc độ lan tơ nấm qua các ngày 180 160 140 120 NT1 100 NT2 80 NT3 NT4 60 NT5 40 Chiều dài lan tơ (mm) dài lanChiều tơ 20 0 9 12 15 18 21 24 27 30 Thời gian (ngày) Biểu đồ 4.6: Độ lan tơ của hệ sợi nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất 65
  78. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Nhận xét Sử dụng phần mềm Statgraphic XV.I so sánh sự khác biệt tốc độ sinh trưởng sợi nấm giữa các nghiệm thức trong thí nghiệm với mức ý nghĩa α = 0,05 và biểu đồ 4.6 cho thấy: tốc độ sinh trưởng sợi nấm trên các nghiệm thức là khác nhau. NT5 luôn dẫn đầu về tốc độ lan tơ qua các ngày. Thậm chí đã sớm bước vào giai đoạn tưới đón ở thời gian là 21 ngày. Các nghiệm thức còn lại có tốc độ phát triển chậm hơn, trong đó NT4 sau 3 ngày, NT3 sau 6 ngày và NT1,2 là sau 9 ngày. NT1 luôn dẫn đầu về tốc độ lan tơ trong khi đó các nghiệm thức còn lại thứ tự đều bị biến đổi qua các ngày. Ở thời gian đầu NT1 có tốc độ lan tơ nhanh nhất nhưng các giai đoạn sau NT1 có tốc độ lan tơ nhanh hơn. Trong giai đoạn 9, 12 và 15 sau khi cấy giống NT5 có tốc độ lan tơ nhanh nhất. Các nghiệm thức còn lại có tốc độ lan tơ lần lượt là NT4, NT3, NT2, NT1, nó giảm dần theo độ tăng của bã cà phê. Ở các thời điểm 18, 21 và 24 ngày sau khi cấy giống thì NT5 vẫn lan tơ nhanh nhất và ngừng tăng trưởng sau ngày thứ 21, tiếp theo là NT4 ngừng tăng trưởng ở ngày thứ 24. Các nghiệm thức còn lại có tốc độ lan tơ lần lượt là NT1, NT3 và NT2. Lúc này có sự biến động giữa các nghiệm thức có chứa bã cà phê. Trong thời điểm 27 và 30 ngày sau khi cấy giống chỉ còn lại ba nghiệm thức vẫn còn phát triển tơ nấm. Trong đó ngày thứ 27 NT4 đã ngừng tăng trưởng, tốc độ lan tơ của NT1 cao hơn NT2. Và sau 30 ngày cả hai nghiệm thức còn lại cũng không tăng trưởng nữa kết thúc quá trình nuôi ủ. Kết luận: Tốc độ sinh trưởng của sợi nấm giữa các nghiệm thức trong thí nghiệm là khác nhau có ý nghĩa ở độ tin cậy 95%. 66
  79. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA NT5 có tốc độ lan tơ nhanh nhất với 21 ngày nuôi ủ. Các nghiệm thức có chứa bã cà phê có tốc độ lan tơ tương đối cao trong đó cao hơn hẳn là NT4 với 24 ngày nuôi ủ, tiếp theo là NT3 với 27 ngày và NT1,2 sau 30 ngày. 4.1.1.2. Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa đến tỷ lệ nhiễm và sinh trưởng của hệ sợi tơ nấm bào ngư xám. Bảng 4.7: Tỷ lệ nhiễm, sinh trưởng và hình thái của tơ nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất Chỉ tiêu theo dõi Nghiệm thức Tỷ lệ nhiễm Bịch nấm phát triển tốt Hình thái, mật độ (%) (%) nấm Mật độ dày, màu trắng NT1 50 45 đục Mật độ dày, màu trắng NT2 55 30 đục Mật độ dày, màu trắng NT3 15 60 đục Tơ nấm mảnh, mật độ NT4 50 35 dày, màu trắng đục Tơ nấm mảnh, mật độ NT5 25 70 thưa, màu trắng đục Nhận xét: Trong quá trình nuôi trồng tôi đã ghi nhận được số lượng bịch phôi nhiễm như sau: - NT2 chứa 70% bã cà phê có tỷ lệ nhiễm cao nhất với 55% và NT3 có tỷ lệ nhiễm thấp nhất chỉ 15%. - NT1và 4 có sử dụng 100% và 30% bã cà phê thì tỉ lệ nhiễm cao là 50%. 67
  80. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA - Nghiệm thức có chứa bã cà phê có tỉ lệ nhiễm cao hơn nghiệm thức đối chứng trừ NT3. - NT3 có bổ sung 50% bã cà phê thì số bịch phát triển tốt hơn nghiệm thức 1, 2, 3 nhưng thấp hơn nghiệm thức 5. - Tuy NT3 có tỷ lệ nhiễm thấp nhưng trong quá trình quan sát thì nghiệm thức này có nhiều bịch phôi bị đứng tơ dẫn đến tỷ lệ sinh trưởng vẫn thấp hơn NT5. - Tuy cùng nuôi trồng ở cùng một nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng nhưng tỉ lệ nhiễm ở NT1, 2, 3 còn cao. Ở NT1, NT2 và NT3 chủ yếu do mốc xanh và mốc vàng tấn công, còn NT4 một số bịch xuất hiện nấm lạ canh tranh dinh dưỡng với nấm bào ngư xám. Vì trong quá trình nuôi trồng đều có rất nhiều loại nấm dại khác luôn xâm nhiễm vào môi trường trồng nấm. Các loại nấm dại này luôn có bào tử phát triển tự do trong không khí sẵn sàng xâm nhập vào môi trường trồng nấm để phát triển, chúng thường cạnh tranh chất dinh dưỡng chèn ép sự mọc của sợi nấm, thậm chí tiêu diệt cả sợi nấm. Nguyên nhân nhiễm có thể trong quá trình xử lý cơ chất chưa được tốt, hấp khử trùng chưa đạt yêu cầu nên bịch phôi chưa chín hẳn dễ bị các vi sinh vât xâm nhập tấn công, trong quá trình cấy giống bị nhiễm bào tử nấm dại trong không khí, phòng nuôi ủ nấm có nhiệt độ cao ẩm ướt, vệ sinh chưa đạt yêu cầu. Ngoài ra, trong bã cà phê có nhiều chất dinh dưỡng chính vì thế các bịch chứa càng nhiều bã cà phê thì dễ bị các vi sinh vật từ môi trường ngoài tấn công cạnh tranh chất dinh dưỡng. Kết luận: - Tỷ lệ nhiễm ở NT2 cao nhất là 55% và số bịch phát triển tốt tương ứng là 30%. - Tỷ lệ nhiễm của NT1 và 4 là như nhau với 50%. - Tỷ lệ nhiễm ở NT3 là thấp nhất với 15% cao hơn nghiệm thức đối chứng 10%. Tuy nhiên số bịch phát triển tốt ở NT3 thấp hơn NT5. - Nếu đưa vào sản xuất thì môi trường cơ chất mạt cưa là tốt nhất. Nhưng cũng có thể sử dụng môi trường cơ chất chứa 30 và 50% bã cà phê. 68
  81. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 4.1.1.3. Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa đến thời gian sinh trưởng và phát triển nấm bào ngư xám Bảng 4.8: Thời gian sinh trưởng và phát triển nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất Chỉ tiêu theo dõi Thời gian tơ Thời gian ra Nghiệm thức nấm lan kín bịch quả thể (ngày) (ngày) NT1 30 8 NT2 30 7 NT3 27 6 NT4 24 6 NT5 21 6 Nhận xét: Từ bảng theo dõi thời gian sinh trưởng và phát triển nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất cho ta thấy: Từ nghiệm thức 1 đến nghiệm thức 4 thời gian tính từ khi bắt đầu cấy đến khi ăn kín bịch thì nghiệm thức 4 là nhanh nhất sau 24 ngày nuôi ủ, tiếp theo đến nghiệm thức 3 là 27 ngày và nghiệm thức 1, 2 cùng 30 ngày. Các nghiệm thức trên cơ chất có bã cà phê thời gian ăn kín bịch chậm hơn nghiệm thức đối chứng là mạt cưa cao su. Thời gian ra quả thể tính từ thời điểm tháo nút bông đến khi xuất hiện quả thể nấm của các nghiệm thức dao động từ 6 đến 8 ngày. Nghiệm thức có sử dụng bã cà phê ở đây là NT1 và 2 ra chậm hơn các nghiệm thức còn lại 1 – 2 ngày. Khi tai nấm đạt được kích thướt 3 – 5 cm bắt đầu thu hái. Sau 3 ngày chăm sóc và tưới các nghiệm thức đồng loạt được thu hoạch. 69
  82. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Kết luận: - Nghiệm thức chứa bã cà phê lan tơ nhanh nhất là NT4 với 24 ngày nuôi ủ nhưng vẫn thua nghiệm thức đối chứng là 21 ngày. - Thời gian ra quả thể ở các nghiệm thức dao động từ 6 – 8 ngày, trong đó nghiệm thức 3, 4, 5 cùng ra một thời điểm là 6 ngày. - Các nghiệm thức đều được thu hái sau 3 ngày kể từ ngày bắt đầu ra quả thể. 4.1.2. Năng suất và hiệu quả việc sử dụng bã cà phê nuôi trồng nấm 4.1.2.1. Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn của bã cà phê và mạt cưa đến trọng lượng và năng suất của nấm bào ngư xám Bảng 4.9: So sánh trọng lượng và năng suất của nấm bào ngư xám trên môi trường cơ chất Nghiệm thức Chỉ tiêu NT1 NT2 NT3 NT4 NT5 Trọng lượng trung 76,13 88,33 110,4 145 201,69 bình (g/bịch) Năng suất (%) 15,23 17,67 22,08 29 40,34 Nhận xét: Qua quan sát và thu nhận ta có nhận xét sau: Trọng lượng trung bình của môi trường chứa bã cà phê cao nhất là NT4 đạt 145 g/bịch, giảm dần khi tỉ lệ bã cà phê tăng dần và thấp nhất là NT1 với 76,13 g/bịch. Năng suất trên mỗi bịch cơ chất của nghiệm thức 1 là thấp nhất là 15,23%, cao nhất là nghiệm thức 4 với 29% nhưng vẫn thấp hơn nghiệm thức đối chứng là 40,34%. Nên sử dụng môi trường cơ chất chứa 30% bã cà phê và 50% bã cà phê để đưa vào sản xuất vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường, chi phí đầu tư thấp mà đem lại được năng suất cao. 70
  83. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA 4.1.2.2. Hiệu suất sinh học của nấm bào ngư xám trên các môi trường cơ chất Bảng 4.10: Bảng dự trù kinh phí khi sử dụng 100% bã cà phê làm cơ chất Nguyên liệu, vật tư Số lượng (kg) Đơn giá (đ/kg) Thành tiền (đ) Bã cà phê 1000 0 0 Vận chuyển 1 xe 500.000 500.000 Vôi bột 10 1.000 10.000 Túi nilon 6 30.000 180.000 Bông nút 6 15.000 90.000 Giống nấm 30 chai 15.000 450.000 Công lao động 15 công 30.000 450.000 Điện nước 150.000 Củi đốt 100.000 Chi phí khác 200.000 Tổng cộng 2.130.000 Qua quá trình nuôi trồng khảo nghiệm trên 10 kg cơ chất bã cà phê (20 bịch phôi), tôi thu hoạch được 2,07 kg nấm bào ngư xám. Vậy hiệu suất sinh học là: 2,07 100% = 20,7% 10 Như vậy 1 tấn nguyên liệu sau khi trồng nấm thì thu hoạch được 207kg nấm tươi. - Nấm tươi: 207 30.000đ (giá bán thấp nhất) = 6.210.000đ. - Lợi nhuận tối thiểu là: 6.210.000đ – 2.130.000đ = 4.080.000đ. 71
  84. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Bảng 4.11: Bảng dự trù kinh phí khi sử dụng 70% bã cà phê làm cơ chất Nguyên liệu, vật tư Số lượng (kg) Đơn giá (đ/kg) Thành tiền (đ) Bã cà phê 700 0 0 Mạt cưa cao su 300 1.000 300.000 Vận chuyển 1 xe 500.000 500.000 Vôi bột 10 1.000 10.000 Túi nilon 6 30.000 180.000 Bông nút 6 15.000 90.000 Giống nấm 30 chai 15.000 450.000 Công lao động 15 công 30.000 450.000 Điện nước 150.000 Củi đốt 100.000 Chi phí khác 200.000 Tổng cộng 2.430.000 Trên 10kg cơ chất, trong đó có 7kg bã cà phê, 3kg mạt cưa (20 bịch phôi), tôi thu hoạch được 1,59 kg nấm bào ngư xám. Vậy hiệu suất sinh học là 1,59 100 = 15,9% 10 Như vậy 1 tấn nguyên liệu sau khi trồng nấm thì thu hoạch được 159kg nấm tươi. - Nấm tươi: 159 30.000đ (giá bán thấp nhất) = 4.770.000đ. - Lợi nhuận tối thiểu là: 4.770.000đ – 2.430.000đ = 2.340.000đ. 72
  85. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Bảng 4.12: Bảng dự trù kinh phí khi sử dụng 50% bã cà phê làm cơ chất Nguyên liệu, vật tư Số lượng (kg) Đơn giá (đ/kg) Thành tiền (đ) Bã cà phê 500 0 0 Mạt cưa cao su 500 1.000 500.000 Vận chuyển 1 xe 500.000 500.000 Vôi bột 10 1.000 10.000 Túi nilon 6 30.000 180.000 Bông nút 6 15.000 90.000 Giống nấm 30 chai 15.000 450.000 Công lao động 15 công 30.000 450.000 Điện nước 150.000 Củi đốt 100.000 Chi phí khác 200.000 Tổng cộng 2.630.000 Trên 10kg cơ chất bã cà phê trong đó có 5kg bã cà phê, 5kg mạt cưa (20 bịch phôi), tôi thu hoạch được 2,98 kg nấm bào ngư xám. Vậy hiệu suất sinh học là 2,98 100 = 29,8% 10 Như vậy 1 tấn nguyên liệu sau khi trồng nấm thì thu hoạch được 298kg nấm tươi. - Nấm tươi: 298 30.000đ (giá bán thấp nhất) = 8.940.000đ. - Lợi nhuận tối thiểu là: 8.940.000đ – 2.630.000đ = 6.310.000đ. 73
  86. QUY TRÌNH TRỒNG NẤM BÀO NGƯ XÁM TRÊN CƠ CHẤT BÃ CÀ PHÊ PHỐI TRỘN MẠT CƯA Bảng 4.13: Bảng dự trù kinh phí khi sử dụng 30% bã cà phê làm cơ chất Nguyên liệu, vật tư Số lượng (kg) Đơn giá (đ/kg) Thành tiền (đ) Bã cà phê 300 0 0 Mạt cưa cao su 700 1.000 700.000 Vận chuyển 1 xe 500.000 500.000 Vôi bột 10 1.000 10.000 Túi nilon 6 30.000 180.000 Bông nút 6 15.000 90.000 Giống nấm 30 chai 15.000 450.000 Công lao động 15 công 30.000 450.000 Điện nước 150.000 Củi đốt 100.000 Chi phí khác 200.000 Tổng cộng 2.830.000 Trên 10kg cơ chất trong đó có 3kg bã cà phê, 7kg mạt cưa bã cà phê (20 bịch phôi), tôi thu hoạch được 3,05 kg nấm bào ngư xám. Vậy hiệu suất sinh học là 3,05 100 = 30,5% 10 Như vậy 1 tấn nguyên liệu sau khi trồng nấm thì thu hoạch được 305kg nấm tươi. - Nấm tươi: 305 30.000đ (giá bán thấp nhất) = 9.150.000đ. - Lợi nhuận tối thiểu là: 9.150.000đ – 2.830.000đ = 6.320.000đ. 74